BuddhaSasana Home Page Phật Pháp Giảng
Giải Nguyên tác: "Essential
Themes of Buddhist Lectures", Bài 15:
MƯỜI PHÁP BA LA MẬT (PÀRAMÌ) Bồ Tát là một vị
Phật đang thành, và như vậy Bồ Tát là một chúng sanh đang thực hành, trải
qua một giai đoạn không thể tính kể được của chu kỳ thế gian, để đạt đến
mức độ cao tột của sự thành tựu về đạo đức, tri thức và tâm linh. Là một
vị Bồ Tát, trong mỗi kiếp tái sanh, vị ấy thực hành 10 pháp ba la mật
(Pàramì), đây là điều kiện tiên khởi dành cho một vị Bồ Tát. Chúng ta không nên nghĩ rằng lý tưởng Bồ
Tát này chỉ dành cho những con người phi thường; điều gì người khác làm
được, chúng ta cũng có thể làm được nếu chúng ta nỗ lực và nhiệt tâm cần
thiết. Chúng ta cần cố gắng làm việc một cách vô tư vì lợi ích của bản
thân cũng như lợi ích của tha nhân. Như vậy, chúng ta đã có mục đích trong
cuộc đời này - có lý tưởng cao quý để phục vụ và hoàn thiện mình. Mười pháp ba la mật đó là: 1) Bố thí (Dàna) 1. DÀNA
(Bố thí)
Bố thí là ba la mật đầu tiên. Thực hành bố
thí tạo cơ hội cho Bồ Tát được công đức hay phước báu gấp đôi đó là, một
mặt nó diệt trừ những tư tưởng bất thiện của lòng ích kỷ, và mặt khác nó
làm phát triển những tư tưởng thuần khiết của lòng vị tha. Mục đích của bố thí là để diệt trừ tham ái
ngủ ngầm trong tâm chúng ta; ngoài ra nó còn có những phước báu của bố thí
đi kèm như tâm hoan hỷ phục vụ, đem lại hạnh phúc, niềm an ủi và xoa dịu
khổ đau.
Vị Bồ Tát luôn mở rộng lòng thương không
phân biệt trong lúc thực hành bố thí, đồng thời cũng không quên dùng óc
suy xét sáng suốt của mình trong lúc bố thí. Chẳng hạn, nếu một gã say
rượu muốn xin Ngài giúp đỡ, nhưng Ngài tin chắc rằng người say rượu này sẽ
lạm dụng vật thí của mình, Bồ Tát sẽ không ngại ngùng từ chối anh ta, vì
lòng quảng đại trong trường hợp này sẽ không kiến tạo bố thí Ba la mật
được. Tuy nhiên, nếu có người cầu xin giúp đỡ vì mục đích chính đáng, Ngài
sẽ bày tở lòng biết ơn sâu xa đối với cơ hội được cho này, và cho họ mọi
trợ giúp có thể được một cách sẵn lòng và khiêm tốn, không hề có chút thái
độ miễn cưỡng hay đưa ra những lời thoái thác giả dối nào. Vị Bồ Tát luôn
sẵn lòng gia ơn cho kẻ khác, nhưng Ngài sẽ không bao giờ cúi đầu van xin
chút ân huệ nào cho cá nhân mình. Bồ Tát Bố Thí rộng rãi, không phân biệt
đẳng cấp xã hội, tín ngưỡng hay màu da, nhưng bản thân Ngài không mong cầu
gì cả, vì Ngài không vị kỷ cũng không tư hữu. Bồ Tát thực hành đức hạnh bố
thí đến mức không những có thể từ bỏ những tài sản sở hữu thân yêu khác,
mà cả đến quốc thành, thê tử, thậm chí chân tay nếu ai xin Ngài cũng sẵn
sàng bố thí. Bố thí ba la mật có thể xem là sự hy sinh cao cả của một vị
Bồ Tát vì lợi ích của nhân loại. 2) TRÌ GIỚI
(Sìla)
Ba la mật thứ hai là trì giới, thanh lọc
hành vi cư xử của bản thân. Nếu Bồ Tát đang sống cuộc đời của bậc xuất
gia, Ngài sẽ cố gắng hết sức để giữ gìn những giới hạnh liên quan đến đời
sống xuất gia; tuy nhiên, nếu sống cuộc đời của một gia chủ, Ngài sẽ
nghiêm trì ngũ giới của người tại gia đến mức tối đa, cho dù những quyền
lợi của Ngài có bị đe doạ. Bồ Tát sẽ tránh không sát sanh, trộm cắp, nói
dối, hoặc nói ly gián, Ngài cũng tránh xa sự tà dâm, nói lời thô ác, nói
lời phù phiếm và uống các chất say. Nói chung một vị Bồ Tát luôn luôn cố
gắng giữ gìn những nguyên tắc sơ đẳng nhất (tức ngũ giới) với hết
khả năng của mình, vì nếu phạm vào một giới nào trong đó có nghĩa là đã
tạo thêm những phiền não và chướng ngại mới trên bước đường giác ngộ giải
thoát. Tuy nhiên, cũng không nên hiểu rằng một vị Bồ Tát là hoàn toàn
không phạm sai lầm và hoàn toàn không còn bất thiện pháp (xem Jàtaka
318, chuyện tiền thân kể về kiếp Bồ Tát làm tướng cướp), vì một người
toàn thiện hoàn toàn, vị đó chắc hẳn đã chứng đắc Phật quả rồi.
3) XUẤT GIA
(Nekkhamma)
Ba la mật thứ ba là sự Từ Bỏ hay Xuất Gia.
Ba la mật này bao hàm hai ý nghĩa, thứ nhất là sự từ bỏ nếp sống trần tục
và những lạc thú thế gian để chọn cho mình đời sống thanh cao của một tu
sĩ, và thứ hai là việc thực hành tu tiến thiền định nhờ đó chế ngự tạm
thời các triền cái ngăn che tiến bộ tâm linh
(năm triền cái là: Tham Dục, Sân Hận, Hôn
Trầm - Thuỵ Miên; Trạo Cử, Phóng Dật và Hoài Nghi).
Mặc dầu vị Bồ Tát có thể sống trong cảnh xa hoa, đắm chìm trong dục lạc
thế gian, nhưng cái ý niệm luôn luôn hiện khởi trong tâm của Ngài, là đời
sống của một gia chủ quả thật giống như hang ổ của tranh chấp, nếu đem so
với đời sống không gia đình của bậc xuất gia ví như bầu trời rộng mở thênh
thang. Nhận thức rõ tính chất hư ảo của đời sống trần tục như vậy, Bồ Tát
tự nguyện từ bỏ những sở hữu thế gian của mình, và khoác vào người chiếc y
vàng giản dị của một nhà tu, Ngài cố gắng sống cuộc sống thánh thiện với
tất cả sự trong sạch của nó. Trong đời sống xuất gia này Ngài thực hành
giới luật đến một mức độ rất cao hầu như trở thành vô ngã hoàn toàn trong
mọi hoạt động của mình; không vì danh, không vì lợi và những điều này cũng
không thể khiến Ngài hành động ngược lại với những nguyên tắc thánh thiện
của mình. Ðôi khi chỉ một sợi tóc bạc xuất hiện trên đầu (xem Jàtaka số
9) cũng đủ khiến một vị Bồ Tát rời bỏ bầu không khí không còn phù hợp
với mình nữa, để hướng về cuộc sống viễn ly, độc lập của một ẩn sĩ; tuy
nhiên, việc thực hành hạnh xuất gia này không phải là một quy luật mà một
vị Bồ Tát buộc phải tuân thủ. Trong Túc Sanh chuyện số 531, kiếp Bồ Tát là
hoàng tử Kusa chẳng hạn, kiếp này Bồ Tát phải chịu đựng rất nhiều tủi nhục
bẽ bàng do lòng tham ái không chế ngự được, vì Ngài muốn chiếm đoạt tình
yêu của nàng công chúa xinh đẹp Pabhàvatì. 4) TRÍ TUỆ
(Pannà)
Ba la mật thứ tư là trí tuệ; trí tuệ có
nghĩa là sự hiểu biết chân chánh thực chất của thế gian, thấy các pháp như
chúng thực sự là. Bồ Tát nỗ lực thu thập kiến thức từ mọi nguồn có thể
được, mặc dù vậy, chưa từng có lần nào Ngài biểu lộ lòng mong muốn phô
trương những kiến thức của mình, Ngài cũng chưa hề cảm thấy hổ thẹn nhìn
nhận sự si mê của mình. Ðiều gì Ngài biết luôn luôn là để phục vụ tha
nhân, và Ngài cũng sẵn sàng chia sẻ nó với mọi người không chút giấu giếm. 5) TINH TẤN
(Vìriya)
Ba la mật thứ năm là tinh tấn. Tinh tấn ở
đây không chỉ có nghĩa là sức mạnh thể chất như mọi người thường hiểu, mà
nó là sinh lực hay sức mạnh tinh thần, hiển nhiên sức mạnh này siêu việt
hơn sức mạnh thể xác rất nhiều, và được định nghĩa như một nỗ lực không hề
suy giảm nhằm phục vụ tha nhân cả trong tư tưởng lẫn hành động, củng cố
vững chắc đức hạnh tinh tấn này. Bồ Tát phát triển lòng tự tin và tạo cho
nó thành phẩm chất đặc biệt của mình, với quan niệm thất bại là mẹ thành
công; sự áp bức chỉ làm tăng thêm nỗ lực và hiểm nguy giúp lòng can đảm
của mình phát triển mạnh hơn. 6) KHAM NHẪÂN
(Khanti)
Ba la mật thứ sáu là lòng kham nhẫn. Ở đây
kham nhẫn là sự chịu đựng, hình thức cao nhất của lòng chịu đựng khi phải
đương đầu với khổ đau có thể do người khác giáng xuống cho mình; và nó
cũng còn có nghĩa là lòng kiên nhẫn đối với những sai trái của kẻ khác.
Một vị Bồ Tát thực hành kham nhẫn đến mức độ khi tay chân của mình bị
người khác chặt đứt đi, Ngài cũng không khởi tâm phẫn nộ. 7) CHÂN THẬT
(Sacca)
Ba la mật thứ bảy là chân thật. Khi nói
đến chân thật có nghĩa là muốn nói đến sự giữ lời hứa của mình, đây là một
trong những phẩm cách nổi bật của một vị Bồ Tát. Theo chuyện tiền thân
Haritaca (431), không vị Bồ Tát nào trong quá trình luân hồi đã
từng nói một lời không chân thật; dù rằng, vị Bồ Tát có thể phạm vào những
giới khác, Bồ Tát lấy chân thật làm sự hướng đạo của mình và giữ vững lập
trường đó; Bồ Tát luôn luôn cân nhắc kỹ lưỡng trước khi hứa một điều gì,
nhưng một khi đã hứa rồi Ngài sẽ hoàn tất với bất cứ giá nào. Trong Túc
Sanh chuyện Mahà - Suttasoma có kể lại rằng, vì một lời hứa mà Bồ Tát thậm
chí đã hy sinh cả cuộc đời mình để thực hiện nó.
Ngài là một người rất đáng tin, thành thực
và lương thiện, Ngài nói như thế nào thì làm như vậy, và làm thế nào Ngài
nói y như thế, không thêm không bớt. Trong lời nói và hành động của Ngài
có một sự hài hoà hoàn hảo, Ngài không bao giờ hạ mình để ve vãn hay tâng
bốc kẻ khác để chiếm cảm tình; Ngài cũng chẳng bao giờ đề cao cá nhân mình
để được sự kính trọng.
8) QUYẾT ÐỊNH (Adhitthàna) Ba la mật thứ tám là tâm quyết định. Ðiều
này có thể được giải thích như là sự quyết tâm vững chắc, nhờ sức mạnh ý
chí này mà Ngài đã buộc mọi chướng ngại phải rời khỏi hướng đi của mình,
và dù cho bất cứ điều gì xảy đến, có thể đó là tai hoạ hay chuyện đau buồn
cũng không làm Ngài xao lãng mục tiêu của mình. Ngài có thể dễ bị thuyết
phục để làm điều thiện, nhưng không dễ cám dỗ Ngài làm những điều trái với
lý tưởng và đạo đức, và tuỳ từng trường hợp, có thể Ngài mềm mỏng dịu dàng
như một cánh hoa, nhưng cũng có thể vững như thái sơn. 9) TÂM TỪ (Mettà) Ba la mật thứ chín là tâm từ. Trong trường
hợp này tâm từ có ý nghĩa thâm sâu hơn thiện chí, tình thân thiện hoặc từ
ái. chính tâm từ này đã thúc đẩy Bồ Tát từ khước sự giải thoát cá nhân để
thực hiện lợi ích cho tha nhân, đây là lòng từ vĩ đại mà Ngài dành cho tất
cả chúng sanh, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng hoặc mầu da; và vì
Ngài là hiện thân của lòng từ bao la như vậy nên Ngài không sợ hãi điều
gì, và Ngài cũng không gieo rắc sự sợ hãi cho chúng sanh nào, ngay đến
những loài thú hung tợn sống đơn độc trong rừng già cũng là những người
bạn thân thiết của Ngài, vì Ngài luôn luôn ôm ấp trong lòng một tình
thương vô biên cho muôn loài chúng sanh. 10) XẢ
(Upekkhà)
Ba la mật thứ mười là tâm xả. Nghĩa đen
của từ này là nhận thức một cách đúng đắn, quan niệm một cách chính đáng,
hoặc nhìn một cách vô tư, nghĩa là không thương, không ghét, không thủ
không xả, và ở đây từ ngữ không được dùng trong ý nghĩa của một cảm xúc
lãnh đạm hay trung tính. Có thể nói xả là một trong những pháp khó thực
hiện nhất và cần yếu nhất trong 10 pháp ba la mật, đặc biệt đối với hàng
tại gia cư sĩ còn phải sinh hoạt trong những mất cân đối của thế gian với
những cơ may thất thường, trong thế gian này những điều như khinh rẻ và
phỉ báng là lẽ thường của nhân loại. Cũng như khen - chê, được - mất; thế
nhưng, trước những thăng trầm của cuộc sống này, một vị Bồ Tát cố gắng
đứng vững như núi đá kiên cố, giữ tâm xả hoàn toàn. Trong những lúc hạnh
phúc và trong những lúc nghịch cảnh, giữa lời khen tiếng chê, Ngài vẫn
thản nhiên vô tư. - Hết phần
Giới - -ooOoo-
Ðầu trang |
Mục lục |
01 |
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 | 15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 | Chân thành cám ơn Tỳ kheo Pháp
Thông đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 08-2002) Xem:
Nguyên tác Anh ngữ [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Đại
Trưởng Lão U
Thittila
Tỳ kheo Pháp
Thông dịch
Venerable Sayadaw Ashin U Thittila
2) Trì giới (Sìla)
3) Xuất gia (Nekkhamma)
4) Trí tuệ (Pannà)
5) Tinh tấn (Viriya)
6) Kham nhẫn (Khanti)
7) Chân thật (Sacca)
8) Quyết định (Adhitthàna)
9) Tâm từ (Mettà)
10) Hành xả (Upekkhà).
21 |
22 |
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37
updated: 16-08-2002