BuddhaSasana Home Page Phật Pháp Giảng
Giải Nguyên tác: "Essential
Themes of Buddhist Lectures", Bài 17: TÂM TỪ TRONG ÐẠO PHẬT Tâm từ (Mettà) là một nhu cầu cấp thiết
của thế giới ngày nay. Thực vậy, nó là một đòi
hỏi to lớn hơn bao giờ hết từ trước đến nay.
Như chúng ta biết, thế giới hiện nay đã có
đủ vật chất và tiền bạc, chúng ta cũng
biết rằng hiện nay có rất nhiều nhà trí thức cấp tiến, các nhà văn,
triết gia, tâm lý gia, khoa học gia lỗi lạc. Ngoài ra, chúng ta còn
có các nhà hoạt động tôn giáo, các vị đứng
đầu về luật pháp, đạo đức và tôn giáo v.v.... Mặc dù, có những con
người tài hoa xuất chúng như vậy, nhưng thế gian này vẫn không sao có
được một nền hoà bình và hạnh phúc
thực sự. Ðiều đó chứng tỏ rằng còn có
một cái gì đó chúng ta đang thiếu. Cái chúng
ta đang thiếu đó là Mettà (tâm từ). Mettà là một từ Pàli đã
được người ta dịch sang Anh ngữ là
"Love" (tình thương). Khi bạn dùng từ "Love" bạn
đã có những ý niệm hoàn toàn khác
trong sự giải thích từ này, và dĩ nhiên là bạn có thể muốn nói
đến những gì
đó khác hơn, bởi vì
đó là một từ
đã bị sử dụng một cách lỏng lẻo và
trong một vài trường hợp nó còn bị lạm dụng hay dùng sai cả ý nghĩa. Chính
vì thế khi bạn nói về tình thương (Love), người ta sẽ có một ý niệm
khác. Vì vậy chúng ta dùng từ Pàli "Mettà"
để nói về lòng từ - không phải là loại
tình thương uỷ mị theo xúc cảm, nhục dục và thường tình. Như mọi người
biết, từ "tình thương" (Love) đã
được định nghĩa rất nhiều cách trong Anh ngữ,
tuỳ theo quan niệm trong tâm của mỗi người thuộc các tôn giáo khác nhau.
Chẳng hạn, trong một cuốn sách nhỏ vừa mới xuất bản mang tựa
đề "Love" (tình thương)
mà một người bạn đã tặng cho bần tăng
để nghiên cứu, và nhân đây bần tăng
cũng muốn phê bình một chút về cuốn sách này. Về các quan niệm
đặc biệt khác trong cuốn sách bần tăng sẽ
không đề cập đến, mà chỉ muốn trình bày cho quý vị thấy rõ nó khác
biệt như thế nào so với Mettà - một định
nghĩa mà từ "Love" (tình thương) có thể
đã dùng. Tác giả cuốn sách là giáo sư
của một bộ môn tín ngưỡng hữu thần nào đó rất
đáng kính. Theo định nghĩa của ông về "Mettà", ở
đây ông lại dùng từ Pàli của
đạo Phật "Tình thương (Love) là
Thượng Ðế, tình thương tự nó phát ra trong bất kỳ sự sáng tạo nào của
Thượng Ðế và con người là tối thượng" (Love is God. Love emanates itself
in any of the creations of god. Man is fore most). Bần tăng
xin phép được trích đọc một đoạn nói về "tình thương"
đối với loài vật trong cuốn sách này:
"Con người đòi hỏi phải có sinh
lực, sức mạnh và sinh sôi nảy nở để phục vụ
Thượng Ðế... để bảo vệ con người và
các loài khác cũng như để kiểm soát thế gian
này một cách hiệu quả. Muốn được khoẻ
mạnh và có năng lực con người cần phải
ăn nhưng thực phẩm bổ dưỡng và vì lý do này mà Thượng Ðế
đã chỉ thị cho con người giết và
ăn thịt.. .bò, lạc
đà. Con người không
được phép giết các loài thú hoang...
Nếu không, chính họ sẽ trở nên hoang dã theo tiến trình thời gian. Vì thịt
của những loài gia súc được con người ăn, cái
chất thiện của chúng sẽ hoà nhập với linh hồn con người và như vậy
(nguyên văn) nó sẽ gián tiếp được lên
thiêng đàng. Cái giá trị này
đã được
con người chuyển hoá cho nó - một hành
động đầy bi mẫn mà con người biểu lộ với loài vật. Trong cuộc sống,
việc làm như vậy không tội lỗi gì cả".
Không hề có ý bất kính đối với tác giả, sở
dĩ bần Tăng đọc cho mọi người nghe đoạn văn này vì chỉ
để tìm sự so sánh. Tác giả
đã đặt
Mettà (tâm từ) ngang hàng với Love (tình thương) theo
quan niệm của ông. Ðối với người Phật tử chúng ta thì cách nhìn sự vật như
vậy khá ngộ nghĩnh. Ý niệm về tâm từ của
đạo Phật là như thế nào? Mettà
đã được
các nhà phiên dịch ngày nay dịch sang tiếng Anh là "có khuynh
hướng rộng lượng, từ ái, ban rải tình thương
đến tha nhân". Tuy nhiên, theo lời dạy của Ðức Phật mettà mang
một ý nghĩa sâu xa hơn - một sự bao hàm rộng lớn hơn so với
định nghĩa này rất nhiều. Tâm từ có ý
nghĩa nhiều hơn là nhân ái, vô hại (Ahimïsa) lòng trắc ẩn. Ở
đây cũng nên
đề cập thêm một
điểm nữa là: theo Thánh Kinh Thiên
Chúa "thiện tâm" (good will)
được xem là rất tốt. Thế nhưng chúng ta nhớ bức thông
điệp thiện tâm mà các thiên thần
truyền rao khi Chúa Con giáng sinh. Thánh kinh nói, các thiên thần
đã truyền rao Bức Thông Ðiệp Thiện Tâm
cho thế gian "Bình an dưới thế cho người thiện tâm" (Peace on
earth to men of good will). Khi đọc kỹ
bức thông điệp này chúng ta nhận ra rằng các Thiên Thần
đem sự bình an
đến trần thế chỉ cho những người có thiện tâm
thôi, chứ không phải cho tất cả mọi người.
Ðối với đạo Phật, Mettà (tâm từ)
được nhấn mạnh, nó mang ý nghĩa sâu xa
hơn là thiện tâm. Cũng như sự Vô Hại là nguyên tắc
đạo đức vô cùng to lớn và rất tốt, thế
nhưng nó chỉ là phương diện tiêu cực. Theo lời dạy của Ðức Phật thì Tâm Từ
có hai phương diện. Một là tiêu cực, đó là
vô sân (Adosa) theo giải thích trong Vi Diệu Pháp;
đây cũng là một sự giải thích về Mettà
nhưng trên phương diện thụ động, nó mang ý
nghĩa "vắng mặt sân hận và thù nghịch". Mặc dù vắng mặt sân
hận là một điều rất quý, thế nhưng nó không
đủ tốt nếu không nhấn mạnh đến khía cạnh tích cực của nó - đó là từ
ái; không làm điều ác là tốt nhưng
đó chỉ là mặt thụ
động - hành thiện là mặt tích cực. Tâm
từ (Mettà) cũng có phương diện tích cực và năng
động của nó vậy.
Tình thương (Love) là gì? Tình thương này cũng
đã được
tự điển Oxford định nghĩa. Theo Oxford thì Love có nghĩa "sự
trìu mến nồng nàn, luyến ái, nhiệt tâm có tính trìu mến v.v..." những
từ này được xem là
đồng nghĩa với tình thương và chúng
hoàn toàn liên quan đến thứ tình cảm
thế gian uỷ mỵ. Vì vậy, Mettà không có từ tương
đương hoàn chỉnh trong Anh ngữ bởi vì
Mettà (tâm từ) mang ý nghĩa cao cả hơn sự trìu mến thông tục - tức
sự trìu mến nồng nàn. Chữ Pàli Mettà dịch nghĩa
đen là: "tình thân hữu"
(Friendliness) - cũng là một loại tình thương nhưng không có ước muốn
chiếm hữu mà chỉ ước mong giúp đỡ, hy sinh
lợi ích cá nhân cho sự thịnh vượng và hạnh phúc chung của nhân
loại. Tình thương này không mang tính chọn lựa hay loại trừ nào cả. Nếu
bạn chọn một số người tốt và loại trừ một số người khó ưa, như vậy là bạn
đã không nắm bắt rõ ý nghĩa của Mettà
(tâm từ) này. Tâm từ không phải là một cảm tình huynh
đệ, mà là một nguyên tắc
đạo đức cho chúng ta thực hành. Nó
cũng không chỉ đơn thuần là ý tưởng
quảng đại mà là những việc làm thể
hiện lòng nhân từ, là một sứ mạng tích cực vì lợi ích của một người và mọi
người. Một đề tài - không phải
để nói suông về mà phải sống với - áp
dụng nó trong cuộc sống của chúng ta - làm cho nó thấm nhuần trong bản
thân chúng ta. Chỉ khi đó, một nguồn sinh lực
mới thấm nhuần đến mọi chúng sinh, không loại trừ bất cứ ai, với những tư
duy sáng tạo và năng động của tâm từ,
một khi những tư duy này có đủ cường
độ, tự động chánh hạnh sẽ theo sau.
Người ta thường đưa ra những ý niệm để
phản bác lại những quan niệm khác. Người Phật tử chúng ta không cần đến
những quan niệm mới, vì chúng ta đã
có quá đủ trong giáo huấn của Ðức
Phật. Phát xuấât từ Tứ Vô Lượng Tâm (Bràhma Vihàra) Mettà (tâm
từ) này là một trong bốn phạm trú đó, đủ
khả năng để sáng tạo những điều cao thượng, những điều kỳ diệu, để kiến
tạo an lạc và hạnh phúc ngay trong cuộc sống gia
đình, xã hội và cả thế gian này. Mettà
- lòng từ trong sạch - bao hàm hết thảy chúng sinh ở khắp mọi nơi, hoặc
trên đất liền, trên bầu trời hay trên
thiên giới. Nó cũng bao trùm mọi chúng sanh không phân biệt cao hay thấp;
bởi vì người nghèo, người hạ tiện, người ác, người ngu dốt là những người
cần đến tâm từ này nhất. Vì trong lòng
họ tâm từ đã khô héo vì thiếu tình
thương ấm áp và tình thân thiện - Tâm từ này hợp với họ như dòng suối yếu
ớt chảy vào bãi sa mạc cằn khô. Lòng từ này bao trùm cả người mình thương
hay không thương, người tốt hay xấu, tất cả
đều được chia sẻ như nhau cả.
Bạn có thể hỏi: "Chúng ta phải thương cả những người ngu ngốc luôn
sao?" - thật là điên rồ! Ðó là một
câu hỏi rất phổ biến, được hỏi tại những nước
Tây phương "Chúng ta phải có lòng từ với rắn rít sao?" phụ
nữ Châu Âu cũng đặt vấn đề "Chúng
ta phải có lòng từ cả với chuột nữa sao?" vì họ không thích loài
chuột. Dù thế nào chăng nữa chúng ta cũng
không nên ghét bỏ một người nào cả, cũng như vị bác sĩ không bao
giờ ghét bệnh nhân, mà phận sự của ông ta là
để chặn đứng, để loại trừ căn bệnh mà người bệnh
đang phải đau đớn vì nó. Một lương y
có phận sự chữa trị cho con người, không kể người
đó là ai; lòng từ cũng vậy, phải bao
trùm mọi chúng sanh không phân biệt. Mettà hoàn toàn khác hẳn với sự thèm
khát nhục dục mà thế giới ngày nay đã
xem nó như là tình thương (Love), cũng như nó
đã được
ngưỡng mộ và nói đến như một loại cảm
xúc trong tình thương. Tâm từ này cao cả hơn rất nhiều; thực sự như
vậy, nó là một hình thức tột đỉnh của tình
thương. Nó vượt hẳn cái loại tình thương đầy
dục tính và uỷ mị. Về hình thức bề ngoài thì tình thương uỷ mị xem ra rất ngọt ngào, tuy
nhiên nó chẳng khác nào ngọn lửa - thực sự nó còn tồi tệ hơn lửa nữa. Một
khi nó sinh ra, nó phát triển rất nhanh, có lúc nó ngọt ngào như những
bông hoa và rồi có lúc nó lại đốt cháy, thiêu
rụi người sở hữu nó, để lại những vết thương
lòng và những vết hằn vô cùng xấu xí. Ðó là lý do tại sao ở Miến
Ðiện người ta thường nói "Achitkyi, amyetky" (thương nhau lắm
thì cắn nhau đau), bạn càng giàu
tình cảm, bạn càng nhiều thù hận và khổ đau;
bởi vì tình cảm cũng giống như ngọn lửa, rất dễ
đốt cháy mọi thứ. Ngược lại, Tâm Từ
(Mettà) có một ảnh hưởng mát mẻ giống như sự xúc chạm mềm mại của
một bàn tay dịu dàng - mềm mại nhưng rất kiên quyết không
đổi thay lòng trắc ẩn của nó. Chính vì
vậy mà Tâm Từ chỉ tạo ra một bầu không khí an lạc và dễ chịu mà thôi. Khổ
đau vì những người mình thương mến
không phải là dấu hiệu của lòng từ này. Mettà là sức mạnh, vì nó là một
loại tâm từ thuần khiết và tạo ra sức mạnh, chứ không phải là sự yếu
đuối, uỷ mị.
Bần Tăng xin được đọc, không phải bằng Pàli
mà là một đoạn dịch từ kinh Từ Bi
(Mettà sutta), một bài kinh rất có giá trị mà chúng ta thường nghe chư
tăng tụng bằng tiếng Pàli trong hầu
hết các dịp lễ. Ðoạn kinh này đưa ra một điển hình
cho chúng ta thấy Tâm Từ thực sự là gì. Tuy
đây không phải là một thí dụ hoàn chỉnh, nhưng vì muốn cụ thể hoá
cho mọi người dễ cảm nhận nên Ðức Phật đã
chọn tình thương của một bà mẹ. Trong kinh Từ Bi ngài dạy: "Ví như người mẹ hiền,
Ðây là mẫu mực Ðức Phật đã chống
đỡ thế gian này. Nó chính là lý tưởng
sống mà con người cần thể hiện đối với con
người - nghĩa là phải giúp đỡ lẫn
nhau, chia sẻ gánh nặng cho nhau. Ðây cũng là lời kêu gọi thức tỉnh
mọi con tim, là sự phục vụ đối vơi mọi người
bằng hình thức tình thương của bà mẹ. Phải chăng
người mẹ chỉ toả rạng tình thương của mình trong việc nuôi dưỡng
con cái không thôi? Liệu có người nào có thể bộc lộ
được tình thương bất tử như của bà mẹ
đối với con mình, tình thương mà bà
luôn luôn nuôi dưỡng trong lòng này không? Nếu bạn suy gẫm về tình mẫu tử
này, bạn sẽ thấy rằng nó thật là bao la. Chẳng thế mà trong kinh Pàli nó
được gọi là "Appamànà" nghĩa là
nó không có giới hạn nào cả. Tình thương của bà mẹ đối với đứa con duy
nhất của mình là một ví dụ được
Ðức Phật chọn để so sánh với tâm từ. Hãy
hình dung tình thương của bà mẹ xem; khi con
đói bà thận trọng cho con ăn trước khi
nó đòi. Khi con gặp hiểm nguy, bà dám hy sinh cả sinh mạng
để bảo vệ con. Thế đó, bà
đã giúp con mình trong mọi phương
diện. Chính vì vậy mà Ðức Phật mong mỏi chúng ta thương yêu mọi người như
tình mẫu tử. Nếu chúng ta có thể làm được
điều này dù chỉ ở mức độ nào
đó thôi, Bần Tăng nghĩ thế gian này sẽ
là một nơi khác - hạnh phúc hơn và bình an hơn. Mặc dù chúng ta nói rất nhiều về tình thương và lặp
đi lặp lại cái công thức "Sabbe
sattà averà hontu, avyàpàjjhà hontu v.v..." (cầu cho tất cả chúng
sinh thoát khỏi nguy hiểm; cầu cho tất cả chúng sinh không còn bị áp bức
v.v...) nếu tâm ta không thực sự từ bi thì làm sao có thể mang lại kết
quả. Ðoạn kinh này không phải để tụng đọc
suông. Ðức Phật không yêu cầu chúng ta phải học thuộc lòng những
lời của ngài chỉ để tụng suông như vậy. Về
bản chất chúng chỉ là những toa thuốc. Vị lương y có thể chẩn bệnh,
tìm ra nguyên nhân căn bệnh cho bạn và
kê toa thuốc theo những gì ông ta tìm ra đó.
Thế nhưng, liệu bệnh của bạn có được chữa lành chỉ
đơn thuần bằng cách đọc đi đọc lại cái toa
thuốc đó không? Cũng như bạn có thể có một phương thức làm thế nào
để nấu các món ăn, chẳng hạn như làm
sao để nấu món cà ri cho thật ngon.
Bạn có thể đọc đi đọc lại cái công thức đó,
nhưng chắc chắn sẽ không có món cà ri
được.
Vì vậy, tụng đọc là
điều không thực tế. Lý thuyết là tốt
nhưng vẫn không đủ tốt, vì nó không
phải là cứu cánh của một vấn đề, nó chỉ là
bước khởi đầu thôi. Cũng thế, tụng đọc Từ Bi
kinh là tốt, nhưng Ðức Phật không có ý
định thuyết kinh đó để chúng ta tụng suông, Ngài khuyến khích chúng
ta nên theo những lời chỉ dẫn của ngài trong kinh
để hiểu rõ tâm từ là gì, Mettà là
trạng thái tâm đẹp nhất trên thế gian.
Vì vậy, lời khuyên của Bần Tăng là,
chúng ta không nên tự mãn với việc chỉ đọc
tụng kinh điển mà thôi, mà phải cố gắng hiểu rõ ý nghĩa của kinh
trên quan điểm thực hành và "trở
thành một với kinh" - đó là làm
cho nó hoà nhập trong cuộc sống của chúng ta, vấn
đề là ở chỗ
đó. Thiền không phải là chỉ
đơn thuần tư duy đến nó, mà phải thực
hành Mettà trong đời sống hàng ngày
của chúng ta. Bần Tăng mong quý vị hành
thiền một chút về loại thiền tâm từ này. Ðể giúp quý vị làm quen với việc
hành thiền, bần tăng sẽ chỉ cho quý vị một
pháp hành đơn giản mà quý vị có
thể hành ở bất cứ nơi nào cũng được.
Bây giờ, trở lại với bức thông điệp của tình
thương. Chúng ta được yêu cầu là phải
có lòng từ đối với tất cả chúng sanh như tình
thương của người mẹ đối với đứa con độc nhất
của mình. Vì thế cho nên, tâm từ phải
đi đôi với sự sẵn lòng giúp đỡ, với
thiện chí và một tinh thần hy sinh cao cả vì lợi ích của người
khác. Trong Trường Bộ Kinh (Dìgha Nikàya), Ðức Phật dạy rằng hầu hết
mọi đức hạnh như lòng vị tha, trắc ẩn
và từ ái đều bao gồm trong Mettà
(tâm từ) này. Nếu như chúng ta thực sự có lòng từ, chúng ta có thể có
hầu hết các đức hạnh này; chúng ta có
thể ban rải một sự an lạc cao quý và rộng khắp. Chính tâm từ này
đã cố gắng tháo bỏ mọi chướng ngại ngăn
cách giữa chúng sinh này với chúng sinh khác. Một số người có thể hoài nghi không hiểu tâm từ này có thể làm nền tảng
vững chắc cho chính sách hoà giải hay không? Nhiều người còn xem tâm từ
như một đức tính của phái nữ. Họ nói đó là
một đức hạnh mềm mỏng, nhu mì của phái
nữ. Nhưng tâm từ thực sự là một sức mạnh năng
động của nam giới, nó có thể phá bỏ mọi chướng ngại và có tính cách
xây dựng. Ai là người đã xây dựng
được những Ðế quốc bền vững nhất? Ðó
có phải là Alexander đại đế, là Cesar
hay là Ðức Phật? Chúng ta thường đề cập đến
đế quốc La Mã, đế quốc Pháp, đế quốc
Nga. Thử hỏi những đế quốc đó hiện giờ nơi nao? Những đế quốc đó chỉ kéo dài
trong nhất thời vì chúng được dựa căn bản trên
thù hận, ngã mạn và lừa dối. Chúng không dựa trên từ bi. Bất cứ chính sách
nào mà người ta sử dụng nếu không dựa trên nguyên tắc từ bi thì chắc chắn
nó không thể tồn tại lâu dài được.
Liên hệ đến điều này, Bần Tăng
muốn dùng một hình ảnh để thí dụ. Cuộc
sống giống như một bánh xe to lớn, chuyển động liên tục. Bánh xe
lớn này có vô số những bánh xe nhỏ trong đó và
mỗi bánh xe nhỏ có những kiểu mẫu riêng của nó. Bánh xe lớn và các bánh xe
nhỏ - hay vũ trụ rộng lớn và các cá nhân sống trong
đó liên kết chặt chẽ với nhau
đến độ chúng ta phải tuỳ thuộc vào
nhau để phục vụ, để có được hạnh phúc và
để phát triển. Chính vì vậy, bổn phận
của chúng ta là phải khai thác triệt để những
cái hay của mình - cái hay, cái thiện
đó phải hài hoà với khuôn mẫu của thế gian. Muốn cho tất cả các
bánh xe xoay chuyển hài hoà với nhau, cái tốt
đẹp nhất trong mỗi người chúng ta cần phải được phát huy. Chẳng hạn như
trong một chiếc xe, muốn cho nó chạy tốt - sử dụng được thì mọi cơ
phận của nó phải được hoàn chỉnh. Nếu
chúng ta muốn tạo lập một gia đình
hạnh phúc, an vui, một mái nhà ấm cúng hoà thuận, thì mọi người trong căn
nhà đó hay ít nhất cũng là
đa số những thành viên của gia
đình đó
cần phải hoà hợp với nhau. Nếu bản thân chúng ta muốn
đóng góp vào sự hài hoà
đó, thì các
đức tính tốt của ta cũng phải được phát triển
sao cho phù hợp với an vui và hạnh phúc của mọi người. Ðiều này chúng ta có thể làm được ngay tại
đây và bây giờ bằng cách thực hiện những phận sự hàng ngày, hàng
giờ của mình với từ ái, nhã nhặn và chân thực. Cái lý tưởng mà Ðức Phật
đặt ra trước chúng ta là sự hỗ tương
phục vụ - con người sống cần có nhau, giúp đỡ
lẫn nhau, chia sẻ những khó khăn cho nhau. Trong Nikaya (Kinh
Tạng) có đề cập đến ba loại phận sự mà
chúng ta phải thực hiện - hay còn gọi là ba mẫu mực cư xử dành cho một vị
Phật. Tiếng Pàli là: "Buddhatta Cariyà, nàtattha cariyà, Lokattha
cariyà" (phận sự nỗ lực để thành
đạt Phật quả, làm lợi ích cho thân
quyến và bè bạn, làm lợi ích cho toàn thế gian). Tương tự như vậy, mỗi
chúng ta cũng có ba mẫu mực phải hành xử - "Atta - Cariyà", nghĩa
là nỗ lực để phát triển tự thân sao cho đạt
được hạnh phúc, tự tu và tự ngộ. Mẫu mực cư xử thứ hai là
"Nàtattha Cariyà" là làm lợi ích cho bà con thân quyến và bè bạn. Thứ
ba là làm lợi ích cho toàn thế gian không phân biệt giai cấp, màu da hay
tín ngưỡng - "Lokattha Cariyà". Ðức Phật yêu cầu chúng ta thực hành
ba loại hành xử này. Ðạo Phật là một con đường nhằm phát triển
tự thân - là sự giáo dục tâm hồn. Vì vậy công việc của chúng ta là
phải thực hành ba nguyên tắc Ðức Phật đã
đề ra ở trên
để tinh lọc bản chất của chúng ta, để nâng mình
lên bình diện của một con người. Giáo dục hiện đại như quý vị đã
biết, là một nền giáo dục chỉ chú trọng đến
các phương tiện kiếm ra tiền, làm thế nào
để sắp đặt và kiểm soát nó. Trong khi
đạo Phật nhằm vào việc giáo dục, dạy
dỗ tâm. Vì thế cho nên, nếu tôn giáo chỉ được
đón nhận như một niềm tin có tính tri thức trong tâm thôi thì không
có sức mạnh nào cả. Nếu tôn giáo không có thực hành, chúng ta không thể
tạo được chút hiểu quả nào. Trong Pháp
Cú kinh (Dhammapàda) Ðức Phật có dạy: "Như bông hoa tươi đẹp
Chính vì vậy hành động chứ không phải suy
đoán; thực hành chứ không phải lý thuyết mới là vấn
đề. Cũng theo Dhammapàda thì "ý chí"
nếu không có hành động tuơng xứng kèm
theo, không có gì đáng kể cả, do vậy cái
chính của đạo Phật là phải thực hành những lời dạy cao quý này. Liên quan đến điểm này, bần tăng
cũng muốn nói thêm rằng tâm từ (Mettà) - lòng từ bao la này -
thường có mặt khi có sự liên hệ đến người
khác, nhưng trên thực tế thì từ ái với chính mình phải có trước. Nó
không phải là một tình thương vị kỷ, mà là tình thương dành cho bản thân -
một loại tình thương thuần khiết - đến trước.
Khi chúng ta hành thiền từ ái, chúng ta rải tâm từ
đến bản thân mình trước (Aham avero
homi v.v..) (cầu mong cho tôi thoát khỏi mọi
điều tai hại). Nhờ có lòng từ
thuần khiết (Mettà) như chúng ta đã
định nghĩa, với chính mình như vậy;
những khuynh hướng ích kỷ, thù hận, nóng nảy sẽ bị tiêu trừ. Vì vậy, trừ
khi bản thân chúng ta có tâm từ trong người, bằng không chúng ta chẳng thế
nào chia sẻ với ai được, chúng ta không thể
rải hay gởi gấm tâm từ này đến người
khác được.
Giả sử bạn không có tiền trong túi thì làm sao bạn có thể cho ai
được, dù chỉ là một xu nhỏ thôi? Vì
vậy, thiền từ ái cần phải khởi sự với tự thân trước; bạn có thể nói là tôi
thương bản thân mình được chứ?. Nếu bạn có
thể nói bạn yêu bản thân mình, liệu bạn có thể tự hại mình bằng
cách nuôi dưỡng những ý tưởng thù hận trong tâm không? Nếu bạn thương một
người liệu bạn có hại người đó được không?
Không bao giờ. Thương bản thân mình nghĩa là sống không ích kỷ, thù
hận, nóng nảy v.v.... Vì thế cho nên, để bản
thân chúng ta thoát khỏi những cảm giác không đáng ưa này, chúng ta
phải thương hay có lòng từ với chính mình. Theo Ðức Phật thì trước tiên
hãy thương tự ngã mình, vì đạo Phật luôn luôn
chú trọng đến tinh thần tự giác, chỉ khi nào có tự giác chúng ta
mới làm lợi ích cho tha nhân một cách hiểu quả
được. Chúng ta nói về độ tha hay giác tha,
chính là nói đến việc giúp đỡ cho tha
nhân này; tuy nhiên, như Ðức Phật đã
dạy: "Nếu một người không thể tự độ mình,
họ không thể độ người khác được". "Người trí trước đặt mình Cũng trong kinh Pháp Cú Ðức Phật dạy rằng: "không kẻ thù nào có thể
làm hại con người tồi tệ hơn là chính những ý nghĩ tham ái, sân hận và
ghanh ghét v.v..của họ"..
"Kẻ thù hại kẻ thù Nếu người ta không tìm thấy an lạc trong tự thân, họ không thể nào tìm
nó ở nơi nào khác. Kinh Ðiển cũng thường nói rằng: "Người không tự chế
được mình sẽ không tìm thấy an lạc".
Trong công việc phụng sự xã hội, cái gọi là những người làm công tác xã
hội sẽ không cảm thấy an vui trong khi thi hành những phận sự của họ, nếu
như bản thân họ không an tịnh. Nếu như tự thân họ không an tịnh chắc chắn
họ không thể đem an lạc đến cho mọi người
được. Vì vậy, chúng ta phải được rèn
luyện một cách thích hợp không những về sự tổ chức bên ngoài mà còn cả ở
sự tu dưỡng nội tâm trong chúng ta. Trong trường hợp của rất nhiều người mệnh danh là làm công tác xã hội,
điều thực sự mà họ
đang làm là chỉ dẫn người khác phải
làm những gì giống như những ông chủ vậy, và rồi họ nói rằng: "Chúng
tôi đã cố gắng hết cách, nhưng mọi
người không tỏ thiện chí chấp nhận sự giúp đỡ
của chúng tôi". Thực ra mọi người
đều rất cần sự giúp đỡ, thế nhưng sự giúp đỡ đó phải được thể hiện một
cách ân cần theo nhu cầu mà họ mong
đợi, chứ không phải theo tư ý của người giúp. Muốn được như vậy người phục
vụ xã hội chân chánh phải là một người có lòng từ ái
đối với bản thân mình trước
đã - nghĩa là trong lòng họ phải chứa
đầy tình thương, một tình thương thuần
khiết, không ích kỷ. Chỉ lúc đó họ mới có thể
cảm nhận được hạnh phúc gấp đôi; đó là bản thân họ có lòng yêu
thương trong sạch, chân chánh, cảm thấy hân hoan trong khi giúp người
khác, đồng thời làm cho người khác an
vui. Chúng ta nhớ những mẫu chuyện tiền thân (Jàtaka) của Ðức Phật,
khi còn là một vị Bồ Tát ngài luôn luôn nỗ lực tự hoàn thiện mình bằng
cách giúp đỡ mọi người - sao cho người khác
được an vui, và niềm vui của người khác thúc
đẩy ngài hoàn thiện hơn nữa
để phục vụ.
Lại nữa, nếu một người không thể thành thực với bản thân mình làm sao
họ có thể thành thực với người khác được. Một
bác sĩ không có những kinh nghiệm và phẩm chất theo yêu cầu có thể
cố gắng giúp bệnh nhân, nhưng việc làm của ông ta không chừng chỉ làm hại
thêm cho bệnh nhân. Vì vậy, một người lãnh
đạo của bất kỳ xã hội, chính trị hay tôn giáo, nếu không tu dưỡng
tâm có thể đưa những người theo mình
đi lạc hướng.
Chúng ta quá chú trọng đến việc luyện tập
bề ngoài đến độ quên
đi sự tu tập bên trong, việc tu dưỡng
bản thân mình. Chúng ta thích dạy dỗ kẻ khác và quên việc dạy mình. Chúng
ta có khuynh hướng luôn luôn cho mình là đúng
còn mọi người đều sai. Việc đổ lỗi cho
người khác dường như đã trở thành một
đặc tính chung của mọi người, chẳng hạn khi trễ nải một việc gì,
chúng ta liền đổ thừa hoan cảnh... nào
là vì vợ, vì bạn bè hay một người nào đó
v.v... bần tăng không có ý muốn nói là chúng ta chỉ nên tự trách
mình thôi. Khổng Tử có câu nói rằng: "Kẻ ngu dốt trách cứ người, kẻ có
học tự trách mình, con kẻ hiểu biết không trách ai cả". Thật là một
câu nói rất minh triết. Vấn đề là ở
chỗ "Ðâu là cái sai chứ không phải ai là người sai". Theo nguyên lý của đạo Phật, tự độ mình
là ưu tiên; sự hoàn thiện cá nhân phải được
chú trọng trước nhất, có được như thế thì toàn thể cơ cấu mới hoàn
hảo. Thế giới bên ngoài chính là sự phản ánh bản chất nội tại của chúng
ta. Ðể kết luận bài giảng, bần Tăng mong quý
vị dành ít phút để hành thiền
từ ái, để cho thân, khẩu, ý của chúng ta thấm
nhuần từ bi.
Từ một cái tâm có tu tập này, những ý nghĩ, lời nói và hành
động của chúng ta mới chân chánh và từ
hoà được. Hành thiền thực sự, trước
tiên chúng ta làm tràn ngập chính mình với ý nghĩ từ bi "cầu mong cho
tôi được an vui hạnh phúc". Sau
một lúc chúng ta mở rộng lòng từ đến tất cả
mọi người, nguyện thầm trong tâm "cầu mong cho tất cả chúng sanh
đều được an vui, hạnh phúc". Nghĩ
sao thì cảm nhận như vậy. Chúng ta cũng cố gắng thấy thế gian này
được ngập tràn với lòng từ của chúng
ta, với tâm ước mong mãnh liệt rằng mọi người, mọi vật
đều được an vui, một ước mong như ước mong
của bà mẹ đối với đứa con độc nhất của
mình vậy. Nếu quý vị rải tâm từ này trước khi đi
ngủ, bần tăng cam đoan rằng quý vị sẽ có một giấc ngủ an lành kỳ
diệu. Nếu quý vị có thể duy trì tâm từ này mãi mãi, chắc chắn quý vị sẽ có
một cuộc sống an hoà, hạnh phúc và thành công, mọi người sẽ yêu mến bạn vì
bạn đang từ ái với mọi người. Thế gian cũng
như tấm gương soi, nếu bạn nhìn vào gương với khuôn mặt tươi vui,
bạn sẽ thấy khuôn mặt xinh đẹp tươi vui của mình.
Nếu bạn nhìn với khuôn mặt đưa đám, như người
Anh thường nói, chắc chắn bạn sẽ thấy khuôn mặt vô cùng xấu xí của
mình. Trong hình thức chào hỏi cũng có một câu thành ngữ tương tự "Chào
bạn, thế gian này đối xử với bạn thế nào?"
câu trả lời thường là "Tốt, tôi rất an vui". Nhưng với người
Phật tử, câu trả lời sẽ là "Tốt, thế gian
đối với tôi cũng như tôi đối với thế gian này vậy".
Nếu quý vị xử sự với thế gian một cách hợp lẽ, nhân từ, thế gian cũng
sẽ đối xử lại với bạn nhân từ như vậy. Chúng
ta không nên trông đợi mọi người đối
xử với chúng ta tử tế trước, mà chúng ta cần phải xử sự tốt
đẹp với mọi người trước. Ðó là cách
sống của người Phật tử chân chánh. -ooOoo-
Ðầu trang |
Mục lục |
01 |
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 | 17 |
18 |
19 |
20 | Chân thành cám ơn Tỳ kheo Pháp
Thông đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 08-2002) Xem:
Nguyên tác Anh ngữ [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Đại
Trưởng Lão U
Thittila
Tỳ kheo Pháp
Thông dịch
Venerable Sayadaw Ashin U Thittila
Suốt đời lo che chở
Ðứa con một của mình
Hãy phát tâm vô lượng
Cùng tất cả sinh linh
Từ bi gieo cùng khắp
Cả thế gian khổ hải
Trên dưới và quanh mình
Không hẹp hòi oan trái
Không hờn giận oán thù
Khi đi, đứng, nằm, ngồi
Bao giờ còn thức tỉnh
Giữ niệm từ bi này
Thân tâm thường thanh tịnh
Phạm hạnh chính là đây...... " (V.M dịch).
Có sắc nhưng không hương
Nói hay, làm không được
Kết quả có chi lường" (Pháp Cú, 51)
Vào nếp sống chánh hạnh
Sau ra giáo hoá người
Ắt khỏi bị khiển trách" (Pháp Cú, 158)
Oan gia hại oan gia
Không bằng tâm niệm ác
Do chính ta hại ta" (Pháp Cú, 42)
21 |
22 |
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 |
37
updated: 16-08-2002