BuddhaSasana Home Page Phật Pháp Giảng
Giải Nguyên tác: "Essential
Themes of Buddhist Lectures", Bài 28:
THẬP NHỊ NHÂN DUYÊN
Ðề tài giảng hôm nay, hiển nhiên như bức
sơ đồ trên bảng đen đã trình bày, là pháp Thập Nhị Nhân Duyên
(Paticcasamuppàda). Paticcasamuppàda
là một từ Pàli có nghĩa Pháp Duyên Khởi, hay
Tuỳ Thuộc Phát Sanh; nghĩa là sự khởi sanh của một trạng thái tuỳ thuộc
vào trạng thái đi trước nó. Bài pháp Thập Nhị Nhân Duyên này là một trong
những bài pháp nổi tiếng nhất và quan trọng nhất của Phật pháp, bởi vì
không có phương diện giáo pháp này thì muốn hiểu được tại sao và làm thế
nào người ta lại trở thành một chúng sanh, một con người là điều khá nan
giải. Pháp Duyên khởi này chủ yếu trả lời cho ba câu hỏi lớn đã từng làm
bối rối đức Bồ Tát (vị Phật của chúng ta) trước khi Ngài thành
Phật. Khi còn là một vị Bồ Tát, trải qua vô số kiếp thực hành mọi loại khổ
hạnh để mong tìm ra sự thật (chân lý), ngài đã tìm đến rất nhiều
triết gia và thiền sư nổi tiếng thời đó, để rồi từ nơi họ ngài nhận được
đủ mọi lời giải đáp.
Câu hỏi đầu tiên trong số ba câu hỏi lớn
đó là: "Chúng ta từ đâu đến?".
Ðang ngồi nơi đây, chiều nay, quý vị có thể sẽ nói là:
"Tôi từ nhà đến, từ căn hộ của tôi tới,
v.v...". Thế nhưng, đây không phải
là câu hỏi được hỏi theo cách thông thường như vậy, mà là
"từ đâu chúng ta đến thế gian này, đi vào
cuộc sinh tồn này?". Quý vị nghĩ
là mình có thể trả lời được câu hỏi này không? Trải qua vô lượng kiếp Bồ
Tát đã đi tìm câu trả lời, nhưng không một vị luận sự hay triết gia nào
vào thời kỳ đó, những người mà ngài tìm đến tham vấn đã từng khả dĩ cho
Ngài một câu trả lời thoả đáng; đối với câu trả lời này, một số người bảo
rằng nếu như Ngài muốn biết mình từ đâu đến thì ngài phải hiểu được khởi
thủy của cuộc sống đã. Có cả thảy 62 quan kiến hay những tà kiến
sai lầm về sự hiện hữu, về chúng sanh từ đâu đến và khởi thủy của cuộc
sống là như thế nào. Tuy nhiên, để bàn về 62 tà kiến này chúng ta phải mất
khá nhiều thời gian, do vậy bần tăng sẽ rút ra ba quán niệm mà đức Bồ Tát
đã nhận được từ nơi các triết gia hay những bậc đạo sư nổi tiếng thời đó.
Quan kiến thứ nhất chủ trương rằng khởi
thủy của cuộc sống là do định mệnh của con người. Con người phải tin tưởng
nơi định mệnh mà không thể tự mình làm khác hơn được, nói chung con người
hoàn toàn tuỳ thuộc vào định mệnh của mình. Quan kiến này cho rằng sự khởi
đầu của cuộc sống là do định mệnh, do vậy bất cứ việc gì xảy đến, thì âu
đó cũng là định mệnh! Và chúng ta không thể làm điều gì để chuyển đổi cái
số phận này được. Trong Pàli, quan kiến này được gọi là Sahetuka (Hữu
Nhân Thuyết), nghĩa là nguyên nhân có sự hiện hữu của con người, hiệu
quả là chúng ta không thể vạch ra một dự định nào để phát triển cá nhân
sao cho thoát khỏi mọi khổ đau.
Và gì là khổ? Chúng ta đã biết bài kinh
Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkapavattana Sutta) nổi tiếng, đây là bài
pháp đầu tiên do Ðức Phật thuyết, trong đó ngài giải thích Bốn Chân Lý Cao
Thuợng (Tứ Diệu Dế): Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Trong Thập Nhị Nhân Duyên
(Paticcasamuppàda) khổ này cũng được giải thích, ở đây bài kinh
trình bày vấn khổ đi kèm với sanh (Jàti). Sanh là khổ, cứ ngẫm nghĩ
đến sự sanh của chúng sanh thì rõ, nó gian nan đau khổ biết dường nào! Cái
trạng thái khi còn ở trong bụng mẹ như một bào thai thật đáng ghê sợ, khởi
đầâu với một chấm nhỏ, nhỏ đến nỗi không có một loại kính hiển vi nào có
thể giúp ta nhận ra nó cả, sau đó chấm nhỏ này dần dần phát triển, trong
một vài trường hợp thì bảy tháng, có khi tám tháng hoặc chín tháng nằm
trong bụng mẹ, đó là khổ sanh. Nếu như phải sống trong một căn nhà chật
hẹp, chúng ta có thể than thở là
"Ôi! Sao mà căn nhà này hẹp quá, chật chội quá!.
Một căn nhà như vậy chắc chắn không có gì
thoải mái và chúng ta được xem là những người không giàu có mấy nếu như
phải sống trong những điều kiện thiếu thốn như vậy. Tuy nhiên, thử hình
dung khoảng trống mà bạn được dành cho khi còn là bào thai trong bụng mẹ
xem! Khổ sanh còn phải đi kèm theo bởi già
(Jàra), chết (Byàdhi), tiêu hoại, sầu muộn, bi ai, đau đớn về
thể xác, buồn rầu và tuyệt vọng, và nhẹ hơn một tí so với những nỗi khổ đó
là: khổ vì phải xa lìa người mình thương mến, khổ vì phải gần gũi kẻ mình
không ưa, khổ vì không đạt được điều mình mong muốn v.v... đó là khổ. Trừ khi người ta hiểu được Pháp Duyên Khởi
(Paticcasamuppàda) này, bằng không họ không thể hiểu được bản chất
thực cũng như chức năng của nhân và quả, nguyên nhân của khổ, khổ khởi
sanh như thế nào? Trong pháp hành có một giai đoạn, ở đây hành giả được
thoát khỏi hoài nghi về sự hiện hữu của mình, điều này một lần nữa xác
định ý nghĩa của việc hiểu biết Pháp Duyên Khởi, một tri kiến đúng đắn về
pháp nhân quả giúp hành giả không còn hoài nghi về điều tại sao và bằng
cách nào họ lại sanh ra và diệt mất như một con người. Nhưng bây giờ chúng ta hãy quay lại với
câu hỏi của đức Bồ Tát để tìm câu trả lời
"chúng ta từ đâu đến?"
như đã đề cập ở trên, quan kiến thứ nhất mà
một trong những triết gia nổi tiếng thời đó chủ trương là sự khởi đầu cuộc
sống hoàn toàn do định mệnh.
Câu trả lời thứ hai mà đức Bồ Tát nhận
được là cuộc sống khởi sự hay đã khởi sự hoàn toàn không có duyên cớ nào
cả, tất cả chỉ là chuyện tình cờ, không có nguyên nhân. Quan kiến thứ ba
cho rằng khởi đầu của cuộc sống thực ra chẳng phải do định mệnh cũng kh
phải vô nhân, mà khởi đầu của cuộc sống chính là do một đấng sáng tạo
(Sáng tạo chủ), một đấng tối cao đã tạo ra nó. Như vậy với quan kiến thứ ba cho rằng khởi
đầu của cuộc sống là do sự sáng tạo của một Ðấng Tối Cao, Thượng Ðế toàn
năng. Ðức Bồ Tát đã nhận được ba câu trả lời khác nhau từ các vị triết gia
nổi tiếng thời đó, nhưng không có câu trả lời nào làm cho đức Bồ Tát thoả
mãn cả. Nếu một đấng tối cao là nhân, bản thân ông ta cũng phải có nhân
nữa. Không có nhân ông ta sống như thế nào? Ai ban cho ông ta cái quyền
sáng tạo đó? Giả sử cứ cho là ông ta có được cái quyền vô hạn đó đi, thử
hỏi cái quyền đó từ đâu đến, nguồn gốc hay ông ta khởi sự như thế nào?
Phải chăng không có một Ðấng Quyền Năng Cao Thượng hơn tạo ra ông v.v...?
Nếu quý vị nói: "Ồ! đó là chuyện
bình thường, đó chỉ là điều tự nhiên",
như thế quý vị cũng có thể tự nói về mình theo cách đó cũng được, nghĩa
là: "Tôi đến cuộc đời này một cách
tự nhiên thôi"; thế nhưng điều đó
vẫn không đáp ứng được cho câu hỏi đâu là nguyên nhân, điều kiện tiên khởi
nào đã khiến cho một câu chuyện bình thường tự nhiên như vậy khởi sanh. Phải đến khi Bồ Tát thấu triệt Giáo Lý
Duyên Khởi, vòng luân hồi sanh tử hay tiến trình tương tục của nhân và quả
này, Ngài mới có thể tìm ra câu trả lời cho ba vấn đề chính yếu vừa kể.
Nhìn lên tấm sơ đồ trên bảng đen, chúng ta có thể thấy một vòng tròn lớn
mô tả vòng sanh tử luân hồi. Bánh xe gồm 12 chi phần liên kết với nhau
thành một chuỗi, liệu chúng ta có thể nói đâu là điểm khởi đầu, đâu là nơi
kết thúc được không?
Về câu trả lời thứ hai của đức Bồ Tát là
"Tại sao chúng ta lại ở đây (thế
gian này)?" Tại sao chúng ta lại
sinh ra làm người trong cái thế gian này, tại sao? Chúng ta hoàn toàn
không biết, hay biết không hơn gì câu hỏi chúng ta từ đâu đến, hàng phàm
phu bình thường làm sao có thể hiểu được câu trả lời này. Và câu hỏi thứ
ba là "Chúng ta sẽ đi về đâu?"
đối với câu hỏi thứ nhất, câu trả
lời ngắn gọn là "Chúng ta từ đâu
đến?" chúng ta từ quá khứ tới,
cũng như ngày hôm nay xuất phát từ ngày hôm qua vậy, cuộc đời này là kết
quả của đời sống đã qua (trước kiếp sống này). Chúng ta đến từ
những gì chúng ta đã làm trước đây, từ những công việc trong quá khứ mà
chúng ta chưa hoàn tất, nếu công việc đã hoàn tất chắc chắn chúng ta sẽ
không có mặt ở đây, chúng ta sẽ hiện hữu ở một nơi nào đó cao hơn (thế
gian này). Chúng ta đến từ những cái xấu và những cái
tốt trong quá khứ, những cái thiện và ác chúng ta đã tích luỹ, từ nơi tối
tăm của vô mình và từ những tham muốn riêng tư của chúng ta. Chúng ta
muốn, chúng ta khao khát được sống ở đây, và chúng ta còn muốn đến nữa,
chúng ta khát khao mãnh liệt muốn đến, nhưng đến trong một tư thế hoàn hảo
hơn về thể chất, về tinh thần, về tình cảm cũng như đạo đức - dù sao chăng
nữa cũng khá hơn một chút, nếu không muốn nói quá nhiều. Về phương diện
của cải chúng ta mong ước, chúng ta khao khát được giàu có hơn, thân hình
đẹp đẽ hơn v.v.... Như vậy chúng ta đã đi vào kiếp hiện tại, đem theo mình
vô số những cái xấu và tốt mà chúng ta đã tích luỹ, chẳng thế mà đôi lúc
chúng ta có thể làm những điều xấu, nhưng cũng có khi chúng ta làm được
những điều kỳ diệu, những thiện nghiệp. Trong Pháp Duyên Khởi
(Paticcasamuppàda) đã giải thích cho chúng ta thấy cái tiến trình này
vận hành như thế nào. Nhưng bây giờ tiếp tục bàn đến câu hỏi thứ
hai "Tại sao chúng ta lại ở đây?"
sở dĩ chúng ta hiện diện ở cõi này
là vì quá khứ, quá khứ sanh ra hiện tại, và từ hiện tại tương lai được
sanh ra. Chúng ta được đưa tới thế gian này là do những vui buồn trong quá
khứ mình đã tạo, tuy nhiên đa số chúng ta đều bị tham ái dẫn dắt tới đây,
và ở đây chúng ta lưu lại. Trong bao lâu? Cho đến khi cái tham muốn cuối
cùng được trừ diệt; tham muốn cho cái bản ngã này:
"Tôi muốn", "Tôi có một ước muốn thực hiện
điều này, điều kia..." vô số những
ước muốn như vậy. Tất cả những tham muốn đó cần phải được trừ diệt hoàn
toàn, nếu còn chút tham muốn nào, chúng ta vẫn chưa thể đạt tới Niết Bàn
được. Ðối với bậc hiền trí, cuộc sống mà họ đang sống ở đây là cơ hội để
họ buông bỏ cái gánh nặng trong quá khứ họ đã tích luỹ, buông bỏ những
việc sai lầm, những tà kiến, buông bỏ những quan niệm không đúng về sự
sống và chết, và dứt khoát buông hết lại phía sau để bước chân lên Bát
Chánh Ðạo. Trong khi chúng ta giờ này vẫn còn ở đây, trở đi trở lại mãi
trong thế gian này. Ðể trả lời cho câu hỏi thứ ba
"Chúng ta sẽ đi về đâu?"
Chúng ta sẽ đi theo quả của những nhân chúng
ta đã gây ra, kết quả của những hành động hay nghiệp mà chúng ta đã tạo
ra, với những ai chưa làm xong phận sự trong thế gian này sẽ phải xoay
quanh bánh xe sanh tử, trong pàli còn gọi là samïsàra. Samïsàra có nghĩa
là trôi lăn theo bánh xe cuộc đời hay xoay vần trong vòng sanh tử luân
hồi. Vì vậy, người chưa hoàn tất việc cần phải làm sẽ phải luân hồi trở
lại để hoàn tất phận sự của mình. Những ai đi theo Trung Ðạo (Bát Chánh
Ðạo) và hoàn tất việc phải làm của mình sẽ đạt đến trạng thái Niết
Bàn, diệt tận mọi khổ đau.
Chí đến khi Bồ Tát, trước khi thành Phật,
thấu triệt đầy đủ Pháp Duyên Khởi. Ngài vẫn liên tục đi tìm câu trả lời
cho ba vấn đề trọng đại trên, những điều đã luôn luôn gây bối rối cho
ngài. Trong vòng luân hồi này, chúng ta khởi sự
như thế nào? Nếu tham khảo sơ đồ, chúng ta sẽ thấy trên đó vô minh
(Avijjà) là khởi điểm của cuộc sống. Cuộc đời này bắt đầu bằng một
điều không lấy gì dễ chịu lắm, đó là vô minh hay si mê. Do si mê chúng ta
đi vào cuộc sống, nếu có trí tuệ chắc chắn chúng ta sẽ không có mặt ở đây.
Tuy nhiên, khi lấy vô minh (Avijjà) làm điểm khởi đầu trong vòng
luân hồi, dĩ nhiên vấn đề sẽ phát sinh là cái gì là nhân của vô minh? Câu
trả lời sẽ hạ hồi phân giải, vòng luân hồi hay pháp duyên khởi không phải
để trình bày khởi điểm cùng tột, sự bắt đầu của vòng sanh tử luân hồi
(Samïsàra - Ta bà), nó chỉ trình bày cho chúng ta thấy khởi sự của
kiếp hiện tại, kiếp sống mà chúng ta đang sống và sự liên hệ của kiếp sống
hiện tại với kiếp quá khứ và tương lai. Vì vậy, trong vòng tròn này chúng ta khởi
đầu ở vô minh. Vô minh về cái gì? Vô minh (si mê) chủ yếu là về Tứ
Diệu Ðế, vô minh về Pháp Duyên Khởi (Paticcasamuppàda), vô minh về
quá khứ và hiện tại của chúng ta. Nếu chúng ta thực sự thấu triệt Bốn Sự
Thực Cao Quý (Tứ Diệu Ðế) chúng ta sẽ đạt đến Niết Bàn, chúng ta sẽ
có trí tuệ. Thế nhưng, trong vòng Thập Nhị Nhân Duyên hay Pháp Duyên Khởi
này, chúng ta chỉ đề cập đến trạng thái hợp thế, bởi vì cho đến nay chúng
ta vẫn còn là phàm phu; Pháp Duyên Khởi không đề cập đến các trạng thái
siêu thế trong đó Niết Bàn là đối tượng của tâm. Như vậy, ở đây chỉ trình
bày vòng luân hồi của hàng phàm phu hay những chúng sanh bình thường.
Puthujjana (phàm phu), bị bao phủ bởi một lớp tham, sân, si dày
đặc, vì thế cho nên hạng người bình thường như chúng ta được coi là phàm
phu, đây cũng là một trong những định nghĩa theo từ nguyên của chữ
Puthujjana. Vậy, Thập Nhị Nhân Duyên hay Pháp Duyên Khởi chỉ liên hệ đến
hàng phàm phu; và là kẻ phàm phu, chúng ta mãi mãi trôi lăn trong cơn lốc
xoáy của vòng luân hồi sanh tử không tìm ra lối thoát. Ðể tìm ra lối thoát, công việc của chúng
ta là phải hiểu Tứ Diệu Ðế (bốn sự thực cao quý). Sự thật về khổ
như đã đề cập trước đây, mọi người đều trải qua cái khổ từ lúc bắt đầu
trong thai người mẹ. Sự thực về Nguyên Nhân của khổ: nguyên nhân chính là
tham ái, tham hiện hữu, tham muốn điều này, điều nọ. Sự thật về sự Diệt
Khổ, thoát khỏi khổ là Niết Bàn. Sự thật về Con Ðường dẫn đến sự Diệt Khổ:
đó là Bát Chánh Ðạo. Nếu người ta thực sự hiểu được Tứ Diệu Ðế (không
phải hiểu trên lý thuyết mà là sự thấu triệt hoàn toàn qua pháp hành)
người ta có thể thoát khỏi vòng luân hồi này. Kế tiếp Vô Minh (Avijjà) là Hành
(Sankhàra). Sankhàra được dịch theo nhiều cách khác nhau, nghĩa đen
của nó là hành động hay làm, ở đây nó có nghĩa là những hoạt động của Tâm
hay Ý - hành. Ðối với những người đã từng nghiên cứu Vi Diệu Pháp
(Abhidhamma) chắc chắn đã biết 29 loại trạng thái tâm hành khả dĩ có
thể xảy ra trong trường hợp của hàng phàm phu, trong đó có 12 tâm bất
thiện, 8 tâm thiện và 9 tâm thiền, như vậy sankhàra ở đây nghĩa là 29 loại
tâm này. Do vô minh, đôi khi chúng ta làm những hành động thiện, nhưng
phần lớn chúng ta làm những hành động bất thiện, vì đa phần những điều
chúng ta làm đều bắt nguồn từ tham và sân. Dưới ảnh hưởng của vô minh
chúng ta làm đủ mọi loại hành động. Thực ra, vì chúng ta không biết đâu là
đúng, đâu là sai, hoặc chúng ta chỉ hiểu chung chung rằng những hành động
thế này là thiện, những hành thế kia là bất thiện. Vì vậy cho nên mù quáng
bởi vô minh mà chúng ta làm những điều lầm lạc, dù rằng đôi khi chúng ta
cũng làm được những việc tốt, nhưng không thường lắm.
Nói chung, chúng ta làm hay tạo nghiệp vì
chúng ta "thích" nhiều hơn, điều này có nghĩa là những điều giúp
chúng ta làm đều dựa trên tham muốn, chủ yếu tham là kẻ hướng đạo của
chúng ta, dục vọng là kẻ hướng đạo chúng ta, chúng ta bị dẫn dắt bởi tham
ái. Chẳng thế mà chúng ta thích làm cái này, cái kia và cái khác luôn khi,
lúc nào chúng ta cũng muốn, cũng khao khát. Tại sao vậy? Tất cả đều vì vô
minh, không biết hậu quả của lòng tham, không biết ảnh hưởng của tham lực
(sức mạnh của lòng tham), nếu chúng ta không đạt được những gì
chúng ta muốn thì thất vọng vỡ mộng, rồi chúng ta trở nên giận dữ, hung
bạo, tuy nhiên, kết quả của những điều này chưa được đề cập ở đây.
Có cả thảy 12 chi phần trong vòng Thập Nhị
Nhân Duyên (Paticcasamuppàda), và chia ra ba thời kỳ đó là: quá
khứ, hiện tại và tương lai. Như chúng ta đã nói trong phần trước, Avijjà
hay vô minh được xem là điểm khởi đầu, chi phần thứ nhất; không hiểu biết
Tứ Diệu Ðế v.v... với hy vọng có được một kết quả tốt, chúng ta làm những
hành động, đó là Hành (Sankhàra) chi phần thứ hai. Hai chi phần
này, Vô Minh và Hành (Sankhàra), thuộc thời quá khứ, và đây là hai
yếu tố đã đem chúng ta đến thế gian này. Những hành động thiện trong quá
khứ của chúng ta như bố thí, trì giới, có những ý nghĩ tốt đẹp là những
thiện nghiệp (Kamma) đã giúp chúng ta sanh ra làm người; như vậy,
do thiện nghiệp trong quá khứ mà chúng ta có mặt trong thế gian này. Tuỳ thuộc nơi hành (Sankhàra) chi
phần thứ ba khởi sanh, đó là Thức - Vinnàna, tức tái sanh trong thế
gian này. Thức (Vinnàna) là thời hiện tại và thuộc nhóm dị thục
quả; Thức sanh khởi như kết quả của Vô Minh và Hành trong quá khứ
(nhân). Ở đây, Thức không có nghĩa là tất cả các loại tâm mà chỉ là
tâm tục sinh sau khi chết. Như vậy, khởi đầu của kiếp sống hiện tại này,
chúng ta có Kiết Sanh Thức (Patisandhi) - Thức nối liền - nghĩa là
Thức nối liền kiếp sống hiện tại với quá khứ. Thức tái sanh sanh khởi,
chúng ta được tái sanh, đó là lý do tại sao chúng ta dùng từ tái sanh mà
không dùng từ đầu thai với ý nghĩa một linh hồn đi tái sanh. Bởi vì, không
có một linh hồn bất tử trong đạo Phật, nên chúng ta không bao giờ dùng từ
đầu thai hay hiện thân.
Tâm không thể làm việc một mình, nó có một
số tâm sở phối hợp làm việc chung với nó, trong Pàli gọi là Cetasika, và
là tâm nên nó không thể tồn tại đơn độc, nó cần một cái thân như quả của
những hành động (nghiệp) quá khứ. Do vậy, tuỳ thuộc nơi hay do
duyên kiết sanh thức - thức nối liền, chúng ta có tâm và thân, tức Danh
(Nàma) và Sắc (Rùpa), chi phần thứ tư trong Thập Nhị Nhân
Duyên. Phần tinh thần được gọi là Danh (Nàma) còn phần vật chất
được gọi là Sắc (Rùpa), tuy nhiên, thường chúng ta dùng tâm và thân
cho dễ hiểu hơn. Kế tiếp, tuỳ thuộc thân và tâm hay Danh và
Sắc, chúng ta có 6 căn (lục nhập), chi phần thứ năm trong vòng sanh
tử; chúng ta có năm căn bên ngoài: nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt và thân. Chúng ta
cũng dùng từ Pàli "Dvàra" với nghĩa là môn hay cửa, bởi vì
hai chức năng. Chẳng hạn qua nhãn môn chúng ta tiếp nhận một đối tượng của
sự thấy, và qua nhãn môn chúng ta buông bỏ đối tượng đó; vì thế cho nên
con mắt có hai chức năng, thu nhận
(đến) và buông bỏ
(đi).
Thuật ngữ căn được dùng ở đây với ý nghĩa của một căn cứ dựa vào đó mà tâm
có thể thực hiện (chức năng),
căn thứ 6 là một căn thuộc bên trong hay nội môn. Nó cũng có hai nghĩa, vì
nó không những chỉ là một căn hay môn mà nó cũng còn là dòng tiến sinh
(hữu phần) của chúng ta - trong Pàli gọi là Bhavanga - chính dòng tiến
sinh này dẫn chúng ta đi hết kiếp sống này đến kiếp sống khác, xoay vần
mãi trong vòng sanh tử này. Về phương diện vật lý thì trái tim được xem
như là căn cứ của tư duy. Như vậy, tuỳ thuộc vào Danh và Sắc hay thân và
tâm, chúng ta có lục căn (nhập). Tuỳ thuộc lục nhập hay do duyên Lục Nhập -
có Xúc, chi thứ sáu trong Thập Nhị Nhân Duyên. Xúc (Phassa) là sự
va chạm hay tiếp xúc giữa một đối tượng giác quan bên ngoài với bề mặt của
bộ máy cảm giác tương xứng, hay giữa căn và cảnh (trần). Chẳng hạn,
khi một cảnh sắc và mặt nhạy cảm của con mắt
(tức nhãn căn)
nằm trong một khoảng cách thích hợp và có ánh
sáng thích hợp, lúc đó sự tiếp xúc giữa căn và cảnh khởi sanh, hình sắc đó
tiếp chạm với mặt nhạy cảm của con mắt. Tương tự như vậy với âm thanh và
nhĩ căn.... Trong Vi Diệu Pháp sự vận hành này đã được giải thích rất chi
tiết. Tuỳ thuộc nơi năm cửa giác quan (ngũ môn) và ý căn hay ý môn,
chúng ta có Xúc. Khi một vật tiếp chạm với thân vật lý, lúc đó xúc sanh
khởi qua thân - căn, đó là xúc - phassa. Bây giờ, vì có xúc nên người ta cảm giác,
Thọ phát sanh (chi thứ bảy trong vòng sanh tử). Khi có sự tiếp chạm
(Xúc) với một đối tượng qua căn, người ta cảm thọ; nếu sự tiếp xúc
là mềm mại, người ta có thể cảm nghe một cảm giác dễ chịu; nếu sự tiếp xúc
là thô nhám, người ta cảm nghe một cảm giác khó chịu, một cảm thọ trung
tính v.v... Như vậy, duyên xúc, Thọ khởi sanh, Pàli gọi là Phassa paccaya
vedanà. Nhìn vào vòng Thập Nhị Nhân Duyên trên
bảng, chúng ta thấy Vô Minh - Hành (Avijjà - Sankhàra) là thời kỳ
quá khứ. Từ Thức (kiết sanh thức) đến Thọ (Vedanà) tính luôn
cả hai chi đó chúng ta có năm chi phần thuộc thời hiện tại. Tuỳ thuộc vào
quá khứ mà chúng ta sanh trong cuộc đời này, khởi sự với Thức tái sanh hay
kiết sanh thức. Tuỳ thuộc nơi thức có thân và tâm (Danh - Sắc); và
tuỳ nơi Danh - Sắc có Lục Nhập; tuỳ nơi Lục Nhập có Xúc; tuỳ nơi Xúc có
Thọ. Năm chi phần trong kiếp hiện tại có mặt như kết quả của Vô Minh -
Hành (Avijjà - sankhàra) nghiệp hay những hành động quá khứ của
chúng ta, và những chi phần này được trình bày trên sơ đồ như nhóm dị thục
quả trong hiện tại.
Khi cảm thọ dễ chịu (an lạc) sanh
khởi, thích thú sanh khởi "tôi
thích cái đó", tham sanh khởi(
tham ái -Tanha)ø - chi phần thứ tám trong Thập Nhị Nhân Duyên. Chính
do Thọ mà Ái khởi sanh, không có Thọ tham không sanh khởi. Khi chúng ta
thấy hay nghe một điều gì, nếu điều ấy dễ ưa thì "À! Tôi thích nó, tôi
phải có nó, tôi không thể sống mà không có nó", sắc tốt, tiếng hay
v.v... phần lớn tham muốn vị kỷ này là cho bản ngã. Vậy thì, đối với các
cảm thọ khó chịu thì thế nào? Trong Paticcasamuppàda (Pháp Duyên Khởi),
khi Tham khởi sanh là tuỳ thuộc vào Thọ, làm thế nào chúng ta có thể có
tham đối với một đối tượng mà chúng ta không thích được? Trong Thanh Tịnh
Ðạo (visuddhimagga) đã đưa ra câu trả lời cho câu hỏi này như sau:
"Trường hợp một cảm thọ khó ưa,
chẳng hạn người ta bị bệnh hay đau, họ có một cơn đau kinh khủng, lúc đó
tham vẫn khởi lên, bởi vì chúng ta có một ước muốn thoát khỏi cơn đau đó,
muốn thoát khỏi cái cảm thọ khó chịu đó. Như vậy tham khởi lên bằng hai
cách, theo cảm thọ dễ chịu và cảm thọ khó chịu".
Một số người nghèo khổ ước muốn được giàu
sang, đây là tham; một số người giàu sang muốn được giàu có hơn nữa. Như
vậy tham vì nghèo và tham cũng khởi vì giàu nữa. Càng được nhiều, người ta
càng muốn nhiều và lòng tham thực sự càng tăng cao theo ước muốn. Lòng
tham hay ước muốn này trong cuộc sống hiện tại không thuộc về nhóm dị thục
quả mà đã chấm dứt tại Thọ (vedanà), giờ đây chúng ta đang tiến
hành hoạt động mới, tác nghiệp mới, tạo ra cái gọi là nhân cho tương lai
của chúng ta. Từ những tác nghiệp mới này, tương lai của chúng ta sẽ tự
biểu thị như quả của chúng. Như vậy, Ái (tanhà) là hành động mới,
yếu tố mở đầu trong giai đoạn này được trình bày trên sơ đồ như là nhóm
nhân hiện tại. Lặp lại - tuỳ thuộc nơi Vô Minh và Hành
trong quá khứ, chúng ta có năm dị thục quả hiện tại: Thức (vinnàna),
Danh - Sắc (nàma - rùpa), Lục Nhập (salàyatana), Xúc
(phassa) và Thọ (vedanà). Về danh sắc, như chúng ta đã biết,
được tính như một chi phần. Vì vậy, chúng ta hiện tại đây đang thọ hưởng
quá khứ của mình, kết quả của những hành động trong quá khứ chúng ta đã
tạo, và giờ đây chúng ta cũng đang tạo những nghiệp mới. Nếu chúng ta nỗ
lực để dừng lại không trôi lăn theo vòng xe sanh tử này nữa, để thoát ra
khỏi sự chi phối của vòng luân hồi, chúng ta cần phải làm sao không còn
tham ái (Tanhà). Một khi Ái (Tanhà) đã sanh thì Chấp
Thủ liền theo sau, trong Pàli gọi là Upàdàna (chi thứ chín trong Thập
Nhị Nhân Duyên). Sự khác biệt giữa Ái (Tanhà) và Thủ
(Upàdàna) trong Anh ngữ rất rõ ràng; Ái (Tanhà) là tham muốn
nhẹ nhàng, trong khi Thủ (Upàdàna) lại là ăn rễ thâm sâu, chúng ta
bị buộc chặt vào (một cái gì đó);
Tham thì không dính mắc, không tiến đến trạng thái chấp thủ, nó chỉ là sự
ước muốn hay mong muốn bình thường. Tiếp theo Thủ là Hữu (Bhava) (chi thứ
10 trong Thập Nhị Nhân Duyên). Tanhà paccaya upàdàna, Upàdàna paccaya
bhava (Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu). Hữu nghĩa là gì?
Hữu nghĩa là chúng ta đang khởi sự trở thành, thâu thập nghiệp lực mới
cho đời sống tương lai. Hữu (bhava) có hai phương diện, Kamma -
Bhava (nghiệp - hữu), hành động tích lũy của dị thục quả, và
Upapatti - bhava (sanh - hữu), dị thục quả hướng đến tái sanh. Nói
một cách khác, tuỳ thuộc hay duyên Ái và Thủ chúng ta hành động (tạo
nghiệp), lúc này là những hành động hiện tại (nghiệp hữu), điều
này nghĩa là chúng ta đang chuẩn bị cho cuộc tái sanh trong tương lai của
mình, sanh - hữu (Upapatti - Bhava). Vì thế, cho nên Ái (Tanhà),
Thủ (Upàdàna) và Hữu (Bhava) cũng thuộc giai đoạn hiện tại,
nhưng không phải là những dị thục quả của những hành động (nghiệp)
quá khứ, mà là những hành động hiện tại làm nhân cho sự tái sanh trong
tương lai. Như trên chúng ta đã nói, do bởi những
hành động hay nghiệp hiện tại của chúng ta, chúng ta đang chuẩn bị cho lần
tái sinh sắp tới, và như vậy chúng ta đến chi phần thứ 11 trong Thập Nhị
Nhân Duyên, Jàti (sanh), Jàti khởi sanh. Khi chấm dứt kiếp sống
hiện tại này thì kiếp kế sẽ đến. Cái gì sẽ được tái sanh ra? Cái gì sẽ
sanh khởi? Khi lần sanh kế xảy ra thì năm chi phần đã trình bày trên sơ đồ
ở đây như nhóm dị thục quả hiện tại sẽ từng chi phần một lần lượt sanh
khởi, đó là: Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ; nhưng thay vì nói năm chi
phần này sinh ra, chúng ta chỉ dùng một từ là Jàti (sanh), mang ý
nghĩa sự khởi đầu của kiếp tương lai. Như vậy quả tương lai tức là Tâm,
Thân, các Căn, Xúc, và Thọ, năm chi phần này sẽ ra đời.
Như vậy, Jàti (sanh) nghĩa là sự
khởi đầu của kiếp sống. Tuy nhiên, chi thứ 12 trong thập nhị nhân duyên
Jaràmarana, nghĩa là sự chấm dứt của đời người, Jarà là tuổi già, già một
cách dần dần và rồi Marana là chết. Tất cả mọi hiện tượng xảy ra như một
hệ quả tất nhiên, có những trạng thái như Soka (Soka nghĩa là buồn rầu).
Bởi vì, chúng ta đã sanh ra nên phải chịu buồn rầu - bi, khổ, ưu, não,
tuyệt vọng cũng sẽ sanh khởi như kết quả của việc sanh. Tóm lại, chúng ta thấy ở đây có cả thảy 12
chi phần. Hai chi Vô Minh và Hành thuộc về quá khứ; năm chi: Thức, Danh
Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ thuộc hiện tại, xem như là quả của quá khứ. Ái,
Thủ, Hữu cũng thuộc hiện tại và làm nhân cho tương lai; sanh và già chết
thuộc về tương lai, kết quả của những nhân đã gieo trong hiện tại. Từ sanh
(Jàti) đến già chết (Jaràmarana), chỉ có hai chi được đề cập
ở đây, tuy nhiên, nó bao hàm cả năm chi phần trong nhóm dị thục quả hiện
tại, từ Thức (Vinnàna) đến Thọ (Vedanà). Sự kết hợp của năm
chi phần này được gọi là đàn ông hay đàn bà, và chính năm chi phần này là
cái được sinh ra, chết và rồi lại tái sanh, cứ tiếp tục mãi mãi không
ngừng vì những tác nghiệp hiện tại. Ðến đây, thời gian đã hết. Ðối với đề tài
Thập Nhị Nhân Duyên này thường phải mất ba buổi giảng, vì nếu bao quát hết
mọi điểm trong một buổi giảng là điều không thể; những gì bần tăng nói ở
đây chỉ là một phác hoạ rất vắn tắt về Pháp Duyên Khởi
(Paticcasamuppàda). Ðể kết luận cho bài giảng này, bần tăng muốn đề
cập đến lời dạy chân thật của Ðức Phật, có thể nói đó là lời khuyên của
Ngài cho những ai muốn thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử này. Nếu chúng ta
không theo lời khuyên này, chúng ta sẽ trôi lăn mãi, không có ngày ra
khỏi. Gỡ bỏ cái mặt nạ Vô Minh là công việc của
mỗi người. Do vậy, Ðức Phật khuyên chúng ta phải tống khứ cái Vô Minh
(si mê) của mình đi, gỡ bỏ cái mặt nạ ảo tưởng, si mê của chúng ta đi.
Tiêu biểu cho sự quân bình giữa các pháp thế gian là Con Ðường (Trung
Ðạo) của Ðức Phật. Thưởng ngoạn cuộc đời, nhưng không để bị dính mắc
trong lối sống thế gian là nguyên tắc của Ðức Phật; không dính mắc, lạc
lối trong vũng xoáy cuộc đời, đời sống trần tục. Ðức Phật khuyên chúng ta
hãy vượt qua cuộc sống trần tục để bước vào cuộc sống tinh thần cao cả
hơn. Cứu cánh tối hậu của lối sống Phật giáo là phải làm sao thâm nhập vào
hạnh phúc chân thực và tối thượng của Niết Bàn. -ooOoo-
Ðầu trang |
Mục lục |
01 |
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 | Chân thành cám ơn Tỳ kheo Pháp
Thông đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 08-2002) Xem:
Nguyên tác Anh ngữ [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Đại
Trưởng Lão U
Thittila
Tỳ kheo Pháp
Thông dịch
Venerable Sayadaw Ashin U Thittila
(PATICCASAMUPPÀDA)
21 |
22 |
23 |
24 |
25 |
26 |
27 | 28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37
updated: 16-08-2002