BuddhaSasana Home Page Phật Pháp Giảng
Giải Nguyên tác: "Essential
Themes of Buddhist Lectures",
Bài 18:
CON ÐƯỜNG ÐI ÐẾN NIẾT BÀN PHẦN MỘT "Con đường đi đến Niết Bàn"
hay có thể gọi là con đường đi đến hạnh
phúc tuyệt đối. Cô đọng những lời dạy của Ðức Phật, chúng ta có bài
kệ: "Không làm các điều ác Mặc dù, đây chỉ là bài kệ rất cô đọng, tuy nhiên nó chứa đựng mọi lời Ðức Phật dạy. Bài kệ thể
hiện trọn vẹn ba giai đoạn tu tập trên đạo lộ dẫn đến hạnh phúc tối thượng hay Niết
Bàn. Có ba giai đoạn phát triển tự
thân để hướng đến hạnh phúc tối thượng này. Trình tự phát triển của
nó phù hợp với Bát Chánh Ðạo (Attha Magganga Majjhima patipàda)
được sắp thành ba nhóm, đó là: Giới (Sìla), Ðịnh
(Samàdhi) và Tuệ (Pannà). Hai bước
đầu tiên trên Thánh Ðạo Tám Ngành; Chánh Kiến nghĩa là sự hiểu biết
chân chánh về bản chất của tự ngã, cũng như bản chất của thế gian và Chánh
Tư Duy được xếp vào nhóm Tuệ. Ba bước
kế: Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng
được xếp vào nhóm giới; Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Ðịnh được xếp vào nhóm Ðịnh. Chúng ta có thể hỏi và điều này đã từng
được hỏi là: Tại sao phải ba giai đoạn? Tại sao không
chỉ một giai đoạn duy nhất làm cơ bản? Lý do phải có ba giai đoạn là vì
chúng ta có ba cấp độ phiền não -
Kilesas hay những bất tịnh như: Tham (Lobha), Sân (Dosa) và
Si (Moha) v.v... và mỗi trong 10 phiền não (Kilesas) này có
ba cấp độ. Chẳng hạn, Tham hay Sân có ba cấp
độ, cấp độ thứ nhất, cấp độ gốc mà tiếng Pàli gọi là anusaya
(Tuỳ Miên). Ở cấp độ này các phiền
não như là Tham, Sân v.v... ngủ ngầm trong mỗi người chúng ta và chưa bộc
phát lên mức độ ý tưởng, cảm thọ và
xúc cảm, tuy nhiên, chúng vẫn ngấm ngầm trong mỗi người. Chúng ta có thể
chứng minh được điều này. Sự kiện đôi lúc chúng ta có thể bị vấn đề gì đó làm cho kích động và giận hờn, chứng tỏ là trong
bản thân chúng ta có những khuynh hướng như nóng nảy, sân hận - mặc dù
bình thường chúng ta vẫn được mọi người gọi là
người "Tốt". Chúng ta chỉ tốt khi người khác đối xử tốt với chúng ta. Ngược lại, chúng ta
có thể bộc lộ sự nóng nảy và xúc cảm như thường. Chính điều này
đã chứng minh rằng chúng ta có những khuynh hướng bất thiện ngủ
ngầm trong tâm. Nếu những hành động của chúng
ta hợp theo giới luật thì đó là
Chánh Nghiệp, khi hành động của chúng ta
không những không làm hại (vô hại) mà còn có tính giúp đỡ - nghĩa là hành động vì lợi ích bản thân cũng như tha
nhân, lúc đó chúng ta có thể nói hành động của mình là chính đáng. Có nhiều điều chúng ta nghĩ đó là
tốt nhưng chúng chỉ tốt đối với chúng ta hoặc
chỉ tốt theo quan niệm riêng của chúng ta. Ðể hành động của mình chân chánh,
tâm chúng ta phải thoát khỏi những chi phối của tham, sân, ganh ty, bỏn
xẻn v.v... khi tâm chúng ta trong sạch, chúng ta mới có thể thấy và biết
mọi vật đúng như bản chất của nó. Lấy trường
hợp một cái bình chứa đầy nước làm
thí dụ, cái bình được đổ đầy ở ba chặng: đáy
bình, giữa bình và phần trên cùng. Anusaya (Tuỳ Miên) là
chặng đầu hay cấp độ gốc, ở đây các khuynh
hướng bất thiện còn ngủ ngầm. Sự việc bạn có thể khiêu khích một
người khiến họ sân hận, chứng tỏ rõ ràng người đó có sân hay gốc sân ngủ ngầm trong họ.
Trong cấp độ đầu tiên này phiền não rất là âm thầm, kín đáo - kín đáo đến độ chúng ta dường như trở
thành bất khả xâm phạm. Ngay cả ở giai đoạn thứ hai - Pariyutthàna
(phiền não tại triền) cũng vậy, các phiền não vẫn còn nằm trong
phạm vi ý nghĩ hay cảm xúc thôi. Ngạn ngữ Anh nói "im lặng là vàng", điều này không phải lúc nào cũng đúng. Chúng ta có thể nói rằng im lặng đôi
khi còn nguy hiểm hơn ồn ào nữa là khác. Kế tiếp, ở giai đoạn cuối cùng
chúng ta trở nên dữ tợn, bực bội, không kiềm chế được ở cả lời nói và hành động: (Vìtikkama). Ðây là cấp độ trên cùng của những phiền não. Như
vậy, ba cấp độ phiền não là: Anusayà:
tuỳ miên phiền não, Pariyutthàna: tại triền phiền não và Vìtikkama: quá độ phiền não. Pháp hành của đạo Phật là làm thế
nào để chế ngự, làm thế nào để vượt qua những khuynh hướng bất thiện ngủ
ngầm trong tâm này. Thực tập việc chế ngự, chúng ta cần ba giai đoạn tu nhằm vào việc phát triển -
Giới (Sìla) - Ðịnh (Samàdhi) - Tuệ (Pannà). Trước tiên là tu tập giới. Việc giữ giới có thể giúp chúng ta vượt qua được cấp độ phiền não sau cùng - tức
quá độ phiền não, cấp độ phiền não bộc lộ ra ngoài mặt có
thể thấy được chứ chưa diệt được hai cấp độ
kia. Ðiều này cũng giống như chúng ta chặt một cái cây ở phần cành
và ngọn. Giới chỉ có thể chế ngự hay kiểm soát lời nói và hành động chứ không phải tâm. Nó có thể làm
cho chúng ta trở thành quý bà hay quý ông theo cái nghĩa trí thức thế
gian, chứ chưa tạo cho ta thành con người chân chánh được.
Phải chăng có đôi lúc khi chúng ta đang ngày
Bát quan trai giới, chúng ta vẫn có ý nghĩ hay lời nói "chừng nào bà
(ông) xả giới, mày sẽ biết tay bà?". Cho nên, việc phải có ba giai đoạn tu tập là điều rất cần thiết cho chúng ta và
trước tiên là tu tập giới để loại trừ cấp độ
phiền não thô tháo bên ngoài, hiện diện trong con người chúng ta.
Tuy nhiên, vì giới chưa loại trừ được hai cấp
độ phiền não còn lại, cho nên những phiền não mà chúng ta đã trừ khử đó vẫn khởi sanh trở lại và có thể rất
sớm. Vì vậy, chúng ta cần tu tập giai đoạn
thứ hai - tu tập Ðịnh (Samàdhi) làm cho chúng ta có thể loại
trừ cấp độ phiền não thứ hai, mà việc
giữ giới không trừ khử được. Ðịnh là
chế ngự và tu tập tâm. Giống như chặt một cái cây ở phần thân. Tuy nhiên,
vì vẫn còn cấp độ phiền não thứ ba hay
phiền não gốc chưa được trừ khử, nên
chi những phiền não cũng sẽ phát khởi trở lại. Dù sao chi định vẫn có thể dẹp sạch mọi phiền não
trong một thời gian đáng kể, vì thế,
nó sẽ không khởi sanh quá sớm như trừ khử bằng giới được.
Trừ khử phiền não bằng Giới - Sìla, tiếng Pàli gọi là Tadanga pàhàna
(Bỉ phần xả đoạn hay trấn áp tạm thời).
Cũng giống như tạm thời dọn dẹp cành nhánh của một cái cây vậy. Trừ diệt
bằng phương tiện Thiền Ðịnh gọi là Vikkhambhana Pahàna
(trấn phục đoạn trừ).
Ðịnh tiêu biểu cho một
giai đoạn tu tập tâm cao hơn và có
nhiều năng lực hơn, vì vậy nó có hiệu
quả hơn là giới. Ðến giai đoạn tu tập thứ ba,
Tuệ (Pannnà): Qua việc phát triển tuệ giác hay trí tuệ mà
người ta có thể diệt trừ cấp độ phiền não
thứ nhất - cấp độ tuỳ miên hay ngủ
ngầm của phiền não. Ðiều này cũng tựa như chặt một cái cây ở phần gốc để cho nó không còn mọc lại được. Nếu những phiền não được diệt bằng tuệ, những phiền não
này chắc chắn sẽ không còn sanh khởi lại. Giai đoạn này gọi là Samuccheda Pahàna
(chánh đoạn xả đoạn hay tuyệt diệt đoạn trừ).
Do vì ba giai đoạn này tương quan
và tương duyên lẫn nhau nên Giới, Ðịnh, Tuệ cần phải được thực hành cùng lúc chứ không hành
rời từng giai đoạn. Trong giáo pháp
(Dhamma) chúng ta sắp nó thành ba giai
đoạn riêng biệt, nhưng trong thực hành chúng ta phải hành đồng thời cả ba một lúc. Chẳng hạn khi chúng
ta tu Ðịnh, việc đắc định sẽ dễ dàng
hơn nếu chúng ta sống một cách chân chánh (Giới) và hiểu biết các
pháp một cách chân chánh (Tuệ). Cũng vậy, thực hành Tuệ quán hay
chánh kiến có thể giúp chúng ta sống chân chánh (Giới) và định tâm chân chánh (Ðịnh).
Pháp hành này không chỉ áp dụng trong lúc hành thiền mà cũng cần áp dụng
ngay cả trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta nữa. Là những chúng sanh có lý trí, việc hành xử của chúng ta đối với môi trường chung quanh, với những hoàn
cảnh hay biến cố trong cuộc đời phải làm
sao cho hợp lý, không võ đoán theo bản năng
hoặc xúc cảm riêng tư. Cái chúng ta cần trong thế gian này là
được sống một cách có trí tuệ - có cơ hội để vận dụng sức mạnh trí tuệ của
chúng ta - nhưng không may thay cho thế gian này là trong hầu hết
mọi trường hợp mọi người đều phán đoán theo
bản năng và xúc cảm tư riêng của mình. Chuẩn mực phát triển tinh thần (tâm) ngày nay rất thấp, bởi vì
phương pháp giáo dục phổ thông hoàn toàn sai lầm, cả phương pháp nuôi dạy
trẻ em cũng sai lầm như vậy. Bần Tăng có thể
chứng minh điều này cho quý vị thấy. Thậm chí những bài hát nhà trẻ
dạy cho lứa tuổi thiếu nhi cũng vẽ ra những câu chuyện mang đầy tính bạo lực, giết chóc và không
có một mảy may nhân ái nào trong đó. Lại nữa,
một nhóm các nhà luân lý học phương Tây mới đây đã đi
một vòng thăm các cơ sở giáo dục để
thực hiện một cuộc trắc nghiệm tâm lý đối với các em đang học tại đó. Họ đã
yêu cầu một đứa trẻ làm một câu với
những từ "mẹ", "em bé" và "mèo". Ðứa bé trả lời:
"Con mèo
cào em bé khiến cho nó khóc, mẹ nổi giận và
đánh con mèo". Cũng câu hỏi này
được các nhà luân lý học đem hỏi tại
các trường trong toàn tỉnh, chỉ có một em duy nhất đưa ra câu trả lời sau và được trao một phần thưởng vì câu trả
lời của em chứa đựng một chút tình
thương và trìu mến nào đó cần phải có giữa
các chúng sanh khác nhau trên thế gian này
"Chú mèo đùa với em bé, mẹ rất hài lòng với chú
mèo đến độ cho chú một phần sữa để uống".
Chính Bần Tăng đã có dịp chứng kiến
một phụ nữ, bà này mua một cây mía nơi người bán hàng và cho đứa bé trai của mình để cầm chơi. Ðứa bé thay vì cầm chơi, đã dùng cây mía đánh vào bà. Nhiều bậc cha mẹ không
biết dạy dỗ con cái mình trở thành người tốt, thuần tính và ngoan ngoãn,
ngược lại, còn khuyến khích chúng sống hung bạo, ưa cãi vã và thích sinh
sự bằng cách cho chúng những món đồ chơi như
súng ống, đao kiếm, nhất là các loại súng bắn bằng hơi. Vì vậy, mà
việc dạy dỗ trẻ em trong thế giới khoa học ngày nay thật rất sai lầm. Các
rạp xi nê phần lớn chiếu các phim ảnh đồi
truỵ - những cuốn phim chỉ khuyến khích việc bắn giết và dối trá
lẫn nhau. Vậy thì pháp hành của Ðức Phật như thế nào? Trước hết là Giới. Những chuẩn mực đạo đức
này đã được Ðức Phật giải thích trong ngũ
giới (Panca sìla) của người tại gia cư sĩ. Không sát sanh, không
trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu và các chất say. Ở
Miến phần lớn mọi người đều nghĩ rằng chỉ cần
giữ năm giới này một cách tiêu cực thôi là đã tốt rồi. Tuy nhiên, chỉ đơn thuần tránh không sát sanh thì
chưa đủ gọi là tốt; do vậy chúng ta
phải chú trọng đến phương diện tích cực của
nguyên tắc bất sát này - tức là phải có lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sanh, kể cả loài
vật. Trong bài giảng về Tâm Từ (Mettà) chúng ta đã nói
đến Adosa (vô sân) là phương diện tiêu cực của lòng từ,
nhưng "vô sân" không phải đã
hoàn toàn. Trong việc thực hành Mettà (tâm từ) chúng ta phải có
lòng bi mẫn và từ ái đối với tất cả chúng
sanh trong thế gian. Trường hợp giữ ngũ giới cũng vậy, không sát sanh được
nhiều người hiểu là không tước đoạt
sinh mạng, tuy nhiên, từ ngữ "không sát sanh"đủ
rộng để bao hàm tất cả những hành động
nhân ái và dịu dàng. Giới thứ hai - không lấy của không cho hay không trộm cắp. Chuẩn mực
phát triển tinh thần trong thế gian ngày nay - thậm chí cả người lớn cũng
thế - dường như thấp hơn rất nhiều so với một
đứa trẻ lên mười có tri thức. Có vẻ như con người ngày nay về thể
xác của họ, không thể xếp loại như một con thú, nhưng bằng vào những hành động thì nhiều người cư xử tồi tệ hơn
cả loài vật. Phương diện tích cực của giới thứ hai này không phải chỉ
tránh không trộm cắp thôi mà còn phải biết bố thí hay giúp đỡ mọi người. Ðược như vậy, có lẽ
chúng ta không cần đến một lực lượng cảnh sát
khổng lồ hay một hệ thống toà án để xử
những trường hợp phạm pháp hoặc cả một Cục Ðiều Tra Ðặc Biệt
(Bureau of Special Investigation) làm gì. Kế tiếp là giới "không tà
dâm". Giới thứ tư là "Musàvàda" - (không nói dối) không
nói dối là điều rất khó giữ. Phương diện tích
cực của giới này không những là phải nói sự thật, mà còn phải dùng
những ngôn từ tế nhị, êm ái và phù hợp với người nghe. Ðối với giới không
nói dối, nếu đa số chủng tộc chúng ta đều
không nói dối có lẽ không cần thiết đến pháp luật nữa.
Còn về giới cuối cùng của ngũ giới - không uống rượu và các chất say -
vấn đề uống rượu hầu như đã trở thành
một thói quen thường ngày ở mỗi bữa ăn trong
xã hội văn minh này. Thực sự mà
nói, không uống tí rượu nào là điều rất cần
thiết để giữ cho người ta khoẻ mạnh cả về thể xác, đạo đức lẫn tinh thần.
Có một lần tại Anh quốc, một thính giả nghe Pháp đã lý luận rằng:
"Vì trong đời sư không uống chút rượu nào,
vì sư là người hoàn toàn kiêng rượu (teetotaller) nên sư không hiểu được những lợi ích phát sinh do việc uống
rượu". Uống rượu làm cho chúng ta mất tự chủ - ít nhất cũng
trong lúc đó, và những người uống rượu
thái quá có thể bị xem như đã trở
thành một gã điên. Uống rượu là đi ngược lại quy luật của tự nhiên
cũng như những giới điều Ðức Phật đã ban hành. Uống rượu còn gây ra các
chứng bệnh về tâm như đãng trí và đần độn, một khi quá độ chúng ta có thể trở
thành một kẻ điên rồ hoàn toàn.
Theo đạo Phật, uống rượu là nguyên
nhân của mọi khổ đau và phiền muộn.
Rượu còn khiến cho chúng ta bị khích dục và
đối với người say thì rất dễ nói dối hay sát nhân... Ðể kết luận, bần tăng mong rằng quý vị,
các sư cũng như các cận sự nam (Upàsikas) và cận sự nữ
(Upàsikàs) chú trọng đến mặt tích cực của
năm giới này. Bần Tăng cũng muốn đề
cập đến lối sống của Ðức Phật, có thể nói đây là một hệ thống trau dồi tu tập tự
thân - nghĩa là nâng cao tâm thức của chúng ta lên. Ðó là một lối sống
hiền thiện, chánh trực và hạnh phúc. Ðức Phật nói rằng:
"Khi một hành động thiện được thực hiện vài lần, nó
sẽ tạo cho ta có khuynh hướng rất rõ rệt là thích lặp lại hành động này". Như vậy, đúng thời nó sẽ trở thành một thói
quen. Do thói quen họ trở thành nô lệ cho rượu, nô lệ cho cờ bạc và nô lệ
cho hàng tá thứ dục vọng cũng như những thứ xấu xa khác. Bần tăng
xin trích dẫn ra đây một câu ngạn ngữ của người Nhật để quý vị thấy thói
quen tác động đến chúng ta thế nào:
"Ðầu tiên thì người uống
rượu, kế đó rượu uống rượu và cuối
cùng rượu uống người".
Bất kỳ hành động bằng thân nào, nếu
cứ lặp đi lặp lại một thời gian sẽ trở thành
thói quen. Cũng như vậy, những ý nghĩ nếu cứ
để cho nó phát sinh liên tục cũng tạo ra một khuynh hướng rõ rệt,
phỏng theo loại tư duy đó và vì vậy mà
trở thành thói quen. Ðức Phật đã dùng
cái sức mạnh có khả năng tái tục của tâm,
cũng như của thân này để phát triển tự
thân. Nhờ trau dồi những thói quen tốt của tâm và thân chúng ta sẽ
tự mình phát triển một cách hoàn thiện. Ðiều này được gọi là Pàramì (ba la mật)
trong ngôn ngữ Pàli, nghĩa là sự chu toàn hay hoàn thiện. Nói một cách
khác, tạo những thói quen ngược lại bất cứ khi nào chúng ta có chiều hướng
muốn sân hận, làm như vậy chúng ta có thể phát triển các trạng thái tâm từ
ái và bi mẫn sao cho những trạng thái tâm từ này được lặp đi, lặp lại mãi mãi trong
chúng ta. Cuối cùng, chúng sẽ trở thành những thói quen rất ư là thường
tình đến độ chúng ta chẳng bao giờ còn
gặp lại những tư tưởng sân hận, oán thù, ganh tỵ, cũng như những tư duy đại loại như vậy. Những khuynh hướng bất
thiện sẽ biến mất trước những khuynh hướng từ bi này, cũng như bóng đêm sẽ mờ nhạt dần trước ánh bình
minh. Ðây là pháp hành do Ðức Phật đưa ra cho hàng đệ tử của Ngài. Có thể nói đây là một hệ thống rất thực tiễn nhằm
thay đổi và phát triển bản chất nội
tại của chúng ta. PHẦN HAI Tiếp tục bàn về ba giai đoạn phát triển
tâm, đó là: Giới - Ðịnh - Tuệ. Chúng ta đã đề cập
đến giai đoạn tu tập đầu tiên là Giới ở phần trước. Lần này chúng
ta sẽ bàn sơ lược về Ðịnh (Samàdhi), tức Thiền Ðịnh và cũng là giai đoạn để phát triển trí tuệ. Ðây là
những giai đoạn tu tập khá nghiêm mật,
vì khi đến giai đoạn hành thiền này
chúng ta thường thấy rằng đó là một
tiến trình tu tập rất tẻ nhạt. Thiền không phải là một đề tài để
người ta nói về, mà là để thực sự hành
theo, chúng ta không kham nổi những công việc khá đơn điệu bình thường. Nói về một điều gì
đó thì rất dễ, tổ chức một điều gì đó cũng rất dễ. Một số người cho là
cần phải có một năng khiếu tổ chức mới làm được các công việc đó; tuy nhiên, việc
hành thiền còn khó khăn hơn rất nhiều.
Chính vì vấn đề khó khăn này mà Bần
Tăng sẽ đọc cho quý vị nghe một phần trong
cuốn sách do Bần Tăng viết về đề tài thiền và làm thế nào để tiến hành thiền định trong Phật giáo.
THIỀN ÐỊNH (SAMÀDHI) Người có trí, sau khi đã được trang bị với Giới (Sìla),
và làm chủ các giác quan (Căn)
của mình, có khuynh hướng nghiêng về việc phát triển loại hạnh phúc cao cả
hơn và bền vững hơn (nghĩa là hơn cái loại hạnh phúc thế gian thông
thường) bằng Thiền Ðịnh để chế ngự và
tu tập tâm; giai đoạn thứ hai trên đạo lộ giải thoát.
Ðịnh là sự tu tập tâm, không có định chúng
ta không thể có tuệ. Bằng thiền định chúng ta có thể gặt hái được hạnh
phúc - một loại hạnh phúc cao cả hơn hạnh phúc thông tục của thế gian.
Hạnh phúc thế gian là hạnh phúc lệ thuộc. Nó cần sự hỗ trợ và đồng hợp tác của một người cộng sự
(vợ hay chồng). Riêng loại hạnh phúc tinh thần cao cả này không đòi hỏi bất kỳ sự trợ giúp bên ngoài
nào hoặc người cộng sự nào. Hạnh phúc này có thể được đạt đến qua thiền (Jhànas).
Jhànas (Skr: dhyàna: thiền na) là một từ phát xuất từ căn
Jhe, tư duy một cách gắn bó hay kiên cố vào một đề mục, hoặc để thiêu đốt các pháp chướng ngại, Nivarana có nghĩa là
năm triền cái ngăn trở tiến bộ tâm linh, Jhàna đã được
dịch là nhập định, an chỉ định trạng
thái xuất thần. Tuy nhiên, ở đây định
là một kinh nghiệm đặc biệt thoát khỏi
đời thường.
Ở Miến chúng ta không nói về thiền định (Jhàna) chúng ta thường nói nhiều đến Vipassanà (thiền minh sát hay
thiền quán). Sở dĩ thiền định
(Samàtha hay Jhàna) ít được nghĩ đến ở
Miến là vì nguời Miến cho rằng thiền
định không phải là giai đoạn cao tột,
mà chỉ là giai đoạn thứ hai trên
lộ trình đi đến Niết Bàn. Ðó là lý do
thứ nhất. Còn có một lý do khác nữa là, với những người quan tâm đến thiền Minh sát (Vipassanà)
nghĩ rằng đây là con đường ngắn nhất hay đường tắt đi đến Niết Bàn.
Trong một vài trường hợp, người ta nghĩ rằng
để đạt đến Niết Bàn vấn đề chỉ là
thời gian thôi, nghĩa là chỉ cần thực hiện vài ngày hoặc vài tuần là đủ. Họ thích đi thẳng đến Niết Bàn chứ
không muốn chờ đợi lâu. Chẳng thế mà
họ tham dự những khoá thiền ba ngày hoặc 7 ngày để mong đạt đến mục đích đó.
Ðể đắc thiền (Jhana) bạn
phải chứng minh điều đó bằng cách thực hiện
những pháp thần thông - chẳng hạn như đi trên nước, ngồi trên mặt
nước, làm người chết đứng dậy v.v... Nhưng để
đạt đến Niết Bàn ở giai đoạn Nhập Lưu (tức Tu Ðà Hoàn quả) thì chẳng cần bằng chứng gì cả. Ðó là
một lý do thêm nữa, giải thích tại sao người ta lại quan tâm đến thiền Minh sát đến như thế. Chính
Ðức Phật đã đạt đến những trình độ rất cao trong thiền định
(Jhànas), Bần Tăng nhân đây cũng muốn nói
đôi điều về loại thiền này. Một số người đề nghị là nếu chúng ta muốn truyền bá đạo Phật một cách hiệu quả ở thế gian này,
chúng ta phải làm điều đó khác với những điều
chúng ta hiện nay đang làm. Nhờ thiền
định chúng ta có thể bay lên trời, chúng ta có thể xuất hiện và
biến mất trong không gian. Vì vậy, một số người nói rằng đạo Phật có thể được truyền bá nhanh hơn và
rộng rãi hơn nếu chúng ta có thể chứng minh Ðạo Phật qua thiền định. Dù sao chăng
nữa thì thiền định này cũng là
một phần trong lời dạy của Ðức Phật. Thiền (Jhànas) nghĩa là tư duy, tập trung vào một đề mục để vượt qua Năm triền cái. Jhànas
cũng có nghĩa là thiêu đốt các pháp chướng
ngại (Nivarana) những pháp che lấp tiến bộ tâm linh. Phát
xuất nơi từ phát sinh [*] này chúng ta có "Jhar-pa-na" là hoả thiêu
trong trường hợp người chết. Jhanas đã được dịch là nhập định, an chỉ định hay trạng thái xuất thần (ecstacy); tuy nhiên, trong đạo
Phật Jhànas là một loại kinh nghiệm thuộc về tinh thần (tâm),
hay có thể gọi là kinh nghiệm vượt ngoài
đời thường. Người muốn tiến bộ trên lãnh vực tinh thần (tâm)
này sẽ chọn một trong 40 đề mục đã
liệt kê trong Visuddhimagga (Thanh Tịnh Ðạo). Ðề mục mà hành giả
chọn cần thích hợp với tính khí (bản tánh) của mình, chẳng hạn như
tánh ưa xúc cảm, sân hận v.v... 40 đề mục đó
được chia thành 6 nhóm theo loại bẩm tánh của con người. Do vậy,
nếu bạn muốn hành thiền có kết quả, nghĩa là
đắc thiền, bạn phải chọn một trong số 40 đề mục thích hợp với bẩm tánh của
mình. [*] Derivative: "Từ phát sinh" là từ được tạo ra từ một yếu tố gốc bằng cách thêm,
bớt hay thay một vài thành tố nào đó (ND).
Về phương pháp đã được giải thích đầy đủ trong Thanh Tịnh Ðạo. Ðề mục hành giả chọn được gọi là
Parikammanimitta (chuẩn bị tướng). Hành giả chú tâm trên đề mục này trong một thời gian, có thể
là vài ngày, vài tuần, vài tháng hay vài năm,
cho đến khi nào hành giả có thể mường tượng được đề mục không chút khó khăn. Khi hành
giả có thể mường tượng được đề mục mà
không nhìn vào nó, hành giả tiếp tục tập trung trên đề mục mường tượng này
(Uggahanimitta: sơ tướng hay tợ tướng) cho đến khi hành giả phát triển nó thành
một đề mục đã được khái niệm hoá
(Patibhàganimitta:quang tướng). Ở vào giai đoạn này người có kinh nghiệm tâm linh được xem như đắc cận định (Upacàra
- samàdhi) và tạm thời vượt qua năm triền
cái (Nivarana) đó là:
tham dục, sân hận, hôn trầm - thuỵ miên, trạo cử, phóng dật và hoài nghi. Ðể minh hoạ lại những gì chúng ta đã
nói. Nếu hành giả chọn cho mình đề mục thích
hợp là một biến xứ đất
(Pathavì - Kasina), hành giả giữ kỹ một vòng tròn làm bằng đất sét gọi là Kasina
(Biến Xứ đất).
Trong tiếng Anh thường được dịch là Hypnotic circle (vòng
thôi miên), thực ra không chính xác lắm. Hành giả làm một vòng tròn
bằng đát sét đường kính khoảng một gang và
bốn ngón tay (ba tấc). Hành giả cố gắng làm sao cho nó thật phẳng
và sơn bằng màu bình minh. Vòng này được đặt
trước mặt cách khoảng 1 mét, hoặc xê xích một chút sao cho mắt nhìn
thấy rõ. Ở phương Tây hiện nay cũng có một số người hành theo cách này.
Tuy nhiên, ở Ấn Ðộ phương pháp này đã
có từ lâu đời, vì vậy nó rất phổ
thông; người Tây phương thực hành pháp môn thiền định đơn giản chỉ để xem tác dụng của nó và
nhờ thực hành như vậy mà một số người đã
thâu thập được một năng lực định rất sâu. Khi
việc chuẩn bị vòng Kasina đất đã
hoàn tất và hành giả đặt nó trước mặt ở
khoảng cách thuận tiện, sao cho hành giả có thể nhìn vào nó một
cách dễ dàng thoải mái. Trong lúc hành thiền hành giả phải giữ cho đầu, cổ và lưng thẳng đứng để duy trì tâm gắn bó với đề mục.
Thông thường không tập trung chúng ta không thể biết tâm mình ở nơi đâu. Dù thế nào chăng
nữa hành giả cũng phải cố gắng tập trung tâm vào đề mục vật lý này, Parikammanimitta
(chuẩn bị tướng). Như đã giải
thích ở trên, có khi hành giả phải mất vài ngày, vài tháng hoặc vài năm
mới có thể mường tượng được hay hình dung được đề mục mà không cần đến chuẩn bị tướng
(tức đề mục vật lý).
Ðức Phật khuyên
chúng ta không nên quá căng thẳng khi làm
bất kỳ điều gì. Hành giả không nên
cưỡng ép tâm lực mình. Hành giả phải xem mình như thể đang trong cuộc chơi, thưởng thức nó với tâm
hân hoan vui vẻ, cũng như những thanh thiếu niên đang thích thú xem một màn trình diễn
trong xi nê vậy. Nhưng đồng thời Ðức Phật cũng
khuyên chúng ta không nên để tâm lơi lỏng.
Chúng ta hành thiền để giúp đỡ tha
nhân, để đóng góp hạnh phúc của mình vào hạnh phúc chung của mọi
người. Hành thiền với tinh thần như vậy, ngay cả việc quét nhà cũng trở
nên thú vị. Trong việc hành thiền, hành giả cũng phải có thái độ như trong lúc đang chơi, có vậy việc hành
mới trở nên thú vị, bởi vì hành thiền là một việc làm rất tốt và là một điều cần thiết phải làm để trau dồi bản tâm. Trừ khi chúng ta giải
toả được tâm mình như vậy, bằng không chúng ta chẳng thể nào thực
hiện nổi những chặng đầu của pháp
(Dhamma), nói chi đến việc chứng ngộ Niết
Bàn, mục tiêu cao tột của đạo Phật.
Vì vậy, hành giả tập trung trên đề mục hay "chuẩn bị tướng" cho đến khi có
thể mường tượng ra nó mà không cần đề
mục. Hình ảnh mường tượng này trong Pàli gọi là "Uggahanimitta"
(sơ tướng hay thô ảnh tướng tợ), có thể nói đó là bản sao chính xác của đề mục được thấy. Khi hành giả đến giai đoạn này thì không đòi hỏi phải có đề mục vật lý nữa. Kế đó, hành giả
tiếp tục tập trung vào đề mục mường tượng. Sự
khác biệt giữa đề mục thứ nhất và đề
mục thứ hai là: đề mục đầu tiên
là một đề mục vật lý, đề mục thứ hai thuộc
tâm (do mường tượng mà ra). Tuy nhiên nó chính xác cùng một đề mục. Hành giả nỗ lực tập trung vào đề mục mường tượng này cho đến khi nó trở nên sáng chói giống như
một ngôi sao. Sự khác biệt giữa giai đoạn hai
và ba này là: trong giai đoạn hai hành
giả thấy đề mục với những thô tướng, nhưng
trong giai đoạn ba hoàn toàn không có các thô tướng này nữa, mà nó
tựa như một ngôi sao đang chiếu sáng. Lúc này đề mục đã
được khái niệm hoá và gọi là Patibhàganimitta (quang tướng hay
quang ảnh trong sáng). Hành giả đắc cận
định và tạm thời vượt qua năm triền
cái (Nivarana); đó là:
Tham Dục, Sân Hận, Hôn Trầm - Thuỵ Miên, Trạo Cử - Phóng Dật và Nghi Cái. Sự tập trung hay định tâm của hành
giả dần dần trở nên tăng tiến đến mức sắp đạt
đến Jhàna (thiền). Vào giai
đoạn này hành giả được bảo là đã có An Chỉ Ðịnh (Appanàsamàdhi).
Cuối cùng, hành giả từng bước một đắc năm cấp
độ thiền (từ sơ thiền đến ngũ
thiền) và chính khi hành giả đạt
đến ngũ thiền là lúc hành giả có thể dễ dàng phát triển năm
năng lực siêu nhiên (các loại thần thông như: thiên nhãn thông,
thiên nhĩ thông, túc mạng thông, tha tâm thông, và biến hoá thông).
Nhờ những thần thông này hành giả có thể thấy những điều mà bằng mắt thường không thể thấy được
-- dù cho vật ấy ở xa bao nhiêu,
không có chướng ngại nào có thể ngăn cản được
cái thấy của hành giả. Hành giả có thể thấy xuyên qua núi non, đến những nơi xa xăm nhất mà không bị
chướng ngại vật nào ngăn cách. Ngay cả đến ngày
nay ở Ấn Ðộ cũng có những vị Yogis đắc các
pháp thần thông này, vì việc hành thiền định không nhất thiết chỉ giới hạn trong đạo
Phật mà Ấn giáo (Hindus) cũng hành như vậy. Trong đạo Phật việc hành thiền
(Jhàna) là một trợ lực rất lớn giúp chứng ngộ Niết Bàn. Những người đã đạt
đến mức độ cao như ngũ thiền này, tâm họ được tinh lọc rất cao và điều này giúp họ dễ dàng đạt đến các cấp độ phát triển tâm siêu
thế (Lokuttara). Tuy nhiên, ở giai
đoạn ngũ thiền hành giả cũng không hoàn toàn thoát khỏi những
khuynh hướng bất thiện - lý do là vì Ðịnh, như đã đề cập
ở trên, chỉ có thể vượt qua cấp độ
phiền não thứ hai một cách tạm thời. Vì vẫn còn cấp độ phiền não thứ nhất (tức tuỳ miên
phiền não) chưa trừ khử nên những tham dục đã được
ức chế bằng Ðịnh chắc chắn sẽ khởi dậy lại nếu gặp điều kiện. Trong Anh ngữ, năm năng lực siêu
nhiên hay thần thông này đôi khi còn
gọi là năng lực tàng ẩn hay bí mật.
Tuy nhiên, trong đạo Phật năm năng lực này
không thể gọi là những năng lực bí mật được,
vì mọi người đều có thể đạt được nếu
họ chịu khó hành thiền định.
Giới làm cho người ta cao quý trong lời nói và việc làm, Ðịnh kiểm soát
tâm làm cho vị ấy an tịnh, bình tĩnh và kiên
định. Tuệ hay tuệ giác, giai đoạn tu tập thứ ba và cũng là giai đoạn cuối cùng, giúp cho hành giả
thắng phục hoàn toàn mọi phiền não. Như một cái cây đã bị triệt ở gốc chắc chắn sẽ không
còn mọc lại, cũng vậy, các phiền não do Tuệ (Pannà) trừ diệt sẽ
không bao giờ sanh khởi nữa. Hành giả khi đã đạt đến giai đoạn thứ ba trên đạo lộ Giải thoát, cố gắng hiểu rõ
thực chất của tự ngã, cũng như thực chất của các pháp thế gian nói chung.
Giờ đây với cái tâm đã tịnh hoá cao độ, hành giả bắt đầu liễu tri rằng không có nguồn gốc của cái
Ta hay tính đồng nhất khăng khăng của một "bản ngã" cả trong
các hiện tượng nội giới và ngoại giới. Vị ấy nhận ra rằng cả thân và tâm,
những thứ cấu tạo nên cá thể vị ấy, đều nằm
trong trạng thái trôi chảy và biến dịch không ngừng, và rằng các
pháp hữu vi đều vô thường (Anicca),
phải chịu khổ đau (Dukkha), và
không có tự ngã (Anatta). Ðối với vị ấy, lúc đó tri kiến hiểu biết phát sinh lên
rằng mọi hình thức lạc thú của đời thường chỉ
là đầu mối đưa đến khổ đau, và
rằng mọi thứ nằm trong trạng thái biến dịch chắc chắn không thể là cội
nguồn hạnh phúc thường hằng và thực sự được.
Sau đó, hành giả tập trung tâm vào
ba đặc tánh thế gian, đó là: vô
thường, khổ và vô ngã. Không luyến ái cũng không chán ghét đối với các pháp thế gian; hành giả
tiếp tục một cách kiên trì, phát triển tuệ giác đối với cả hiện tượng nội và ngoại
giới cho tới khi loại trừ được ba hạ phần
kiết sử, đó là: Thân kiến = Ngũ uẩn tà kiến (Sakkàya ditthi),
Hoài nghi (Vicikicchà) và Giới cấm thủ (Sìlabbata paràmàsa)
chỉ khi nào hành giả thủ tiêu tận gốc ba kiết sử này thì hành giả mới
chứng ngộ Niết Bàn, mục tiêu tối hậu của mình trong lần đầu tiên. Vào giai đoạn này hành giả được gọi là vị Tu Ðà Hoàn
(Sotàpana), tức là người đã bước
vào dòng (Nhập Lưu), dòng ở đây nghĩa
là đạo lộ dẫn đến Niết Bàn. Ðức
Phật đã mô tả giai đoạn này như sau: Ðắc quả Tu Ðà Hoàn, Hình ảnh biểu tượng một người đã đạt đến tầng thánh thứ nhất được ví như người
bước vào dòng (Thánh) bởi vì, cũng như nước sống không bao
giờ chảy ngược, mà đều đặn chảy một cách chắc
chắn và hiển nhiên hướng ra đại dương.
Cũng vậy, vị hành giả sẽ chắc chắn và nhanh chóng đạt đến sự giác ngộ cuối cùng của
mình. Tuy nhiên, vì hành giả chưa diệt trừ bảy kiết sử còn lại nên có thể
phải tái sanh tối đa là bảy lần nữa
trong cõi dục. Khi hành giả phát triển tuệ giác thâm sâu hơn và làm yếu đi hai kiết sử nữa, đó là: Dục Ái
(Kàmaràga) và Sân (Patigha), hành giả trở thành một vị Tư Ðà
Hàm (Sakadàgàni), còn gọi là bậc Nhất Lai. Sở dĩ được gọi như vậy là vì hành giả còn
tái sanh trong cõi dục (Kàmaloka) chỉ một lần duy nhất nếu như hành
giả vẫn chưa đắc giải thoát cuối cùng
trong kiếp sống hiện tại này. Tầng thánh thứ ba là A Na Hàm (Anàgàmi), Bất Lai Thánh Giả,
người đã hoàn toàn cắt đứt hai kiết sử (Dục Ái và Sân)
ở trên. Hành giả không còn tái sanh trong thế gian này hay bất kỳ cảnh
giới nào trong dục giới. Tuy nhiên, nếu hành giả vẫn chưa đạt đến giác ngộ cuối cùng trong kiếp
này thì vào lúc mệnh chung, chắc chắn sẽ tái sanh nơi một trong những cảnh
giới thích hợp và cao hơn, từ đó hành
giả sẽ nhập Niết Bàn luôn. Giai đoạn thứ tư là tầng thánh A La
Hán (Arahat),
bậc đã tiêu trừ năm
thượng phần kiết sử là: Ái trong cõi sắc giới (Rùpà - ràga);
Ái trong cõi vô sắc (Arùpa - ràga), Ngã Mạn (Màna), Phóng
Dật (Uddhacca) và Vô Minh (Avijjà). Lúc đó hành giả biết rõ rằng sanh đã tận, phạm hạnh đã thành,
điều cần làm đã làm xong, đây là sự an lạc cao quý nhất, bậc A
la Hán vượt lên trên các cõi giới, chứng ngộ hạnh phúc Niết Bàn - một loại
hạnh phúc bất khả thuyết. -ooOoo-
Ðầu trang |
Mục lục |
01 |
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 | 18 |
19 |
20 | Chân thành cám ơn Tỳ kheo Pháp
Thông đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 08-2002) Xem:
Nguyên tác Anh ngữ [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Đại
Trưởng Lão U
Thittila
Tỳ kheo Pháp
Thông dịch
Venerable Sayadaw Ashin U Thittila
Vâng làm mọi điều thiện
Thanh tịnh tâm giải thoát
Ðây lời chư Phật dạy" (Pháp Cú. 183)
Hơn tái sanh thiên giới
Hơn quyền lực thế gian
Hơn chuyển luân thánh vương. (Pháp Cú, 178)
21 |
22 |
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37
updated: 16-08-2002