BuddhaSasana Home Page Phật Pháp Giảng
Giải Nguyên tác: "Essential
Themes of Buddhist Lectures", Bài 6: Ý
NGHĨA CỦA ÐẠO PHẬT Người Phật tử thăng
hoa Niết Bàn xuyên qua nhiều giai đoạn tu tập theo Trung Ðạo, Ðạo Lộ của
Trí Tuệ, Giới Hạnh và Chế Ngự (Giới - Ðịnh - Tuệ). Trong phạm vi
một bài giảng, dĩ nhiên không thể có đủ chỗ để đề cập ngay cả đến từng
chặng đường tu tập một, huống nữa là các phương diện khác của chế độ tu
tập mà Ðức Phật đã khuyến hoá trong kho tàng kinh điển rộng lớn của Ngài;
thế nhưng điều mà người ta có thể chấp nhận là, đời sống tu tập của người
Phật tử chân chánh vô cùng phong phú và đa dạng. Trải qua nhiều kiếp luân
hồi, người Phật tử thăng hoa, tự hoàn thiện mình; vị ấy thắng phục những
dục vọng của mình bằng trí tuệ và từ bi. Dần dà nghiệp lực tiêu mòn, ngọn
lửa tham dục đó cũng lắng dịu lại. Căn để mọi phiền não của con người
chính là do tình trạng vô minh ban sơ của họ. Từ vô minh tham dục sanh,
điều này khiến cho nghiệp lực vận hành. Vì vậy con đường dẫn đến Niết Bàn
nằm ở chỗ có trí tuệ, và chúng ta lại phải xoay quanh việc thực hành pháp
(Dhamma), tức những lời dạy của Ðức Phật. Vì trong pháp (Dhamma)
hay sự thật, chứa đựng sự giải thoát khỏi vô minh và tham dục cũng như
giải thoát khỏi tình trạng vô thường bất tận, Ðức Phật đã chỉ cho chúng ta
con đường đi đến sự thực hay chân lý này. Vậy thì ý nghĩa của đạo Phật là gì?
Một cách chính xác thì đạo Phật là
một cách luyện tập tâm hay tinh thần có hệ thống và chắc chắn đây là một
trong những pháp vĩ đại nhất đã từng được mọi người biết đến. Ðạo Phật
giới thiệu đến mỗi cá nhân một phương tiện nhờ đó họ có thể tự hoàn thiện
mình qua sự hiểu biết, cuối cùng đạt tới bình diện của một con người siêu
việt ở đó cả ngã và ngã sở đều không còn hữu dụng nữa. Meister Eckhart,
một nhà thần học Thiên Chúa có nói:
"Nước đức chúa trời chỉ dành cho kẻ đã chết
hoàn toàn" (The kingdom of god is
for none but the thoroughly dead)
[*]. Người Phật tử chúng ta chắc chắn sẽ đồng ý với quan niệm này, dù rằng
chúng ta có lẽ thích một lối nói ít nghiêm khắc hơn thế. Niết Bàn trong
cuộc sống, sự bình an "vượt ngoài mọi hiểu biết", là sự thắng phục
cuộc đời, sự khám phá ra cái thường hằng trong dòng biến dịch của những
biến cố tâm sinh vật lý của nó. Người Phật tử tin rằng qua việc tu thiền
và tư duy chân chánh họ có thể theo gương Ðức Phật trải qua những chặng
đường giác ngộ và cuối cùng thành tựu trí tuệ viên mãn vượt qua mọi đòi
hỏi.
[*] Theo quan niệm của người theo đạo
Thiên Chúa thì con người sau khi chết, linh hồn của họ sẽ về với chúa
hoặc xuống địa ngục đời đời. Tuy nhiên, Meister Eckhart khi tuyên bố câu
này là đã phủ nhận cái linh hồn ấy; và theo ông chỉ có chết cả linh hồn
lẫn thể xác mới mong về được nước của Ðức Chúa Trời, một ý niệm gần
giống với Vô Ngã của đạo Phật.
Tuy nhiên, hoàn toàn không phải mọi người
Phật tử đều là nhà sư hoặc cư sĩ thuần hành.
Vậy thì đạo Phật có ý nghĩa gì đối với những
người bình thường đang bận rộn với công việc trong cuộc đời?
Xuyên suốt qua lời dạy của Ðức Phật, tinh thần tự lực và lòng quyết tâm là
điều mà Ngài thường nhấn mạnh và lặp đi lặp lại. Ðạo Phật buộc mọi người
phải nương tựa tự thân, đồng thời đánh thức niềm tự tín và năng lực của họ
dậy. Ðức Phật luôn luôn nhắc nhở hàng đệ tử của Ngài rằng không một ai,
hoặc trên trời hoặc dưới đất này có thể giúp họ hoặc giải thoát cho họ
khỏi những quả báo do những hành động bất thiện mà họ đã tạo trong quá
khứ. Người Phật tử biết rằng những năng lực của tâm và tinh thần của họ có
đủ để hướng dẫn họ trong hiện tại và uốn nắn cho tương lai để rồi cuối
cùng sẽ đưa họ đến sự thực (chân lý). Người Phật tử cũng biết rằng
họ có một sức mạnh được xem là tối thượng không gì có thể vượt qua nổi. Hơn nữa đạo Phật đã vạch ra rất rõ rệt
phương diện đạo đức trong cuộc sống hàng ngày cho người Phật tử sống theo.
Dù rằng Niết Bàn, tự thân nó không dung chứa ý niệm đạo đức, trong ý nghĩa
rằng sự giải thoát cuối cùng vượt qua sự đối đãi của thiện và ác. Thế
nhưng, con đường đi đến trí tuệ rõ ràng là một con đường của đạo đức. Con
đường này hợp theo giáo lý nghiệp báo (Kamma). Mọi hành động phải
tạo ra kết quả, và những hành động cá nhân của một người sẽ tạo ra kết quả
hay quả báo trong kiếp sống riêng của họ. Như vậy nghiệp lực chắc chắn sẽ
đưa chúng ta đi lên chỉ có thể là một nghiệp thực hiện vì mục đích thiện,
nghĩa là nghiệp thực hiện để có trí tuệ cùng tột. Giáo lý về nghiệp này tìm được sự bộc lộ
cao nhất của nó trong tâm từ (Mettà), mục tiêu của người Phật tử về
một tình thương bao la rộng khắp. Mettà (Tâm Từ) có ý nghĩa to lớn
hơn chỉ là cảm tình huynh đệ hoặc lòng nhân ái, mặc dầu cả hai tình cảm
này đều là một phần của tâm từ. Có thể nói tâm từ là lòng quảng đại tích
cực, một tình thương được bộc lộ và chu toàn trong sứ mạng tích cực nhằm
nâng cao tâm hồn đồng loại. Tâm từ đi đôi với sự giúp đỡ và một thiện chí
muốn từ bỏ lợi ích cá nhân để cổ xuý cho sự thịnh vượng và hạnh phúc của
nhân loại. Chính tâm từ trong đạo Phật đã là nền tảng cho sự tiến bộ xã
hội. Cuối cùng, tâm từ là cấp độ cảm thông rộng lớn nhất và mạnh mẽ nhất
có thể quan niệm được, nó được bộc lộ trong nỗi khắc khoải về khổ đau và
vô thường của cuộc đời. Người Phật tử chân chánh cố gắng hết khả năng của
mình để tu tập tâm từ đối với mọi chúng sanh và tự đặt mình vào hoàn cảnh
của họ, không phân biệt họ là ai thuộc đẳng cấp, mầu da, địa vị hay giới
tính nào. Ngoài ra, đạo Phật dĩ nhiên còn là một
động lực phát triển văn hoá chính yếu trong cuộc sống của phương đông,
cũng như Thánh Kinh là nguồn cội chính của nhiều tư tưởng và nghệ thuật
Tây phương vậy. Tuy nhiên, kinh điển của đạo Phật to lớn hơn và chi tiết
hơn thánh kinh Thiên Chúa rất nhiều. Trong ngôn ngữ Pàli, ngôn ngữ của
kinh điển, những lời dạy của Ðức Phật được gọi là Tipitiaka, nghĩa là
"Tam Tạng Kinh". Vinaya Pitaka hay Tạng Luật, bao gồm năm
quyển trong đó giải thích những giới luật của đời sống người tu sĩ. Sutta
Pitaka (Tạng Kinh) là một bộ sưu tập các buổi thảo luận, những câu
chuyện, những bài kệ, những câu nói mang tính cách ngôn, tất cả được viết
bằng ngôn ngữ đơn giản, truyền đạt tất cả những ý niệm về việc thực hành
Phật giáo. Tạng thứ ba là Tạng Diệu Pháp (Abhidhamma Pitaka), bàn
về những pháp bản thể, những vấn đề trừu tượng và thuộc lãnh vực tâm lý,
đây là Tạng được các triết gia lão luyện hết sức thích thú quan tâm. Như vậy Tam Tạng (Tipitaka) đưa ra
sự hướng dẫn có tính kết hợp ở mọi cấp độ hoạt động của tri thức, đạo đức
và tinh thần; lời dạy của Ðức Phật được xem là ánh sáng, là ngọn đèn soi
đường cho Miến Ðiện nói riêng và mọi người nói chung. -ooOoo-
Ðầu trang |
Mục lục |
01 |
02 |
03 |
04 |
05 | 06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 | Chân thành cám ơn Tỳ kheo Pháp
Thông đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 08-2002) Xem:
Nguyên tác Anh ngữ [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Đại
Trưởng Lão U
Thittila
Tỳ kheo Pháp
Thông dịch
Venerable Sayadaw Ashin U Thittila
21 |
22 |
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37
updated: 16-08-2002