BuddhaSasana Home Page Phật Pháp Giảng
Giải Nguyên tác: "Essential
Themes of Buddhist Lectures", Bài 34:
TAM QUY: TISARANA Thông thường, trong
các buổi hội họp hoặc lễ lạy theo truyền thống Phật giáo, người Phật tử
chúng ta thường mở đầu bằng nghi thức xin thọ Tam Quy và Ngũ Giới hoặc Bát
Quan Trai Giới. Như vậy, Tam Quy nghĩa là gì? Buddham saranam gacchàmi. Con đem hết lòng thành kính quy y
Phật.
Tam Quy này còn được gọi là Ba Ngôi Báu,
hay Tam Bảo (tiratana). Ratana nghĩa là cái gì đem lại vui sướng,
thích thú, hay cái làm hài lòng. Có 7 loại châu báu đó là: vàng, bạc, và
năm loại đá quý khác. Sở dĩ những thứ này được gọi là châu báu
(Ratanas), bởi vì chúng đem lại cho chúng ta sự vui sướng, thích thú,
nhưng chúng thuộc về bản chất vật chất phàm tục thế gian, vì vậy chúng ta
dùng nó như những vật trang sức chứ không phải như nơi nương tựa (quy
y); trong khi đó ba loại châu báu khác, Ðức Phật, giáo pháp và chư
Tăng (Buddha, Dhamma, Sangha), đem lại cho chúng ta niềm vui và
hạnh phúc tinh thần. Vì thế, chúng ta không dùng những vật báu này làm
trang sức, mà coi đó như kim chỉ nam và nơi quy ngưỡng - nương nhờ của
chúng ta để chống lại những thế lực bất thiện của si mê, tham lam, sân
hận. Chúng ta quy y Ðức Phật bởi vì Ngài có
lòng bi mẫn vô lượng đối với sự yếu đuối, đau khổ thất vọng và buồn rầu
của con người; và cũng vì Ngài đã tìm ra cho chúng ta con đường giải thoát
bằng nỗ lực không ngừng của ngài trải qua vô số kiếp. Ðức Phật đã cho
chúng ta những lời khích lệ và cổ vũ lớn lao để chiến đấu chống lại cái ác
cho đến khi chúng ta chiến thắng được nó, Ngài là bậc thầy tối thượng của
chúng ta. Chúng ta quy y Pháp (Dhamma), bởi
vì Giáo Pháp có thể làm cho chúng ta những người hành trì pháp đạt đến sự
đoạn tận mọi bất toại nguyện và khổ đau xuyên qua sự đạt đến giác ngộ, trí
tuệ toàn hảo và hoàn toàn xả ly. Cách tốt nhất để noi gương Ðức Phật và tỏ
lòng tôn kính ngài là thực hành giáo pháp trong cuộc sống hàng ngày của
chúng ta. Quy y Pháp có ba giai đoạn: học hỏi, thực hành và chứng ngộ. Ðầu
tiên chúng ta nên nghiên cứu giáo pháp thuần tuý do Ðức Phật thuyết giảng,
được các bậc A la hán và các bậc Trưởng Lão hành theo, và giáo pháp mà
hiện nay được phương Tây biết đến như là Theravàda (Thượng Toạ Bộ),
chính Ðức Phật là người đã tuyên thuyết giáo pháp này. Pháp (Dhamma) nghĩa là sự thật; như
vậy, lời dạy của Ðức Phật được gọi là Dhamma, vì nó có thể làm cho người
ta thấy rõ sự thật. Bởi vì pháp gồm có ba Tạng nên cũng còn gọi là Tam
Tạng (Tipitaka). Ba tạng đó là: Luật tạng (Vinaya pitaka),
Kinh tạng (Sutta pitaka) và Vi Diệu tạng (Abhidhamma pitaka),
sở dĩ có tên gọi như vậy là do những khác biệt trong cách trình bày và
phân tích của mỗi tạng. Từ trước tới nay chưa hề có sự hoài nghi hay tranh
luận hoặc bàn cãi về sự phân chia này; thế nhưng, gần đây chúng ta có nghe
một số người nói rằng Tạng Diệu Pháp (Abhidhamma) không phải là lời
dạy của chính Ðức Phật, mà đó chỉ là Tạng được phát triển sau này. Vâng,
câu trả lời cho vấn đề này cũng không khó tìm, và một trong những câu trả
lời đơn giản nhất là nếu Abhidhamma không phải là lời dạy của Ðức Phật, do
vậy đó không phải là tạng thứ ba, vậy thì cái gì sẽ là tạng thứ ba trong
vị trí của nó? Nếu không có tạng thứ ba thì tại sao chúng ta lại có từ
Tipitaka (Tam Tạng), là từ có nguồn gốc cổ và được mọi người từ xưa
tới nay nhìn nhận? Chúng ta không những chỉ nghiên cứu Kinh
Tạng Pàli mà cũng cần phải nghiên cứu thêm các bản chú giải, đặc biệt
những bản chú giải của ngài Buddhaghosa, người đã viết lại những bản chú
giải cổ điển có trước thời của ngài, cũng như dùng nó làm tài liệu tham
khảo trong các bản chú giải do ngài tự viết. Những lời giải thích của ngài
Buddhaghosa hoàn toàn không dựa trên quan điểm cá nhân của mình, mà dựa
trên những lời Ðức Phật dạy. Chúng ta không thể hiểu hết ý nghĩa kinh điển
nếu không có các bản chú giải của ngài, những bản chú giải mà các bậc
trưởng lão thời đó và các hàng đệ tử nối truyền của họ đã lưu truyền cho
đến ngày nay, và được xem như chính xác và hữu ích nhất. Khi người ta
chuyển dịch một bài kệ do Ðức Phật thuyết bằng Pàli ra ngôn ngữ riêng của
họ, dĩ nhiên người ta sẽ sử dụng kiến thức riêng của mình về thuật ngữ và
chủ ngữ, và với cả lương tri của họ. Thế nhưng tốt hơn hết, trước tiên hãy
tham khảo các bản chú giải và sớ giải để biết ý nghĩa chính thống. Tất cả
những lời giải của Ðức Phật đều đã được chú giải cặn kẽ; nhưng không may
thay, việc chuyển dịch ra Anh ngữ mới chỉ được một vài cuốn; về vấn đề này
chúng ta cần phải có thêm nhiều nhà học giả chuyên nghiên cứu ngôn ngữ
Pàli như Miss Horner (một học giả
người Anh mất năm 1981), vì còn
rất nhiều công việc cần phải làm, ngõ hầu giúp mọi người hiểu được giáo
pháp thuần tuý và truyền bá giáo pháp nguyên thủy này. Giai đoạn thứ hai trong quy y pháp là thực
hành giáo pháp trong đời sống hàng ngày. Vì chúng ta phải chịu sanh, lão,
bệnh, tử và chúng ta đau khổ vì những bất toại nguyện và bất hạnh trong
cuộc sống, do đó chúng ta đều là những bệnh nhân. Ðức Phật có thể được so
sánh với một vị lương y đầy kinh nghiệm và thiện xảo, còn Giáo Pháp ví như
thuốc hay và thích hợp; thế nhưng cho dù vị lương y có thể có đủ tài năng,
và cho dù thuốc có thể thần diệu thế nào chăng nữa, nếu chúng ta không tự
mình uống thuốc thì bệnh của chúng ta cũng không được chữa khỏi. Bần tăng
nghĩ phần đông chúng ta đang cần thuốc hay để chữa những căn bệnh trầm kha
của mình như: hiểu lầm nhau, thiếu kiên nhẫn, nóng nảy, thiếu lòng bao
dung và từ ái. Hiểu biết chân chánh, nhẫn nại, khoan
dung, thiện chí và từ ái là những nguyên tắc sơ đẳng và cần yếu nhất của
đạo Phật. Ðối với một người bình thường những điều nay có thể khó thực
hành, nhưng chúng ta phải cố gắng vượt lên cái mức trung bình ấy. Người
Phật tử phải là những tấm gương tốt cho người khác bằng cách thực hành
những gì chúng ta dạy họ; nêu gương tốt có giá trị thực tiễn hơn thuyết
giảng. Chỉ bằng việc thực hành người ta mới có thể thành tựu sự chứng ngộ
thực tánh của các pháp, và cách duy nhất để chúng ta có thể bày tỏ lòng
biết ơn chân thực cũng như lòng kính trọng của chúng ta với Ðức Phật, bậc
Ðạo Sư của chúng ta, người với lòng bi mẫn vô biên đã chỉ cho ta con đường
đi đến sự đoạn tận khổ đau, đó là bằng cách thực hành Pháp Bảo (Dhamma). Cuối cùng, chúng ta quy y Tăng (Sangha),
bởi vì Tăng (Sangha) là nguồn sống, nhờ có các Ngài mà Giáo Pháp
mới chảy vào chúng ta. Sangha nghĩa đen là nhóm hay đoàn thể, tuy
nhiên ở đây nó có nghĩa là một đoàn thể các vị Thánh đã đạt đến các tầng
Thánh cao quý. Thánh tăng có 8 bậc từ Nhập Lưu thánh đạo thứ nhất đến A la
hán thánh quả thứ tám. Một vị Tỳ Khưu tuy chưa đạt đến tầng thánh nào,
nhưng nếu sống đúng theo pháp, cũng thuộc về Tăng (Sangha). Có thể nói Tăng là điểm hội tụ, tại đây
Phật - Pháp (Buddha - Dhamma) trực tiếp liên hệ với nhân loại, hay
là cây cầu nối giữa loài người và sự thực tuyệt đối. Ðức Phật nhấn mạnh
đến tầm quan trọng của Tăng như một tổ chức cần thiết cho sự tấn hoá của
nhân loại; vì nếu không có tăng, Phật - Pháp có lẽ chỉ còn là một huyền
thoại hay truyền thống sau khi Ðức Phật nhập diệt. Tăng không những chỉ
làm công việc bảo tồn những lời dạy của bậc Ðạo Sư, mà còn là linh hồn duy
nhất của Giáo Pháp cao thượng. Tuy nhiên, Tăng không thể tồn tại nếu không
có sự hộ trì của hàng Phật tử tại gia, tức là các hàng Ưu Bà Di
(Upàsikas) và Ưu Bà Tắc (Upàsakas), hay cận sự nam, cận sự nữ.
Những ai hộ trì Tăng bảo được lợi ích cho chính bản thân mình và mọi
người. Vì không làm như vậy họ không chỉ tạo hước báo cho mình thôi, mà
còn giúp cho việc duy trì Pháp bảo được trường tồn và phổ cập đến mọi
người.
Công việc của mỗi và mọi người Phật tử là
trước tiên phải làm sao cho Phật Pháp trở thành thực tại trong đời sống,
bằng cách nghiên cứu rồi thực hành Giáo Pháp trong đời sống hàng ngày. Khi
chúng ta sống hợp theo giáo pháp, chúng ta có thể nói về nó với uy tín
thực sự. Thứ hai nữa, công việc của người Phật tử là phải truyền bá Phật
pháp nguyên thủy, hoặc giúp cho chư Tăng, những người đã cống hiến trọn
đời mình cho sự nghiệp nghiên cứu, thực hành và truyền bá Giáo Pháp thuần
tuý - Giáo Pháp toàn hảo ở giai đoạn đầu, đoạn giữa và cuối. Nhờ vậy,
chúng ta mới trở thành những nhân tố tích cực hộ trì của nhân loại và là
sứ giả của an lạc và hạnh phúc. -ooOoo-
Ðầu trang |
Mục lục |
01 |
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 | Chân thành cám ơn Tỳ kheo Pháp
Thông đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 08-2002) Xem:
Nguyên tác Anh ngữ [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Đại
Trưởng Lão U
Thittila
Tỳ kheo Pháp
Thông dịch
Venerable Sayadaw Ashin U Thittila
Dhammam saranam gacchàmi.
Sangham saranam gacchàmi.
Con đem hết lòng thành kính quy y Pháp.
Con đem hết lòng thành kính quy y Tăng.
21 |
22 |
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 | 34 |
35 |
36 |
37
updated: 16-08-2002