BuddhaSasana Home Page Phật Pháp Giảng
Giải Nguyên tác: "Essential
Themes of Buddhist Lectures", Bài 37: MỘT SỐ NÉT SINH HOẠT PHẬT
GIÁO Ở MIẾN ÐIỆN I. Vị trí của người phụ nữ trong Phật giáo Vào những ngày tiền Phật giáo, địa vị
người phụ nữ ở Ấn Ðộ, nói chung rất thấp hèn và không mấy ai trọng
vọng. Con gái chỉ là mối lo cho cha mẹ, vì nó
được coi là điềm xấu và là sư
hổ thẹn cho họ nếu không lấy được chồng cho
con gái; tuy nhiên, nếu có lấy được thì
cha mẹ nhiều khi cũng gần như phá sản bởi phải chi phí quá tốn kém cho lễ
cưới. Món tiền hồi môn mà cha mẹ của cô gái trông
đợi, để mua được cho cô ta một cuộc hôn nhân
ổn thoả, có ý nghĩa rất lớn, và có lẽ
đây cũng là yếu tố chính trong những cuộc hôn nhân có sắp
đặt kiểu như vậy, bất cứ ông chồng tương lai
nào thực sự cũng chỉ kết hôn vì mục
đích lấy được món tiền hồi môn này. Sau cuộc hôn nhân,
đời sống của người vợ dành phần lớn
để hầu hạ chồng, cô ta có rất ít quyền hạn
trong gia đình và không được phép tham
dự trong các hoạt động công cộng. Nếu goá chồng, cô ta phải trở về nhà
ở với cha mẹ, hoặc phải lệ thuộc vào con mình hoàn toàn. Trong suốt kỷ nguyên Phật giáo, tình trạng này
đã thay
đổi, phụ nữ được hưởng nhiều quyền bình
đẳng hơn và
được trọng vọng hơn so với trước đây. Ưu thế
tuyệt đối của nam giới đã bắt đầu phải
nhường bước trước phong trào giải phóng phụ nữ ngày càng tăng.
Ðiều này được thúc đẩy nhanh hơn nhờ
trí thông minh bẩm sinh của phụ nữ, cho đến khi người ta nhận ra rằng họ
đang âm thầm đòi hỏi để được xem là
những sinh vật có lý trí, có trách nhiệm với trí thông minh và ý chí của
mình. Trong việc thực hành những lời dạy của Ðức Phật, nam giới
đã không thể vượt trội hơn như họ
đã từng, trong các lãnh vực khác,
nghĩa là họ không thể sánh được với những khả
năng của phụ nữ về lòng mộ đạo, đức
tánh hy sinh quên mình, lòng can đảm và
sức chịu đựng, mà
điều này
đã được chứng tỏ đều đặn trong cuộc
sống hàng ngày của họ. Thế là họ thôi không còn xem phụ nữ là hạng
thấp kém hoặc là những sinh vật hạ đẳng hơn
họ, ngược lại họ còn trở nên ý thức sâu sắc
được sự giống nhau giữa nam và nữ. Ðức Phật thuyết giảng Giáo Pháp đến cả hai
giới thiện nam và tín nữ, Ngài cũng giảng dạy cho các gia chủ và vợ
của họ. Phụ nữ đã nêu những tấm gương
tốt đẹp trong cách cư xử hàng ngày và
trí thông minh của họ, trong khi nam giới, phần họ cũng cảm kích những lời
dạy của bậc Ðạo Sư trong việc mở rộng lãnh vực hoạt
động của phụ nữ. Như vậy, tình thế
đã thay
đổi, địa vị của người phụ nữ trong xã hội
đã trở thành một
điều gì
đó không những có thể chấp nhận được, mà còn
đáng cho mọi người tôn trọng; cuối cùng
thì phụ nữ được nhìn nhận là có khả năng
làm việc như một lực lượng xây dựng trong xã hội lúc ấy. Từ đó, việc sanh con gái không còn
phải thất vọng nữa, vì con gái không bị khinh miệt và coi như một gánh
nặng trong xã hội. Họ đã có
được nhiều tự do hơn, và
đời sống vợ chồng không còn
đặt ra trước họ như cứu cánh hay mục đích của
cuộc sinh tồn nữa. Nếu không kết hôn, họ không bị xem như đó là một
điều hổ thẹn, và nếu có lấy chồng thì
họ cũng không bị ép buộc theo tục lệ tảo hôn, hoặc bị buộc phải chấp nhận
lấy một người đàn ông theo sự chọn lựa
của cha mẹ như trước đây.
Là một người vợ, phụ nữ không còn đơn điệu
trong những công việc nặng nhọc của tề gia nội trợ, mà họ
đã có những quyền hạn
đáng kể trong gia đình và
được sắp vào hạng vợ như bạn
đời, như người cộng sự và người bảo hộ
của chồng trong các vấn đề liên quan
đến đời sống thế tục và tinh thần; phụ
nữ được xem bình
đẳng với chồng và xứng
đáng được kính trọng. Là một người mẹ,
phụ nữ rõ ràng được kính trọng và nể
vì, địa vị của người mẹ không có ai có thể
xâm phạm được. Là một người goá chồng, phụ nữ có thể tiếp tục bước
thêm bước nữa mà không ái có quyền sỉ nhục, và cũng không bị gán cho
đó là
điềm xấu; họ cũng không còn bị loại ra ngoài trong các buổi lễ lạy
có tính truyền thống gia đình, và
được xem là có khả năng
kế thừa tài sản cũng như quản lý tài sản
đó. Hơn bao giờ hết dưới sự che chở của đạo
phật, phụ nữ là một cá thể có quyền hướng
đạo cuộc đời mình. Dù cho họ là một
phụ nữ không chồng, dù làm vợ hay goá bụa, phụ nữ cũng có những quyền hạn
và bổn phận không chỉ hạn chế trong việc nuôi dạy con cái và trở thành một
phần tử không thể thiếu được của xã
hội. Phương diện triết lý Là một sinh vật có sự phát triển về tinh thần, chủ yếu tiến trình sống
của con người là để hướng đến một trạng thái
hoàn hảo. Ðiều này được họ thực hiện
trong quá trình tái sanh, trở lại thế gian này qua nhiều kiếp sống,
có kiếp làm người nam và có kiếp mang thân nữ, kinh nghiệm trong tự thân
cả hai giới tính là điều cần thiết để khơi
dậy được hết những khả năng của họ. Trường hợp giới tính, cũng như các
trường hợp khác, đều bị chi phối bởi luật Nhân Quả, và dần dần khi
cá nhân đó thấu hiểu được sự tác động của
luật này, họ có thể, với sự trợ giúp của nhân - quả, hướng dẫn cuộc
sống của mình. Như vậy, trong cái thực thể tinh thần của họ nam và nữ
đều như nhau. Sở dĩ có sự khác biệt là
do kết quả của quá trình tiến hoá khác nhau của họ như những cá thể, nhấn
mạnh hay làm nhẹ bớt giới tính của thân mà họ sử dụng trong bất kỳ kiếp
sống đặc biệt nào. Là nam hay nữ, tuy
khác thân nhưng vẫn bổ sung cho nhau được,
không ai thấp kém hơn ai, họ là những người cùng hợp tác. Trong
cộng đồng xã hội, nam và nữ mỗi cá
nhân đều đóng góp những phẩm chất đặc thù
của mình cho lợi ích và thịnh vượng chung của xã hội, tuỳ thuộc vào sự
nhìn nhận vấn đề này, cũng như những
những nhu cầu, bản chất, và những đóng góp
khác nhau của họ.
Do đó, tâm hoàn toàn không có giới
tính (không nam cũng không nữ). Con người tinh thần tiến triển
thông qua thân của cả hai giới, nghĩa là cả nam lẫn nữ,
đồng thời vẫn giữ trong tự thân họ cái lõi
mang kinh nghiệm vừa nam vừa nữ này. Con người tinh thần và hoàn thiện là
một con người lưỡng tính thật sự, cốt lõi của họ không phải phái này cũng
không phải phái kia, mặc dù thân có thể là nam hoặc nữ. Vì vậy, khi một cá
nhân đã trải qua nhiều kiếp sống,
những khía cạnh nam và nữ trong bản chất của họ có khuynh hướng hoà nhập
vào nhau. Một số những người phát triển cao hơn
đã bắt
đầu báo trước trong cấu tạo tâm của họ tình trạng lưỡng tính quân
bình và cao trội hơn của một con người hoàn hảo. Chính vì thế chúng ta có thể thấy rằng, mặc dầu việc mang một thân nữ
buộc phải có vài chức năng rõ rệt trên
phương diện thân vật lý, và mặc dầu bản chất của thân vật lý trong một
chừng mực nào đó đã thay
đối những cảm xúc và tâm của họ, tuy
nhiên con người tinh thần có thể liên hệ sâu sắc với những hoạt
động, trong đó những nét đặc biệt của giới
tính đối nghịch vẫn trội hơn. Vì lý do
đó, thật là bất công khi giới hạn hoặc người nam hoặc người nữ
đối với một vài loại hoạt
động nào
đó chỉ đơn thuần do phái tính của thân.
II. Vấn đề hôn nhân ở Miến Ðiện Ở Miến hoàn toàn không có chế độ đẳng cấp,
vì vậy mà mọi người đều ở mức độ như
nhau, mặc dù một số người dĩ nhiên có thể giàu có hơn kẻ khác, và
một số có thể nghèo hơn; thế nhưng không có cảnh bần cùng
đến nỗi họ không thể đủ cơm ăn áo mặc. Phụ nữ
Miến có những quyền tự do như phụ nữ các nước Châu Âu vậy, và những
luật lệ liên quan đến hôn nhân, thừa kế và
ly dị đối với nam và nữ
đều rất giống nhau.
Hôn nhân ở Miến không phải à một lễ nghi có tính tôn giáo, và nó
được một người thế tục chuyên về vấn
đề này
đứng ra điều khiển, chứ không phải một nhà sư; mặc dầu vị sư
được thỉnh đến để khuyên nhủ cô dâu -
chú rể làm thế nào để làm một người vợ
hiền và một người chồng tốt hợp theo những lời Ðức Phật dạy. Ðây là những
gì quý sư thường thường nói với cô dâu: "Mục đích của hôn nhân là
để có được một người cộng sự thích hợp, không
những đối với tình yêu giới tính mà còn là
để giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Muốn hoàn
thành mục đích này và sống bên nhau
một cách hạnh phúc, một người vợ hiền phải biết bản tánh của chồng mình và
cư xử hợp theo bản tánh đó sao cho vợ chồng
có thể hài hoà với nhau. Là người vợ, con không nên cãi lý, cãi lẽ
với chồng về những chuyện nhỏ nhặt, cũng không nên làm phiền chồng bằng
cách can thiệp vào những vấn đề trong đó
chồng có thể thích mà vợ lại không ưa. Phải biết rõ những ước muốn
của chồng và lấy cho chồng những gì anh ta cần
đến, trước khi anh ta bày tỏ ước muốn
đó, và người vợ không bao giờ vui thú
riêng tư, trừ phi điều đó có thể chia sẻ cùng
chồng thì được; nếu cần, phải biết hy sinh
tiện nghi cá nhân của mình để tạo cho
chồng được thoải mái hoàn toàn. Người vợ tốt phải
đảm nhận mọi trách nhiệm trong công việc tề
gia nội trợ, giữ mọi vật dụng trong nhà ngăn
nắp thứ tự và sẵn sàng khi chồng cần
đến, sao cho anh ta có thể được thư giãn và thoải mái cả thân lẫn
tâm trong những lúc nhàn rỗi, không quấy rầy chồng về những vấn
đề liên quan
đến chi tiêu, sau một ngày làm việc
vất vả. Người vợ cũng không nên hoang phí tiền bạc của chồng kiếm
được, mà phải dùng nó một cách thông
minh. Người vợ là y tá chăm sóc cho chồng
những lúc ốm đau, là bạn đồng hành
những lúc khoẻ mạnh, giàu sang; là cố vấn trong những lúc gặp khó khăn,
và dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào, người vợ cũng phải một lòng trung
thành với chồng". Lời khuyên của vị sư đối với chú rể ít
nhiều cũng giống như những gì đã
nói với cô dâu. Người nữ không thay đổi tên khi cô
ta lấy chồng, nghĩa là tên của cô ta vẫn giữ nguyên như cũ, và tài sản
cũng vẫn thuộc riêng của cô ta. Hôn nhân không cho phép người chồng có
quyền hạn đối với tài sản của vợ, dù
cho đó là tài sản cô ta mang
đến khi kết hôn hoặc được thừa kế sau khi đã
lấy chồng; tuy rằng, thường thường tài sản thu thập sau hôn nhân
được giữ làm của chung. Tên của cả hai
vợ chồng thường được dùng trong giao
dịch thương mại và các chứng từ hợp pháp, và trong thực tế thì cả vợ lẫn
chồng đều ký vào các văn
bản mà họ có dịp thiết lập. Thế nhưng, theo luật
định thì người vợ là người có quyền
tuyệt đối với tài sản và nhân thân của
mình. Người vợ Miến có một ý thức rất sâu sắc về
điều gì cô ta làm là có lợi nhất và
điều gì cô ta cần phải
để lại cho chồng; kinh nghiệm lâu năm đã
dạy cho cô ta biết rằng có một vài vấn đề cô
ta không nên can thiệp vào, và cô ta cũng ý thức rõ ràng rằng vấn
đề này đã
được thử thách bằng kinh nghiệm chứ không chỉ
dựa trên một mệnh lệnh nào cả. Dệt vải thường được xem là công
việc của phần lớn phụ nữ Miến. Trong hầu hết mọi nhà
đều có một khung cửi, nơi đó người vợ hoặc
các cô con gái trong gia đình dệt những tấm vải cho nhà sử dụng
hoặc đem bán. Tuy thế, cũng có rất nhiều
người đàn ông làm công việc dệt vải này. Phụ nữ cũng có khi làm
công việc đồng áng, các công việc nhẹ như
trồng tỉa và làm cỏ là phận sự của họ, trong khi cánh
đàn ông làm các công việc nặng nề hơn
như cày bừa chẳng hạn. Người phương Tây khi
đến Miến Ðiện có lẽ sẽ cho đó là
điều kỳ cục khi thấy phụ nữ mang những vật
nặng ở trên đầu, còn
đàn ông lại mang nó trên
đôi vai của họ.
Nghề nghiệp chính của phụ nữ là buôn bán, và gần như mọi việc buôn bán
lẻ đều nằm trong tay phụ nữ cả. Công việc mua
bán này được thực hiện hầu như một
cách tuyệt đối ở các khu chợ, mỗi khu chợ tỉnh họp từ 6 đến 10 giờ mỗi
sáng. Trong những huyện ngoại ô không gần một tỉnh nào cả, chợ
được tổ chức theo từng làng và mỗi
làng họp một ngày, thường thường thì chợ họp trong các toà nhà
được xây dựng đặc biệt cho mục đích này.
Khu chợ lớn ở Mandalay (Cố Ðô Miến) là một trong những nơi lý thú
nhất của thành phố, bao gồm một loạt những dãy nhà
đồ sộ với những mái phủ kim loại, mỗi ngành
có một hoặc nhiều dãy như vậy, ở đây những
người bán hàng vải vóc tơ lụa đều là
các thiếu nữ và các bà. Các khu chợ thuộc tỉnh lẻ cũng tương tự như vậy.
Trong khi nam giới cày bừa canh tác trên mảng
đất riêng của mình, phụ nữ cũng làm chủ các quầy hàng riêng của họ
và không làm cô bán hàng thuê cho người khác. Ngoại trừ các ngành buôn bán vải vóc và tơ lụa ra, các ngành nghề khác
không ảnh hưởng gì đến đời sống gia đình
của họ, vì chợ chỉ họp có bốn giờ, vì vậy người phụ nữ có rất nhiều thì
giờ dành cho những phận sự tại nhà khi buổi họp chợ
đã xong, người phụ nữ không bao giờ ở
suốt ngày trong các cửa hiệu và xí nghiệp. Ðời sống gia
đình luôn luôn là trung tâm
điểm trong cuộc sống của cô ta, không vì
bất cứ việc gì khác mà họ xao lãng phận sự gia
đình. Chính phong tục hầu như mọi
người phụ nữ đều có một việc buôn bán nhỏ của
riêng mình này đã có ảnh hưởng
vượt ngoài dự kiến về vấn đề tâm lý của phụ
nữ Miến, nó mở rộng tầm nhìn của họ, nó dạy cho họ cách làm thế nào
để biết những ưu và khuyết
điểm của mình, và làm thế nào
để tận dụng tốt cả hai phương diện này.
Dù sao chăng nữa, cùng với những quyền
tự do của họ, người thiếu nữ chưa trưởng thành vẫn
được các bà mẹ trông nom chu
đáo, và các ông chồng thì chăm
sóc cẩn thận vợ mình, và điều này
khiến họ cảm thấy thích thú vì giữ được những
giới hạn mà kinh nghiệm trong cuộc sống
đã chỉ ra cho họ. Có một câu chuyện
khá khôi hài có lẽ sẽ minh hoạ được những gì
Bần Tăng muốn nói.
Sau vài năm sinh sống ở Miến Ðiện,
một quan chức người Anh trở về Anh quốc và cưới vợ ở
đó, sau lễ cưới anh ta cùng vợ quay
lại Miến Ðiện. Họ định cư ở vùng
thượng Miến. Tuy nhiên, công việc của anh ta rất thường buộc anh phải
đi kinh lý xa nhà, mỗi lần như vậy anh
sẽ vắng nhà khoảng 10 bữa hoặc lâu hơn, tuỳ theo công việc. Lần
đầu tiên anh ta buộc phải ra
đi và để
vợ ở lại nhà một mình, anh ta chỉ dẫn cẩn thận người giúp việc của
mình, người này là một người Miến và đã
làm việc với anh ta vài năm. Quan chức Anh
nói với người giúp việc: "Bà nhà vừa
đến Miến còn lạ nước lạ cái, cũng
chẳng có gì để làm, vì vậy anh nhớ
trông chừng cẩn thận trong khi tôi vắng nhà,
đừng để xảy ra chuyện gì nhá". Viên chức Anh vắng nhà khoảng
nửa tháng, khi trở về anh ta rất hài lòng vì thấy rằng mọi việc rất tốt.
Tuy nhiên, vợ anh ta phàn nàn, cô ta nói: "Khi anh
đi vắng, thật là buồn tẻ vô cùng,
không một ai đến thăm em cả; các nhân viên
ở đây cũng vậy, chẳng có ai đến thăm, và
dường như em chỉ thấy có đôi ba bà gì
đó, không có một người đàn ông nào".
Ngạc nhiên, viên chức Anh hỏi người giúp việc xem
đâu là lý do "Chẳng có ai
đến thăm cả sao?". "Thưa có
chứ", anh ta trả lời "rất nhiều quý ông
đến thăm, đa số là các quan chức của
cơ quan, nhưng tôi bảo họ là ông chủ đi vắng
và bà chủ thì không thể tiếp họ. Tôi nói họ
đi đi". Tại câu lạc bộ hôm đó, viên chức
Anh bị bạn bè chất vấn là tại sao không người
đàn ông nào được phép gặp vợ anh khi
anh đi vắng. Mọi người cười nhạo anh ta, thế nhưng chỉ có anh ta và
vợ lại cười nhiều nhất vì sự chăm sóc cẩn
thận kiểu Miến của người giúp việc. Ðối với người Miến, họ không hề
nghĩ rằng việc một người vợ tiếp bạn trai khi chồng
đi vắng là
điều tốt đẹp gì. III. Nghĩa vụ cao thượng Một trong những điều đáng chú ý nhất ở
khắp các khu chợ Miến là sự kiện rằng tất cả những người bán thịt
bò đều là những người gốc Ấn Ðộ bị
ruồng bỏ. Không một người Miến nào giết bò, và cũng không có người Miến
nào bán thịt bò cả. Trong thời kỳ các vua chúa Miến Ðiện bất cứ người nào
bị bắt gặp, dù cho chỉ có thịt bò thôi là có thể
đã bị trừng phạt nghiêm khắc; không
một ai, kể cả người ngoại quốc, được phép
giết bò, và luật này được mọi người gìn
giữ rất nghiêm túc. Mười năm sau ngày
thực dân Anh chiếm đóng Miến Ðiện,
luật chống lại việc bán thịt bò nay đã
thôi không còn hiệu lực. Tuy nhiên cho đến
bây giờ cũng vậy, không một người Miến có lòng tự trọng nào lại làm
công việc giết và bán thịt bò cả. Việc sát sanh là
đi ngược lại những nguyên tắc của
đạo Phật, và người ta không có quyền
sát hại bất kỳ con vật nào hay bất kỳ chúng sanh nào vì mục
đích thể thao, hay trả thù hoặc lấy
thực phẩm. Ðại thể, thì giới không sát sanh này được
mọi người đặc biệt khéo giữ, nhưng dĩ nhiên là cũng có vài ngoại
lệ, mặc dù những ngoại lệ này được xem là
sự vi phạm luật, vì luật tự thân nó không biết
đến các ngoại lệ. Một số người ăn cá, nhưng
những người đánh bắt cá là những người sống ngoài lề xã hội. Trong
các làng quê Miến Ðiện, gia cầm như chim, gà cũng
được nuôi, nhưng chắc chắn là chúng
không phải để cho người ta ăn thịt.
Có một câu chuyện kể về một người phụ nữ Miến lấy chồng người Anh.
Chồng cô ta làm nghề nuôi vịt, và anh ta có mua về một số vịt trời với ý
định vỗ béo để ăn thịt. Một hôm, trong lúc
anh ta vắng nhà, cô vợ đi ngược lên
đầu sống để thăm một số bạn bè và
đem theo tất cả những con vịt đó, Cô ta nói
rằng cô không thể chịu đựng nổi khi thấy chúng bị giết, vì vậy mà
cô phân phát hết cho đám bạn bè, mỗi
con mỗi nơi, chỗ mà cô ta tin chắc rằng chúng sẽ
được nuôi nấng tử tế và không bị giết
thịt. Khi trở về, cô vô cùng hoan hỷ với việc làm của mình. Ở Miến Ðiện, thay vì các câu lạc bộ hay những quán rượu, các nhà hảo
tâm giàu có đã xây dựng các khu nhà
nghỉ dành làm nơi ăn chỗ ở cho công chúng, ở
đây bất cứ ai cũng có thể ở lại trong một vài ngày, và nơi
đây các cuộc hội họp về chính trị, xã
hội hay tôn giáo, có thể được tổ chức miễn
phí với sự cho phép của chủ nhân. Số lượng các ngôi Tháp ở Miến thì
nhiều đến nỗi nó được người ngoại quốc thường
gọi là "vùng đất tháp chùa".
Tháp chùa là những nơi tôn kính thiêng liêng của người Phật tử, nơi
đây các lễ nghi tôn giáo được tổ chức, và
nơi đâu có một ngôi tháp thì ở
đó có một số nhà nghỉ chung quanh, cho
những người hành huơng và du khách đặc biệt
sử dụng, tuy rằng ngày nay, những khu nhà nghỉ này cũng
được dùng làm nơi hội họp có tính xã
hội, nơi đây mọi người trải qua giờ nhàn
rỗi của mình để chơi cờ hoặc nghe thuyết
giảng.
Một số dân tân tiến cũng lập ra các câu lạc bộ dành cho những mục
đích xã hội, nhưng xem ra chúng không
được phổ thông như các khu nhà nghỉ,
bởi vì các nhà nghỉ này được miễn mọi loại
phí tổn, kể cả tiền thuê nhà. "Không uống rượu và các chất say"
là một trong năm giới mà hàng Phật
tử nghiêm trì, bất cứ ai phạm vào giới này
đều bị xem như kẻ bất lương; vì vậy mà người Miến, những người phật
tử chân chính, vì lý do đó đã chống
lại việc mở các quán rượu vì nó khuyến khích người ta say sưa và phá giới. Những lúc nhàn rỗi, người ta thường tới các nhà nghỉ. Ở
đây, như đã
đề cập phần trên, các buổi tiệc tùng
và những trò giải trí cũng như các buổi hội họp về xã hội
được sắp đặt tổ chức cho tất cả mọi người
tham dự. Vào những ngày nghỉ rơi vào các dịp lễ hội Phật giáo, họ
sẽ đi đến các ngôi tháp nổi tiếng theo cách
của những người hành hương, dịp này ban quản lý các ngôi tháp sẽ
sắp xếp nơi ăn chốn ở miễn phí cho họ trong
các ngôi nhà nghỉ, cho họ thực phẩm nếu cần và tổ chức các buổi
giải trí. Vì không có chế độ đẳng cấp hay
giai cấp xã hội ở Miến Ðiện, nên trong suốt những ngày lễ như vậy
mọi người từ khắp nơi hoà nhập vào nhau một cách thoải mái; ngoài các buổi
hội họp xã hội và các buổi diễn thuyết ra, người ta còn tổ chức các buổi
khiêu vũ, ca nhạc hoặc các trò giải trí khác mà người quản trò hay trình
diễn được chọn từ khách thập phương đến dự.
Tuy có những ngôi nhà nghỉ như vậy, phần lớn mọi người cũng thích
mời bạn bè và bà con của mình về nhà riêng để
nghỉ và tiếp đãi, tuỳ theo
khách ở xa gần mà sắp xếp, có khi vài giờ cho những người cùng làng hoặc
có lúc vài tuần cho bà con ở xa. Tính hiếu khách là một trong những nét
đẹp của người Phật tử Miến Ðiện. IV. Ðời sống tôn giáo Người Phật tử không quan niệm rằng đạo
Phật là một tôn giáo trong cái nghĩa thường
được chấp nhận của từ này, vì
đạo Phật không phải là một hệ thống
đức tin và thờ phụng. Trong
đạo Phật, đức tin suông được thay thế bằng
tín hay niềm tin dựa trên sự hiểu biết, trong Pàli
điều đó được gọi là Saddhà (tín);
và niềm tin nơi Ðức Phật của một người Phật tử cũng giống như niềm tin của
người bệnh đối với bác sĩ của mình,
hoặc là niềm tin của học trò đối với thầy.
Người Phật tử quy y nơi Ðức Phật, bởi chính ngài là người
đã khám phá ra con
đường giải thoát; cũng như cách mà
bệnh nhân tin dùng thuốc mà bác sĩ kê toa chữa cho anh ta, hay người học
trò tin và học theo những gì thầy giáo dạy để
trở thành một người thông thái, người Phật tử tin nơi Ðức Phật và
sẽ theo những lời chỉ dẫn của ngài để đắc
chứng giải thoát. Người Phật tử có niềm tin chân chánh (Saddhà)
nơi Ðức Phật, không quy y với ngài với hy vọng rằng mình có thể
được đấng giác ngộ cứu độ bằng sự giải thoát
cá nhân của ngài. Vì điều này
không nằm trong khả năng của một vị Phật -
nghĩa là ngài không thể tẩy sạch những bợn nhơ của kẻ khác
được. Không ai có thể làm cho người
khác thanh tịnh, cũng như không ai có thể làm cho người khác ô nhiễm,
người khác chỉ có thể chỉ đường, nhưng chính
tự thân chúng ta phải chịu trách nhiệm trực tiếp đối với sự tiến bộ hay
thoái hoá của mình. Tại Miến Ðiện, mọi lễ nghi tôn giáo và hầu hết các lễ nghi xã hội
đều do một vị sư điều khiển, và trong
các buổi lễ tôn giáo này, Kinh Từ Bi (Mettà sutta)
được đọc. Nhà sư nhấn mạnh
đến tầm quan trọng của lòng từ
(Mettà), chữ mettà ở đây có nghĩa lớn lao
hơn thiện chí, từ ái, vô hại và lòng bao dung. Từ cũng không phải
là một cảm xúc mà nó bao hàm việc thực hành những hành
động từ thiện; nó càng không phải là
một giấc mơ tuyệt vời cho người hâm mộ ôm ấp, mà là công việc thiết yếu
cho đôi tay thực hiện.
Trong Kinh Từ Bi (Mettà sutta) Ðức Phật dạy: "Ví như người
mẹ, dám hy sinh ngay cả mạng sống của mình để
chăm sóc và bảo vệ đứa con thân yêu
độc nhất của bà, vì vậy chúng ta hãy
trau dồi lòng từ không phân biệt này". Ðây là mẫu mực của con người
đối với con người, nó chính là tiếng
gọi thức tỉnh tâm hồn mọi người, tiếng gọi phục vụ không ai có thể chối từ
được. Hãy suy xét
đến tình thương của người mẹ, nó có
phải là lòng từ ái đơn thuần không, phải
chăng người mẹ chỉ chan chứa thiện ý trong việc nuôi dưỡng con cái mình
thôi? Tình thương đó không phải là
tình thương đã
được thánh hoá, ngay cả đối với đứa con tầm
thường nhất, dù cho nó có xấu xí hay
đui mù và bệnh hoạn đó sao?
Dù thế nào chăng nữa thì Mettà
(Từ) cũng phải đi đôi với việc sẵn lòng
giúp đỡ và một ước muốn từ bỏ lợi ích
riêng tư của mình để thúc đẩy cho thịnh vượng
và hạnh phúc của nhân loại. Hều hết các
đức hạnh bao gồm trong tâm từ là lòng
vị tha, đức khoan dung và sự chăm
sóc từ ái rất tích cực đối với tha nhân, đức khoan dung mà không có
sự vong ân bội nghĩa nào có thể chuyển hướng
được. Mettà không chỉ đơn thuần là
cảm tình huynh đệ mà là lòng quảng
đại tích cực, một tình thương
được bày tỏ và chu toàn trong ước muốn
năng nỗ, và sứ mạng tích cực vì sự
thịnh vượng và hạnh phúc của mọi người. Các lễ nghi tôn giáo hay lễ nghi xã hội
được khởi sự với phép thọ "Tam quy"
đó là: * Con noi theo Ðức Phật như người hướng
đạo cuộc đời con;
Ðức Phật là bậc thầy đã tìm ra pháp
giải thoát, ngài đã chứng
đắc và
đem ra tuyên bố cho toàn thế gian biết. Dhamma (pháp) là quy
luật hay giáo lý chứa đựng những nguyên
tắc chủ yếu và bất biến của chân lý hay sự thực, và là con
đường dẫn đến sự chứng ngộ an lạc tuyệt đối,
sự đoạn tận hoàn toàn mọi khổ ưu. Sangha (Tăng)
là đoàn thể các bậc Lão
thông đã chứng
đắc hoặc đang nỗ lực để chứng đắc pháp giải
thoát.
Sau Tam quy là phép thọ Ngũ giới, đó là: * Con xin vâng giữ điều học là
cố ý tranh xa sự sát sanh.
Sau khi vị sư đã chấm dứt bài pháp,
buổi lễ kết thúc với phần hành thiền. Giáo lý được dạy trong các tu viện, và
các khoá tu tập cũng được tổ chức tại đây.
Hầu như đối với người Miến, việc cho con trai mình
đến tuổi trưởng thành vào một tu viện
nào đó để tu là một phong tục rất phổ
biến. Tại đây, họ ở lại làm một vị Sa
di, đắp tấm y vàng giản dị, ít nhất là
trong ba tháng và học hỏi giáo lý. Sau đó,
nếu vị Sa di ước nguyện trở thành một nhà Sư (Tỳ Khưu) chân
chánh, họ sẽ trải qua một khoá tu tập đặc
biệt và chỉ sau khi đã vượt qua
những kỳ thi giáo lý này, vị ấy mới được thọ
giới Tỳ Khưu vào tuổi hai mươi hay trên hai mươi. Một lễ hội long trọng được tổ chức mỗi khi
có dịp một thanh niên sắp trở thành một vị Sa di hay người tập sự
để thọ Tỳ Khưu. Lần đầu tiên người
thanh niên này bước vào tu viện, hoặc cỡi trên một chú ngựa tơ
được phủ trên lưng một tấm voan che
rất sang trọng, hoặc ngồi trên một chiếc kiệu trang hoàng lộng lẫy. Anh ta
được phép sử dụng những chiếc lọng vàng
để che trên
đầu. Trong suốt cuộc diễu hành
đầy vinh dự này, phía trước anh ta là
một đoàn dài các ông, các bà
ăn bận những bộ đồ sang nhất của họ, và
mang theo những gói quà lớn làm tứ vật dụng dâng cho chư Tăng
sống trong tu viện nơi mà người thanh niên mới nhập môn này sẽ lưu
trú. Ðám rước diễn ra trong trật tự và đầy uy
nghi, đi kèm theo họ là một đội kèn
đồng chơi đủ các loại nhạc khí, họ chậm chậm
diễu hành qua các đường phố chính của
thị xã để hướng về tu viện đã
chọn. Việc phô trương lộng lẫy khiến mọi người phải chú ý này mang hai ý
nghĩa, về phần cha mẹ và thân quyến thì đây là
một vinh dự ban thưởng cho người thanh niên trẻ
đã tự nguyện hiến dâng
đời mình cho tiếng gọi cao thượng; và
về phần người thanh niên thì đây là
lời từ biệt cuối cùng đối với những huyễn ảo
thế gian. Ngay khi anh ta bước xuống khỏi cỗ xa trang hoàng lộng
lẫy để bước vào ngưỡng cửa của tu
viện, cũng là lúc mà anh được cha mẹ giao tận
tay cho vị tu viện trưởng, và từ đây
anh ta được đặt dưới sự chăm sóc của ngài. Vào ngày hội này cha mẹ và thân quyến của chàng trai trẻ sẽ dùng một số
tiền lớn theo khả năng của mình,
để bố thí cho người nghèo và chiêu
đãi bạn bè của họ. Ðối với các cô
thiếu nữ bước chân vào tu viện cũng vậy, hình thức tổ chức gần giống như
vừa kể. Ðể kết luận Bần Tăng sẽ giới thiệu một
cách đại cương về phương pháp chư Tăng chúng tôi dạy dỗ trẻ em trong tu
viện để họ sống một cuộc sống hữu ích, tốt đẹp và
đầy an lạc. Ðây là những gì chư tăng
dạy họ:
- Các con thương mến, thật vô cùng hoan hỷ! Tất cả các con
đều là những vị Phật
đang thành. Một vị Phật
đang thành là một vị Bồ Tát; vì vậy,
tất cả các con là các vị Bồ Tát, Phật quả
đang nằm ngầm trong các con và việc làm cho hạt giống này nảy mầm
cũng nằm trong khả năng của các con. Hàng
ngày các con hãy tư duy "Ta sẽ là một vị Phật". Tuy nhiên, tư duy
không thì chưa đủ, muốn là một vị Phật
các con phải thực hiện những công việc để trở
thành Phật. Tư duy chỉ là bước đầu, kế
tiếp các con phải biến tư duy thành hành
động; do vậy, hãy hành
động như một vị Bồ Tát, hãy khởi sự
ngay từ giờ trở đi, khởi sự trong chính gia đình
của các con. Ðừng bao giờ nghĩ rằng các con
đang sống vì lợi ích của bản thân mình, cuộc sống của các con cần
phải vì lợi ích của mọi người nữa. Cây cho trái, bò cho sữa, dòng sông chảy theo lộ trình của nó, từ những
kết quả đó mà mọi người
được lợi ích. Ðây chỉ là những chức năng
xảy ra một cách tự nhiên; thế thì tại sao? Với ý
định làm
điều thiện, các con lại không thể đóng góp phần nhỏ bé của mình cho
thế gian thiếu thốn này trong cung cách khiêm tốn nhất của minh chứ? Hãy
nỗ lực để được hoàn thiện, sống thiện
và làm thiện, phục vụ tốt mọi người. Hãy tìm mọi cơ hội để phụng dưỡng song
thân yêu quý của con, hãy là một đặc
ân chớ đừng là gánh nặng cho cha mẹ. Hãy phụ giúp cho các anh, các
chị thân thương với hết khả năng của con; và
quan trọng hơn hết, đừng bao giờ gây phiền
muộn cho các bạn trẻ kém may mắn hơn con. Ðừng làm tổn thương những
huynh đệ tật nguyền của con, hãy tự
đặt mình vào
địa vị của người khác và cố gắng
đồng nhất với mọi người. Mỗi ngày hãy
làm một điều thiện, không cầu mong đáp trả;
nói ít lại và làm nhiều hơn. Các con
đừng bao giờ chạy theo danh vọng, vì nếu con
đáng được danh thì tự
động nó sẽ đến với con, các con hãy
quên cái "Tôi" của mình đi, khi phục
vụ mọi người.
Bất luận điều gì các con làm, cầu
mong điều đó sẽ đem lại an vui và hạnh
phúc cho chính bản thân các con và mọi người. Bất cứ lời nào các con thốt
ra, mong rằng điều đó sẽ làm vui lòng
bản thân mình và người khác. Ý nghĩ nào các con suy nghĩ cũng vậy, mong
rằng nó sẽ vì hạnh phúc của bản thân và mọi người. Mỗi sáng, khi thức dậy
các con hãy ban rải những ước mong của mình: "Cầu cho tất cả chúng sanh
đều được an vui, hạnh phúc". Thạch động
Viên Không, Tháng Chạp - Kỷ Mão, CẢM ÐỀ Một hôm, vào trong hang núi Viên Không tôi thấy
sư Pháp Thông đang dịch tác phẩm
"Essential Themes of Buddhist Lectures" của ngài U. Thittila, nhân lúc
ấy tôi có dịp đọc lại toàn bộ bản thảo
của sư. Thật ra, dịch một tác phẩm văn học chúng
ta có thể phóng tác được. Ngược lại, dịch một tác phẩm thiền học thật là
khó khăn cho dịch giả.
Muốn chuyển tải một ý nghĩa sâu nhiệm cần phải cẩn trọng và chọn từ
thích hợp, dịch giả cũng phải là thiền giả mới mong hiểu
được lời dạy của ngài, vì
đây là phạm vi vượt qua giới hạn của
ngôn từ. Sư Pháp Thông đã
đầu tư vào dịch phẩm này không ít công
sức, hầu mong cống hiến cho độc giả một ít
hương vị thiền trong thế giới đầy thù hận, não loạn. Ngoài kia, nắng chiều đã nhạt,
để lại một khoảng không gian yên tĩnh
đến lạ lùng.... Tôi thấy trong hang
ánh sáng đã
đục mờ mà dịch giả vẫn còn trầm tư bên
dịch phẩm Viên Không - Rừng tỉnh lặng, -ooOoo-
Ðầu trang |
Mục lục |
01 |
02 |
03 |
04 |
05 |
06 |
07 |
08 |
09 |
10 |
11 |
12 |
13 |
14 |
15 |
16 |
17 |
18 |
19 |
20 | Chân thành cám ơn Tỳ kheo Pháp
Thông đã gửi tặng bản vi tính (Bình Anson, 08-2002) Xem:
Nguyên tác Anh ngữ [Trở
về trang Thư Mục]
This document is written in Vietnamese, with Unicode Times
font
Đại
Trưởng Lão U
Thittila
Tỳ kheo Pháp
Thông dịch
Venerable Sayadaw Ashin U Thittila
* Con nương theo Pháp (Dhamma) như người hướng đạo cuộc đời con;
* Con noi theo Tăng (Sangha) như người hướng đạo cuộc đời con.
* Con xin vâng giữ điều học là
cố ý tranh xa sự trộm cắp.
* Con xin vâng giữ điều học là
cố ý tranh xa sự tà dâm.
* Con xin vâng giữ điều học là
cố ý tranh xa sự nói dối.
* Con xin vâng giữ điều học là
cố ý tranh xa sự dễ duôi, uống rượu và các chất say.
Tỳ khưu Pháp Thông phụng dịch.
Dhammadhavo Bhikkhu.
21 |
22 |
23 |
24 |
25 |
26 |
27 |
28 |
29 |
30 |
31 |
32 |
33 |
34 |
35 |
36 | 37
updated: 16-08-2002