TẠNG KINH
BỘ KINH TẬP (425-847)
(Còn có tên là Kinh Tam-muội Bạt-đà-kiếp. Đời Tấn gọi là Kinh Hiền Kiếp Định Ý)
Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam Tạng Trúc Pháp Hộ, người nước Nguyệt Chi.
Phẩm 2: Nói về việc thực hành pháp Tammuội
Phẩm 3: Nêu bốn sự việc của Bồ-tát
Phẩm 5: Nói về việc cúng dường bằng pháp thí
Phẩm 6: Nói về các pháp Độ vô cực
Phẩm 7: Nói về sự tu tập thực hiện các pháp độ vô cực
Phẩm 8: Nói về tính chất vượt mọi biên vực
Phẩm 9: Nói về sự lãnh hội, giữ gìn
Phẩm 11: Nói về ba mươi hai tướng
Phẩm 13: Nói về ba mươi bảy phẩm trợ đạo
Phẩm 14: Nói về pháp Độ vô cực an nhiên tịch tĩnh
Phẩm 15: Nói về mười thứ trí lực
Phẩm 17: Nói về mười tám pháp bất cộng
Phẩm 20: Nói về danh hiệu một ngàn vị Phật
Phẩm 21: Sự hưng lập của một ngàn vị Phật
Phẩm 22: Nói về sự phát tâm tu tập của một ngàn vị Phật
Phẩm 23: Ca ngợi về các việc xưa
Nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở tại khu vườn Kỳ-đà Cấp cô độc, thuộc nước Xá-vệ, trọn trong ba năm, vừa bắt đầu vào năm tiếp theo, Đức Thế Tôn xem lại y phục đều đầy đủ, các nơi chốn giáo hóa đều đã đến khắp, nên khoác y mang bình bát đi tới kinh thành Duy-da-ly, cùng với đại Thánh chúng gồm vô số trăm ngàn các vị Tỳ-kheo hội đủ, chư Bồ-tát gồm tám mươi ức vị.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn ngụ tại nơi chốn thanh vắng, an nhiên, thong thả từ chỗ nhà nghỉ thức dậy. Bồ-tát Tuệ Vương, Khai Sĩ Hỷ Vương, ở riêng hẳn một nơi cũng vừa thức giấc, ra khỏi phòng để vấn an Đức Như Lai, sửa sang, dọn dẹp nơi đạo tràng, trải bày các tòa ngồi.
Lúc này, bốn chúng đệ tử là các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh tín sĩ, Thanh tín nữ, chư Thiên, Long, Quỷ thần, A-tu-luân, Ca-lưu-la, Chân-đà-la, Ma-hưu-lặc, cùng với Nhân phi nhân đều vân tập đến đông đảo. Hết thảy các chúng hội đều nhờ nơi ánh sáng chiếu tỏa của chúng Bồ-tát nên đều được an ổn, hòa hợp. Tất cả các Bậc Đại Thánh trong chúng hội Bồ-tát đều là hàng thần trí thông tuệ, đạt đủ các pháp Tổng trì, hoàn thành các pháp Tammuội, năm thứ thần thông gồm đủ, mắt nhìn thấu hết thảy mọi tâm niệm của chúng sinh, phân biệt để nhận rõ về các nẻo tư duy giữa đạo tục, lìa hết vọng tưởng, ban bố khắp những lời giảng dạy rộng lớn về pháp Bố thí hòa hợp mọi ý. Các vị Bồ-tát ấy đều tự tu tập đủ các pháp Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ, khéo dùng các phương tiện thiện xảo, không gì là không giáo hóa dẫn dắt, đạt pháp không thoái chuyển, giảng nói đạo pháp khắp chốn, thể hiện tâm Từ bi đối với quần sinh, không nuôi giữ tâm sân hại, không chuộng lợi dưỡng. Mọi trường hợp diễn giảng kinh văn đều không nhằm vào chuyện y phục, thức ăn uống, vì đã dứt hết mọi tham đắm. Các vị đó đều đã đạt pháp nhẫn thâm diệu “Vô sở tùng sinh”, vượt qua mọi nẻo sinh diệt, đều là hàng bạn lành của mọi nơi chốn, tầng lớp, đều là tiếng gầm của sư tử, khiến cho mười phương phải quy thuận, trước sau, đầu cuối đều tế độ tất cả để đưa đến bờ giải thoát, đều là bậc dũng mãnh, vô úy, thắng vượt hết thảy đám ma oán, tiêu trừ mọi thứ ngăn che, hành hóa không còn chút trở ngại nào. Các vị ấy đã rõ nơi cội rễ thanh tịnh nên không nghi ngại các pháp. Tích lũy công đức thật không thể xưng kể, lường tính. Nhập sâu vào chốn huyền diệu của đạo lớn vô bờ. Tâm ý hòa hợp, hình diện luôn tươi vui thể hiện nơi sự hỏi han, giao tiếp. Những khi luận đàm luôn ung dung, từ tốn, dứt mọi sắc thái nóng giận. Luôn lìa bỏ giả trá, ca tụng chánh chân, tâm hành vượt qua mọi giới mốc, đạt tới pháp nhẫn của bậc Thánh.
Các vị Bồ-tát ấy đều là bậc biện tài thông suốt, không còn vướng ở giới hạn hay nơi chốn nào. Mạnh mẽ mà có uy thế vì tâm như hư không. Công lao tỏa khắp, mọi hạnh nguyện bền chắc như kim cương nên không nơi chốn nào mà không thâm nhập hành hóa. Bao chốn cõi đi đến chưa từng gặp khó khăn. Các vị đó đều là bậc đã biết được về vô số kiếp cùng các quốc độ mình đã từng trải qua. Theo phương tiện mà thuyết giảng về tất cả các pháp như huyễn hóa, như dợn nắng, như bóng hình, tiếng vang, như cảnh vật trong mộng, như bóng trăng trong nước, như thân cây chuối, như bọt nước tụ tan với vô số đổi thay nối tiếp. Đối với đông đảo chúng sinh mê muội luôn bị trôi nổi, chìm đắm không có chốn để hướng về nương tựa, các vị Bồ-tát ấy đều luôn tìm tới đủ cả năm chốn để cứu giúp, giáo hóa. Các bậc đó đều thông tỏ mọi nơi chốn hướng tới thiện ác của chúng sinh, tùy theo chỗ vui mừng của tâm ý mà diễn nói về những công đức chân thật, luôn thể hiện tâm thương xót, dứt sạch mọi ý niệm thô bạo, mưu hại.
Các vị Bồ-tát ấy đã từng tích chứa vô lượng đức hạnh làm trang nghiêm cõi Phật, phát thệ nguyện lớn lao vô hạn, đạt được những thành tựu vô biên đối với cảnh giới của chư Phật. Luôn thực hiện chánh định nên tâm ý thường tỏ ngộ, chưa từng quên nẻo quy hướng, khi trở về thì luôn tán thán chư Phật hiện tại trong mười phương, thấu tỏ các thứ phiền não như bụi tích chứa dần dà nên to lớn. Chí mong cầu trí tuệ Phật, luôn vui thích trong sự chứng đắc các thần thông, khéo dùng mọi quyền xảo để đi đến hàng trăm ngàn hằng hà sa cõi Phật trong mười phương với các đạo tràng thuyết pháp đều từ xa nghe thấy, trí tuệ sáng suốt tu tập các pháp thảy đều thấu đạo, từ đó mưa các pháp cam lồ vi diệu làm thấm nhuần hết thảy các loài, tâm đạo vô lượng trùm khắp tất cả.
Danh hiệu của các vị Bồ-tát ấy là Bồ-tát Từ Thị, Bồ-tát Phổ Thủ, Bồ-tát Quang Thế Âm, Bồtát Vũ Âm, Bồ-tát Thiện Đức Bách Thiên, Bồ-tát Hoa Nghiêm, Bồ-tát Tự Tại, Bồ-tát Minh Diễm Thành, Bồ-tát Sướng Âm, Bồ-tát Phụng Vô Số Ức Kiếp Hành, Bồ-tát Giác Ý Lôi Âm Vương, Bồ-tát Kiến Chánh Tà, Bồ-tát Tịnh Tử Kim, Bồ-tát Kỳ Tâm Kiên Trọng, Bồ-tát Uy Quang Vương, Bồ-tát Chiếu Tứ Thiên Lý, Bồ-tát Việt Sở Kiến, Bồ-tát Biện Tích, Bồ-tát Tuệ Vương, Bồ-tát Bất Hư Kiến, Bồ-tát Bạt-đà-hòa cùng với tám vị đại Chánh sĩ.
Lại có Bồ-tát Chúng Hương Thủ, Bồ-tát Vô Lượng Chân Bảo, Bồ-tát Trí Tích, Bồ-tát Đại Tịnh, Bồ-tát Sư Tử Hống, Bồ-tát Âm Vương, Bồ-tát Tịnh Châu Nghiêm Hạnh, Bồ-tát Sư Tử Bộ Sướng Âm, Bồ-tát Vô Lượng Biện Vô Úy… các vị Bồ-tát như vậy có đến tám mươi ức đều hội đủ.
Ở nơi cõi tam thiên đại thiên thế giới này thì có Chánh chủ thiên hạ, Tứ đại Thiên vương, Thích, Phạm, Tự tại Thiên vương, Đại phạm Thiên vương, chư Long vương, chư Quỷ thần vương, các vua A-tu-la, các vua Ca-lâu-la, các vua Chân-đàla, các vua Ma-hưu-lặc, các vua Kiền-đạp-hòa…, tất cả thảy đều tề tựu đông đủ nơi đạo tràng của Phật, mỗi vị đều dùng hương hoa cúng dường và tung rải lên chỗ Phật rồi trở về ngồi qua một bên, hoặc ngồi hoặc đứng yên.
Bấy giờ, Bồ-tát Hỷ Vương nhìn thấy chúng hội đã đông đủ, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục cho ngay ngắn, quỳ sát đất, chắp tay cung kính thưa với Đức Phật:
–Kính thưa Thế Tôn! Con có điều muốn thưa hỏi, mong được chấp nhận, con mới dám tỏ bày.
Đức Phật nói:
–Bồ-tát cứ việc thưa hỏi, Như Lai sẽ tùy theo các sự việc mà nêu bày giảng giải.
Bồ-tát Hỷ Vương liền hỏi Phật:
–Thế nào gọi là hàng Bồ-tát với tâm đạo luôn được đầy đủ để dứt trừ phi pháp, phụng hành theo những nẻo tạo tác nào để dứt bỏ mọi thứ phiền não trói buộc, tu ba phẩm:
1. Kinh hành.
2. Trụ vị.
3. Tọa định để thu tóm các vọng động khó điều phục, từ đó vượt qua được hết thảy, khiến cho sự dốc tu thêm tinh tấn, dứt sạch mọi cấu uế?
Thế nào gọi là hàng Bồ-tát thành tựu đầy đủ, thấu tỏ tâm tánh cùng mọi hành động của chúng sinh, ngôn ngữ thường hết mực thành thật, thể hiện được sự hành hóa của Phật, dứt bỏ mọi tranh biện hý luận, tùy theo căn cơ của chúng sinh, sử dụng âm thanh ngôn từ thích hợp, hội nhập vào trí tuệ đích thực, ở trong đời hiện tại được trông thấy hết thảy chư Phật mười phương không bị ngăn ngại, được thấy các pháp thâm diệu, chân thật cho đến các thệ nguyện vô cùng lớn lao của chư Phật, luôn thương xót, lo nghĩ đến các pháp thế gian, tuy hành hóa trong cõi đời mà vĩnh viễn không chút tham đắm, vướng mắc, tu tập thiền định, nhất tâm thực hành các pháp Tam-muội, không theo những lời chỉ dẫn có sẵn mà vẫn tạo được nơi chốn phát sinh, đi theo các pháp giải thoát mà không chấp vào nẻo diệt độ, không vì sự thực hiện chưa đầy đủ chí nguyện của chư Phật mà giữa đường bỏ dở, thậm chí trở lại cầu đạt các pháp của hàng Duyên giác, không dùng thừa này làm thoái chuyển con đường tu tập trong cảnh giới diệt độ. Ý tu vô lượng không có giới hạn các pháp tuệ, tâm chưa từng bị loạn động, hội nhập nơi từng ấy các loại cảnh giới, tạo tác vô hạn nguyện, nếu gặp phải những vấn nạn thì sẽ dùng trí tuệ biện tài tất được thông suốt, thu gồm vô lượng cõi Phật thanh tịnh, đạt đến trí tuệ tột bậc, rốt ráo mà Phật đã đạt được, từ đó giáo hóa, dẫn dắt chúng sinh, tâm không chút tham vướng, dứt mọi tưởng về người trong khi giảng giải, nêu bày kinh điển, chẳng bám vào các pháp điên đảo để làm hiển lộ các nẻo giải thoát, tu hành đạt đạo nhưng không trụ mãi ở cảnh giới tịch diệt, cũng không có nơi chốn nương tựa như có chỗ ưa thích, ham chuộng đối với các hành nội tâm để dứt trừ các nẻo có không. Nay đối với Đấng Thiên Trung Thiên mong được thấy sự thương xót, nhớ nghĩ. Tánh tuy chậm chạp chẳng dám thưa bày nhiều lần, mong Đức Thế Tôn rủ lòng thương mà ban lời chỉ dạy.
Bấy giờ, Bồ-tát Hỷ Vương bèn đọc tụng ca ngợi:
Thưa hỏi nguyệt thù diệu
Đem ánh sáng cứu đời
Chốn hành của Bồ-tát
Dần đạt đến thành tựu
Vào vô lượng nơi cõi
Chư Thiên người ưa pháp
Nghe, đạt đạo hạnh tột
Vô số kẻ phát tâm
Tin thọ pháp vi diệu
Hỏi khắp, nghe danh độ
Xưng vô lượng trí, tâm
Chứng giải thoát thù thắng
Nêu hạnh khắp mười phương
Tôn công đức giải thoát
Công năng Phật tối thượng
Hành tuệ đại Thánh dạy
Nhớ tục tăm tối buộc
Chóng nêu ánh sáng đạo
Liền thấy cõi tam thiên
Giảng, hành đạo như vậy
Tướng hảo như muôn hoa
Giữ đạo, âm vô lượng
Tam-muội cùng Tu-di
Bồ-tát hành như thế
Trung thực, không gì hơn
Không ngã, dứt ba độc
Tịch tĩnh, chúng ngợi khen
Người hỏi, trong hạnh quý
Ý kiên, lời hòa, diệu
Nêu giảng chẳng thiếu sót
Bậc Đại sĩ giũ bụi
Như Phật đạo dạy ta
Quy mạng về đạo giác
Ngày đêm quyết không đổi
Pháp tối thượng thuận nghe
Chân chánh như đạo dạy
Ý định nếu luôn giữ
Thần túc, trí biện tài
Thấy chư Phật mười phương
Hỏi tịch nhiên như Thánh
Giảng tuệ hơn hết thảy
Thông vô số cửa định
Chốn nêu giảng không chán
Nên hỏi hành mười phương
Vào nơi vui chẳng hỏi
Không thưa hạn các cõi
Kính đại Thánh thắng diệu
Mong nêu hành mười phương.
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Lành thay, lành thay! Điều Bồ-tát hỏi thật bao quát thâm diệu, thể hiện sự thương xót, nhớ nghĩ đối với tất cả. Có pháp Tam-muội tên là Thông tỏ mọi ngọn nguồn các pháp. Bồ-tát nếu tu tập theo pháp Tam-muội ấy thì sẽ đạt được những công đức kia, mọi hạnh kể trên cũng liền đạt đầy đủ. Nhờ đó, uy thần lồng lộng, thành tựu viên mãn hai ngàn một trăm pháp tu Ba-la-mật, cho đến tám vạn bốn ngàn pháp môn Tam-muội, tám vạn bốn ngàn các pháp môn Tổng trì, thấu rõ khắp mọi nẻo các hành của chúng sinh, mau chóng đạt tới đạo Chánh chân vô thượng, thành Bậc Chánh Giác tối thượng.
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Vì sao pháp Tam-muội đó được gọi là Thông tỏ mọi ngọn nguồn các pháp. Nếu hàng Bồ-tát thực hành “sáu kiên pháp” thì thân, khẩu, ý đều thể hiện tâm từ, ngôn ngữ, hành động luôn tương ứng, không trái với ba thừa, không đánh mất thệ nguyện thiết yếu, tỏ đường nẻo của ba thừa, cũng như mở bày chỉ rõ cho chúng sinh về nơi chốn tạo nghiệp. Ngôn ngữ cũng như thế, thân hành thanh tịnh, lời nói luôn nhu hòa ví như cam lồ, tâm niệm sáng tỏ như ánh sáng mặt trời, thường hành động vì lòng thương cảm với tâm từ rộng mở, dứt sạch mọi ý tưởng mưu hại, không rời tâm đại Bi, không tham luyến đối với mọi đối tượng, chẳng chuộng tham dâm. Thân tâm luôn được thanh tịnh, trong sáng, chí vui thích theo đúng pháp, luôn dốc tâm tin, hơn nữa là sự chí thành, không bỏ bê thệ nguyện của mình cùng với mọi liên hệ. Nhận rõ cảnh giới tịch diệt mà không trụ mãi nơi cảnh giới ấy. Độ thoát mọi chúng sinh theo đúng bản hạnh của mình, nhận rõ tội phước nhưng không làm rối loạn thế tục, chưa từng tham đắm đối với thân, chẳng kể gì chuyện bôn ba, giong ruổi. Do thương xót bao khổ não mà muốn độ thoát tất cả, khuyên dạy chúng sinh thực hiện sự an lành mà không tạo nên sự nguy khốn. Giáo hóa mọi kẻ cao ngạo, khiến cho tính ấy bị chế ngự, trừ diệt. Kẻ biếng trễ khiến trở nên siêng năng, chuyển biến tiến đến với giáo pháp chánh đạo. Tu tập theo kho tàng chánh pháp nhằm đạt được trí tuệ tột bậc. Không chấp vào tưởng về người, tâm dứt mọi ngăn ngại. Không tính toán về sở hữu mà còn nhổ sạch gốc rễ của ý niệm ấy. Đoạn trừ các nghiệp về gia đình, chí an định nơi các pháp vô vi. Tánh lìa mọi tưởng để dứt các mối nhớ nghĩ, mong cầu. Không rời chánh định, nhằm mong đạt được trí tuệ. Lìa bỏ những đàm luận về thế tục, khiến chỉ luôn được an trụ. Giảng dạy, hóa độ các nghiệp ở đời mà không hề tính toán, nghĩ suy về nẻo tục. Ý không quên tiêu trừ bao thứ che phủ. Thường nhớ đến kinh pháp, tâm luôn trong lặng sáng tỏ. Vào khắp nơi chốn luôn được thích nghi, chẳng bị mất thứ vị cùng bao nẻo biến chuyển của các pháp. Hiểu rõ thế gian, dứt bỏ mọi nơi xâm phạm sai trái. Đầy đủ các nghiệp, dùng sáu Độ để thực hành. Bỏ sự không tin tưởng để gồm thâu tâm tin tưởng chân thành. Dốc sức với Phật đạo, luôn nhớ nghĩ đến pháp Phật. Siêng năng sám hối lỗi lầm, vui thích hỗ trợ mọi công đức. Giúp chúng sinh tạo nhân lành, khuyến thỉnh chư Phật chuyển cỗ xe chánh pháp. Nên ngợi ca các bậc Thánh mà trừ sạch thói dua nịnh. Tích lũy công đức, thường tinh tấn tu tập. Tâm lìa biếng trễ, siêng cầu đạo pháp. Nương theo các pháp của đạo nghiệp Bồ-tát. Ham thích bố thí với tâm niệm xót thương đối với muôn loài. Luôn ôm ấp ý nguyện lớn lao, mong dứt các nghiệp, luôn hóa độ thuận hợp như giáo pháp đã nêu. Thân, khẩu, ý luôn thanh tịnh, sạch hết mọi cấu bẩn. Chí thành như vậy, chỗ nương của những lời chỉ dạy theo đó mà thực hiện thuận hợp, bỏ phế. Không bám ở cõi Dục, cũng không dựa nơi cõi Sắc, cả đến cõi Vô sắc tịch tĩnh. Từ nơi đó mọi tạo tác có thể trông vào quả báo mà vui vẻ tin tưởng. Kiên định, an trụ nơi pháp Đại thừa không thoái chuyển. Nhờ vậy mới đi vào các cõi tối tăm ngu muội. Nếu giữ lấy cái tâm keo lận thì không thể tạo được tâm tôn kính cúng dường. Giáo hóa chúng sinh dứt bỏ mọi thói dua nịnh xấu xa, không dám coi thường chư Phật, cũng như không mang tâm mưu hại đối với chúng Bồ-tát. Không dùng ngôn ngữ hư vọng làm loạn nẻo đường của bậc Thánh. Nhận thức về sự tinh tấn cùng biếng trễ với tâm bất nhị. Dứt mọi ganh ghét đối với sự đóng góp của kẻ khác giúp cho mình hoàn thành thệ nguyện lớn. Diệt trừ mọi tưởng về kiêu mạn, sân hận, ngu si, điên đảo, tà hạnh, từ đó mới đẩy lùi vô minh. Thân mình luôn tỉnh, chẳng nên trách phạt sự thiếu kém của người. Thường hổ thẹn, tự trách mình chưa được như pháp Phật đã dạy. Thân hành đạo lại phải biết rõ nẻo nên dừng. Lìa bỏ bao liên hệ buộc ràng của thân tộc. Nên chán ghét đối với mọi biến đổi suy hao mà dứt tâm vụ cầu lợi dưỡng, nếu có chỗ đạt được nên phân chia cùng người. Giới luật không chút sai phạm, chẳng nên học theo chúng nhân các thói tệ ngủ nghỉ. Ví như bị lời thô bỉ mạ lị thì nên nhẫn nhục lặng im. Miệng buông câu lời phải nên thận trọng để luôn đứng vững trong đạo mà giáo hóa muôn loài. Ngợi ca sự tinh tấn để cho tâm ý luôn được vui vẻ, thuận hòa. Cùng các Bậc Giải Thoát gần gũi, học hỏi. Khuyến khích nhiều người tham vấn, hỏi han giúp cho việc tu học thêm phần thư thả. Chẳng lìa sự tĩnh lặng riêng mình, thường phải biết tự kiềm chế, ngăn giữ. Đức của bao công phu tu học là nhằm vui cầu thấu đạt diệu nghĩa tánh không, chẳng chuộng các pháp hữu vi, chẳng dựa vào thân xác bốn đại giả hợp. Không ham thích với mọi dòng giống, chẳng nhận lấy mọi nẻo nhập suy thoái, sai lạc. Chẳng cầu tài lợi, không bám víu vào các cảnh giới. Tâm hành nẻo kiên định, dũng mãnh để trừ diệt mọi điên đảo, mê lầm. Tu tập theo đúng Thánh hiền để nhận ra gốc tâm vốn trong sáng.
Chứng đắc các bậc Địa thanh tịnh, dừng dứt mọi hành. Bố thí nhưng chẳng mong cầu. Giữ giới nhưng dứt mọi chốn nhớ nghĩ. Nhẫn nhục lìa mọi nẻo tưởng. Tinh tấn không hề bị mất mát. Thiền định dứt hết mọi xứ sinh khởi. Trí tuệ khỏi phải dẫn dắt. Tôn thờ chánh pháp, tu tập các pháp Bala-mật để an trụ trong cõi bình đẳng. Chẳng nên tôn xưng đức mình, không được hủy báng công lao của kẻ khác. Không dựa nơi sinh tử thì không thể đạt đến Niết-bàn, đó là giải thoát. Trừ sạch bao lớp tình, ái để kiến lập chân đế. Diện mạo luôn hòa nhã tươi vui để lìa bỏ mọi sắc thái giận dữ, từ đó tạo được sự thân mật cởi mở. Cung kính các hàng già trẻ, các bậc sĩ đứng tuổi. Tâm luôn rộng mở, sẵn điều nhân nghĩa ân huệ thích ứng để thể hiện, dứt mọi sự nhiễu hại. Chớ bám chặt vào ngôn thuyết, luôn ca tụng các hạnh tịch tĩnh, vô vi. Ở những nơi chốn hòa đồng thì nên thích hợp với mọi người mà vẫn giữ sự tách rời, riêng lẻ. Tâm bình đẳng, đối với thân oán không nghiêng về nẻo ghét yêu. Mong đạt các pháp Tổng trì, thể hiện tâm thương xót muôn chúng sinh không khác gì đối với cha mẹ, thân mình, con cái, như đối với các bậc Hòa thượng, tôn trưởng. Phụng thờ Phật, Bồ-tát luôn đầy đủ, thuận hợp. Cúng dường bốn sự đối với Đức Như Lai cũng là bày tỏ sự ưa thích cõi trang nghiêm thanh tịnh. Kính trọng Tam bảo, giũ sạch mọi khiếp nhược. Nơi ở thường nay đây mai đó, chẳng mảy may tích chứa, gồm thâu. Khoác tấm y giải thoát đủ che thân, ăn uống hạn chế. Không tham luyến thân mạng. Tánh thường thanh tịnh, luôn thực hành việc khất thực. Chẳng rời cuộc sống tri túc, luôn xa lánh chốn đông đúc, ồn tạp. Không luyến tiếc các quan hệ gia đình tộc họ, cũng chẳng ham cảnh sống thế gian. Chẳng bận tâm về chuyện trang sức, điểm tô nên dứt bỏ sạch thói hư dối. Ngôn từ dễ mến khiến người nghe không ai là không hoan hỷ. Luôn khuyến khích giúp đỡ mọi người để họ có cơ hội phát tâm hướng về đạo. Nơi hành hóa dứt mọi mê lầm, chốn hội nhập thuận hợp giáo pháp. Thường thường hỏi han, ca ngợi chư Phật là Bậc Đại Giác. Tâm dốc cầu đạo pháp, luôn kính trọng Thánh chúng. Tôn quý thuận theo tuệ sáng, tu tập đúng nẻo trí đạt. Giúp mọi người thiền định, tư duy để dẫn dắt, giáo hóa họ trở nên tinh tấn. Thường nêu bày, giảng dạy về đạo đức, luôn tuân theo giáo pháp. Tin tưởng nơi cội rễ của công đức để từ đó dẫn dắt, giáo hóa chúng sinh. Ham thích, dốc tin, giảng dạy chỉ rõ về bao nỗi khổ trong đời. Uy nghi luôn được thanh tịnh, thường giữ vững tâm nhân ái lớn lao. Phải biết hổ thẹn, xấu hổ, tỏ ra bận tâm lo lắng đối với các trường hợp khó khăn. Nên từ bỏ sự giao du với kẻ ác cùng bè bạn bất lương. Tu tập theo con đường rốt ráo.
Tâm chí dốc cầu các cửa giải thoát. Mong đạt đúng nẻo Thánh hiền. Tôn phụng bốn ý chỉ hiện bày. Học theo những quyết đoán bình đẳng. Làm dấy khởi phong phú các Căn. Dốc tu tập các Lực. Luôn quan sát bảy Giác ý. Chẳng lìa tám nẻo đường chân chánh. Đạt đến cõi tịch diệt. Nơi quán tưởng được tỏa sáng nên tâm dứt sạch mọi vọng chấp. An vui với kinh pháp, tinh xá luôn được trang nghiêm. Chẳng chốn nào khiến mình phải hổ, không xứ nào làm mình phải thẹn. Trừ mọi điên đảo, dứt hết tưởng tham cầu, ham mộ hạnh Bồ-tát. Rõ Phật đạo là mênh mông, vượt hết thảy mọi cõi bờ, giới mốc, lìa bỏ hạnh tà. Tiêu diệt bao tạo tác chạy theo nẻo tà trong vô số kiếp thời xa xưa. Tu thân tự làm cho mình luôn trong sạch không còn chút bợn nhơ. Chí cầu tịch tĩnh, giữ gìn giới luật tôn quý đúng theo giáo pháp, không mảy may tỳ vết lỗi lầm. Mọi hành hóa theo đúng thời, lìa bỏ phi thời. Nhận rõ mọi việc theo nghi thức thích hợp. Mọi sự đi đến, tới lui phải luôn đủ khắp. Hiếu thuận hai bậc thân thuộc.
Lại phải biết hạn chế chuyện ăn mặc cùng mọi nhu cầu. Thần thông hiển bày thông đạt, ý tu tập các pháp định thêm sáng tỏ bội phần. Không hủy hoại các hành động chân chánh để độ thoát chúng sinh. Tôn phụng, thọ trì mọi kinh điển của Đức Như Lai giảng dạy. Tùy thuận, hỗ trợ, khiến cho mọi thứ lỗi lầm cấu uế đều được trở lại trong lành. Dẫn dắt các Phật tử trong việc cung cấp cúng dường chúng Bồ-tát và chư Phật để du hóa khắp chốn. Tu tập đạt trí tuệ sáng suốt thể hiện qua các hành xử nhân từ, hòa ái. Ham thích phụng thờ chánh pháp. Khuyến hóa hết thảy muôn loài khiến chúng hướng về đạo. An vui sung mãn trong diệu nghĩa của đạo pháp. Xem xét cứu giúp ba đời. Dốc chuộng nẻo tịnh, mọi Y báo về quốc độ luôn trang nghiêm, thanh tịnh hết mực. Thường đem lại an vui cho lớp người tật bệnh như cung kính hai bậc thân thuộc. Do đạt được các pháp Tổng trì nên dùng làm hành trang cho sự hành hóa, quán tưởng. Thực hiện trọn vẹn pháp Tam-muội thì đó chính là ao tắm mát lành. Chánh pháp thanh tịnh là nơi chốn sinh ra muôn vật. Dốc đạt sự kiên định an trụ nơi hết thảy các pháp vô vi. Tâm chuyên, ý định, tuy có nơi chốn hóa độ mà không hề thấy có nơi chốn ấy. Không buộc, không cởi, không tướng, chẳng tướng. Mọi chỗ tuân hành dẫn dắt, giáo hóa cũng không thấy có đông đảo người ham chuộng. Do nắm vững được các pháp Tổng trì mà có thể kiến lập cõi Phật. Mọi hiểu biết cần được soi xét thẩm định để từ đó việc diễn giảng luôn trong sáng rõ ràng. Luôn chiến đấu dũng mãnh để chế ngự hàng phục mọi cảnh giới quân ma. Tiêu diệt bao thứ phiền não trần cấu cũng như trừ diệt mọi điều bất thiện. Giữ vững chí nguyện luôn được thanh tịnh sáng rỡ, khiến các loài ma đều chẳng thể phá hoại. Đem ánh sáng của đạo thích nghi tận cùng mọi nơi chốn, xứ sở. Cũng chẳng cần được đời xưng tụng. Các chúng ngoại đạo nghiệp tà không thể biết được. Nên cố vượt qua các pháp của bậc Thanh văn, Duyên giác. Nơi chốn dốc tâm quy ngưỡng là nhằm đạt đến Nhất thiết trí. Chỉ rõ mọi nẻo hướng tới của chúng sinh để dẫn họ hướng về chân đế. Vui thích với các pháp an lạc. Luôn mong muốn khai thị cho chúng sinh. Hòa vui với cuộc sống thế gian để khiến họ ham chuộng các pháp giải thoát. Dùng thuyền đạo pháp đưa tất cả cùng cập bờ giác. Chọn nhiều bè để cùng chuyên chở, tế độ. Thương xót đến hàng chư Thiên mà nêu bày một pháp. Nơi chốn tạo lập không phải là xứ, cõi mập mờ. Muốn bố thí tâm phải được trong lành, thể hiện sự vui hòa nhằm dẫn dạy đám người ham thích vui đùa, khiến họ hướng về nẻo đạo. Nếu ham chuộng việc nghe rộng, biết nhiều, phải nên cung kính, khiêm tốn, thuận hợp, dứt mọi phóng túng, buông lung. Đạt được pháp Tam-muội thời chí có thể hành theo mọi nẻo cao xa vi diệu hơn cả núi Tu-di. Vui thích với năm căn để từ đó xem xét mọi vật đều là không. Tâm tinh tấn đạt không thoái chuyển. Pháp ấy được gọi là Pháp nhẫn vô sở tùng sinh. Các vị Bồ-tát mới phát tâm tu học phải nên dốc sức phụng hành. Đại chúng Chánh sĩ luôn giữ gìn trí tuệ còn tối tăm, thiếu sót của mình để quyết cầu quả vị đại giác. Dùng dũng lực của bậc Chánh sĩ để thấu đạt, dứt mọi phân biệt tôi ta, an trụ nơi Nhất thiết trí. Thông tỏ khắp hết muôn loài mới có thể độ thoát tất cả. Đó chính là chỗ chư Thiên hết mực tán dương, chư Long thần dốc tâm phụng thờ ngưỡng mộ, chúng dân vâng phục thừa hành. Mau chóng đạt được việc tạo lập từng ấy sự nghiệp tu tập hành hóa. Các bậc tu học hoàn tất thảy cùng quy ngưỡng. Các vị Bồ-tát cũng đều tán thán, ca ngợi. Tất cả các bậc pháp chủ thảy đều tuyên giảng thông suốt. Các căn được tịch tĩnh, an định, dùng làm thành quách chắc chắn, khéo dùng phương tiện quyền xảo để đem lại lợi lạc cho muôn loài. Đạt được tư duy tinh túy để dứt sạch mọi nẻo hồ nghi. Đoạn trừ những do dự, lìa bỏ bao lớp phiền não. Cứu độ giải thoát cho vô số chúng sinh. Nếu gặp những kẻ bệnh tật liền hiện bày đủ thứ thuốc quý, chữa lành mọi bệnh, diệt trừ bao nỗi đau nhức. Thường chuộng tư duy, dốc cầu tinh tấn, từ đó tạo được sức mạnh vô úy. Muốn gầm lên tiếng rống của sư tử. Thâm nhập vào cõi biện biệt, tham bác để diễn giảng rộng mọi nẻo nghĩa lý. Thần thông biến hóa, vui thích lãnh hội các pháp. Đạo nhãn được thanh tịnh, sáng tỏa đến cảnh giới giải thoát tịch diệt. Dứt mọi nẻo ác, hóa độ khắp ba cõi: Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Tạo các cõi Phật, hưng phát như thế.
An tọa nơi tòa Sư tử, nhập pháp Tam-muội Như huyễn. Thành tựu viên mãn đạt đến quả vị Nhất sinh bổ xứ. Chưa từng quên mất gốc rễ của mọi công đức. Giáo hóa đem lại niềm vui thích cho hạng biếng trễ, giúp họ nhổ sạch mọi tham dục nhỏ hẹp. Tạo lập, siêng năng tu tập, luôn nhớ nghĩ đến việc tế độ hạng lười nhác, sa đọa. Dẫn dắt chúng sinh quy thuận theo ba thừa. Trừ bỏ hết thảy mọi tạo tác về nơi chốn, chỗ ở, sở hữu. Dốc đạt Nhất thiết trí, chứng vô lượng pháp môn, thâu tóm được diệu nghĩa đệ nhất. Ở nơi giáo pháp, giới luật giải thông diệu hành không. Dứt sạch mọi tranh biện, hý luận. Tin Phật đạo, phát khởi thệ nguyện vô thượng. Tuy gắn bó với mọi nhớ nghĩ nhưng không vướng những tưởng chấp vọng tà. Cùng được thấy ba thời, không bị rơi vào nẻo quán tưởng lầm lạc. Khéo sử dụng phương tiện quyền biến để đi vào hết thảy cảnh giới. Làm cho đại đạo được dấy khởi hiển bày, không xem nhẹ việc dốc đạt giải thoát. Ưa chuộng đối với bậc Pháp sư cũng như chú trâu con không thể chán ghét trâu mẹ. Dù theo Pháp sư nhưng không tham cầu lợi dưỡng. Những khi thuyết pháp nên xem xét trước sau, chớ tỏ vẻ khinh mạn chúng hội. Chẳng dứt pháp thí để thể hiện tâm nhân từ, hòa ái. Tôn kính Tam bảo, từ cội nguồn ấy mà phá trừ mọi lớp lưới nghi. Tôn phụng, thừa hành, luôn ân cần gắng gổ, dứt bỏ mọi kiểu bê trễ, nửa chừng. Trọn không sai trái, mất mát nẻo hành hóa của bậc Thánh minh. Nương tựa, thâu tóm cửa giải thoát, cùng đem lại niềm an lạc, điều hòa yên định, giũ sạch mọi phiền não cấu nhiễm, tâm không còn chút tham vướng. Tư duy nên dựa vào sự nhớ nghĩ về việc làm hưng thịnh ba sự, là sự nghiệp hành hóa của chư Bồ-tát. Đem “Ba sự” ấy để làm rõ cho chúng hội biết về đạo vị ngon ngọt tươi tốt. Nếu muốn biến hóa thuyết giảng ban bố đạo nghiệp, âm thanh phải như tiếng sấm dậy. Dẫn dạy về lẽ sinh tử theo mười hai nẻo duyên khởi. Khai thông cửa Chỉ Quán, hướng đến cánh cửa giải thoát. Thương xót đi vào những con đường rộng lớn mà thân luôn an ổn, thung dung, tâm dứt sạch mọi lo lắng, sợ hãi. Nơi chốn yêu mến đối với các bậc Thánh, chưa từng bị mất hay bị lầm lạc. Sự bình đẳng, bền chắc do công đức của Như Lai đem lại, không gì có thể làm cho xoay chuyển. Noi theo gốc mọi ân đức, phước báo thêm dày. Chỉ rõ cho chúng về đầu mối của điều thiện để tu học theo trí tuệ Phật. Thờ phụng trọn đủ đối với bậc mình nương tựa, đó là sự tạo tác tươi sáng tốt đẹp. Chốn hành hóa cũng tốt đẹp thích hợp, chẳng tự mình làm cho mờ tối. Dốc tu theo Phật đạo, làm hiển lộ trí tuệ thâm diệu. Thuyết giảng về cõi Phật luôn đối đáp thông suốt trước mọi lời nêu hỏi. Chính từ chỗ khó khăn vô bờ mà các pháp thanh tịnh giải thoát được phát sinh. Không chán lìa Phật đạo, chẳng từ bỏ trí tuệ ít ỏi. Cùng chia sẻ khó khăn trong tu học thì cùng yêu kính sự hòa đồng. Hướng đến giá trị của sự dũng mãnh, tâm luôn gắn bó với hành động. Muốn có được nơi chốn thuyết giảng đầy đủ thì nên giúp đỡ để cùng giảng thuyết đạt được từng ấy sự tốt đẹp vui thích. Tất cả mọi sự báo ứng nên đem nêu bày cho chúng sinh biết, khiến họ không dám phạm phải. Thông tỏ các pháp nên khéo hành xứ các phương tiện. Tâm luôn nhớ nghĩ về điều tốt đẹp an lành, nhờ đó mọi nhận thức được tường tận, chắc chắn. Luôn tự xét nét về mình để có thể làm vui lòng kẻ khác. Dứt phá bao lớp lưới mê trùm để tiêu trừ vô minh che lấp. Lìa xa các hành, trừ bỏ mọi thức, cắt đứt danh sắc, làm cho lục nhập trở nên tịch diệt. Đoạn trừ các thọ. Diệt sạch mọi xúc (Thống dương: Thọ). Tiêu trừ các ái. Lìa bỏ mọi thủ. Tận diệt mọi nẻo hữu. Nhổ sạch mọi nơi chốn của sinh. Vượt qua cảnh già, bệnh, chết. Vĩnh viễn diệt tan khổ não, dứt hết mọi nạn. Đã lìa khỏi lưới khổ thì tâm không còn chỗ tham đắm vướng mắc. Nơi chốn hành hóa hết mực thông suốt, dốc sức tế độ ba ách nạn. Mọi đối tượng xem xét không còn cấu uế, từ đó tuyên giảng rộng khắp kinh pháp. Bậc nam tử một mình cất bước vững vàng, rửa sạch mọi cấu nhiễm, dứt bỏ sự tham luyến của thân. Nghe, lãnh hội giáo pháp, giữ gìn, nhờ đó mà thâu tóm, thu phục các pháp. Tu học đạo không biết mệt mỏi, hội nhập vào biển lớn của công đức, chưa từng thoái lui. Tích chứa không thể tính kể bao công đức, sự nghiệp về ý nghĩa chân thật. Phật đạo được xiển dương, mắt pháp thêm phần sáng tỏ, hiển lộ. Ngợi ca Thánh chúng, hàng phục đám học giả ngoại đạo. Hết lời tán thán giáo pháp dạy người, thực hành đúng nẻo Bồ-tát. Chẳng cười cợt vui mừng, diệt trừ các mối lợi dưỡng qua ngày tháng. Phải nên xa lìa tội, phước, học theo hạnh như mặt trời. Cung kính đối với quốc vương cùng các bậc Thánh khai mở, dẫn dắt. Chứa nhóm các nhân thanh tịnh giải thoát để đạt đến quả vượt khỏi sinh tử. Nơi chốn hành hóa luôn có đủ uy nghi, biết rõ được thân mạng nhiều đời trước. Nơi chốn sinh ra luôn nhớ đến, chớ quên. Chán ghét các pháp mê muội, tối tăm để dốc tâm quy kính Như Lai. Mọi công đức chân chánh đã được tạo lập từ đó. Vô lượng công lao, sự nghiệp về đạo, nơi chốn giữ gìn giáo pháp đều quy về Nhất thiết trí. Nếu dùng để tuyên giảng rộng khắp thì cần đến sự an trụ nơi kinh sách được biên chép đầy đủ. Nên dứt bỏ mọi mối sợ hãi nên chẳng rơi vào biên vực tận cùng. Kiên định, an trụ đạt được sự bất động để tạo nên nơi chốn thuyết giảng. Tất cả muôn loài ở thế gian đều chung lời ca tụng. Chư Phật thời quá khứ thảy đều thuyết pháp ấy. Luôn được gần gũi với chư Phật thời hiện tại và vị lai. Mọi sở nguyện đều hoàn tất, đạt được công đức, phước báo vô thượng. Thâm nhập vào mọi nơi chốn hành động của chúng sinh, làm cho hai thừa Thanh văn và Duyên giác được sáng rỡ hiện bày. Luôn phụng trì pháp Phật mà không hề quên mất tất cả các pháp môn tu tập hành hóa. Đó là vị Phật trong cuộc đời. Tuyên giảng thông suốt chánh pháp, chóng đạt được trí tuệ của Bậc Chánh Giác. Tham cầu, hỏi han về đức độ của Phật, có thể che chở hộ trì ba thời. Dẫn dắt, giáo hóa mọi chúng sinh trong những hoàn cảnh hiểm nạn bức hại để đưa họ về với thế giới an nhiên tự tại. Theo phương tiện quyền xảo để phân biệt Địa chủng. Nhập các pháp Tam-muội để thấu đạt về Thủy chủng và Hỏa chủng. Kiến lập Phong chủng. Lại dùng Không chủng để đi đến các cửa giải thoát của đạo. Làm cho Không chủng thanh tịnh, từ đó dùng trí tuệ dẫn dắt đem lại lợi lạc cho ba cõi. Dứt mọi mối lo, diệt trừ mọi sự trói buộc, không để sót mảy may. Trừ bỏ mọi vướng chấp, xua tan bao lớp che phủ khiến tâm luôn được yên định, tịch tĩnh. Hiểu rõ con đường tu tập, thân du hóa khắp đó đây nhưng vẫn luôn luôn an tĩnh, thư thái. Cũng rõ mọi chốn hành động của kẻ khác cùng các nơi, xứ được tạo lập còn, mất. Nếu dùng văn tự để diễn đạt thì không quá nệ vào câu, lời. Dứt bỏ mọi phân biệt tôi - ta. Tâm luôn lìa mọi nơi chốn dựa cậy, ham muốn. Tuy còn ở trong cõi đời nhưng phải luôn thấy rõ bao thứ ô trược của nó. Hội nhập vào cảnh giới vi diệu, dần dà làm thức tỉnh, dẫn dắt hạng biếng trễ, lười nhác đối với mọi khó nhọc. Vượt khỏi, hơn hẳn các học phái nhưng không làm hủy hoại những khu vực khác. Dốc tấn tu đạo pháp mà không có chỗ vướng chấp. Luôn cung kính các bậc Thiện sư. Lìa mọi ham muốn về ngủ nghỉ, vượt qua bao bờ dốc ngăn ngại. Dứt hồ nghi, đuổi tham dâm, bỏ lười trễ. Ta - tôi cùng hợp. Đem ánh sáng để dẫn nẻo cho chúng sinh. Không vun quén cho thân mạng, chẳng tham lam cho việc học hỏi tu tập. Chỗ nói năng nên dè dặt, thận trọng. Lời câu luôn tạo được vẻ thanh nhã, hòa hợp. Luôn dốc tâm, thành thật trong tư duy, mọi nêu giảng sẽ chóng thực hiện. Mọi sự nghiệp vì đạo phải thể hiện sự nhân ái, trong sáng, không dấy tâm cầu lợi. An vui trong cảnh vắng lặng tịch tĩnh, mọi nẻo hành hóa đều dựa trên nền ấy. Không mang tâm khiếp nhược, chẳng trách cứ những yếu kém của kẻ khác. Tự giữ lấy thân để hành hóa, luôn tôn phụng đạo pháp. Phải nên thuận theo lẽ bình đẳng. Không nên ở lâu tại một vùng đất nào để du hóa. Buông, mở mọi nơi chốn tham riêng để có được sự bình đẳng lớn lao trong hiện tại. Diệt trừ mọi tăm tối nơi thân để tâm luôn được trong sáng, kiên định. Theo phương tiện mà thực hiện sự tu tập cùng phát triển đời sống tinh thần, nhưng cũng không chấp vào chỗ tư duy. Không đem những tham, vướng của thức mà cầu giải thoát. Tâm luôn chuyên nhất, an định, từ đó mọi phạm hạnh được dấy khởi, hiện bày. Cùng theo nẻo tâm Từ, thương xót mà thi ân khắp chốn. Thường tạo được sự vui vẻ, sắc diện luôn tươi tắn, hòa nhã do thấm đượm sự an lạc từ đạo pháp. Luôn xem xét, cứu giúp hạng bị đọa lạc, bức hại để họ mong được nương nhờ. Thường dùng các giới ấm làm nhân để tế độ bao người. Thực hiện các pháp Tam-muội, thiền định, đem trí tuệ ấy hội nhập thông suốt các pháp. Thông tỏ văn tự nên tư duy thấu đáo tận cùng. Cởi mở bao thứ trói buộc khiến dứt hết mọi nỗi sợ hãi. Hội nhập vào các thứ âm thanh, đạt được mọi diệu nghĩa. Luôn ưa thích diễn giảng rộng khắp, làm cho đạo pháp được hiển bày. An vui với các giáo pháp của Phật nên không chán chốn tĩnh lặng. Chí gắn bó với đạo, không vụ chuyện trên dưới, thấp cao. Hiển dương các pháp không hề thiếu sót, tùy thuận nhưng không lừa dối đối với chúng sinh. Chí nguyện kiên cường, từ đó mọi việc đều được viên mãn. Sớm tối tinh tấn, dứt hết mọi bê trễ, biếng lười. Tất cả được gọi là pháp Tam-muội Chánh định thông tỏ mọi ngọn nguồn các pháp. Các vị Bồ-tát thực hiện pháp Tam-muội ấy thì có thể đi vào mọi cảnh giới của tất cả chúng sinh, tôn phụng bậc Nhất thiết trí.
Bấy giờ, Đức Phật đọc tụng:
Hành thanh tịnh
Thánh đạo lớn
Tâm tin vui
Dứt nghiệp lầm
Ý tự giác
Biện tài đủ
Là Tam-muội
An trụ bày
Hàng phục ma
Trừ mọi cấu
Dứt nhân duyên
Sinh, tử, dục
Được gọi trí
Phước đức dày
Giúp ba cõi
Pháp vượt bờ
Tuệ Thánh rạng
Theo phương tiện
Chủng hiền tỏa
Dứt ân tình
Độ chúng nạn
Phật ngợi khen
Tam-muội ấy
An trụ bày
Nhập vi diệu
Gốc mọi cửa
Được thông tỏ
Dứt giận dữ
Đoạn khổ não
Hằng an lạc
Tam-muội ấy
Nẻo chư Phật
Tâm rộng mở
Hoa giác ý
Nhận Thánh văn
Thâu phương tiện
Mọi an trụ
Giác niệm thông
Nêu thắng đó
Tam-muội định
Ý giác tươi
Cửa thoát chiếu
Như trăng đầy
Ngàn sao ngời
Ánh đạo tỏa
Khắp ba cõi
Pháp ấy vượt
Khen như trăng
Ba đạt trị
Được thanh tịnh
Nơi thanh vắng
Bên cây tĩnh
Dứt lợi dưỡng
Cùng dua nịnh
Tích chứa mong
Tam-muội ấy
Trừ bỉ thử
Thiện không mất
Chẳng vì lợi
Ngợi thân đức
Đủ ba y
Thường khất thực
Dốc tu học
Hành Tam-muội
Giữ đúng giới
Theo Thánh hiền
Hỏi minh trí
Luôn riêng khen
Đem nêu giảng
Phụng nẻo chính
Chóng đạt đến
Tam-muội định
Mọi chúng sinh
Đủ vị nhọc
Lìa đông đảo
Vui tịch tĩnh
Dốc tu tập
Tam-muội diệu
Chớ dua nịnh
Chuộng tạng ấy
Hổ thẹn nương
Ăn rõ vị
Nằm giường thiền
Ở chốn quán
Vui vô ngã
Luôn an lạc
Giảng minh triết
Ý ung dung
Người mắng, nhẫn
Như tiếng vang
Theo nghiệp chân
Tâm dứt oán
Muốn đạt đến
Tam-muội ấy
Nên biết tin
Tội phước báo
Dứt điên đảo
Cùng nẻo ác
Dốc tu Không
Nẻo Thánh hiền
Sớm tối siêng
Lực tinh tấn
Đạt Tam-muội
Đến cửa tuệ
Thảy cùng lìa
Đọa đường thừa
Chí bình đẳng
Đạo chân thật
Chứng vô sinh
Tỏ pháp diệu
Kẻ dốc tu
Phật thương nhớ.
-oOo-
Đức Phật nói:
–Này Bồ-tát Hỷ Vương! Do đạt được pháp “Tam-muội thông tỏ mọi ngọn nguồn các pháp” ấy mà lý giải tất cả các pháp, không còn có sự điên đảo. Các pháp vốn không động nên không thể làm cho chúng bị nghiêng ngửa. Nơi chốn hành hóa, chí dốc cứu thoát chúng sinh trong năm nẻo. Chế ngự, hóa độ các thứ ma, khiến chúng tự nhiên quy phục. Làm người trong thiên hạ thì được muôn loài yêu mến, kính trọng, hàng trí thức khâm phục, ngưỡng mộ. Thông đạt các pháp cùng với phi pháp. Đức ấy hết mực sáng tỏ, cũng giống như mặt trăng tròn đầy chiếu sáng nơi trăm ngàn tinh tú. Ở lâu trong cõi sinh tử, mọi chúng sinh đều biết, từ đó khuyến khích, hóa độ hết thảy. Chí nguyện luôn dựa trên tánh thanh tịnh. Dứt bỏ mọi nơi chốn thọ nhận. Luôn dốc vì sự cứu giúp muôn loài trong cả tam thiên đại thiên thế giới, từ đó dẫn tới những thành tựu các quả vị của đạo. Nhận rõ diệu lý vô ngã cũng như tỏ lẽ không có chốn để hướng về. Thấy các nạn trong ba cõi mà giáo hóa, dẫn dắt, vì chúng sinh mà cứu giúp. Đạt được sự cung kính nhưng không vì thế mà dấy kiêu mạn. Vượt mọi sự che phủ, ngăn chận, thông tỏ mọi điều tuyên giảng ban dạy của chư Phật. Diễn thuyết, diệt độ, đều luôn thích ứng với căn cơ cùng hoàn cảnh, do vậy mà đạt đến ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân. Đối với mọi sự việc: có lợi, không lợi, hoặc khổ hoặc vui, có danh không danh, ca ngợi hay bài bác… thì nên đem sự hiểu biết đúng đắn về đời gồm có tám pháp, tất không còn mọi vướng mắc, tham đắm. Cứu độ mọi chúng sinh, đem diệu pháp cam lồ để vỗ về, an ủi. Nêu bày rõ sự diệt độ là nhằm khai ngộ hết thảy các loài. Lìa mọi phiền não nung đốt, dứt hết các chướng ngại cản ngăn. Chưa từng dựa bám ngoại cảnh làm mê hoặc sáu căn. Đi vào mười sáu chữ của pháp môn Tổng trì, sẽ biết được nơi chốn đi tới. Nên tuyên giảng khắp điều ấy thì sẽ chóng đạt các pháp Tổng trì.
Những gì gọi là mười sáu?
–Một là vô; hai là bộ; ba là hành; bốn là bất; năm là trì; sáu là ngại; bảy là tác; tám là kiên; chín là thế; mười là sinh; mười một là nhiếp; mười hai là tận; mười ba là cái; mười bốn là dĩ; mười lăm là trụ; mười sáu là thiêu. Đó là mười sáu sự việc dùng văn tự để giáo hóa.
Nếu thông tỏ, thực hành mười sáu cách giáo hóa, thông qua văn tự ấy thì sẽ đạt được vô lượng pháp môn Tổng trì cùng quả vị giác ngộ, thấu đạt hết thảy các pháp và được tự tại. Phân biệt, nhận rõ về tâm ý sáng tỏ của tất cả chúng sinh. Tiêu trừ mọi thứ phiền não cấu uế, tất tuyên dương được đạo pháp, tạo được uy lực lớn lao, thông đạt chánh pháp, độ thoát muôn dân, giáo hóa, dẫn dắt về nẻo an lạc. Âm thanh luôn hòa nhã giống như tiếng chuông nhỏ ngân nga. Đạt được sự an trụ trong khắp cõi bình đẳng. Là tiếng gầm rống của sư tử, thể hiện sự kỳ diệu lồng lộng. Đầy đủ các pháp nhẫn vượt bờ, thành tựu được tâm Từ bi rộng lớn. Chiến thắng mọi cảnh giới ma oán. Thông tỏ mọi âm thanh thương cảm của Bậc Chánh Giác. Đạt nhẫn nhục để dứt trừ ngã mạn, chứng diệu nghĩa thâm diệu của thiền định thuận hợp. Nẻo đi, chốn đến tuyên giảng giáo pháp vô thượng. Thâu tóm hết thảy mọi lẽ chính yếu trong kinh điển, không một uy lực nào có thể đạt được. Nhận rõ tất cả các pháp cùng các cửa đạo. Tỏ mọi cõi chốn quy hướng nơi hành động của chúng sinh. Nhớ nghĩ, nhận biết về vô số cõi mà bao kiếp đã từng trải qua. Luôn giữ các pháp để dứt trừ mọi thứ bệnh. Trừ sạch bao lớp lưới buộc trói cùng đoạn hết các mối hồ nghi.
Chóng đạt quả vị Chánh giác, nêu bày ánh sáng giác ngộ tỏa lan. Hội nhập khắp cả các pháp theo ánh sáng trí tuệ bậc Thánh chứng đắc. Dốc dùng phương tiện để xua tan mọi phiền não nung đốt. Giảng thuyết các pháp mà chính mình đang tôn phụng, hành hóa. Uống, ăn các diệu pháp cam lồ, phá tan mọi lớp mờ do dự. Lìa bỏ nơi chốn cư ngụ, làm hiển lộ tính chất tự tại, không còn bị phủ che, đem tâm Từ bi mà đùm bọc chúng sinh mọi cõi. Nhớ nghĩ về thân mạng đời trước, cùng nơi chốn đã từng đến, đi. Chí dốc cầu giải thoát, đức sáng nhằm soi đường cho hàng ngu muội tối tăm. Nơi hướng tới của mọi hành hóa là nhằm đạt đến trí tuệ của Bậc Chí Tôn. Thu gồm hết thảy mọi tưởng để tạo lập mọi sự an trụ. Không để mất cõi đạo, cho dù vượt qua bao chặng biến đổi. Thông đạt mọi ngôn ngữ âm thanh mà cũng từ bỏ tất cả chúng. Cõi Phật sẽ hiện ra đầy khắp ngay trong khi dứt sạch mọi phiền não trói buộc. Xa lìa năm ấm mà chẳng dấy tự tại, tự tôn. Mau rõ mọi ngôn từ, sử dụng điều đó nên tiện lợi trong việc hàng phục chúng ma. Dứt bỏ mọi học vấn ngoại đạo, sẽ thấy được không thể kể tính chư Phật hiện tại trong mười phương quốc độ. Lãnh hội các pháp được thuyết giảng, luôn dốc thọ trì không hề quên lãng. Theo sở nguyện ấy, đạt được pháp Tam-muội, đem lại bao niềm an lạc. Nếu có vị Bồ-tát nào đạt được pháp Tam-muội ấy thời sẽ gọi đó là đạt đến Nhất thiết trí. Vì sao? Vì do hoàn tất pháp định đó, chỉ trong khoảnh khắc là tâm ý phát khởi, từ Nhất sinh bổ xứ thành Bậc Tối Chánh Giác. Từ gốc là một khởi thành hai, hai đến ba, ba đến bốn. Từ sự phát ý đó mà liền đạt đến Phật đạo. Vì sao? Vì người thực hiện hoàn tất pháp chánh định ấy chính là đã đạt Nhất thiết trí.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bèn đọc tụng:
Muôn lời dạy dứt lậu
Bậc hơn hẳn muôn loài
Nơi xuất không chốn về
Do thoát mọi nẻo hướng
Hàng phục, dứt tham đắm
Thù thắng, khởi vô hạn
Chấp trì cảnh chung ấy
Diệu hạnh của mười phương
Lìa tranh nên an lạc
Tâm xao, nhiều bụi cấu
Bao người thảy cùng vui
Ngôn từ luôn lưu loát
Theo thắng dứt vướng chấp
Lìa bỏ chốn tối tăm
Tổng trì chánh pháp ấy
Kiến lập ở mười phương
Thông tỏ đạt giải thoát
Đến bờ giác an vui
Trời người luôn kính trọng
Chốn cứu giúp hơn hết
Các hành nhằm vượt bờ
Dũng mãnh, đức thể hiện
Dốc tu, phụng kinh văn
Mười thứ lực đạt đến
Mọi nạn tạp đều dứt
Thấu đạt cội nguồn không
Theo tâm chốn yêu thích
Mà dẫn dắt muôn loài
Được theo đúng nẻo chính
Trừ cấu uế bao đời
Mắt đạo nhờ đấy tỏ
Chốn hành đạt không hành
Ý mạnh đầy tình thương
Xem người như con trẻ
Người quý, mọi chốn đến
Khuyên dạy hạng nghiệp tà
Luôn không nơi phá hoại
Chúng, loài thảy thông tỏ
Nơi ấy tạo lập hành
Muôn loài nào sánh được
Khắp mười phương được giúp
Cùng bao kẻ chậm bước
Khuyên vui người không cùng
Luôn tu tập an định
Nghiệp nhà buộc, phải lìa
Phát khởi như cam lồ
Phụng trì kinh điển ấy
Nương bậc đức tối thắng
Công sức thường tích lũy
Giảng dạy bao lớp người
Ban vui chúng ngu muội
Trọn dứt nẻo phóng dật
Nơi sáu nẻo thấu tỏ
Thấu đạt lẽ tịch tĩnh
Chúng nhân thích an hòa
Chốn ấy công đức hiện
Hành hóa thật thù thắng
Như trăng sáng không bợn
Độ thoát chúng trời, người
Đường trước dứt sợ hãi
Danh xưng tụng khắp chốn
Thí cam lồ thù diệu
Chốn ấy nên hành hóa
Mau đạt đến Phật đạo
Vững nơi chốn nên trụ
Cõi Phật khắp mười phương
Tuyên giảng pháp giải thoát
Dùng độ bao trời, người
Pháp ấy thậm vi diệu
Cũng nêu hạnh chí chân
Nẻo ấy gắng tu trì
Luôn vui cùng pháp nhũ
Hàng phục thảy chúng ma
Lòng nhân hòa an định
Độ thoát mọi nẻo khổ
Quy ngưỡng đường chính: Phật.
Nơi về, chốn tối thiện
Lìa mọi nẻo gập ghềnh
Dùng phương tiện dũng mãnh
Đức Tổng trì thành tựu.
Đức Phật nói:
–Nếu có vị Bồ-tát tu học thực hành Định ý này thì luôn được chư Phật trong mười phương thảy đều ủng hộ. Dùng ánh sáng từ định chiếu soi tâm, khiến tâm được khai mở thêm sáng tỏ, không còn bị phủ che, nên mọi nhận thức đều dứt sạch bao thứ che phủ, đạt được thần thông, tầm nhìn mở rộng đến vô hạn. Các vị Bồ-tát trong mọi chúng hội thảy cùng hết mực hỗ trợ, khiến thành tựu được quả vị Nhất sinh bổ xứ. Các chúng Thanh văn khắp nơi cùng đến tán thán, đều mong muốn sớm đạt quả vị giác ngộ để cho mười phương chúng sinh được đội ân hóa độ. Đông đủ các vị Phạm vương ở các cõi trời từ tầng thứ bảy trở lên, các vị Phạm thiên ấy đều đích thân thay nhau từ xa luôn hộ trì. Lại khiến chư Thiên chúng thảy đều đến để quy thuận. Thiên đế Thích ở cõi trời Đao-lợi, thân mạng từ những đời trước có nhiều phước đức, luôn biết về điều ấy nên dốc tâm học hỏi pháp chánh định đó. Cũng khiến chư Thiên, người thảy xuống tận nơi chốn lo việc bảo vệ, làm cho mọi sư hành hóa đều được an ổn, ngăn chận những kẻ dối trá xâm phạm. Các vị Tứ Thiên vương đều thân hành đến nơi, lại cũng khiến đám quan thuộc phải luôn ủng hộ vị Pháp sư, trong khoảng hơn bốn ngàn dặm luôn được ổn định, không có những kẻ xấu dò xét, phá phách, khiến cho chánh pháp được yên lành, lần lượt truyền giảng khắp để dẫn dắt, giáo hóa mọi nẻo sinh tử trong năm cõi. Bốn chúng đệ tử cùng các tông phái đều hết lòng cúng dường, lãnh hội sự chỉ dạy không biết mệt mỏi. Luôn vì mọi người thuyết giảng kinh điển khiến cho những người cùng tu học, tâm ý không ai là không được ung dung, tự tại. Mọi người đều đạt sở nguyện của mình, dứt mọi sự oán vọng. Tuy có kẻ mang tâm ganh ghét, muốn có chỗ để quấy loạn nhưng cũng không thể thực hiện được.
Lại nữa, vị Bồ-tát ấy thường tự thể hiện sự nhẫn nhục, tâm luôn đầy mối nhân từ, hòa ái. Nếu hướng về kẻ giận dữ cũng không hề dấy ý niệm xấu ác. Nếu có kẻ nghịch ác muốn đem đến sự nguy hại cho mình, thì chẳng nên cùng kẻ ấy tranh biện, chỉ nên lánh bỏ chứ không cùng gặp. Nếu gặp phải giữa đường thì xem như chẳng hề trông thấy. Tâm từ nhớ nghĩ khắp mười phương đều nên quy ngưỡng về Phật, chớ nên có tâm ác phỉ báng Pháp sư. Luôn nhớ nghĩ đến đạo pháp để dứt mọi điều ác. Luôn tỏ lòng thương đối với những kẻ vì mang tâm độc dữ mà bị đọa vào các nẻo ác, chịu mọi khổ nạn nơi ba đường dữ. Đáng thương cho những kẻ đó, do ngu muội, mê lầm nên cứ mãi chạy theo nẻo độc hại, rốt cuộc trở lại tự làm hại thân mình. Cũng như nơi cạnh gốc cây to, gió thổi mà lại quét ngược chiều, hốt nhiên lửa sinh trở lại đốt cháy thân hình. Hay như loài rắn độc, hàm chứa độc ngày một thêm nhiều, trở lại tự hại lấy thân. Như sắt sinh ra nhiều chất rỉ để tự hủy diệt lấy nó. Ngu tối bưng bít, che ngăn, tâm không được mở rộng, thông tỏ. Chẳng nhớ nghĩ đến ân của các vị Bồ-tát, Pháp sư. Phản bội, sinh tâm nhiễu hại, chống lại các bậc sư phụ. Dốc mang lòng tham thù, ganh ghét, muốn đem điều nguy hiểm để hại bậc thi ân, những kẻ ấy nhất thời tự mình có thể phóng tâm tự tôn, tự đại, nhưng chẳng biết nhìn xem kỹ về các nạn lớn đang chờ mình. Thật hết sức đáng thương!
Chư Thiên, Long, Quỷ thần, Thiên thần nơi hư không, A-tu-luân, Ca-lâu-la, Chân-đà-la, Ma-hưulặc thảy cùng đến đảnh lễ cung kính quy mạng, muốn luôn được chiêm ngưỡng để mãi được bày tỏ lòng ngưỡng mộ, tôn sùng của mình. Dốc sức lãnh hội mọi diệu nghĩa của kinh điển để thông tỏ, thọ trì. Luôn nhớ nghĩ, phụng hành, chưa từng có sự bê trễ, biếng nhác. Chư thần luôn yêu mến, tôn kính, lo toan mọi việc cúng dường. Kính trọng đạo đức như người con hiếu đối với cha mẹ, sau bao nhiêu năm tháng lâu dài ly biệt bị đói khổ, thiếu thốn liên tiếp. Được chư Thiên, Thần minh, Nhân phi nhân yêu mến, tôn kính, oai đức vô cùng lớn lao một cách trọn vẹn như vậy, đều là do Bồ-tát đã dốc tâm tinh tấn tu học pháp Tam-muội ấy có được tâm Từ bi rộng lớn. Vì thế mà đạt được đức lớn đó. Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Nếu có vị Bồ-tát tích lũy công đức, dẫn dắt, giáo hóa vô số trăm ngàn chúng sinh, khiến họ đạt được an lạc vô cùng lớn lao, thì sự việc ấy cũng không khác với việc Bồ-tát chẳng dùng sự vui đùa, lấy pháp Tam-muội kia làm nhân để đạt được công lao thù thắng đặc biệt, đức ấy tên là “Lìa mọi tham đắm đối với sự khen ngợi của mười phương.” Mọi hành hóa đều đạt sự an nhiên bất động như núi Tudi, ánh sáng như nhật nguyệt tỏa khắp thiên hạ. Đức quý giá như đất là gốc sinh ra muôn vật. Đạo được tôn quý, quả vị được nâng cao, sinh ra các đạo phẩm như sáu Độ Ba-la-mật. Bồ-tát hội nhập pháp tạng, tâm như hư không, dứt mọi vướng chấp, riêng mình đi khắp trong ba cõi mà không chút trở ngại. Cũng như chim bay lượn khắp hư không chẳng có tí vết chân. Cũng như hoa sen chẳng nhiễm nơi nước bùn, bụi bặm. Chư Phật trong mười phương thảy đều khuyến khích Bồ-tát thực hành pháp Định ý ấy. Nên nay Phật tuyên giảng rõ: Các vị hãy luôn tinh tấn, chớ nên nghi hoặc. Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cùng với phàm phu thứ dân, cả đến chín mươi sáu thứ ngoại đạo với sáu mươi hai loại kiến chấp, cho tới các loài côn trùng thân cứng, thân mềm, bay dọc, bò ngang, thở gấp mà sống, người cùng với chẳng phải người, tu học pháp Tam-muội này, nếu được nghe đến tên liền sinh tâm vui mừng thì đều đạt được sở nguyện, sau đó sẽ lãnh hội được diệu lý của pháp Tam-muội ấy.
Bấy giờ Đức Thế Tôn đọc kệ:
Thường sáng tỏ
Chánh pháp Phật
Tín căn vui
Tuệ bậc nhất
Hành an định
Dứt tôi - ta
Giữ tịch tĩnh
Tam-muội diệu
Đạt tự tại
Rõ nhẫn nhục
Che ba thời
Như lọng báu
Tạo lập, hóa
Vô số người
Theo tuệ ấy
Ví như biển
Hết bỉ - thử
Cùng phiền não
Giảng Phật đạo
Mọi diệt độ
Trừ cấu nhiễm
Độ ba đời
Dốc tu tập
Luôn an nhiên
Rõ thân mạng
Cùng kẻ khác
Chí luôn nhớ
Nẻo Phật đạo
Niệm an trụ
Hết thảy nghiệp
Cùng đạt được
Tam-muội diệu
Dắt dẫn nhiều
Thâu cõi gốc
Luôn giảng pháp
Diệt khổ não
Tu bố thí
Vị cam lồ
Dốc phụng hành
Chủng tánh Phật
Sáng tỏ tột
Từ diệu bày
Xưng tụng khắp
Mọi công đức
Nơi chúng hội
Thật lồng lộng
Như trăng tròn
Vào thu sáng
Mọi quyến thuộc
Tài, danh, đức
Chốn sinh tử
Phật đều biết
Biện tài đó
Như thủy vương
Hành Tam-muội
Theo công đức
Pháp tự nhiên
Không, vô ngã
Mau chóng đạt
Diễn bày nghĩa
Như thế khắp
Cõi đại thiên
Theo chân đế
Tam-muội ấy
Mọi tư duy
Ba ngàn cõi
Khắp chúng sinh
Như hằng sa
Muốn cầu học
Đạo cam lồ
Chốn tuệ đạt
Vượt hơn hết
Độc chẳng hại
Cùng lửa, đao
Dứt rắn dữ
Chẳng sợ hãi
Chúa La-sát
Không thể hại
Đem tâm hòa
Dốc tu tập
Tài sản còn
Nhà cửa đủ
Dứt bệnh, lo
Cùng tội, nạn
Chuyên tâm trì
Bốn câu pháp
Mắt luôn tỏ
Chẳng lãnh hội
Sáu hai kiến
Ức Phật khuyên
Hữu học nên
Tư duy ấy
Nếu thường phụng
Pháp Tổng trì
Hành tinh tấn
Pháp Tam-muội
Như dốc cầu
Chóng thành đạo
Đạt an lạc
Ruộng công đức
Nên tu học
Gốc kinh điển
Đạt hết thảy
Tịch nhiên, không.
Bồ-tát có bốn điều cần làm thì mau chóng đạt được pháp chánh định. Những gì là bốn điều?
1. Bố thí nhưng không dấy khởi tưởng về phước thí đối với tất cả.
2. Trì giới, chẳng phạm mọi điều ngăn cấm, đem hết chí nguyện cầu đại đạo.
3. Luôn mang tâm Từ, đối với mọi oán ghét hay thân thương đều thể hiện bất nhị.
4. Luôn xem mọi loài chúng sinh trong ba cõi thảy là thân tộc của ta, chưa từng bỏ rơi một loài nào.
Bồ-tát lại có bốn điều cần làm, tất mau đạt được pháp chánh định ấy:
1. Thường đem tâm đại Từ ban bố khắp chúng sinh.
2. Luôn mang tâm đại Bi, nhận thấy chúng sinh nơi ba đường dữ phải chịu bao khổ não mà xót thương vô hạn, nên cứu độ giải thoát tất cả.
3. Thấy chúng sinh do mê mờ lầm lạc mà cứ mãi quanh quẩn trong năm nẻo luân hồi, không thể tự mình gắng sức thoát ra được. Do đó mà nêu bày rõ con đường chân chánh để họ dốc chí theo đức ấy mà tự ra khỏi nẻo tối.
4. Xem chúng sinh trong ba dòng chảy sinh tử luôn qua lại từ đầu mối đến chung cuộc không thể cắt đứt được, thân khổ tâm não, vì thế mà thương xót, nhớ nghĩ, dốc tâm nêu giảng rõ về cội rễ của tội, phước trong cõi sinh tử, là gốc của chánh pháp vô vi.
Bồ-tát lại có bốn điều cần thực hiện để đạt pháp định ý ấy. Những gì là bốn?
1. Xem các thứ tà thuật mê hoặc gồm trong sáu mươi hai thứ kiến chấp mà không dứt khoát lìa bỏ, lại do dự, mập mờ thì sẽ rơi vào bao lớp lưới mê, khác nào loài chim tự lao vào lưới vì tham cái lợi nhỏ nhặt, đâu biết đó chính là tự hại mình.
2. Xem chín mươi sáu loại ngõ hẹp mê hoặc tự tạo lấy sự ngu muội tăm tối, cũng như loài thiêu thân tự lao vào ánh sáng của ngọn đèn, đã bị chìm đắm trong ba đường dữ hoặc quẩn quanh nơi năm nẻo luân hồi mênh mông không thể nào thoát thân. Chỉ có chư Phật cùng chúng Đại Bồ-tát mới có thể cứu độ được.
3. Xem chúng ngoại đạo dốc hành nghề phù chú hại người, Bồ-tát luôn thương xót họ. Ví như kẻ đã bị dòng nước dữ cuốn chìm, sau đấy mới hối hận thì làm sao còn kịp?
4. Như kẻ làm nghề săn bắn, bắn giết các loài chim, hay buông lưới bắt cá, tích chứa bao tội chồng chất, vô số ức đời bị đọa vào ba nẻo ác. Bồtát nguyện lìa bỏ nơi an lành của thân mình để đến cứu độ họ. Vì họ mà nêu giảng về mối lo của tội, phước trong cõi sinh tử, chỉ rõ về nẻo vô vi giải thoát, hoặc lại làm hiển lộ đạo Chánh giác Vô thượng, khiến cho những kẻ ấy đạt được an lạc.
Bồ-tát lại có bốn việc cần làm mới mau đạt được pháp chánh định ấy. Đó là:
1. Tạo hình tượng Phật ngồi trên tòa sen. Nếu phỏng theo để vẽ lên vách tường, lên lụa dày, vải bông hay vải tơ dày, thảy đều đạt tính chất đoan nghiêm, tươi đẹp, khiến cho mọi người trông thấy đều vui mừng, do đó đạt được phước về đạo.
2. Giữ lấy kinh này theo từng quyển, từng cuốn biên chép ra sách vở. Nếu dài thì có thể dùng loại tơ lụa đặc biệt, khiến cho văn tự được biên chép trên dưới đều ngay hàng, rõ nét.
3. Đọc tụng kinh này, ngày đêm luôn tinh tấn, không rời bỏ kinh văn, khiến cho lời kinh được truyền khắp, không một vấp váp, trở ngại nào và những người nghe liền được thông tỏ.
4. Thọ trì pháp Tam-muội này, là ngọn nguồn của chư Phật, mỗi mỗi đều nhận rõ, vì con người mà nêu bày diệu nghĩa thông suốt để khéo khai mở cho Bồ-tát con đường đi tới quả vị Chánh giác Vô thượng, khiến cho tất cả chúng Bồ-tát đều cùng học hỏi, thọ trì, không dấy tâm nghi hoặc, nên mỗi vị đều thông đạt.
Bấy giờ, Đức Phật đọc kệ:
Nghe kinh này
Vui đức lớn
Nếu có người
Cầu đạo ấy
Học, lành thay!
Bốn câu đó
Nên đạt đến
Mười thứ lực
Tám mươi ức
Vua cõi người
Những sáu mươi
Luôn an trụ
Thường cùng giúp
Kẻ học ấy
Nên đọc tụng
Tam-muội này
Nếu được nghe
Đạt thiện lợi
Đã lãnh hội
Nên tin, vui
Đều thành tựu
Chẳng nghi đạo
Thảy đều thấy
Sinh tử không
Hành Phật đạo
Nên được nghe
Vui công sức
Chẳng biếng trễ
Nhất thiết trí
Như xem tay
Dùng chữ viết
Kinh điển này
Luôn biết, nhớ
Trăm ngàn kiếp
Biện tài hơn
Đạt quả Phật
Nêu giảng rõ
Tối định ý
Vương tử nguyệt
Được nghe rõ
Ba cõi nước
Làm Sa-môn
Ngày đêm siêng
Nghe thọ pháp
Đời sau rốt
Sau mạng chung
Liền vãng sinh
Cõi Phật khác
Như hằng sa
Lại hơn nữa
Chư Thiên cùng
Cúng dường Phật
Từ nơi ấy
Nghe Tam-muội
Trong ba kiếp
Thành Phật đạo
Có Phật hiệu
Vô Yểm Bảo
Phật Định Quang
Chốn giáo hóa
Được nghe biết
Đạt quả đức
Do vậy nghe
Nên siêng năng
Vì mười phương
Luôn cứu độ
Nay ta muốn
Ân cần dặn
Bậc nhân hiền
Lời nhu hòa
Là pháp thêm
Kho báu đạo.
-
Đức Phật nói với Bồ-tát Hỷ Vương:
–Về thời quá khứ, trải qua vô số kiếp không thể tính kể hết, bấy giờ có Đức Phật hiệu là Biện Nghiêm Tịnh Lôi Âm Hống Như Lai, là Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng. Thời Đức Phật ấy tại thế, có một vị Pháp sư tên là Vô Lượng Đức Biện Tràng Anh Biến Âm, thường được nghe Đức Như Lai giảng về pháp Tam-muội ấy, đã dốc tâm cầu học, nhận rõ, nêu bày, dùng vào công việc giáo hóa chúng sinh, đối với vô số ức trăm ngàn chư Thiên, chúng dân, thảy đều đem pháp Tammuội ấy mà hóa độ tất cả. Bấy giờ có một vị vương thái tử tên là Tịnh Phước Báo Chúng Âm được nghe pháp Tam-muội đó, trong lòng vô cùng hân hoan, liền đem trăm ngàn tấm y hết mực tốt đẹp, thuộc loại có giá trị đặc biệt, dâng lên cúng dường vị Pháp sư, miệng phát ra lời nguyện:
–Nguyện khiến cho hết thảy chúng sinh trong khắp ba cõi đang chịu bao điều nguy khốn, đều có thể vươn lên đứng vững để được nhận lấy pháp Tam-muội này.
Do gốc của phước đức đó nên vị vương thái tử kia được trông thấy tám mươi ức hằng sa chư Phật, từ đấy mới tạo nên các công hạnh để phụng trì chánh pháp bình đẳng. Tại những nơi chốn được nghe chư Phật thuyết giảng về pháp Tam-muội ấy, thảy đều được dùng các phương tiện để nêu giảng, truyền bá, mọi người được nghe đều có thể dốc tâm nhận lãnh, phụng trì, thực hành pháp định ý đó. Do vậy mà ở các nơi chốn được sinh ra của vị Vương thái tử luôn được biết về thân mạng đời trước. Ở nơi vô lượng cõi Phật công đức thanh tịnh, đã thành Bậc Tối Chánh Giác. Vị vương thái tử Tịnh Phước Báo Chúng Âm ấy hiện tại chính là Đức Phật A-di-đà ở thế giới Tây phương cực lạc. Còn vị Pháp sư đã từng giáo hóa độ thoát vô số chúng sinh đó chính là Đức Như Lai Đại Nguyệt.
Vị vương thái tử kia cúng dường, tự quy ngưỡng vị Pháp sư Vô Lượng Đức Biện Tràng Anh Biến Âm, nhờ vậy mà có thể tiêu trừ hoàn toàn mọi thứ tội lỗi che phủ trong những bảy vạn kiếp. Do diệu dụng được nghe thuyết giảng về pháp Tammuội định ý ấy mà ngay lúc còn là thái tử đã từ bỏ mọi sự tiếp xúc khách khứa tăng, tục, dứt sạch các mối trở ngại để diễn giảng rộng khắp các đạo phẩm. Ở nơi mỗi mỗi chốn sinh ra đều đạt được vô lượng môn cùng các nẻo thực hành các pháp Tổng trì, ý phát khởi là trong một thời, thậm chí là chỉ trong một khoảnh khắc cũng không rời pháp Phật. Đức Phật nói:
–Bấy giờ lại có vị Phật hiệu là Diện Duyệt Ly Cấu Nguyệt Thủ Tạng Uy Như Lai, là Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng xuất hiện ở đời thuyết giảng về pháp Tam-muội ấy. Lúc đó có một người con của bậc Trưởng giả tên là Diệu Tịnh Quảng Tâm, được nghe thuyết về pháp ấy, đem lòng tin của mình đối với chánh pháp về thuyết phục cả gia đình cùng tin theo, bày tỏ việc mình không ham thích sự nghiệp ở thế gian nên xuất gia làm vị Sa-môn. Sau đó cho về nhà bảy vạn thể nữ, tài sản quý giá cũng đem ra bố thí cả, vì gia đình có tới bốn kho chứa các thứ châu báu cùng bao loại ngọc ngà vô giá kỳ lạ khác, nếu đổ ra đầy nơi đất thì mỗi kho báu ấy có thể rải khắp đến ba mươi vạn một ngàn tám trăm nơi chốn dùng để du ngoạn thăm chơi. Xuất gia hành đạo, người con bậc trưởng giả này chưa từng cất bước giẫm xéo một cách vô lý trên mặt đất, chẳng còn mang tâm vướng bận về việc bỏ nước, lìa vua làm vị Sa-môn du hóa đó đây. Làm bậc Sa-môn trải qua một vạn sáu ngàn năm, luôn nhất tâm đi kinh hành, tinh tấn dốc tu chưa hề có sự dừng nghỉ, bê trễ. Ngay ở thời gian đầu cũng không dấy tâm niệm lười nhác, đã từ bỏ mọi kẻ hầu hạ như ngày cũ, tự mình lo chuyện ăn uống, rửa ráy, chẳng ham ngủ nghỉ, thường hay thức tỉnh, cũng không chọn ngồi các chỗ sang trọng suốt trong một vạn sáu ngàn năm. Dốc tu như vậy nên mau chóng nhận được trọn vẹn diệu nghĩa nơi kinh pháp mà Phật đã giảng dạy. Đem kinh pháp dốc tâm đọc tụng khắp mọi nơi, âm thanh vang vọng, hòa nhã, lại đạt được pháp Tổng trì tên là “Hội nhập khắp các thứ âm thanh”, đối với pháp Tổng trì ấy đều cung kính hết mực vì Phật mà đảnh lễ. Có tới sáu mươi sáu triệu chúng chư Thiên thường theo vị Sa-môn ấy để thăm hỏi, nhận lãnh mọi việc cung cấp, thừa hành. Vị Sa-môn ấy thân tâm luôn an lạc, tinh tấn trong mọi thời, luôn hết lòng tạo thêm nhiều phương tiện để phụng sự Đức Như Lai. Vị ấy đã thành Bậc Chánh Giác ở thế giới phương Nam, hiệu là Nhất Thiết Đức Nghiêm, thế giới ấy gọi là Đức tịnh, là Bậc Tối Chánh Giác ở cõi đó.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền đọc kệ:
Ta nhớ thân mạng trước
Vô số hằng sa kiếp
Phật hiệu Biện Nghiêm Tịnh
Lôi Âm Hống Như Lai
Có Tỳ-kheo giữ pháp
Thường nơi tòa Sư tử
Giảng pháp Tam-muội này
Vương thái tử được nghe
Đem đủ loại y quý
Cúng dường vị Pháp sư
Được thấy khắp chư Phật
Đắc Phật A-di-đà
Mọi tội từ đời trước
Bao kiếp đã phạm phải
Nghe thuyết tuệ vị này
Thảy đều được dứt sạch
Có Phật Ly Cấu Nguyệt
Giảng pháp Tam-muội ấy
Con bậc trưởng giả nghe
Tôn kính nên xuất gia
Một vạn sáu ngàn năm
Siêng tu pháp diệu đó
Chưa từng ham ngủ nghỉ
Cũng không hề biếng trễ
Thánh đạo luôn dốc cầu
Do nghe cùng lãnh hội
Chẳng lại chốn nhà cũ
Dứt mọi thứ ái ân
Thấy hằng sa chư Phật
Đều cùng theo thọ nhận
Mọi đạo nghiệp thâm nhập
Phật đạo chóng thành tựu
Sở nguyện được viên mãn
Gọi là “Ý người vui”
Cùng thời đạt Phật đạo
Phải siêng tu pháp ấy
Ở vào thời vị lai
Được nghe dấu tuệ đó
Nghiệp tài sản không an
Xuất gia dứt tham luyến
Mắng mỏ hoặc đánh đập
Phỉ báng, lời còn thêm
Mỗi mỗi nghe, tỏ pháp
Nêu giảng chỗ Phật dạy
Gặp khốn, trăm ngàn phiền
Dâm dục khó, gắng sức
Nhận rõ bao phiền não
Tự thuyết nên Phật đạo
Trong mộng thấy nơi Phật
Tự vui, ta chánh giác
Mà vui cùng với pháp
Ta chẳng nghi Phật đạo
Nương cầu âm hưởng tốt
Do nghe kinh điển ấy
Nơi tâm tự thông tỏ
Liền đắc thành Phật đạo
Lãnh hội được diệu lý
Nghe chừng ấy sự nghiệp
Chẳng một chướng ngại nào
Chốn hiện như hư không
Vì thế nên xuất gia
Được vô số lợi lạc
Dùng việc họ hàng xấu
Tâm sinh cùng phỉ báng
Rõ nạn khổ nêu trừ
Nương nghe mà ý giữ
Lại coi thường kẻ khác
Ta do thành Phật đạo
Được thấy đủ ánh sáng
Cúng dường Bậc Đại Thánh
Đi đứng tự sợ, mừng
Cho mình đạt Phật đạo
Có kẻ dua nịnh ấy
Rời bỏ đạo vi diệu
Luôn luôn mang ưu sầu
Do nhân khinh người đó
Nếu được nghe kinh này
Ắt biết rõ pháp Phật
Mau đạt Bậc Chánh Giác
Thấy Phật A-di-đà
Kẻ luôn dựa điên đảo
Cũng bỏ đạo cao xa
Nếu từ gốc chẳng thuận
Phật chẳng trao pháp ấy
Xem vị con trưởng giả
Thí cả bao kho báu
Sau đấy thì xuất gia
Nhà nhà đến hành khất
Theo Như Lai Định Quang
Từng nghe diệu nghĩa ấy
Hình ảnh Tam-muội đó
Dốc tinh tấn phụng hành.
Đức Phật nói:
–Bồ-tát hành đạo luôn đem tâm đại Từ bi cứu giúp khắp mười phương cùng hóa độ bao người khác, nhất là đối với hạng thấp kém. Đem sáu pháp Ba-la-mật, bốn Tâm vô lượng, sáu thứ thần thông, khéo sử dụng các phương tiện quyền xảo để giáo hóa chúng sinh các loại, nhất là thể hiện đúng nghĩa vụ đối với bốn ân. Sự giáo hóa ấy thật là mênh mông và luôn tạo được sự an ổn lâu dài. Các vị Bồtát thường nên lìa bỏ những vướng bận về nghiệp nhà để góp phần làm cho đạo pháp được hưng thịnh. Tạo ra những trận mưa các pháp cam lồ để giảng truyền kinh điển. Giống như bậc lương y dùng thuốc để trị dứt các bệnh về thời khí trái tiết như cảm gió, nóng lạnh…
Về tâm thì có bốn thứ bệnh: Một là tham dâm; hai là giận dữ; ba là si mê tăm tối; bốn là phân chia đây kia. Bồ-tát dùng ánh sáng của trí tuệ chân chánh để trừ sạch bốn thứ bệnh về tâm ấy. Nhờ đó mà đạt đến mười Lực, cùng bốn Vô sở úy. Ví như mặt trời xuất hiện thì mọi thứ tối tăm đều bị tiêu trừ, không còn dấu vết gì về chỗ bị trừ bỏ ấy. Bồtát khéo dùng phương tiện về trí tuệ để nêu cao ánh sáng của bậc đại Thánh chiếu khắp ba cõi, làm cho năm ấm, sáu trần, mười hai nẻo dẫn dắt nối nhau không dứt, liền bị tiêu diệt, không còn biết về chỗ hướng đến, tạo ra. Cũng giống như mặt trăng hiện ra nơi tối tăm thì sẽ xua tan mọi thứ u ám của đêm tối và nơi đó liền được sáng soi. Bồ-tát cũng như vậy, đem trí tuệ của đạo soi sáng khắp cõi sinh tử, xua sạch cấu uế của ba độc nhưng tâm không chút tham đắm. Dẫn dạy, giáo hóa một cách trọn vẹn, rốt ráo về bao nỗi khốn khổ khôn cùng của muôn loài, từ đó đạt được pháp Tam-muội Vô sở tùng sinh, độ thoát hết thảy. Cũng như nơi biển lớn vốn chứa trong lòng có bao thứ châu báu kỳ lạ, quý giá, đặc biệt. Kẻ thâm nhập vào đấy để khai thác nếu có đầy đủ các phương tiện thì tất thu được dồi dào các thứ châu báu kia. Bồ-tát cũng như thế, hội nhập vào biển pháp Đại thừa, chọn lấy các pháp vi diệu của bậc Khai sĩ, làm cho đạo tràng thêm trang nghiêm thanh tịnh với ba cánh cửa giải thoát luôn mở rộng, quán xuyến cả ba thời để cứu giúp mọi nỗi khổ đau, nguy khốn. Như bậc Chuyển luân vương cai trị gồm thâu bốn cõi thiên hạ, được chúng dân tôn kính, ngưỡng mộ. Bồ-tát cũng như thế, hòa nhập hết thảy các nẻo sinh lão bệnh tử, luôn đầy đủ bốn thứ Tâm vô lượng để trị dứt bốn thứ bệnh về tâm, khiến chúng hoàn toàn sạch bóng, trước sau, đầu cuối, mọi thứ hư mục, mất còn tức thì xóa hết, chẳng để lại dấu vết. Như bậc lão luyện trong nghề chèo thuyền đưa người qua sông, luôn qua lại không lúc nào dừng dứt. Bậc Bồ-tát đem một phần của kho tàng các pháp Tổng trì, quảng diễn về những điểm cốt yếu thâm diệu của đạo pháp chân thật để giáo hóa muôn loài, trải qua vô số kiếp mà không hề biết mệt nhọc. Như cha mẹ sinh dưỡng con cái mong chúng dần khôn lớn nên người. Bồ-tát cũng như vậy, dùng các pháp của trí tuệ phương tiện để thực hành tâm đại Từ bi, khuyến hóa bao kẻ ngu muội, tối tăm, khiến họ dấy khởi tâm đạo, tín thọ năm giới, thực hành mười điều thiện, biết rõ bốn ân, tu tập phát huy bốn tâm vô lượng, sáu pháp vượt bờ, đạt tới giải thoát. Bồtát hành xử các phương tiện quyền xảo, hướng tới khắp mười phương, từ đó đạt được quả vị Thập trụ, Nhất sinh bổ xứ, tiến tới quả vị Chánh giác Vô thượng, thành Bậc Tối Chánh Giác, độ thoát hết thảy mọi loài còn đắm chìm trong biển sinh tử, khiến họ tâm được an nhiên, ngược dòng chảy mà đạt tới ngọn nguồn. Cũng như trồng cây, từ hạt giống mọc lên cây con với rễ, chồi, rồi dần dà lớn thêm với những thân, đốt, cành, lá, hoa trái sum suê. Bồ-tát cũng như thế, từ lúc mới phát tâm liền đạt được niềm vui nơi tâm ý, rồi thân ý dần được tự tại, dứt năm thứ ngăn che, khỏi nỗi khốn về ba đường dữ cùng bao điều khổ trong tám nạn, tu tập sáu pháp Ba-la-mật là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền tư, trí tuệ, đạt pháp nhẫn Vô sở tùng sinh, dứt sạch mọi nơi chốn dựa cậy, bám víu cùng mọi nẻo lường tính, không còn vướng chấp về ta - người, thọ mạng của thân, bao đầu mối về có không. Ở tại một nơi mà xuất hiện tại nhiều nơi chốn để cứu giúp. Trải qua khắp nẻo sinh lão bệnh tử luôn có mặt ở đời. Sáu pháp tu vượt bờ đã thành tựu nên khéo sử dụng phương tiện, tùy thời mà dẫn dắt chúng sinh, không khiến bị rơi vào chốn mê lầm vì ngu si, tối tăm, tội lỗi ngăn che, trùm lấp. Bồ-tát thân tâm luôn thanh tịnh như hư không, chẳng sợ mọi khó khăn. Trí tuệ thù thắng là thứ thần dược muôn đời dùng để chữa trị lành hết thảy bao thứ khốn khổ xưa nay. Như bậc trưởng giả sinh được nhiều con cái, mỗi người con đều thích thú trong việc xây cất mười lớp lầu gác cao rộng để mời các vị vương tôn công tử đến vui chơi nơi lầu gác mới của mình, cho hòa tấu các loại nhạc hay, để mọi khách khứa trên dưới đều cùng vui thích. Đức Thế Tôn cũng như vậy, đem tâm từ bao la thể hiện qua tình thương vô bờ, dùng phương tiện quyền xảo để giáo hóa, dẫn dắt các loài chúng sinh trong ba cõi, mở bày chỉ rõ con đường chính dẫn đến chốn giác ngộ giải thoát. Gốc ngọn của quả vị Thập trụ nơi Bồ-tát là từ buổi đầu phát tâm, khiến mọi người trông thấy đều vui thích, không ai là không phát tâm. Từ quả vị Trụ thứ nhất là điểm khởi hành cho con đường tu tập của Bồ-tát. Dùng bố thí để cứu giúp kẻ khốn cùng, kẻ bị trói buộc, giam hãm trong ba cõi. Về những nẻo nghèo thiếu đối với đạo pháp thì bố thí bảy thứ tài sản về tinh thần, dùng Nhất thiết trí chánh giác làm giới hạnh, từ đó Bồ-tát kiên trụ được trí tuệ vô hạn. Không dừng lại với sự chứng đắc giữa chừng. Tu học luôn thể hiện tâm ý nhân hòa, dốc tin Tam bảo, thể hiện tâm Từ bi mênh mông, tâm thương xót vô tận gồm trong bốn Tâm vô lượng, từ đấy năm thứ thần thông được thành tựu. Năm thứ thần thông được thành tựu dẫn tới việc hoàn bị sáu pháp tu vượt bờ. Sáu pháp này đạt được thì đạt đến pháp nhẫn nhu thuận. Nhẫn ấy đạt được thì gọi là Hưởng nhẫn thứ nhì, thứ ba, có thể thông hiểu hết thảy gốc rễ của mọi âm hưởng vốn là không tịch. Mọi âm hưởng trong ba cõi đều là hư, không thật, không phải là chân đế. Do thấu đạt diệu nghĩa ấy mà tạo được nhân để dần dần hội nhập vào pháp nhẫn Vô sở tùng sinh. Tất thông tỏ về ba cõi đều không cội rễ, năm nẻo không có khởi đầu. Người có trí tuệ thông đạt như thế mới thực sự đạt pháp nhẫn Vô sở tùng sinh. Ví như hư không dứt hết mọi ngả yêu ghét, do vậy mà sự thọ nhận được mau chóng, dứt khoát. Đã được sự thọ nhận như thế thì đạt đến cõi chánh định, trong hiện tại được thấy chư Phật ở mười phương. Như người sáng có đôi mắt trong suốt, bầu trời ban đêm không mây nên nhìn thấy rõ các tinh tú, Đông, Tây, Nam, Bắc ngẩng đầu nhìn khắp hư không, tinh tú nhiều vô hạn, thảy đều biết vị trí của chúng. Bồ-tát cũng như thế, đạt được chánh định trong hiện tại thì thấy được hết thảy chư Phật trong mười phương, tất biết nơi chốn, danh hiệu, lời dạy dỗ, các vị Bồ-tát đệ tử, cùng với quyến thuộc nhiều ít. Thuyết pháp độ sinh tất biết được số lượng ấy. Từ nơi cõi Tam-muội xuất định, vì người thuyết pháp, nói về các nẻo thông tuệ, khiến những người được nghe đều phát tâm cầu đạo Bồđề vô thượng. Theo đó, tích chứa các hạnh, nêu bày một cách chính xác về quốc độ, giảng dạy cho chúng sinh thấy rõ về cội rễ của mình. Theo bệnh mà cho thuốc thích hợp khiến mọi bệnh đều dứt. Đối với mọi căn cơ thượng, trung, hạ theo đấy mà khai thị, dẫn dắt, mỗi hạng đều khiến đạt được sở nguyện. Ví như bậc Thánh vương có nhiều vương tử, tùy theo tài trí của mỗi người lần lượt sử dụng hợp lý. Hoặc cho làm thái tử, sau này sẽ nối ngôi vua cai trị bốn cõi thiên hạ, hoặc cho làm đại thần thường hầu hạ bên cạnh, dùng để bảo vệ mình. Hoặc cử làm vị sứ giả cho đi các nơi nêu bày về uy mạng của đế vương. Bồ-tát cũng như thế, giáo hóa tất cả chúng sinh, tùy theo căn trí cao, thấp, trung bình mà khai mở, dẫn dắt. Hoặc làm hiển lộ con đường tu tập của hàng Bồ-tát Chánh giác Vô thượng, hiểu rõ về quá trình tu tập từ đầu đến tận cùng theo trí tuệ phát sinh từ định, có Phật không Phật cùng an trụ như thế, tâm không đi vào cõi thâm diệu thì sẽ không tỏ ngộ được giáo pháp ấy. Hoặc nêu bày về nẻo Duyên giác, khuyến dụ để tiến tới phía trước, có được trí tuệ lớn lao thì mới đạt đến quả vị của bậc Thánh giác ngộ, gốc vốn không có hai. Ví như nước các dòng sông đều cùng chảy về biển cả, hợp làm một vị. Thấy cảnh sinh tử mà lo sợ, cũng như đối với bao hoạn nạn trong ba cõi, bao khổ ách nơi các nẻo địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, nên sợ khổ, chán thân mà cầu pháp tu Thanh văn, vì thế mà nêu giảng về các nạn trong cõi sinh tử, cứ mãi luân chuyển không cùng, quẩn quanh với năm đường không biết đến lúc nào dừng, từ đó hết lời tán thán về sự an lạc của cõi Niết-bàn giải thoát, vượt khỏi mọi chi phối của sinh lão bệnh tử, dứt mọi đói khát, nóng lạnh, không oán, không buộc, chẳng mở chẳng đóng, không vui không buồn, chẳng sang chẳng hèn, không liền không đoạn, vượt mọi đến đi, tan hợp, lìa hẳn mọi nạn cùng với đạo thông hợp. Từ cái nhân ca ngợi về con đường khó dễ, khổ an, khiến người dốc tu học nẻo vô vi, dần dà tiến lên phía trước mà đạt tới con đường lớn. Cũng như bốn ngả sông ngòi chảy vào biển lớn hợp thành một vị, nước biển không thể phân biệt là nước của nguồn sông nào. Ba thừa cũng thế, rốt lại là cùng đạt đến sự gặp gỡ ở một cõi: Chánh giác Vô thượng bao la không bến bờ, là cội nguồn thanh tịnh. Đạt được quả vị Thập trụ thì gọi là Dũng phục. Vì sao được gọi là Dũng phục? Ví như một vị dũng tướng thống lĩnh cả một đại quân, vị tướng ấy cùng với quân binh của mình đã hàng phục được quân địch dữ tợn, khiến chúng thảy đều quy thuận. Bồ-tát cũng như thế, đạt được pháp định Dũng Phục thì có thể đi khắp trong ba cõi, vượt lên trên mọi nẻo hữu vô, dùng đạo soi sáng tâm, không gì không thông tỏ, thấu triệt. Mỗi vị đều tự quy về, cùng phát tâm đạo, an tọa nơi gốc cây Bồ-đề như Đức Phật, hàng phục đám quân ma, độ thoát chúng sinh trong mười phương.
Đức Thế Tôn bèn đọc tụng:
Bồ-tát hành đại Từ
Thường điều phục tâm mình
Cùng hóa độ chúng sinh
Chốn giáo hóa luôn an
Chữa lành các thứ bệnh
Bồ-tát trừ ba độc
Nhật hiện xua tăm tối
Giáo hóa dứt nẻo buộc
Trưởng giả mười lớp lầu
Mười trụ dốc tiến tới
Như cây dần lớn tốt
Mới phát tâm cũng thế
Ngu xuất làm Sa-môn
Tâm còn vướng thân thuộc
Gánh nặng vì lợi dưỡng
Tâm vui nơi nghiệp nhà
Chẳng hề nghe pháp định
Chẳng xuất gia, không giới
Thành tựu đạt Phật đạo
Tu học dứt phóng dật
Đời mạt pháp, tu học
Được nghe kinh điển này
Tâm cúng dường vì lợi
Cầu danh hành bài báng
Trước mặt cung kính lễ
Lời khen thật lành thay!
Nơi chỗ riêng về sau
Lại buông lời sai, xấu
Giả buồn mà rơi lệ
Tự quy nhớ về thân
Nhân gặp gỡ nơi nhà
Thuyết nêu toàn hạnh ác
Chẳng muốn kính phụng thầy
Chẳng thuận bậc Thánh hiền
Thân mình mong đạt hơn
Quấy loạn cho là tịnh
Muốn hủy công đức người
Tự khen công lao mình
Biết quý mà mang ganh
Ghét người được cúng dường
Hoa hương cùng vải vóc
Kỹ nhạc, cờ, phướn, lọng
Cúng dường xá-lợi Phật
Tự cho được thấy Phật
Nếu nghe kinh điển này
Nên cúng dường chân thật
Trừ bỏ mọi thú vui
Thường học hạnh căn bản
Dùng làm chốn thân nương
Năng dứt mọi che chắn
Nên cung kính nơi kinh
Ví như Tu-bồ-đề
Liền dứt mạng tham ái
Luôn tu nơi thanh vắng
Siêng tu kinh đạo ấy
Mạng ở đời sắp hết
Nay nói với Hỷ Vương
Nghe rõ chỗ hành hóa
Tự biết điều phục ý
Hãy tin thuận phụng hành
Thường phỉ báng nơi Phật
Lời ấy là không thật
Ở nơi bốn bộ chúng
Lại tự cho chân đế
Kẻ tham nẻo lợi dưỡng
Chẳng vui đạo chánh Phật
Kẻ ấy tuy tỏ kính
Rời giải thoát thậm xa
Đại thần túc nơi ta
Uy lực lớn hiện rõ
Đều dùng giữ pháp cấm
Phụng hành nên đạt đạo
Tôn giới pháp Tổng trì
Như kẻ ngu bất cập
Thảy lìa nơi tham lợi
Tu tập chốn am vắng
Nay Phật bèn kiến lập
Mọi thuyết giảng chẳng hư
Đời vị lai sau này
Kinh ấy ở mọi chốn
Gặp vô lượng ánh sáng
Lại thấy dứt mọi giận
Sáu mươi hai ức Phật
Chúng hội cùng đều thấy
Phật tất ban lời dặn
Pháp này phải nên giữ
Do kinh này thấy ấn
Nên sau này cùng giữ
Thời mưa hoa vi diệu
Trời, người khắp đại thiên
Tất cùng nhau ca ngợi
Do được nghe pháp này.
Bấy giờ, Bồ-tát Hỷ Vương cùng với ba vạn người đông đủ được nghe những lời Phật nêu giảng, xúc động khiến rơi nước mắt, cung kính, sợ sệt đến rợn cả người, liền rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy, để lệch vai áo bên phải, chắp tay cùng thưa với Đức Phật:
–Kính thưa Thế Tôn! Chúng con vào đời vị lai ở thời mạt pháp, trong cõi thế xấu ác đầy năm thứ vẩn đục, chẳng hề dám khinh dể bậc Pháp sư. Nếu có kẻ bất kính muốn hủy hoại thì xin cho ánh sáng của đạo pháp được chiếu khắp đến tất cả bậc Trí thức. Vào thời này gặp lúc đạo pháp suy kém, ít người học thức đến với đạo nên số người thông tỏ đạo không thể nhiều. Đạo pháp thanh tịnh trong sáng sắp đến lúc suy tàn. Luôn lo lắng về sự vô thường của đạo pháp, trong thời nhiễu loạn cho dù thân mạng bị mất cũng dốc hộ trì tất cả kinh điển thể hiện trí tuệ của Đức Như Lai, khiến cho luôn có được sự an ổn lớn lao để kẻ chuyên tu học có chỗ riêng biệt mà nhất tâm tìm cầu. Nên thọ nhận để cùng giữ gìn kinh, tượng Như Lai như vậy, cùng từng ấy kho tàng đạo phẩm, để cho các bậc Hữu học dùng trí tuệ cùng mọi biện tài dựa vào đấy mà thông tỏ cội rễ của vô lượng các công đức, sẽ dùng pháp ấn khuyến hóa, ấn chứng cho tất cả, thâu tóm, nắm giữ hết thảy mọi chúng sinh để hàng phục quân ma đủ loại, hiểu rõ về Nhất thiết trí cùng công sức trong quá trình tu tập. Thọ trì kinh điển ấy, biên chép thành sách vở. Nếu ở cõi địa ngục thì sẽ vì hết thảy chúng sinh ở đấy nhẫn chịu mọi khổ nạn, không hề chán nản. Do dụng lực của pháp Tammuội ấy nên dù đi khắp ba cõi, năm nẻo với đủ các thứ nạn cũng không hề biết mỏi mệt. Từ đó thể hiện bốn tâm vô lượng, đem Từ bi hoan hỷ hộ trì bốn ân, thi ân với tâm nhân ái nhằm mang lại lợi lạc cho mọi người, dẫn tới việc tế độ hạng ngu si, tăm tối trong mười phương. Cùng phát tâm Bồ-đề, mọi khổ nạn nơi địa ngục được dừng dứt, ngạ quỷ no đủ, súc sinh được thoát kiếp, sinh lên cõi trời, người. Nếu là chư Thiên hay người thì tâm luôn rộng mở vui thích với đạo pháp. Chúng sinh trong năm cõi thì tâm luôn thông tỏ, kính tin Tam bảo, chẳng tham luyến cảnh phú quý ở đời, xem xét trong ba cõi cũng như ảo hóa, hình bóng, tiếng vang, dợn nắng, thân cây chuối, cảnh thấy trong mộng, bọt nước tung, tụ, thấu rõ hết thảy các pháp là không thực. Cùng phát tâm Bồ-đề: Nguyện cứu độ mọi nguy khổ, tai ác của chúng sinh khắp mười phương.
Bấy giờ, Bồ-tát Hỷ Vương trong lòng vừa vui buồn lẫn lộn, liền đọc tụng:
Con do rõ nghiệp ấy
Theo ý ham đạo nghĩa
Chẳng khinh nẻo ánh sáng
Ca ngợi bao kẻ giúp
Từ bỏ cả thân mạng
Quyết cầu chánh pháp Phật
Lo sợ nơi đời sau
Giữ pháp Tam-muội này
Nếu trải vô số kiếp
Ở trong cõi địa ngục
Vui giữ pháp bảo ấy
Luôn nhẫn thọ mọi khổ
Vì hết thảy chúng sinh
Thuyết pháp không chốn cầu
Bố thí mọi tài vật
Thương xót khắp muôn loài
Giả sử thân xác này
Đoạn xương tủy, máu huyết
Trọn chẳng hề biếng trễ
Chốn sinh nơi đời sau
Tu tập chốn yên vắng
Bỏ hết mọi sở hữu
Tâm từ trùm các loài
Kẻ bệnh cấp thuốc men
Chưa từng theo nghiệp ấy
Như mọi hành phản tà
Nên tu chân ngôn đó
Từ trong kinh ấy dạy
Dốc tu dứt phóng dật
Theo đúng lời Phật dạy
Hành xử nên nhẫn nhục
Chúng con cùng đồng bạn
Riêng cõi hoặc trong chúng
Mọi chốn vô sở úy
Chẳng tham cầu lợi dưỡng
Nêu giảng tôn Phật đạo.
Lúc Phật giảng nói về đoạn kinh này có tới bảy mươi hằng hà sa số chúng sinh từ các cõi Phật không thể tính kể hết, đã đến lãnh hội đoạn kinh ấy, đều đạt pháp Không thoái chuyển, sẽ thành tựu nơi đạo Bồ-đề vô thượng. Cùng lúc, có một vạn vị Bồ-tát đều cùng đạt được pháp Tam-muội đó, thảy tự phát thệ nguyện quan trọng: “Vào thời vị lai, đời mạt pháp đều dốc tâm tôn phụng các bậc Pháp sư cùng cúng dường đầy đủ. Ba mươi triệu triệu chư Thiên, người, đều đạt được sự an trụ nơi địa Không thoái chuyển, sẽ thành Bậc Chánh Giác. Sáu mươi triệu triệu chư Thiên, người đạt Pháp nhãn thanh tịnh. Mười tám ức người cùng với bốn chúng đệ tử đều có được pháp nhãn, dứt sạch mọi thứ xấu ác nơi ba đường dữ. Đức Phật dùng hào quang chiếu sáng khắp mười phương, đến tận cùng hằng hà sa số thế giới chư Phật, trùm khắp cõi địa ngục Vô trạch, trên lên tới cõi trời cao nhất. Hết thảy chúng sinh nơi cõi trời Tam thập tam đều đạt được sự an ổn, không còn trở lại bị các thứ khổ nạn nữa. Từ ánh hào quang ấy, mỗi nẻo đều tự nhiên hóa hiện vô lượng trăm ngàn ức triệu đóa hoa sen quý thanh tịnh, nơi mỗi mỗi đóa hoa sen ấy đều có Đức Như Lai an tọa, các chúng đệ tử quyến thuộc cũng đều có mặt đông đủ, cũng an tọa trên các đóa hoa sen như Đức Như Lai. Bên cạnh mỗi mỗi chư Phật đều có Bồ-tát Hỷ Vương cung kính quỳ gối chắp tay, dốc khuyến thỉnh chư Như Lai thuyết giảng pháp Tam-muội đó. Hết thảy chư Phật hóa hiện với vô số các vị không thể tính kể hết ấy, hợp với đông đảo chúng sinh, thảy khiến cho mọi người thông tỏ về tính chất vô cùng tận, không còn nơi chốn bị trở ngại, cho đến giác ngộ về lẽ bình đẳng.”
-oOo-
Bấy giờ, Đức Phật nói với Bồ-tát Hỷ Vương:
–Bồ-tát chớ nên đem các thứ như y phục, thực phẩm cúng dường, thể hiện sự tôn phụng Như Lai và cho đấy là sự cúng dường bậc nhất. Muốn thực sự cúng dường Phật, phải nên dùng pháp để cúng dường mới đúng là phụng sự Như Lai. Vì sao? Vì về thời quá khứ xa xưa, trải qua vô số kiếp không thể tính kể, có Đức Phật hiệu là Kim Long Quyết Quang, thọ mạng của Đức Phật này là vô hạn lượng, quốc độ tên là Vô lượng tịnh, chúng hội đạo tràng cũng không thể lường tính hết được.
Khi ấy, có một vị Pháp sư tên là Vô Hạn Lượng Bảo Âm, hành hóa vào đời cuối của thân mạng sau rốt, đã dốc học theo pháp Tam-muội kia. Còn lại, hết thảy các vị Tỳ-kheo khác thì không mấy quan tâm đến pháp bảo đó. Vị Pháp sư này không hề biết khiếp sợ, cũng không tham luyến đối với thân mạng mình, vì thế lại càng siêng năng tinh tấn diễn giảng pháp Tam-muội đã học được. Vị Pháp sư đi vào nơi núi cao, ăn uống bằng những loại hoa quả trong rừng.
Lúc này, cõi trời Tứ Thiên vương cũng như chư Thiên, nhân ở các cõi trời cao hơn, cho đến chư Thiên ở cõi trời thứ hai mươi bốn là A-ca-nị-trá, thảy đều đến để lãnh hội kinh do vị Pháp sư nêu giảng. Vô số chúng dân nhiều nơi đều cùng nhớ đến vị Pháp sư, tâm luôn luyến tiếc, buồn rầu, mong muốn được trông thấy ông ta, cũng là để tỏ lòng kính phục đối với thanh danh và được nghe pháp âm quen thuộc.
Thời ấy, có vị vua tên là Sử Chúng Vô Ưu Duyệt Âm, là bậc Chuyển luân thánh vương đã đến thẳng trú xứ của vị Pháp sư kia dốc tâm lãnh hội pháp Tam-muội ấy. Đã được nghe, nhà vua hoan hỷ và muốn làm đẹp lòng vị Pháp sư nên cung kính thưa:
–Theo ý riêng, thì ta nên tuyên giảng truyền bá khắp nơi pháp bảo này, khỏi phải lo sợ gì. Tôi sẽ thân hành sai khiến người cùng nhau túc trực để bảo vệ. Sẽ khiến ba vạn người luôn có mặt bên cạnh Pháp sư. Hiện nay tôi cùng ở đây, chớ có lo ngại gì về những khó khăn. Tôi sẽ đích thân hộ vệ, vì đây là pháp bảo của Phật đã từng thuyết giảng, rất khó được nghe.
Thế rồi vị Chuyển luân vương bèn sai một ngàn người con của mình, đều là hạng dũng mãnh, kiệt xuất, một người có thể địch ngàn người, tất cả được dùng để bảo vệ vị Pháp sư. Còn ba vạn người túc trực kia thì thường đem các món ăn ngon cúng dường vị Pháp sư, tất cả đều thể hiện sự an ổn theo chỗ mà họ tạo được một cách thuận tiện nhất. Vị Pháp sư thường đem tâm hòa nhã hành xử, không hề dấy ý xâm phạm hay mưu hại gì. Do vậy mà đã trao truyền những gì họ cần và hết thảy đều nhận được đầy đủ. Như thế là vị Pháp sư ấy đã tạo lập được oai lực từ uy thần của pháp bảo kia. Trong nửa kiếp đã diễn giảng về pháp Tam-muội đó. Do gốc của công đức đã vun trồng nên hết thảy các vị Vương thái tử đều tạo được cuộc sống hòa hợp. Một ngàn vị ấy cùng với đám quyến thuộc trải qua tám mươi kiếp được thấy sáu mươi ức ba-na-thuật triệu triệu chư Phật Thế Tôn, đều theo chư Phật để có được pháp Tam-muội ấy. Theo như sở nguyện của tâm, tất cả đều được thọ nhận để giữ gìn các cõi Phật.
Này Bồ-tát Hỷ Vương! Bồ-tát muốn biết vị Pháp sư thời ấy hẳn là một người nào xa lạ chăng? Chớ nên nghĩ như thế, vị đó hiện tại chính là Đức
Phật A-di-đà. Còn vị quốc vương bấy giờ mang tên là Vô Ưu Duyệt Âm chính là Đức Phật A-súc. Một ngàn vị Vương thái tử kia chính là một ngàn vị Phật xuất hiện trong Bạt-đà kiếp này.
Đức Phật nói tiếp:
–Này Bồ-tát Hỷ Vương! Bấy giờ ba vạn người được nhà vua sai khiến làm công việc túc trực giữ gìn vị Pháp sư ấy, nay chính là Bồ-tát Hỷ Vương cùng với ba ngàn vị Bồ-tát. Thời ấy, do vun trồng công đức nên theo thệ nguyện của mình mà có được phước báo lớn, dẫn tới sự an định thuận hợp, luôn tôn kính đối với pháp bảo Tam-muội, cùng thực hiện con đường tu tập theo hạnh Bồ-tát.
Này Bồ-tát Hỷ Vương! Muốn tu học đạt được pháp Tam-muội đó thì phải đem tâm cung kính thọ trì kinh sách, đọc tụng, lãnh hội thấu đáo, thuyết giảng, cho đến dốc tâm ý phụng hành.
Đức Phật bèn đọc tụng:
Muốn thí hết thảy, an chúng sinh
Gồm đủ các kho đầy ngàn, ức
Nếu có phát tâm giữ đạo quý
Phước công đức ấy không thể ví
Giả như chúng sinh trong mười phương
Đều khiến thành tựu quả Duyên giác
Suốt trong một kiếp cúng dường đủ
Phước ấy chẳng sánh phát tâm đạo
Đều khiến chúng sinh thành Phật đạo
Theo nơi an ổn cúng một kiếp
Nếu có phát tâm giữ đạo quý
Phước ấy lớn lao chẳng thể ví
Nếu kẻ dốc cầu các pháp Phật
Mà chẳng dấy khởi phát tâm đạo
Chẳng bằng giữ lấy bốn câu tụng
Phước ấy như theo giữ tâm đạo
Giả như chúng sinh nơi đời này
Thảy đều tạo lập giữ Phật đạo
Nếu nghe câu ấy mà kính thọ
Phước ấy vượt hơn, tâm dứt sợ
Trăm ngàn ức kiếp như hằng sa
Hết thảy châu báu đầy các cõi
Thường đem cúng dường chư Bồ-tát
Giữ một câu tụng kệ thù thắng
Pháp Tam-muội ấy chẳng thể bàn
Nếu thọ giữ trọn bốn câu tụng
Công đức ấy đem giúp Phật đạo
Thảy đều hoan hỷ như chẳng dứt
Mạng khi lâm chung vô số Phật
Tự nhiên hóa hiện nơi trước mắt
Chư Phật khắp cõi trong mười phương
Cùng giúp dấy khởi bốn câu tụng
Mạng khi lâm chung vô số Phật
Đến giúp tâm ấy chẳng chợt quên
Theo đúng sở nguyện nhận chốn sinh
Do diệu lực pháp Tam-muội ấy
Thân luôn an ổn, tâm luôn hòa
Đến tận cõi trời, Thánh hiền an
Chẳng rõ thống khổ đến Phật đạo
Mà khuyên giúp đó gọi dũng mãnh
Vào trăm ngàn ức vô lượng cửa
Kho sáng tối thắng tỏa vô cùng
Uy lực ta trụ tụng tuyên giảng
Nên gắng tu tập pháp Tam-muội
Chư Phật ở đấy nên tụng, giảng
Do vậy mà phải gắng tinh tấn
Chư Phật hiện tại năng tu hành
Chẳng đạt, đời sau mang nặng hối
Liền thấy pháp ấy ở nơi tay
Thanh tịnh hòa hợp cùng phụng hành
Đều là con ta hóa vô tận
Thừa Phật trước sau hiện tâm Từ.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn thuyết giảng về pháp Tam-muội xong, lại dùng pháp ấy mà nhập chánh thọ. Bồ-tát Hỷ Vương cũng thực hiện pháp Tammuội đó với việc chọn lựa các nhân để hội nhập bảy mươi thứ chánh pháp. Sự chọn lựa ấy chứng tỏ uy thần lớn lao của pháp Tam-muội.
Lúc này, bên trong kinh thành Duy-da-ly cũng như các khu vực ở ngoài thành, mỗi nơi đều có đến tám vạn bốn ngàn dân chúng tụ họp, cùng một tâm niệm và nói với nhau:
–Đức Như Lai là Bậc Chánh Giác Vô Thượng, không dễ gì được gặp trong đời. Ở cõi thế gian hàng bao nhiêu năm mới có một vị Phật xuất hiện, nên ít có dịp được thấy, cùng nghe Đức Phật thuyết pháp. Những nơi chốn nào được Đức Phật thương tưởng, nhớ nghĩ đến nhiều thì những nơi ấy được nhiều an lành, yên ổn. Đức Phật còn rủ tâm Từ bi đối với chư Thiên cùng mọi người trong mười phương. Hiện nay, nơi tĩnh thất, Đức Phật đang nhập pháp Tam-muội. Chúng ta nên mau đến khuyến thỉnh Đức Như Lai ra khỏi pháp chánh định kia để tiếp tục thuyết giảng.
Tức thì đám dân chúng đông đảo gồm cả dân trong và ngoài kinh thành Duy-da-ly ấy cùng nhau tìm đến chỗ Hiền giả Xá-lợi-phất, thưa với Hiền giả:
–Phật xuất hiện ở đời là điều ít có. Những người có được tâm tin đối với Phật cũng đâu phải là điều dễ dàng. Thân mạng con người khó được, chánh pháp giải thoát khó gặp, nếu Đức Như Lai cứ an trụ mãi trong pháp Tam-muội thì ai là người có thể dẫn dắt chúng tôi được tiếp tục trông thấy tâm Từ bi ban phát khắp tất cả mọi loài?
Hiền giả Xá-lợi-phất nghe đám đông dân chúng thành Duy-da-ly trình bày như thế liền rời khỏi chỗ ngồi, sửa lại y phục, rồi đến ngay chỗ Đức Phật, đứng yên nơi phía trước, cất tiếng thưa nhẹ nhàng, lại búng ngón tay thật mạnh, rồi dùng tay vỗ vào hai đầu gối, ý là muốn cho Đức Như Lai từ trong pháp Tam-muội được nhận biết, nhưng vì Đức Phật đang còn nhập chánh định nên Hiền giả không rõ là Đức Như Lai thực hiện pháp Tam-muội này như thế nào. Hiền giả Xá-lợi-phất bèn đến chỗ Hiền giả Mục-kiền-liên, đầu đuôi kể lại hết sự việc vừa rồi cho Hiền giả Mục-kiền-liên nghe. Hiền giả Mục-kiền-liên liền vận dụng diệu lực thần thông của mình, khiến cho khắp Tam thiên đại thiên thế giới đều vang động, rồi Hiền giả đứng nơi cõi Phạm thiên nói lớn:
–Xin được trông thấy Đức Như Lai ra khỏi pháp Tam-muội!
Rốt cuộc, vẫn không thể lay chuyển được Đức Như Lai. Bấy giờ, hai vị Hiền giả này liền tìm đến chỗ Hiền giả A-nhã-câu-luân cùng các vị Hiền giả khác như Ba-đề, Phi-phá, Đại Xứng, Kiêu-hằngbát, La-vân, Phân-nậu, Tu-bồ-đề, Ca-chiên-diên, Ca-diếp, A-nan, Phân-na, Dư Đại, Kiếp-tân-nô, Hòa Lợi, Bồ-tát Di-lặc cùng với năm ngàn vị Bồtát khác, tất cả cùng đi đến chỗ Phật, nhiễu vòng quanh Đức Thế Tôn, rồi các vị, mỗi người lần lượt ngồi vào chỗ mình thường ngồi.
Lại có Tứ đại Thiên vương, Thiên đế Thích, Diễm thiên, Đâu-thuật thiên, Hóa tự tại thiên, cùng với chư Thiên, nhân trong cõi Dục số lượng không thể tính kể, mỗi mỗi vị đều xa giá nghiêm trang cùng đến nơi chỗ Phật an tọa, tất cả đều cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, lui ra và đứng qua một bên, thảy đều chắp tay, thân hướng về Đức Phật, bày tỏ mối sầu cảm kính mộ. Các vị Phạm thiên,
Quang âm thiên, Thanh tịnh thiên, Ly giới thiên, cho đến Tịnh thân thiên, số lượng chư Thiên tử không thể tính kể hết, tất cả đều một lòng cung kính đảnh lễ hướng về Phật, mong muốn Đức Thế Tôn ra khỏi pháp Tam-muội.
Bấy giờ, Bồ-tát Hỷ Vương sau bảy ngày tọa thiền, dứt hết mọi ý niệm, đã bắt đầu tư duy trở lại, bèn rời khỏi nơi tọa thiền, đi đến chỗ tòa ngồi trong đạo tràng, cung kính lễ Phật cùng yết kiến tất cả các vị Hóa Phật và chúng Bồ-tát hiện đang có mặt, hết thảy cùng đến trước Phật, cung kính chắp tay lễ bái.
Lúc này, Đức Thế Tôn an nhiên, lặng lẽ từ pháp Tam-muội xuất định và nhìn khắp chúng hội nơi đạo tràng, nhận thấy các vị trong chúng hội đều im lặng đứng yên, đầu cúi thấp đang hướng về mình. Bồ-tát Hỷ Vương liền đến trước Phật, thưa:
–Kính thưa Thế Tôn! Đạo pháp huyền diệu khó có thể lãnh hội một cách mau chóng. Bậc Chánh giác Vô thượng cũng không thể dùng thí dụ mà nêu bày hết được. Hết thảy các vị Bồ-tát, Tỳ-kheo trong Thánh chúng, chư tôn thần, trời đều vân tập đầy đủ nơi chúng hội. Tất cả đều hết lòng ngưỡng mộ, khao khát được lãnh hội giáo pháp nên đã có mặt nơi đạo tràng rất sớm. Nay con muốn nêu ra điều mình cần thưa hỏi, mong được Đức Thế Tôn chấp nhận thì mới dám bày tỏ.
Đức Phật nói với Bồ-tát Hỷ Vương:
–Bồ-tát cứ theo chỗ mình muốn hỏi mà trình bày, cả những gì còn hồ nghi hay vướng mắc, Như Lai tất sẽ phân biệt nói rõ, khiến cho tâm ý của các vị được cởi mở, thông suốt, không còn chút trở ngại nào.
Bồ-tát Hỷ Vương thưa:
–Kính thưa Thế Tôn! Con đã chọn cho mình một chỗ riêng để dốc vào việc tọa thiền, tâm tự suy nghĩ: Các vị Bồ-tát ấy đã tích lũy công đức, chí dốc tu tập, điều phục tâm mình, ham chuộng các pháp tu vượt bờ của Phật đạo, từng vun trồng pháp thiện để mong đạt đến quả vị Chánh giác. Hoặc có vị Bồtát dốc vì chúng sinh mà thực hiện các pháp Độ vô cực, do vậy mà đã thành tựu được Phật đạo. Hoặc có người nhờ nương theo chư Bồ-tát mà thực hành các pháp Độ vô cực. Hoặc do nhận thức về các lậu trong cõi sinh tử mà thực hành các pháp Độ vô cực. Nói chung là như vậy. Tùy theo chí hướng của mình để thực hiện các pháp tu tập ấy, trải qua quá trình tu tập lâu dài của hạnh Bồ-tát mà thành Bậc Chánh Giác. Như vậy là sự trải qua cùng thành tựu hết sức lớn lao đó đã có thể tạo nên nhân duyên cho sự tu học. Từ bước đầu, khoảng giữa, cho đến giai đoạn sau rốt, việc tu học pháp có thể theo một thứ tự. Sự thọ nhận đúng đắn, đích thực ấy sẽ thúc đẩy các vị Bồ-tát vận dụng khéo léo các phương tiện quyền xảo. Và để làm cho đạo pháp càng thêm hưng thịnh, nổi bật, các vị Bồ-tát có thể diễn đạt theo nhận thức của mình?
Khi ấy, Đức Thế Tôn lại càng khen ngợi Bồ-tát Hỷ Vương gấp bội và nói:
–Lành thay, lành thay! Này Bồ-tát Hỷ Vương! Bồ-tát đã mạnh dạn bày tỏ ý nghĩ của mình, thưa hỏi Như Lai về một khía cạnh khác của trí tuệ thù thắng. Lòng nhân ấy là do Bồ-tát từ trước đã từng hỏi về chỗ cùng tột nơi trăm ngàn ức Phật thời quá khứ.
Đức Phật nói:
–Các vị hãy hết sức lắng nghe, khéo suy nghĩ và ghi nhớ.
Bồ-tát Hỷ Vương cùng với các vị trong đại chúng vâng theo lời Phật dạy mà lắng nghe. Đức Phật nói:
Bồ-tát hành hóa có sáu sự việc phải làm. Theo con đường tinh tấn thực hành các pháp, tu tập các pháp Độ vô cực có sáu sự việc. Làm sáng tỏ rực rỡ các pháp Độ vô cực cũng có sáu sự việc. Thế gian tu các pháp Độ vô cực cũng có sáu sự việc. Vì chúng sinh nên thực hành các pháp tu vượt bờ cũng có sáu sự việc. Ở trong cõi sinh tử dốc tu các pháp Độ vô cực cũng có sáu sự việc. Do còn tham đắm nên tu các pháp Độ vô cực cũng có sáu sự việc. Đem lại lợi ích cho người khác mà tu các pháp Độ vô cực cũng có sáu sự việc. Theo các xứ mà tu các pháp Độ vô cực cũng có sáu sự việc. Do trí tuệ mà tu các pháp Độ vô cực cũng có sáu sự việc. Đã tu tập tạo được các hạnh và dốc tu các pháp Độ vô cực cũng có sáu sự việc. Đã đạt được quả vị và chuyên tu các pháp Độ vô cực cũng có sáu sự việc. Có được chánh niệm và dốc tu các pháp Độ vô cực cũng có sáu sự việc. Đã lìa khỏi ba đời, dốc tu các pháp Độ vô cực cũng có sáu sự việc. Đã tạo tác mọi nghiệp và dốc tu các pháp Độ vô cực cũng có sáu sự việc. Dừng dứt mọi tạo tác và tu các pháp Độ vô cực cũng có sáu sự việc. Không rơi vào những nơi chốn xa vời, dốc tu các pháp Độ vô cực cũng có sáu sự việc. Có được sự thận trọng thích hợp và dốc tu các pháp Độ vô cực cũng có sáu sự việc. Đã có những tạo tác và tu các pháp Độ vô cực. Cũng có người theo diệu lý vô tác tu tập các pháp Độ vô cực.
Có trường hợp dốc tâm ý tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp siêng năng tu tập dốc tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp đạt giác ngộ tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp thực hiện nhanh chóng các pháp Độ vô cực. Có trường hợp đạt được sự thâm diệu tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp xen lẫn tu tập các pháp Độ vô cực.
Có trường hợp thanh tịnh tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp Độ vô cực tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp tin tưởng tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp vì chúng sinh nên thực hành các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do hiểu pháp mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp vì sự an lạc tịch tĩnh mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp ưa thích quán tưởng mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do thông tỏ hết thảy mọi nẻo hội nhập mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nêu giảng các xứ mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp không hại người vật mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp không bị hư hại, thua thiệt mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nghèo khổ tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp chẳng trở lại, tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp xoay chuyển trở lại mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp trang nghiêm thanh tịnh tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp vững chắc tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp hưng thịnh thành tựu tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp sung mãn tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp vì đời mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhằm độ đời mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhằm đạt quả vị vô thượng mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp dứt mọi vọng động mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp dứt mọi oán, tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp từ mọi oán địch mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do thâu tóm, giữ gìn được mọi pháp mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp chẳng thể thu tóm, gìn giữ được mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp dứt mọi báo ứng mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp an nhiên tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp dứt mọi sở hữu, tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp theo chỗ lớn lao rộng khắp mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp tươi đẹp tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp không thể lường tính, tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp hâm mộ, mong cầu, tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp từ chỗ chán ghét mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhằm đạt đến sự an lạc vi diệu mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp dứt mọi thú vui mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do được nghe và thọ trì mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do nhận ra sự kéo dài theo nẻo sinh tử mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp không đoạn trừ mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp từ cái vui thuần túy mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp từ thiền định mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp đạt được các thứ thần thông mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp từ sự xảo diệu ở đời mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do tâm Từ bi thương xót cứu giúp mà tu tập các pháp Độ vô cực.
Có trường hợp từ việc thể hiện lòng thương cảm mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do hoan hỷ mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do việc nêu bày rõ về tà kiến, chánh kiến mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do nêu rõ về nẻo trụ và vô trụ trong nhận thức mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do khuyến khích dứt mọi dựa cậy mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do thúc đẩy ý mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do khuyến khích tu nhẫn mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do nhận rõ về tạo nghiệp và không tạo nghiệp mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp đã dứt sạch mọi phiền não mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do nhận thấy sự hưng thịnh của Phật mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp sáng suốt tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp từ thời điểm an trụ nơi sáng tỏ mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do đạt được những thành tựu mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp ý chẳng nhẫn được mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do tạo lập sự hưng thịnh của Phật ngay tại nhà mình mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do thấy người xuất gia đi đến mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp từ sự biết rộng, nghe nhiều, dẫn tới tâm thương xót mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp xuất gia chẳng lìa bỏ giới, tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp trụ nơi các thứ thần thông mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp tâm ý không lìa bỏ đối với thần thông mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp đi vào cõi Dục mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do thích ứng mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhận rõ về mọi quả báo hoặc không quả báo mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do dứt mọi vui thú mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do luôn tinh tấn mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp từ ánh hào quang nhận ra tính chất vô lượng quang mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do quả báo đem lại sự an ổn, sáng tỏ mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do chẳng trở lại mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp từ sự an vui mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp từ sự tươi tốt, trong lành mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do thành tựu các pháp thế gian mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp muốn có được một thế giới thanh tịnh mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do thành tựu mọi thứ loại mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do tạo nên quyến thuộc mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do không hủy hoại được quyến thuộc mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do dứt trừ mọi trần cấu, đem lại sự trong sạch mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do quán tưởng về các quốc độ mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do nêu bày thệ nguyện mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do dứt mọi phóng dật mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do nhận ra sự xoay chiều khắp cõi mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhằm đạt đến cõi diệt độ mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp từ cảnh phú quý hơn người mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp từ việc nhận ra ý nghĩa về quyến thuộc mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do dứt mọi nơi chốn quên mất mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do thấy được ba mươi hai tướng pháp mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do thuận hợp thời cơ mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do biết rõ về thời mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do nhận rõ về thế gian mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do tùy thuận theo thế gian mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do nhận ra tính chất giới mốc mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do dứt trừ hết thảy mọi thứ mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhằm đạt được sự kiên cố, vững bền như kim cương mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do hành động cứu giúp mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp an nhiên tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do hàng phục được các ma mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do không thoái lui mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp trong một thời tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp dứt hết mọi tham đắm, vướng mắc mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp từ pháp Tam-muội mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp theo lời dạy bảo mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do theo Phật đạo mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhằm đạt đến Nhất thiết trí mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do thấu đạt tính chất hữu dư và vô dư mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do nhận ra chỗ nên dừng mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nương theo chư Phật mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp theo phương tiện mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp tự sự sầu buồn, lo lắng mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do khai hóa hàng thần nhạc mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do ham chuộng điều khác lạ mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do thấu đạt bốn thứ quyết đoạn nên tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp đạt được bốn Như ý thần túc so sánh với các thứ thần túc khác mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp từ chỗ đạt được Tứ thiền mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhận rõ chỗ dừng của bốn Ý mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do thấu đạt bốn chân lý mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do đạt được năm Căn là tín căn, tinh tấn căn, ý căn, trí tuệ căn và định căn mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do đạt được năm Lực là tín, tấn, ý, định, tuệ mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do đạt được bảy Giác ý, tám Phẩm đạo mà thực hành các pháp tu vượt bờ. Có trường hợp nhằm đạt được cõi tịch tĩnh an nhiên mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do sự quán tưởng mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp từ chỗ vui thích với ánh sáng giác ngộ mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhằm đạt giải thoát mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp noi theo các bậc Tỳ-kheo trong Thánh chúng mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp theo tám bộ chúng mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do phân biệt mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do cởi mở được sự trói buộc của các pháp mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do nhận rõ tính chất thuận lý mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do đạt được biện tài mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do dứt mọi chán ghét mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp theo đúng sáu pháp Ba-la-mật mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do có phước báo về sáu căn là nhãn, nhĩ, tỷ, khẩu, thân, tâm mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp xuất phát từ lòng thương kẻ khác, muốn khuyên giúp mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do thương xót về chính bản thân mình mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhận rõ các pháp mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do tạo mọi thích ứng mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do phân tích một cách rành rẽ mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do vui thích sự khuyến trợ mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nương theo ba cánh cửa giải thoát mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp tự sự hành hóa khác biệt mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhằm giải thoát cho kẻ khác mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp ý siêng năng dốc sức tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhằm đạt đến mười thứ Trí lực mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhằm đạt bốn Vô sở úy mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp từ lòng thương lớn lao mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do đạt được năm nhãn là Nhục nhãn, Thiên nhãn, Tuệ nhãn, Pháp nhãn và Phật nhãn mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp có được tự tại và tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhằm đạt sự an lạc yên lành mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp từ việc khiến cho các loài khó đạt được trở nên tự quy ngưỡng mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do hâm mộ, quy kính mười tám pháp Bất cộng của chư Phật mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do thông tỏ các phương tiện mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhằm đạt đến sự trong lành thuần khiết mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp tự nhiên đi đến với các pháp tu vượt bờ. Có trường hợp do nhận ra sự biến chuyển trong ba cõi mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do quan sát sự biến chuyển của pháp thanh tịnh mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do vun trồng các pháp mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhằm đạt tám Bậc (bốn hướng, bốn quả) mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do đạt các quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do đạt quả vị Duyên giác mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do đạt quả vị Bồ-tát mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhằm đạt đến trí tuệ rốt ráo mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhằm đạt “Trí tuệ vô sở sinh” nên tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhằm đạt “trí tuệ kiến lập” mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhằm đạt được sáu loại thần thông là Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông, Tâm thông tỏ tự tại nhận thấy rõ mọi sự việc ở đời, Tha tâm thông, Thần túc thông và Lậu tận thông mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do tạo được uy nghi mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp từ sự thể hiện tâm thương xót mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do nhận thấy các hành là không, nên tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do từ bỏ hết thảy mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhằm đạt được cảnh giới diệt độ mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp nhằm thể hiện sự biến hóa mà tu các pháp Độ vô cực. Có trường hợp dốc đem giáo pháp truyền bá rộng khắp mà tu tập các pháp Độ vô cực. Có trường hợp do phân chia xá-lợi mà tu các pháp Độ vô cực.
Đó là nơi chốn hành hóa của các vị Tỳ-kheo, Bồ-tát, gồm hai ngàn một trăm các pháp Độ vô cực an nhiên tịch tĩnh. Chư Bồ-tát, Đại sĩ nếu đạt được sự thông tỏ về các pháp ấy thì đều đạt đến chỗ tận cùng của hết thảy các pháp thù thắng, huyền diệu cùng mọi cõi hành hóa mênh mông vô bờ, không gì có thể so sánh, không ai hơn được, là con đường dẫn tới bậc Thánh triết, dứt hết mọi nơi chốn dựa cậy ngưỡng vọng, tiêu trừ tất thảy mọi thứ bụi bặm cấu uế, không còn các nẻo tu hội, đoạn sạch mọi lối hồ nghi. Trong hai ngàn một trăm pháp ấy, có thể chọn riêng ra một trăm pháp tu vượt bờ tiêu biểu với chủ đích là nhằm dứt sạch hết mọi vướng chấp về bốn đại sáu trần khiến cho hành giả có thể cất bước thong thả trong ba cõi, đi đến, lui tới ung dung khắp nẻo, hội nhập cả ba thời. Cũng như mặt trời mặt trăng không hề sợ mọi thứ tối tăm, khiến cho muôn vật được thành tựu với hàng trăm thứ cây cỏ, hoa trái rậm rạp xanh tươi hướng lên bầu trời, đều do từ đất sinh ra. Bồ-tát cũng như vậy, hai ngàn một trăm pháp tu vượt bờ là cái nền của trăm pháp tu vượt bờ tiêu biểu. Hai ngàn một trăm các pháp tu vượt bờ ấy, mỗi mỗi pháp đối trị với bốn thứ là tham, dâm, nộ, si, hợp nên tám ngàn bốn trăm pháp. Mỗi pháp trong số tám ngàn bốn trăm pháp này tách riêng ra có mười sự, hợp thành tám vạn bốn ngàn pháp, được xem là đầy đủ các pháp Độ vô cực, là phương tiện dùng để hoàn tất tám vạn bốn ngàn nẻo hành hóa tối thượng, chính yếu, dẫn tới việc đạt tám vạn bốn ngàn pháp môn Tổng trì, mau chóng hội thông với năm trăm loại Thánh công đức của chư Phật, với những diệu dụng khác nhau. Từ đó có thể dùng để hóa độ, đem lại an vui cho tất cả chúng sinh. Nhận rõ sự thành tựu hết thảy mọi nơi chốn hành hóa trong các cảnh giới, thuận theo thời mà dấy khởi, không một đối tượng nào mà không thể tế độ, đem lại an lạc, cho đến đạt được Trí tuệ độ vô cực, là sự thể hiện của pháp thân trong quá trình tu chứng.
-oOo-
Bấy giờ, Bồ-tát Hỷ Vương lại thưa với Đức Phật:
–Kính thưa Thế Tôn! Con lắng nghe Thế Tôn nêu bày một cách tổng quát các đề mục chính về cảnh giới của chư Phật. Do bản tánh vốn không được linh lợi, mẫn tiệp nên khó có thể lãnh hội kịp ý nghĩa của các vấn đề được chỉ dạy. Kính mong Đức Đại Thánh rủ lòng thương nghĩ. Đức ấy thật lành thay! Sẽ vì những hạng như con mà dẫn giảng rộng về những điểm chính của kinh ấy, khiến cho tất cả được thông tỏ. Những nơi chốn nào được Thế Tôn rủ lòng thương nhớ đến nhiều thì những nơi ấy luôn được nhiều an lành. Huống chi cũng là thể hiện tâm Từ bi đối với chư Thiên cùng mọi người trong mười phương. Mong Thế Tôn vì lẽ ấy mà một lần nữa chỉ dạy về chi tiết.
Đức Phật nói với Bồ-tát Hỷ Vương:
–Bồ-tát hãy hết sức lắng nghe, lại khéo suy nghĩ và ghi nhớ. Nay ta sẽ vì Bồ-tát cùng tất cả các vị Tỳ-kheo, Bồ-tát mà một lần nữa nêu rõ về chi tiết.
Bồ-tát Hỷ Vương cùng với đại chúng vâng lời Phật chăm chú lắng nghe. Đức Phật nói:
–Thế nào gọi là tu tập thực hành các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Từ trước tới nay chưa từng phát tâm đối với đạo thì nay phát tâm Bồ-tát bình đẳng chí chân đứng ở chỗ giác ngộ về lẽ bình đẳng đó từ quá khứ mà hành xử đối với chúng sinh, thông qua sáu pháp tu là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm và Trí tuệ. Chí luôn vui thích với Phật đạo, tâm nguyện đạt đến quả vị Chánh giác Vô thượng chưa từng bị lãng quên. Đó chính là tu tập sửa trị, thực hành đúng theo các pháp Độ vô cực gồm sáu sự việc.
Thế nào gọi là làm sáng tỏ rực rỡ các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Phát khởi làm hiển lộ các pháp của trí tuệ sáng suốt là tâm đạo. Đã tự xét kỹ về giới để phát tâm Bồ-tát, đầu tiên là tu pháp Bố thí, rồi dẫn đến Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn,
Nhất tâm, Trí tuệ. Đó gọi là làm sáng tỏ rực rỡ các pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là thế gian tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Ý nghĩa ở chỗ cúng dường Phật cùng các việc hưng công lập đức, tất cả đều vì chúng sinh. Sáu pháp Độ vô cực cũng như thế. Nhằm để câu thúc, chế ngự sáu căn, cầu sáu thứ thần thông, thấu tỏ các nẻo hành động, khiến cho đạo lớn càng thêm phát triển. Đó gọi là thế gian tu các pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là vì chúng sinh nên thực hành các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như dùng pháp bố thí để thâu phục giáo hóa chúng sinh, tâm thường nhớ nghĩ: Nhằm khiến cho mọi chúng sinh luôn đạt được an lành, lại khuyến khích mọi người đến với đạo Phật. Sáu pháp Độ vô cực đều cũng như thế. Dùng giới để đem lại sự an định. Do sự khổ bao trùm như hư không nên đem các pháp của nhẫn nhục mà độ thoát, dùng tinh tấn cứu giúp, dùng nhất tâm để thu giữ, khiến cho chúng sinh khỏi phải lao vào các vọng tưởng điên đảo. Đạt được trí tuệ là nhằm khuyến khích, trợ giúp đối với đạo, cũng là nhằm đem lại an lạc cho chúng sinh. Mong thành Bậc Chánh Giác cũng là nhằm hóa độ chúng sinh. Đó gọi là vì chúng sinh mà thực hành các pháp Độ vô cực gồm sáu sự việc.
Thế nào gọi là an trụ tu tập các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như đem sự kiên cố tạo lập chí nguyện, tâm đạo luôn được thanh tịnh, hòa hợp, dứt mọi tranh biện, hý luận. Đó là pháp tu Thí độ vô cực. Nơi chốn tạo lập khắp các cõi, quán về giới dứt mọi tưởng, chí dốc bảo tồn đạo pháp, chẳng mong cầu phước báo. Đó là pháp tu Giới độ vô cực. Trụ nơi đạo pháp, nhẫn đối với tất cả mọi khổ, an trụ vững chắc nơi các điểm chính của đạo pháp. Đó là pháp tu Nhẫn độ vô cực. Chỗ đứng để hành hóa chánh pháp, trải qua vô số kiếp không hề bỏ phế việc tinh tấn, cho đến khi đạt Nhất thiết trí. Đó là pháp tu Tinh tấn độ vô cực. Nhất tâm dốc tu, chí cầu pháp để mong thành tựu Phật đạo. Đó là pháp tu Thiền độ vô cực. Trụ nơi diệu nghĩa của đạo, thông suốt hết thảy các pháp, thấu đạt như bậc Chí chân, thành tựu quả vị Tối chánh giác, tâm luôn an nhiên không còn vướng chút vọng tưởng. Đó là pháp tu Trí tuệ độ vô cực. An trụ, tu tập các pháp Độ vô cực gồm sáu sự việc là như thế.
Thế nào là ở trong thế giới sinh tử mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Nhận rõ về nơi chốn bố thí là vô lượng mà cũng không bao giờ hết. Mong đạt đến Phật đạo, có mặt khắp trong cõi sinh tử, ở những nơi chốn mình đang hành hóa dốc hết tài sản giàu có lớn lao mà bố thí. Đó là pháp tu Thí độ vô cực. Luôn tỏ ra thận trọng, quán xuyến trong hành xử, mọi tai họa từ phiền não tất làm mờ tối bao phước lành của cả thân mạng không có một giới hạn nào. Sống trong sinh tử mà không để bị vướng trong tai họa, đó là pháp tu Giới độ vô cực.
Nếu gặp kẻ khác chống đối mà tâm mình không dấy khởi một ý niệm gì, đó gọi là nhẫn nhục. Trải qua số lượng kiếp không thể tính kể mà vẫn luôn thực hiện thiền định, phụng hành gốc của mọi điều thiện, đó gọi là tinh tấn. Dùng mọi đối tượng của tư duy tĩnh lự để thực hiện chánh định, đó gọi là thiền. Không rời các pháp Độ vô cực, đạt Phật đạo, hết thảy mọi nẻo tạo tác đều nhằm kiến lập các phương pháp khéo léo, từ phương pháp ấy, ánh sáng hiểu biết phát sinh, mọi nơi chốn đều thông tỏ, đó gọi là trí tuệ. Ấy là ở nơi sinh tử mà tu các pháp Độ vô cực.
Thế nào là còn tham đắm đối với các trần mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Chỗ mong muốn tạo lập cho đạo với các điều thiện cùng công đức là đều nhằm để khuyến hóa các loài chúng sinh, đó là Bố thí. Dũng mãnh như sư tử, cũng như bậc Thánh vương có đến tám vạn bốn ngàn thể nữ nơi các cung. Thể nữ nhiều như vậy là không hợp với người đã theo Phật đạo, nên rốt cuộc là không chung sống mà đều khiến quy y Tam bảo, tiêu trừ ba trăm thứ phiền não, nhờ đó mau chóng đạt đến các phương pháp tu tập của đạo, dùng những giới cấm ấy với tâm từ để khuyến hóa chúng sinh, đó gọi là trì giới. Do chỗ đạt được của giới mà xua sạch các thứ phiền não, thuận theo người khác mà tâm không bị trần cảnh làm cho ô uế, đó là Nhẫn nhục. Còn chỗ tham đắm của tinh tấn? Thế nào gọi là đối tượng của pháp tinh tấn vượt bờ? Do đã thấy được chỗ còn tham vướng nên mới thực hành tinh tấn. Như bậc Minh vương tử đã khiến cho mọi người phải sợ hãi. Đạt được sự hiểu biết về nhân của mọi tạo tác, thể hiện, để đem lại an lạc, do công dụng của chỗ còn tham vướng mà thực hiện Tinh tấn. Thế nào gọi là thiền? Do còn có chỗ tham vướng nên mới hành thiền định, dùng những nhận thức về tôi - ta để thu giữ hơi thở của mình, đó gọi là Thiền định. Thế nào là do còn có chỗ tham vướng mà thực hành pháp tu Trí tuệ độ vô cực? Như Trí tuệ độ vô cực không thể cùng tận, tâm thương xót đối với muôn loài cũng như ánh sáng của mặt trời đối với mọi thứ cây cỏ, nhằm đạt đến trí tuệ của bậc Thánh để khuyến trợ đạo đức, đó gọi là Trí tuệ. Ấy là còn có chỗ tham vướng nên tu sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhằm đem lại lợi ích cho người khác mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Dùng tính chất an lạc của mọi công đức mà dẫn dắt, giáo hóa chúng sinh, đó là Bố thí. Luôn nương tựa nơi tâm Từ bi, không mang lòng mưu hại làm thương tổn các đối tượng, đó là Trì giới. Trong mọi nơi chốn hành hóa nhằm phát huy chánh pháp đều có thể nhẫn mà không bị cho là hèm kém xấu xa, đó là Nhẫn nhục. Lại vì những người khác, khuyến khích họ tu tập thúc đẩy hành động, mong muốn cứu giúp các trường hợp nguy khốn, đem lại mọi an lạc lâu bền, đó gọi là Tinh tấn. Nếu đem chánh pháp giảng truyền cho người, tâm luôn nhớ nghĩ về việc tích chứa các đức hạnh thanh tịnh, đó là thực hiện Thiền định. Đem mọi nhân duyên ấy làm cho hết thảy chúng sinh đều được thấu đạt, thấm nhuần đầy đủ, nêu bật rõ tâm Bồ-đề của mình, đó gọi là Trí tuệ. Ấy là nhằm đem lại lợi ích cho người khác mà tu các pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là theo các xứ mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Do đã dứt trừ mọi điên đảo nên các hành động bố thí đều không mong cầu phước báo, đó là Bố thí độ vô cực. Đối với mọi tài sản sự nghiệp đều dùng làm nhân cho chỗ dựa của giới cấm. Vì để thu phục chúng sinh nên tu tập nhẫn nhục cùng tinh tấn đối với bản thân trong tất cả mọi nơi chốn an trụ. Luôn nhớ nghĩ về kinh điển để tu hành đạt sự tịch tĩnh an nhiên, mà tâm trí luôn an trụ nơi cảnh giới vô vi tịch tĩnh ấy, đó là Trí tuệ. Ấy là theo các xứ mà tu các pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là theo đúng đường mà tu tập các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như có thể tu tập đạt pháp nhẫn Vô sở tùng sinh, không gì mà không thể đảm nhận, gánh vác được, đó là Bố thí. Hoặc thực hiện việc ngăn cấm đối với giới hạn của thân, khẩu, ý, đó là Trì giới. Đối với các pháp thuộc chân đế luôn tu tập thuận hợp, dứt sạch mọi nẻo tranh biện hý luận, đó gọi là Nhẫn nhục. Hoặc như thân, miệng, ý không bám vào các điều trái ngược, không tu vào các nẻo phiền não hỗn tạp mà chỉ dốc tu tập siêng năng chẳng chút biếng trễ, đó là Tinh tấn. Như dốc phụng hành đạo pháp, tâm chí tinh chuyên dứt mọi tham đắm, vướng mắc, dốc đạt Nhất thiết trí, mọi đối tượng đều thấu đáo, thông tỏ, đó là Nhất tâm. Rõ mọi pháp trong ba cõi là không, như cảnh huyễn hóa trong mộng, chân lý giác ngộ vượt mọi giới hạn của ba đời: quá khứ, vị lai, hiện tại, dứt sạch mọi thứ phiền não, đó là Trí tuệ. Ấy là theo đúng con đường của Phật mà tu sáu pháp Độ vô cực.
Đức Phật nói với Bồ-tát Hỷ Vương:
–Thế nào gọi là theo trí tuệ tu các pháp Độ vô cực? Như chẳng dứt bỏ việc khéo dùng các phương tiện quyền xảo để dẫn dắt, giáo hóa chúng sinh, đem trí tuệ để tế độ, đó gọi là Bố thí. Hoặc như đem việc giảng truyền phổ biến năm trăm bài tụng kệ để dứt trừ chín mươi sáu thứ ngoại đạo, diệt sạch mọi khổ não, tôn phụng chánh kiến, đạt đến cảnh giới chí thiện, luôn được an lạc, đó là Trì giới. Hoặc diệt trừ khổ nạn, trí tuệ an trụ trong cảnh tịch tĩnh, chán ghét việc dâm dục mà thêm tinh tấn tu, dần dà có thể giáo hóa, đem đạo pháp mà hóa độ, đó là Nhẫn nhục. Phụng hành luôn tự điều phục chế ngự nơi chính mình, như thế thì dù có cả đất nước, muôn dân, voi ngựa, xe cộ vẫn có thể mong đạt được sự yên tĩnh, ung dung là do mình biết tìm hiểu về đầu mối của sự khổ và rõ là không cội rễ, đó là Tinh tấn. Nhớ đến mình, thương xót kẻ khác thì luôn đạt được sự an lành lớn lao. Cũng như âm thanh của tiếng đàn “không hầu” tấu lên và lan tỏa khắp nơi. Sau đấy, quy về sự tịch tĩnh mà trong lòng luôn kiên cố, bền vững. Cũng như sư tử là vua trong các loài thú rừng. Lại như vị dẫn đường chỉ giúp nẻo đi cho đám người buôn bán, đó là Tinh tấn. Hoặc nhất tâm chuyên niệm dứt hết mọi nơi chốn phát sinh của sắc trần, phát khởi các pháp tu của hàng Thanh văn, Duyên giác, ở nơi các nẻo hành hóa ấy mà không đi vào cảnh giới diệt độ, đó gọi là Nhất tâm. Hoặc như đối với các pháp, không có chúng sinh, không có ta - người, cũng chẳng có thọ mạng. Cũng như sáu sự việc mà người tu học đạo luôn nhớ nghĩ đến giáo pháp, như hàng xuất gia tu học phải luôn dứt trừ hết thảy mười điều ác, đó gọi là Trí tuệ. Ấy gọi là theo trí tuệ mà tu sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là vì mình tu tập tạo được các hạnh, trí và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như có được tài sản lớn lao, luôn tự nhủ với chính mình là nên đem lòng thương cùng của cải cứu giúp cho mọi chúng sinh, đó là Bố thí. Bày biện ở nơi thiên thượng cũng như ở nơi nhân gian đủ thứ cỗ bàn thịnh soạn, kẻ đến dự luôn được an ổn, ung dung trong sự thọ hưởng, đó là Trì giới. Đạt được nhẫn nhục thể hiện qua sự vui vẻ tự tại, dung mạo lúc nào cũng tươi đẹp như thể hoa sen, cho dù đạt được phước báo hết mực phú quý cao sang, đó là Nhẫn nhục. Đã đi theo Phật đạo thì không còn ngưỡng mộ một đối tượng nào khác. Tuy tu tập theo đúng đạo pháp nhưng bản thân luôn độc lập, đó gọi là Tinh tấn. Đã thọ nhận thiền định thì luôn như đối với thời gian của kiếp thành, kiếp hoại hoặc nhằm đạt tới nơi chốn ấy, đó là Nhất tâm. Tuy hành xử ở thế gian nhưng luôn được giữ gìn, đó là Trí tuệ. Ấy là vì mình mà siêng năng tu tập sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đã đạt được quả vị và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như đã rõ về bố thí nên đem hết tài sản giàu có lớn lao, dùng chỗ bố thí ấy mà khuyến trợ hết thảy mọi sự việc nhằm đạt đến Phật đạo, đó gọi là Bố thí độ vô cực. Tâm dứt mọi tham đắm vướng mắc, đạt được sự tịch tĩnh an nhiên, không còn dấy khởi các tưởng, dùng việc giữ giới ấy mà khuyến khích cứu giúp chúng sinh, đó là Trì giới. Lại không hề phỉ báng chánh pháp, tâm dứt mọi ý niệm mưu hại xâm phạm, cho đến khi Phật đạo được thành tựu cũng chưa từng có sự giận dữ, đó là Nhẫn nhục. Như tinh tấn mà không mang tâm buồn phiền, nóng nảy, thể hiện qua công việc sớm tối tu hành, đó là Tinh tấn. Bản thân luôn theo đúng với giáo pháp, không hề có chút sai phạm để đạt được pháp Tam-muội, đó gọi là Nhất tâm. Như phụng hành hết thảy các pháp, không đối tượng nào mà chẳng thông tỏ, rõ tất cả đều là không, đó là Trí tuệ. Ấy gọi là đã đạt được quả vị và tu sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là chánh niệm tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như đã đạt được công đức từ sự dốc thực hiện bố thí, đem công đức ấy để khuyến trợ đạo pháp, tế độ chúng sinh, đó gọi là Bố thí. Nơi thân, miệng, ý, chỗ phước báo đạt được từ công đức giữ gìn giới cấm, đều đem dùng vào việc thích hợp với đạo pháp, đó gọi là Trì giới. Như thọ nhận các pháp tập hợp ở nơi đông đúc, chỗ hiển bày điều mình thấu đạt luôn đúng như điều mình đã thấu đạt, đó gọi là Nhẫn nhục. Như đối với trường hợp có các phương tiện phụng hành mà chưa thể quyết đoán được thì dùng trí tuệ để nhận rõ bỉ thử, dốc tâm thực hiện không sợ trở ngại, đó là Tinh tấn. Nếu đã thực hiện thiền định tư duy, mọi sự xác định các điều ứng hiện nên tham cầu thọ nhận ý kiến của các bậc Đại đức, đó là Nhất tâm. Trí vượt đến bờ giác như bậc Thánh cao tột hơn hết, dùng trí ấy để truyền trao đạo pháp, cùng nuôi dưỡng tâm ý và công việc nuôi dưỡng ấy là nhằm giữ gìn mọi chuyển biến của tâm, từ đấy diễn giảng truyền bá đạo pháp, đó gọi là Trí tuệ. Ấy gọi là Bồ-tát đại chánh niệm tu các pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là lìa thế gian tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như dùng phương tiện để dứt trừ các pháp hữu vi, khuyến thỉnh nhằm đạt đến đức của đạo quả vô vi, đó gọi là Bố thí. Nếu mong đạt giới cấm, hâm mộ đạo pháp, nguồn tâm dứt sạch mọi thứ tưởng tà vạy sai lầm, đó là Trì giới. Như thông tỏ về các tính chất vô thường, khổ, không, phi ngã (vô ngã), rõ mọi khía cạnh trong ngoài của các pháp để bày tỏ sự ham thích cùng an vui với các pháp, đó là Nhẫn nhục. Đã tinh chuyên tu tập, ý dứt mọi ý niệm về tổn hại, phụng hành đúng theo sở nguyện, hợp với ý nghĩa từ ngàn xưa, tâm không còn tham vướng, đó là Tinh tấn. Như thực hành thiền định không rời quán tưởng, do đạt được điều ấy nên có thể diệt trừ mọi thứ phiền não cấu nhiễm, đó là Nhất tâm. Ví như mười hai chi duyên khởi không bị quấy động, thu tóm các phương tiện quyền xảo mà không xa lìa phiền não, tùy thời mà giáo hóa chúng sinh, đó là Trí tuệ. Ấy là sáu sự việc của trường hợp lìa thế gian tu các pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là tạo tác mọi nghiệp và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Đem chỗ thực hành các nghiệp đối với công lao của bốn ân mà gia hộ cho chúng sinh đó là Bố thí. Như dùng các giới cấm vì vô số các loài chúng sinh đều khiến họ thảy chịu ân mà được tế độ, đó là Trì giới. Cũng như các loài chim bay thú chạy, lúc vừa mới sinh ra liền bị rơi ngay vào trong chỗ lửa cháy, Bồ-tát trông thấy cảnh ấy liền dập tắt lửa để cứu thoát. Do cảm từ ân lớn cứu giúp, đem lại an ổn cho những loài vật ấy, nhân đó mà phát khởi tâm đạo, ấy là Nhẫn nhục. Lại như công việc dẫn dắt, giáo hóa, giảng dạy cho vô số dân chúng trong các quốc độ, tùy hoàn cảnh mà thu phục, như ở trong tám nạn mà thể hiện sự nhẫn nhục, cho dù phải bỏ thân mạng để cứu lấy bao nỗi khổ não của chúng sinh, Bồ-tát cũng đều thể hiện sự nhẫn nhục, đối với hết thảy mọi nguy khốn tâm không hề dấy chút giận dữ, đó cũng là Nhẫn nhục. Như có trường hợp hành động đối với bốn ân, có trường hợp tùy hoàn cảnh mà tinh tấn để tăng thêm lợi ích, cho dù trong trường hợp nào cũng luôn mang tâm đại Từ với lòng thương xót lớn lao trong sáng, đem tâm ấy mà hóa độ chúng sinh không thể tính kể hết, vì bậc đứng đầu mà khuyến trợ tất cả, mọi nơi chốn hành hóa của tâm ấy như thế là không hề gặp một khổ sở nào, từ đấy đem đến lợi ích cho khắp muôn loài trong ba cõi, đó là Tinh tấn. Như trong giai đoạn mới tu tập chưa đạt trí tuệ mà dốc tâm siêng năng tinh chuyên, đối với hết thảy các pháp không hề có sự sai trái hay thất tán, nhờ vậy mà tỏ ngộ được tánh không, tiếp cận được ba cánh cửa giải thoát, đó là Nhất tâm. Như chí đã nhất tâm, đối với các pháp thiện, đức luôn được giữ gìn vun đắp, khiến dứt sạch mọi tưởng, tất hội nhập Phật đạo. Từ sự hội nhập ấy làm cái nhân gốc để giảng dạy nêu bày, cho đến thông đạt các cánh cửa giải thoát như vô tướng bất nguyện. Đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là con đường ung dung và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như sự an lành khiến cho tâm ý ham thích các sự nghiệp thế gian, dùng sự bố thí ấy dẫn dắt chúng sinh đến với chánh kiến, tập hợp công đức để khuyến trợ họ, đó là Bố thí. Tâm được ung dung, chí tin tưởng nơi ánh sáng của đạo pháp, đem tất cả những điều ấy mà giúp đỡ, dẫn dắt khiến cho chúng sinh đến với các nẻo chánh ngữ, chánh mạng, chánh nghiệp, chánh phương tiện, đó là Trì giới. Bồ-tát đã nêu rõ nẻo đường ung dung ấy, về nơi chốn đạt đến của giới, đối với pháp nhẫn Vô sở tùng sinh không hề dấy tưởng mong cầu phước báo, đó là Nhẫn nhục. Tâm đạt diệu lý “Bất khả đắc”, thân luôn tinh tấn mà không còn vướng vào chỗ dựa cậy, đó là Tinh tấn. Dứt trừ điên đảo, ý định không loạn, nhờ đó ý luôn được thu giữ, chuyên tinh về một đối tượng, lìa mọi phóng dật, đó là Nhất tâm. Như đã thu giữ “vô tưởng”, dựa theo trí tuệ của bậc Thánh mà độ thoát mọi nỗi lo lắng về nguy khốn khổ não, đó là Trí tuệ. Tôn phụng, thực hành mọi nhận thức và tư duy chân chánh, thích hợp, làm cho đạo lớn được hưng khởi, phát triển, không hề bị thoái chuyển, đó là Trí tuệ của nẻo đường ung dung dốc tu sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là không rơi vào chốn xa vời mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như sử dụng các phương tiện quyền xảo để giúp đỡ đối với hết thảy chúng sinh để họ nhân đó mà phát tâm đạo, đó là Bố thí. Tâm dứt sạch mọi ý niệm mưu hại, đối với đạo pháp không còn dấy khởi điên đảo, đạt được sự an định lâu bền tự tại, như có vị Bồ-tát từ cõi trời Đâu-thuật hiện xuống với đầy đủ uy nghi khiến chấn động cả đại thiên thế giới, thì mình vẫn giữ được sự thanh tịnh sâu xa ở cõi của mình, đó là Trì giới. Như dùng sự nhẫn nhục để dốc tâm đem lại sự dấy khởi tạo lập cho chánh đạo vượt hẳn tám pháp của thế gian, đó là Nhẫn nhục. Luôn tinh tấn trong việc dùng Từ bi để khuyến khích, gia hộ đối với chúng sinh, đó là Tinh tấn. Như thực hiện hết thảy các pháp thiền định, chánh thọ, dứt mọi phóng dật thể hiện qua bốn tâm vô lượng, đó là Nhất tâm. Dùng trí tuệ tu các pháp Độ vô cực, nguyện thực hành, khuyến trợ để thành tựu được hết thảy các pháp, các phương tiện thích ứng, không đâu là không tế độ khắp, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là thích ứng thuận hợp tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như đã có được ánh sáng trong sự giúp đỡ, cùng đồng tâm, không dấy khởi một ý niệm nào khác, đó là Bố thí. Như đem các giới cấm khuyến khích khiến cho chúng sinh lìa bỏ mọi tham dục, dẫn tới hành động dứt sạch cấu uế, thanh tịnh như nước, đó là Trì giới. Như đem tâm hòa thuận, khuyến hóa chúng sinh, khiến họ dứt mọi tâm giận dữ, đó là Nhẫn nhục. Hoặc như dùng các phương tiện để khuyến tu các pháp tịch tĩnh giải thoát, đó là Tinh tấn. Diệu dụng của sự nhu hòa như các pháp, các sách nói về y dược có thể làm chấn động cả trời đất. Như dùng thiền định tư duy để tiêu diệt hết thảy sáu mươi hai thứ kiến chấp về hữu vô, thường đoạn, do vậy có thể đi khắp thế giới phiền não mà không chút sợ hãi, đó là Nhất tâm. Như đem trí tuệ Bát-nhã làm chuyển động khắp đất trời, mọi học vấn sách vở chú giải nhờ ánh sáng ấy mà thông suốt, thể hiện tâm Từ bi lớn lao, nhận rõ mọi nẻo hướng tới của thiện ác, khổ vui, quy ngưỡng nương tựa nơi Nhất thiết trí, bậc Khai sĩ do vậy mà đạt được vô sở úy, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là tạo tác và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Đã tự mình bố thí rồi dẫn dạy kẻ khác cũng thực hành bố thí như mình. Lại khuyến khích những người khác cùng dấy khởi tâm thương xót đối với chúng sinh, đem ánh sáng soi tỏ cùng tạo điều kiện giúp đỡ họ, đó là Bố thí. Nhằm để giáo hóa chúng sinh nên luôn dựa vào tâm Từ bi, không buông lung, dứt sạch mọi nghiệp ác, đó là Trì giới. Đem tinh thần nhu hòa cùng giúp khiến cho mọi ân ích được thấm nhuần khắp, không còn dấy khởi sân hận, đó là Nhẫn nhục. Như đem mọi gốc lành cốt yếu của công đức làm cho đạo pháp hưng thịnh nhằm giáo hóa, cứu giúp những hạng chậm chạp thua kém, đó là Tinh tấn. Do luôn tĩnh lự tư duy về ý nghĩa vô thường, khổ, không, phi ngã (vô ngã) nên thông tỏ được sự thực, không rơi vào bốn thứ điên đảo, đó là Nhất tâm. Như đem trí Bát-nhã khiến cho chúng sinh luôn gắn bó với gốc của các pháp thiện, không để bị rơi rớt, thất tán, nhờ đó sự hành hóa trong hiện tại luôn được đứng vững, dứt trừ các thứ bất thiện, dùng các phương tiện quyền xảo để dẫn dắt giáo hóa khắp chốn, độ thoát hết thảy các loài, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là “vô tác” tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như đem đức của công lao điều phục năm dục mà dạy dỗ, trao truyền cho chúng sinh, đó là Bố thí. Đem sự cùng giúp đỡ cho vô số chúng nhân, lần lượt theo từng phẩm loại mà dùng vào việc tôn phụng giới pháp của Phật, hộ trì cho mọi nơi chốn được phát sinh, đó là Trì giới. Dùng sự giải thoát mọi thứ phiền não, ái dục để dạy dỗ chúng sinh, khiến họ thấy được tính chất thù thắng của sự giải thoát đó, đó là Nhẫn nhục. Sống trong cõi tục, thâm nhập tận cùng các nẻo hý lạc mà vẫn tự tại, dùng mọi thứ quyến thuộc ấy để khai hóa chúng sinh, đó là Tinh tấn. Như đem các pháp thiền định để dốc hộ trì các nẻo giác ý, không chỗ nào là không thông tỏ, đó là Nhất tâm. Như tin vào trí tuệ tu học để đạt đến ánh sáng vô bờ, dùng trí tuệ ấy mà độ thoát hết thảy các loài, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào là dốc ý tu tập các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như rời khỏi sự khuyến khích giúp đỡ mà không dấy tưởng về phước báo, đó là Bố thí. Chỗ phụng hành các giới cấm luôn dứt sạch mọi hủy phạm, nhằm hỗ trợ cho Phật đạo phát khởi, đó là Trì giới. Đạt được bình đẳng trong sự tu tập thể hiện qua mọi hành xử nhu hòa, dịu dàng, đó là Nhẫn nhục. Siêng năng tu tập không biếng trễ, tiến lui luôn tự điều phục mình, đó là Tinh tấn. Như có khả năng phụng hành chánh pháp, lìa bỏ mọi phóng dật, tâm luôn thư thái, ung dung, đó là Nhất tâm. Như được lãnh hội đức sáng của bậc Thánh, dùng để khuyến trợ đạo pháp, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là siêng năng tu tập các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Đối với hết thảy mọi sở hữu đều không nên luyến tiếc mà phải lìa bỏ, như đi vào biển lớn, nơi chứa đầy các tài sản quý giá, dùng những thứ ấy để cứu giúp chúng sinh, đó là Bố thí. Như tuân giữ các giới cấm, bản thân luôn xa lìa mọi đối tượng khiến mình say mê, không hề tham vướng nơi danh sắc, đó là Trì giới. Có kẻ mang ý độc rắp tâm hãm hại, cho đến nỗi thân thể chi phần bị chặt đứt thành từng đoạn cũng không hề dấy khởi tâm giận dữ, đó là Nhẫn nhục. Như có thể vượt qua hết thảy mọi nẻo lý luận bàn bạc, tâm luôn rộng mở, dung nạp tất cả, ví như biển lớn, tuy có lúc bị khô kiệt nhưng cái tâm rộng mở ấy luôn được giữ vững, đó là Tinh tấn. Hoặc như ở ngay tại nơi chốn dục lạc mà không hề mất cảnh giới Tứ thiền, đó là Nhất tâm. Như luôn quan sát hết thảy muôn vật đều như cảnh huyễn hóa, tu để đạt được diệu lý vô sở đắc, thâm nhập vào cảnh giới vi diệu mà không rời ánh sáng của bậc Thánh, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt được giác ngộ tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như có trường hợp cứu giúp, lìa mọi trở ngại, cũng không có nơi chốn mong cầu, đó là Bố thí. Tu các pháp vi diệu, không trái với những pháp ngăn cấm, không lìa bỏ diệu nghĩa mà bậc Thánh đã nêu dạy, mọi nơi chốn thực hiện đều loại trừ phóng dật, lìa bỏ các nẻo ác nên chí nguyện mới được xác lập, đó là Trì giới. Nên tỏ ra nhẫn đối với tất cả, không tranh với các pháp thiện, luôn thể hiện tâm nhân từ, đó là Nhẫn nhục. Tinh chuyên tu học đối với mọi thứ, mọi nơi mà không khiếp nhược, đó là Tinh tấn. Như đối với thiền định tư duy có thể tự mình gắng sức tu tập, hội nhập vào các pháp Tam-muội thù thắng, điều phục chế ngự tâm, cho đến sở nguyện lớn lao như bậc Đại Thiện kiến Chuyển luân thánh vương, tuy ở ngôi vị trị nước rộng lớn mà luôn dốc tiêu trừ các tưởng về tham dục, sân hận, oán hại, luôn thể hiện tâm Từ đối với chúng sinh, đó là Nhất tâm. Đối với bậc Thánh minh đều không có chỗ tham vướng, tâm từ rộng lớn nhận thức rõ về các đối tượng nên tâm dứt sạch mọi ý niệm sát hại, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào là thực hiện một cách nhanh chóng các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? An trụ ở chỗ không có nơi chốn đạt đến mà tạo mọi phước thí, tâm an nhiên tự tại, dứt mọi nơi chốn hướng về, đó là Bố thí. Như giữ đúng các giới cấm, không mọng đạt được tài sản, sự nghiệp, cũng dứt mọi đối tượng tưởng nhớ, đó là Trì giới. Tuân theo hết thảy các pháp, không rơi vào cõi điên đảo, theo thời mà thực hiện tâm nhân ái, đó là Nhẫn nhục. Theo chỗ an lạc, trọn không hề thoái chuyển, ngày ngày gắng sức tu tập cho đến lúc thành tựu, đó là Tinh tấn. Như dựa vào trí tuệ để thực hiện các pháp thiền định tư duy vô bờ, đó là Nhất tâm. Như có bậc Bồtát hiện thân trong hàng Thanh văn thực hiện trí tuệ vô dư, đối với quả vị Duyên giác đến vô dư cũng không rơi vào cõi Dục cùng hàng phàm phu, cũng dứt hết mọi thiếu sót sơ hở, vì muốn thị hiện để hóa độ chúng sinh nên có mặt trong cõi đời, chí không còn chút tham vướng, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt được sự thâm diệu tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như thực hiện sự bố thí, không dấy ý nghĩ: Ta đã tạo được sự bố thí đối với mọi người, đó là Bố thí. Chỗ giữ gìn các giới cấm là nhằm thuận hợp với chúng sinh, không dựa cậy vào sinh tử. Điều ấy đúng với giáo pháp của bậc Thánh minh, đó là Trì giới. Trừ bỏ các pháp tà kiến ngay từ lúc mới phát tâm rộng lớn, tạo lập sự nhân hòa, lấy điều ấy làm giới luật thâm diệu, dùng sự nhẫn vô bờ để theo đó mà lý giải tính chất vô ngã, không mang vọng tưởng, không mong đạt đến chốn vinh hoa, cũng không chẳng mong đạt, cũng chẳng phải là chẳng mong đạt, đó gọi là không mong đạt, ấy gọi là Nhẫn nhục. Ở nơi các pháp tà kiến mà vẫn dốc tâm tu tập một cách vững vàng, do vậy mà đối với ba cõi thảy dứt sạch mọi tham vướng, cũng không nhớ nghĩ đến cảnh giới diệt độ, đó là Tinh tấn. Hoặc như ở bên ngoài, học theo các nẻo tà kiến, nhưng chỗ hành động thì đúng với đạo bình đẳng, chánh giác, đó là Nhất tâm. Từ nơi trí tuệ dốc tu các pháp chánh chân mà dứt mọi mê loạn lầm lạc, nơi chốn hành hóa được mở rộng không chút trở ngại, tâm an nhiên tịch tĩnh, dứt sạch mọi phóng dật, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là trường hợp xen lẫn tu tập các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như có chỗ bố thí với ngần ấy các thứ hương vị, mỗi loại đều có nét khác biệt riêng, thích hợp với những người thọ nhận, như thế là đã vun trồng từng ấy phước đức nhưng chẳng dấy lòng tham đối với bản thân. Lại vì mọi người mà giảng giải, nêu bày từng ấy câu lời trong kinh sách, thể hiện đầy đủ sở nguyện của mình là khiến cho họ quy ngưỡng về cõi Phật, đó là Bố thí. Xác lập các giới cấm để tuân giữ nhằm góp phần làm cho cõi Phật thêm phần trang nghiêm thanh tịnh, hợp với thệ nguyện của mình, đó là Trì giới. Như ở cõi Phật ấy có nhiều chúng sinh, mọi cấu uế đều khiến giảm thiểu, tâm dứt mọi thứ sân hận, mưu hại, luôn đem điều ấy để khuyến trợ, đó là Nhẫn nhục. Hoặc như có khả năng riêng mình thực hành các pháp tu của hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, đó là Tinh tấn. Ví như có những nơi chốn đông đảo, đầy những tham dâm, giận dữ, si mê, thân tuy sống trong cảnh ấy mà tâm luôn thanh tịnh, đó là Nhất tâm. Đem trí tuệ sử dụng các phương tiện quyền xảo, thâm nhập khắp mọi nơi chốn, không hề có sự dối trá, nêu giảng các pháp thâm diệu, vượt mọi nẻo nương tựa quy ngưỡng, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là thanh tịnh tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như đem tâm mình tự làm trong sạch cõi Phật, không còn chút cáu bợn, đó là Bố thí. Đối với hết thảy các chúng hội thanh tịnh đều luôn tỏ lòng cung kính, dứt mọi khinh mạn, đó là Trì giới. Như có thể làm cho cõi Phật đạt được sự bình đẳng, bằng phẳng như thể lòng bàn tay, mịn màng mềm mại như loại thiên y, vô số các thứ vật báu đủ loại nằm chen chúc nơi đất mà tâm không dấy chút tham đắm, đó là Nhẫn nhục. Hoặc di chuyển khắp các quốc độ không thể kể hết, không nơi nào là không bày tỏ sự cung kính thể hiện tâm khao khát ngưỡng mộ, đó là Tinh tấn. Như có thể thành tựu được các tướng tốt với ánh sáng chiếu tỏa khắp nơi, xua tan mọi cấu uế phiền não nơi tâm, đó là Nhất tâm. Hoặc khiến cho chúng sinh hiểu được vạn vật cũng như cảnh huyễn hóa, nhân đó mà thuyết giảng chánh pháp, cả đến loài thấp kém như cầm thú cũng không hề bỏ sót, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
-oOo-
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Thế nào gọi là vượt mọi biên vực tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như thấy chúng nhân tâm bị bao thứ tăm tối mê lầm che phủ, trước hết là bố thí giúp đỡ họ, sau đấy thì mới vì họ mà thuyết pháp để giáo hóa, dẫn dắt, đó là Bố thí. Như họ còn mang nặng nhiều thứ phiền não thì phải tận lực giảng dạy dứt trừ sạch, đó là Trì giới. Đối với hạng người đời ngu si mê muội, chấp trước về “nhân tưởng”, không biết khiếp sợ, tâm chẳng có nơi chốn quy kính, thì phải vì họ mà phân tích, thuyết giảng để khiến họ vượt qua được mọi biên vực tăm tối ấy, đó là Nhẫn nhục. Như khéo dùng các phương tiện để xua trừ mọi chướng ngại của ánh sáng, khiến cho ánh sáng ấy dứt sạch mọi âm u, đó là Tinh tấn. Trụ nơi nhẫn vô ngã, dứt bỏ mọi thứ nghiệp tà để thực hiện thiền định tập trung, đó là Nhất tâm. Dùng trí tuệ để đem lại những thành tựu về biện tài, thâm nhập vào các nơi chốn với tinh thần bình đẳng mà thuyết giảng các pháp vượt mọi biên vực, nhưng đối với các pháp thiền định, định ý, chánh thọ, các cánh cửa giải thoát thảy đều không bị hủy hoại, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là tín đạo và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như có thể quyết định một cách dứt khoát về trường hợp nên bố thí để nhằm khuyến trợ đạo pháp, đó là Bố thí. Hoặc như xem xét các giới cấm không hề thiếu sót để cho việc thực hành được đầy đủ, hoàn hảo, đó là Trì giới. An trụ nơi cảnh giới Tứ thiền, phụng hành diệu lý Không, nhằm dứt trừ mọi tưởng về tham đắm, vướng mắc, đó là Nhẫn nhục. Như trụ ở pháp Không để thực hiện các phương tiện, cả thân, miệng, ý, hành đều không có chỗ vi phạm, đó là Tinh tấn. Tu tập các pháp thiền định, đối với nội giới hay ngoại cảnh đều dứt hết mọi tham vướng, đó là Nhất tâm. Như dùng trí tuệ lớn lao trụ nơi mười hai nhân duyên, đối với các pháp không vọng động, luôn thuận theo bậc Thánh minh, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là vì nhằm giải thoát mọi khổ ách của chúng sinh mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như thể hiện tâm Từ, xem đó là yếu tố hàng đầu, chí luôn vui vẻ, làm trong sạch cả ba cảnh giới, đó là Bố thí. Đạt được tâm chuyên tinh, thanh tịnh không còn cấu uế, đó là Trì giới. Như nhằm dứt trừ cõi địa ngục, cam nhận mọi thứ khổ não đều có thể điều phục, chế ngự tâm ý mình, đó là Nhẫn nhục. Thu tóm hết thảy bốn tâm vô lượng, thể hiện tâm nhân ái, ban ân, đem lợi lạc đến cho mọi người cùng được an hưởng, tùy thời sử dụng các phương tiện để cứu giúp mọi chúng sinh khốn khổ, đó là Tinh tấn. Hiện thân A-tu-la tu hành thanh tịnh, thân được an trụ thể hiện sự an định để che chở cho chúng sinh, tôn phụng các pháp dứt mọi giận dữ nhằm cứu giúp bao kẻ khác, đó là Nhất tâm. Hoặc như ý được thanh tịnh, mọi chỗ nhớ nghĩ đều đầy đủ, trụ nơi an định vững chắc để giáo hóa chúng sinh, chính vì nhằm nêu rõ mà dốc sức thuyết pháp để tiêu trừ mọi thứ phiền não, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là do hiểu pháp mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như có thể đạt đến mười tám pháp bất cộng của chư Phật, đó là Bố thí. An vui nơi kinh điển, từ đó tạo lập chí nguyện lớn, thành tựu được các pháp môn giải thoát, hộ trì cho sinh hoạt của thân, khẩu, ý, đó là Trì giới. Như dấy khởi tâm thương xót lớn lao vượt khỏi tâm từ nhỏ hẹp, vì chúng sinh nên thường thể hiện sự nhu hòa, dịu dàng, đó là Nhẫn nhục. Hoặc như đạt được bốn thần túc, có thể phi hành khắp nơi, luôn sử dụng các phương tiện mà lấy điều đó làm hàng đầu, ấy là Tinh tấn. An trụ nơi bốn ý chỉ, thiền định là gốc. Nghiên cứu thông suốt, nắm giữ đầy đủ, chỗ quảng diễn các pháp đều hòa hợp, đó là Nhất tâm. Thông hiểu văn tự đạt đến Tổng trì trình bày các pháp hội nhập nhất thiết ý, thu tóm bốn vô úy để nêu bày về tính chất không thoái chuyển, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là an vui trong tịch tĩnh tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như trong thời gian thực hiện công việc bố thí, tâm luôn được thu phục, do thu tóm được tâm nên dù ở tại riêng một chỗ, sở nguyện thảy đều có thể khuyến trợ được, đó là Bố thí. Hoặc có thể xua sạch mọi thứ ngăn ngại phủ vây khiến cho thân tâm được thanh tịnh trong lắng, đó là Trì giới. Mọi xứ sở nơi chốn sinh thành đều hiểu rõ về tính chất vô thường, khổ, chế ngự mọi thứ tưởng chấp, ham chuộng nhân ái thuận hòa, đó là Nhẫn nhục. Như mong đạt nơi diệu lý Không, Vô tướng, Vô nguyện, cho đến các pháp tịch nhiên giải thoát, đó là Tinh tấn. Hoặc dùng thiền định tư duy để tiêu diệt mọi phiền não cấu uế, thực hiện các pháp định ý nhưng không rời bỏ giác ý, đó là Nhất tâm. Đem trí tuệ vui với các pháp tịch nhiên, cảnh giới vô vi tự tại như tỏa ánh sáng rực rỡ vì đã đạt được tám môn giải thoát, từ đó vì người khác mà thuyết pháp, không rơi vào các quả vị Thanh văn, Duyên giác, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là ham thích quán tưởng và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như dứt trừ mọi vọng tưởng, chẳng kể có con người hay là không, đó là Bố thí. Xem xét kỹ mọi sự việc từ xưa cũng như về sau này, tâm tự suy nghĩ luôn quán xuyến khắp chốn, tất suy niệm và nhận biết mọi đối tượng đạt được là “vô sở đắc”, đó là Trì giới. Như tâm còn vướng lỗi lầm đối với tất cả các pháp, phải luôn quán tưởng về người, chúng sinh, thọ mạng. Từ đấy mà nhận rõ, đó là Nhẫn nhục. Gắng gổ an trụ nơi chốn quán tưởng để cho sự tư duy tĩnh lự được hưng khởi, phát triển, dứt sạch mọi chỗ dựa cậy, tập hợp được các phương tiện thính ứng cho việc tu hành, đó là Nhất tâm. Như chẳng tiếp cận với tham dục, dứt mọi lỗi lầm, đối với các pháp lỗi lầm không hề có sự phạm, vấp, không làm mất đạo ý thanh tịnh do diệt sạch các phiền não, tăng trưởng lòng thương để tự chế ngự tâm ý cùng hóa độ chúng sinh, ở nơi cõi gốc của mình một cách an nhiên tự tại, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là thông tỏ hết thảy mọi nẻo nhập và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Đối với tất cả các pháp không có ai đem sẵn cho mình, mà phải do chính mình đạt được, dùng điều ấy để khuyến trợ, cứu giúp hạng thấp kém, thiếu thốn, đó là Bố thí. Như đem tâm thương yêu rộng lớn khuyến khích giúp đỡ muôn loài, khiến chúng được yên ổn, đứng vững, luôn đầy đủ nẻo ánh sáng của bậc Thánh, không ôm lòng giận dữ, mọi hành xử thọ nhận luôn thể hiện sự vui vẻ, hòa hợp, đó là Trì giới. Hoặc như có thể đạt được pháp không thoái chuyển, giữ gìn một cách vững chắc không hề tỏ ra lơ là, đó là Nhẫn nhục. Dốc tin tưởng nơi vị đứng đầu, nương theo trí tuệ của bậc ấy mà sắp đặt thực hiện các phương tiện, đó là Tinh tấn. Đem những thành tựu của việc thực hiện đầy đủ, thông suốt các pháp thiền định chữa trị cho vô số chúng dân, khiến họ dứt được mọi nguy hại, tạo được sự thuần khiết, đó là Nhất tâm. Dùng trí tuệ trụ nơi tánh của các pháp, dốc tin tưởng, tinh tấn, đối với niệm và định, nơi an trụ ấy không có chút nghi hoặc, chẳng kể đến tính mạng, sử dụng các phương tiện quyền xảo để có thể hành xử nơi thế gian, đối với các bậc Hữu học, Vô học, cùng các vị đã đạt được trí tuệ của quả vị Duyên giác, đều khiến đạt đến Nhất thiết trí của Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nêu giảng rõ các xứ mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Đối với mọi trường hợp bố thí đều không dấy “nhị tâm”, luôn tạo được sự vui vẻ, bình đẳng, dứt mọi thiên lệch xu phụ, đó là Bố thí. Như có kẻ dùng văn chương tô điểm, tạo những tưởng chấp về giới pháp, hoặc dua nịnh kẻ phạm các giới cấm, thì phải tỏ rõ ấy là vọng tưởng, tâm không chút vướng mắc tham đắm, nhờ đấy mà giáo hóa được kẻ sai phạm, đó là Trì giới. Như có người làm đảo lộn mọi sự nhẫn mình đã thực hiện mà mình không hề thuận theo họ, lại nêu giảng rõ về các nơi chốn cùng đường nẻo báo ứng, đó là Nhẫn nhục. Tinh tấn mong đạt đến những thành tựu tốt đẹp, đối với mọi phương tiện cùng nơi chốn đều nên vượt bỏ, đó là Tinh tấn. Hoặc lại như dứt bỏ hết thảy mọi sở hữu, ở chính nơi sở hữu mà không bị sở hữu ràng buộc, đó là Nhất tâm. Luôn dùng quán tưởng xem việc dua nịnh các phước báo là sự tạo tác vô ích, nhận rõ nơi chốn mà thấu đạt là không có nơi chốn, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là không hại người, vật và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như bố thí cho Bậc Giác Ngộ cũng như cho hạng phàm phu, tâm không có sự khác biệt, đó là Bố thí. Nơi chốn tôn phụng giới pháp đều dứt sạch mọi tham đắm nhằm để tế độ chúng sinh, đó là Trì giới. Không còn vướng mắc trong vòng nguy hại, vượt khỏi tám pháp của thế gian để gắng sức thực hiện trọn vẹn quá trình tu tập, đó là Nhẫn nhục. Hoặc như có thể thấu rõ mọi nẻo chánh tà, ma–Phật để dốc sức tin tưởng, siêng năng tu học, diệt trừ bao thứ chướng ngại, đó là Tinh tấn. Luôn thực hiện các pháp định, không hề bị trở ngại trong việc hội nhập vào các cánh cửa đạo đức, đạt đến quả bình đẳng, đó là Nhất tâm. Dùng trí tuệ xem xét, quán xuyến khắp mọi nẻo, đối với hết thảy mọi pháp thế gian đều có thể ứng dụng cho các pháp cứu đời của mình, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là không bị nghiêng đổ mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Chí, tánh luôn thể hiện sự ôn hòa thuận hợp, không vụ hình sắc mà cốt là thích ứng với diệu lý, dùng pháp thí và tài thí đối với mọi người, đó là Bố thí. Tuy dốc phụng hành giới luật mà tâm luôn thuần phác chân thật, không dấy sự dối trá xu phụ, đó là Trì giới. Tâm bao la như hư không, luôn tạo được mọi sự hòa hợp, đó là Nhẫn nhục. Mọi nẻo tu tập luôn siêng năng dốc sức, lời nói thích ứng với việc làm, không dùng tài sản, sự nghiệp để nêu bày, diễn đạt những điều dối trá, đó là Tinh tấn. Các nẻo thiền định tư duy đã hoàn toàn dứt sạch mọi vướng mắc, tham đắm, đó là Nhất tâm. Sự tôn phụng con đường giác ngộ của bậc Thánh là nên thuận theo văn tự để đem lại lợi ích cho nhiều người khác, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là là nghèo thiếu tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như dứt trừ các hình sắc ngoại giới để tạo lập cùng phát huy đức hạnh, đem pháp bố thí cũng như bố thí y phục, thực phẩm, đó là Bố thí. Tánh không vụ vào các việc vụn vặt, phiền phức, tuân phụng theo đúng giới pháp, dứt mọi dua nịnh, đó là Trì giới. Tu tập thuận theo nẻo nhân hòa, tâm rộng mở như hư không chẳng hề tăng giảm, đó là Nhẫn nhục. Như gặp trường hợp khó khăn nguy khốn, dốc lo chuyện cơm áo mà thân tâm vẫn đạt được sự tịch tĩnh, đó là Tinh tấn. Như đạt đến cõi Phạm thiên mà làm công việc thuyết giảng về sự thực hành các pháp thiền định, nhân đó mà khuyến trợ đạo đức, đó là Nhất tâm. Hiểu biết phong phú dồi dào, ở trong cõi vây bủa phiền nhiễu của bao thứ của cải, tài sản, bao điều kiện cho phóng dật mà giác ngộ được tính chất cấu uế của chúng, không xa lìa mà cũng không lo sợ, chán nản, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là không trở lại mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như đối với các trường hợp bố thí không chấp vào các pháp của Thanh văn, Duyên giác, đạo không thoái chuyển, đó là Bố thí. Tuy không còn trở lại nhưng vẫn luôn tuân giữ đúng giới luật, cho đến khi thành tựu được Phật đạo, đó là Trì giới. Vượt qua các quả vị Thanh văn, Duyên giác, không hề nửa chừng thoái chuyển mà giữ lấy cảnh giới diệt độ, đó là Nhẫn nhục. Như dốc hết sức tinh chuyên trong việc sử dụng các phương tiện quyền xảo để tu tập, không hề bị sai trái hay mất mát, cho đến lúc đạt được Nhất thiết trí, đó là Tinh tấn. Ví như Bồ-tát ở ngay trong cảnh gồm đủ tất cả năm thứ dục lạc mà vẫn có thể dùng các phương tiện thực hiện thiền định tư duy để có nhất tâm, diệt trừ mọi thứ phiền não, theo đúng nẻo trí tuệ, đó là Nhất tâm. Như đem trí tuệ giáo hóa hạng phàm phu, Sa-môn, Phạm chí, cả đến các bậc Thanh văn, Duyên giác, đem chánh kiến cứu đời, tạo nên tình thương lớn lao đối với muôn loài, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là xoay chuyển trở lại mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như trong việc bố thí không chỉ cầu tính chất giải thoát mà cũng không lìa bỏ các tập tục thế gian, đó là Bố thí. Hoặc học hỏi giới luật, chỗ lãnh hội thực hiện nên đem hướng dẫn, giảng giải cho hạng hiểu biết ít ỏi không thể tiếp cận được các vấn đề rộng lớn, đó là Trì giới. Như tu tập thể hiện tâm nhân ái một cách gắn bó, cho dù ở trong hoàn cảnh đầy những lỗi lầm, cấu uế, sân hận, đó là Nhẫn nhục. Hay như đem sự siêng năng tu tập của mình hướng đến các hoàn cảnh vui thú, sung sướng nhằm thúc đẩy những hạng khó chế ngự được hoàn cảnh chung chuyên cần tu tập như mình, đó là Tinh tấn. Như học hỏi thực hiện các pháp thiền định tư duy, ở ngoài sự nhẫn nhục, không phân biệt ta - tôi, đó là Nhất tâm. Nơi chốn mà trí tuệ hướng đến là nhằm hóa độ đối với mọi tạo nghiệp ở thế gian mà chính tự họ không thể dứt bỏ được, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là trang nghiêm thanh tịnh tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Đối với trường hợp bố thí không hề mong cầu phước báo tăng thêm trong hết thảy mọi lãnh vực, đó là Bố thí. Tuân giữ các giới pháp, dứt sạch mọi thứ biếng trễ, lười nhác, lại luôn tinh cần phụng hành, đó là Trì giới. Lại đem tâm nhân hòa thể hiện, không có sự dựa cậy, tinh tấn hợp với đạo, đó là Nhẫn nhục. Lìa bỏ sự phân biệt giữa ta và không phải ta, đó là Tinh tấn. Như thực hiện các pháp thiền định không còn vướng bận mọi sở hữu, không tạo nhân duyên, sự thực hiện ấy mạnh mẽ và vững chải, đó là Nhất tâm. Hoặc phân biệt nhận rõ tất cả các thứ phiền não ngăn che vây phủ, không hề cảm thấy mệt nhọc, khó khăn, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là kiên cường tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Mọi nơi chốn hóa hiện của quân ma không thể khiến mình lay động mà lìa bỏ thế giới tịch tĩnh. Bồ-tát thực hiện việc bố thí, tâm không hề động, đối với hết thảy mọi thứ sở hữu đều nên dứt bỏ, đó là Bố thí. Như đem những chỗ đạt được tốt đẹp thích thú trong việc tuân giữ giới luật, không bám lấy đó cho là điều tốt lành, hoặc lựa chọn phân biệt thời tiết, mà chỉ để khuyến trợ đạo pháp, đó là Trì giới. Tâm luôn thể hiện tính chất nhu hòa, uyển chuyển, không kẻ nào có thể hủy diệt được mình, mà bản thân mình có thể dứt trừ mọi sự trói buộc, đó là Nhẫn nhục. Như tinh cần vượt hết mọi lo ngại hoạn nạn, giáo hóa khắp chốn không hề chán bỏ một cõi nào, đó là Tinh tấn. Hoặc đem các pháp thiền định tư duy thực hiện đối với tất cả, nhờ đấy mà khuyến hóa được rộng khắp, bản thân mình đạt được tự tại, vô ngại trong quá trình hành hóa, đó là Nhất tâm. Như đối với các pháp giác ngộ của bậc Thánh, luôn nhẫn nhục tư duy để mong tiếp cận mọi nẻo thực hiện cố gắng theo đúng đường, không rơi vào sự lầm lạc, vọng động, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là hưng thịnh tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như đối với các trường hợp bố thí không rơi vào sự điên đảo mà luôn an trụ nơi chánh pháp, đó là Bố thí. Chỗ giữ gìn giới luật hoàn toàn dứt bặt mọi nhớ nghĩ, do đấy mà có được sự phấn chấn hết mực, đó là Trì giới. Tâm luôn hiện bày sự nhân hòa, không còn chút tham đắm, dứt bỏ mọi tạo tác của nhân duyên gây nên bao mối nguy hại, đó là Nhẫn nhục. Như ở trong sự vướng bận về tôi, ta, tranh cãi về gia nghiệp, dứt khoát đoạn lìa khổ não âu lo cùng mọi tham chấp, bao mối phiền não ràng buộc nơi thân đều dốc đoạn trừ để thuận theo đạo giải thoát, đó là Tinh tấn. Bày tỏ sự chán ghét về cảnh vô thường, thấu đạt ý nghĩa của mười hai nẻo, dẫn dắt liên tục mà tâm tánh luôn kiên trụ, đó là Nhất tâm. Như lìa bỏ trí tuệ cùng với vô minh, không xem đấy là hai nẻo hoàn toàn khác biệt, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là sung mãn tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như đối với các trường hợp bố thí luôn khuyến khích hướng đến giải thoát, không luyến tiếc cõi sinh tử, đó là Bố thí. Bồ-tát luôn dốc tâm phụng trì giới luật, không hề quên kẻ khác, tâm niệm về giới pháp trọn không tạo lập nơi các pháp tự độ của hàng Thanh văn, Duyên giác, đó là Trì giới. Như đem tâm nhân hòa trang nghiêm thanh tịnh làm thành tựu được vô số các cõi Phật, chí nguyện giáo hóa nhằm dứt trừ ba độc, đó là Nhẫn nhục. Luôn dốc tinh tấn dứt mọi biếng trễ lười nhác, tâm mong đạt diệu nghĩa cùng tột, đó là Tinh tấn. Đối với trường hợp bị kẻ khác làm đảo lộn sự lý nhưng tâm tịch tĩnh cũng không loạn động, đó là Nhất tâm. Noi theo ánh sáng giác ngộ của bậc Thánh, dùng để thu tóm ba cánh cửa giải thoát, nhưng không chấp bám vào sự tu chứng ở trong ấy, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là vì đời mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như trong công việc bố thí, tâm vui thích với việc lưu giữ các tập tục thế gian, không khuyến trợ hướng đến đạo, đó là Bố thí. Đối với các hiện tượng buông lung không thể kiềm chế, thường hành động một cách do dự chứ không quyết đoán, đó là Trì giới. Gặp trường hợp tham dục dấy mạnh phải tự chế ngự, gắng gổ chịu đựng, đó là Nhẫn nhục. Luôn tu tập theo các pháp thế gian, đó là Tinh tấn. Nơi tâm có sở nguyện về nơi chốn được sinh đến, không hề lìa ý niệm ấy, đó là Nhất tâm. Hoặc dùng trí theo thế gian để mở bày, giáo hóa mọi người, không lìa khỏi cuộc sống, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhằm cứu đời mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như đem giáo pháp cùng y phục, thực phẩm mà bố thí, tuyên giảng về đạo ý, dùng đạo ấy như thể an tọa nơi gốc cây Bồđề mà tự tuyên giảng: “Sung sướng thay phước báo!” Mọi sở nguyện đều thành, cõi tịch nhiên chóng đạt, quy hướng nẻo giải thoát, đó là Bố thí. Thực hiện các pháp của hàng Thanh văn, Duyên giác chuyển biến tiến đến một sự cứu giúp rộng lớn, diệt trừ mọi nơi chốn ngăn ngại, đó là Trì giới. Như tu tập các pháp vô lậu, luôn tuân phụng lẽ nhân ái hòa hợp, đó là Nhẫn nhục. Hoặc đem pháp “Vô sở tùng sinh” đã đạt được, có thể ngồi nơi cội Bồ-đề mà giảng dạy, giáo hóa chúng sinh, đó là Tinh tấn. Như có được pháp Tam-muội bình đẳng của bậc Bồ-tát, các căn đầy đủ, thành tựu được ánh sáng giác ngộ của bậc Thánh, đó là Nhất tâm. Hoặc chuyên tâm hành đạo theo chánh pháp, tâm dứt mọi oán hại, không dừng lại với hai nẻo Thanh văn,
Duyên giác mà hướng đến Nhất thiết trí, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhằm đạt quả vị vô thượng mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như tin tưởng nơi vô số cõi Phật thanh tịnh, luôn khởi tâm thương nhớ chúng sinh không hề gián đoạn, không thể tính kể số kiếp đều nhằm độ thoát hết thảy, đó là Bố thí. An trụ nơi chân tưởng của các pháp, dứt bỏ ba nẻo ác, giữ lấy cõi Phật thanh tịnh, đó là Trì giới. Như thành tựu được Phật đạo, đều khiến cho các chúng hội thảy rực rỡ màu vàng ròng, nhận rõ câu, đoạn, đó là Nhẫn nhục. Hoặc tu tập các pháp bố thí, giống như hành động không hề khởi tâm giận dữ của Phật lúc còn là Bồ-tát để theo đấy phụng hành, đạt đến Bậc Chánh Giác, đó là Tinh tấn. Như ở nơi gia đình phụng hành pháp Tứ thiền không hề mất định ý, hoặc như ở ngay chốn cung điện, giữa đám thể nữ, hay như ở cõi Phật thanh tịnh lắng sạch mọi thứ phiền não, tham dục, cũng đều không để mất ý định, đó là Nhất tâm. Như thu giữ cõi Phật, thọ mạng không thể tính kể, trang nghiêm thanh tịnh vô hạn, còn giữ lại nơi sự thu giữ, ấy là vô lượng biện tài, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là chẳng vọng động tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Đối với sự bố thí luôn khuyến trợ các pháp thích ứng mau chóng đạt được thần thông, đó là Bố thí. Chỗ tuân phụng các giới luật không hề làm cho giáo pháp của các bậc Thánh hiền bị gián đoạn hay hủy diệt, thành tựu đầy đủ các địa của Bồ-tát đúng nẻo giác ngộ, đó là Trì giới. Như có thể trừ bỏ tất cả các thứ phi pháp để phụng trì các pháp chân chánh, đó là Nhẫn nhục. Hoặc bày tỏ sự chán ghét thế tục, phụng hành đầy đủ các kinh điển, tin tưởng nhớ nghĩ về ý nghĩa thiện ác theo như chư Phật đã giảng dạy, đó là Tinh tấn. Như an trụ nơi các pháp thiền định nhằm đạt đến Trí tuệ ba-la-mật, cho dù sống trong cõi ái dục mà vẫn xem xét nhận rõ về nẻo giác ngộ, thấu đạt mà không lìa bỏ cũng không tham đắm, đó là Nhất tâm. Thông tỏ cội nguồn đạo pháp của Bồ-tát, mọi nẻo đúng sai, lỗi lầm thảy đều phân biệt, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là không còn oán địch tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Đối với các trú xứ thường nên giúp đỡ lẫn nhau, khiến cho không có chuyện bị mất mát, đó là Bố thí. Cũng không lùi lại với quả vị Thanh văn, Duyên giác, hay nửa chừng giữ lấy sự chứng đắc, đó là Trì giới. Như dứt trừ sự phân biệt tôi, ta, không kể thân ấy là đối tượng của ngã, diệt hết mọi tạo tác của nhân duyên gây nên bao mối trói buộc, ngăn che, đó là Nhẫn nhục. Xa lìa mọi pháp thế tục, thứ nhất là sự ngu si lầm lạc để hướng về trí tuệ sáng suốt, thuận theo các phương tiện tu tập, đó là Tinh tấn. Dứt bỏ mọi thứ kiến văn, nhớ nghĩ đến các pháp tịch tĩnh viên mãn đã đạt được, đó là Nhất tâm. Như dốc tiêu trừ mọi hồ nghi, có được trí tuệ bình đẳng thực hành đúng nẻo vô tưởng, nhất tâm nơi đạo tôn quý Nhất thiết trí, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là do oán địch tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như trong trường hợp bố thí cầu có được phước báo để cứu giúp, dẫn dắt hạng chúng sinh tâm còn mang nặng oán hận đối với pháp bảo, đó là Bố thí. Dứt trừ bao nỗi khổ não trong ba nẻo, chí nguyện được sinh nơi cõi trời Đâu-thuật, hoặc đạt đến giải thoát, đó là Trì giới. Cùng với các vị Bồ-tát thực hiện các việc chân chánh đối với chúng sinh tâm luôn ôm mối oán hận, đó là Nhẫn nhục. Tuân theo lẽ nhân hòa, dẫn dắt, giáo hóa khắp nơi, luôn bày tỏ sự khuyến trợ, nhân đó tu tập, tích chứa công đức, hóa độ vô số như sở nguyện của bậc Bồ-tát đời trước là nhằm độ thoát tất cả những kẻ còn vướng mắc nơi vòng ân ái, khiến họ tự chế ngự, điều phục, đạt được những thành tựu về đạo, đó là Tinh tấn. Như giảng thuyết về pháp chánh định “vô ngại thành Tam-muội”, Bồ-tát thực hiện pháp Tam-muội ấy khiến cho tất cả mọi người cùng đạt được sự an ổn, đó là Nhất tâm. Hoặc từ bản thân mình cầu đạt sự hiểu biết về cội nguồn đạo đức, cứu cánh của đạo nghĩa tự tại, giác ngộ, cũng như đem giảng giải cho bao kẻ vốn ham thích các diệu nghĩa kia nhưng chưa được tỏ, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là thu tóm giữ gìn các pháp mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như luôn khuyến khích đối với mọi sở nguyện để thu tóm, giữ gìn được công đức, đó là Bố thí. Hoặc như làm cho giới luật được phát khởi, khiến cho chúng sinh tuân giữ nhằm đạt được diệu nghĩa là chữa trị các thứ tâm bệnh, đó là Trì giới. Như có thể tạo lập để thu tóm, giữ lấy mọi lẽ nhân ái hòa hợp, đó là Nhẫn nhục. Từ mọi hoàn cảnh siêng năng tu tập phụng hành chánh pháp, không giữa chừng bê trễ hoặc bỏ dở, đó là Tinh tấn. Theo thời thực hành các pháp thiền định, khuyến trợ giáo hóa vô số trăm ngàn chúng sinh, đó là Nhất tâm. Như dùng Thánh trí dứt mọi thứ ngăn ngại che chắn mà cũng không tham vướng, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là dứt mọi sự thu tóm giữ gìn mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như dùng việc bố thí để đạt được những biện tài, mọi nơi chốn gặp gỡ không do đó mà tăng, giảm, tự thân tạo lập được từng ấy phẩm loại, đó là Bố thí. Không ham thích cuộc sống nơi gia đình mà ham chuộng con đường hành hóa của Bồ-tát, đó là Trì giới. Như có thể thọ nhận các pháp thâm diệu, cốt lõi mà không bị lưới nghi hoặc buộc ràng, đó là Nhẫn nhục. Chuyên tinh, thông đạt một cách đầy đủ mà không dựa cậy trông chờ vào người khác, đó là Tinh tấn. Dùng các pháp thiền định tư duy để thông tỏ việc phụng hành đúng theo nẻo giải thoát, tư duy về gốc của con người cùng tuân phụng đạo pháp, nhớ về diệu lý “vô sở sinh”, đó là Nhất tâm. Như gặp được nghĩa lý cùng với nẻo giải thoát, từ đấy dốc học hỏi kinh điển, thực hiện các pháp Tam-muội, dứt trừ mọi nẻo tội phước, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là do báo ứng tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như có thể chuẩn bị đầy đủ cho công việc bố thí, không khiến cho một thành phần nào bị thiếu sót mất mát, mọi phước lành được thông tỏ, đó là Bố thí. Hoặc có thể siêng năng tu tập quý trọng thân mình, có được đầy đủ mọi báo ứng thích ứng, đó là Trì giới. Thể hiện tâm nhân hòa, ở nơi thuyết giảng mọi việc đều thành tựu được ý nghĩa một cách rốt ráo, đó là Nhẫn nhục. Tu, thực hiện hết thảy các việc tốt đẹp lợi lạc, không hề bị sai trái hay thất tán, đó là Tinh tấn. Dùng các pháp thiền định để nhận biết về mọi nơi chốn từ thời xa xưa cho đến đời hiện tại, đem ánh sáng ấy soi tỏ, đó là Nhất tâm. Thánh trí được thành tựu, giảng giải, nêu bày những điều chí thành, không một nơi chốn nào là không thông tỏ, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào là dứt mọi báo ứng tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Đối với trường hợp bố thí tiếp cận với những sự đau khổ, nhận thấy các thứ hoạn nạn thảy đều thu giữ để có thể tỏ ngộ, không nhớ nghĩ về điều đạt được cùng mọi nơi chốn hy vọng, đó là Bố thí. Như ở chốn giữa đặt để hàng trăm ngàn dù lọng che phủ, tạo lập cảnh giới giải thoát theo từng chủng loại, không trụ ở cõi điên đảo, đó là Trì giới. Hoặc ở nơi chốn tu tập, cả thân, khẩu, tâm niệm, hành động đều không có được sự thích hợp, vẫn gắng thể hiện tính nhu thuận, hòa hợp, đó là Nhẫn nhục. Mọi nẻo hành hóa đều an nhiên, tịch tĩnh, dứt hết vọng tưởng, đó là Tinh tấn. Như dùng các pháp tư duy tĩnh lự để an trụ ở cõi tịch diệt, không còn dấy khởi các tưởng, niệm, đó là Nhất tâm. Dùng tuệ nhãn quan sát không cho đấy là sự diệt tận, hướng về nơi chốn không có chỗ hướng về, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là an nhiên tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như có sự hưng khởi nhưng tâm không dấy niệm, đó là Bố thí. Đem tâm ấy để dứt mọi mong cầu về phước báo, đó là Trì giới. Hiểu biết về con người là vô ngã nên luôn an nhiên, nhu hòa, đó là Nhẫn nhục. Mọi nẻo dốc sức tu tập, luôn hành đúng pháp bất nhị, rõ mọi nhân duyên, đó là Tinh tấn. Đối với các pháp thiền định không vướng chấp về trong, ngoài hay khoảng giữa, đó là Nhất tâm. Mọi nơi chốn, đối tượng quan sát, dứt hẳn sự phân biệt đối với hết thảy các pháp, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực. Thế nào gọi là dứt mọi sở hữu, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như tâm không dấy niệm đối với mọi việc nhằm tạo lập phước đức ở đời vị lai, đó là Bố thí. Thấu đạt về hết thảy mọi chuyển biến trong ba cõi đều như cảnh huyễn hóa, đó là Trì giới. Như đối với các tưởng về thiện hoặc tưởng về không thiện, luôn giữ vững lòng nhân hòa, tâm không còn vướng bận các điều ấy, đó là Nhẫn nhục. Hoặc tu tập đạo, hành theo nẻo không chốn hành, đó là Tinh tấn. Dứt mọi ham muốn, mong cầu ở nơi ba đời, tâm ấy luôn thể hiện sự mong muốn cứu giúp tất cả chúng sinh, đó là Nhất tâm. Như dứt mọi tưởng về các pháp hữu vi, vô vi, tạo được hạnh như vậy đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là rộng khắp tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như đã khuyến hóa vô số trăm ngàn chúng sinh khiến họ lìa bỏ mọi sự keo kiệt mà ham chuộng việc bố thí, đó là Bố thí. Đối với tính chất ngăn cấm của giới luật đều thuận với hành động, tạo tác cùng khắp hết thảy các loài, đó là Trì giới. Chỗ thực hiện các phương tiện không có gì là không gắng sức thọ nhận, đó là Nhẫn nhục. Hoặc như có thể tạo lập, an trụ nơi bốn Ý chỉ, chẳng hề biếng trễ, đó là Tinh tấn. Như không keo kiệt cùng giúp đỡ sáu việc khiến cho đạo pháp luôn được tồn tại, không bị thoái chuyển, có thể đem lại đầy đủ tám vạn bốn ngàn nẻo thực hành các pháp Tammuội, đó là Nhất tâm. Hoặc có thể thấu đạt hết thảy các hướng tạo tác của bao thứ phiền não trói buộc, ngừng trệ để dốc nguyện theo ánh sáng của Bậc Giác Ngộ, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là tươi đẹp tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Đối với sự bố thí nên tạo sự thuận hợp thỏa đáng với sáu tình, khiến cho đạo pháp không bị ngưng trệ, đó là Bố thí. Luôn hành động một cách cung kính, mọi sự thể hiện đều khiêm tốn, dứt mọi khinh mạn, đó là Trì giới. Như có khả năng gắng gổ thọ nhận để dứt bỏ mọi sự trói buộc cùng bao lớp lưới mê bủa vây, đó là Nhẫn nhục. Sự tinh cần tu tập ấy cũng như bệnh cần dùng thuốc thích hợp, không bị lạc vào chốn tội lỗi che trùm, đó là Tinh tấn. Diệt trừ tính tự đại cao ngạo, phụng hành tâm từ trong sáng bao la, đó là Nhất tâm. Như đem ánh sáng của Bậc Giác Ngộ theo chỗ mà nêu bày, thuyết giảng, không kẻ nào có thể đương nổi, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là không thể lường tính tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như có trường hợp thi ân luôn hợp với trí tuệ, đó là Bố thí. Dùng vô lượng các giới pháp, luôn thực hiện một cách thận trọng, thích hợp, dứt mọi sai phạm, đó là Trì giới. Chỗ thể hiện lòng nhân hòa nhằm đạt đến ba cánh cửa giải thoát, luôn khuyến trợ điều ấy để bản thân không bị rơi vào chốn vọng tưởng của hình sắc, đó là Nhẫn nhục. Như đem sự tu tập của mình nhằm đạt tới bốn ý thú, đó là Tinh tấn. Dùng các phép thiền định tư duy để phụng hành thể hiện Từ bi, đạt đến bảy Giác ý, đó là Nhất tâm. Như nương theo ánh sáng của bậc Thánh để tu tập, tạo lập thể hiện tâm thương xót lớn lao nhằm thực hành đúng theo tám nẻo đường chân chánh, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là hâm mộ mong đạt tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như có thể xuất gia cầu được bình bát, y phục tức thì có được đầy đủ, đó là Bố thí. Mọi nẻo hành hóa dừng nghỉ đều thể hiện đủ công đức của giới luật, đó là Trì giới. Đạt đến kho báu công đức, đoạn trừ mọi thứ hoạn nạn, nguy khốn của cõi sinh tử. Như làm vị quốc vương, cả phu nhân cùng đám thị nữ đều được đem bố thí cho kẻ khác, nghe tin ấy chỉ yên lặng, không hề mang tâm oán hận, đó là Nhẫn nhục. Mong đạt được các thứ nghĩa lợi, tích lũy công đức với các phương tiện khó nhọc, từ thời Đức Phật Định Quang cho đến hiện nay, mọi nơi chốn thực hiện đều không hề biếng trễ, đó là Tinh tấn. Hoặc khuyến khích khen ngợi người, tạo được sự thuận hợp về tâm ý, khiến họ nhận ra các thứ phiền não, đó là Nhất tâm. Như tùy theo hoàn cảnh nêu bày về trí tuệ vô thượng, dùng pháp Tam-muội ấy mong đạt đến quả vị Chánh giác tối thượng để hóa độ muôn loài đều quy thuận theo mình, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là do chỗ chán ghét mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Về các trường hợp bố thí nhằm giúp cho hạng nghèo thiếu các phương tiện để đạt tới hàng trưởng giả giàu sang, đó là Bố thí. Như đem việc giữ giới để tu theo mười điều thiện, không đem điều chán ghét ấy mà khuyến hóa người, đó là Trì giới. Như nhờ giới luật dần dần giúp sức để khai mở nhận lấy đạo lực mà tạo riêng được cảnh giới tịch tĩnh, đó là Nhẫn nhục. Hoặc không lìa bỏ các tưởng về ân đức mà phạm vào nẻo vọng tưởng là nhằm để tu, đó là Tinh tấn. Như dùng các pháp thiền định để đạt đến việc trừ bỏ hết thảy mọi thứ phi pháp, đó là Nhất tâm. Hoặc chỉ ra bao thứ khổ não ở trong ba cõi, từ đó nêu giảng về trí tuệ của bản thân mình, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhằm đạt được an lạc vi diệu mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như từ chỗ bố thí có được phước báo sinh vào cõi người, hết thảy mọi thứ mong muốn đều đạt được một cách phong phú mà không dấy tâm tự đại cao ngạo, đó là Bố thí. Do tuân giữ đúng giới luật nên được sinh lên cõi trời, hoặc ở cõi người thì thọ mạng luôn được lâu dài, đó là Trì giới. Chỗ gọi là có được thân người, có thể tu tập để đạt được pháp nhẫn Vô sở tùng sinh, đó là Nhẫn nhục. Nơi chốn chuyên cần tu tiến đến với các phương tiện chân chánh tất dẫn đến mọi hành động cũng như vậy, đó là Tinh tấn. Chỗ gọi là thiền định tư duy luôn dứt bỏ mọi báo ứng của nhân duyên bên trong, bên ngoài. Nơi chốn sinh ra liền được gặp chân lý và mọi nẻo hành hóa đều hợp với sở nguyện, đó là Nhất tâm. Về trí tuệ đạt được ấy, tâm ý dứt sạch mọi nẻo vọng tưởng, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là dứt mọi vui thích mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như đối với trường hợp cứu giúp luôn dứt bỏ mọi kiểu bố thí dối trá, không lìa bỏ mọi hiểu biết của chúng sinh, đó là Bố thí. Tuy ở nơi gia đình tuân phụng giới cấm mà như đã rời bỏ gia đình vì không còn tham luyến mọi vinh hoa ở đời, đó là Trì giới. Mọi hành động đều thể hiện sự nhu hòa, dịu dàng, không mang tâm giận dữ, đó là Nhẫn nhục. Nơi chốn tu luôn siêng năng, khổ nhọc, bỏ vui, đó là Tinh tấn. Thực hành các pháp thiền định nhằm dứt trừ mọi thứ phân biệt dẫn tới việc diệt sạch khổ não, mọi vọng tưởng trói buộc cùng với những khó khăn trong sự hòa hợp, hội thông, đó là Nhất tâm. Như đối với trí tuệ của Bậc Giác Ngộ, nhận rõ những tưởng chấp điên đảo, biết đó là nhân tạo ra những sự khổ vì đã không theo đúng nẻo của các pháp, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Thế nào gọi là lãnh hội giữ gìn tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như nhận lấy hạng chúng sinh cùng khốn không thể tự mình vượt được nỗi khổ cực ấy thì đem pháp thí dẫn dắt khiến họ quy phục, rồi mới dùng của cải quý giá bố thí khiến mọi người đều nghe theo, đó là Bố thí.
Thường dùng gốc của đức hạnh để thực hành các điều thiện, bản thân đã thực hiện, lại khuyến khích kẻ khác cùng làm, như được nghe nhưng không giữ lấy đối với số lượng của cải giàu có lớn lao, đó là Trì giới.
Như được nghe giảng, nói về điều thiện, có thể nhẫn chịu mọi nỗi khổ không lấy đó làm điều buồn phiền. Giả sử có vị Bồ-tát làm kẻ Phạm chí, tất theo kẻ ngu để được nghe những lời chỉ dẫn, tu tập trong mười hai năm mới hưng khởi đạo lớn vô thượng, tỏ ngộ nơi chốn sinh ra của mình, đó là Nhẫn nhục.
Đem sự tinh cần dứt bỏ mọi ràng buộc của sản nghiệp gia đình, không cho đấy là chuyện khó khăn, đó là Tinh tấn.
Hiểu rõ về lẽ vô thường, lãnh hội tính chất nhân duyên của sự vật để dốc tâm tu tập không biếng trễ dở dang, đó là Nhất tâm.
Học hỏi nơi chốn không thầy, sử dụng mọi phương tiện quyền xảo, luôn thể hiện sự bình đẳng đối với mọi lĩnh vực yêu ghét, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là nhận ra sự kéo dài trong cõi sinh tử mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như thi ân giúp đỡ là nhằm đạt được pháp nhẫn Vô sở tùng sinh, đó là Bố thí.
Pháp nhẫn ấy được dựa trên nền tảng là tâm thương xót vô bờ đối với muôn loài, đó là Trì giới. Luôn thể hiện lòng nhu hòa, khuyến khích ham chuộng các thệ nguyện lớn lao, đó là Nhẫn nhục.
Như đem sự hiểu biết rộng rãi của mình để chỉ dẫn giúp đỡ đối với tất cả, đó là Tinh tấn.
Ví như đạt được sự an nhiên tịch tĩnh trên tinh thần vô ngã, đó là Nhất tâm.
Hoặc như đối với hạng người thấp kém đều khiến họ tin theo mình, dốc tâm giảng dạy về nhẫn nhục nhu hòa cùng các pháp thiền định của những bậc Thánh lớn, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là không đoạn trừ mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như dùng sự bố thí để tạo được nẻo hưng khởi đối với bốn ân cùng cứu giúp hạng nguy khốn, đó là Bố thí.
Luôn gìn giữ nơi thân, miệng, ý, thể hiện sự cẩn thận trong ba nghiệp, đó là Trì giới.
Đối với người luôn thích ứng, thân tâm hòa đồng, chí nhằm đạt được pháp nhẫn, bốn sự luôn tạo được hòa hợp, đó là Nhẫn nhục.
Như đem công việc tu tập để thực hiện cho được bốn ý đoạn, không bỏ dở giữa chừng, thảy đều do sự tu học ấy mà tạo được quả vị giác ngộ, đó là Tinh tấn.
Hoặc dùng sự tịch tĩnh để từ đấy đạt đến bốn ý chỉ, đó là Nhất tâm.
Như nương theo ánh sáng của Bậc Giác Ngộ tu tập theo đúng bốn chân lý chắc chắn không rơi trở lại vào sự hư dối, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là từ những vui thú thuần túy tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Đối với hết thảy mọi sở hữu đều bố thí mà không hề tiếc lẫn, đó là Bố thí.
Dùng nhiều công đức để khai mở giáo hóa chúng sinh thấy được các cánh cửa giải thoát, đó là Trì giới.
Như đem đức lớn để giảng dạy giáo hóa ứng dụng khắp chốn, tuân giữ giới luật thể hiện nơi mọi hành động tạo tác, tâm sinh hướng thượng, dốc tâm khai thị, giáo hóa chúng sinh, làm hiển lộ việc tuân giữ giới luật ấy, dùng nhẫn nhục thuận hợp với ý, đối với hạng người đặc biệt cùng có thể nhận lãnh được, đó là Nhẫn nhục.
Hoặc như đem giáo pháp tùy thời mà dẫn dắt giáo hóa từng ấy chúng sinh nghe theo, đó là Tinh tấn.
Không bỏ hoàn cảnh thích hợp luôn thể hiện tâm Từ bi để thực hiện thành tựu bốn thứ ý, dứt hết mọi khổ vui khác, đó là Nhất tâm.
Chỗ nhằm giảng dạy cho chúng sinh, tất cả đều tỏ lòng lo lắng giữ gìn một cách thích hợp đối với giáo pháp, các nẻo đạt đến sự thích nghi tùy thời mà không bị thất tán, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là từ các pháp thiền định tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như tạo lập các nơi chốn bố thí, ở mỗi mỗi nơi chốn ấy đều nhằm đúng mục đích, không bị lạc nẻo, đó là Bố thí.
Tâm luôn tỏ bày sự thận trọng, dứt bỏ mọi thứ không thích hợp, đó là Trì giới.
Thể hiện lòng nhân cùng nhẫn chịu, đối với các pháp luôn an nhiên tự tại, hội nhập trong sự hòa đồng, đó là Nhẫn nhục.
Một lòng tu tập, tư duy, tạo dựng, mọi nơi chốn nên buông thả, hủy diệt các nẻo sai trái, đó là Tinh tấn.
Như đem các pháp thiền định dứt bỏ mọi tiếp nhận của căn trần, khiến cho ba nghiệp thân, khẩu, ý được an ổn, từ đấy mà có được ánh sáng trí tuệ, đó là Nhất tâm.
Hoặc như diệt trừ tham dục, đem đức sáng của Bậc Giác Ngộ xua tan mọi thứ cấu uế trong hành động, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là nhằm đạt được thần thông mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đem ánh sáng mà bố thí, nhân đó đạt được phước báo có được Thiên nhãn nhìn thấy thấu suốt các nẻo, đó là Bố thí.
Dốc phụng giới luật, tinh chuyên trong việc nghe và lãnh hội kinh điển không hề hủy phạm, do đấy mà đạt được thiên nhĩ có thể nghe biết xa rộng, đó là Trì giới.
Đạt được hai nẻo nhân, hòa làm một, dùng đó mà khuyến trợ tạo điều kiện để phát tâm Bồ-đề, đó là Nhẫn nhục.
Thành tựu được việc nhận biết và nhớ nghĩ về thân mạng cũ cùng mọi việc ở đời quá khứ, có được thần thông tự tại nhưng vì nhằm để hóa độ chúng sinh nên ở ngay trong cõi đời, tích lũy công đức, luôn tự chế ngự với mình, đó là Tinh tấn.
Thần thông, thần túc dẫn đến sự biến hóa nhưng khó đạt được giải thoát, lìa bỏ mọi vướng mắc của nhận thức để thọ lãnh các pháp thiền định bình đẳng, đó là Nhất tâm.
Đem sự báo ứng của nhân duyên do đạt được ân ấy, dùng ánh sáng thần thông tiêu diệt mọi thứ cấu uế, từ pháp Tam-muội ấy thông suốt được ánh sáng của Bậc Giác Ngộ, đó là Trí tuệ đã dứt sạch mọi thứ phiền não.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là từ sự xảo diệu ở đời mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Không thể khuyến khích việc tu học các pháp Ba-la-mật, chỉ ham chuộng những xảo thuật thích ứng ở đời, cùng trao truyền cho kẻ khác cùng làm như mình, đối với những trường hợp này nên dùng các xảo thuật mà bố thí để khiến họ tu đức, đó là Bố thí.
Đời sau được phước báo khiến cho vô số người yêu mến, ham thích dốc tâm vì đạo, đó là Trì giới.
Có thể sử dụng hết thảy mọi thứ kỹ thuật xảo tiện, thảy đều thông suốt không còn sót một lãnh vực nào, đó là Nhẫn nhục.
Như dốc phụng hành các pháp của Bồ-tát có thể đạt được mọi thành tựu, đó là Tinh tấn.
Như tâm luôn thể hiện sự ưa thích, đó là Nhất tâm.
Tham vấn hỏi han để nhận lãnh đạo pháp, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là do tâm Từ bi thương xót nhằm cứu giúp tất cả mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đem tâm cứu giúp tất cả chúng sinh, dùng tâm Từ bi mà bố thí, đó là Bố thí.
Vì chúng sinh nên đối với bản thân không còn tham lam, đem sự giữ giới ấy theo hoàn cảnh mà phát thệ nguyện, nhân đó đạt được tự tại ngay nơi chốn hành hóa, từ đấy dạy dỗ, giáo hóa chúng sinh tạo nhân phụng hành điều lành, mà tạo lập phát huy đạo, đó là Trì giới.
Giống như vị vua thời quá khứ tên là Ma-điều, chỗ dấy khởi tinh tấn luôn lo lắng tu, tuân phụng theo hoàn cảnh, đó là Nhẫn nhục.
Như làm vị quốc vương, có người mong được lấy đầu mình mà tâm không dấy sân hận. Vô số người được sinh lên cõi trời, do sự tinh tấn ấy mà có thể gắng gổ chịu đựng, nhận lãnh, lại đem hết tài sản cơ nghiệp để dùng vào việc khai hóa dẫn dắt, đó là Tinh tấn.
Luôn gắn bó với các pháp thiền định nhằm tiêu diệt mọi vọng động của sáu căn, không nơi chốn nào có thể ẩn giấu được, đó là Nhất tâm.
Đem ánh sáng của Bậc Giác Ngộ nêu bày quảng diễn khai thị cho vô số chúng sinh khiến mọi người đều rộng mở nhận lấy những báo ứng lớn lao tốt đẹp, các đức của sáu sự việc xua sạch mọi nơi chốn phiền não bụi bặm, sự báo ứng mạnh mẽ vì không thấy sự xâm phạm, không do quá khứ mà có thêm, bớt, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là thực hiện lòng thương mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như trong việc bố thí, tâm tự dấy ý niệm muốn khiến cho tất cả chúng sinh thảy đều được an lành, đó là Bố thí.
Hoặc như lìa bỏ mọi liên hệ với kẻ khác, chẳng phải vì chán ghét bản thân mình mà là nhằm dứt sạch các mối trói buộc, đó là Trì giới.
Có thể nhẫn chịu khi bản thân bị kẻ khác mắng nhiếc hay dùng gậy gộc đánh đập mà thảy đều nhẫn được cả, lại hóa độ người khác cũng thực hiện được nhẫn như mình, đó là Nhẫn nhục.
Như dốc tinh chuyên gồm đủ mọi gốc của công đức, không hề chán nản trong việc hóa độ vô số chúng sinh, lại càng tinh chuyên nhằm khuyến khích mọi người khiến họ xuất gia học đạo, đó là Tinh tấn.
Hoặc như chán ghét các nẻo ác, yêu thích các pháp thiền định dốc nhiều công đức để đạt đến cứu cánh, đó là Nhất tâm.
Do lòng thương xót mà trừ sạch mọi điều ác hiện bày, không hề biếng trễ bỏ dở, chỗ dấy khởi pháp thí là nhằm giảng dạy giáo hóa chúng sinh, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là hoan hỷ tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như trong trường hợp thực hiện ân huệ tâm luôn vui vẻ không còn mang lòng giận dữ, đó là Bố thí.
Dốc tâm tin tưởng trong việc tuân giữ giới luật từ đó đạt được các đức lành, đó là Trì giới.
Hoặc như đem tâm nhu hòa tạo nên sự hổ thẹn, không chấp nhận sự thô bạo hung ác, đó là Nhẫn nhục.
Dốc sức siêng năng tu tập tâm không chút sân hận, tự giúp đỡ cho kẻ khác, khéo tư duy nhưng không mang lòng nóng vội hoảng hốt, đó là Tinh tấn.
Như vui thích trong cảnh tịch tĩnh, tâm luôn được thanh tịnh, tạo lập thành tựu dứt trừ các thứ tham dục, đó là Nhất tâm.
Đối với các việc thi ân giúp đỡ tâm không chút dựa cậy nương nhờ, phụng hành đạo pháp luôn dứt bỏ mọi vọng cầu phước báo, quan sát nơi trí tuệ mà nhận lấy giác ý, chọn giác ý rồi thì tu theo pháp vô nguyện để tạo lập các cửa giải thoát, không rơi vào cõi điên đảo nên tránh được mọi nẻo xâm phạm, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là khuyến khích giúp đỡ tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như trong trường hợp giúp đỡ tâm luôn dứt hết mọi vướng mắc, tham chấp, phụng hành các pháp bình đẳng, không mang vọng tưởng, đó là Bố thí.
Như thể hiện sự thận trọng gần gũi với các giác ý, tâm tinh tấn, không dấy các phiền não, đó là Trì giới.
Hành động theo nẻo “vô sở tưởng” tâm chí đều thể hiện rõ ràng trong sáng, trong ngoài thảy đều an định dứt trừ hết mọi tham cầu, đó là Nhẫn nhục. Thông tỏ các pháp hữu vi, quán xét nơi các pháp vô vi, tâm dứt sự phân biệt hai nẻo, đó là Tinh tấn.
Như dùng các pháp thiền định để quan sát về sức lực tạo cho sự tịch nhiên càng thêm tăng trưởng hết mực, ở mọi nơi đạt đến yếu tố ấy luôn đứng đầu, đó là Nhất tâm.
Tin tưởng ở ánh sáng của Bậc Giác Ngộ, tu tập đạo nghĩa, do tình thương vô bờ mà dốc tâm khai hóa dẫn dắt mọi người, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là khuyến khích kẻ theo tà kiến tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Đối với các học thuyết lộn xộn, phiền toái của đám ngoại đạo, có thể đi vào các đền thờ cúng của họ, tùy thuận theo ý họ mà dẫn dắt giáo hóa, cũng như theo gương hàng Phạm chí tạo tác làm hưng khởi phước đức, đó là Bố thí.
Như trường hợp có bọn giặc tập hợp đông đúc làm điên đảo giới luật, bị bọn giặc sai khiến dẫn dắt nhưng ở đấy vẫn làm hiển lộ đức hạnh của mình, duyên theo đó mà hóa độ, đó là Trì giới.
Hoặc ở nơi chốn đông đúc phức tạp với từng ấy hành động phiền nhiễu dẫn tới những xâm phạm mà mình vẫn không hề tỏ lo âu chán ghét, đó là Nhẫn nhục.
Có những trường hợp cung cấp giúp đỡ, nếu hòa nhập vào các pháp thế tục thì cũng không bị cuốn vào trong ấy mà nhân đó nêu bày giảng giải về ý nghĩa của nẻo tịch tĩnh an nhiên, đó là Tinh tấn.
Như dấy khởi các pháp thiền định, cho dù đi đến các cõi tăm tối vẫn an vui nơi cảnh giới ấy, an vui với nẻo “vô sở lạc” tức lấy đạo pháp làm điều an lạc, đó là Nhất tâm.
Hoặc dùng hình tượng của bậc Phạm chí để nhằm giáo hóa chúng sinh, tùy theo chỗ thuận hợp trong hành động mà dạy dỗ dẫn dắt, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là khuyến khích kẻ theo chánh kiến tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như trường hợp nhập vào tập tục là nhằm để nêu bày giảng dạy các pháp: Bố thí đạt được phước đức, giữ đúng giới luật được sinh lên cõi trời, mọi tạo tác lành dữ đều có quả báo thích ứng, đem điều ấy mà cứu giúp họ, đó là Bố thí.
Hoặc ở vào đời không có Phật, Bồ-tát, nhưng chưa từng nghe theo lời các đám bạn ác, đó là Trì giới.
Như các vị Bồ-tát thanh tịnh trong lành không chút cấu uế, cũng như nơi ngọn núi Tuyết sinh ra cây cối xanh tốt, từng có chư Thiên, quỷ thần, chúng Long thần cùng đến vui chơi trong ấy, đó là Nhẫn nhục.
Chỗ dốc sức tu tập dứt trừ bỉ - ngã, ví như kẻ buôn bán muốn đi đến nơi chốn xa xôi thì phải có nơi lo toan mọi việc, đó là Tinh tấn.
Như đem trí tuệ để làm sáng tỏ thêm các pháp ở bậc Tứ thiền, cũng chính là “không có nơi chốn giúp đỡ”, đó là Nhất tâm.
Dùng ánh sáng của bậc Thánh soi tỏ thương xót hết thảy chúng sinh nhất là hạng căn trí còn chậm chạp, cũng như ngày trước đã học về cội rễ của giáo pháp, dùng một câu tụng kệ để giảng giải cho tám vạn bốn ngàn quốc độ, thôn ấp, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là khuyến khích trụ nơi nhận thức tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Bồ-tát, giả sử đang ở trong cảnh mộng, tâm không keo kiệt, ganh ghét, tuy Phật không hiện ra mà tâm vẫn không khác, huống chi là ở trong hiện tại, đó là Bố thí.
Như gặp phải tội lỗi ác độc cùng có thể mất cả thân mạng, nhưng chưa từng phạm các giới cấm, đó là Trì giới.
Nơi chốn sinh ra cùng với ánh sáng hội đủ, vừa sinh thì liền được nghe về cội rễ của pháp nhẫn thanh tịnh nên đạt được Phật đạo, đó là Nhẫn nhục. Nơi chốn sinh ra thường thấy việc nêu giảng dẫn dắt khai hóa chúng sinh, dùng đạo pháp ấy mà dạy dỗ người khác, đó là Tinh tấn.
Ở mỗi mỗi nơi sinh ra luôn nhớ nghĩ về đạo, thích thú trong việc tạo lập hành động dẫn tới những tiếp cận về nhận thức nơi bản tính như nhiên nên gắng đạt như thế, đó là Nhất tâm.
Như đem việc hóa độ thế gian cùng xem xét mọi sự việc ở đời, thảy đều không chủ thể, bản thân luôn đứng riêng không tùy thuộc kẻ khác, sự hiểu biết sáng suốt ấy như thế là luôn nêu bày hết sức thành thật, mọi tạo tác của thân, khẩu, tâm luôn thận trọng khiêm tốn, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là khuyến khích vô trụ tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như sử dụng các ân ích theo phương tiện cứu giúp những nơi chốn có nhiều kẻ cùng khốn, đó là Bố thí.
Thân tâm luôn thận trọng, tâm dứt mọi sai phạm cũng như không hề phóng dật, đó là Trì giới. Dù đạt đến pháp không thoái chuyển cũng không rời pháp nhẫn, đó là Nhẫn nhục.
Tư duy về hết thảy muôn vật để nhận ra tính chất “Bất khả đắc” của chúng, siêng năng theo phương tiện tu tập nẻo “vô sở trụ” do nẻo vô tục ấy mà khuyến trợ sáu pháp Ba-la-mật, đó là Tinh tấn. Như đối với trong ngoài đều không có chỗ vướng mắc, vì chúng sinh còn mê lầm nên tâm bị che lấp không thông tỏ, lại vướng chấp nẻo ngã tưởng mà không rõ lý vô ngã, vì hạng chúng sinh ấy mà phân biệt nêu giảng để họ ngộ được hết thảy là không, đó là Nhất tâm.
Hoặc chẳng rời bỏ các quả vị Thanh văn, Duyên giác, dùng giáo pháp của Bậc Giác Ngộ sáng suốt, nương nơi Nhất thiết trí, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là khuyến khích dứt mọi dựa cậy tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như tập hợp tăng thêm ân ích khiến cho hết thảy chúng sinh trong ba cõi thảy đều vui mừng, cũng như sự phát khởi thệ nguyện từ thời Phật Định Quang, đó là Bố thí.
Hoặc thực hiện việc tuân giữ giới luật mà tâm dứt mọi nẻo nương tựa cũng như mong cầu, đó là Trì giới.
Ví như tâm luôn thể hiện sự nhân ái, hòa dịu, uyển chuyển, chưa từng dấy vọng tưởng đối với hết thảy các pháp, đó là Nhẫn nhục.
Siêng năng tu tập các hạnh mà không tham vướng, đó là Tinh tấn.
Thực hành các pháp thiền định, làm chủ các đối tượng đạt đến địa Bồ-tát, dứt hết mọi nẻo điên đảo, đó là Nhất tâm.
Như dùng trí tuệ bậc Thánh tiêu trừ mọi thứ phiền não, quy ngưỡng về đạo lớn, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là thúc đẩy ý mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Ý luôn tự nhớ nghĩ: Nơi chốn tế độ của Bồ-tát là nhằm thành tựu cõi Phật, là nhân để hoàn tất cứu cánh của quá trình hành hóa, đó là Bố thí.
Luôn tự giữ mình, dứt bỏ ba nẻo ác không tạo các nghiệp dẫn đến tội lỗi, đó là Trì giới.
Luôn sẵn tâm Từ bi nhân hòa nên nhận được phước báo thân tướng tốt đẹp, đoan chánh tuyệt vời, không ai mà không mến mộ, ca ngợi, đó là Nhẫn nhục.
Dốc sức tu tập, như đi vào biển lớn tìm kiếm ngọc báu Như ý, tiêu diệt hết mọi khó khăn, đạt được pháp tự tại, đó là Tinh tấn.
Như thực hành các pháp thiền định để dứt trừ các thứ phiền não cấu uế, đúng như chí nguyện nêu bày và đã dốc đạt được, đó là Nhất tâm.
Dùng ánh sáng của Bậc Giác Ngộ để trừ diệt chúng ma, nhân đó mà giảng dạy giáo hóa khiến mọi người đều nghe theo, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là khuyến khích nhẫn nhục tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Nơi chốn thực hiện bố thí, tâm luôn gắn liền với Phật đạo, chưa từng quên pháp nhẫn, đó là Bố thí.
Như đem chí nguyện tịch tĩnh giải thoát cứu giúp chúng sinh ở cõi địa ngục, ma oán không thể xâm phạm mà pháp cũng không thoái chuyển, đó là Trì giới.
Hợp lý trong việc phụng hành chánh pháp, tâm dứt mọi ganh ghét, như vị Vương thái tử hiệu là Đức Quang: Thực hiện công việc bố thí một cách tự tại chỉ trong một ngày xả bỏ hết tất cả mọi thứ sở hữu để làm vị đệ tử của Phật. Vị vương tử ấy đã bố thí xe cộ, voi ngựa, cờ phướn, dù lọng dày kín cả một vùng bốn mươi dặm, nào chuỗi anh lạc, y phục, vật báu, vô số hương hoa. Xả bỏ tám vạn bốn ngàn thể nữ, lìa nước bỏ ngôi, cả chân tay tai mũi đầu mắt xương thịt, các chi thể trên người cùng vợ con thảy đều bố thí, không trái với ý của kẻ đòi hỏi. Rồi vương tử xuất gia làm một vị Sa-môn để phụng hành chánh pháp, đó là Nhẫn nhục.
Chỗ tuân phụng các giới luật là nhằm dốc tu tập dứt trừ mọi vướng chấp, đó là Tinh tấn.
Như ở trong cảnh mộng trông thấy nhiều nàng ngọc nữ mà không dấy tâm tham đắm, thân tướng gồm đủ các vẻ tốt đẹp, dung mạo thanh tịnh, đó là Nhất tâm.
Hoặc như đi vào trong thành, tâm luôn giữ lấy trí sáng suốt, trông thấy vị Tỳ-kheo liền dốc tâm tôn kính không hề dấy bất kỳ một vọng tưởng nào, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là tạo nghiệp và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như thân tự lập, chuyên tu phạm hạnh, chỗ có thể khuyến trợ đạt được nhiều lợi dưỡng. Gặp lúc đạo pháp suy diệt liền lấy y che hình ẩn tu giữ đạo, chí nguyện tu học cùng hành đạo cũng giống như ánh sáng tỏa lên từ một đóa hoa, hiện cầu thân Phật tất không hề bị mất, năm cành hoa mới và năm cành hoa cũ cũng đều bay tới và trụ nơi vai Phật, do báo ứng ấy mà đạo pháp được hưng thịnh, chánh pháp truyền bá ở đời đến năm trăm năm, tượng pháp cũng như vậy, đó là Bố thí.
Hoặc như đem các giới luật được tuân giữ diệt trừ các hành nghiệp ác của kẻ khác, tùy theo chỗ thiếu và cần của họ mà dốc tâm cứu giúp, đó là Trì giới.
Chỗ thể hiện tâm nhân hòa như gặp trở ngại mà không có được lợi lạc an lành tất sẽ được cứu giúp trong lúc nguy khốn. Cũng như người khách buôn bán đi vào biển lớn gặp phải loài cá Ma-kiệt, chợt thấy vùng biển cạn như những ao tắm, tất cả là hai mươi lăm ao, nơi mỗi ao ấy đều có con voi trắng, tức thì nâng thuyền buôn lên vượt khỏi nạn lớn, đó là Nhẫn nhục.
Giả sử gặp lúc cả thiên thượng và thế gian đều an ổn sung sướng, giống như thời xưa “Vô khai đạo chủ” muốn khiến cho tất cả đều tinh tấn, có vị Đại phạm thiên tên là Anh Diệu đã khuyến hóa vị Thiên đế và dạy dỗ mọi người khiến họ đều được sinh lên cõi trời, đó là Tinh tấn.
Thiền là vô sở sinh, chư Phật, Bồ-tát đều giảng dạy như vậy. Giả sử Bồ-tát khuyến khích chỉ dẫn cho chúng sinh khiến họ được sinh lên cõi Phạm thiên, từ cõi trời Quang âm đến cõi trời Vô tưởng, đó là Nhất tâm.
Hành động tạo tác của bậc Thánh giác ngộ là vì mọi nẻo ở thế gian mà nêu giảng về cuộc đời hiện tại, cũng chỉ dạy về các hành động để thoát khỏi cuộc đời này, như tu tập mười điều lành đem lại lợi ích cho đông đảo lê dân. Cũng như ngày xưa có vị quốc chủ tên là Đắc Sinh, vua có đôi mắt đẹp và tỏ ra mến mộ đạo pháp, vô số trong các đời đều thông tỏ diệu nghĩa ấy. Các vị vua đều thực hiện đạo Từ bi theo lời dẫn dạy của chư Phật, Bồ-tát. Rồi vua đem những điều đã được lãnh hội ấy mà nêu bày chỉ dẫn cho tất cả chúng sinh, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là dứt mọi nơi chốn tạo nghiệp mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Trong tâm luôn vui vẻ do từ mọi công sức tạo nên dẫn tới sự an lạc, hết thảy mọi cội nguồn đầu mối tâm đều khuyến trợ giúp đỡ. Nơi chốn có thể khuyến trợ thảy đều là tiêu biểu, nổi tiếng. Như thời xa xưa Bồ-tát gặp Đức Phật Định Quang đã dùng năm cành hoa tung lên để cúng dường Phật. Do chỗ vun trồng gốc công đức ấy nên đều khiến đạt được phước lành lớn và đạo đức dứt sạch mọi thứ vọng tưởng. Đến khi đạo pháp bị suy diệt, đều cùng dựa vào đấy mà tồn tại, đó là Bố thí.
Chỗ tu học luôn tinh tấn, ba nghiệp thân, khẩu, tâm luôn dứt mọi phương tiện quyền biến tính toán về đất đai, nơi chốn sống chết, đó là Trì giới.
Nẻo tu tập luôn thể hiện tâm nhân hòa, hâm mộ vui thích mong đạt được gốc của sự khổ, đó là Nhẫn nhục.
Đối với trường hợp tinh tấn là nhằm tạo lập những liên hệ với cuộc đời để hóa độ đưa về với đạo pháp, đó là Tinh tấn.
Như tu tập các pháp thiền định, quán tưởng về cõi Phạm thiên với thọ mạng dài, ngắn, đó là Nhất tâm.
Chỗ nương theo ánh sáng của Bậc Giác Ngộ chưa từng thốt ra lời. Cũng như có vị Bồ-tát hiệu là Như Lai Nhật, thuận theo chúng sinh mà tuyên giảng một loại pháp, còn lại thì chính từ nơi bản thân nêu bày từng ấy phẩm pháp, tạo lập được cảnh giới tịch nhiên, rồi nhập Niết-bàn. Sau đấy chánh pháp được truyền ở đời trong từng ấy năm rồi mới bị suy diệt, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là “Hữu dư” tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Thời xa xưa, Bồ-tát gặp Phật Định Quang, dốc tâm cúng dường và nhân đó phát thệ nguyện cầu đạt đạo pháp, đó là Bố thí.
Thân, khẩu đã dứt phiền não, nương tựa, an trụ nơi giới luật, không tin ở các đối tượng khác mà chỉ an vui với bản thân mình, đó là Trì giới.
Tánh thể hiện nhân hòa dứt mọi thô bạo, ác độc, quy ngưỡng về diệu lực của pháp tọa thiền, đó là Nhẫn nhục.
Giả sử trong khoảng thời gian dốc sức tu tập, sự nương tựa chính là chỗ an lạc trong quá trình đạt đến giác ngộ, đó là Tinh tấn.
Thực hành các pháp thiền định tư duy một cách hâm mộ vui thích là nhằm tiếp cận diệu lý không, chứ không chỉ dùng điều ấy làm sự an vui mà thôi, đó là Nhất tâm.
Như lãnh hội ánh sáng giác ngộ của bậc Thánh, tâm không có chỗ vướng mắc hoặc dứt hết mọi tham vướng, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là trụ nơi bậc Hữu dư thực hiện các pháp Độ vô cực?
Không thể thuận theo sự thật để trở lại hướng tới một nẻo khác. Chí nguyện đạt đến cõi không là nơi chốn đạt được của hàng Thanh văn, Duyên giác. Pháp Phật như thế là khó trường tồn. Nhập vào mười địa mà hành động còn thoái chuyển, phải nên nhận rõ ý nghĩa ấy. Đó gọi là Bồ-tát “Hữu dư” thực hiện các pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là Bồ-tát Vô dư thể hiện các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Khuyến trợ chúng sinh nhận rõ về lẽ báo ứng trong cõi sinh tử, như có thể chấp nhận với các quả vị Thanh văn, Duyên giác, tạo được cảnh giới tịch nhiên, an định, không ngã theo con đường thoái chuyển, đó là Bố thí.
Sự báo ứng của việc tuân giữ giới luật xem như xa rời trí tuệ nhưng thực chất là có thể thâm nhập làm cho trí tuệ rộng mở, đó là Trì giới.
Thể hiện tâm nhân hòa cũng là bày tỏ sự sợ hãi đối với các nẻo ác, dù gặp chốn khổ nhục tâm cũng không sai phạm, đó là Nhẫn nhục.
Như dùng việc dốc sức tu tập để mong đạt nghiệp ma, bây giờ muốn tiêu diệt cõi ma ấy khiến cho mọi đầu mối cội rễ của tà kiến đều bị dứt sạch, đó là Tinh tấn.
Thực hành đúng đắn các pháp thiền định để nhận rõ giới hạn của thọ mạng cùng mọi cội rễ một cách rốt ráo, đó là Nhất tâm.
Như dùng trí tuệ để nhận thức biết rõ về thân mạng đời trước, nhằm dứt hết mọi khổ não lo âu mà ham thích thực hiện chí nguyện tu tập, đó là Trí tuệ Vô dư Ba-la-mật.
Do đâu mà được gọi tên là Ba-la-mật (Độ vô cực)? Đó là Bồ-tát đã đạt được từ chỗ thuận hợp để hóa độ theo sự mong cầu của cuộc đời, do vậy mà gọi tên là Sáu pháp Độ vô cực vô dư.
Thế nào gọi là sáng suốt tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Bồ-tát thực hiện bố thí kính phụng các bậc tôn trưởng không mong được phước báo, trong trăm ngàn kiếp sống ở đời ăn uống sinh hoạt, không chỉ vì thân mạng của riêng mình nên tâm ý không mang nỗi lo buồn, đó là Bố thí.
Chỗ tu tập theo diệu nghĩa của các pháp như đi đến nơi gốc cây chỗ Phật thành đạo, đối với tất cả các pháp không mang tâm hồ nghi, duyên vào đấy mới đạt đến Nhất thiết trí, đó là Trì giới.
Như thực hiện các pháp thiền định luôn dứt mọi vướng mắc tham chấp đối với mọi pháp, vì Nhất thiết trí cũng từ nơi ấy mà phát sinh, đó là Nhẫn nhục.
Siêng năng tu tập, an trụ nơi ánh sáng của trí tuệ để chuyển hóa năm thứ che phủ vây bủa, đó là Tinh tấn.
Như áp dụng các pháp thiền định để thành tựu Bậc Chánh Giác tối thượng, đạt được Thiên nhãn biết rõ về thân mạng đời trước cùng mọi nơi chốn từng trải qua, đó là Nhất tâm.
Nương theo bậc Thánh giác ngộ, nhằm diệt sạch mọi thứ phiền não đạt được Phật nhãn, các pháp đều được thông tỏ khắp nên tâm không còn chút do dự, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là an trụ nơi ánh sáng để giữ vững, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
An trụ nơi chánh pháp, cúng dường giáo pháp của Phật khiến cho kinh điển được tồn tại, lưu truyền, đó là Bố thí.
Nơi chốn hành động cũng như dừng nghỉ đều hội nhập với diệu nghĩa Như Lai, thân trong sáng, khẩu thanh tịnh, dứt sạch mọi thứ tưởng chấp, đó là Trì giới.
Thể hiện sự nhu hòa thuận hợp, hành hóa chẳng ngã về đời, đối với các pháp không hề động chuyển, đó là Nhẫn nhục.
Thấu đạt về các quả vị Thanh văn, Duyên giác, tiêu trừ mọi thứ phiền não cấu uế cho đến đạt được giải thoát, đó là Tinh tấn.
Chỗ thực hiện các pháp thiền định là mong cho chúng sinh tâm niệm cùng mọi nẻo hành động đều theo ánh sáng trí tuệ vang tỏa khắp, đó là Nhất tâm. Do nhận biết con đường đi đến giải thoát nên không để mất hoàn cảnh thuận tiện mà thực hành đạo Từ bi của Bậc Giác Ngộ, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là hưng thịnh, thành tựu tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Phật xuất hiện ở đời chính là đã thành tựu được một thứ tài sản lớn lao quý giá, các bậc Thánh hiền vô lượng đều nhận lãnh những lời chỉ dạy của chư Phật thời quá khứ, đó là Bố thí.
Phật thị hiện ở đời được hưng thịnh diệt trừ mọi thứ phiền não cấu uế, do hành động khuyến trợ ấy mà đạt được giải thoát, đó là Trì giới.
Đem tâm nhân hòa nhận lãnh giáo pháp của
Đức Thế Tôn, lại biết rõ nẻo dừng dứt, không rơi vào sự biếng trễ cho tới khi đạt được hạnh nguyện lớn, đó là Nhẫn nhục.
Như đem việc dốc sức tu tập để tạo lập thệ nguyện rộng lớn, như người có được công đức ấy mà ở ngôi vị vua chúa cũng không dấy tâm sai trái đối với đạo pháp, đó là Tinh tấn.
Thực hiện các pháp tư duy thiền định tâm luôn nhớ nghĩ đến Phật, không để mất nẻo đường đi đến giác ngộ, đó là Nhất tâm.
Như đem ánh sáng của Bậc Giác Ngộ khuyến trợ việc tu tập đạt giải thoát, như Phật đã từng khai thị giáo hóa thân tâm của năm người đệ tử, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là ý dứt mọi phiền não tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Thực hành việc thi ân thích hợp với ý nguyện, dốc tâm phụng hành đạo pháp là nhằm hóa độ bao kẻ khác, đó là Bố thí.
Tuân phụng đạo pháp, hành động hết mực để giúp cho mọi người chế ngự ba nghiệp thân, khẩu, ý, đó là Trì giới.
Nẻo tu tập nhân hòa chính là sự nhẫn thâm diệu, cho dù gặp lúc chánh pháp bị suy diệt, chí vẫn kiên cố bảo tồn, đó là Nhẫn nhục.
Chỗ dốc tu tập kiên định sẽ mang lại ánh sáng của đạo pháp khiến tâm không bị mê lầm, đó là Tinh tấn.
Giả sử nơi các pháp thiền định là nhằm tiếp cận thể hiện diệu lý không–vô, dứt hết mọi tưởng, nguyện, cũng như tâm không chút mong cầu, đó là Nhất tâm.
Nương theo ánh sáng của bậc Thánh để suy nghĩ về nẻo lo lắng buồn phiền của chúng sinh, dốc tâm từ nhớ nghĩ đến tất cả và muốn cứu giúp, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là tạo lập sự hưng thịnh của Phật ngay nơi chốn nhà ở mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như có các trường hợp bố thí nên luôn dấy khởi năm sự việc, đó là:
1. Tạo nên chỗ ngồi đàng hoàng.
2. Tạo nên nơi chốn để giảng nói pháp.
3. Tạo được số quyến thuộc đông đảo.
4. Tạo nên sự ham thích nghe pháp.
5. Tạo nên sự biên chép thành sách báo, đó là Bố thí.
Chỗ thể hiện việc thực hành các giới luật luôn đầy đủ không hề bị sai phạm, đó là Trì giới.
Đem tâm nhân hòa để dứt bỏ mọi vọng tưởng chấp trước của con người chẳng tính kể đến thọ mạng, đó là Nhẫn nhục.
Như dốc siêng năng tu tập thể hiện mọi tạo tác bình đẳng nhằm nêu bày rõ diệu nghĩa của đạo pháp, đó là Tinh tấn.
Dùng tâm tĩnh lặng an định để thực hiện sự bình đẳng khắp chốn, phụng hành đức lớn, ý dứt mọi sở nguyện, đó là Nhất tâm.
Như đem ánh sáng của trí tuệ quy ngưỡng về các chân lý của Bậc Giác Ngộ, không nơi chốn nào là không thông tỏ, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là thấy người xuất gia đến mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đối với trường hợp bố thí, giữa tâm niệm và việc làm đều thuận hợp để dẫn tới nẻo hành hóa vô lậu, đó là Bố thí.
Luôn tỏ ra thận trọng nhằm giữ gìn các nghiệp về thân, khẩu, thích hợp với quá trình tu tập giải thoát, đó là Trì giới.
Như đem tâm nhân hòa bày tỏ mối chán ghét đối với ba cõi cùng dứt hết mọi tham vướng, đó là Nhẫn nhục.
Dốc tu các hạnh chính đáng, quy ngưỡng về nẻo dừng của bốn ý thú mà phát sinh đạo ý, đó là Tinh tấn.
Dùng các pháp thiền định thể hiện bốn tâm vô lượng, lo lắng chán ghét về các nạn trong khắp nẻo sinh tử, đó là Nhất tâm.
Như đem ánh sáng của bậc Thánh mà xua tan giũ sạch mọi thứ tư duy sầu não nhằm tu theo nẻo giải thoát, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là do nghe rộng biết nhiều dẫn tới tâm thương xót mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như trong trường hợp đem giáo pháp nêu bày chỉ dẫn về nẻo tinh tấn cùng giúp đỡ cho đám người cùng khổ, đó là Bố thí.
Thọ trì đạo pháp, cho dù phải xả bỏ thân mạng cũng không tham tiếc, đó là Trì giới.
Trong thời kỳ chánh pháp sắp bị suy diệt, vẫn thể hiện đúng tâm nhân ái hòa hợp, Bồ-tát phát tâm tùy thuận một cách thích ứng với hoàn cảnh, tự hy sinh thân mình để bày tỏ sự yêu mến bảo vệ chánh pháp, đó là Nhẫn nhục.
Như dốc sức tu tập nhằm đạt được các pháp Tổng trì, luôn lãnh hội thâm nhập không hề quên, đó là Tinh tấn.
Dùng các pháp thiền định khiến tâm được thông tỏ, thể nhập diệu lý mười hai duyên khởi tức là “Không nơi chốn nào dấy khởi cả”, đó là Nhất tâm.
Như đem sự hiểu biết để nhận rõ mọi nơi chốn từng trải qua để dốc tu các pháp tịch tĩnh giải thoát, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là xuất gia không lìa giới luật tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Chỗ giúp đỡ kẻ khác theo sở nguyện của mình cũng là nhằm phụng hành đúng lời dạy của bậc Pháp sư, đó là Bố thí.
Nẻo thực hành giới luật là nhằm tuân thủ thể hiện lòng thương lớn lao, dứt hết mọi khía cạnh giận dữ, đó là Trì giới.
Chí nguyện nhân hòa không mang tâm mưu hại sâu hiểm, luôn khiêm tốn, cung thuận dứt mọi vẻ tự đại, ngã mạn, đó là Nhẫn nhục.
Con đường siêng năng tu tập là dũng mãnh, tự tin không hề khiếp nhược, đó là Tinh tấn.
Nẻo thiền định tư duy hết mực là nhằm thực hiện bảy Giác ý, thông tỏ mọi nẻo xa gần, không chốn nào là không thấu đạt, đó là Nhất tâm.
Nơi chốn cùng tột của sự hiểu biết là từ khả năng thấu tỏ tất cả mà vẫn không rời pháp nhẫn, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
-oOo-
Đức Phật nói với Bồ-tát Hỷ Vương:
–Thế nào gọi là trụ nơi các pháp thần thông tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như về các trường hợp bố thí những thứ tài sản quan trọng, không nên tham tiếc mà là dốc tâm đối với đạo để nhận lãnh được giáo hóa chân chánh, đó là Bố thí.
Hành hóa không chút tham vướng, không dựa vào chánh tà mà dốc vì đạo lớn, đó là Trì giới.
Luôn thể hiện tâm nhân hòa, không mang tâm hồ nghi cũng như hoàn toàn dứt hết các nẻo do dự, đó là Nhẫn nhục.
Dốc chí nơi con đường siêng năng tu học nhằm kiến lập thệ nguyện rộng lớn không trái với bản nguyện của mình, đó là Tinh tấn.
Chỗ thực hành thiền định nhằm có được ánh sáng tỏa chiếu soi tỏ khắp chốn xa gần, đó là Nhất tâm.
Dựa theo ánh sáng của Bậc Giác Ngộ ứng hợp với các quả vị của đạo, nhận rõ mọi sự việc trong tính chất duyên khởi, luôn gắng sức kiên trì để thọ lãnh, giữ gìn chánh pháp, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là thần thông không gián đoạn tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đối với các trường hợp cần giúp đỡ, nên tạo lập các chùa chiền, tinh xá thờ Phật, Như Lai, là những việc làm hàng đầu, đó là Bố thí.
Đạo nghiệp mong thành, đạt đến nền tảng của trí tuệ để xua sạch mọi ngọn nguồn của các nẻo vô minh, đó là Trì giới.
Chỗ thể hiện tâm nhu hòa hết mực là nhằm đạt được sự thành tựu viên mãn của quá trình tu tập, làm hưng khởi đạo giác ngộ, giải thoát, đó là Nhẫn nhục.
Dốc tâm siêng tu nhằm thông tỏ mọi nẻo sắc, tưởng mà dứt hết vọng tưởng, đó là Tinh tấn.
Chỗ đem các pháp thiền định tư duy, định ý tịch nhiên cho đến tiếp cận với các cửa giải thoát, đó là Nhất tâm.
Vâng theo nẻo giác ngộ của bậc Thánh, tu tập các pháp Tổng trì, quán tưởng về các hành động chân chánh, an trụ nơi cõi tĩnh lặng, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là đi vào chốn dục mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như trong việc cứu giúp tập hợp hết thảy mọi công sức của cải để cấp cho các gia đình oán địch, đó là Bố thí.
Nẻo hành hóa còn yếu kém, lần lượt thuận theo sức mình sức người mà tạo lập được chỗ đứng cùng uy tín lớn lao, đó là Trì giới.
Đem tâm nhu hòa dứt mọi thứ phiền não che phủ để dốc tu theo đạo nghĩa, đó là Nhẫn nhục.
Như lìa bỏ tâm oán hận, giống như trường hợp Vương thái tử an vui nơi chốn thanh bạch, đó là Tinh tấn.
Hoặc như thực hành thiền định, tâm không buông lung, chuyên nhất định ý, đó là Nhất tâm.
Đem ánh sáng của Bậc Giác Ngộ nhằm độ thoát bao nạn về sinh tử nơi cõi ác địa ngục, từ đấy dốc tinh tấn tu tập, giống như thời xa xưa các bậc tu học đã hành hóa độ sinh, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là đứng vững và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như người thực hiện tâm nhân ái, cứu độ đối với chúng sinh ở các nẻo ác, dẫn dụ họ từ những hiểu biết về cõi sinh tử để nhằm vượt ra khỏi, như có được phước báo thấy đỉnh tướng của Phật, đó là Bố thí.
Gặp đời không có Phật, kẻ hành đạo cũng dốc thực hiện để khai hóa muôn người khiến họ đạt được mọi đối tượng tốt đẹp, cũng như thời xa xưa Thánh vương Ma-điều đã đem tâm từ giáo hóa khắp thiên hạ, đó là Trì giới.
Luôn thể hiện tâm nhân hòa, không hề khởi tâm giận dữ như Bồ-tát Sằn-đề-hòa đã từng cắt đứt tay chân tai mũi của mình để bố thí mà không dấy tâm sân hận, đó là Nhẫn nhục.
Dốc sức tinh cần, đối với những trường hợp khó chế ngự nắm giữ, rốt cuộc đều được thông suốt trôi chảy, cũng như trong biển lớn có ngọc báu Như ý, theo chỗ mong cầu của mình mà liền đạt được sở nguyện, đó là Tinh tấn.
Nẻo tu tập các pháp thiền định, như ở nơi cung điện hóa độ đám người quý tộc, khiến họ phát tâm Bồ-đề vượt hơn hẳn mọi người khác, cũng như thái tử Sư Tử tự tại trong công việc giáo hóa dẫn dạy mọi người, khác nào gió thổi cuốn đám cỏ lướt theo, đó là Nhất tâm.
Như đi vào ánh sáng của Bậc Giác Ngộ, mọi cảnh giới của sự hiểu biết thảy đều lìa bỏ hết, có thể đem ánh sáng ấy đến cho nhiều người vốn có duyên may, cũng như ngày xưa có vị vua đem cả thân mạng mình để bố thí, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là thích ứng với tinh tấn mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đem y phục, vật dụng cứu giúp cho mọi chúng sinh giống như con rùa chúa ở nơi biển lớn thường cứu nguy cho kẻ gặp nạn, đó là Bố thí.
Đường hướng phụng trì chánh pháp cũng như sư tử cùng đám quyến thuộc vây quanh, cứu giúp các khách buôn bán cũng lại như vậy, đó là Trì giới.
Chỗ lãnh hội về sự nhu hòa cũng như kẻ Phạm chí muốn đến hại vua nhằm lấy thủ cấp liền nhận được ân huệ, đó là Nhẫn nhục.
Nẻo dốc tinh tấn tu tập như có người con Phạm chí tên là Tư Nghĩa lìa bỏ năm chốn dục lạc để cứu giúp người khác cùng khuyến độ họ, đó là Tinh tấn. Thực hành các pháp thiền định như A-ly-niệm ở nơi học phái ngoại đạo từng cứu giúp đệ tử cùng với những người khác, đó là Nhất tâm.
Đem các hành động của Bậc Giác Ngộ, để hóa độ cho vô số trăm ngàn chúng sinh, cũng như Điểu vương cứu giúp mà không cầu trả ân, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là do nhiều báo ứng mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như do lòng thương đối với người đời mà tạo mọi điều kiện để cứu giúp, cũng như lìa chốn cấu uế để khiến chúng trở nên trong sạch, đó là Bố thí. Chỗ phụng hành hết mực, trụ nơi cõi Phạm thiên, vì con người ở cõi Diêm-phù-lợi nhằm tạo lập cái gốc của đức khiến họ được đi đến với chánh pháp, đó là Trì giới.
Thể hiện tâm nhân hòa đối với chúng sinh không tiếc đến thân mạng mình, cũng như ở nơi biển lớn trông thấy thuyền bị hư hoại, có thể tự hiến thân để cứu mọi người vượt khỏi tai họa, đó là Nhẫn nhục.
Nẻo hành hóa tinh tấn nhằm khai hóa vô số chúng sinh cầu đạt được những thành tựu cũng như bậc Đạo sư tên là Phước Sự đi vào biển để tìm châu báu cứu giúp kẻ cùng khốn, đó là Tinh tấn.
Dùng các pháp thiền định thể hiện lòng thương xót đối với mọi người mà thực hành việc khuyến trợ, cũng như vị đồng tử tên là Ý Nghĩa ở trong tám vạn năm phụng hành theo tâm Từ đem lại an lạc cho chúng sinh, đó là Nhất tâm.
Như dùng ánh sáng của Bậc Giác Ngộ để thấu tỏ về đời hiện tại, đem trí tuệ cứu đời, do từ trí tuệ ấy mà tỏ ngộ diệu lý không–vô, như Tôn giả Tubồ-đề từ những thí dụ mà lãnh hội thấu đạt diệu lý Không, đối với mọi hiện tượng ngoại giới đều có thể phân biệt nhận rõ, người làm công việc khuyến trợ ấy nhận lấy báo ứng còn vượt hơn nữa, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là không mong cầu báo ứng tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Về trường hợp cứu giúp không hề nhận sự báo đáp, cả trong quá trình tu tập cho đến khi giải thoát. Cũng như chiếc lọng to lớn có thể che chở cho đông đảo kẻ cần, Bồ-tát tu các pháp Độ vô cực cũng như thế, nhờ đó hằng hà sa số chúng sinh được hóa độ, đó là Bố thí.
Nẻo phụng trì hành hóa giáo pháp là nhằm dứt sạch các lậu, đạt pháp không thoái chuyển, thu tóm thọ nhận để cứu giúp che chở khắp cả, đó là Trì giới.
Luôn thể hiện tâm nhân hòa, chưa từng dấy tâm sân hận cho đến khi thành tựu Phật đạo, đó là Nhẫn nhục.
Con đường dốc sức siêng tu có thể hy sinh cả thân mạng, hết thảy muôn vật đều nhằm để cúng dường Tam bảo, đó là Tinh tấn.
Thực hành các pháp thiền định như Đức Phật an tọa nơi gốc cây Bồ-đề dùng tụng kệ để tuyên giảng ca ngợi cùng tuân phụng các pháp quán tưởng, do đấy mà thực hiện việc cứu giúp, đó là Nhất tâm.
Tuân thừa nẻo sáng của bậc Thánh, khỏi phải bàn bạc dài dòng về ánh sáng của đạo, cũng như nơi biển cả có cây Xá hòa lá hết sức thơm dùng để trị bệnh, Bồ-tát cũng như thế, dùng hương thơm đạo đức hóa độ muôn loài khiến chúng đều phát tâm đạo lớn lao, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là dứt mọi vui thú mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Chỗ cứu giúp chúng sinh cũng như đưa họ đến nẻo giải thoát, ví như bậc Hiền giả tên là Hán Lâm hóa độ đám người mê lầm, do đấy nên thông tỏ bản hạnh của Bồ-tát với các thí dụ về những hành hóa ở đời trước ấy, đó là Bố thí.
Tính chất ngăn cấm của giới luật là nhằm đối trị với muôn ngàn nỗi âu lo về các hoạn nạn, giúp cho chí nguyện đạt đến cảnh giới vô vi, cũng như thời xa xưa, nẻo hành hóa của Bồ-tát đã từng tinh tấn đi vào biển rộng tìm kiếm vô lượng châu báu, đã được dẫn làm thí dụ, đó là Trì giới.
Sự thể hiện tâm nhân hòa ấy, như vua Ca-di từng cắt các chi phần trên thân thể mình để bố thí mà không dấy tâm sân hận, đó là Nhẫn nhục.
Đối với trường hợp siêng năng tu tập thì như Bồ-tát từng bỏ cung điện ra khỏi kinh thành Caduy-la-vệ không một ai hay biết, thực hiện bình đẳng, nhập chánh định thành Bậc Giác Ngộ, đó là Tinh tấn.
Chỗ thực hành các pháp thiền định gồm đủ bốn phẩm, dốc tu phạm hạnh, đem tâm Từ bi vui vẻ cứu giúp che chở, đó là Nhất tâm.
Như dùng trí tuệ tu pháp Độ vô cực đạt được thành tựu cũng khó khăn, chẳng khác nào ở ngay đời này thực hành các pháp chánh thọ, tâm luôn gắn liền với định, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là luôn tinh tấn tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đạt đến nơi chốn dừng dứt an định, lần lượt đem mọi ân ích cứu giúp chúng sinh đang gặp phải khổ ách tai nạn, đó là Bố thí.
Nẻo hành hóa luôn thận trọng, như sinh trong loài rùa từng là rùa chúa thường tự bảo vệ thân mạng mình cùng cứu giúp kẻ khác, đó là Trì giới.
Nơi chốn thể hiện tâm nhân hòa là nhằm gần gũi với mọi hành động của chúng sinh hướng họ về việc giữ gìn các nghiệp về thân, khẩu. Cũng như bậc Hiền giả từng thể hiện tâm Từ bi nhẫn nhục, chặt đứt các chi phần trên người mà vẫn không mang tâm thù hận, đó là Nhẫn nhục.
Dốc tu, siêng năng, lúc Phật xuất hiện ở đời luôn được gặp Phật cũng như giáo pháp bình đẳng của Như Lai thể hiện nơi ấy tướng Tam-muội đối với tất cả mọi hành xử, trong ba ngàn năm chưa từng bỏ dở hoặc biếng trễ, đó là Tinh tấn.
Gọi là thiền định, như ở nơi cung điện giữa đám ca kỹ thể nữ mà vẫn thường tu thanh tịnh dứt mọi phóng dật, đó là Nhất tâm.
Thuận theo trí tuệ, thường ở nơi cõi sinh tử, mỗi mỗi nơi chốn hành hóa nhằm đạt đến đều hay che chở các ngã, từ đấy khiến tỏ ngộ được diệu lý vô ngã, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ nơi ánh sáng soi tỏ mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
–Như đem hương hoa, không phải để tô điểm mà là để dâng lên cúng dường chư Phật, Bồ-tát, đó là Bố thí.
Nẻo hành hóa luôn tỏ ra thận trọng, thương xót đến kẻ khác, cũng như chim bay trên không trung, thân bay đi rồi thì không còn nơi chốn nào hâm mộ, ưa thích, đó là Trì giới.
Tâm nhân hòa luôn bày tỏ, nhân đấy mà thấu đạt các pháp là không, dẫn đến sự việc thâm nhập vào kho tàng chánh pháp, đó là Nhẫn nhục.
Dốc sức xây dựng cầu cống để cứu giúp các trường hợp nguy khốn, khó khăn, đó là Tinh tấn.
Nẻo tu tập thiền định như kiếp xa xưa lúc Bồtát mới bắt đầu phụng hành, thâm nhập đạo hạnh, đó là Nhất tâm.
Con đường nương theo bậc Thánh giác ngộ để tu tập là nhằm dấy khởi phát triển pháp nhẫn, như hai vị Đồng tử luôn giữ gìn tâm mình như giữ lấy mảnh đất quý giá, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là từ vô lượng ánh sáng mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như dùng các phương tiện quyền xảo mà ứng dụng vào các trường hợp cứu giúp, nhân đó được phước báo trông thấy ánh hào quang lớn lao của Đức Phật chiếu tỏa khắp vô số quốc độ của chư Phật, đó là Bố thí.
Dốc sức gắng tu tập là nhằm khuyến trợ để đạt đến pháp nhẫn bất khởi, đó là Trì giới.
Như kẻ nhân hòa luôn khuyến trợ về việc lãnh hội hình tướng của các pháp mà không hề tham vướng, chấp giữ, đó là Nhẫn nhục.
Đối với việc tinh cần tu học nhằm phụng hành diệu lý Không của các pháp, khuyến trợ mọi người quy ngưỡng về diệu lý không–vô ấy của đạo lớn, đó là Tinh tấn.
Thực hành các pháp thiền định là nhằm giúp đỡ, giáo hóa chúng sinh luôn dứt trừ mọi lười nhác bê trễ dẫn đến việc kiên định không thoái chuyển, đó là Nhất tâm.
Nẻo tu tập theo Bậc Giác Ngộ là an trụ nơi Địa thứ tám, ở nơi ấy nhằm khuyến hóa muôn loài, không gì là không vâng theo, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là quả báo đem lại sự an ổn, sáng tỏ mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đi đến với thế giới loài ma, lúc sắp mạng chung, sự báo ứng ấy thật rõ rệt. Cũng như từ cõi trời Đâu-thuật hốt nhiên mất đi và có mặt ở cõi đời, khai hóa đám ngạ quỷ, dứt trừ mọi nỗi đói khát, nguy khốn, đó là Bố thí.
Hàng phục cõi ma, thể hiện rõ tâm Từ bi, xua bỏ mọi thứ trói buộc thân mạng cũng như thoát khỏi nẻo tội lỗi, khổ ách, giống như thời xa xưa vị thái tử con một bậc quốc vương tên là Tu-lại đã từng giải thoát mọi khổ não âu lo ràng buộc, đó là Trì giới.
Nẻo hành hóa luôn thực hiện nhân hòa, như ở trong thế giới loài cá, phải tạo sự an ổn đối với các loài thủy tộc lớn, như trạch, sấu, nên sẵn sàng hiến thân để chúng được vui vẻ no bụng, đó là Nhẫn nhục.
Dốc siêng năng tu tập, như đối với đám thể nữ trong vương cung, xem đấy như là nơi chốn đầy những sợ hãi, nguy khốn, khó khăn, nên bày tỏ lòng thương xót mà tế độ, đó là Tinh tấn.
Nẻo tu tập các pháp thiền định, như ở thời kỳ đầy những bệnh dịch lan truyền phải dùng thuốc thích hợp để trị liệu. Giống như về thời xa xưa có vị Đồng tử đã tạo được lợi ích lâu dài, dùng năm vị đầu thủ để cứu giúp dân chúng ở cõi Diêm-phùđề tránh khỏi các nẻo tà kiến cùng những điều sai trái, đó là Nhất tâm.
Đem ánh sáng giác ngộ của bậc Thánh ấy cứu giúp tất cả muôn loài. Cũng như về thời xa xưa nêu thí dụ về năm trăm người khách buôn, đem năm trăm ngọc nữ cùng với số ngọc nữ khác, đến làm người dẫn đường giúp cho năm ức người, dốc tâm túc trực giữ gìn, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là không trở lại và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đã có các trường hợp cần cứu giúp, chẳng nên vui thích với nẻo hành hóa của bậc Thanh văn, Duyên giác, nguyện đạt đến quả vị Bồ-đề vô thượng, đó là Bố thí.
Chỗ tuân phụng giới luật luôn tỏ ra thận trọng, quán tưởng về mọi diệu nghĩa, dứt hết mọi sự biếng trễ, đó là Trì giới.
Luôn thể hiện tâm nhân hòa, có thể thông suốt trong quá trình tu tập đạt đến cứu cánh, không mang tâm sân hận, đó là Nhẫn nhục.
Tu tập, hành hóa luôn theo đúng nẻo, sử dụng các phương tiện thích hợp, luôn cứu giúp, chỉ dẫn khiến dứt mọi phóng dật, đó là Tinh tấn.
Tu tập các pháp thiền định là nhằm làm sáng tỏ diệu nghĩa trong kinh văn nhưng không rơi vào chốn mê loạn, đó là Nhất tâm.
Đi theo con đường của Bậc Giác Ngộ đạt đến trụ thứ bảy cũng là quả vị bất thoái, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là vì sự vui thích an lạc mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Đối với những nơi chốn cứu giúp nên dùng giáo pháp để giải nạn độ chúng khiến họ phát tâm cầu đạo vô thượng, đó là Bố thí.
Dùng mọi hành động để hỗ trợ đạo pháp trong thời Phật xuất hiện ở đời, nêu giảng về các lẽ báo ứng mà độ thoát muôn loài, cũng như về thời xa xưa có thái tử Thế Chủ đã từng cứu giúp bao kẻ khốn cùng, đó là Trì giới.
Nẻo tu tập luôn theo đường nhân hòa, như công lao trị nước của vị quốc vương đã đem lại an lạc thuận hợp cho muôn dân, như vậy thì thân mình được an lạc mà bao kẻ khác cũng đạt được điều ấy, cho nên tất cả những gì thích hợp cho sự an lạc của mọi người thì cũng thích hợp cho bản thân mình, đó là Nhẫn nhục.
Con đường dốc sức siêng tu nhằm đạt được các pháp Tổng trì, sự biện tài vô lượng, đó là Tinh tấn. Tu tập thực hiện thiền định là nhằm để khuyến trợ cho quá trình đạt đến giác ngộ, phước báo từ công đức ấy có thể khiến cho chúng sinh được an lạc, đó là Nhất tâm.
Nương theo ánh sáng của Bậc Giác Ngộ mà tu tập thể hiện nơi sáu quả vị trụ, từ pháp nhẫn nhu thuận cho đến pháp không thoái chuyển, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là từ sự tươi tốt, trong lành tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đối với các trường hợp dấy khởi phát huy đạo pháp, không hề có sự nương cậy dựa dẫm, cũng không có tưởng chấp về phước báo ban cho chúng sinh, đó là Bố thí.
Con đường tu tập luôn cẩn trọng, thường giữ vững lòng tin sâu sắc, dẫn đến việc thực hiện bảy Giác ý, giác ngộ những điều mình còn mê lầm, đó là Trì giới.
Tu hành thể hiện lòng nhân hòa, luôn nhớ nghĩ đến chúng sinh với tâm Từ bi, dứt bỏ mọi tham đắm luyến tiếc dấn thân mạng mình, đó là Nhẫn nhục.
Chí nguyện của quá trình tu là tuyển chọn các pháp họp lại, để dẫn tới việc thực hiện một cách thấu đạt các pháp Giác ý, đó là Tinh tấn.
Như dùng các pháp thiền định tư duy là nhằm dứt bỏ mọi nẻo nhớ nghĩ vướng bận, mà cũng không phóng dật, đó là Nhất tâm.
Chỗ nương theo ánh sáng của bậc Thánh là nhằm đạt được Phật đạo để hóa độ hết thảy chúng sinh, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là thành tựu các pháp thế gian mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đối với những trường hợp cứu giúp đem lại vô số báo ứng khiến đạt được sự an lành hoàn toàn cũng như không hề gặp lại các thứ hoạn nạn, đó là Bố thí.
Sở dĩ luôn cẩn trọng trong quá trình hâm mộ mong cầu đạo pháp là nhằm thực hiện theo tám con đường chân chánh, cho đến khi đạt được trí tuệ bình đẳng, đó là Trì giới.
Luôn nhớ nghĩ về nhân hòa, không nghi hoặc diệu nghĩa của đạo, quyết phá trừ bao lớp lưới mê vây bủa, đó là Nhẫn nhục.
Con đường siêng năng tu tập đối với giáo pháp trong hiện tại là nhằm đạt được sự an định lâu dài, đó là Tinh tấn.
Chỗ gọi là thiền định tư duy chính là sự tinh tấn thực hiện cái gốc của nẻo tịch diệt chánh thọ, đó là Nhất tâm.
Đi theo đúng con đường giác ngộ của bậc Thánh. Mọi tạo tác đã được thực hiện trọn vẹn, thọ nhận nẻo dừng nghỉ của bốn Ý, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là nhằm đem lại thanh tịnh cho đời mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Dùng con đường hành hóa để cứu độ muôn loài trong khắp tam thiên thế giới từ khởi đầu cho đến chung cuộc vẫn theo một tâm không khác, đó là Bố thí.
Từ khởi điểm của cuộc sống trở đi, luôn nhằm đem đến an lạc cho hết thảy muôn loài, con đường hành hóa luôn quán xuyến đến chúng sinh khắp trong ba cõi, đó là Trì giới.
Từ lúc mới phát tâm Bồ-đề về sau, luôn dốc sức giáo hóa quần sinh, đạt đến chỗ không có nơi đến, khiến thông tỏ diệu lý “vô sở trụ”, đó là Nhẫn nhục. Khiến cho tất cả chúng sinh trong Tam thiên thế giới cùng tinh tấn học đạo giải thoát, như lúc mới phát tâm xuất gia học đạo nên sức mạnh của tâm ấy không gì có thể cản nổi, đó là Tinh tấn.
Gọi là thực hành các pháp thiền định chính là nhằm khiến cho chúng sinh thu giữ được các nẻo vọng động của ý, chuyên chú vào kinh pháp mà dứt bỏ phóng dật, đó là Nhất tâm.
Đem ánh sáng của Bậc Giác Ngộ soi tỏ đến tận cõi địa ngục nhằm cứu độ bao nỗi khổ ách của chúng sinh bị đọa ở cõi ấy, dùng ngôn ngữ để nêu bày giảng giải về kinh sách của đạo giúp họ đạt được ánh sáng của chánh pháp, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là do thành tựu về chủng loại mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Về các trường hợp cứu giúp luôn đem quyến thuộc tạo sự hòa hợp với tài sản lớn lao vô tận, đó là Bố thí.
Nẻo đường hành hóa luôn thận trọng, đạt được hòa hợp với quyến thuộc mà dứt mọi tội lỗi, tai họa, đó là Trì giới.
Chốn tu tập nhân hòa cũng luôn thể hiện tâm ấy đối với từng đó quyến thuộc, mỗi mỗi người đều được an ổn, không thể là những kẻ phá hoại, đó là Nhẫn nhục.
Như tu tập có những liên hệ với quyến thuộc thì không nên khiến họ đi vào con đường buông thả phóng dật, mỗi mỗi người đều thực hiện đầy đủ chức nghiệp của mình, luôn dốc tâm không bê trễ, đó là Tinh tấn.
Tuân phụng các pháp thiền định, đối với các trường hợp giận dữ, tranh biện đều khiến được hòa hợp dẫn tới sự hiểu biết sáng suốt đối với quyến thuộc, đó là Nhất tâm.
Tu tập theo Bậc Giác Ngộ cũng khiến cho tất cả quyến thuộc đều có được trí hiểu biết sáng suốt dứt mọi nẻo u tối che phủ, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là trở thành quyến thuộc và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như ở trong năm trăm năm dốc tu giáo hóa khuyên dẫn nơi các chúng hội lớn khiến họ phát tâm Bồ-đề, đó là Bố thí.
Nẻo phụng hành luôn thận trọng, khuyến khích việc hòa hợp, chung đồng, đối với vô số chúng nhân không tạo ra sự tranh cãi phiền phức, như hàng quyến thuộc của Phật, đó là Trì giới.
Chỗ thể hiện tâm nhân hòa là vì nhằm khai thác vô số kho báu của chúng sinh, cũng như ngày xưa, nơi biển có một cá lớn là Ma-kiệt, chỉ có nước ở biển rộng mới có thể dung nạp làm chỗ sinh sống của nó. Nhằm đạt đến cứu cánh là đi từ khởi đầu đến chung cuộc, như có bạn cùng đi thì luôn xem như cá trong giếng, đó là Nhẫn nhục.
Con đường siêng năng tu tập chính là nhằm phần lớn vào việc giúp đỡ mọi người dứt trừ tham dâm, giận dữ, si mê, cũng như ở trong biển cả có ẩn giấu ngọc báu Minh nguyệt, theo thời gian mà làm cho nước biển giảm xuống hay tăng lên, đó là Tinh tấn.
Nẻo thực hiện các pháp thiền định như A-lyniệm đã từng học hỏi khắp các phái ngoại đạo về những pháp thuật tinh diệu. Luôn thương xót chúng sinh mà khuyến hóa họ được sinh lên cõi Phạm thiên, đó là Nhất tâm.
Tu tập theo nẻo Bậc Giác Ngộ thường thương xót đến chúng sinh khắp chốn. Cũng như Tôn giả Tu-bồ-đề trông thấy một người lạ đang đuổi bắt con nai chúa, có năm trăm người thân của ông ta đang đứng chắn lối nơi chỗ hiểm yếu khiến nai khó thoát, Tôn giả liền tìm cách cứu thoát nai chúa kia, nhân đó mà hóa độ hết thảy chúng sinh, tạo lập mười điều thiện, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là không hủy hoại quyến thuộc và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như lìa bỏ lối nói năng hai chiều, ngôn ngữ chí thành chẳng tạo sự chống đối làm rối loạn phước đức, đó là Bố thí.
Luôn mang tâm Từ bi dứt mọi nẻo mưu hại hiểm độc, danh tiếng đó mà xa gần đều biết, không ai là không yêu mến, kính mộ, đó là Trì giới.
Gọi là nhân hòa tức là luôn có tâm bình đẳng, tỏ lòng thương xót đối với chúng sinh mà không thiên lệch theo bè nhóm, đó là Nhẫn nhục.
Sở dĩ tinh cần tu tập không phải là vì chuyện ăn mặc, mà chính là nhằm dẫn dắt giáo hóa chúng sinh hết lòng đối với đạo pháp, đó là Tinh tấn.
Thực hành các pháp thiền định tư duy là nhằm đạt được các pháp Tổng trì với vô số biện tài, đó là Nhất tâm.
Nương theo Bậc Giác Ngộ để đạt đến giải thoát cởi bỏ hết thảy mọi thứ trói buộc, không còn một chướng ngại nào, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là dứt trừ mọi trần cấu đem lại sự trong sạch và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đối với trường hợp giảm sút về công đức cần khiến cho được tăng thêm để nhằm trị liệu các thứ bệnh tật đem lại an lạc cho khắp mọi nơi chốn, đó là Bố thí.
Hoặc ở vào các hoàn cảnh khó khăn trở ngại không thể tự mình vượt qua được, thì nên tạo mọi sự cứu giúp cần thiết khiến cho tâm được khai mở, thông tỏ, đó là Trì giới.
Trong những lúc bị các bậc sư phụ, tôn trưởng quở trách hoặc mắng mỏ cũng luôn tỏ thái độ cung kính quy thuận. Không ôm lòng sân hận, đó là Nhẫn nhục.
Dốc sức tu tập là nhằm chế ngự tâm theo một mẫu mực chân chánh, từ đấy dẫn tới việc trị liệu các thứ bệnh tật cũng như dẫn dắt giáo hóa muôn loài, kể cả bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Thanh tín sĩ, Thanh tín nữ, đó là Tinh tấn.
Như khi mẹ hiền bị đau ốm phải thường xuyên chăm sóc trông nom, cắt đặt sai khiến người lo về các thứ cần thiết như thuốc men, đồ ăn thức uống, đó là Nhất tâm.
Hoặc đem ánh sáng của Bậc Giác Ngộ, vì vô số chúng sinh mà xua tan mọi thứ mê lầm nghi hoặc, khiến cho mỗi người đều được khai mở, thông đạt quy ngưỡng về đạo Chánh giác, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là quán tưởng về các quốc độ mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Luôn mang tâm nhân từ, không đem con mắt mưu hại xấu xa mà nhìn mọi người, đó là Bố thí.
Như tâm luôn tự tại, dứt mọi vướng mắc cùng bao thứ phủ che, tâm niệm luôn thể hiện sự thận trọng, đó là Trì giới.
Tánh thể hiện tâm nhân hòa hết mực, xem mọi chốn oán địch như nhà mình, nhớ nghĩ đến họ như nhớ về con thơ không hề mang tâm độc hại, đó là Nhẫn nhục.
Gồm đủ thần thông, trong ngoài đều thông suốt, xem xét, cùng giáo hóa khắp mười phương, không hề nửa chừng mà biếng trễ bỏ dở, đó là Tinh tấn.
Như tu tập đạt được Thiên nhãn, nhận thấy tất cả mọi nẻo sinh tử trong năm đường, đó là Nhất tâm.
Hoặc như trong vô số đời tâm ý luôn nhu hòa, ngôn từ hòa nhã, nhận rõ ánh sáng giác ngộ của bậc Thánh, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là nêu bày thệ nguyện và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đem các công đức đã được báo ứng để khuyến trợ chúng sinh nhờ đấy họ được thọ nhận công đức, đó là Bố thí.
Hành hóa luôn tỏ ra cẩn trọng nhằm tiêu diệt mọi thứ chướng ngại mà không bị trói buộc ngưng trệ, đó là Trì giới.
Như đối với mọi âm thanh lãnh hội được thảy đều không tham đắm, vướng chấp, thấu đạt mọi âm hưởng đều là không để nhằm dấy khởi tâm nhân hòa, đó là Nhẫn nhục.
Dốc chí siêng năng tu tập ngày ngày mỗi tăng tiến cho đến đạt được điều chưa từng có là hội nhập với đạo Bồ-đề vô thượng, đó là Tinh tấn.
Như đem bốn tâm vô lượng là Từ, Bi, Hỷ, Hộ (Xả) cứu giúp đối với hết thảy chúng sinh mê lầm, đó là Nhất tâm.
Dùng ánh sáng giác ngộ khai mở dẫn dắt chúng sinh vì bao mối lo âu chán nản mà không thể tiếp cận được, khiến họ tuân phụng các pháp nhu thuận, hiền hòa, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là dứt mọi phóng dật tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như trong các trường hợp giúp đỡ cần khuyến trợ về đạo đức, tránh các nẻo hành động thế tục, đó là Bố thí.
Hoặc như những người quyến thuộc tỏ ra khó khăn trong việc giúp đỡ phụng hành đạo nghiệp, có người đến theo từng chi tiết mà giải bày rõ, người nghe không dấy tâm độc hại mà khởi tâm từ để khuyến trợ đạo pháp. Như người săn bắn tâm mang nhiều nỗi oán hận ràng buộc, nhờ có người đến theo từng chi tiết giải bày rõ khiến cho người săn bắn kia tâm trở nên vui vẻ, không còn mang tâm sát hại nữa, đó là Trì giới.
Đem tâm nhân hòa nêu giảng về nghĩa lý của điều thiện, cho dù lao vào lửa dữ có thể nguy hiểm đến thân mạng cũng không lo lắng do dự, đó là Nhẫn nhục.
Con đường siêng năng tu tập là nhằm đạt đến giải thoát, nên quan sát đối với các pháp hữu vi cũng như ánh lửa cháy bùng lên rồi dập tắt, nên dùng chánh pháp mà dứt bỏ chúng, đó là Tinh tấn. Gọi là thiền định tư duy là nhằm diệt trừ tất cả các thứ phiền não trần cấu đã tạo được một thế giới an lạc cho riêng mình, từ đấy đem các giới pháp cứu độ chúng nhân mê muội, đó là Nhất tâm.
Ánh sáng của trí tuệ dứt mọi nơi chốn ưa thích, đem lại tâm bình đẳng, cũng như vị quốc vương ban cho con mình mà có được đất đai, khiến cho việc ấy không tội lỗi mà có thêm uy lực, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là xoay chuyển khắp chốn mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như có được nhiều tài sản cơ nghiệp, nên dùng tâm từ tăng thêm sự giúp đỡ mọi người mà không mang tâm mưu hại, đó là Bố thí.
Nẻo hành hóa luôn thận trọng, không theo ngả dua nịnh để tự đề cao bản thân mình, đó là Trì giới. Tánh luôn thể hiện nhân hòa trong việc tạo tác các công đức, không cho là chán ghét đối với việc lìa bỏ cung điện không chút tham luyến mà chính là theo thời để thi ân huệ, đó là Nhẫn nhục.
Sở dĩ tinh cần tu học là nhằm phụng hành các pháp bình đẳng dứt mọi phóng dật, đó là Tinh tấn.
Như thực hiện các pháp thiền định là nhằm khẳng định tính chất không thoái chuyển, không rơi vào các pháp không thích hợp với nẻo an nhiên tĩnh lặng, đó là Nhất tâm.
Đi theo nẻo giác ngộ của bậc Thánh để kiến lập tất cả các pháp, kiên trụ chẳng động chuyển, không dừng lại với các pháp của hàng Thanh văn, Duyên giác, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là nhằm đạt đến cõi diệt độ mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như có thể khiến cho chúng sinh ở cõi ngạ quỷ không đi theo con đường tham lam keo kiệt, nhận thấy bao nỗi khổ của chúng sinh mà dấy tâm thương xót muốn cứu giúp, đó là Bố thí.
Tâm nhận ra mọi hành động gây nên chướng ngại của chúng sinh mà bày tỏ tâm Từ bi chỉ dẫn cho họ con đường giải thoát, đó là Trì giới.
Nẻo thực hiện tâm nhân hòa như nghe những nỗi khổ ở cõi địa ngục, trông thấy các hình sắc xấu ác, đem bốn tâm vô lượng mà thương xót, giáo hóa, đó là Nhẫn nhục.
Chỗ phụng hành dốc sức tu tập là nhằm dứt sạch các thứ tà kiến, thể hiện tâm Từ bi rộng lớn, cũng như về thời xưa, có vị A vương tử tự là Cưuna-la đã từ bỏ đám thể nữ, chịu nhục mà không oán hận, đó là Tinh tấn.
Như cửa giải thoát của thiền định là đạt được an lạc ở ngay cõi tịch tĩnh ấy, cũng như ngày trước Bồ-tát an tọa bên gốc cây Diêm-phù, đạo đức lồng lộng, được bóng cây che mát toàn thân mình, đó là Nhất tâm.
Đem ánh sáng giác ngộ của bậc Thánh để diệt trừ tham dâm, giận dữ, si mê. Như vua bỏ nước xuất gia tìm đạo, sự kiện ấy khiến dân chúng đều xúc động sững sờ và mặc cho những người thân gào khóc, nhà vua vẫn không bày tỏ sự luyến tiếc, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là từ cảnh phú quý hơn người mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Đối với mọi nơi chốn lãnh hội hiểu biết nên dùng để cắt đứt mọi ràng buộc của cõi tình, chỗ yêu mến đối với các thứ châu báu nên dùng để thi ân, tạo phước đó là Bố thí.
Tu tập luôn thận trọng, dứt mọi thái độ cao ngạo, luôn khiêm tốn, cung thuận, ngưỡng kính Tam bảo Phật, Pháp, Tăng, đó là Trì giới.
Không cầu danh vọng, không chuộng nẻo vinh hoa của thế tục, chỉ lấy đạo pháp làm lẽ sống tối thượng, đó là Nhẫn nhục.
Siêng năng tu tập theo đúng đường nhằm phụng sự các bậc tôn trưởng, cha mẹ, thầy bạn, đó là Tinh tấn.
Sở dĩ thực hành thiền định là nhằm dẫn dắt giáo hóa chúng sinh. Cũng như về thời xa xưa Câu-tu ma vương có vị Thái tử luôn cứu giúp khắp chốn, thường đi đến khắp mọi xứ sở để phụng hành chánh pháp, bản tánh luôn thanh tịnh, chưa từng dấy tâm độc hại, đó là Nhất tâm.
Như thực hiện việc xuất gia học đạo, mong đạt Trí tuệ ba-la-mật nên tinh tấn đi theo đúng nẻo của Bậc Giác Ngộ, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là từ chỗ nhận ra chốn thân cận của quyến thuộc mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đối với các nơi chốn cứu giúp nên khuyến khích giáo hóa dẫn dắt họ đến với chánh pháp, yêu thích việc xuất gia tu học thì dốc chí rời bỏ tất cả, đó là Bố thí.
Luôn tỏ ra cẩn trọng trong việc thực hiện đạo pháp Từ bi, đối với hàng con cháu thì nhằm khai hóa nghĩa lý, nêu bày chánh pháp vô thượng, đó là Trì giới.
Thể hiện tâm nhân hòa cho dù phải vất vả khổ nhọc, luôn dốc tâm giảng dạy dẫn dắt chẳng hề tính kể số lượng, cũng không biết chán nản, đó là Nhẫn nhục.
Con đường dốc chí tu tập là nhằm lãnh hội đạo pháp một cách thấu đáo, thấy những kẻ chưa đạt được thì nên tìm phương tiện để diễn bày nêu rõ giúp cho tâm trí họ được thông tỏ, đó là Tinh tấn.
Sở dĩ thực hành các pháp thiền định tư duy là nhằm giúp cho chúng sinh nhận rõ về tội phước, từ đó hóa độ họ khiến dứt mọi vọng động, cũng giống như về thời xa xưa có vị Chuyển luân thánh vương Thiện Mục tu các pháp thiền định, đó là Nhất tâm. Cũng giữ gìn ánh sáng của Bậc Giác Ngộ, hành giả và nẻo giác ngộ ấy cùng là một, như vậy có thể tự chế ngự thân tâm, không phạm tham dục, từ đấy mà cứu giúp, nêu bày, thuyết pháp khiến cho mọi người được đứng vững trong đạo, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là tâm luôn ghi nhớ và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như có thể tự hàng phục tâm mình không theo các thứ tà kiến, rời bỏ khỏi vùng chướng ngại khốn khó, không còn bị nẻo tham lôi kéo, đó là phước báo của Bố thí.
Chỗ tuân giữ cùng thực hiện các giới luật luôn đầy đủ là nhằm góp sức làm cho Tam bảo không bị gián đoạn, đạo pháp hưng khởi, cũng là để giáo hóa hạng chậm chạp, đó là phước báo của Trì giới. Gọi là nhân hòa tức là tâm luôn thể hiện sự an nhiên, thuận hợp, thân tuy gặp cảnh khổ, nhưng do nghe thấy rộng khắp mà có thể nhẫn chịu mọi nỗi hoạn nạn, cũng như Bồ-tát Tu-lại bị người đến để tăng thêm mưu độc mà tâm không hề sân hận, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Nẻo đường siêng năng dốc sức tu tập là nhằm để hàng phục tâm mình vượt khỏi sự biếng trễ bỏ dở nửa chừng, cùng là giúp cho kẻ khác không còn gặp phải nguy khốn đạt được an ổn lâu dài, đó là phước báo của Tinh tấn.
Như dùng các pháp thiền định để loại trừ mọi nẻo buông thả phóng túng, lìa bỏ tham dục, đạt được sự tĩnh lự tịch nhiên vô hạn, đó là phước báo của Nhất tâm.
Đem ánh sáng của bậc Thánh giác ngộ để giữ vững các pháp của uy nghi, lễ độ, là chỗ nương tựa của tâm, từ đấy mà cúng dường mọi thứ lợi lạc, lại đem pháp thí để hóa độ cho hạng tăm tối mê mờ, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
-oOo-
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Thế nào gọi là trụ một cách vững chắc, thể hiện sự bằng phẳng, an ổn tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Thích hợp từ những vùng đất bằng phẳng cất bước đi về phía trước thể hiện việc nhớ nghĩ, ham chuộng các pháp Tam-muội, đó là phước báo của Bố thí.
Như tạo lập sự an ổn, khuyến hóa mọi người, khiến họ không còn trở lại cảnh khổ não nguy hại, dứt trọn mọi nẻo âu lo, đó là phước báo của Trì giới.
Hết thảy mọi người cũng không thể làm cho dao động, tâm không dấy sân hận, ý hòa hợp với dung mạo tươi vui, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Nẻo tạo lập của ý nguyện là nhằm phụng hành các pháp của bậc Khai sĩ, không vì sự khó nhọc nên đối với con đường hành hóa phía trước dù có chướng ngại cũng không thoái chuyển, đó là phước báo của Tinh tấn.
Phát triển, làm rõ sự hâm mộ yêu thích đạo Chánh giác Vô thượng, khiến cho chúng sinh được an vui, nên nêu bày rộng khắp các pháp thiền định, đó là phước báo của Nhất tâm.
Nêu giảng về các nẻo báo ứng của nơi chốn sinh ra, luôn được thấy chư Phật để tham vấn và thọ nhận chánh pháp của đạo lớn, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là có hàng ngàn dấu bánh xe đi lại, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đem hết thảy mọi sở hữu của chúng vật, đem từng ấy loại bánh xe dùng vào việc bố thí để đạt đến phước báo tướng bánh xe ngàn căm, đó là phước báo của Bố thí.
Hoặc như trưng bày vô số nhan sắc, mỗi mỗi đều kỳ lạ, đặc biệt, tươi đẹp tuyệt diệu, bản thân ở trong chốn ấy mà không hề hủy hoại, đó là phước báo của Trì giới.
Như tạo ra các phẩm loại khác lạ, với từng ấy loại mùi hương mà tâm không dấy khởi tham đắm, ý không hề tăng giảm, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Đối với kẻ siêng năng tu tập mà nhằm thể hiện chí nguyện kiên trì, cũng như vị Thuật sư nắm giữ một tấm bình phong to lớn, nhờ vào một chiếc bè nổi nhỏ hẹp mà nhẹ nhàng vượt qua sông cùng với đám quyến thuộc thảy đều an lành, đó là phước báo của Tinh tấn.
Hoặc như đem vầng ánh sáng chiếu tỏa rực rỡ khắp xa gần, thông suốt cả mười phương, do đó mà đạt được tự tại, đó là phước báo của Nhất tâm.
Hoặc nâng cao vầng ánh sáng lớn tỏa chiếu khiến cho tất cả mọi người đều được đội ân, sẽ đạt được nẻo sáng của Bậc Giác Ngộ, xua tan mọi thứ tăm tối, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là da thịt mềm mại tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đem văn tự nơi sách vở, loại bỏ những gì trái với nẻo tịch tĩnh vắng lặng, dùng để giáo hóa hết thảy chúng sinh, chỉ rõ cho họ về nẻo tội phước, đó là phước báo của Bố thí.
Hoặc dựa vào ngôn ngữ để giáo hóa khiến người nghe quy kính phụng hành chân chánh, không đem những ý nghĩa hư trá để dẫn dắt họ, đó là phước báo của Trì giới.
Dùng đầy đủ cái gốc của mọi công đức đi đến với bậc Thần minh thâm diệu mà không dấy tâm hủy diệt, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Như đem sự thật vượt qua mọi lỗi lầm của các thứ xấu ác, đạt đến con đường hóa độ dẫn dắt thích hợp của bậc Khai sĩ, đó là phước báo của Tinh tấn. Dứt mọi sân hận, đạt được đầy đủ công đức, dung mạo hòa nhã tươi vui, hết mực thích thú trong việc giữ gìn chánh pháp, tâm không tham đắm, đó là phước báo của Nhất tâm.
Ở ngay nơi chốn sinh tử mà vẫn tạo được an lạc hòa hợp để giáo hóa hạng ngu muội tăm tối, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là dưới bàn chân bằng phẳng tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như ở dưới bàn chân bằng phẳng nên nơi chốn đi đến không gặp khó khăn, bàn chân giẫm qua mọi nẻo không hề làm hại các loài côn trùng, sâu kiến, đó là phước báo của Bố thí.
Lúc cất bước ra đi, tâm luôn thư thái ung dung, con đường hành hóa luôn đúng pháp, thể hiện tâm nhân hòa, đó là phước báo của Trì giới.
Lúc bắt đầu khởi hành dáng dấp an nhiên uy nghi hết mực, tánh không vội vàng cũng không hề tỏ vẻ sợ hãi, hổ thẹn, đó là phước báo của Tinh tấn. Lúc cất bước lên đường phước đức lan tỏa rộng khắp ví như hư không dùng để cứu độ chúng sinh, đó là phước báo của Nhất tâm.
Nơi đáy bàn chân đầy đặn thể hiện sự sung mãn của mọi công đức phước báo rõ ràng vượt khỏi mọi giới mốc, biên vực, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là những ngón tay thon dài tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như các ngón tay dài, đẹp, chính là đức từ nhiều đời trước ở chỗ dứt sạch mọi thứ xấu ác cấu uế, đều là từ công đức của sự báo ứng do bố thí, đó là phước báo của Bố thí.
Các ngón tay thon nhọn đẹp đẽ chính do sự tích lũy dần dà một cách tương ứng, chứ không rơi vào tà loại của mọi hành xử an lạc từ thân mạng những đời trước, đó là phước báo của Trì giới.
Chính từ sự ứng hợp công đức như vậy, nên các ngón tay dài thuận hợp là biểu hiện của sự rực rỡ nhu hòa tuyệt diệu, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Đức hạnh tương ứng với những ngón tay dài vi diệu, đó là sự tích lũy dần dần của mọi nẻo tinh tế, linh hoạt, dứt hết mọi thô thiển của diệu lý nơi văn tự, đó là phước báo của Tinh tấn.
Những ngón tay dài là biểu hiện cho sự an lành, kẻ trông thấy thảy đều vui thích quy kính, không ai là không cảm nhận sự tốt đẹp, lợi lạc, đó là phước báo của Nhất tâm.
Những ngón tay ấy tươi sáng, đằm thắm, biểu hiện một cách tuần tự về sự hòa thuận, chân chánh, bình đẳng không chút vọng loạn, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là nơi chân tay có những màng da nối giữa các ngón, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Chân tay tròn đầy, bằng phẳng mà có màng mỏng giữa các ngón ấy, là phước báo từ nhiều đời trước thực hành bố thí, đều luôn dốc tâm đầy đủ trong việc cứu giúp muôn loài, đó là phước báo của Bố thí.
Như các ngón tay chân đều bằng phẳng là biểu hiện cho sự tạo lập an ổn, dứt hết nẻo bất chánh trong mọi nhận thức, tâm luôn vui vẻ, đó là phước báo của Trì giới.
Chân tay không chút tỳ vết, hết mực đẹp đẽ, thanh tịnh, là gốc của mọi hành xử nhân hòa, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Chân tay của Phật đều óng ánh màu vàng ròng là vì không bị bụi đất cũng như các thứ phiền não bám nhiễm, từ thời xa xưa đã dốc chí tu tập không hề biếng trễ, đó là phước báo của Tinh tấn.
Chân tay mềm mại mà không thô xấu, hơn nữa lại tươi sáng đằm thắm, hết mực đẹp đẽ, đó là phước báo của Nhất tâm.
Chân tay ấy tươi đẹp, rạng rỡ xinh xắn, đem so với mọi người thì đều hơn hẳn, ai trông thấy cũng đều sinh tâm hoan hỷ, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là đầu gối tròn trịa đầy đặn, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Đầu gối ấy nhô cao và thẳng chính là sự tích lũy chuyển biến dần đến chỗ tối thượng, đầy đủ khắp mọi thứ khác thường, thể hiện nơi đức hạnh thù thắng, tuyệt diệu, không ai trông thấy mà không kính mộ, quy ngưỡng, đó là phước báo của Bố thí.
Đầu gối ấy an ổn, hòa hợp, không cùng nghiêng sát với nhau, đó là phước báo của Trì giới.
Chân tay thon dài đẹp đẽ, mọi sự tiến lùi đều luôn thích ứng, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Luôn thể hiện tâm nhân từ, mọi nẻo đi đứng tới lui đều toát lên sự an ổn hòa hợp ung dung không chút hấp tấp vội vã, đó là phước báo của Tinh tấn.
Tu tập theo nẻo bình đẳng, chân chánh, không ngã theo lối tà, luôn thực hành đúng con đường tịch tĩnh an nhiên, đó là phước báo của Nhất tâm.
Mọi người trông thấy tất sinh hoan hỷ vì hình tượng luôn tươi sáng, rõ rệt, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là tịch tĩnh, ẩn giấu tu các pháp
Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Sự tịch tĩnh ẩn giấu ấy là biểu hiện của sự an định hòa hợp của bao thứ ánh sáng màu sắc rực rỡ chói lọi mà không hiện ra nơi thân hình, đó là phước báo của Bố thí.
Tính chất tịch tĩnh ấy chính là đem sự thanh tịnh làm thắm đượm tất cả muôn loài khiến thảy đều đội ân, đó là phước báo của Trì giới.
Như các lông trên thân đều xoay về phía tay phải là thể hiện cho mỗi mỗi nẻo hành xử đều bình đẳng, chân chánh, dứt mọi tà hạnh, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Đức ấy lồng lộng, ở những nơi chốn đi đến luôn ứng hiện biến hóa thích hợp để độ người, đó là phước báo của Tinh tấn.
Như ánh sáng lan tỏa khắp không một nơi nào mà không chiếu tỏ đem lại an ổn cho mọi xứ sở, đó là phước báo của Nhất tâm.
Khiến cho người khác trông thấy các điềm lành ứng hiện dẫn đến việc quy kính Bậc Giác Ngộ vô thượng, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là rốn sâu tròn, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như nẻo tu tập mỗi ngày luôn tăng tiến, từ bước đầu cho đến nẻo huyền diệu sâu xa, đạt tới đạo giác ngộ lớn lao, đó là phước báo của Bố thí.
Đức của uy thần ấy thể hiện ở sự điềm tĩnh, an nhiên, vô úy, tâm không chút vướng mắc nào, đó là phước báo của Trì giới.
Nẻo tuân phụng luôn uyển chuyển, mềm dịu sâu xa dẫn đến sự hòa hợp, bình đẳng, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Mọi hành động thường đầy đủ không hề biết sợ hãi, đó là phước báo của Tinh tấn.
Cũng như đóa hoa tươi đẹp mềm mại dịu dàng, thuận hợp an lạc, thể hiện trên sự tinh cần, chuyên nhất, không lạc vào chốn mê lầm đó là phước báo của Nhất tâm.
Rốn sâu và tròn ấy không thể hủy hoại, thể hiện cho sự đem lại lợi ích lâu dài cho tất cả muôn loài, thực hành không hề bị tổn giảm, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là nơi mỗi mỗi chân lông trên thân đều phát sinh màu sắc xanh, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Những lông ấy hướng lên trên, xoay theo phía phải thể hiện sự thanh tịnh, chân chánh, thuận lý, độc lập, đó là phước báo của Bố thí.
Như tóc có màu xanh sẫm tươi thắm đẹp đẽ, ai trông thấy cũng đều vui thích, đó là phước báo của Trì giới.
Lông trên người mềm mại, dịu mịn thể hiện sự nhuần thấm bao lớp ánh sáng rực rỡ, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Sắc diện ấy luôn trong lành tươi tắn vì đã dứt hết mọi cấu nhiễm của bụi bặm, phiền não, đó là phước báo của Tinh tấn.
Màu sắc của lông trên thân mềm mại đẹp đẽ, mỗi mỗi lông đều xoay về phía phải, đó là phước báo của Nhất tâm.
Mỗi mỗi chân lông đều đứng riêng nhau, không xen tạp, không xiên sát vào nhau, thảy đều đặn, thắng tắp, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là thân sắc ánh màu vàng ròng, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Màu sắc óng ánh ấy như màu lửa tóe lên từ vàng, đó là phước báo của Bố thí.
Tính chất mềm dịu đằm thắm của màu sắc ấy thể hiện một thân tâm đã dứt sạch mọi thứ thô bạo xấu ác, đó là phước báo của Trì giới.
Thanh tịnh không chút cáu bợn, màu sắc ấy còn hơn cả ánh sáng mặt trời mặt trăng, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Ánh sáng ấy rực rỡ chói lọi như ánh sáng mặt trời chiếu tỏa khắp chốn xa gần, đó là phước báo của Tinh tấn.
Dứt sạch mọi bụi bặm cấu nhiễm là do thân tâm luôn thanh tịnh trong sáng, đó là phước báo của Nhất tâm.
Ánh sáng ấy dịu dàng màu sắc hòa hợp một cách rực rỡ tươi đẹp, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là nơi ngực bụng giống như sư tử, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như thân tướng trọn đủ không hề thiếu mất hay giảm sút, đó là phước báo của Bố thí.
Thân gồm đủ các tướng tốt đẹp hết mực thể hiện tính chất lồng lộng của đức hạnh, đó là phước báo của Trì giới.
Thân tướng luôn thể hiện sự kiên cường, không ai có thể xâm phạm đến được, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Mọi người xem thấy thảy đều quy kính chiêm ngưỡng không biết chán, đó là phước báo của Tinh tấn.
Thân tướng ấy lớn lao mênh mông, cũng như những gì khó có thể đạt tới, đó là phước báo của Nhất tâm.
Thân tướng không gì có thể hủy hoại được vì rắn chắc như kim cương, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là thường bày tỏ điều thiện, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Thân tướng trong mọi lúc hành động đều luôn đầy đủ, sung mãn, đó là phước báo của Bố thí.
Thân tướng tôn quý, an lành viên mãn không gì có thể sánh được, đó là phước báo của Trì giới.
Đoan nghiêm, tốt đẹp tuyệt vời khiến người trông thấy đều vui mừng thích thú, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Mọi hành động tạo nên đức hạnh thể hiện sự bình đẳng đầy đủ, đó là phước báo của Tinh tấn.
Tính chất kết hợp của thân tướng, sắc màu tốt đẹp ấy cũng như từ nhiều thứ châu báu người thợ giỏi sẽ tạo nên bức họa đẹp, đó là phước báo của Nhất tâm.
Mềm mại, sáng tỏ, trong lành không chút cấu bẩn, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là phước báo có cánh tay thon dài, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như thân ấy luôn tỏa ra mùi thơm xông khắp, không bao giờ dứt, hết thảy mọi người đều nghe biết, đó là phước báo của Bố thí.
Trụ nơi chân thật an định, đúng hướng, không gì có thể lay động, đó là phước báo của Trì giới.
Thuận hợp, ung dung, vững chắc, thể hiện ở chỗ tâm không rời nẻo điều hòa, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Như đem tính chất thon dài đẹp đẽ của cánh tay so với mọi loài thì đấy là sự siêu việt khác lạ, đó là phước báo của Tinh tấn.
Bước đi khoan thai, cánh tay dài quá gối được cả trời người tôn phụng, đó là phước báo của Nhất tâm.
Hiện thân nhu hòa đằm thắm, sáng tỏ rực rỡ soi tỏ khắp tất cả, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là xương đầu gối tròn chắc, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như thân tướng ấy có đầu gối tròn trịa chắc chắn là biểu hiện cho sự thuận hợp, hòa nhã, tươi đẹp của tâm Từ bi và ý chí hòa hợp, đó là phước báo của Bố thí.
Độc lập, an nhiên, không gì có thể lôi kéo, luôn được tự tại, đó là phước báo của Trì giới.
Đầy đủ năng lực để nhận thức phân biệt, nơi chốn hành hóa luôn an lạc hết mực, dứt sạch mọi hoạn nạn, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Thân tướng cân đối, đều, thẳng, các chi thể chắc chắn, hài hòa, đó là phước báo của Tinh tấn.
Uy quang lồng lộng thể hiện nơi “Đảnh tướng vô kiến”, đó là phước báo của Nhất tâm.
Hết thảy chúng sinh xem thấy đều khởi tâm quy ngưỡng, không ai là không yêu kính, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là đầu óc dung hợp một các sung mãn, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như do sự giác ngộ dần dần đến viên mãn mà hết thảy mọi công đức đều được thành tựu, đó là phước báo của Bố thí.
Tâm an trụ vào chân lý vững chắc, luôn mang lòng hòa hợp an lạc, đó là phước báo của Trì giới.
Trong lành như ngọc minh châu tự nó tỏa sáng rực rỡ, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Như đem tâm bình đẳng mà phát huy quá trình tu tập hành hóa không hề biếng trễ, đó là phước báo của Tinh tấn.
Các nghiệp về thân, khẩu luôn nhu hòa, tâm thường an lạc yên định, đó là phước báo của Nhất tâm.
Hòa hợp nhuần đượm với vô số trường hợp phá diệt nên không một ai có thể hủy hoại được, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là khớp xương chắc như móc khóa, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như thấy mọi loài mong cầu, tâm luôn hòa thuận vui vẻ, đó là phước báo của Bố thí.
Dần dà dùng sự giác ngộ để vui vẻ xua trừ những thứ thấp kém, đó là phước báo của Trì giới. Đức hạnh lớn lao ấy nơi mỗi mỗi nẻo hành hóa đều thể hiện đầy đủ cùng khắp, khó nương tựa nơi đạo pháp mà thành tựu quá trình hành hóa, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Như đối với các trường hợp nêu bày thuyết giảng để cùng đi với sự thỏa thuận đồng ý thì thảy hòa hợp, bình đẳng để nhận lấy những hiểu biết thích ứng, từ đấy dốc chí thực hiện, đó là phước báo của Tinh tấn.
Như về ánh hào quang màu xanh sậm sáng rực, từ đấy chiếu tỏa đến tận những nơi chốn xa xôi, đó là phước báo của Nhất tâm.
Như khiến cho hết thảy chúng sinh ở thế gian bị ba thứ phiền não mê lầm trói buộc ngăn trở, đều tự mình đạt được giải thoát, nên chiêm ngưỡng không hề biết chán, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là răng lớn, trắng và trong, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như răng hết mực trắng, trong, dày khít đều đặn nhau, đó là phước báo của Bố thí.
Trắng trong, đẹp đẽ, không có chút cấu bẩn là thể hiện cho sự nhu hòa đằm thắm của lời nói, đó là phước báo của Trì giới.
Luôn thuận hợp theo thứ lớp cũng giống như đóa hoa sen trắng biểu hiện cho sự bình đẳng an ổn, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Răng hết mực trắng và rắn chắc không xen lẫn một vết đen nào, đó là phước báo của Tinh tấn.
Chỗ cứu giúp để tạo lập được sự an lạc lớn lao dứt mọi nguy khốn, đó là phước báo của Nhất tâm. Thân tướng, do tính chất mềm mại, tươi sáng đằm thắm nên khiến cho mọi loài chiêm ngưỡng cái vẻ sáng rực rỡ ấy, chưa từng tỏ ý chán nản, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là răng lớn và đều đặn, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như phần dưới của răng đều đặn bằng phẳng là thể hiện cho tính không nghiêng về nẻo tà, đó là phước báo của Bố thí.
Trên dưới đều trắng trong, đều đặn, hài hòa nên không hề có chút thô kệch, đó là phước báo của Trì giới.
Răng lần lượt khít đều nhau, không có chỗ cách, thể hiện tính chất dứt mọi thọ nhận, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Như răng ấy rắn chắc, bằng đều, không cao thấp, đó là phước báo của Tinh tấn.
Răng ấy không hư hủy, là thể hiện cho tinh thần kiên cố, dũng mãnh tốt đẹp, đó là phước báo của Nhất tâm.
Toàn bộ răng cả phần trên dưới đều bằng phẳng, hài hòa, thể hiện sự an ổn bền chắc, ai trông thấy cũng đều dấy tâm vui vẻ, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là có bốn mươi cái răng, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như bốn mươi cái răng ấy, bằng, thẳng, đều đặn không giảm là thể hiện cho sự đầy đủ sung mãn, đó là phước báo của Bố thí.
Răng không nghiêng, xiên mà hết mực thẳng hàng, đều đặn như dòng nước trong, đó là phước báo của Trì giới.
Như răng ấy đẹp đẽ, thù thắng, so với mọi người không ai sánh được, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Như răng ấy là biểu hiện cho sự thông suốt truyền đạt khắp nơi, không một chốn nào bị ngăn ngại, đều đạt an định, đó là phước báo của Tinh tấn.
Răng tạo ra mọi sự an lành, không ai trông thấy mà không đạt được nhiều lợi lạc, đó là phước báo của Nhất tâm.
Răng ấy hết mực rắn chắc, không gì có thể làm cho lay động, có khả năng đem lại vui vẻ cho tâm ý mọi người, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là phước báo có lưỡi dài rộng, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như thời gian còn là Bồ-tát, tai lắng nghe kinh điển liền có thể phân biệt để nêu bày những lời nói quan trọng, đó là phước báo của Bố thí.
Trừ bỏ phần cấu uế trên lưỡi mới có thể truyền tụng lời Phật dạy, do miệng đã thanh tịnh nên nêu giảng được diệu nghĩa, đó là phước báo của Trì giới.
Miệng thuyết giảng luôn thể hiện sự bình đẳng, dứt mọi thiên lệch theo bè nhóm, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Lưỡi hết mực dài rộng, màu sắc như hoa sen tươi thắm rực rỡ, đó là phước báo của Tinh tấn.
Tướng ấy luôn sinh ra mọi kỳ diệu, mỗi mỗi vẻ đều khác lạ, đó là phước báo của Nhất tâm.
Lưỡi như trăm cánh hoa, ánh sáng và màu sắc tươi đẹp lạ lùng, như ánh sáng mặt trời chiếu tỏa đến khắp chốn xa xôi, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là phước báo có âm thanh như bậc Phạm thiên, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Hành hóa Đại Bồ-tát cần nêu bày giảng thuyết kinh điển nên cao giọng vang lời để khiến cho mọi người được nghe, mọi nẻo đều thông tỏ không chút hồ nghi, đó là phước báo của Bố thí.
Âm vang của lời giảng thuyết thật đáng yêu kính, người nghe không ai là không hoan hỷ, đó là phước báo của Trì giới.
Có bao nhiêu thứ, loại âm thanh, thảy đều mỗi mỗi nêu bày đầy đủ, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Âm thanh dịu dàng hòa hợp thật chưa từng có, không gì có thể sánh kịp, đó là phước báo của Tinh tấn.
Âm thanh luôn điều hòa, ngôn từ an lành không hề dứt đoạn, đó là phước báo của Nhất tâm.
Hết thảy âm thanh thuyết giảng ấy đều tốt đẹp, hợp tình thương, hòa nhã, tác động sâu xa vào tâm hồn người nghe, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Đức Phật nói:
–Lại nữa, này Bồ-tát Hỷ Vương! Thế nào gọi là thân tướng của Như Lai có phước báo vuông vức cân đối, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như thân tâm luôn thuận hợp nên thường đạt được an lạc, hài hòa, đó là phước báo của Bố thí.
Khi thân hoạt động, thân, khẩu, tâm luôn an định, tịch nhiên điều hợp, đó là phước báo của Trì giới.
Như đem mười điều thiện truyền dạy làm hưng thịnh mọi nơi chốn hành hóa, chí hướng đến cõi trời, người, vì sự nghiệp đạo pháp, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Giáo hóa chỉ dẫn tất cả, khai hóa các chúng hội khiến cho không một nơi chốn nào bị sai phạm, đó là phước báo của Tinh tấn.
Âm thanh của tâm Từ bi, tiếng vang dịu dàng đằm thắm, chính là tiếng gọi tình thương đối với chúng sinh, đó là phước báo của Nhất tâm.
Âm thanh nêu giảng chánh pháp giáo hóa muôn loài dứt mọi nẻo hồ nghi, không ai là không thông tỏ, vui thích, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là trong nước miếng gồm có đủ vị thơm ngon, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đem các thứ thức ăn uống cung cấp cho hết thảy mọi nơi chốn, thì hương vị của thức ăn ấy thật là đặc biệt, khác lạ, có thể thích hợp với mọi người, đó là phước báo của Bố thí.
Ở chỗ thi ân giúp cho người được ăn uống khiến họ đạt được an lạc vui thích, dứt mọi lo khổ, đó là phước báo của Trì giới.
Người thọ nhận tâm luôn hòa đồng với người bố thí không hề dấy ý tưởng tranh cãi, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Nơi chốn bố thí luôn đầy đủ, dù nhiều ít đều phân phối bình đẳng khiến thân không bị quấy khổ, đó là phước báo của Tinh tấn.
Những khi ăn uống các thức ăn vào miệng đều là loại ngon ngọt thơm lành không hề có chút dở, kém, đó là phước báo của Nhất tâm.
Không nóng, không lạnh, mùi vị ấy luôn thích hợp mà lại rất nhẹ nhàng thanh thoát, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là hai má và hàm răng giống sư tử, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như vai và lưng rộng, bằng như hình dáng sư tử đứng riêng biệt trong ba cõi, đó là phước báo của Bố thí.
Bước đi như sư tử, giống như đóa hoa sen màu sắc hết mực tươi sáng đằm thắm, đó là phước báo của Trì giới.
Hoặc như sư tử uyển chuyển tiến bước mà nơi phía trước mặt không gì khiến cho sợ hãi lo lắng, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Sở dĩ hiện rõ cái uy thần lớn lao lồng lộng là nhằm nêu bày tính chất cao tột thù thắng, đó là phước báo của Tinh tấn.
Mọi điều được nêu giảng một cách hoan hỷ thích thú đều khiến cho hết thảy chúng sinh quy kính, đó là phước báo của Nhất tâm.
Đối với những kẻ đã tận mắt trông thấy không ai là không tự mình quy ngưỡng, sắc diện thêm phần tươi vui hơn khi chiêm ngưỡng đức độ, từ đấy tâm tôn phụng kính lễ, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là mắt có lông mi như Ngưu vương, có ánh nhìn như ánh trăng soi tỏ, do tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc đạt được phước báo?
Như đôi mắt ấy vô cùng tinh tế, linh hoạt, kéo dài ra mà tuyệt đẹp, ánh sáng như mặt trăng mới mọc, đó là phước báo của Bố thí.
Mắt đó luôn nhận thức một cách phân minh, thể hiện tính chất vòi vọi của điều lành chắc thật, không một thiếu sót hay thua kém, đó là phước báo của Trì giới.
Đôi mắt ấy trong sáng rực rỡ thể hiện một sự dịu dàng tươi đẹp thù thắng khó có thể so sánh, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Sắc diện dứt sạch mọi khiếp nhược, tươi sáng đằm thắm, đó là phước báo của Tinh tấn.
Dung mạo tươi đẹp, thân hình cân đối, như ánh mặt trời mới ló dạng, đó là phước báo của Nhất tâm.
Ánh sáng như mặt trời mặt trăng chiếu sáng khắp tám phương, soi tỏ khắp mọi chốn tối tăm u ám, không một thứ ánh sáng nào có thể sánh kịp, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là mắt có màu xanh biếc, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như có người trông thấy Phật, trong tâm vui thích, do đấy mà dốc một lòng quy ngưỡng kính lễ đôi mắt ấy, đó là phước báo của Bố thí.
Mọi sự xem xét nhận biết của mắt luôn thể hiện sự tịch tĩnh an định chân chánh hết mực, đó là phước báo của Trì giới.
Đôi mắt tươi đẹp vi diệu, không ai có thể nặng lời mà trái lại xa gần đều kính phục, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Mọi nẻo xem xét của mắt cũng không hề biểu lộ tâm mưu hại mà đều nhằm đem lại lợi ích cho khắp chốn, đó là phước báo của Tinh tấn.
Nhìn xa thấy rộng, tiếp cận mọi nẻo sâu xa huyền bí cởi mở hết thảy bao thứ trói buộc, đó là phước báo của Nhất tâm.
Mọi đối tượng nhận thức đều không biết chán, luôn thể hiện sự bình đẳng, không gì có thể đạt được như vậy, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là lỗ mũi giống như mũi chim anh vũ, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Mũi giống mũi chim anh vũ chính là biểu hiện sự sâu xa về tính chất cân đối hài hòa của thân tướng, đó là phước báo của Bố thí.
Luôn tuân giữ các pháp định tịch tĩnh dứt mọi nẻo tà vạy, sai trái, đó là phước báo của Trì giới.
Lỗ mũi tươi đẹp, cân đối, sáng tỏa như ngọc báu minh châu, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Mềm mại, uy nghi gồm đủ, là thể hiện của tâm nhân hòa, sự nhẫn nhục đích thực, không ai là không quy ngưỡng tôn phụng, đó là phước báo của Tinh tấn.
Mọi người trông thấy thảy đều không ngừng bày tỏ tâm yêu mến tôn kính, hầu như không biết chán, đó là phước báo của Nhất tâm.
Ý lìa bỏ mọi nơi chốn nhớ nghĩ, thọ nhận, mọi đối tượng dựa cậy, không lưu giữ các mùi hương, chỉ lấy đạo pháp làm hương vị, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là tướng hảo nhục kế nơi đỉnh đầu, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như nhục kế ấy tròn trịa cân đối, an nhiên, luôn dấy khởi mọi hào quang như ánh sáng mặt trời, nối tiếp không ngừng, đó là phước báo của Bố thí.
Tóc nơi nhục kế ấy có màu sắc xanh sậm, óng ánh thật khó lường, mỗi mỗi sợi tóc đều xoay theo phía phải, đó là phước báo của Trì giới.
Nhục kế ấy luôn hiện ra ánh hào quang sáng chói, rực rỡ, mọi nẻo chiếu tỏa không gì có thể đạt đến tận cùng như vậy, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Nhục kế đó thể hiện sự sung mãn dứt sạch mọi nẻo tà vạy, sai lầm, đứng yên một cách vững chắc an định, đó là phước báo của Tinh tấn.
Sinh động trong sự xoay tròn ấy là biểu hiện cho sự an ổn đích thực, cùng tách rời nhau chứ không cùng lẫn lộn rối rắm, đó là phước báo của Nhất tâm.
Nêu bật ánh sáng rực rỡ luôn tiếp nối, nơi chốn chiếu tỏa thật vô hạn, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là nhục kế của Như Lai, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Tóc có màu sắc xanh như màu xanh sẫm không gì sánh bằng, sinh động, chói lọi còn hơn ánh sáng của ngọc lưu ly, đó là phước báo của Bố thí.
Những sợi tóc ấy xoay tròn theo chiều tay phải, mỗi nét đều thuận hợp với gốc của các căn mà không dựa vào nhau, đó là phước báo của Trì giới. Thân tướng ấy luôn thanh tịnh, mọi trần cấu không thể bám nhiễm, cũng như hoa sen không bị nhiễm nơi bụi bặm, bùn nước, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Như tướng hảo thứ ba mươi hai, cả chư Thiên trên dưới các cõi cũng không nhìn thấy nơi đỉnh, đó là phước báo của Tinh tấn.
Chúng sinh trong ba cõi không loài nào là không vui mừng khi được thấy rõ các oai đức hiển bày khắp chốn, đó là phước báo của Nhất tâm.
Ngôn từ như trời tuôn mưa, không gì có thể làm cho ô nhiễm được, trong lành như hư không, âm thanh như tiếng sấm rền, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là ra khỏi thành cất bước dạo chơi, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như việc riêng mình ra đi thể hiện hiện rõ tính chất không bị trở ngại, đó là phước báo của Bố thí. Hoặc như dứt trừ mọi nẻo sai trái nên đạt được nhất tâm, dốc hành hóa nhằm đem lại sự an lạc rộng lớn nên được gọi là Phật, đó là phước báo của Trì giới.
Vô số chư Thiên các cõi cùng đến chiêm ngưỡng, hết lòng tôn kính, quỳ nơi đất mà hướng về, đó là phước báo của Nhẫn nhục.
Có thể tự giữ gìn lấy mình, mắt không tham đắm đối với sắc trần, đó là phước báo của Tinh tấn.
Dũng mãnh hơn hết, thần túc biến hóa vô cùng, đó là phước báo của Nhất tâm.
Hết thảy mọi sở hữu đều có thể thi ân cứu giúp không chút luyến tiếc, nhằm nêu giảng thông suốt về đạo pháp, đó là phước báo của Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Thế nào gọi là thuận theo hoàn cảnh tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như dứt trừ các thứ bệnh tật, tâm không tham vướng, con đường hành hóa trong lành như đóa hoa sen, đó là phước báo của Bố thí. Dốc tu, tuân giữ giới luật, như thời tiết mùa Xuân, mùa Hạ dứt lạnh, trăm thứ cây cỏ sinh sôi, đó là phước báo của Trì giới. Thân tướng ấy hết mực tươi đẹp, thù thắng, lồng lộng, rạng ngời như muôn ngàn tinh tú chiếu sáng, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Tùy thuận một cách bình đẳng, tránh khỏi mọi nẻo sai trái thất tán, đó là phước báo của Tinh tấn. Dốc sức ngăn chận tất cả các nẻo ác để nhằm chỉ rõ thế giới hòa hợp an lạc, đó là phước báo của Nhất tâm. Ví như chúng sinh đang bị kẹt nơi nẻo đường ác, Bồtát đem vô số ánh sáng soi tỏ khiến họ đạt được giải thoát, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là biết rõ về hoàn cảnh mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đang trong giấc ngủ say, trời chuyển dần về sáng, hốt nhiên thức tỉnh và nhớ nghĩ đến chánh pháp, đó là phước báo của Bố thí. Như trường hợp bản thân có thể lìa bỏ gia đình cùng sản nghiệp để xuất gia làm vị Sa-môn, đó là phước báo của Trì giới. Hoặc như trường hợp Bồ-tát lúc mới xuất gia đã nói với kẻ hầu là Xa-nặc là nên trở về hoàng cung tâu bày cùng an ủi phụ vương, vương phi, đến lúc thành Phật sẽ trở về nước cũ thăm và sẽ độ thoát tất cả, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Như bản thân tu hành, quyết làm người xuất gia, thọ nhận và mặc lấy ca-sa, đó là phước báo của Tinh tấn. Hoặc như ham chuộng con đường giải thoát, dốc cầu đạo Bồ-đề vô thượng, đó là phước báo của Nhất tâm. Thể nhập nơi cảnh giới tịch nhiên, phân biệt nhận rõ mọi âm thanh tụng kệ, trở lại nơi chốn gia đình, tùy trường hợp mà độ thoát, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhận rõ về cuộc đời tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như do lòng thương đối với chúng sinh nên đi đến kinh thành La-duyệt-kỳ (Vương xá) khất thực, tạo phước điền cho mọi người, đó là phước báo của Bố thí. Hoặc lên nơi cõi trời vì chư Thiên, người, mà nêu giảng rộng về đạo pháp để giáo hóa, đó là phước báo của Trì giới. Đi vào kinh thành Laduyệt-kỳ thực hiện công việc du hóa xong, trở lại nơi cõi trời cao nhất đem các pháp tịch tĩnh mà hóa độ hết thảy, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Thẳng người mà đứng vững, không hề dựa cậy, nhằm thực hiện thành tựu các pháp Tam-muội chánh định, đó là phước báo của Tinh tấn. Như thực hành thiền định tư duy là nhằm cởi mở mọi niệm trong ba cõi, tất cả không ngoài Chân đế, đó là phước báo của Nhất tâm. Suy nghĩ xem xét về mười hai nẻo duyên khởi để nhận ra mọi cội nguồn của các pháp đều do nhân duyên hợp thành, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực. Thế nào gọi là thuận theo thế gian mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Đi đến các nơi chốn để khất thực, mỗi mỗi chốn ấy đều đạt được lợi lạc vì người nhận luôn được an ổn, đó là phước báo của Bố thí. Thuận theo ý nguyện thế gian, nhất là trong hoàn cảnh mất mùa đói kém, cần cứu giúp những nơi thiếu hụt, cũng như con vua La-ma đã dốc tâm cứu giúp nhiều nơi chốn mà ông đến thăm, đó là phước báo của Trì giới. Ngăn chống các nẻo phi pháp, rõ mọi bước khó khăn không chút nghi ngờ, để thọ nhận đạo nghiệp, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Cũng như trong sáu năm Bồ-tát tu khổ hạnh, vượt qua tất cả mọi chướng ngại, không có một cái gì ngăn che được, đó là phước báo của Tinh tấn. Kiên trì trong việc thực hành thiền định để đạt được nhận thức đúng đắn về các pháp, mọi hiện tượng thảy là không, như bọt nước tụ, nổi trong chốc lát, đó là phước báo của Nhất tâm. Không vi phạm các pháp, ăn uống luôn an nhiên, mọi người nghe tên thảy đều quy kính, như Phật an tọa bên gốc cây Bồ-đề hàng phục chúng ma, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhận ra tính chất giới mốc, biên vực mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như hàng phục chúng ma cùng đám thuộc hạ, nhân đấy chuyển pháp luân độ thoát hết thảy chúng sinh, đó là phước báo của Bố thí. Khuyến hóa tất cả các loài chúng sinh trong Tam thiên thế giới khiến họ thảy đều được an lạc hoàn toàn, dứt hết mọi khổ nạn, đó là phước báo của Trì giới. Dẫn dạy mọi chúng sinh, nhất là hạng còn vướng trong vòng đối địch tranh đoạt, khiến họ đạt được hòa hợp, tạo lập nẻo hành hóa của bậc Thánh hiền, dứt hết mọi sai phạm, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Như khắp trong tam thiên thế giới đều dấy khởi loạn động, dốc sức đem lại sự hòa đồng trong tinh thần đạo vị, đó là phước báo của Tinh tấn. Thực hiện thành tựu các pháp Tứ thiền, định ý chánh thọ, phụng hành đúng nẻo mười điều thiện, dứt mọi phóng dật, đó là phước báo của Nhất tâm. Đoạn trừ vô minh, các cõi tăm tối đều dứt sạch không còn sót một nẻo nào, đạt đến thế giới sáng tỏa, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhằm dứt trừ hết thảy mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như từ thời trước, đi đến quốc độ Ca-duy-lavệ, dừng lại đấy để du hóa khắp các chốn trong vòng bảy năm, mọi nẻo khốn cùng, tội lỗi thảy diệt, mọi mối hoạn nạn đều trừ, đó là phước báo của Bố thí. Đoạn trừ mọi thứ cấu uế, du hóa khắp ba cõi mà không hề tham đắm, đó là phước báo của Trì giới. Như sử dụng các phương tiện tiêu diệt ba thứ độc, tâm dứt mọi vọng động, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Quan sát về các nẻo sinh tử tội phước nơi chúng sinh để cùng dấy tâm Từ bi cứu độ, đó là phước báo của Tinh tấn. Như từ nẻo lo âu chán nản mà nhận ra các pháp thiền định tư duy, đạt đến tám phẩm loại luôn gắn bó không hề quên mất, đó là phước báo của Nhất tâm. Hoàn toàn dứt bỏ mọi nẻo hư vọng, đoạn trừ tham dục, tiêu diệt vô minh, đem lại sự hưng thịnh cho ánh sáng của đạo pháp, loại bỏ hết các pháp hư dối, tu phụng hành Trí tuệ ba-la-mật, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhằm đạt được sự rắn chắc như kim cương mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như trường hợp đạt được pháp Tam-muội kim cương, tâm không dao động, đó là phước báo của Bố thí. Như dùng các phương tiện để dứt trừ vô minh, nhằm phụng hành đức tối thượng, đó là phước báo của Trì giới. Dốc sức với đạo nghĩa, dứt bỏ mọi thọ nhận cũng như xa lìa bao thứ cấu uế, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Cùng cứu giúp hết thảy chúng sinh trong ba cõi, thuận theo tập tục mà khai hóa độ thoát tất cả, đó là phước báo của Tinh tấn. Mọi công đức đối với bản thân mình nên lần lượt dừng lại, tùy thuận để dấy khởi phát huy tận cùng cội nguồn lớn lao, đó là phước báo của Nhất tâm. Rõ về tâm tánh của hết thảy chúng sinh, từ đấy đạt đến quả vị Chánh giác tối thượng, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ hành động cứu giúp mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Do thành Bậc Chánh Giác, thuyết giảng cho chư Thiên, dốc tâm trừ bỏ mọi nẻo ác, dùng thiền định để thể hiện cảnh giới tịch tĩnh, suy nghĩ về các pháp thế gian để nhằm cứu độ tất cả các loài, đó là phước báo của Bố thí. Tiêu diệt nẻo ác địa ngục cùng bao nỗi lo lắng của tội lỗi khổ não, đó là phước báo của Trì giới. Thông tỏ về các căn, đức hạnh được thành tựu, những gì chưa được đầy đủ đều khiến trở nên hoàn bị, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Diệt trừ hết thảy mọi thứ chướng ngại của phiền não nơi chúng sinh, vĩnh viễn không còn nẻo cấu nhiễm, đó là phước báo của Tinh tấn. Mọi thứ kỹ nhạc khắp nơi tự nhiên cùng hòa tấu, làm vui lòng tất cả mọi người khiến họ thảy đều phát tâm Bồ-đề, đó là phước báo của Nhất tâm. Bao nhiêu của cải quý giá chứa khắp trong tam thiên thế giới, luôn đem bố thí cho vô số ức trăm ngàn trời, người, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là an nhiên tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như cây cối trong khắp tam thiên thế giới luôn sinh ra hoa quả, bốn mùa thường xanh tốt um tùm, dùng mọi tài vật để cứu giúp các trường hợp khốn khổ thiếu kém, đó là phước báo của Bố thí. Dứt trừ hết thảy mọi phiền não cùng bao nỗi thống khổ không thể tính kể hết, khiến đạt được sự an lạc hòa hợp lâu dài, đó là phước báo của Trì giới. Hết thảy chúng sinh, các căn đều đầy đủ, từ đấy đạt được cứu cánh an nhiên tự tại, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Đối với mọi sở hữu đều an nhiên tự tại, xem tam thiên thế giới đều bằng phẳng như lòng bàn tay mặt, đó là phước báo của Tinh tấn. Về mọi màu sắc, hình tượng, thảy đều hàm chứa tính chất cấu uế, đấy là sự thật không hề hư vọng, khiến cho chư Thiên luôn đội ân, đó là phước báo của Nhất tâm. Hàng phục bốn thứ ma, trí tuệ không gì có thể sánh kịp, thành Bậc Chánh Giác tối thượng, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực. Thế nào gọi là hàng phục được sức mạnh của ma, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Hành hóa Đại Bồ-tát là nhằm trị liệu tất cả các bệnh của ba độc nơi chúng sinh trong khắp tam thiên thế giới, từ đấy thành Bậc Tối Chánh Giác, đó là phước báo của Bố thí. Tiêu trừ các thứ phiền não, diệt hết thảy ma nơi các nẻo tranh tụng hý luận, đó là phước báo của Trì giới. Hóa độ từ các bậc Thiên tử, cho đến các loài quỷ ác hại người, cùng mọi thứ tai nạn gây nên bao đổ vỡ, tất cả thảy đều khiến được an lạc hoàn toàn, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Như các thứ tử ma cùng đám thuộc hạ tự nhiên được hàng phục, quy mạng tôn phụng Thánh giáo của Phật, đó là phước báo của Tinh tấn. Dứt mọi vọng động của năm ấm nên bản thân của thứ ma này cũng tự cởi bỏ mọi nẻo trói buộc, đó là phước báo của Nhất tâm. Theo đúng sở nguyện đạt đến Bậc Tối Chánh Giác chứng được Nhất thiết trí, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là không thoái chuyển, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như Phật an tọa nơi gốc cây Bồ-đề, dốc tâm tinh chuyên tư duy mà không hề ngừng chán, đó là phước báo của Bố thí. Như trong trường hợp bị ma quấy nhiễu mà không chút sợ hãi, tự đạt đến Bậc Chánh Giác để hóa độ khắp tất cả các loài, đó là phước báo của Trì giới. Hoặc nơi thân không hoảng loạn, gốc ngọn đều an nhiên, tâm định nên được hoàn toàn an lạc, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Như tâm hoan hỷ, tịch tĩnh, an định, dứt sạch mọi quấy nhiễu của các thứ ma, đó là phước báo của Tinh tấn. Dùng các thứ ân ích để cứu giúp mọi nẻo hành động đều bình đẳng chân chánh, đó là phước báo của Nhất tâm. Ngôn ngữ hành động luôn tương xứng, thân, khẩu, ý đều an định đạt đến Phật đạo, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là trong một thời tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Chỉ trong khoảnh khắc của một thời tu trí tuệ thành tựu được đạo Bồ-đề vô thượng, là Bậc Chánh Giác tối thượng, nẻo phụng hành của tâm là dẫn dắt, chế ngự, tùy thời, đó là phước báo của Bố thí. Theo hàng bạn lành nhằm dứt trừ phiền não cấu nhiễm, tôn phụng thanh tịnh, đó là phước báo của Trì giới. Nương theo ý niệm của Thế Tôn dứt trừ vĩnh viễn ba thứ độc, đồng thời phát huy làm hưng thịnh ba ngôi báu, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Nẻo hóa độ theo con đường chánh thọ, tận diệt mọi thứ cấu uế, khiến cho ba thứ độc đều được dứt sạch, đó là phước báo của Tinh tấn. Nhận rõ, thấu đạt về mười hai pháp duyên khởi nhằm đoạn trừ mọi níu kéo của nghiệp lực, đó là phước báo của Nhất tâm. Do đạt được những hiểu biết không hề bị quên lãng hay thất tán, từ đấy nhận thức được tất cả các pháp nơi ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là dứt mọi tham đắm, vướng mắc mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như dùng mắt trần để xem xét hết thảy chúng sinh trong cảnh khổ não hoạn nạn, từ đấy khiến cho họ được đứng vững trong cõi an lạc lớn lao, đó là phước báo của Bố thí. Hoặc dùng Thiên nhãn để nhận thấy mọi nẻo hợp tan của sinh tử, thiện ác, từ đấy, dốc tâm giáo hóa cứu đời, đó là phước báo của Trì giới. Khuyến hóa mọi người lãnh hội âm thanh trong khắp nơi chốn đều dứt hết mọi đắm trước, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Như dùng các thứ thần túc biến hóa mọi nơi chốn hành động, đi tới qua lại khắp các nẻo để tế độ mọi nguy ách trong ba cõi, đó là phước báo của Tinh tấn. Đối với mọi niệm, tâm quán tưởng về các hành động thanh tịnh như thế cũng như các pháp được tuyên giảng, giống như tiếng nói của bậc Phạm thiên, đó là phước báo của Nhất tâm. Như đem mọi hiểu biết về hoàn cảnh thệ nguyện nương theo ánh sáng của Bậc Giác Ngộ, giảng thuyết kinh pháp lưu thông khắp mười phương, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ các pháp Tam-muội tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như tọa thiền, tư duy dứt mọi ý tưởng về ăn mặc, cũng như Phật ngồi nơi gốc cây Bồ-đề để thực hiện đạo tràng thanh tịnh, đó là phước báo của Bố thí. Dốc tin các pháp giác ý, thuận hợp diệu lý mà vẫn không để mất tinh tấn, đó là phước báo của Trì giới. Vui thích đối với các pháp giác ý, an lạc nơi nẻo đạo nghĩa, tâm không vướng các pháp thế tục, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Nhận rõ kinh điển trong mười hai bộ cùng nẻo hành hóa của Bậc Chánh Giác là nhằm hóa độ hết thảy các loài, đó là phước báo của Tinh tấn. Như trừ bỏ các chốn náo loạn, rối ren, dứt mọi nẻo tâm tà, thực hiện pháp Tam-muội định mà tu tập các pháp chánh thọ, đó là phước báo của Nhất tâm. Hoặc như giữ gìn các pháp giác ý cùng giúp dẫn chúng sinh đi đến cảnh giới an lạc lớn lao, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nghe theo lời dạy dỗ mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đạt được Phật đạo quan sát ngọn nguồn các pháp để khai hóa chúng sinh, đó là phước báo của Bố thí. Gốc của các phiền não không trổi dậy, thì không thuyết giảng kinh pháp vì nhằm để nêu bày rõ về ánh sáng giác ngộ, đó là phước báo của Trì giới. Con đường giải thoát thật sáng tỏ rực chiếu, dốc phụng trì không sai phạm, tánh thể hiện tâm Từ bi sâu xa đối với muôn loài thông qua các nẻo ứng hiện lồng lộng, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Như Tôn giả Ưu-vi Ca-diếp, anh em cùng đám môn đệ của ba vị, đã tự mình chuyên trì đạt được giác ngộ, Phật đã khuyến hóa giúp cho tất cả đều đến với đạo giải thoát, đó là phước báo của Tinh tấn. Như trường hợp chúng sinh hỏi về diệu nghĩa của kinh pháp không nên nghi ngại mà nên giảng nói nêu bày rõ khiến cho mọi người đều được thông tỏ, đó là phước báo của Nhất tâm. Nhận rõ mọi đối tượng, quyết định một cách dứt khoát nương theo ánh sáng của Bậc Giác Ngộ, từ đấy không gì mà không thông đạt, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nương theo con đường của Phật mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như lấy vô minh làm đối tượng để tuyên giảng kinh điển, nêu bật trí tuệ của Bậc Giác Ngộ, đó là phước báo của Bố thí. Nẻo hành hóa của Phật là nhằm khiến từ cõi vô minh tăm tối chuyển thành cảnh giới an lạc yên định, từ đấy dẫn tới vùng ánh sáng của đạo đức tỏa chiếu rực rỡ, đó là phước báo của Trì giới. Diệt trừ hết thảy mọi cấu uế, thuận cho sự ghi nhớ không quên mà có được biện tài vô lượng, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Như đối với các pháp bình đẳng chân chánh, từ đấy đạt đến tận cùng các pháp định, luôn nhớ nghĩ tới chúng sinh trong mười phương, đó là phước báo của Tinh tấn. Hội nhập khắp tất cả mọi cõi, phụng hành đức tối thượng một cách mạnh mẽ mà vững vàng, đó là phước báo của Nhất tâm. Dũng mãnh, không sợ sệt, thông tỏ nẻo mênh mông của đạo pháp, chí mong đạt đến Chánh giác Vô thượng, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực. Thế nào gọi là nhằm đạt được Nhất thiết trí mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đối với các bậc Thông tuệ thì mọi trường hợp nhận thức của nhãn căn đều không hề bị che chắn ngăn ngại, đó là phước báo của Bố thí. Biết rõ về tâm của đông đảo chúng sinh, cũng như mọi ngọn nguồn của sự nhớ nghĩ, nhân đấy mà thuyết pháp khiến cho tâm họ được an nhiên, thông tỏ, đó là phước báo của Trì giới. Có thể nghe biết khắp chốn gần xa, do đấy mà nhằm diễn giảng các pháp thiết yếu thể hiện sự bình đẳng, tự tại, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Theo thời mà thuyết pháp thích hợp với tâm ý của hết thảy chúng sinh khiến cho mỗi người nghe đều được thông tỏ, đó là phước báo của Tinh tấn. Như việc tuyên giảng kinh điển luôn giữ vững đúng thứ tự khiến cho các phương tiện sử dụng đạt được mọi thích nghi, đó là phước báo của Nhất tâm. Dựa theo chỗ ưa thích ấy mà giảng luận về ánh sáng của chánh pháp, dứt mọi thọ nhận, làm phát khởi tất cả dẫn tới việc hình thành thơ tụng, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là thấu đạt tính chất vô dư mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như tâm được an định, dốc phụng hành đạo pháp, làm phát khởi diệu nghĩa cao tột khó đạt của vô dư, đó là phước báo của Bố thí. Hoặc như đem đạo pháp tạo nên cõi an lạc, lại vì mọi người mà dẫn dắt giáo hóa không ngừng, đó là phước báo của Trì giới. Tin nơi kinh điển giáo pháp của chư Phật thuyết giảng, ngoài ra không tin theo một nẻo nào khác, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Như xem xét mọi việc trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai hoàn toàn không chút trở ngại, đó là phước báo của Tinh tấn. Hoặc như thực hiện thiền định dẫn tới các pháp Tam-muội giải thoát, nhân các pháp chánh thọ ấy mà thuận hợp với cảnh giới an lạc, tư duy theo định ý để chế ngự mọi phóng túng trong hành động, đó là phước báo của Nhất tâm. Từ chỗ thuyết giảng ngần ấy các pháp thảy đều khiến cho người nghe được khai mở, thông tỏ, dốc chí cầu các pháp Vô thượng, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là thông tỏ tính chất hữu dư mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Sau khi nhập Niết-bàn, Xá-lợi được chia đều khắp, đem phước mà dẫn dạy khiến đạt được các pháp vô vi, đó là phước báo của Bố thí. Tư duy về các giới luật dẫn tới hành động gần gũi với các pháp vô vi đạt được những thoải mái trong cõi an lạc, đó là phước báo của Trì giới. Như đối với các tinh xá của Như Lai, cũng như các đền thờ thần, hết thảy chư Thiên đều đến quy ngưỡng lễ bái, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Sau khi Phật diệt độ nên siêng năng tu tập, thực hành lời dạy về tinh tấn không quản mệt nhọc, vì hàng Thanh văn mà không chùn bước trước mọi trở ngại, đó là phước báo của Tinh tấn. Dần dà tiến lên phía trước thực hành thường xuyên các pháp Tam-muội chánh thọ cho đến khi đạt được giải thoát, đó là phước báo của Nhất tâm. Dùng ánh sáng của Bậc Giác Ngộ làm gốc cho sự tu tập độ đời, đem ánh sáng soi tỏ khắp các cõi rộng lớn, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhận ra chỗ nên dừng mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như vào thời Phật còn tại thế giáo hóa chúng sinh, thọ nhận thực phẩm cúng dường để nuôi dưỡng thân tâm hành hóa chánh pháp dứt mọi nẻo tà, đó là phước báo của Bố thí. Nói về các trường hợp phước báo có thể nhận thấy, như người Phạm chí tên là Phi-la-đà đã từng buông lời xúc phạm, mạ lị, Đức Phật vào lúc ấy dung mạo vẫn ôn hòa không vì thế mà biểu lộ sự giận dữ. Bấy giờ có đến ba ức chư Thiên, người cùng phát tâm Bồ-đề, đó là phước báo của Trì giới. Hoặc như nàng Tôn-đà-lợi (Đời Tấn gọi là Thiện Diệu) đã phỉ báng Như Lai, Như Lai nhân trường hợp ấy mà dẫn dắt giáo hóa đám ngoại học một vạn hai ngàn người khiến họ đều được giải thoát, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Như có sức mạnh kiên cường thì tâm luôn tự soi xét, được thế là do Bồ-tát thực hành tâm Từ bi, chân chánh như rơi vào thế giới loài thú làm sư tử vương, giả sử có bị lấn áp thì cũng nên yên lặng chịu đựng để hóa độ loài súc sinh, đó là phước báo của Tinh tấn. Như lìa bỏ ý ấy mà lại tăng thêm đến nỗi không thể im lặng được thì cũng không nên tranh cãi, an nhiên nhận lấy nhưng không ôm giữ nơi tâm, đó là phước báo của Nhất tâm. Hoặc thực hiện các pháp thiền định, từ đấy tuyên giảng đạo pháp hóa độ chúng sinh, giải đáp mọi thắc mắc về nghĩa lý, không ai mà không được thông tỏ, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nương theo chư Phật mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như nêu bày giảng giải các pháp biến khắp các cõi Phật, tất khiến được nghe âm thanh ấy, vang lên đến tận cõi trời Nhất cứu cánh thiên A-ca-nịtrá, đó là phước báo của Bố thí. Hoặc như đem ánh sáng giác ngộ soi tỏ khắp Tam thiên thế giới để khai hóa chúng sinh khiến đời đạt được an lạc, đó là phước báo của Trì giới. Dùng các trận mưa pháp hết mực rộng lớn để giáo hóa các vị “Phạm chí bện tóc” và đám môn đệ khiến họ đến với đạo giải thoát, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Dùng các pháp thần túc biến hóa làm hiển lộ uy thần, khiến cho Tôn giả Ưu-vi Ca-diếp cùng với đám môn đệ vui mừng quy phục làm đệ tử, đó là phước báo của Tinh tấn. Tâm cho rằng đó là Phạm thiên, nhưng tâm ấy cũng xem xét biết ta không làm chuyện hư dối, dốc chí giữ phạm hạnh để nhằm hóa độ chư Phạm thiên, đó là phước báo của Nhất tâm. Tùy thời mà khai hóa dẫn dắt như tiếng rống của sư tử, không ai là không đội ân đối với tâm Từ bi, vì tâm ấy như hư không bao phủ hết thảy muôn loài, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là theo phương tiện mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như xưa có vị Phạm chí tên là Tùy Kiên, luôn thực hiện công việc bố thí, mỗi lần có tới tám vạn bốn ngàn người, thảy đều khuyến trợ để tạo lập Phật đạo. Như vị Tỳ-kheo-ni tên là Đại Ái Đạo lúc mới phát tâm xuất gia được Đức Phật khuyến dụ: “Nên đem vàng dệt thành từng tấm dâng lên nơi Thánh chúng.” Lúc Đức Phật vừa nói xong lời ấy, có đến tám trăm vị Tỳ-kheo hội nhập được ý nghĩa nơi giới luật của đạo pháp, đó là phước báo của Bố thí. Quá trình tu học an định luôn đi đúng theo nẻo giải thoát của chư Phật. Như trường hợp khai hóa một nhân vật nổi tiếng của ngoại đạo tên là Tu-ma, ở trong cảnh dục mà luôn thực hiện đầy đủ sáu việc để chế ngự giúp đỡ tâm ý mình và những người chung quanh để thọ nhận giới luật, đó là phước báo của Trì giới. Tâm luôn thể hiện nhân hòa. Như về thời xa xưa có vị Bồ-tát tên là Sằn-đề-hòa, thời gian thực hành pháp nhẫn nhục, đã bị vua nước Caduy sai người chặt đứt cả tay, chân, tai, mũi, máu phun ra hóa thành nước sữa mà tâm không hề dấy sân hận, nên thân hình cũng dứt mọi đau đớn thương tích, luôn mang tâm niệm Từ bi lớn lao thương xót mọi người như con trẻ mới sinh, thời ấy đã dẫn dắt và hóa độ tám mươi ức chư Thiên, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Bản thân luôn gắng sức siêng năng tu tập. Như Bồ-tát Ngũ Thông Đại Chí đã khuyến năm trăm vị Đồng tử con nhà Phạm chí xuất gia, khiến cho tất cả các Đồng tử ấy đều hoan hỷ thích thú trong việc nhận lãnh giáo pháp để tu học, đó là phước báo của Tinh tấn. Như nghe và lãnh hội kinh điển, sức mạnh nội tâm dành cho việc tu học thêm chuyển biến và tăng trưởng, cho đến việc thực hiện các pháp chánh thọ định ý bao la, đó là phước báo của Nhất tâm. Ý tự tại, dốc sức gánh vác để tuyên giảng nêu bày về chánh pháp, tùy theo sở thích của từng đối tượng mà độ thoát họ, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhằm bày tỏ sự sầu tư lo lắng mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như trong các trường hợp bố thí tâm thường mang nỗi ưu tư luôn, như ngài Tuệ Minh cúng dường Bậc Đại Thánh không nhằm cầu lợi, đó là phước báo của Bố thí. Mời gọi hết thảy mọi người cùng dốc sức hỗ trợ cho sự phát triển đạo pháp, nhằm tạo lập sự nghiệp đạo, thành tựu một cách đầy đủ, đó là phước báo của Trì giới. Như Trưởng giả Thân Nhật (Đời Tấn gọi là Thủ Tịch) nhân có người theo học đám ngoại đạo dấy khởi điều ác, đến hỏi Đức Phật, nhờ nhân duyên ấy mà thọ nhận lời Phật dạy và đến với đạo pháp, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Cũng như về thời xa xưa có Long vương Hư-la tâm độc ác, thường dùng sức mạnh hơn người để gây ra mưa đá bão tuyết phá hoại hoa màu cùng sự sống của muôn dân, Đức Phật đã hóa độ Long vương ấy quy ngưỡng theo đạo, đó là phước báo của Tinh tấn. Nền tảng của sự thành tựu Phật đạo là đạt quả vị Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng. Thời Phật mới thành đạo, im lặng an nhiên trong cõi thiền định, Phạm thiên đã thân hành đến bày tỏ lời khuyến thỉnh xin Phật vì tâm Từ bi mà thuyết pháp cứu độ chúng sinh trong ba cõi, đó là phước báo của Nhất tâm. Cũng như con rắn độc hết sức dữ tợn, Đức Phật đã đến nơi động thờ lửa để khai hóa mới chịu thuận phục theo giới luật quy ngưỡng Phật, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhằm dẫn dắt giáo hóa hàng Chân-đà mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như trường hợp bản thân đạt được an lạc, từ đấy dốc tâm cứu giúp kẻ khác, đem mọi sở hữu của mình bố thí mà không hề tiếc rẻ, đó là phước báo của Bố thí. Cũng như vị Bồ-tát tên là Liên Hoa Tạng, lập hạnh tu tập chắc chắn như kim cương, tâm hết mực kiên định dứt mọi tham tiếc, kẻ cả bản thân. Hết thảy tâm niệm của chúng sinh đều luôn tính toán đến thân mình, ngôn ngữ luôn chú ý đến tôi - ta, dùng cái tôi, ta ấy để thực hành bình đẳng các pháp. Bồ-tát đã vì đám chúng sinh nọ mà thà mất thân mạng chứ quyết không bỏ giới luật, đó là phước báo của Trì giới. Giống như thời xưa rùa chúa đã cứu giúp đám người buôn bán khiến họ khỏi bị chết chìm trong biển lớn. Trái lại, những người ấy đã mang tâm ác, không nhớ đến ân cũ, mà còn trở lại tìm cách giết hại con vật mình mang ân, nhưng rùa chúa vẫn an nhiên biểu lộ tâm từ không hề dấy ý niệm giận dữ, đó là phước báo của Nhẫn nhục. Lại cũng như trường hợp con cá ở vùng nước sâu tìm cách lôi kéo người để ăn thịt, có thể nuốt gọn cả thân thể người, thêm có đám cá với đủ loại lớn nhỏ kéo tới nhằm làm hại thân người, nhân hoàn cảnh ấy mà dấy tâm từ ra tay cứu giúp, đó là phước báo của Tinh tấn. Ví như các loài thú cùng đến muốn hại người, tất có thể cùng dốc tâm cam chịu mà không dấy tâm ác, đó là phước báo của Nhất tâm. Như từng đọc tụng học hỏi hàng ức năm kinh sách với vô số các thí dụ, nhờ vậy mà có được ánh sáng của Bậc Giác Ngộ để độ thoát bao người, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là vì sự khác lạ mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như nhận thấy những nơi chốn đói khát thiếu thốn cùng khổ, tùy theo mỗi hoàn cảnh mà dốc tâm giúp đỡ, đó là phước báo của Bố thí. Hoặc như có vị Phạm chí là một đạo sĩ nổi tiếng, tổ chức lễ bái nơi đền thờ lớn và thiết đãi, nhân trong bữa ăn ta đã dẫn dắt, giáo hóa khiến ông ấy quy kính mà phát tâm Bồ-đề, đó là phước báo của Trì giới. Lại như trường hợp về vị Phạm chí kia cần đến thuốc men để trị liệu các chứng bệnh, từ đấy mà nêu bày rõ thêm về pháp có thể diệt trừ mọi đau khổ đạt đến giải thoát, khiến vị ấy hết lời ca ngợi bậc trí đức, tất cầu nguyện cho chúng sinh được sinh lên cõi trời đó là phước báo của Nhẫn nhục. Bản thân siêng năng tu tập, giải hành đúng nẻo xuất gia, tuy chưa thành Phật nhưng luôn dũng mãnh tinh cần dốc đạt đến quả vị ấy, đó là phước báo của Tinh tấn. Thực hành các pháp thiền định như vượt qua khỏi đỉnh núi cao hội nhập vào cõi Chánh giác Vô thượng, dùng ba đức thông đạt để nhận rõ về quá khứ, hiện tại, vị lai, đó là phước báo của Nhất tâm. Như thông tỏ trọn vẹn mười tám diệu pháp Bất cộng của chư Phật, từ đấy nêu bày về đạo pháp, hóa độ chúng sinh nơi mười tám cảnh địa ngục, đó là phước báo của Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
-oOo-
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Thế nào gọi là từ bốn sự quyết đoán mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Đối với các điều ác, bất thiện chưa sinh thì nên giữ gìn khiến chúng không dấy khởi, đó là sức mạnh tổng hợp của sáu pháp Độ vô cực nhằm tiêu diệt các thứ phiền não đem lại thanh tịnh, đó là Bố thí. Mong hạn chế điều bất thiện để tiêu trừ các điều ác không thích hợp với con đường tu tập, hành hóa, đó là Trì giới. Thông tỏ một cách an nhiên về đầu mối của các thứ phi pháp để hóa độ dẫn về nẻo đạo, đó là Nhẫn nhục. Đối với các điều ác chưa sinh thì trước hết nên tìm biện pháp để dứt sạch, nhờ đấy đạo pháp mới hưng thịnh, đó là Tinh tấn. Khuyến hóa mọi người khiến họ quy ngưỡng nẻo chánh giác rồi nêu bày truyền giảng về đạo pháp cùng quá trình tu tập, đó là Nhất tâm. Đem cảnh giới an nhiên tự tại làm cứu cánh các điều ác, bất thiện khiến chúng không thể phát sinh trở lại, nhân đó dốc tâm thực hiện để nuôi dưỡng đạo pháp hóa độ muôn loài, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhằm dấy khởi điều thích hợp, tìm diệt điều ác, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như trường hợp phiền não dấy khởi thì nên mạnh dạn đi vào trong chốn ấy nương theo các phương tiện mà Bồ-tát đã sử dụng để học tập, đó là Bố thí. Chán ghét tính chất bất tịnh của các nạn ái dục để theo con đường thanh tịnh trong sáng, đó là Trì giới. Ở ngay nơi chỗ đoạn trừ cấu uế là tuân phụng tu tập theo nẻo thanh tịnh giải thoát, như tận diệt từ đầu mối của mọi thứ phi pháp, ác nhiễm mà công đức chưa phát sinh thì nên gắng khuyến trợ để chúng dấy khởi, đó là Nhẫn nhục. Hoặc như đạt được sự hiểu biết thông tỏ để phân biệt nhận rõ các thứ phiền não, tiêu trừ mọi nẻo ái dục, đó là Tinh tấn. Thường chọn nơi vắng lặng, thực hiện các pháp Tam-muội định ý, đó là Nhất tâm. Sức khiến cho mọi người tin tưởng nơi sáu pháp Ba-la-mật, từ đấy dấy khởi và phát triển các đức lành nhằm độ thoát tất cả, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đối với các đức chưa dấy khởi nhân đấy làm cho hưng thịnh, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như phát triển các điều thiện phải luôn gắn bó với những chốn đói kém thiếu thốn, tích lũy công đức thường nên tự chế ngự nơi bản thân mình, đó là Bố thí. Hoặc như đạt được đức lành thì càng có được nhiều vui thích an lạc, từ đấy nên khiến tăng thêm việc thi ân cho tất cả, đó là Trì giới. Tuân phụng theo nẻo không–vô, luôn vun bồi gốc đức hạnh, lấy đó mà diệt trừ mọi hành động bất thiện, xấu ác, đó là Nhẫn nhục. Thân, khẩu luôn vững vàng trong hành động, sử dụng các phương tiện không dựa cậy, nhân đó mà dấy khởi đạo đức, đó là Tinh tấn. Hoặc như phụng hành giáo pháp thu phục mọi ý tưởng nương tựa, luôn gắn bó với các pháp chánh thọ định ý, đó là Nhất tâm. Chỗ tạo được sự hưng thịnh cho trường hợp tâm ý không có điều kiện để phát khởi, nhờ đấy mà ánh sáng đạo pháp được thành tựu để khai hóa hết thảy muôn loài khiến tất cả đều được đội ân đạo Từ bi, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là phát huy các đức đã tạo được, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Do dấy khởi các điều thiện là đầu mối của mọi công đức nên không tạo các hành động xấu ác cũng như các nghiệp không có ích lợi, đó là Bố thí. Dùng niềm vui thích an lạc ấy để dốc chí đạt tới nẻo chân chánh, không nhớ nghĩ về các nẻo hành động nhỏ hẹp chẳng đem lại lợi ích cho tất cả mọi loài, đó là Trì giới. Xem xét kỹ mọi nẻo thích nghi, tâm không mang oán hận, dứt trừ mọi thứ vội vã bất cẩn, đó là Nhẫn nhục. Đối với các trường hợp có thể giúp đỡ, giữ gìn, chưa từng làm điều hư dối, nhờ đấy đều khiến đến với đạo pháp, đó là Tinh tấn. Tuân phụng theo sức phát triển của đạo pháp, không làm những việc yếu kém thua sút, mạnh mẽ mà vững vàng, tự tin, đó là Nhất tâm. Tùy thuận tập tục ở đời nhưng không rơi vào tất cả sáu mươi hai nẻo nghi hoặc của tà kiến, khuyến trợ hết thảy mọi người không bám chấp vào vọng tưởng, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ chỗ nhằm đạt được thần túc, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đoạn trừ các mối tham lam cấu uế, luôn nghĩ nhớ về kinh điển, do thành tựu được thần túc mà chưa từng bị quên mất, đó là Bố thí. Bồ-tát làm thế nào để thành tựu đầy đủ trên con đường hành hóa của mình? Từ chỗ an lạc của tâm ý, luôn nhớ nghĩ đến điều tốt, như đem diệu nghĩa của chánh pháp mà vui vẻ ban phát cho mọi người cùng cứu giúp mọi nguy ách của họ, đó là Trì giới. Niềm an lạc vững bền ấy không gì có thể hủy hoại, tâm không dấy sân hận, đó là Nhẫn nhục. Như ham chuộng con đường xuất gia tu học, từ bỏ mọi nẻo sung sướng vinh hoa của đời, lấy đạo pháp làm cõi an vui, đó là Tinh tấn. Như dùng sự quán tưởng đúng đắn để nhận ra tất cả các pháp trong ba cõi đều như huyễn hóa, đó là Nhất tâm. Bày biện các điều đúng, tốt, dứt mọi nẻo hồ nghi cùng tất cả các màn lưới che buộc vây phủ để đạt đến cõi vi diệu, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt được bốn Thần túc, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như nhờ thần túc nên có thể phi hành đến khắp mười phương không một nơi chốn nào bị trở ngại để khai hóa hết thảy các loài, đó là Bố thí. Hoặc như đem chí dốc tâm dốc sức cho sự nghiệp lớn lao, tâm luôn phấn khích trong niềm vui của hạnh nguyện. Từ niềm vui của hạnh nguyện nên nhẹ nhàng tự tại đi đến khắp thiên hạ để giáo hóa, đó là Trì giới. Siêng tu, ý phát khởi, ngày ngày một tăng tiến mà không chút biếng trễ, việc hóa độ chúng sinh cũng vậy, đó là Nhẫn nhục. Đạt được các phương tiện thích hợp với hoàn cảnh để xuất gia học đạo, dứt mọi hành tà, đó là Tinh tấn. Dứt bỏ sạch mọi nẻo hồ nghi, khiến hết thảy đều được khai hóa, có thể đem lại bao niềm vui thích, nhân đấy mà phát tâm Bồ-đề, đó là Nhất tâm. Đối với trường hợp nên khuyến trợ để có thể đi vào tất cả các nơi chốn tăm tối ngăn che con người khiến họ nhận ra nẻo chân chánh, như thế là được cả mười phương đều đội ân, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là tâm thực hiện các thần túc, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như tâm ấy luôn bình đẳng, dứt sạch mọi bụi bặm, cấu nhiễm, thường giữ nẻo thanh tịnh, đó là Bố thí. Hoặc như lìa bỏ ái dục cùng các nẻo bất tịnh để tu tập theo các pháp thanh tịnh dứt mọi phiền não, đó là Trì giới. Thông tỏ về nơi chốn sinh khởi như vậy đều dẫn tới sự hủy hoại tiêu diệt, nên chẳng thể tồn tại lâu dài, chỉ có đạo pháp mới là chỗ dựa chính đáng, đó là Nhẫn nhục. Đạt được chỗ dứt mọi tưởng chấp, tuy có chỗ đạt được nhưng chính là đạt chỗ “vô sở đạt”, đó là Tinh tấn. Chỗ tạo lập của tâm là nhằm loại trừ mọi nẻo vướng mắc, trói buộc, đạt được diệu lý “vô sở trụ” nên luôn theo đúng con đường chánh giác, đó là Nhất tâm. Đoạn trừ các mối vướng buộc tham chấp, tâm chưa từng bị buộc trói nên rộng mở như hư không, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ chỗ nhận biết của các thần túc, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như từ chỗ nhận thức tạo ra hành động khiến xa lìa mọi nẻo ái dục không còn trở lại tham đắm các cảnh trần, đó là Bố thí. Hoặc như đạt đến nẻo chân chánh nên không làm điều dua nịnh nguy hại, cũng như không phạm bất cứ một sai lầm nào, đó là Trì giới. Khuyến trợ các pháp thanh tịnh, dứt sạch mọi tỳ vết, cấu uế, luôn thận trọng đối với các trường hợp tranh cãi, đó là Nhẫn nhục. Đối với những trường hợp có thể vượt qua, từ đấy đi vào khắp các cõi chúng sinh để giáo hóa, đem đến mọi ân ích cho họ, đó là Tinh tấn. Như có thể thấu tỏ mọi nơi chốn trở ngại đều là sự hao tổn mất mát trên con đường tu tập nên dứt bỏ mọi phóng dật, đó là Nhất tâm. Khai thông mọi lối bị ngăn chận che lấp, giải thoát, không còn bị một chướng ngại nào, không đánh mất khả năng biện tài lớn lao để dẫn dắt những kẻ chậm chạp cùng khiến hội nhập vào cõi thâm diệu, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ cảnh giới đệ nhất thiền, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Cố gắng vận dụng phương tiện để đạt được công đức vô hạn lượng, đó là Bố thí. Như luôn quan sát các sự việc, khéo quyền biến theo hoàn cảnh mà giữ vững được tất cả, đó là Trì giới. Ở cảnh giới đệ nhất thiền ấy, nhận lãnh thu giữ các phương tiện mà không rời nhất tâm, chí giữ vững nẻo định tuệ, luôn nhớ đến nhân hòa, đó là Nhẫn nhục. Như dứt trừ mọi vọng động của năm ấm, thành tựu được năm thần thông, đi vào khắp năm cõi mà hóa độ mọi chúng sinh ở đấy, đó là Tinh tấn. Do đạt được cõi an định, tinh chuyên nên tâm tịch tĩnh, dứt mọi vọng niệm, có thể nhìn thấy khắp mười phương, đó là Nhất tâm. Như trường hợp năm người có thệ nguyện lớn lao, nhưng vì không kiên cố giữ vững nên đã làm trái với bản nguyện. Bấy giờ đã nhận ra, cung kính đảnh lễ tự quy ngưỡng thuận theo chánh pháp, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ cảnh giới Đệ nhị thiền, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như thực hiện các pháp thiền định để dứt trừ các nẻo vọng tưởng, mau chóng đạt được sự kiên định vững chắc, đó là Bố thí. Thông tỏ về vô số không thể tính kể các xứ sở, tuân giữ giới pháp, đem lại lợi ích cho đạo, nhân đấy mà mọi người cùng được đội ân, đó là Trì giới. Khiến cho chúng sinh thức tỉnh giác ngộ, tự mình có thể phân biệt nhận rõ tất cả các pháp thảy đều không, tâm dứt mọi vọng khởi, đó là Nhẫn nhục. Như chọn ở nơi vắng lặng, tịch tĩnh, để tâm tự uốn nắn thu giữ, dứt mọi phóng dật, đó là Tinh tấn. Hoặc như an vui với cảnh giải thoát, giữ vững không thoái chuyển, cũng không quá chú trọng vào những tiểu tiết của các pháp chánh thọ định ý, đó là Nhất tâm. Chỗ quán tưởng, phát minh luôn thể hiện lòng yêu mình thương người, hết thảy đều bình đẳng đối với muôn loài, không thiên lệch theo bè nhóm, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ cảnh giới Đệ tam thiền, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Thực hành Đệ tam thiền đem lại niềm vui an lạc thuận hợp, trừ bỏ mọi nẻo hành động xấu ác, bất thiện, đó là Bố thí. Theo phương tiện tu, lìa bỏ mọi thứ kỹ nhạc, chí quyết giữ đúng theo ý nghĩa của giới luật, đó là Trì giới. Như tâm ấy luôn tinh chuyên, lìa xa đối với mọi chỗ ưa thích, các thứ tà dục bên ngoài không làm cho mình vui thích, đó là Nhẫn nhục. Luôn hướng nội, nhận rõ các pháp là vô thường, khổ, không, phi ngã (vô ngã), luôn luôn ghi nhớ về các điều ấy để tạo lập chí nguyện, đó là Tinh tấn. Ý đó luôn kiên cố, không nơi chốn nào mà không thấu đạt, hành động không trì trệ mà cũng không vội vàng, đó là Nhất tâm. Do đã dứt sạch các lậu, cho nên không còn trở lại chịu báo ứng của mọi nỗi âu lo về tội phước cũng như mọi tạo tác về hữu, vô, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ cảnh giới Tứ thiền, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như dùng pháp Tứ thiền để dứt trừ tất cả mọi thứ khổ, chí hướng đến nơi an lạc với chánh pháp, vĩnh viễn xua tan bao mối phiền não, không còn gặp trở lại các hoạn nạn, đó là Bố thí. Dứt được mọi nỗi khổ từ khởi đầu đến chung cuộc trong ba cõi, do đấy đạt được sự an lạc lâu dài, hoàn toàn vắng bóng lo âu phiền muộn, đó là Trì giới. Xem xét tận cùng về hết thảy các pháp xoay chuyển trong ba cõi, về mọi nẻo sinh tử nguy khốn, rốt ráo vốn là không, đó là Nhẫn nhục. Do đạt được cõi vắng lặng tịch tĩnh vì chưa từng dấy tưởng mong cầu, cho nên phải dứt bỏ mọi đối tượng mong đạt thì mới đạt được việc giữ gìn chánh niệm, đó là Tinh tấn. Nhờ đạt đến cõi an lạc mà công việc thực hiện các pháp thiền định chánh thọ định ý mới thành tựu, đó là Nhất tâm. Đem những thành tựu về các pháp thanh tịnh để khuyến trợ việc phụng hành diệu pháp cam lồ, là thần dược bất tử gọi là pháp huấn, dùng để trị lành hết thảy các bệnh về tăm tối, si mê thấp kém, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhận ra chỗ dừng của thân ý mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Thế nào là chỗ dừng của thân ý? Đó là dứt trọn thân bất tịnh với các nẻo tạo tác về sát sinh, trộm cắp, dâm dục, phụng trì thân thanh tịnh, hành hóa không suy tính về cái ta của chính mình, đó là Bố thí. Dứt bỏ mọi thứ sở hữu cùng những thứ thích nghi thân thiết gần gũi mà không chút luyến tiếc, đó là Trì giới. Như đem niềm vui thích trừ bỏ các pháp phân biệt tôi, ta, không tham đắm đối với ba cõi, đó là Nhẫn nhục. Chỗ nhận thấy hết thảy mọi nẻo phóng dật đều từ nơi tâm, do vậy mà tạo được tự tại không chạy theo các pháp sai lầm, đó là Tinh tấn. Như thấy được ba đời thảy đều an nhiên, mọi sở hữu gốc là không, giống như cảnh huyễn hóa, đó là Nhất tâm. Nhận ra các nẻo phi pháp dấy lên rồi hủy diệt, mọi chỗ phát sinh gốc vốn là không nên rốt cuộc cũng chẳng có nơi nào sinh ra, chỉ là do nhân duyên kết hợp mà khởi lên, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là chỗ dừng của ý nhận ra nẻo lãnh thọ, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như khiến cho sự lãnh thọ ấy không hiển lộ, tâm dứt mọi tham dục, ý dừng nhận ra chỗ thọ nên an nhiên nghỉ ngơi không đuổi theo các duyên, đó là Bố thí. Do nhận rõ nẻo thọ nên không tạo họa phước, không gặp trở lại mọi hoạn nạn, đó là Trì giới. Dốc tin tưởng vào diệu nghĩa không, tâm dứt mọi vọng niệm, gắng gổ nhận lấy tất cả mọi sự việc khó có thể thực hiện được, đó là Nhẫn nhục. Không dựa vào lãnh thọ nên đối với mọi nẻo thiện ác khổ vui cũng không còn tham vướng, đó là Tinh tấn. Như đem nỗi an lạc thọ nhận trong ba cõi để tiêu trừ nỗi khổ của ba thứ độc gây nên, hoàn toàn dứt trừ sạch, đó là Nhất tâm. Hoặc như do khéo dứt trừ các thọ mà dốc chí hâm mộ đạo pháp, chưa từng vướng mọi lo lắng, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ chỗ dừng của tâm ý tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đoạn trừ các nẻo ham thích cũng như nhớ nghĩ về năm thứ dục lạc, nên có thể tự nhận thấy rõ nơi tâm mình cùng dấy khởi và phát triển việc nhớ nghĩ các pháp, đó là Bố thí. Thấy được những tỳ vết cấu uế ấy để tự chế ngự nơi tâm, uyển chuyển thuận hợp theo nẻo chân chánh, đó là Trì giới. Quan sát các pháp khiến dừng dứt mọi vọng niệm tuân phụng theo sáu pháp Ba-la-mật, đó là Nhẫn nhục. Như có thể ngăn chận chế ngự mọi nẻo giong ruổi buông lung của tâm khiến dứt trừ các hành động tà vạy, đó là Tinh tấn. Hoặc như nhớ nghĩ đến mọi người, tâm dứt ái dục, thảy đều rõ gốc của nó vốn không, đó là Nhất tâm. Theo nhận thức mà dốc tâm tin tưởng, nương tựa nơi sự vận hành của các duyên để theo các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ chỗ nhận ra chốn dừng của pháp ý mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như nhận thấy thật tướng của các pháp và làm cho chúng hiển lộ khiến ai cũng thấy rõ, nhờ đấy mà tâm khai mở, đó là Bố thí. Quan sát về hết thảy các hiện tượng, nhận ra gốc của chúng là không, từ đấy xem xét tận cùng các pháp, thảy đều như cảnh huyễn hóa để cũng nhận ra gốc của chúng là không, đó là Trì giới. Tuân phụng kinh điển, tu theo nẻo nhân quả, mọi hành xử đối với tất cả đều không hề tăng giảm, đó là Nhẫn nhục. Như thấy kẻ khác gặp nguy khốn luôn dấy tâm từ nhằm diệt trừ mọi thứ độc hại để dốc sức giữ gìn đạo pháp, đó là Tinh tấn. Tuy tiếp cận và hành xử các pháp, thông tỏ chúng nhưng không hề có sự dựa cậy, tham vướng, chí luôn gắn bó với tịch tĩnh an định, đó là Nhất tâm. Thuận hợp với mọi nẻo chuyển biến của mười hai duyên khởi, nhận ra chỗ tận cùng của khởi điểm cùng gốc ngọn chúng thảy đều tịch tĩnh, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ chỗ nhận ra chân lý của sự khổ, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như mắt xem xét các hiện tượng trong ba cõi tâm thông tỏ chúng thảy là không, từ đấy lìa bỏ mọi nỗi khổ hoạn cũng như dứt mọi nơi chốn mong cầu, đó là Bố thí. Nhận ra mọi đầu mối của khổ không một chút gì có thể gọi là vui, nhân đấy mà suy biết về mọi nẻo sinh tử đều là sầu não, đó là Trì giới. Xem xét mọi nỗi khổ đều từ sự duyên hợp nơi bản thân mà sinh ra cái nạn ấy, nhưng thảy hư dối, gốc là không, đó là Nhẫn nhục. Quan sát về mọi khổ não thảy từ nẻo vi tế mà dấy khởi, vì không thể phân biệt được tác dụng của nó nên không biết được, đó là Tinh tấn. Thấy rõ các thứ khổ ấy đã từ các nhân tích tập mà sinh ra, tự lao vào chốn tăm tối tà vạy mà bỏ quên cái gốc thanh tịnh, đó là Nhất tâm. Hành giả quán tưởng như vậy, không còn đi theo con đường tà vạy, từ đấy đoạn trừ hết thảy các thứ khổ, khiến cho gốc rễ đầu mối của chúng đều bị diệt thì làm gì còn những ngành ngọn, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ chỗ nhận ra chân lý của nguyên nhân khổ, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như thực hiện việc học tập, hành động, tâm luôn lìa bỏ mọi nẻo tạo tác của năm ấm, sáu trần, đó là Bố thí. Hoặc thấy chúng sinh lẩn quẩn trong các nẻo của năm ấm, sáu trần, mười hai nhập, nên cố dứt trừ mọi tập nhiễm của chúng, đó là Trì giới. Như cùng hòa hợp sinh sống trong sự tu tập các pháp Ba-la-mật, thành tựu được các pháp hành hóa đúng theo nẻo đạo Bồ-đề vô thượng, đó là Nhẫn nhục. Hoặc như dứt bỏ ái dục, có được đầy đủ các pháp về đạo phẩm, quan sát tất cả các pháp để nhận ra đầu mối của chúng do nhân duyên kết hợp sinh ra, đó là Tinh tấn. Như đoạn trừ mọi trói buộc của tất cả nơi chốn thọ và nhận ra là không chỗ thọ, đó là đó là Nhất tâm. Quán tưởng về các nạn, các pháp không đem lại ích lợi là nhằm để tiêu diệt sạch mọi lo âu về khổ não hư trá, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhận ra chân lý về sự tận diệt khổ mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Đạt được sự diệt khổ, từ đấy tu tập theo nẻo đạo, phụng hành diệu lý vô nguyện, đó là Bố thí. Như đem ứng dụng niềm an lạc hết mực do đã tận diệt mọi khổ vào hành động để nhận ra tận diệt theo nẻo “vô sở tận” mới đích thực là tận diệt, đó là Trì giới. Xua trừ mọi tưởng chấp là gốc của chướng ngại để có được sự an nhiên tự tại, dứt mọi chấp trước, đó là Nhẫn nhục. Nhận thức mọi hiện tượng từ gốc xuất phát để nhận ra mọi xoay chuyển của sự khổ nhọc, nhân đấy mà dứt trừ các thứ phiền não, đạt được sự an lạc lâu dài, đó là Tinh tấn. Giữ vững sự tu tập thanh tịnh, an tọa riêng biệt nơi chốn vắng lặng, thực hiện các pháp Tam-muội để tự điều phục tâm ý, đó là Nhất tâm. Như không chấp vào quá trình tu chứng, dứt sạch mọi bụi bặm cấu nhiễm, lìa bỏ ái dục, thực hành các pháp chánh thọ định ý khiến luôn được an nhiên, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhận ra chân lý về con đường diệt khổ, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đã đạt được chân lý giác ngộ tối thượng, nẻo hành hóa cùng với đạo luôn hợp nhất, cùng hòa hợp một cách sáng suốt để cứu giúp mọi nguy khốn, đó là Bố thí. Thấy rõ được nẻo đạo pháp theo kinh điển để học hỏi tu tập, không trở lại theo con đường tà giáo mà nhân đấy để hóa độ chúng, đó là Trì giới. Như còn nhớ nghĩ về các pháp tà ấy là không thể nhớ nghĩ về đạo pháp, nên cần khuyến trợ để đến với chánh pháp khiến cho nẻo chánh giác luôn được tồn tại, đó là Nhẫn nhục. Đạt được các pháp Tổng trì để có thể quán xuyến mọi ngọn nguồn các pháp trong ba cõi, từ đấy nêu giảng rõ về kinh điển, thừa hành đúng theo chánh pháp, đó là Tinh tấn. Ví như đang hành xử theo đạo pháp thì không nên chạy theo thế tục, tạo nhân chân chánh ấy nên có thể dứt hết mọi nẻo hư vọng, đó là Nhất tâm. Hoặc như có khả năng giảng giải đạo pháp theo từng hình loại, hết thảy đều thông tỏ và tùy từng đối tượng mà dẫn dắt, giáo hóa, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có được Tín căn mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như tin tưởng, từ đó dứt mọi thứ xấu ác, nhằm thể hiện rõ gốc tịch tĩnh, trừ mọi hành động bất thiện làm hiển lộ đạo pháp lớn lao, đó là Bố thí. Phụng hành, tin nên tạo được an lạc đến với hết thảy các pháp, nhận ra đầu mối của mọi đức hạnh là “vô sở sinh” đó là Trì giới. Do mang lòng tin tưởng hết mực nên luôn đạt được mọi hoan hỷ vui thích, dứt sạch sân hận, đó là Nhẫn nhục. Đạt đến nẻo “vô sở hữu” mới thực là diệu hữu, từ đấy mà chấp trì tất cả các pháp một cách rốt ráo, đó là Tinh tấn. Đem gốc rễ của sự giải thoát làm ngọn nguồn cho mọi đạo đức, từ đấy mà tin tưởng, siêng năng tinh tấn tu tập để các căn luôn được tịch tĩnh an định, đó là Nhất tâm. Do có thể giữ vững tin tưởng mà chí nguyện cũng luôn gắn bó với các đạo phẩm, dứt mọi sự ham thích tà niệm, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có được Tinh tấn căn, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như trường hợp có thể siêng năng tu tập thì giữ lấy kiên cố, phụng hành các phương tiện, hoàn toàn dứt sạch mọi tham lam luyến tiếc, đó là Bố thí. Chẳng dựa vào các pháp hữu vi, cũng không rời bỏ nẻo ánh sáng hiển bày, luôn gắn bó với các pháp vô vi tịch tĩnh, đó là Trì giới. Mọi nẻo hành xử của thân, cũng như đối với tất cả mọi hình loại đều không phạm đến, đó là Nhẫn nhục. Dốc chí với các nẻo cao xa huyền diệu, ham chuộng những thệ nguyện lớn lao thể hiện lòng thương vô bờ, đó là Tinh tấn. Nghe ngóng, lãnh hội tùy theo hoàn cảnh, hiểu biết liền dốc sức phụng hành không hề biếng nhác, bê trễ, đó là Nhất tâm. Chỗ học hỏi khắp các pháp thảy đều thông suốt mọi sự việc nơi hiện thế và cả đời sau, gắn bó với sự nghiệp cứu đời, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có được Ý căn (Niệm căn) mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như thấy được chân đế, nên xem mọi sự nghiệp nơi gia đình đầy dẫy những lo âu, cấu uế, chỉ muốn trừ bỏ những nẻo ấy, đó là Bố thí. Quán tưởng các pháp hữu vi như tham dục là do không nhớ nghĩ các pháp vô vi để dứt trừ mọi nẻo tham đắm vướng mắc, đó là Trì giới. Xem xét kỹ cả hai chiều thuận, nghịch, không nhiễm theo các thứ khổ, tâm dứt sạch tham đắm, đó là Nhẫn nhục. Như có thể thu giữ toàn bộ hết thảy các pháp, không hề bị quên mất hay thất tán, từ đấy đạt đến gốc của mọi nẻo đạo đức, đó là Tinh tấn. Hành hóa theo đúng nẻo tịch nhiên, đi vào mọi nơi chốn an trụ, tâm dứt mọi vọng niệm, đó là Nhất tâm. Theo đúng nẻo chân lý đã được chứng thực, không rơi vào các nẻo hư vọng, tư duy về các pháp để nhận ra chúng là không có gốc rễ, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có được Định căn và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như dùng định căn để tiêu trừ các thứ phiền não vốn là những chướng ngại cho việc hội nhập cõi thâm diệu, từ đấy không còn gặp trở lại những hoạn nạn nữa, đó là Bố thí. Trừ dứt mọi nẻo vọng loạn, chứng đắc các pháp Tam-muội để khai thị cho hết thảy chúng sinh, đó là Trì giới. Như tâm luôn tịch nhiên chưa từng vọng động, thực hành đúng nẻo các pháp chánh thọ định ý, đó là Nhẫn nhục. Hoặc như chí không ưa thích các nẻo chuyển biến của nhân duyên, chỉ xem tính chất dịu ngọt an lạc của pháp lạc là chánh pháp vô thượng, đó là Tinh tấn. Như tâm ấy thường chuyên nhất, không hai niệm, luôn thực hiện các pháp chánh thọ định ý nhằm đem lại lợi lạc cho tất cả, đó là Nhất tâm. Mạnh mẽ mà vững chắc, chí không khiếp nhược, tâm tự điều phục chế ngự, thực hiện các pháp Tammuội chánh định, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có được Tuệ căn và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như dốc chí giữ vững tất cả mọi nẻo ánh sáng của Bậc Giác Ngộ, từ đấy nhằm tiêu trừ mọi hiện hành của phiền não trần cấu, đó là Bố thí. Do đạt được sự thông tỏ ánh sáng giác ngộ, nhờ đấy mới tiếp cận đến cõi sâu xa huyền diệu khiến tâm luôn an nhiên dứt mọi nương tựa, đó là Trì giới. Như có thể vì chúng sinh mà nhẫn chịu hết thảy mọi khó nhọc, đời đời xoay chuyển khắp cõi sinh tử mà không biếng trễ, đó là Nhẫn nhục. Thấu đạt diệu nghĩa của đạo, thu giữ quán xuyến mọi nẻo thiết yếu, từ đấy nhận ra gốc của các pháp là thanh tịnh, đó là Tinh tấn. Tôn phụng nẻo tịch nhiên vô vi của bậc Thánh giác ngộ, vì chúng sinh nên mới nêu bày chỉ dạy về cội nguồn của các pháp, đó là Nhất tâm. Đem ánh sáng giải thoát để phụng hành đúng nẻo không chỗ hành, không một đối tượng nào mà không thông đạt nên chúng sinh trong ba cõi đều đội ân, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có được Tín lực, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như có được sự tin tưởng vững chắc, từ đấy dứt bỏ mọi sai trái thất tín, như con của Sư tử vương cùng giao ước với chúng bạn mà chưa từng thất tín, đó là Bố thí. Chỗ đứng vững của giới luật là tính chất tinh chuyên không biếng trễ. Cũng như về thời xa xưa có chú voi con luôn dốc ăn uống để thân mình mau to lớn. Bồ-tát cũng như vậy, luôn uống lấy các pháp nhu hòa thuận hợp để nuôi dưỡng thân tâm, luôn nhớ nghĩ, do vậy mà Phật đạo được thành tựu, đó là Trì giới. Do phiền não dấy khởi nên có người đến giết hại, thân thể tan nát mà tâm Từ vẫn thể hiện liên tục. Cũng như Bồ-tát Tô-ma là bậc Đại sĩ đã cứu đám côn trùng thân mềm, tuy bị kẻ ác hại thân nhưng tâm không hề biến đổi, đó là
Nhẫn nhục. Siêng năng tinh tấn trong mọi hành động, chưa từng thối bước, đổi hướng, nhằm dứt sạch mọi cội nguồn như có thể làm khô cạn biển lớn, nẻo hành hóa như thế để dốc tiêu trừ tham dâm, giận dữ, si mê, đó là Tinh tấn. Như thực hiện các pháp thiền định đạt được mọi an lạc thanh thoát, dẫn đến sự hành hóa luôn chuyển đổi tăng tiến nhằm tiêu trừ mọi thứ tưởng chấp, đó là Nhất tâm. Nẻo tu tập theo ánh sáng của Bậc Giác Ngộ, nhưng đấy chính là sự thọ nhận không chỗ thọ, từ đó, con đường hành động theo đúng chánh pháp, không trái với lời dạy của Bậc Giác Ngộ, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có được Tinh tấn lực tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như gắng gổ thực hành nhẫn nhục, tùy hoàn cảnh mà sử dụng phương tiện thích hợp để độ thoát tất cả, đó là Bố thí. Hoặc như vận dụng mọi sức lực để đạt được thắng lợi tối thượng, nhân đấy mà thể hiện mọi tạo tác, cũng như vị Thái tử con quốc vương Câu-da, đã dùng sức mạnh để chế ngự mọi kẻ oán địch, đó là Trì giới. Như được nghe về tính chất an nhiên vô vi của các pháp thì có thể tùy thuận thích ứng ngay. Cũng như phu nhân của quốc vương Tu Tinh đã thể hiện mọi sự hành xử hết sức đặc biệt về nhu hòa nhân ái khiến không ai không quy phục, đó là Nhẫn nhục. Con đường dốc sức siêng năng tu tập luôn đi đúng nẻo chân chánh giác ngộ, từ đấy mà có được sự thông đạt rộng lớn dứt bỏ mọi biếng nhác lười trễ, đó là Tinh tấn. Thực hiện các pháp thiền định, không một cõi nào mà không đi vào nhằm cứu độ hết thảy mà không phóng dật, đó là Nhất tâm. Từ chỗ phát sinh của ánh sáng giác ngộ mà thực hiện thành tựu một cách trọn vẹn con đường, tùy theo hoàn cảnh nhưng vẫn thuận hợp diệu nghĩa. Giống như về thời xa xưa, có vị Đồng tử Uất-đa đã khéo khuyến dụ đám bạn bè đông đảo, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có được Ý lực (niệm lực) tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như ở tại cõi trời mà không đoạn trừ năm thứ dục lạc ở cõi ấy, nhưng tâm không vướng dục, cũng không hiển lộ sự ham thích về dục, đó là Bố thí. Hoặc như thấy các nàng ngọc nữ của chư Thiên nơi cõi trời, xem mọi đối tượng ấy như những hoạn nạn mà dứt mọi tham đắm, đó là Trì giới. Tuy ở nơi thiên cung mà không ham chốn thiên thượng, không vui thích với cảnh điện ngọc đền vàng, xem trăm thứ hương vị một cách thản nhiên, đó là Nhẫn nhục. Dù làm người hay chư Thiên cũng cầu giải thoát, lìa bỏ mọi thứ vui thú dịu ngọt, chỉ lấy đạo pháp làm niềm vui, đó là Tinh tấn. Như ở nơi cõi chư Thiên, trụ tại chốn đông đảo nhưng tâm không loạn động, ý luôn an định gắn bó với chánh pháp, đó là Nhất tâm. Vì chư Thiên, người mà nêu bày giảng giải kinh điển, chỉ luôn thể hiện sự ung dung, thấu đạt, dứt mọi sợ hãi, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có được Định lực và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Đối với tất cả mọi sở hữu có thể đem cứu giúp mà không luyến tiếc, luôn vui thích trong cảnh tịch nhiên. Như vua Ma-điều lìa bỏ ngôi báu cùng cõi nước xuất gia làm vị Sa-môn, đó là Bố thí. Luôn thận trọng, giữ gìn trong mọi hành động của thân, dứt mọi lỗi lầm của khẩu nghiệp cùng nuôi dưỡng tâm ý không chạy theo đời, đó là Trì giới. Mọi cử động, làm việc đều luôn thuận hợp an ổn, không buông theo điều phi nghĩa, đó là Nhẫn nhục. Quan sát các pháp để nhận ra nẻo chân đế mà dứt mọi tà niệm, đó là Tinh tấn. Đối với hết thảy các pháp, bốn chúng đệ tử phải gắng học hỏi tu tập đạt đến quả vị Chánh giác Vô thượng, luôn quan sát để nhận ra các pháp là không, là Vô sở hữu, đó là Nhất tâm. Không dựa cậy vào các pháp thế gian, tâm luôn gắn bó với thệ nguyện lớn. Cũng như nhà chuyên sản xuất đồ gốm đã làm nên các thứ đồ dùng đủ loại, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có được Tuệ lực, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như có người đến bày tỏ yêu sách muốn lấy đầu mình, tức thì đem cho ngay, tâm không dấy sự chống đối, cũng như về thời xa xưa quốc vương Ca-di đã dũng cảm khi có người cầu xin như vậy, bố thí thân mạng của mình, đó là Bố thí. Cứu giúp mọi người không tham tiếc thân mình, cũng như trường hợp Duyệt-xoa ngăn chận con đường thông thương chính trong nước. Bấy giờ, Bồ-tát không hề tiếc thân mạng mình đã cùng với đám quỷ dữ chiến đấu, nhân đấy mà hàng phục và hóa độ chúng, vì tất cả mọi người mà khai thông con đường ấy khiến cho đám thương khách qua lại an ổn, đó là Trì giới. Ngày trước, có vị Bồ-tát ba lần lui tới đi vào biển lớn nhằm cứu thoát những người bị nạn khiến họ được bình yên mà cùng trở về nhà, đó là Nhẫn nhục. Chỗ dấy khởi sự cứu giúp cùng với nơi chốn đạt được ấy, như trường hợp phải vượt qua mọi sông suối, bảy lần đi đến biển lớn, đem hết của cải quý giá dùng để cứu giúp bao kẻ nghèo đói thiếu thốn, đó là Tinh tấn. Thực hiện các pháp thiền định để giúp cho tâm ý dứt bỏ mọi nẻo phóng túng, mong muốn được sinh vào cõi nào, cõi trời hay nhân gian, hoặc sinh ngay nơi cõi Phật trong mười phương, đó là Nhất tâm. Tuân phụng nẻo giác ngộ của bậc Thánh, nhận rõ mọi pháp ở thế gian giống như bầy ngựa hoang, từ đấy khéo giữ gìn bản thân mình để khuyến trợ Thánh đạo, khiến có thể tuyên giảng đạo pháp, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt được Niệm giác ý và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Lìa bỏ niệm bất thiện, chuyên tinh niệm về đạo, nhân nhớ nghĩ về các công đức mà phát huy đạo Bồ-đề vô thượng, đó là Bố thí. Chỗ ý nương tựa vào niệm, từ đấy suy nghĩ về hình tướng của các pháp mà tự kiềm chế lấy bản thân khiến dứt mọi nẻo phóng túng, đó là Trì giới. Như dốc chí với niệm, tập hợp các pháp, dứt bỏ buông thả phóng dật, thể hiện siêng năng tu tập dứt mọi chốn mong cầu hay lìa bỏ, thực hiện hoài bão đối với đạo pháp thể hiện tâm Từ bi đối với hết thảy các loài, luôn nhất tâm, định ý, đó là Tinh tấn. Mạnh mẽ mà vững chắc, cứu giúp cùng thu giữ mọi sức lực khiến không còn yếu kém thua sút, đó là Nhất tâm. Đã cởi mở được mọi ý niệm, thuận theo sức mạnh của diệu nghĩa, nhất là diệu nghĩa của các bậc cao đức, các bậc Thánh giác ngộ, rất khó đạt đến, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt được Trạch pháp giác ý và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như lựa chọn các pháp để phụng hành những pháp thanh tịnh, trừ bỏ mọi pháp tỳ vết cấu uế, đó là Bố thí. Thuận cầu giải thoát, nêu bày truyền giảng các pháp để nhằm hóa độ hết thảy mọi chúng sinh khổ đau trong khắp ba cõi, đó là Trì giới. Diệt trừ mọi nẻo tôi, ta, dứt mọi nơi chốn luyến mộ, chỉ nhớ nghĩ đến đạo Chánh giác Vô thượng là thứ quý giá nhất, đó là Nhẫn nhục. Nẻo hành hóa theo đúng chánh pháp, lựa chọn, mong đạt được diệu nghĩa của kinh điển thông qua sáu pháp Ba-la-mật cùng các kho tàng của ba thừa, đó là Tinh tấn. Mong đạt được sự thông tỏ khắp các pháp, dứt mọi hình sắc ảnh tượng, tiếp cận cảnh giới an nhiên, bao la, huyền diệu vượt mọi giới hạn của nơi chốn xứ sở, đó là Nhất tâm. Tìm tòi nơi tất cả mọi xứ sở hiện có cũng không thể hộ trì được cội nguồn của cảnh giới an nhiên tự tại, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt được Tinh tấn giác ý, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như có thể biết rõ về tất cả tài sản sự nghiệp ở đời là chẳng có thể giữ gìn được, nhờ đấy mà tâm dứt mọi tham vướng, từ bỏ mọi sở hữu thế gian, đó là Bố thí. Nẻo siêng năng tu tập hoàn toàn dứt mọi dục lạc, hâm mộ nơi đạo pháp, đạt đến Chánh giác Vô thượng, đó là Trì giới. Con đường dốc sức tu tập cần thông tỏ hết thảy các pháp trong ba cõi, tất cả khắp mọi nẻo trên trời dưới đất đều là cảnh huyễn hóa, không có chốn nào vững chắc để dựa cậy, đó là Nhẫn nhục. Tự điều phục lấy tâm mình để từ đấy giáo hóa chúng sinh, không gì là không thông suốt, giúp cho mỗi đối tượng đạt được sở nguyện của mình, đó là Tinh tấn. Nhớ nghĩ, thực hành thiền định là nhằm đoạn trừ mọi trói buộc vướng mắc, mong đạt đến gốc ngọn nhưng không thể nhận ra cội nguồn, đó là Nhất tâm. Ánh sáng giác ngộ không có nơi chốn để dựa cậy, cũng không từ chỗ kẻ khác ban cho. Thấu đạt hết thảy các phương pháp cùng mọi âm hưởng để hội nhập nơi Địa thứ bảy, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt được Hỷ giác ý và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Dung mạo luôn hòa nhã vui tươi, yêu quý chánh pháp không hề biết chán, đó là Bố thí. Luôn giữ gìn đối với ba nghiệp thân, khẩu, ý: Thân có ba, khẩu có bốn, ý có ba, đó là Trì giới. Tâm luôn nhu hòa, dịu dàng, chưa từng dấy sân hận, đó là Nhẫn nhục. Thường nhớ nghĩ đến mười phương Phật mà dứt mọi ý tưởng tà vạy, đó là Tinh tấn. Tâm ấy luôn tịch tĩnh, an định, dứt mọi vọng niệm, đó là Nhất tâm. Nẻo ánh sáng của Bậc Giác Ngộ luôn ghi nhớ làu làu, nhờ đấy mà nhận rõ mọi hiện tượng đều là đầu, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt được Tín giác ý và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Thân hành động dốc sức tin tưởng, trong ngoài đều tương ứng, đó là Bố thí. Tâm luôn nhớ nghĩ đến việc tin tưởng mà dứt trừ mọi ý tưởng tà vạy, đó là Trì giới. Ở nơi chốn sinh tử mà không dấy mọi tham lam ganh ghét, đó là Nhẫn nhục. Nơi chốn bày tỏ sự tin tưởng chưa từng bị dứt đoạn, nhờ đó mà thông đạt bao nghĩa lý lớn lao, dứt sạch mọi lối che chắn, trở ngại, đó là Tinh tấn. Mọi nẻo tin tưởng được tập hợp, luôn giữ gìn không để bị thất tán con đường đạt đến quả vị Chánh giác Vô thượng để độ thoát tất cả các loài, đó là Nhất tâm. Quan sát các lối diệt trừ để nhận ra diệu lý “vô sở diệt”, ham chuộng nẻo đường chân chánh, giác ngộ để từ đó cứu độ chúng sinh trong ba cõi, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt được Định giác ý và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Hành hóa luôn tinh tấn không hề biếng trễ, như đạt được định ý thấy được chư Phật trong mười phương, đó là Bố thí. Đạt được tịch tĩnh, lìa mọi nẻo ái dục, không tham đắm vinh hoa, chí dốc nơi đạo giải thoát, đó là Trì giới. Chỗ dừng của định ý để nhận lấy các thứ đạo phẩm nhằm phụng hành theo tám nẻo đường chân chánh, dứt mọi chấp giữ nơi các pháp của Bồ-tát, đó là Nhẫn nhục. Ý luôn thể hiện bình đẳng, rõ hết thảy mọi hiện tượng là không, xưa nay đều an nhiên tự tại không hề bị xâm phạm, hủy hoại, đó là Tinh tấn. Khiến cho mọi người luôn thấy rõ về sáu mươi hai thứ kiến chấp, chính là những lớp màn lưới tự buộc trói lấy mình cùng với các ấm, trần phủ che dày đặc, chỉ nhờ tỏ ngộ về gốc của vạn pháp là không thì tự nhiên được dứt trừ sạch, đó là Nhất tâm. Như lãnh hội được nẻo tận cùng của các pháp, bản chất của chúng là không sinh diệt, tất cả đều tịch tĩnh, chân không, vô ngại, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt được Hộ (xả) giác ý và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đều có thể giũ bỏ mọi đối tượng từng được yêu mến quý trọng mà không chút tham tiếc, từ đấy dốc cứu giúp bao kẻ nguy khốn dẫn dắt họ đến với đạo pháp, đó là Bố thí. Luôn giữ gìn ba nghiệp thân, khẩu, tâm không để phạm vào mười nẻo bất thiện, đồng thời dốc phụng hành mười đức, đó là Trì giới. Quan sát kỹ để nhận thấy chúng sinh luôn bị dẫn dắt theo mười hai nẻo, là do không được giác ngộ, Bồ-tát đã thông tỏ về các nẻo ấy nên không còn dựa cậy, vướng mắc, đó là Nhẫn nhục. Xa lìa mọi nẻo phân biệt về đuôi đầu gốc ngọn, mọi chốn vin dựa nêu bày, dứt hết các chốn tập nhiễm để dốc tu tập theo sáu pháp Ba-la-mật, đó là Tinh tấn. Tâm luôn nhớ nghĩ đến chúng sinh do vì tạo các nghiệp sai phạm cấu uế mà bị đọa nơi các cõi ác. Vì những hạng chúng sinh đó mà ưu tư lo lắng hết mực xót thương, đó là Nhất tâm. Luôn đoạn trừ mọi nẻo sinh khởi để nhận ra là không chỗ sinh, từ đấy nhận biết về các thứ hoạn nạn cùng hết thảy các pháp, bản thể của chúng là Vô sở hữu, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có được chánh kiến, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đã có được chánh kiến thì đều lìa bỏ các nẻo hành động tà vạy, cũng như những đầu mối vô ích, đó là Bố thí. Thấu đạt, thông suốt trong mọi nhận thức, từ khởi điểm cho đến chung cuộc luôn dứt hư vọng, thường giữ trọn chữ tín, đó là Trì giới. Tỏ ngộ về thể, hành hóa theo nẻo thanh tịnh để điều phục tâm ý, quy ngưỡng về đạo lớn để nhằm độ tất cả, đó là Nhẫn nhục. Do có thể tự chế ngự mình nên luôn bày tỏ lòng thương nghĩ đối với mọi người cũng như đối với tất cả mọi nỗi khổ cực về sinh tử trong ba cõi, từ đấy theo chánh pháp mà siêng năng tu tập, đó là Tinh tấn. Chí luôn hướng về đạo vô thượng, dứt bỏ mọi tạo tác sinh tử trong ba đời, luôn xa lìa tính cao ngạo, tâm luôn khiêm cung tự điều phục, đó là Nhất tâm. Bỏ mọi thứ tà kiến, tiếp cận được nẻo dẫn về chân đế, hành hóa theo pháp của bậc Khai sĩ, không chốn nào mà không thông tỏ, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt được chánh niệm và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Luôn tư duy để đoạn trừ mọi nơi chốn tạo tác mà ngộ lẽ “vô sở tác”, từ đấy vun trồng gốc thiện của công đức, đó là Bố thí. Do có được chân lý của chánh niệm nên thường tư duy về đạo pháp, không cần phải lìa bỏ ái dục vì cũng giống như hoa sen không hề bị nhiễm bùn, đó là Trì giới. Chỗ gọi là đất ấy có nghĩa là đất luôn có chủ, từ mọi nhân duyên kia mà đảm nhận việc sinh sản ra muôn vật. Bồ-tát thọ nhận giáo pháp của Phật cũng giống như vậy, nhưng luôn biết rõ thân vốn là không, đó là Nhẫn nhục. Đem chánh niệm bình đẳng để dứt trừ mọi phân biệt về hình tướng, đối với mọi nơi chốn hội họp đều nhận ra diệu lý “Vô hội hợp”, từ đấy mới có thể tích lũy công đức, đó là Tinh tấn. Khuyến trợ tất cả mọi công đức thiện, thảy đều rõ gốc là không, dứt mọi phân biệt, đó là Nhất tâm. Con đường tu tập luôn giữ vững chánh kiến trong đời hiện tại và cả vị lai, thực hiện các pháp cứu đời, nhằm đạt đến chân lý tuyệt đối, thanh tịnh, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có chánh phương tiện và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Lưỡi không nói lời độc ác, đem điều thiện dạy dỗ cho người, mở bày chỉ rõ về đạo pháp nhằm cứu độ cho hết thảy muôn loài, đó là Bố thí. Nẻo hành hóa luôn thanh tịnh, dứt mọi uế trược, tuyên giảng các pháp của hàng Bồ-tát, đó là Trì giới. Luôn nêu bày lời nói chân chánh, có ý nghĩa, không truyền dạy các nẻo thế tục, vô ích, đó là Nhẫn nhục. Tuy ở trong thế gian nhưng luôn giữ gìn về ngôn ngữ, không ham thích đàm luận chuyện dung tục, đó là Tinh tấn. Luôn tinh chuyên trong hành động, tâm dứt trừ mọi vọng tưởng, tịch nhiên vô vi nên mọi nẻo thực hành các pháp chánh thọ định ý luôn hợp nhất, đó là Nhất tâm. Mọi ngôn từ luôn thể hiện sự chí thành, dốc luận bàn về đạo pháp, giảng thuyết về nghĩa lý, tránh mọi nẻo đàm luận viễn vông, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có được chánh nghiệp và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Nẻo tu tập có được chánh nghiệp nên dứt hết mọi tội lỗi dùng đức để tự giữ gìn mà dốc tâm phụng hành Tam bảo, đó là Bố thí. Đạt được sở nguyện, gồm đủ các đức, dứt mọi nẻo phi pháp cùng các hành vô ích, đó là Trì giới. Mọi chốn đều luôn thích ứng thuận hợp, không rơi vào cõi điên đảo vì đã rõ về các pháp vô thường, khổ, không, phi ngã (vô ngã), đó là Nhẫn nhục. Hết thảy mọi chốn hướng tới đều không nhằm làm ngăn trở hiện tại bằng những hành động sai trái, không thích hợp, đó là Tinh tấn. Mọi sự thọ nhận để thực hiện luôn phụng hành mười điều thiện, sáu pháp Ba-la-mật, từ đấy hoàn toàn dứt bỏ mọi nẻo chấp trước, đó là Nhất tâm. Tuân phụng chánh nghiệp nên chưa từng dấy vọng tưởng, cũng không hề dốc vun đắp gốc tà, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực. Thế nào gọi là có được chánh mạng và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Lại luôn tùy thuận thích nghi với hoàn cảnh, khéo sử dụng phương tiện mà hóa độ mọi người, đem những hành động thích hợp với hoàn cảnh để giúp cho ý tạo lập chánh mạng, đó là Bố thí. Như dùng con đường giải thoát để soi sáng sự tu tập khiến cho thân mạng luôn an trụ mà dứt mọi tham đắm về thân, đó là Trì giới. Hoặc như nhận thấy chúng sinh căn trí không thuần thục mà dấy khởi tâm Từ bi muốn hóa độ đưa họ về với đạo pháp, đó là Nhẫn nhục. Hay như từ chỗ nhận biết về tính chất hoại diệt của các pháp mà nhận ra là đạo pháp không thể hoại diệt, đó là Tinh tấn. Ở nơi chúng sinh mà không cùng thọ mạng như họ, dùng chánh pháp để dẫn dắt giáo hóa tất cả các loài, đó là Nhất tâm. Chẳng dùng đời sống vật chất để tạo lập cho thọ mạng của mình, mà thọ mạng ấy chính là dốc chí nơi đạo pháp, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt được chánh ý (niệm) và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như ý thức quan sát khắp các nẻo biến chuyển của các pháp hữu vi để nhận ra gốc của nó là vô vi, tuy trụ nơi vô vi mà không chấp vào nẻo tu chứng, đó là Bố thí. Hoặc như đối với các pháp thiện ác, thanh tịnh, uế trược… luôn lãnh hội theo diệu lý bất nhị, hết thảy các pháp cũng đều như vậy, đó là Trì giới. Đức hạnh không bị dứt mà mỗi ngày đều chuyển biến, nâng cao, cho đến đạt được địa Không thoái chuyển, đó là Nhẫn nhục. Như có được phước báo tốt đẹp về điều thiện vô số vô lượng, nên luôn nhớ nghĩ đến việc cứu giúp muôn loài trong mười phương, đó là Tinh tấn. Cùng nhận thấy về cội nguồn của tất cả các pháp đều đúng với chân lý như vậy, tức bản chất của chúng là Vô sở hữu, đó là Nhất tâm. Như tôn phụng cõi tịch nhiên, nhận rõ gốc ngọn đều là không, không có đối tượng nào bị quên mất, cũng chẳng có kẻ nào có thể xâm phạm, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt được chánh định và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như vui thích với chánh kiến nên chẳng còn chạy theo nẻo tà kiến, nghi ngờ, đã thực hiện theo chánh kiến ấy thì luôn dứt mọi tà nghiệp, đó là Bố thí. Tạo lập được các hành động bình đẳng chân chánh để phụng trì các pháp Bồ-tát, đó là Trì giới. Như nhờ chánh định nên tạo được mọi an lạc giải thoát, không còn những tạo tác tà vạy, đó là Nhẫn nhục. Do có được sự an định ấy mà dốc phụng trì cái gốc của bậc Khai sĩ, sớm tối luôn siêng năng, dứt mọi biếng trễ cùng mọi dựa cậy nương nhờ, đó là Tinh tấn. Đem lại mọi an lạc như sở nguyện của tâm, mọi nẻo hành hóa đều theo điều thiện, nên luôn nhận được thư thái, an nhiên, đó là Nhất tâm. Thực hiện các pháp Tam-muội nhằm dứt hẳn mọi ràng buộc của bạn bè lũ nhóm, tâm cũng xua sạch mọi nẻo thị phi, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực. (Tám đạo phẩm trong đoạn kinh này thiếu một loại).
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Thế nào gọi là nhằm đạt được cõi tịch tĩnh an nhiên mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như có thể dứt trừ các pháp tranh cãi, hý luận nên tánh luôn thể hiện nhu hòa, điều phục, đó là Bố thí. Hoặc như ba nghiệp thân, khẩu, ý, luôn tin tưởng, vui vẻ không sai phạm đối với các pháp, bản thân cùng với đạo hòa đồng, đó là Trì giới. Do xua tan mọi che chắn vây phủ nên năm ấm và sáu trần luôn được lãnh thọ một cách thích hợp đúng đắn dứt mọi chướng ngại, đó là Nhẫn nhục. Thực hiện thành tựu các pháp Tam-muội chánh định nên không gì có thể làm cho dao động, đối với các thứ tham dâm, sân nộ, si mê, tâm không bị nhiễm đắm, đó là Tinh tấn. Con đường tu tập theo ánh sáng của Bậc Giác Ngộ dứt mọi sự phân biệt, luôn thích ứng với hoàn cảnh, theo phương tiện nhằm độ thoát tất cả, đó là Nhất tâm. Sở nguyện nhằm đi đến khắp mọi nơi chốn, cảnh giới, thông tỏ các pháp trong ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, không một trở ngại, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ chỗ quán tưởng mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như trường hợp chưa được nghe pháp mà nay được nghe nên đem chỗ lãnh hội ấy để khai hóa hết chúng sinh, đó là Bố thí. Không được đem những kiến thức về bản thể là không của các pháp dùng vào nẻo tà vạy nghi ngờ, mà là dùng để hóa độ mọi thứ tội lỗi cùng những tỳ vết cấu uế, đó là Trì giới. Có thể thực hiện việc dẫn dắt giáo hóa vô số chúng sinh khiến họ phát tâm Bồ-đề, dấy tâm Từ bi đối với mọi cảnh nguy khốn, đó là Nhẫn nhục. Mọi ngôn ngữ nêu bày tuyên giảng về nẻo Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng của Đức Phật luôn đạt được thành tựu trong công việc cùng giáo hóa mọi người, đó là Tinh tấn. Như có thể lần lượt thấu đạt một cách thông suốt các pháp trong ba mươi bảy thứ trợ đạo cùng mười hai duyên khởi, đó là Nhất tâm. Hoặc như nhờ trí tuệ mà tỏ ngộ hết thảy mọi hiện tượng đều là không, dứt mọi tưởng, nguyện, thể nhập diệu lý Vô sở hữu, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ chỗ vui thích với ánh sáng giác ngộ mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như có thể thích ứng với hoàn cảnh lìa bỏ mọi nẻo hoạn nạn của lão, bệnh, tử, từ đấy dốc tâm nêu bày chỉ rõ về đạo pháp Chánh giác Vô thượng, đó là Bố thí. Dùng ánh sáng giác ngộ tiêu diệt mọi khổ lụy của ái dục, nhờ đấy mà tính chất an nhiên tự tại của đạo giải thoát vô thượng được thể hiện sung mãn, đó là Trì giới. Như đem ánh sáng của bậc Thánh làm cho an định khắp mọi nơi chốn, dứt hết các nghiệp tà, thảy đều hành hóa theo Bồ-tát, đó là Nhẫn nhục. Hết thảy đều được an lành nhờ ánh sáng giác ngộ soi tỏ rực rỡ, dốc chí giữ vững cõi đạo nên không một nơi chốn nào mà không thông suốt ứng hiện khắp, đó là Tinh tấn. Như đem ánh sáng rạng rỡ tỏa chiếu khiến cho hết thảy mọi nơi chốn đều được thọ nhận, từ đấy mọi cội nguồn của các pháp đều được nhận rõ là không có xứ sở, đó là Nhất tâm. Nương theo diệu dụng của trí tuệ bậc Thánh mà thông tỏ hết thảy các pháp hàm chứa trong mười hai bộ kinh điển, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhằm đạt đến giải thoát mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Đạt nẻo giải thoát, tâm luôn thể hiện sự nhu hòa, an định, thường quan tâm đến việc cứu giúp chúng sinh thoát khỏi khổ nạn nguy ách, đó là Bố thí. Dứt trừ tất cả mọi nơi chốn ngăn chận chướng ngại, khiến cho không còn một nơi nào bị che phủ mờ tối, đó là Trì giới. Như đối với mọi thọ nhận, nên trừ bỏ mọi thứ cấu uế, luôn tu tập phạm hạnh, nhân đấy mà hành động tạo tác nhằm dốc sức tuân phụng đức hạnh, đó là Nhẫn nhục. Luôn thể hiện tâm Từ bi đối với tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới, tâm dứt mọi vọng niệm nên luôn hoan hỷ, tĩnh lặng, đó là Tinh tấn. Luôn có thể thuận theo hoàn cảnh mà gánh vác thể hiện nhẫn nhục, mọi nẻo khổ vui đều không làm cho tăng giảm, đó là Nhất tâm. Thường đem các pháp giáo hóa đúng với chánh pháp, tất cả mọi nơi chốn hành hóa ấy đều chân chánh thích hợp, không hư dối, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là noi theo các bậc Tỳ-kheo trong Thánh chúng mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như có thể giáo hóa tạo lập tất cả các thệ nguyện nhằm dốc tâm giữ vững đại nguyện đối với đạo pháp, đó là Bố thí. Theo chỗ an lạc đạt được mà kiến lập tất cả, từ đấy dùng đạo pháp mà hóa độ, đó là Trì giới. Mọi sở nguyện tu tập là nhằm đạt đến cảnh giới tịch nhiên, vô vi, nên tâm luôn dứt bỏ mọi vọng động rối rắm, thể hiện ở sự điều tiết, hạn chế, đó là Nhẫn nhục. Các nẻo hành hóa luôn biểu lộ tính chất thù thắng, vượt hơn và khác biệt chứ không đi cùng lối với thế tục, đó là Tinh tấn. Chỗ tâm thọ nhận các pháp luôn đúng nẻo chân chánh, thu giữ và nắm giữ lấy hết thảy các pháp mà không phóng dật, đó là Nhất tâm. Từ cảnh giới tịch nhiên càng tinh chuyên tu tập đạt đến các cánh cửa giải thoát là Không, Vô tướng, Vô nguyện, cũng không nửa chừng mà chấp vào sự chứng đắc, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực. Đối với tám bộ chúng có mặt ở đây cũng lại như vậy, chứ không có gì sai khác.
Thế nào gọi là theo ý nghĩa của tám bộ chúng mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như nêu giảng rõ về ý nghĩa là nhằm cởi mở các mối phi nghĩa, vì ở những nơi ấy thì không thể dùng tâm mà thông tỏ các ý nghĩa của sự giác ngộ, đó là Bố thí. Có thể khiến cho tất cả chúng nhân, chư Thiên trong ba cõi dấy tâm ham thích được lãnh hội các pháp đã nêu bày giảng dạy, đó là Trì giới. Như quảng diễn các ý nghĩa luôn dứt bỏ mọi nẻo lầm lỗi cấu uế, thường tu tập thanh tịnh, thể hiện tâm Từ bi, nhân ái, nhu hòa, đó là Nhẫn nhục. Mọi sự giảng giải luôn chí thành nêu bày rộng khắp, đầy đủ vì mọi người mà tuyên giảng chánh pháp, cho đến tận cõi trời A-ca-nị-trá, thảy đều đảm nhận và thực hiện một cách thích ứng với đạo pháp, đó là Tinh tấn. Đem ý nghĩa cùng với tâm ý tạo được sự vui thích đối với tất cả, đó là Nhất tâm. Nơi chốn an trụ vững vàng luôn dứt mọi sân hận, dùng chánh pháp để khuyến hóa, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhằm cởi bỏ mọi sự trói buộc của các pháp mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đạt được các pháp luôn giữ gìn không để mất mát, thuận theo ánh sáng của đạo pháp mà tu tập đúng nẻo chánh pháp, đó là Bố thí. Dứt trừ các tưởng về bỉ ngã, kể cả đối với bản thân mình, đối với mọi hiện tượng trong ba cõi đều tỏ ra an nhiên tự tại nên tâm không còn tham đắm vướng mắc, đó là Trì giới. Ngôn, hành luôn tương ứng, dứt mọi sai trái lệch lạc, thân, khẩu, tâm hành luôn an định hòa hợp, đó là Nhẫn nhục. Sớm tối tu tập thường xuyên, thực hiện đầy đủ và đúng hướng ba học là giới, định, tuệ, nhờ đấy mà mọi nhận thức về các pháp mới đạt đến bờ giác ngộ, đó là Tinh tấn. Luôn an trụ nơi đạo pháp, không chạy theo ngã, phi nghĩa, giáo hóa, đem bốn ân nêu rõ cho chúng sinh lãnh hội, đó là Nhất tâm. Thường hành động theo nẻo đức lớn, không vướng mắc ở những tiểu tiết vô ích, đối với tất cả mọi ý niệm cũng vậy, không khác, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhận rõ tính chất thuận lý mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như nêu giảng về mười hai nẻo tùy thuận để hóa độ nhằm diệt trừ các thứ xấu ác cấu uế trong năm cõi ô trược, đó là Bố thí. Hoặc như đem cảnh giới tịch nhiên giải thoát để giáo hóa những kẻ mê lầm đưa họ đến với thế giới giác ngộ, đồng thời cũng nhằm hóa độ hết thảy muôn loài, đó là Trì giới. Như thuận theo thế tục thông qua ngôn ngữ, đàm luận, nêu bày về mọi việc, nhân đấy mà giáo hóa dẫn dắt, cho đến khắp tất cả mọi người, đó là Nhẫn nhục. Hay như có thể lìa bỏ mọi hành động tham dâm, sân nộ, si mê, xem tất cả những nhớ nghĩ về chúng là sai trái, biểu lộ của tâm tà, đó là Tinh tấn. Thực hiện thành tựu các pháp Tam-muội chánh định, từ đấy dứt trừ mọi dấy khởi về các ý niệm, tư duy vô ích, đó là Nhất tâm. Sở dĩ phụng hành Thánh đạo với trí tuệ hết mực rộng lớn, sáng suốt là nhằm đạt tới thế giới giải thoát dứt sạch mọi phiền não trói buộc, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là do đạt được biện tài thuận lý mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như vì mọi người mà nêu rõ từng ấy thứ ánh sáng của biện tài, đó là Bố thí. Hoặc như ngôn từ hết mực thâm diệu luôn thể hiện nhu hòa, đằm thắm khiến cho xa gần không ai là không quy phục, đó là Trì giới. Có thể khiến cho tất cả mọi người cùng đến để nghe, lãnh hội, dùng ý mà cởi mở cho tâm bị tham vướng, đó là Nhẫn nhục. Dùng ngôn từ để giảng dạy phổ biến khắp mọi nơi chốn, vượt khỏi các biên vực đến cả mười phương cùng được nghe, đó là Tinh tấn. Tên tuổi cùng đức độ nức tiếng vang xa khắp cả trên trời dưới đất, công đức luôn gồm đủ chưa từng bị dứt đoạn, đó là Nhất tâm. Tham cứu học hỏi khắp trong kho tàng kinh pháp, thấu đạt diệu lý Vô sở tùng sinh, đi vào khắp ba cõi để hóa độ chúng sinh cho đến khi nhập Niết-bàn, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là do dứt mọi chán ghét mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như vì hạng chúng sinh còn nhiều tham đắm mà thuyết kinh giảng đạo chưa từng biết mệt mỏi hay biếng trễ, lại luôn nhớ nghĩ tìm biện pháp cứu độ tất cả chúng sinh tham lam, ganh ghét, đó là Bố thí. Luôn dấy tâm thương xót nhớ nghĩ đối với hết thảy các loài nên dốc tâm đem đạo pháp mà dẫn dắt giáo hóa họ, chỉ rõ về Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng, Thánh chúng chỉ mới tiếp xúc cũng đã dứt mọi chán ghét, đó là Trì giới. Tự thực hiện con đường tinh tấn, dứt mọi sân hận, thà thân mạng bị hủy hoại cũng tạo lập được tâm bình đẳng thể hiện khắp mọi nơi chốn nhờ đấy mà chánh pháp được truyền bá rộng rãi, đó là Nhẫn nhục. Như dùng các thần túc phi hành đến khắp chốn, dốc hết tâm lực theo hoàn cảnh giáo hóa hạng tăm tối ngu muội, nhất là những đối tượng cần được độ thoát, đó là Tinh tấn. Tùy theo sự ưa thích mà thực hiện các pháp Tam-muội chánh thọ để dạy dỗ họ, khiến cho đạo pháp được tồn tại và phát triển, đó là Nhất tâm. Như có đông đảo người muốn được nghe giảng kinh điển, thì tùy theo số lượng những người ấy cùng sở nguyện ưa thích, hoàn cảnh được nghe để thực hiện việc thuyết pháp, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ thực hiện bố thí tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như trong trường hợp đem chánh pháp giáo hóa mọi người, có những đối tượng cần được giúp đỡ thì dùng giáo pháp khuyến trợ đối với hết thảy, khiến cho ai nấy cũng đạt được sở nguyện, đó là Bố thí. Về những chỗ cần được giúp đỡ ấy, mọi biểu hiện của thân, khẩu, tâm, luôn nhu hòa, vui vẻ, từ đấy đem chánh pháp mà hóa độ người, đó là Trì giới. Luôn ưa thích việc thi ân cứu giúp thuận hợp với những người mong cầu, dung mạo thường biểu lộ sự hòa nhã vui tươi, đó là Nhẫn nhục. Nơi chốn bố thí tâm ý luôn được điều phục, chú ý đến việc thực hiện các phương tiện thích hợp để dứt trừ các điều bất thiện, tu tập công đức, đó là Tinh tấn. Tâm ấy luôn thanh tịnh, trong lành, chẳng cần phải hủy diệt cấu uế, ô trược, chí trong sạch, ý an định, biểu lộ sự thương xót đối với tất cả chúng sinh, đó là Nhất tâm. Đối với những người cần được cứu giúp thì nên đem công đức ấy mà khuyến trợ giúp họ đến với Đức Phật, cũng như hóa độ chúng sinh, khiến họ phát tâm cầu đạo Vô thượng, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ việc thực hiện giữ giới tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như con đường phụng trì giới luật gốc là tâm
Từ bi, thường đem tinh thần vô úy mà ban cho mọi người, đó là Bố thí. Thực hiện tinh thần vô úy nên tâm không mang sân hận, luôn thận trọng giữ gìn ba nghiệp thân, khẩu, ý, không để cho sai phạm, đó là Trì giới. Từ hoài bão độ sinh nên tâm luôn biểu lộ mối thương xót đối với muôn loài, dứt mọi ý niệm giết hại, cũng như mẹ hiền dưỡng nuôi con nhỏ, đó là Nhẫn nhục. Đề ra các phương tiện thích hợp để ủng hộ việc giữ gìn giới luật, từ đấy thức tỉnh tất cả những kẻ vô ích phải biết xấu hổ để lìa bỏ, đó là Tinh tấn. Đem Từ bi cứu giúp chúng sinh, tâm luôn giữ nẻo thận trọng, vì đã nhận ra tính chất vô thường của vạn pháp nên dốc tâm chí tinh chuyên tu tập dứt mọi phóng dật, đó là Nhất tâm. Do có tâm Từ bi nên trong quá trình phụng trì giới luật luôn hành động tinh tấn, giúp đỡ thúc đẩy những kẻ chậm chạp cùng tiến bộ để cùng khuyến trợ Phật đạo, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ việc thực hành nhẫn nhục tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đem sự nhu hòa vui vẻ của tâm chí mình, luôn giữ vững để tạo nên sự an vui cho tất cả mọi người, đó là Bố thí. Hoặc vì chúng sinh mà nhẫn chịu bao nỗi hoạn nạn, trong vô số kiếp không hề biết mệt mỏi cực nhọc, đó là Trì giới. Mong muốn ở nơi sinh tử xa lánh bao thứ hoạn nạn, mọi nẻo ngọn nguồn nơi chốn đều dứt hết, không còn phải gánh chịu, đó là Nhẫn nhục. Luôn mang tâm hòa nhã vui vẻ để tìm cầu phương tiện hành hóa thích hợp, không khi nào biếng trễ lười nhác, đó là Tinh tấn. Thương xót mọi chúng sinh, nhất là hạng bị bao nỗi nguy khốn, giúp họ phương tiện để khắc phục, đó là Nhất tâm. Do sự nhẫn nhục ấy mà tâm luôn thể hiện nhu hòa, dứt mọi ý tưởng mưu hại, từ đấy góp phần khuyến trợ Phật đạo, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ việc thực hành tinh tấn mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Luôn thương xót người đời, theo bệnh mà cho thuốc thích hợp khiến cho mọi người đều đạt được sở cầu, đó là Bố thí. Chí ở nơi sử dụng các phương tiện quyền xảo, luôn thể hiện tâm Từ bi, dứt sạch mọi nẻo mưu hại, đó là Trì giới. Vượt qua được mọi giới hạn, trở ngại, đạt đến giải thoát, vẫn luôn thi ân cứu giúp, đó là Nhẫn nhục. Ở nơi xứ sở khác cũng không mất nẻo ứng hợp, tiết chế, hết thảy đều đúng với chánh pháp, đó là Tinh tấn. Như siêng năng tu tập, ngày đêm không quản, không một đối tượng nào có thể hủy hoại ngăn trở, đó là Nhất tâm. Do có được tinh tấn như thế mà càng gắng sức để đạt đến cảnh giới giác ngộ, lại khiến cho mọi người phát tâm Bồ-đề tuân phụng theo chánh nghiệp, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có được tịch tĩnh và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đem tâm Từ bi hướng về mọi người thể hiện lòng thương đối với chúng sinh, đó là Bố thí. Thương xót, nhớ nghĩ đến tất cả chúng sinh trong ba cõi mà ra tay cứu giúp giáo hóa khiến cho tất cả đều đi đến với chánh pháp thâm diệu, đó là Trì giới. Thương tưởng đến đời, nhất là hạng chúng sinh ngu muội tăm tối, chỉ rõ cho họ thấy con đường đi thích hợp, dốc tâm dẫn dắt chỉ dạy, đó là Nhẫn nhục. Như xuất gia tu học cầu đạo Bồ-đề vô thượng, dốc chí giữ vững nẻo tịch tĩnh an nhiên, không theo con đường phóng dật, đó là Tinh tấn. Tư duy đúng đắn về nẻo pháp thí, dùng phương tiện ấy để khai hóa chúng sinh, nhất là vì hạng chậm chạp thua kém mà càng dốc tâm nêu giảng chánh pháp, đó là Nhất tâm. Tánh hết mực thanh tịnh, dứt mọi cấu bẩn, uế tạp, thuận theo con đường giải thoát nhưng không chấp giữ trong cõi tịch diệt, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào là có được trí tuệ và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đem kinh điển thực hiện pháp thí đối với mọi người khiến họ phát tâm Bồ-đề, đó là Bố thí. Hoặc như trong mọi trường hợp thuyết giảng chánh pháp, luôn xa lìa mọi nẻo vật chất cũng như không tham đắm chuyện lợi dưỡng, đó là Trì giới. Hay như thực hành pháp thí, chẳng nên dựa cậy vào những hành động thế tục, cũng không bày tỏ sự biếng trễ, mệt mỏi, đó là Nhẫn nhục. Hội nhập vào tất cả các pháp Tổng trì, không một cảnh giới nào mà không thu giữ khiến cho mỗi một đối tượng đều được an nhiên, tự tại, đó là Tinh tấn. Như thực hiện tư duy một cách chắc chắn, đúng đắn, để hiểu về đại nạn trong ba đời, từ đấy mà diễn giảng rộng khắp về giá trị của pháp thí, đó là Nhất tâm. Như đem gốc thanh tịnh của các pháp, tức diệu nghĩa bản vô để nêu bày giảng dạy về đạo pháp cũng như dẫn dắt chỉ rõ khiến cho mọi người không đánh mất cội nguồn của mình, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là do có phước báo về mắt mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như dùng đôi mắt đẹp yêu kính mọi người, không dấy tâm mưu hại, đó là Bố thí. Hay dùng đôi mắt ấy làm đối tượng quan sát, tất thông tỏ rằng nó chẳng có ích gì, chỉ có chánh pháp mới là chỗ đáng nương cậy, đó là Trì giới. Sự nhận thức trở nên xa rộng vượt mọi hạn lượng, biên vực, nên không một cõi nào là không thấu đạt, đó là Nhẫn nhục. Như mắt ấy thâu tóm cảnh giới tịch tĩnh mà không dấy tham đắm vướng mắc, tất cả mọi hình sắc thảy đều nhận ra là không, gốc của chúng là vô, đó là Tinh tấn. Nơi chốn mắt trông thấy đều vui thích, người nhìn luôn dấy tâm hoan hỷ, lấy chánh pháp làm niềm vui, đó là Nhất tâm. Những kẻ đến xem, tâm thân đều quy kính, mến phục, hơn nữa còn bày tỏ niềm phấn khích hết mực nên có thể dốc đạt đến cứu cánh trong quá trình tu tập, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào là có được phước báo về tai và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Tai luôn thu giữ mọi nẻo nghe ngóng dứt bỏ mọi sai trái mất mát, luôn khiến cho chánh pháp được tồn tại, không dấy tưởng về thế tục, đó là Bố thí. Tai ấy luôn tiếp cận cảnh giới thanh tịnh không có uế trược, thông tỏ hết thảy mọi âm thanh, bản chất của chúng là tịch nhiên, đó là Trì giới. Như đối với những trường hợp lắng nghe, lãnh hội, âm thanh kia luôn thanh tịnh, trong suốt, nên dứt mọi ý tưởng tà vạy, đó là Nhẫn nhục. Tai còn có chỗ giữ và giúp cho sự trông thấy về tính chất vi tế vượt mọi hạn lượng, đó là Tinh tấn. Xem xét các đối tượng xa vời mơ hồ, tai tất lãnh hội được và nhận biết đấy đều là không, vô ích đối với con người, đó là Nhất tâm. Đối tượng được nghe biết vốn là “vô sở hữu”, chủ thể lắng nghe vốn không bền chắc, rốt lại cũng như âm vang của tiếng gọi lớn, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có được phước báo về mũi và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như dùng mũi thanh tịnh trong lành để nhận rõ mọi hương trần đều là không, chẳng có nơi chốn để ngửi, đó là Bố thí. Mà đối với tỷ căn ấy, hơi thở vô ra là “vô sở niệm”, chỉ dốc tâm với đạo pháp thì không có cái gì bị tổn thất, đó là Trì giới. Tịch nhiên, tĩnh lặng mà biết rõ chỗ dừng dứt, đó là Nhẫn nhục. Mọi đối tượng được ngửi luôn thích ứng thuận hợp, dứt hết sai phạm, không rơi vào nẻo dục tình, đó là Tinh tấn. Mũi luôn dứt mọi thọ nhận, không tham đắm các mùi hương, cũng không phóng dật, đó là Nhất tâm. Mũi ngửi, lãnh hội mọi hương trần, nhận ra tính chất cấu uế vô ích của chúng, tất cả chỉ gây nên sự hao tổn tâm lực cho người tu học, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có được phước báo về lưỡi và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Lưỡi tuy tiếp xúc với vị nhưng không do đấy mà tham đắm dục lạc, lìa mọi vui thích, gắng giữ giới luật, đó là Bố thí. Ngôn ngữ thông thạo, lưu loát là nhằm để tuyên giảng giáo pháp, đó là Trì giới. Như có vô số người chính đáng với chỗ bày tỏ ngôn từ nêu giảng chỉ dẫn thì nên tham vấn để học hỏi, đó là Nhẫn nhục. Ví như nhận thức, nhớ nghĩ có được sự hiểu biết vô hạn thì sẽ hết lòng vì người mà nêu bày giảng giải, đó là Tinh tấn. Dứt trừ mọi nẻo thưởng thức mặn nồng, là chỗ tập nhiễm của lưỡi, để nhận ra chỗ lợi ích của năm vị, đó là Nhất tâm. Lưỡi thực hiện việc diễn nói, luôn dùng để truyền bá giáo pháp của đạo, tạo nên sự phát triển rộng khắp, tươi sáng, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có được phước báo về thân căn, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Thân căn trong trường hợp có được tài sản sự nghiệp kinh điển dồi dào phong phú thì nên thi ân giúp đỡ, đó là Bố thí. Được vô số người cùng nhau chiêm ngưỡng, phải nên tỏ thái độ khiêm tốn, tôn kính mà nhận lời, đó là Trì giới. Thân ấy sở dĩ khiến cho mọi người tôn quý, nên cung kính thuận hợp theo Phật mà có thêm oai đức, đó là Nhẫn nhục. Thân thể mạnh mẽ, có thế lực, được mọi người nương tựa, thì càng tu tập để khiến cho hết thảy chúng sinh đều cùng đội ân, đó là Tinh tấn. Hình dáng dịu dàng tươi đẹp, luôn thể hiện nhu hòa, vui vẻ, tươi tắn, đó là Nhất tâm. Thanh tịnh, trong sạch, tươi lành, trong mọi trường hợp đều gắng sức đảm nhận để giáo hóa dẫn dắt chúng sinh, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có được phước báo về tâm ý và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Tâm ấy luôn bình đẳng, thuận hợp, nên có thể hội nhập vào khắp mọi cảnh giới của chúng sinh, đó là Bố thí. Như đối với mọi nhớ nghĩ của ý luôn tạo được vui thích an lạc, nên không chốn nào là không thể hành hóa chánh pháp, đó là Trì giới. Về các đối tượng có thể độ thoát nên đem lại an lạc hợp với ý nghĩa trong hiện tại, không làm điều phi nghĩa, đó là Nhẫn nhục. Ý ấy mau chóng giác ngộ, nên tâm cũng luôn thông đạt không hề bị trở ngại vướng mắc, đó là Tinh tấn. Nẻo hành hóa luôn tuân phụng đạo pháp, thể hiện mọi sự hòa nhã, đó là Nhất tâm. Như nói về tiếng vang là để hiểu về tính chất hòa nhập vào khắp các pháp, hết thảy mọi nẻo hành hóa đều được kiểm soát soi sáng thêm qua các pháp chánh định, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là do lòng thương người nhằm giúp đỡ, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Dạy dỗ, giáo hóa mọi người nên tạo mọi sự cứu giúp, cũng như về thời quá khứ có người tên là Hiệu Thị Sinh Tử, đã từng cứu giúp thiên hạ trong cõi Diêm-phù-lợi, tất cả mọi chúng sinh đều được vị ấy khuyến hóa dẫn dắt đến với Phật đạo vô thượng, dùng chánh pháp để mở bày chỉ dạy cho hết thảy, đó là Bố thí. Giữ giới tu để cùng đem lại an lạc cho người khác, do từ công đức ấy mà có được những báo ứng tốt đẹp, cũng như loài chim bay với cả bầy đông đảo tập hợp lại có thể phun nước dập tắt đám lửa cháy dữ dội, đó là Trì giới. Đem sự hòa ái thương người góp phần đem lại an ổn vững vàng trong cõi sinh tử, như bậc Phạm thiên luôn nhớ nghĩ đến đám lê dân mà nhẫn chịu bao nỗi khó nhọc, đó là Nhẫn nhục. Năng nổ dốc sức giáo hóa mọi người, ví như một người bệnh, lại gặp gỡ hai người khác, đang ốm nặng nhưng thọ mạng chưa dứt, trong lòng luôn thương cảm xót xa, suy nghĩ mãi mới nhớ ra là có một người thầy thuốc giỏi, vốn là chỗ quen biết, liền vượt qua đến những hai vạn tám ngàn dặm tìm tới tận nơi để đem thuốc men về chữa trị cho những người bệnh nặng. Bồ-tát hành hóa độ người cũng như vậy, đó là Tinh tấn. Như thực hiện các pháp thiền định cũng là nhằm thể hiện lòng thương đối với kẻ khác. Cũng như Tiên nhân Gia Tân Hoàng Sắc lo việc tạo dựng thành quách chính là do lòng thương chúng sinh, đó là Nhất tâm. Hoặc như đem trí tuệ tạo nên sự an định cho khắp thiên hạ, khiến mọi người luôn nhớ nghĩ đến kinh điển nên được hưởng phước lâu dài ở cõi trời. Hoặc ở nơi mười phương luôn được thọ nhận thân bậc chúa tể, đều tiêu trừ hết oán địch, giặc giã, trộm cướp, đem lại an ổn cho xứ sở, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ lòng thương chính mình mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như vì bản thân mình mà dâng khởi các hành động hữu ích cùng đem lại an vui cho mọi người khiến cho mọi việc làm đều được thành tựu, đó là Bố thí. Tự thân mình luôn thuận hợp thích ứng để tích lũy mọi gốc của công đức, không đi theo nẻo mưu hại gây họa, đó là Trì giới. Như thân tướng luôn trang nghiêm, như loại hoa thượng diệu với hương sắc cũng tuyệt vời, đó là Nhẫn nhục. Hoặc như do vì chính mình mà bản thân luôn sớm dậy tối nghỉ không chút biếng trễ, không chỉ làm việc mà còn dốc sức cứu giúp mọi người bị nguy khốn khổ sở, đó là Tinh tấn. Thân luôn tinh cần tu tập là do nhớ nghĩ về chính mình nguyện được sinh lên cõi trời hay cõi Phật trong khắp mười phương, đó là Nhất tâm. Như bảy lần trở lại nơi “kiếp thiên” thành rồi bại, chung trọn rồi lại bắt đầu, lui tới cõi đời như vậy mà không bị lôi cuốn vào nẻo lầm, như vua Gia Tân, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ chỗ nhận rõ các pháp mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như dùng vô số hình sắc để tạo nên những xâu chuỗi anh lạc trang nghiêm, gốc của sự cứu giúp cũng đạt được phước báo công đức như vậy, đó là Bố thí. Đối với các pháp, không bám vào nẻo điên đảo, cũng dứt hết mọi nơi chốn dựa cậy, vướng chấp chỉ theo kinh điển, đó là Trì giới. Ví như có thể diệt trừ tham dâm, sân nộ, si cấu, cùng mọi tưởng chấp của chúng sinh, đó là Nhẫn nhục. Dựa theo con đường Phật chỉ dạy nơi kinh điển mà thực hiện các pháp Độ vô cực, hành hóa theo nẻo bất nhị, từ đấy mà sử dụng các phương tiện thích hợp, đó là Tinh tấn. Đạt được tâm bình đẳng, dứt trừ hoàn toàn mọi đối tượng vướng mắc tham chấp, tâm cũng không hướng cầu, đó là Nhất tâm. Sáng tỏ rực rỡ chiếu soi khắp mười phương, tất cả các pháp đều được phân biệt nhận rõ thông suốt, các pháp dù là thượng, trung, hạ, sự thật không hề có hai nẻo, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là do tạo mọi thích ứng mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như nhờ phước báo của sự bố thí mà được phú quý hết mực thì nhân đấy mà dốc sức đem lại sự hưng thịnh cho đạo pháp, truyền bá kinh điển, đó là Bố thí. Hoặc như do tuân phụng giới luật nên có được phước báo sinh lên cõi trời, vẫn luôn nhớ nghĩ việc thực hành đạo pháp, không hâm mộ thiên nữ, đó là Trì giới. Phước báo của sự nhẫn nhục ấy là dứt mọi lo ngại trong việc học hỏi kinh sách, nhờ đấy mà mọi phân tích tìm hiểu luôn hợp với diệu nghĩa, đó là Nhẫn nhục. Luôn tinh cần trong việc nhớ nghĩ nhằm hóa độ hết thảy các loài, đó là Tinh tấn. Nẻo thực hiện thiền định là nhằm khuyến trợ nảy sinh việc phân tích tìm hiểu đúng với ý nghĩa, đó là Nhất tâm. Như tập hợp mọi sự hiểu biết, soi sáng và phát huy theo trí tuệ của Bậc Giác Ngộ, nên luôn dứt mọi sự uổng phí trong quá trình tham cứu học hỏi thích hợp với diệu nghĩa, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ sự phân tích một cách rành rẽ mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như mọi nẻo hành hóa luôn tinh tấn, siêng năng, không làm hủy hoại thân mình, đó là Bố thí. Do dứt trừ mọi tạo tác về mong chờ, tương chấp, nên đạt được nẻo giải thoát, an vui, đó là Trì giới.
Đạt được pháp nhẫn, luôn giữ gìn, tăng tiến không để bị thất tán, đó là Nhẫn nhục. Các chốn hành động đều được an lành, khắp mọi nơi chốn đều thực hiện một cách đầy đủ, đó là Tinh tấn. Nhờ thực hiện thành tựu các pháp thiền định mà đạt được cảnh giới giải thoát, đó là Nhất tâm. Con đường tu tập theo ánh sáng của Bậc Giác Ngộ, luôn gắng tạo sự tham cứu, lãnh hội để đạt được pháp kim cương Tam-muội, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là ưa thích việc khuyến trợ và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Ví như thực hiện bố thí, không nghỉ đến ngủ nghỉ, cũng không dấy tưởng chấp về ngã. Như trường hợp nói về đại danh của chín mươi sáu Đại Tùng Lâm, ở tất cả các nơi ấy đều có kho tàng lớn lao, nhà vua luôn thi ân cứu giúp nhằm khai hóa mọi người thọ nhận phước báo của sự khất thực. Cũng như vị thái tử con quốc vương vô tội, đã lìa bỏ chỗ ở của mình mà trọn đời không vọng ngữ, như bản thân lúc dốc sức cứu giúp cho mọi kẻ nguy khốn, chỉ ra cho họ biết là không được tạo tác các tội ác, đó là Bố thí. Hoặc như đem cúng dường cha mẹ, các bậc sư trưởng, bạn bè, tỏ thái độ tôn kính đối với các bậc ấy một cách đầy đủ trọn vẹn, không biếng trễ, cũng như việc học hỏi kinh điển, cho đến việc tìm hiểu về Phật, thảy đều dứt mọi màn lưới nghi hoặc, đó là Trì giới. Như đem lòng nhu hòa giúp đỡ mọi người, có thể tự bỏ thân mình, không tham tiếc của cải, được Long vương che chở giúp đỡ. Cũng như từng làm vị Pháp sư luôn tinh tấn dốc sức luôn trong ba vạn hai ngàn năm, mọi nơi chốn tu tập, tạo tác hành hóa đều không sầu lo, chưa từng biếng nhác bê trễ trong việc hóa độ tất cả mọi người, đó là Tinh tấn. Sở dĩ thực hành các pháp thiền định là nhằm biểu lộ lòng thương xót nhớ đối với chúng sinh, chỉ dẫn họ dứt bỏ mọi nẻo ác. Ở nơi cõi Diêm-phù-lợi thống lĩnh thiên hạ, luôn thương xót nhớ nghĩ đến chúng dân thọ nhận năm thứ dục lạc. Do ý luôn mang các niệm Từ bi nên đã dẫn ra các thí dụ từ xưa để làm cho sáng tỏ, đó là Nhất tâm. Như dốc đạt đến ánh sáng của Bậc Giác Ngộ nhằm có được sáu thứ thần thông lớn lao, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt được nẻo Không và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như có thể đạt được pháp Tam-muội không hành, dứt mọi dấy khởi về tưởng nguyện, đó là Bố thí. Tâm ý ấy an nhiên rộng mở bao la như hư không vượt mọi hạn lượng, đó là Trì giới. Như đã đạt đến pháp không thoái chuyển địa, được thọ nhận sự quyết định của Phật cùng được thấy chư Phật trong mười phương, đó là Nhẫn nhục. Sớm tối siêng năng tu tập không chút biếng trễ, nội ngoại lực đều tăng tiến, đó là Tinh tấn. Như tâm ấy luôn tinh chuyên, ý định không loạn động, tập trung vào một mối, không thất tán, đó là Nhất tâm. Luôn kiên định vững vàng, dứt mọi khó khăn, nơi tất cả các nẻo hành hóa đều hoàn toàn vắng bóng lo âu, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt được nẻo Vô tướng và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như luôn dùng mọi thời gian hoàn cảnh để cứu giúp những chúng sinh bị nguy khốn, khổ cực, tất cả đều theo diệu lý vô tướng, đó là Bố thí. Mọi hành động luôn thận trọng, giữ gìn về thân, khẩu, ý, không rơi vào các nẻo sai phạm, đó là Trì giới. Thường tu tập thể hiện sự khiêm cung, không mang lòng khinh mạn, đó là Nhẫn nhục. Các nẻo tạo tác công đức luôn dứt mọi biếng trễ, nên khuyến trợ những kẻ chậm chạp, thua kém, đó là Tinh tấn. Xuất gia cầu pháp mọi nẻo học hỏi luôn hâm mộ, tìm tòi tâm đạo ngày một tăng tiến chưa từng bị đứt đoạn, đó là Nhất tâm. Bản thân dứt hết ba độc, lại giúp mọi người cùng dứt tham dâm, sân nộ, si cấu, khiến quy ngưỡng ba ngôi tôn kính, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt đến nẻo Vô nguyện và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như có thể mau chóng đạt được gốc của diệu lý vô sở nguyện, rủ lòng thương xót nhớ nghĩ đến bao mọi khổ hoạn của chúng sinh trong ba cõi, đó là Bố thí. Lìa bỏ mọi sự xét nét, dứt trừ khinh mạn, đạt đến nẻo Vô sở đắc mới thích ứng được trong việc đem đạo pháp giáo hóa mọi loài, đó là Trì giới. Ở trong ba cõi mà không bị nhiễm đắm, luôn dốc dẫn dụ giáo hóa chúng sinh hiểu rõ về sinh, lão, bệnh, tử, đó là Nhẫn nhục. Như nội tâm gồm đủ các hạnh, từ đấy luôn giữ gìn ba nghiệp thân, khẩu, ý tránh mọi sai phạm, lỗi lầm, thất tán, đó là Tinh tấn. Con đường tu tập sử dụng các phương tiện thích hợp để xua trừ mọi thứ cấu uế cùng mọi hành động vô ích, nhằm đạt giải thoát, đó là Nhất tâm. Hoặc như đã mặc kỹ áo giáp đạo đức để thực hiện chí nguyện rộng lớn là nhằm cứu độ đối với tất cả mọi hoạn nạn của chúng sinh khắp các cõi, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ sự hành hóa khác biệt mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như Phật từng an tọa nơi đạo tràng, ngày ngày chỉ dùng một hạt mè, hạt gạo, khổ cực thiếu thốn hết mực mà vẫn tìm cầu chân lý để nhằm cứu độ muôn loài, nên không xem đấy là sự khổ nhọc, đó là Bố thí. Hoặc như ở ngay nơi bản thân mình luôn tinh tấn, an định, tịch tĩnh, dứt mọi phóng dật, đó là Trì giới. Đã được thấy Phật, đem các pháp đã được học hỏi mà thực hành một cách đầy đủ, hoàn tất, đó là Nhẫn nhục. Như trường hợp có thể mang lại sự thấu đạt thông suốt các pháp, tất cả vốn là không cùng nắm được diệu lý vô phân biệt, đó là Tinh tấn. Cùng với dốc tâm đạt đến giải thoát là nỗ lực nhằm cứu độ tất cả mọi nỗi khổ ách của sinh tử khiến cho tâm đạo luôn được tồn tại, đó là Nhất tâm. Như tâm ấy tịch tĩnh an nhiên nên luôn hội nhập vào thế giới tĩnh lặng vô vi. Tâm ấy vốn là không chỗ sinh nên tỏ ngộ mọi đối tượng là như nhiên, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhằm giải thoát cho kẻ khác mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như về thời xưa có vị khách buôn bán luôn lìa bỏ mọi tính toán lời lãi, đã sát thân để đem lại lợi lộc cho người khác, tâm và hành đều thanh tịnh dâng lên Phật để cúng dường, đó là Bố thí. Hoặc như Long vương Văn Lân đã xuất hiện và quấn vòng quanh thân tướng Phật, tâm không dấy sự xâm phạm, luôn đứng vững vàng để hầu hạ, bảo vệ, đó là Trì giới. Như Phạm thiên đã thân hành đến tận nơi, trông thấy Phật vẫn tịch nhiên an tọa không diễn nói đạo pháp nên hết lòng khuyến thỉnh để Phật thuyết pháp độ sinh, đó là Nhẫn nhục. Hoặc như lúc Đức Thế Tôn dùng Phật nhãn quan sát khắp mười phương, lui tiến thuận hợp theo hoàn cảnh để đem lại lợi lạc cho quần sinh, đó là Tinh tấn. Như trong bảy ngày nhất tâm, ở nơi gốc cây Bồ-đề, tư duy quán tưởng về cây ấy, nhằm khiến cho hết thảy chúng sinh đều có được tâm biết suy xét, hồi tỉnh, đó là Nhất tâm. Từ chỗ nhận lời khuyến thỉnh nên liền chuyển pháp luân, dùng tám thứ âm thanh diễn đạt thông suốt, khiến cho khắp mười phương đều được lãnh hội, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là siêng năng dốc ý tu tập thiền và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Nhận thức thấu đạt về sự kiện Phật đắc đạo để từ đấy suy nghĩ về sự tinh cần khổ nhọc, đó là Bố thí. Đi đến nơi, hóa độ năm vị đệ tử đầu tiên, khiến năm vị ấy được trông thấy sự biến hóa, được nghe thuyết giảng về chánh pháp mà ngay lúc ấy tâm được rộng mở để lãnh hội, đó là Trì giới. Lìa bỏ nẻo cao ngạo, thuận theo giới luật của chánh pháp để nhằm hóa độ những kẻ thua kém chậm chạp, đó là Nhẫn nhục. Như đem pháp vị cam lồ, là thuốc trị bệnh sinh tử mà khai hóa mọi người, đó là Tinh tấn. Như trường hợp năm vị đệ tử đầu tiên đã thích ứng với hoàn cảnh mà dứt trừ mọi tưởng niệm khác, đó là Nhất tâm. Đem đạo pháp cam lồ tưới thấm những nẻo đường cùng khổ, từ đấy tiêu trừ bao thứ tham dâm, sân nộ, si mê, hóa độ cho năm ức thiên, nhân, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
-oOo-
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Thế nào gọi là trí lực thông tỏ về “Hữu xứ vô xứ” sâu cạn, xa gần và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như từ nơi xứ sở ấy mà đạt được sự thẩm xét chân lý, từ đấy tỏ ngộ được cội nguồn của các pháp, đó là Bố thí. Hoặc như chỗ có thể nhận thức và lý giải mọi hiện tượng trong ba cõi đều là không, đó là Trì giới. Mọi nơi chốn thông tỏ thảy đều phân biệt mà tạo được sự thâm nhập vào khắp cõi nhân hòa, đó là Nhẫn nhục. Thực hiện thệ nguyện lớn lao ấy cũng như mọi hành động của đức độ cao cả đều biểu lộ sự mạnh mẽ mà vững chắc, đó là Tinh tấn. Trừ dứt mọi thứ cấu uế trong mười hai nẻo duyên khởi, khiến dứt mọi sự pha tạp khác lạ, đó là Nhất tâm. Con đường tuân phụng để tu tập luôn có sự nhận thức hiểu biết thích hợp với hoàn cảnh nhưng không trái với lời dạy của Bậc Giác Ngộ, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là trí lực thông tỏ về nhân quả nghiệp báo trong ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như có thể trừ diệt sạch mọi tạo tác của các nghiệp về mắt, tai, mũi, miệng, thân, ý, cùng mọi sai phạm của chúng, đó là Bố thí. Hoặc như có thể tiêu trừ mọi duyên tạo nên báo ứng của sinh tử, phước họa, đó là Trì giới. Dứt bỏ mọi nơi chốn tạo nhân của năm ấm, sáu trần, cùng các đối tác của nhân duyên để không còn nẻo tạo tác của các nghiệp, đó là Nhẫn nhục. Như lìa bỏ mọi tội phước, tự nhiên dẫn đến việc tiêu trừ các mối sinh tử trong ba cõi, đó là Tinh tấn. Tĩnh lặng, an nhiên, trong lành để dứt mọi vọng động của năm ấm là sắc, thống, tưởng, hành, thức, đồng thời tỏ ngộ chúng là Vô sở hữu, đó là Nhất tâm. Nẻo tu tập hành hóa luôn tuân phụng để nhận ra diệu lý “vô sở sinh”, nhờ đấy mà tâm chí luôn thản nhiên tự tại, lấy đạo pháp làm chỗ dựa lớn lao, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là trí lực thông tỏ về nhận thức vô số chủng loại thế gian và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Ví như chúng sinh đoạn trừ từng ấy hành động của các chủng loại đông đúc phức tạp, nhưng không lấy đó làm cho tâm ý phóng túng, đó là Bố thí. Dứt trừ vô số thứ tạo nên mọi che chắn vây phủ đối với các nhập, nhờ đấy mà phụng hành tu theo sáu pháp Độ vô cực, đó là Trì giới. Tuy ở trong các chủng loại nhưng dứt bỏ mọi suy niệm tính toán của con người, nhờ đấy tỏ ngộ các pháp là hư vọng, không thực, đó là Nhẫn nhục. Đi đến khắp các loài, theo bệnh mà cho thuốc, khiến cho chúng sinh trong ba cõi được tiêu trừ ba thứ độc, đó là Tinh tấn. Ở trong sự chi phối của bốn đại nhưng dứt trừ tham lam cùng mọi vọng niệm tính toán, từ đấy dẫn dắt chế ngự đám chúng sinh mê lầm giúp họ tiêu diệt mọi thứ sở hữu, đó là Nhất tâm. Trụ nơi các chủng loại nhưng luôn tư duy nhận thức để thấu tỏ tất cả mọi hiện tượng đều là không, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là trí lực thông tỏ về chỗ nhận thức các căn tăng giảm, ngôn ngữ mỗi loài không đồng… trong thế gian và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Nhận thức thấu đạt về bốn đại trong tính chất thành trụ hoại không của chúng để nhân đấy tự dứt bỏ những vọng niệm tính toán về bản thân, đó là Bố thí. Giác ngộ về lẽ không đối với mọi tạo tác của sáu căn là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, tâm để dứt mọi sai phạm, lỗi lầm của chúng, đó là Trì giới. Tâm an nhiên, thông tỏ về hết thảy các pháp là bản vô nên không một đối tượng nào là không thông đạt, đó là Nhẫn nhục. Như có thể lãnh hội đầy đủ về các đối tượng như nam nữ, thọ mạng, vui khổ, thiện ác, từ đấy quan sát về sáu căn ấy để nhận ra là không có gốc, đó là Tinh tấn. Hoặc như có thể nhận rõ về Tín, Giới, Định, Tuệ, để thấy năm căn đó là đầu mối của sự tu tập đạo pháp, đó là Nhất tâm. Hay như thông suốt về các đối tượng đã phân biệt như các căn của mọi người với những đặc tính khác lạ, từ đấy đạt đến sự thông tỏ về tất cả các căn của mọi chúng sinh, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là trí lực thông tỏ về thế gian mọi việc ưa thích, không ưa thích với từng ấy hành động và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Tùy ở chỗ ham thích vui vẻ mà kịp thời thực hiện việc dẫn dắt giáo hóa chúng sinh theo bệnh cho thuốc, đó là Bố thí. Các đối tượng được tập họp, dùng tâm từ để khuyến trợ, chỉ dạy tất cả dứt bỏ mọi ý niệm mưu hại, giết chóc, đó là Trì giới. Từ mọi chỗ đạt được an lạc ấy, thuận theo hoàn cảnh mà tiêu trừ tất cả các tội lỗi cùng nơi chốn gây ra các tội ác, đó là Nhẫn nhục. Dứt phá mọi lưới nghi vây bủa, xua trừ các nẻo biếng trễ lười nhác, đó là Tinh tấn. Trừ bỏ mọi ý niệm phân biệt về sở sinh, “vô sở sinh”, hoàn toàn giũ sạch sự phân biệt ấy, đó là Nhất tâm. Thuận theo chỗ được ưa thích mà khiến đạt được cảnh giới tịch nhiên tự tại, dùng các phương tiện quyền xảo để giáo hóa, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là trí lực thông tỏ về việc đi vào khắp các nẻo hành động tạo tác, muốn trói buộc hay cởi bỏ mọi thứ trói buộc, sử dụng các phương tiện và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như có thể thông tỏ được cội nguồn của mọi thứ khổ để từ đấy tiêu diệt tận cùng chúng và làm cho đạo pháp được hưng thịnh tươi sáng, đó là Bố thí. Nhận thức rõ về nguồn gốc của các phiền não để mau chóng dứt trừ mọi hoạn nạn của tham dâm, sân nộ, si cấu, đó là Trì giới. Thông tỏ mọi nẻo diệu nghĩa của đạo, tạo lập và thể hiện sự an lạc để tiêu trừ bao mối âu lo sầu khổ, đó là Nhẫn nhục. Tin tưởng, mau chóng thấu đạt một cách thông suốt dẫn tới niềm an lạc lâu dài trong niềm vui với chánh pháp của đạo Vô thượng, đó là Tinh tấn. Nhận rõ các nẻo tạo tác về tội phước cũng như mọi ngọn ngành của các nẻo quy về nơi năm cõi, đó là Nhất tâm. Đem mọi tương hợp giữa nhận thức và hành động để hướng tới các nơi chốn hữu vô nhằm lý giải tính chất bất nhị của chúng cũng như của sinh tử và Niết-bàn, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là trí lực thông đạt các pháp căn, lực, giác ý, các cửa giải thoát, định ý chánh thọ… và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đem các pháp ấy cùng với trí tuệ tạo riêng được an lạc, dứt mọi tạo tác xấu ác, đem ân giúp cho mọi người, đó là Bố thí. Thực hiện sự bố thí bình đẳng, nghèo giàu sang hèn không phân biệt, cũng không nghiêng ngã theo bè nhóm, đó là Trì giới. Thương xót mọi người, đem chánh pháp khuyến trợ, đưa họ đến với nẻo đạo, đó là Nhẫn nhục. Tự thương xót về chính bản thân mình, khơi dậy tính chất thần diệu tiềm tàng nơi bên trong, rõ gốc của thân mình là phi ngã nên dứt mọi vọng niệm tính toán về thân, đó là Tinh tấn. Thông tỏ hết thảy các pháp là không, nhờ đấy tiêu trừ mọi nẻo danh xưng, tham ái, khinh mạn, đó là Nhất tâm. Đem sự thông tỏ về vô thường, khổ, không, phi ngã (vô ngã) để dứt bỏ mọi sự phân biệt về tôi - ta - người, nhân đấy mà hóa độ chúng sinh, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là trí lực thông tỏ nhận biết về các đời thuộc quá khứ, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như nhận biết về các đời trước thuộc thời xa xưa với những nơi chốn từng đi đến tạo tác trong vô số kiếp và dùng điều ấy để chỉ dạy giáo hóa mọi người, đó là Bố thí. Biết rõ về các nơi chốn đã từng trải qua trong năm cõi thiên, nhân, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, đó là Trì giới. Phân biệt các nẻo hướng tới của tội phước thiện ác tất điều phục được tâm mình, đó là Nhẫn nhục. Thông tỏ về những tính chất cấu uế của phiền não, ái dục để dứt trừ mọi tham đắm vướng chấp, đó là Tinh tấn. Như tâm ấy đã thể nhập lãnh hội hết thảy mọi đối tượng đều là không nên luôn tĩnh lặng không dấy các tưởng, đó là Nhất tâm. Tiêu diệt hết thảy mọi sở hữu của nghiệp, nhận rõ cội nguồn của tất cả chúng sinh, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là trí lực vận dụng Thiên nhãn vô ngại và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như đối tượng nhận thức của Thiên nhãn là nhận ra các nẻo hướng tới của thiện ác phước họa, đó là Bố thí. Nẻo phụng hành thích ứng là tránh không để rơi vào chốn tai họa hãm hại, luôn giữ gìn đạo hạnh, đó là Trì giới. Tầm nhận thức được xa rộng, vượt mọi biên vực nên nhận rõ cội rễ của muôn loài, đó là Nhẫn nhục. Như nhận thấy hết thảy mọi nẻo sinh hoạt của chúng sinh, luôn đem đức độ để giáo hóa dẫn dắt hạng tăm tối mê muội, đó là Tinh tấn. Xem xét kỹ về các nẻo phủ che mờ tối để nhận ra có lối, không lối cùng nơi chốn hướng đến của thị phi, đó là Nhất tâm. Hiển bày ánh sáng chói lọi để khiến cho mọi chúng sinh đều được tự quy ngưỡng, duyên theo đó mà được hóa độ, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là trí lực dứt sạch mọi lậu, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như thấy rõ các nẻo tạo tác của lậu cùng với những lỗi lầm, vô ích cần nên trừ bỏ để tu tập đạo pháp, đó là Bố thí. Không vui thích với các lậu cùng tham dâm, sân nộ, si mê, chí luôn nhớ nghĩ về giữ gìn đạo pháp, đó là Trì giới. Chẳng tập theo các nẻo cấu uế, thường tu thanh tịnh, đó là Nhẫn nhục. Khai hóa tâm chúng sinh để họ thông tỏ được các tưởng, dứt bỏ mọi lớp che phủ đối với các nhập, không chạy theo phóng dật, đó là Tinh tấn. Hiểu rõ về các lậu, tu tập theo đúng giáo pháp dẫn đến việc thông đạt hết thảy mọi đối tượng, đó là Nhất tâm. Đi vào các nẻo sinh tử, ở ngay nơi chỗ các lậu mà vẫn siêng năng tu tập giáo hóa dẫn dắt chúng sinh khiến họ phát tâm Bồ-đề, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
-oOo-
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Thế nào gọi là do thành Bậc Chánh Giác nên thông tỏ pháp vô úy thứ nhất và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đạt được Phật đạo thanh tịnh, dứt hết mọi hoạn nạn về sinh, lão, bệnh, tử, đó là Bố thí. Tâm an trụ nơi cảnh giới vô vi, dốc chí thực hiện các thệ nguyện lớn lao nhằm đạt đến nẻo giác ngộ vô thượng, đó là Trì giới. Đứng ở nẻo chân đế quan sát tất cả mọi pháp đều là không, dứt mọi tà kiến, đó là Nhẫn nhục. Thấu đạt tất cả mọi nẻo sinh diệt trong ba cõi thảy đều không cội rễ nên không gì là không thông đạt, đó là Tinh tấn. Dùng Nhất thiết trí hóa độ thông suốt mọi chúng nhân, chư Thiên trong khắp ba cõi cùng chúng sinh nơi ba đường ác, đó là Nhất tâm. Đi đến khắp các bộ chúng, tuyên giảng nêu bày đạo pháp để giáo hóa, khiến cho mỗi đối tượng đều đạt được sở cầu, dứt mọi nẻo sợ hãi nên các sở nguyện đều thành tựu, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực theo nẻo vô úy thứ nhất.
Thế nào gọi là thể hiện bình đẳng, nhận rõ các lậu đã được dứt sạch, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như Phật là bậc vô lậu, tức các lậu đã được dứt sạch nên tất cả các nạn cũng không còn, đó là Bố thí. Dứt mọi vướng mắc về nơi chốn, cõi dừng cũng đã đoạn, không có sự phân biệt về Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, đó là Trì giới. Thấu đạt về nơi chốn sinh diệt là vô sinh cùng là không dấy khởi phát triển, đó là Nhẫn nhục. Chỗ trong kinh gọi là huyền diệu bao la không bờ bến ấy là không thể đạt tới đầu mối của chúng, đó là Tinh tấn. Chí mang thệ nguyện lớn nhằm vượt qua mọi khó khăn để cứu đời theo đúng nẻo tám pháp, đó là Nhất tâm. Giữ vững theo con đường giải thoát, không để thất tán nên mau chóng tiếp cận được nẻo dẫn tới cõi Chánh giác Vô thượng, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực theo nẻo vô úy thứ hai.
Thế nào gọi là chỗ Phật thuyết pháp về các chân lý thiết yếu, thù thắng cùng thọ nhận, phụng hành nẻo vô úy thứ ba, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Nẻo tuân phụng tu tập luôn thông tỏ hết các pháp là không, biết dấy khởi thì sẽ hủy diệt, tụ hội thì sẽ tan lìa, đó là Bố thí. Do đã tận diệt ba độc cùng mọi nẻo phóng dật mà không còn bị chúng lôi cuốn, đó là Trì giới. Gọi là diệt tức là dứt tận mọi nơi chốn sinh khởi, hoàn toàn không còn nẻo phát sinh, đó là Nhẫn nhục. Nhờ tiêu diệt các thứ lỗi lầm của sáu căn nhãn, nhĩ, tỷ, khẩu, thân, tâm nên mọi nẻo dẫn tới sai phạm không thể thực hiện được, đó là Tinh tấn. Kiến lập đạo pháp nhằm để hóa độ chúng sinh dứt trừ mọi tạo tác thế tục cũng như đầu mối của những hành động vô ích, đó là Nhất tâm. Như đạt đến các cửa giải thoát, mọi nẻo sinh tử đã dứt sạch, trí tuệ vẫn tồn tại, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực theo nẻo vô úy thứ ba.
Thế nào gọi là nội tâm ứng hợp với các pháp mà không hề làm cho ý bị ngưng trệ thể hiện nẻo vô úy thứ tư, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như nội tâm thực hiện chánh pháp đạt các pháp Tam-muội định khiến tâm an nhiên không dấy khởi, từ đấy có thể khiến cho những kẻ bất an tự nhiên dứt hết mọi cấu uế, đó là Bố thí. Về tính chất “vô sở sinh” cũng không hề làm dứt mọi pháp giữ gìn trí tuệ, đó là Trì giới. Dứt trừ các vọng niệm về vô thường, về tất cả các pháp là không thì sẽ thấy rõ đạo là thường còn, đó là Nhẫn nhục. Chỗ gọi là mọi diễn biến bên trong đều không có thể che đậy, mà nên dùng để dứt trừ sạch các đầu mối phát sinh tội lỗi, đó là Tinh tấn. Không gì có thể ngăn ngại, nên dứt tận mọi thứ không thành tựu để hoàn thành các công việc, đó là Nhất tâm. Sở dĩ gọi là bậc Thánh minh là vì đã đạt được an nhiên tự tại đối với tất cả, không gì có thể phủ che hoặc ngăn ngại. Phật đạo hết sức thâm diệu nên có thể chuyển hóa hết thảy mọi quyết định mềm yếu thua kém trung bình trở thành những quyết định rõ ràng sáng suốt, từ đấy thấu đạt mọi căn nguyên của chúng sinh, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là lòng Từ thương lớn lao, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như mang tâm đại Bi luôn thương xót đối với tất cả các loài chúng sinh, không hề lấy chút giận dữ, đó là Bố thí. Tâm luôn thể hiện sự bình đẳng, chưa từng có việc thiên lệch theo bè nhóm trong nỗ lực nhằm hóa độ chúng sinh thoát khỏi các nẻo sinh, lão, bệnh, tử, đó là Trì giới. Như đối với chúng sinh luôn thực hiện việc giữ gìn đạo pháp, đem tâm nhân từ mà báo đáp để có thể tạo được mọi vui vẻ, an lạc, đó là Nhẫn nhục. Luôn lui tới khắp các nơi chốn để thường xuyên cứu giúp chúng sinh dứt mọi lo âu khổ nhọc, đó là Tinh tấn. Tùy theo chỗ ưa thích của các hạng thượng, trung, hạ mà dẫn dắt giáo hóa thích hợp, đó là Nhất tâm. Đi đến khắp trong ba cõi, trước sau đầu cuối thật không thể lường tính để hóa độ bao nguy ách của sinh tử, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có được Nhục nhãn thanh tịnh và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như có thể làm cho địa chủng và thủy chủng trở nên trong suốt thanh tịnh. Tâm như địa chủng, không gì có thể làm cho động. Tẩy trừ tâm cấu uế cũng giống như nước đã được làm cho trong suốt, đó là Bố thí. Hay như có thể tạo lập hỏa chủng và phong chủng để thiêu đốt sạch mọi thứ xấu ác, đó là Trì giới. Ví như dùng lửa để thiêu đốt hết mọi nẻo sinh tử, không còn sót một chút nào nên những thứ cấu uế tỳ vết thảy bị tiêu diệt sạch nhưng tâm không dấy chút sân hận, đó là Nhẫn nhục. Hoặc như mắt trông thấy mọi đối tượng, không một nơi nào mà không nhìn thấy ánh sáng tỏa chiếu khắp chốn xa gần, đó là Tinh tấn. Con đường hành hóa luôn năng nổ dốc tâm trong việc nhận thức tất cả các đối tượng, tâm dứt mọi phân biệt thị phi, đó là Nhất tâm. Quan sát mười phương, thể hiện sự an nhiên vô bờ, mà đối với mọi nơi chốn cần cứu giúp cũng không hề chán nản, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt được Thiên nhãn thanh tịnh, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như dùng Thiên nhãn để nhận thấy các thứ thân sắc, hoặc đoan chánh, đẹp xấu, dài ngắn, rộng hẹp, trắng đen, béo gầy, mà sử dụng các phương tiện để hóa độ, đó là Bố thí. Hoặc như nhận biết thân ấy hành động, tên gọi, tâm tánh, nơi sinh ra cũng như thấy rõ các nơi chốn mà thân đã từng qua lại đến đi bao lượt, đó là Trì giới. Nhận ra thân hành, phân biệt nhận rõ về thị phi, hợp tan, thành hoại, đó là Nhẫn nhục. Xem xét về các hiện tượng trong trời đất hoại diệt rồi trở lại hợp thành, cùng sự xuất hiện của trời người, muôn vật, đó là Tinh tấn. Hay như nhận biết về các lẽ báo ứng của tội phước, thiện ác, đạo tục, sáng tối, đó là Nhất tâm. Hoặc thấu đạt về các nẻo trước sau, xa gần, sâu cạn, để tiếp cận không, vô tướng, sở nguyện đạt tới ba cửa giải thoát, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt được Tuệ nhãn và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như do thành tựu được tuệ nhãn nên có thể nhận rõ khắp tất cả các cõi chúng sinh về căn bản cũng như cội nguồn của mọi nẻo sinh khởi, đó là Bố thí. Hoặc như có thể hoàn thành con đường tu tập đạt đến giải thoát, dứt bỏ mọi thứ phiền não trói buộc, đó là Trì giới. Hay như đã đạt được sự an lập tự tại của tâm nhằm giữ vững đạo pháp, đó là Nhẫn nhục. Nẻo tu tập đã được kiên cường, nên khắp mọi nơi chốn, đối tượng đều được kiến lập, từ đấy quan sát cả mười phương thảy đều thông tỏ, đó là Tinh tấn. Mọi đối tượng nhận thức và lãnh hội cũng như chân lý đã được chứng đắc, dứt mọi hư vọng, đó là Nhất tâm. Chí luôn thể hiện tính chất an lạc, cũng không dấy khởi vọng động, không rơi vào nẻo lo âu đối với tội lỗi nên phát huy được khía cạnh bao la của tâm đạo, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt được Pháp nhãn thanh tịnh và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như có thể tiếp cận được mười tám pháp Bất cộng của chư Phật, đó là Bố thí. Tự thân đã đạt được mười tám pháp bất cộng ấy của Phật, dùng chúng để cứu độ mười tám nẻo khổ độc nơi cõi ác, đó là Trì giới. Hoặc như nhận ra tính chất duyên hợp của các loại hạnh chính phụ, cao thấp, sâu cạn, vi tế… đó là Nhẫn nhục. Hay như quan sát hết thảy mọi nền tảng của các hiện tượng trong ba cõi thảy đều như nhiên, đó là Tinh tấn. Nhớ nghĩ, nhận rõ về mọi gốc ngọn, theo đúng bệnh mà cho thuốc để trị dứt ba thứ bệnh, đó là Nhất tâm. Mọi nhận thức đều không hư dối, đem sự quan sát lãnh hội đúng đắn thể hiện tính chất an nhiên để dẫn dắt giáo hóa tất cả chúng sinh, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là đạt được Phật nhãn thanh tịnh và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như dùng Phật nhãn với nhận thức còn bị một chướng ngại nào để thức tỉnh những chúng sinh chưa giác ngộ, đó là Bố thí. Từ chỗ xem xét thấu suốt mà dấy tâm Từ bi thương xót đối với tất cả chúng sinh còn bị trói buộc trong ba nẻo khổ, đó là Trì giới. Độ thoát chúng sinh khiến không còn gặp phải những khổ nạn mà hoàn toàn có được sự an lạc lâu dài, đó là Nhẫn nhục. Mọi đối tượng nhận thức, tìm hiểu thật vô lượng, thâm diệu, sâu xa không cùng khó có thể dùng ví dụ để diễn tả, đó là
Tinh tấn. Quan sát về căn bản của các hiện tượng cũng như xem thấy hoa quả trên cành đã chín sắp rụng nên gắng sức kéo giữ lại, đó là Nhất tâm. Nhận rõ về mọi ngọn nguồn của các pháp thảy đều từ duyên hợp mà sinh khởi, từ đấy thấu đạt diệu lý vốn không cũng như “vô sở sinh”, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là có được tự tại và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như trường hợp từ chính bản thân mình đạt được để hành động nhằm thực hiện cứu cánh, chứ không dừng lại ở nửa chừng, đó là Bố thí. Mọi nơi chốn mình dốc sức hành động nhằm đạt đến liền đạt được sở nguyện mà không trái với những nẻo chính yếu của sự phát tâm, đó là Trì giới. Tự tại trong sự tạo lập cũng như hành động để đạt đến nẻo vô tưởng, dứt bỏ mọi vướng chấp, tham đắm, đó là Nhẫn nhục. Luôn thể hiện lòng nhân hòa, dịu dàng thuận hợp để phân biệt mà lãnh hội hết thảy mọi nẻo ánh sáng giác ngộ, đó là Tinh tấn. Tất cả mọi hiện tượng đều dứt tận nhưng ánh sáng giác ngộ thì không thể dứt tận, đó là Nhất tâm. Thấu đạt hết thảy các pháp theo nẻo ánh sáng của Bậc Giác Ngộ để nhằm giáo hóa hạng chúng sinh thấp kém, chậm chạp, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ sự an ổn vui thích và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đối với các trường hợp bố thí cứu giúp luôn lìa bỏ mọi mong cầu về phước báo, ví như từ hư không hóa hiện năm trăm chiếc lọng lớn, che phủ kín chúng Tỳ-kheo. Như ở một làng của các vị Phạm chí tên là Đầu-na, nước ở trong giếng tự nhiên trong lành và có vị thơm ngọt, đó là Bố thí. Hoặc như đi vào các kinh thành, thôn xóm đem lại sự an vui cho dân chúng khắp các nơi ấy, khiến cho các loại nhạc cụ như đàn không, đàn hầu tự nhiên hòa tấu vang lừng, đó là Trì giới. Những hạng chúng sinh các căn không đủ như đui, điếc, câm, ngọng, hoặc bị các bệnh tật như què, bại liệt… Nhờ ân của ánh sáng giác ngộ soi tỏ mà thảy được dứt trừ các tai nạn ấy, đó là Nhẫn nhục. Nêu bày ánh sáng giác ngộ rực rỡ ấy chiếu tỏa khắp vô lượng các cõi Phật trong mười phương khiến cho mọi người đều được nhờ hưởng ít nhiều ân ích lớn lao ấy, đó là Tinh tấn. Như tại kinh thành Duy-da-ly, cả trong và ngoài thành, mỗi mỗi nơi đều biến hóa đến tám vạn bốn ngàn thân hình chư Phật, đó là Nhất tâm. Hoặc như lúc ấy, nhân hoàn cảnh thích hợp nên vì tám bộ chúng mà nêu bày giảng giải về kinh điển giáo pháp khiến cho mỗi đối tượng đều được lãnh hội thấu đạt, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là khiến cho các trường hợp khó được đều tự quy ngưỡng và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Oai nghi đáng kính, an nhiên, tự tại, công đức hết sức rộng lớn, có thể thu giữ cả hư không, đó là Bố thí. Lãnh hội tiếp cận nẻo giác ngộ của chư Phật, Thế Tôn, để nhận ra đức ấy là chí tôn, thâm diệu sâu xa không gì có thể vượt hơn được, đó là Trì giới. Nẻo đường hành hóa luôn thể hiện sự mạnh mẽ, kiên cố, sử dụng các phương tiện thích ứng theo hoàn cảnh, nhưng không đánh mất chí khí, sở nguyện thuận hợp theo lẽ tùy bệnh mà cho thuốc, từ đấy có thể dẫn dắt giáo hóa chúng sinh cùng giúp đỡ chỉ vẽ mọi hành động tạo tác như đã từng hóa độ loài rắn độc. Thu phục loài rắn dữ nằm yên trong tay. Xuất phát từ sự chí thành nên hoàn toàn dứt mọi sự sợ hãi, sử dụng thần túc chú nguyện nên mọi việc không có gì là khó khăn cả, đó là Nhẫn nhục. Như Tôn giả Mục-kiền-liên đã mau chóng hòa giải loài quỷ, Đức Phật và các vị đệ tử cùng đi qua vùng đất ấy, nhưng chúng đệ tử không một ai hay biết, đến khi trở về tinh xá Kỳ hoàn, Đức Phật đổ nước trong bình bát ra liền thấy nhơ bẩn cả một vạt đất, đó là Tinh tấn. Hay như vị đại đệ tử của Phật là Tôn giả Xá-lợi-phất đã nói: Trong một chốc lát, có đến bốn mươi chín lần tâm dấy khởi tạo các nghiệp về sinh tử. Đức Phật nói: Không thể tính kể được, không nên chấp vào sự tính toán so đo, đó là Nhất tâm. Hoặc như Đức Phật nói: Có một kinh thành nọ, dân chúng ở nơi ấy thường gây ra các tội ác lớn, chẳng kể gì đạo pháp, lại phỉ báng các vị cao đức, Như Lai là Bậc Chánh Giác chỉ đến kinh thành ấy trong vòng không đầy một đêm thuyết giảng kinh điển giáo pháp, khiến dân chúng lìa bỏ việc tạo ra các trọng tội, lại tinh tấn tu học thông đạt được sáu thứ thần thông, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
-oOo-
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Thế nào gọi là mười tám pháp Bất cộng? Các pháp của chư Phật thể hiện đầy đủ trong mười tám loại bất cộng ấy.
Thế nào gọi là tính chất “Không bị hủy diệt” và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Luôn thích ứng với hoàn cảnh để khai thị, dẫn dắt chúng sinh, đức hạnh thường đầy đủ không hề thiếu sót hay thất tán, đó là Bố thí. Như dứt trừ tính chất bè nhóm, không thiên vị lệch lạc trong mọi đối tượng vì đã không còn sự thất tán, đó là Trì giới. Mọi sự giảng nói nêu bày về các điều quan trọng, cốt yếu đều không sai sót, thân, khẩu, tâm luôn tịch tĩnh, đó là Nhẫn nhục. Quả báo luôn thích ứng, không trái với gốc tạo tác, từ lúc mới phát tâm cho đến khi đạt đạo vẫn theo một nẻo chánh pháp, đó là Tinh tấn. Từ thệ nguyện đều luôn dốc đạt đến cứu cánh, không trái với nẻo chính yếu của gốc, đó là Nhất tâm. Dốc tâm tiếp cận cánh cửa giải thoát, hội nhập vào cảnh giới an lạc lâu dài, dứt mọi hoạn nạn, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là không tham đắm, vướng mắc, dứt mọi ngôn từ hư vọng, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như các trường hợp thuyết giảng để giáo hóa dẫn dắt chúng sinh thảy đều nêu bày một cách thuần thục, không rơi vào sự hỗn tạp, vụn vặt, đó là Bố thí. Do đã có được ba đức thông đạt nên mọi nhận thức luôn thấu suốt cả quá khứ, vị lai, các niệm thường thanh tịnh, mọi nẻo hành hóa luôn dứt sạch cấu uế, đó là Trì giới. Không mang tâm mưu hại, hướng đến mọi người thường thể hiện lòng nhân ái, Từ bi, đó là Nhẫn nhục. Tùy theo lòng người với những sở thích, mong cầu mà nêu giảng đạo giải thoát nhằm đem lại mọi vui thích, an lạc, đó là Tinh tấn. Là bậc “Vô đẳng luân” nêu bày tuyên giảng chánh pháp vi diệu, cũng như vị cam lồ ngon ngọt ban cho mọi loài, khiến cho lòng người luôn được an vui, đó là Nhất tâm. Như vì mọi chúng sinh mà nêu bày chỉ dạy giáo pháp nhằm dứt trừ mọi thứ phiền não, bao lớp màn lưới hồ nghi dù cho chính mình tự trói buộc lấy, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là tính chất giải thoát không hề giảm và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như tâm luôn buông xả, công đức không hề dứt, luôn an nhiên, tĩnh định, đó là Bố thí. Hoặc như đem hết thảy công đức để khuyến trợ mọi tâm ý khiến phát tâm Bồ-đề, đó là Trì giới. Con đường hành hóa thật vô biên, nên tuân phụng tu tập theo đúng nẻo đạo pháp, hoàn toàn dứt bỏ mọi tội lỗi xấu ác, đó là Nhẫn nhục. Đạt đến tất cả các hạnh của mọi đức cũng như các pháp chân chánh giác ngộ, đó là Tinh tấn. Luôn nhận biết về các sự việc quá khứ, hiện tại, vị lai trong ba đời, chưa từng bị quên lãng, đó là Nhất tâm. Nhân theo sự giác ngộ nơi gốc cây Bồ-đề tạo được sự an nhiên tịch tĩnh hết sức lớn lao, theo đấy mà luôn nhớ nghĩ đến đạo pháp không để bị mất gốc, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là tâm luôn được an định, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Gọi là bình đẳng tức tâm dứt mọi vọng niệm sinh diệt, từ đấy tạo được sự hưng thịnh cho đạo pháp, đó là Bố thí. Điều đáng tuyên dương chính là nhờ nương tựa vào đấy mà thực hiện cuộc sống du hóa đây đó để phát huy đạo pháp, đó là Trì giới. Nơi chốn nương tựa chắc chắn để dùng chánh pháp giáo hóa dẫn dắt muôn loài đem lại an lạc cho khắp mọi nơi chốn, đó là Nhẫn nhục. Con đường phụng hành sáu pháp Độ vô cực của đạo pháp vô thượng đều nhằm vì sự giải thoát cho mọi người, đó là Tinh tấn. Tự thu giữ tâm mình, đem ân cứu giúp người nhân đấy mà giáo hóa dẫn dắt họ, đó là Nhất tâm. Hết thảy đều tạo được sự thích hợp với hoàn cảnh và sở nguyện dẫn tới sự hành hóa lớn lao đem lại mọi an vui thích thú, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là quán tưởng tịch tĩnh vô vi và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Mọi sở nguyện đều thành tựu, đạt được an lành cũng như tĩnh lặng vô vi, đó là Bố thí. Nương tựa, quy kính nơi người mà luôn tịch nhiên an định, đó là Trì giới. Con đường hành hóa luôn thể hiện tâm Từ bi thương xót, xem xét để giúp đỡ mọi tạo tác của chúng sinh, coi như đấy cũng là đạo tràng để thuyết giảng chánh pháp, đó là Nhẫn nhục. Nhằm cứu giúp hết thảy chúng sinh trong ba cõi, thể hiện rõ tâm đạo cùng nẻo hành hóa vô tận, đó là Tinh tấn. Nơi chốn có thể nuôi dưỡng để vì tất cả chúng sinh hạng mê muội lầm lạc mà tuyên giảng thông suốt vì chánh pháp, đó là Nhất tâm. Tuy vì chúng sinh mà thuyết giảng chánh pháp giáo hóa ba nghiệp thân, khẩu, ý khiến dứt mọi sai phạm mà không tham đắm trong ba cõi, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là dứt bỏ ngần ấy thứ và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như do không dấy khởi ngần ấy các thứ tưởng nên tâm luôn gắn bó với đạo pháp, đó là Bố thí.
Các thứ tưởng chấp như thế là không dấy khởi, nhân đấy mà phát huy làm sáng tỏ đạo đức, không xa lìa chánh pháp, đó là Trì giới. Như khiến cho tâm ý luôn tĩnh lặng dứt hết mọi tư duy nhớ nghĩ, chỉ chuyên vào nẻo định ý, đó là Nhẫn nhục. Chưa từng hủy phạm tánh của mình cũng như của người khác, hành động luôn giữ gìn thận trọng hết thảy mọi hoàn cảnh, đó là Tinh tấn. Siêng năng tu tập hành giải luôn thích ứng để nhận rõ về thời, không làm mất con đường đức hạnh của bậc Thánh giác ngộ, đó là Nhất tâm. Đều có thể thông đạt về mọi nẻo sinh tử trong năm cõi, đi đến khắp mọi nơi chốn để nhận ra hết thảy cội nguồn, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là các đối tượng được an lạc và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như tâm luôn nhớ nghĩ đến điều an lạc, tự giữ gìn lấy tâm mình, từ đấy thương xót cứu giúp người khác, đó là Bố thí. Ví như tâm nhớ nghĩ về các đời, từ thời xa xưa đến hiện nay, thương xót nhớ nghĩ chính bản thân mình rồi thương đến hết thảy mọi người, đó là Trì giới. Như lại vui vẻ thích thú trong việc giảng thuyết kinh điển chứ không chạy theo nẻo hành động thế tục, đó là Nhẫn nhục. Luôn sử dụng một cách thích hợp với hoàn cảnh để nhằm đạt đến sự an lạc hết mực của đạo Chánh giác Vô thượng, đó là Tinh tấn. Giả sử có được sự vui thích đối với Phật Pháp Thánh chúng, từ đấy mà dứt trừ mọi ái dục cùng các hành động bất thiện, đó là Nhất tâm. Như diệt trừ mọi nẻo tà kiến gồm đến chín mươi sáu thứ để dốc theo đạo pháp giải thoát, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là không giảm mất tinh tấn và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Con đường tạo tác để tu phụng hành đạo pháp, đức độ không hề giảm sút, mà tất cả thảy đều đầy đủ, đó là Bố thí. Như tâm luôn vui vẻ, thương xót nhớ nghĩ đối với hết thảy, không đem tâm mưu hại hướng đến mọi người để dốc sức giúp đỡ, đó là Trì giới. Hoặc như thuận theo hoàn cảnh mà giảng dạy chỉ rõ về giá trị của đạo pháp, khiến có thể gắng gổ để thọ nhận, đó là Nhẫn nhục. Hay như dùng ánh sáng của chánh pháp xem xét tất cả nhằm dứt mọi nẻo giết hại, đó là Tinh tấn. Hết thảy mọi chỗ nêu giảng đều nói rõ về nền tảng, cội rễ, nhân đấy mà nhận thức về thân mạng từ nhiều đời trước dẫn tới sự hiểu biết mênh mông không còn giới hạn, đó là Nhất tâm. Mọi sự lãnh hội thấu đạt về nghĩa lý là vô hạn lượng, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là ý niệm không sai sót thất tán, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như nẻo nhận thức nhớ nghĩ của ý có thể biết rõ về vô số ức kiếp của đời trước, vượt mọi bờ vực, đó là Bố thí. Hay như có thể hồi tưởng nhớ lại về thời kỳ xa xưa trải qua vô số kiếp đã từng tích lũy công đức, đó là Trì giới. Hoặc như có thể quan sát nhận biết như thẩm định sự thanh tịnh không chút uế trược, đó là Nhẫn nhục. Nhận thức thông đạt về chỗ ưa thích từ lúc mới phát tâm trải qua mọi nẻo hành hóa từ xưa tới nay, đó là Tinh tấn. Tâm hội nhập vào mọi ý niệm, nhớ nghĩ về hết thảy các pháp với đủ lối tiến, lui, gốc ngọn, đó là Nhất tâm. Dứt trừ hết thảy mọi tưởng, mỗi mỗi đối tượng không đồng nhau, nhớ nghĩ lại về những đời cũ, nhận rõ mọi nơi chốn đã từng tới lui, trải qua, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là định ý không giảm mất, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như thể hiện bốn tâm vô lượng Từ, Bi, Hỷ, Hộ (Xả), thực hành các pháp chánh thọ định ý, đó là Bố thí. Hay như có thể cùng thọ nhận để tạo lập được nẻo dừng của bốn Ý, dứt mọi vọng động của các pháp về thân, thống, tưởng, đó là Trì giới. Phụng hành theo đức lớn, tu bốn Ý đoạn để thấu đạt diệu nghĩa “Đoạn trừ ở chỗ không đoạn trừ”, đó là Nhẫn nhục. Như đạt được thần túc có thể phi hành đến khắp mười phương giáo hóa tất cả chúng sinh, đó là Tinh tấn. Hay như thực hành thiền định để từ đấy nhận được uy lực của các pháp Tammuội định, đó là Nhất tâm. Hoặc như nương theo ánh sáng của Bậc Giác Ngộ để tham vấn, nhận lãnh được sự hiểu biết về đạo pháp dứt mọi hư vọng, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là tuệ không giảm mất, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như thọ nhận được gốc của trí tuệ nên sự hiểu biết thật không thể lường tính, có thể biết rõ về cội nguồn đầu mối của mọi chúng sinh, đó là Bố thí. Sức lực luôn kiên cường, đạt đến tuệ lực cho tới mười trí lực của Phật, đó là Trì giới. Đạt được các pháp giác ý, từ đấy thức tỉnh, giáo hóa, dẫn dắt, chỉ rõ đối với những chúng sinh chưa được giác ngộ, khiến họ đạt được ánh sáng giải thoát, đó là Nhẫn nhục. Như đem tâm đã thông tỏ để đón nhận diệu nghĩa của đạo pháp, từ đấy dốc sức hành động vượt mọi khó khăn, đó là Tinh tấn. Đạt được sự phân biệt, thông tỏ về mười hai pháp duyên khởi, thấy rõ nguyên nhân của sự bị dẫn dắt lôi kéo là do không giác ngộ, đó là Nhất tâm. Nương theo ánh sáng của Bậc Giác Ngộ tu tập để đạt đến mười thứ trí lực, bốn vô sở úy và mười tám pháp bất cộng của chư Phật, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là giải thoát không giảm mất, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Sức mạnh của thân luôn vững chắc, tâm như kim cương, không hề đánh mất nẻo cốt yếu chính đáng, đó là Bố thí. Tuy ở trong đại chúng mà như riêng một chốn, tâm luôn như nhất, không hề quên lãng hay thất tán, đó là Trì giới. Đi đến khắp các nơi chốn náo động, quấy loạn phức tạp mà không lạc vào nẻo mê lầm, đó là Nhẫn nhục. Thấu rõ về các tánh, hạnh cùng các suy niệm về thiện ác của hết thảy chúng sinh, đó là Tinh tấn. Kiến lập một cách an ổn chắc chắn về đạo Chánh giác Vô thượng lớn lao với trí tuệ không bao giờ ngừng tắt, đó là Nhất tâm. Dùng trí tuệ vô sinh để tiêu trừ mọi vọng niệm về nơi chốn khiến không còn một đối tượng nào được tồn tại, chí dốc nơi kinh điển, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là giải thoát tri kiến không giảm, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Mọi nẻo hành hóa luôn hết mực chân thật, không rơi vào đường hư ngụy nên mau chóng đạt được sở nguyện, đó là Bố thí. Các đối tượng quan sát nhận thấy đều là các pháp vô vi từ đấy hóa độ bao hoạn nạn trong con đường hữu vi sinh tử, đó là Trì giới. Xem xét tính chất cấu uế của tham dục để nhận ra gốc ngọn của chúng đều từ nhân duyên sinh khởi, đó là Nhẫn nhục. Từ địa thấp đến địa cao hơn, cho đến gồm đủ các trụ, tạo lập quả vị ở nơi quá trình tu tập của mười trụ, đó là Tinh tấn. Thực hiện thiền định, hành đạo, mọi đối tượng tiếp cận của tâm đều nhằm đạt được nơi chốn an trụ, đó là Nhất tâm. Như mặc áo đầy đủ, trong tư thế sẵn sàng, sử dụng các phương tiện để quyết trừ hết thảy mọi thứ xấu ác, không nơi chốn nào bị quên mất, không trái với con đường giải thoát, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhận biết về mọi hành động của thân đều chuyển theo trí tuệ, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Hành động của thân nhằm siêng năng tu tập chuyên tâm theo con đường chân chánh, luôn cố giữ gìn ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề biết chán nản, đó là Bố thí. Dẫn dắt giáo hóa để thân không phạm vào các nẻo sát sinh, trộm cắp, dâm dục, đó là Trì giới. Phụng hành tu tập theo mười trụ, không khiến cho quá trình tu tập ấy bị vướng vào những hành động gây trở ngại, đó là Nhẫn nhục. Một lòng chuyên tinh vun đắp gốc của các công đức để nhằm cứu giúp mọi người, đó là Tinh tấn. Khiến cho vô số người được nhận lấy phước báo của mười phương, đó là Nhất tâm. Dùng thân để tạo sự dạy dỗ bằng cách thể hiện các thứ thần túc phi hành đến tất cả mọi nơi chốn để chiêm bái chư Phật thuyết pháp, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là khẩu nghiệp đều chuyển biến theo trí tuệ của Bậc Giác Ngộ, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như mọi sự nêu bày giảng giải từ miệng là nhằm thuyết về các pháp vô thượng, nói rõ những nơi chốn từng trải qua, giải thích một cách rõ ràng về các pháp không hề biết chán nản mệt mỏi, đó là Bố thí. Pháp âm ấy vang đến khắp nơi, đi vào tâm của tất cả mọi người, khiến cho hành động luôn được trong lành, đó là Trì giới. Dẫn dắt giáo hóa nơi chốn đông đảo thảy đều khiến cho họ thông tỏ được giáo pháp Chánh giác Vô thượng, đó là Nhẫn nhục. Các trường hợp diễn nói giảng dạy chánh pháp cho mọi người, âm thanh ấy luôn vang xa suốt khắp mười phương, đó là Tinh tấn. Luôn nhớ nghĩ đến các hành động, không làm những điều hư dối, tổn hại, luôn tinh chuyên tin tưởng, tư duy về nẻo chánh giác, đó là Nhất tâm. Mọi chỗ có thể nêu bày tuyên giảng chưa từng hư vọng, là nhằm đem lại an lạc cho hết thảy chúng sinh khắp các nơi chốn, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là ý nghiệp đều luôn chuyển theo trí tuệ, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc? Như tâm ý luôn tư duy theo nẻo chân chánh, dứt mọi nẻo tà, tâm luôn gắn bó với các niệm, gốc thường thanh tịnh, đó là Bố thí. Như đem các pháp đã được lãnh hội để chế ngự, dẫn dắt đám chúng sinh ngu muội tăm tối, khai hóa mọi nẻo tham đắm của họ, đó là Trì giới. Như có thể nhanh chóng chỉ dẫn về các nghiệp hữu vô để tạo lập nẻo hành động bình đẳng, đó là Nhẫn nhục. Hay như học hỏi giáo pháp, dứt trừ sự phân biệt tôi - ta, cũng không dấy ngạo mạn, tự đại, đó là Tinh tấn. Lìa bỏ mọi nẻo ngu si tăm tối chí giữ vững nẻo ánh sáng lớn lao, dứt mọi sự che phủ, đó là Nhất tâm. Con đường hành hóa đạt đến chốn thâm diệu trội bật, khác thường, bao la không bờ bến, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là Trí tuệ nhận biết về quá khứ không bị ngăn ngại, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như quan sát các quả để nhận ra các loài đều do bốn đại hợp thành, từ đấy thông tỏ diệu lý “vốn không” của các pháp, đó là Bố thí. Xem xét kỹ các ấm, nhập, như sắc, thống, tưởng, hành, thức, gốc rễ của chúng là không có nơi chốn, đó là Trì giới. Nhận rõ về sáu trần để thấy cội rễ của chúng rất là vi tế, do các duyên đối tác mà sinh khởi, đó là Nhẫn nhục. Quan sát mọi nẻo thiện ác phước họa để nhận ra nguyên do của chúng đều từ lòng tham của bản thân, đó là Tinh tấn. Đoạn trừ mọi thứ phiền não, luôn hành hóa theo nẻo thanh tịnh, dứt hết mọi cấu uế, đó là Nhất tâm. Xem xét kỹ về chúng sinh, nhận rõ về mười hai nẻo dẫn dắt lôi kéo để thấu đạt gốc của chúng là “vô sở sinh”, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là Trí tuệ nhận biết về vị lai với mọi ngọn nguồn đều không bị chướng ngại, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như nhận thức về quá khứ với mọi hợp tan trong năm cõi, cũng giống như các mùa xuân thu tươi sáng, buồn rầu, thành công, thất bại, đó là Bố thí. Hay như có thể nhận rõ các nẻo tà kiến gồm đến sáu mươi hai loại nên không hề rơi vào cõi điên đảo, đó là Trì giới. Quan sát về đầu mối của mọi tạo tác nơi con người để thấy rõ tính chất hợp tan cũng như gốc của chúng là không có gốc, đó là Nhẫn nhục. Xem xét kỹ về chúng sinh để thấy là nên dùng loại thuốc gì thích hợp nhằm chữa trị dứt các thứ bệnh, đó là Tinh tấn. Nhận thấy mọi nơi chốn sinh khởi, tiếp giáp, lui tiến, thảy đều theo sự kết hợp của nhân duyên mà diễn biến, đó là Nhất tâm. Thấu đạt mọi nẻo báo ứng, chính mắt trông thấy nên có thể hóa độ, nhân đấy mà tìm đến dẫn dắt giáo hóa khiến họ phát tâm Bồ-đề, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là Trí tuệ nhận biết về hiện tại vượt mọi giới hạn, trở ngại, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như nhận rõ mọi nẻo tạo tác đều từ sự giả hợp của nhân duyên mà thành, nhân đấy giáo hóa quần sinh tạo lập các công đức, đó là Bố thí. Nhận thức về mọi căn do của các pháp, nhân đấy mà tiếp cận được ba cửa giải thoát để phụng hành sáu pháp Độ vô cực, mà có được những thành tựu trọn vẹn, đó là Trì giới. Nẻo phụng hành giảng dạy thảy nên xa lìa tham dục, chí hâm mộ đạo pháp, lấy chánh pháp làm niềm vui, đó là Nhẫn nhục. Quan sát tất cả các hình sắc vi diệu, thô tế, thảy đều biến chuyển và hoại diệt, chỉ có sự vô thường là tồn tại, đó là Tinh tấn. Nhận thức về các hiện tượng hiện rõ trong ba cõi như cảnh huyễn hóa, hết thảy mọi gốc của chúng đều là không, nên dứt bỏ được mọi sai trái mất mát, đó là Nhất tâm. Hay như nhận ra sinh tử là đầu mối của nẻo vô vi, đối với mọi số lượng hay không số lượng, tâm cũng không dấy sự phân biệt, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
(Mười tám pháp Bất cộng trong đoạn kinh trên dư một loại)
-oOo-
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Thế nào gọi là thông tỏ các phương tiện và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như luôn tinh chuyên khéo sử dụng các phương tiện quyền xảo tùy theo hoàn cảnh mà hội nhập, đó là Bố thí. Đối với mọi trường hợp lỗi lầm, cấu uế, nhân đấy mà giáo hóa dẫn dắt khiến đều trở nên thanh tịnh, đó là Trì giới. Mọi sự tạo nên công đức đều dùng cho việc khuyến trợ tất cả chúng sinh, đó là Nhẫn nhục. Ở những nơi chốn đi đến đều không gây việc mưu hại xâm phạm, cũng không tạo ra những tổn thất, đó là Tinh tấn. Chỉ đem sự vui thích để giảng dạy cho chúng sinh, dùng bốn ân để cứu giúp, đó là Nhất tâm. Hội nhập vô lượng pháp môn nêu rõ các pháp Tổng trì chính yếu để mau chóng dẫn dắt, giáo hóa chúng sinh khắp mười phương trong ba cõi khiến cùng đi đến với đạo giác ngộ, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là từ sự thuần khiết trong lành mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như có thể sử dụng các phương tiện bình đẳng để khuyến dụ nhằm tiến đến việc lãnh hội tất cả các pháp, đó là Bố thí. Đem các pháp để giảng dạy, tâm chân chánh không dựa cậy vào đối tượng, Trí tuệ thông tỏ mọi nẻo thâm diệu của ba cánh cửa giải thoát là Không, Vô tướng, Vô nguyện. Như nhận rõ về tám phẩm để xua trừ tám nạn, chỉ giữ vững nơi tám con đường chân chánh để lãnh hội thấu đáo về các pháp, gốc của chúng là không, đó là Trì giới. Quan sát về các nẻo nhận thức để thấy rõ sự mê lầm, khỏi phải rơi vào nẻo tà kiến, đó là Nhẫn nhục. Xem xét về năm cõi luân hồi, có thể tạo được sự giáo hóa dẫn dắt, nhân đấy mà đi đến để cứu độ, đó là Tinh tấn. Như nhận thấy có thể chế ngự hàng phục thì liền sử dụng phương tiện để độ thoát, đó là Nhất tâm. Hay như nhận thức rõ về các pháp hữu vi mà đi vào trong các nơi chốn ấy để trừ mọi tham đắm vướng mắc khiến cho được giải thoát, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhận rõ về tính chất tự nhiên mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như trường hợp đạt đến công đức bao la, không chỗ dựa cậy thể hiện sự lớn lao, chói lọi, cũng giống như việc Bồ-tát thời ấy đã nhất tâm quy kính Phật Định Quang, đó là Bố thí. Thân hành động không hề biếng nhác, chán nản, dứt mọi tham tiếc, giống như ánh sáng của mặt trăng tròn đầy, không chút mây che, chiếu tỏa khắp các tinh tú, những người có mắt sáng thảy đều trông thấy rõ ràng, chính xác, đó là Trì giới. Như có thể nhận thức và lãnh hội tất cả các pháp thảy đều như hư không, đó là Nhẫn nhục. Thực hiện các pháp thiền định đều là nhằm để nhận thức thấu đáo về các pháp, vừa sinh đấy liền diệt, thảy nên tỏ ngộ về điều ấy, đó là Tinh tấn. Không thấy có kẻ bố thí mà có sự cứu giúp vì tự mình đã không kịp nhận ra, đó là Nhất tâm. Quan sát mọi hành động của thân tâm cũng như từ miệng tuyên giảng giáo pháp đều nhằm đem lại lợi ích cho hết thảy mọi người, không hề có sự phân biệt thành hai nẻo khác nhau, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhận rõ mọi sự tạo tác biến chuyển trong cõi Dục như nghiệp, nhân duyên, tội phước… và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như nhận thức về mọi tập nhiễm của dục và nghiệp cấu uế, bản thể của nó là thanh tịnh nhưng vì đã tạo nên những chướng ngại, đó là Bố thí. Nhận rõ về tất cả các pháp đều là như nhiên tịch tĩnh, do vì không thấu đạt điều ấy nên mới tự tạo tác mọi phước đức hay tội lỗi, đó là Trì giới. Luôn quán tưởng để nhận ra tính chất huyền diệu, sâu xa vô bờ bến, đó là Nhẫn nhục. Tự nhận xét và lãnh hội về tính chất duyên hợp của tội phước, nên chúng cũng thảy dứt sạch và không ai giữ được lâu dài, đó là Tinh tấn. Tính chất đối tác của duyên tuy bị diệt nhưng sẽ thấy nơi hành động sắp đến. Sử dụng phương tiện thích nghi nên liền đạt chỗ chân chánh, đó là Nhất tâm. Tội phước đã dứt sạch nên không tạo tác trở lại, mọi hoạn nạn trong ba cõi đều nhận ra tính chất “vô sở sinh” của chúng, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhận rõ mọi sự tạo tác biến chuyển trong cõi Sắc giới như nhân duyên, nghiệp… và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Nhận thức về các thứ sắc duyên hợp với nhau đều do không tạo tác, do tâm không thông tỏ mà dấy khởi dọc ngang, là đầu mối của mọi báo ứng, đó là Bố thí. Nhận ra mọi thứ hình sắc đều có nhân duyên xa gần kết hợp, không quyết đoán được tính chất phức tạp ấy nên thân tâm dễ rơi vào nẻo mê lầm, đó là Trì giới. Xem xét về mọi nơi chốn sinh khởi ở cõi trời, cõi nhân gian, cũng như sự báo ứng về tội phước ở ba đường dữ, đó là Nhẫn nhục. Như quan sát nơi chốn sinh mà nhớ nghĩ về chốn dấy khởi các tưởng, đó là Tinh tấn. Luôn nhận rõ sự báo ứng với lòng hoan hỷ thích thú, đó là Nhất tâm. Che chở giúp đỡ các cảnh giới tịch nhiên từ cõi cao đến cõi thấp, thảy đều nhằm đạt được sự tịch tĩnh vô vi, dứt mọi tham đắm vướng mắc, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhận rõ về mọi tạo tác biến chuyển trong cõi Vô sắc và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như cùng gắn bó với sắc nên đọa nơi cõi Dục, còn ở nơi chốn thanh tịnh thì dứt mọi tạo tác về vọng tưởng, đó là Bố thí. Nhận rõ về nẻo hành động, tạo tác của năm sự, nương theo giới, định, tuệ để thông tỏ và vượt qua mọi nhận thức về các đối tượng, đó là Trì giới. Ví như có thể tiêu diệt sạch mọi đối tác của nhân duyên thì mọi nẻo họa phước cũng không sinh khởi, đó là Nhẫn nhục. Siêng năng tu tập, dốc sức hành động nhằm tạo được sự bình đẳng không nghiêng ngả theo nẻo tà, đó là Tinh tấn. Như dốc lòng tin tưởng để thực hiện việc tu tập tinh chuyên dứt trừ mọi lối uế trược, đó là Nhất tâm. Mọi đối tượng được nhận thức lãnh hội luôn sáng tỏ như ban ngày có mặt trời nên đi đường không thấy nơi tối tăm mờ mịt. Mọi nơi chốn không bị phá hoại nên thảy đều được cứu độ, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là quan sát về sự an trụ của các pháp thanh tịnh, tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như thực hiện sự nhận thức để thấy rõ về các xứ sở được an trụ vững vàng, chính từ cõi Từ bi thanh tịnh mới nhằm đạt đến sự an trụ ấy, đó là Bố thí. Hay như có thể đạt được từ những hành động đem lại các báo ứng tốt đẹp, từ đấy dứt mọi nẻo tạo tác sai lầm của ba nghiệp thân, khẩu, ý, đó là Trì giới. Tinh tấn phụng hành các pháp của bốn ân khiến cho không lúc nào bị dứt tuyệt, đó là Nhẫn nhục. Nơi chốn quán tưởng luôn thể hiện tính chất an nhiên của tâm đạo lồng lộng vượt mọi biên vực bờ cõi, đó là Tinh tấn. Chứa công vun đức ngày ngày luôn tăng trưởng theo đúng nẻo hành hóa của Bậc Giác Ngộ, đó là Nhất tâm. Lãnh hội đầy đủ các pháp thanh tịnh, giải thoát nhằm tiêu trừ mọi nẻo sinh tử của chúng sinh, kể cả các tưởng về thiện ác cùng các tưởng chấp về các pháp, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Thế nào gọi là nhằm vun trồng các pháp mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như nhận rõ về các pháp khổ nhưng do chưa lãnh hội thấu đạt mà tạo tác mọi nẻo họa phước, đó là Bố thí. Hoặc như nhận thức đúng đắn về nẻo giữa, tâm dứt mọi vướng mắc về nơi chốn, cũng không nghiêng ngả theo hai nẻo hữu vô, đó là Trì giới. Hay như nhận biết về ái dục liền nhanh chóng dứt trừ, không khiến cho chúng sinh trưởng, phát triển, đó là Nhẫn nhục. Tánh luôn giữ vững nẻo chính, chưa từng bị sai trái hay mất mát đối với con đường tu tập theo đạo Chánh giác Vô thượng, đó là Tinh tấn. Luôn gồm đủ chủng tánh của ba mươi bảy phẩm Trợ đạo, khiến cho Phật chủng không hề bị đoạn tuyệt, đó là Nhất tâm. Tâm thành tựu tám bậc, thấu đạt một cách trọn vẹn về các pháp, dứt mọi chấp giữ trong quá trình tu chứng, đó là Trí tuệ. Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Thế nào gọi là tám bậc tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như tin tưởng ở tám bậc, có được sự an lạc thuần nhất, từ đó luôn giữ gìn, chế ngự thân tâm không rơi vào tám nẻo tà, đó là Bố thí.
Noi theo tám bậc để hành hóa, giữ gìn đạo pháp, không chạy theo nẻo vinh hoa thế tục, đó là Trì giới.
Đã cùng tạo được những hành động nên giữ vững sự tạo tác bình đẳng, từ đấy đạt được tự tại, không một ai có thể xâm phạm hay coi thường, đó là Nhẫn nhục.
Thiền định tu đạt quả A-la-hán, hành hóa độ chúng sinh khắp trong ba cõi, không còn bị trở lại cõi sinh tử nữa, đó là Tinh tấn.
Nhân theo tám bậc mà đạt được các quả vị Đạo tích (Tu-đà-hoàn), Vãng lai (Tư-đà-hàm), Bất hoàn (A-na-hàm) và Vô trước (A-la-hán) đều là những con người giác ngộ chân chánh, đó là Nhất tâm.
Do đã vượt khỏi các dòng chảy sinh tử nên luôn nhận rõ biết bao sự việc liên hệ, đem lại ý nghĩa giải thoát của đạo giác ngộ vô thượng, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là đạt được quả vị Đạo tích (Tuđà-hoàn) và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Từ quả vị Đạo tích mà lần lượt đạt đến ánh sáng giác ngộ, tiêu trừ sạch mọi phiền não phủ che, vây bủa cùng tham dâm, sân nộ, si mê, ham ngủ nghỉ, vui đùa, đó là Bố thí.
Dùng để dứt trừ ái dục, không trở lại đi theo các nẻo uế trược, bất tịnh, đó là Trì giới.
Bảy lần qua lại, từ nơi cõi trời cho đến thế gian mới có thể dứt sạch các lậu, đó là Nhẫn nhục.
Đi đến nhà nhà để hành khất, tạo phước cho hết thảy đời đời được an lành, đó là Tinh tấn.
Chuyên tinh vào một hạnh luôn giữ gìn thân, khẩu, tâm, lìa bỏ hết thảy mọi tạo tác đầu mối của mọi vô ích, đó là Nhất tâm.
Như dứt mọi tham đắm vướng mắc, tỏ ngộ tất cả đều là không, đấy là cội nguồn của ba cõi, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là đạt được quả vị Vãng lai (Tưđà-hàm) vi trần và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Tuy còn ở trong ba cõi, nhưng đối với sắc dục thì dần dần hướng tới sự đoạn diệt, đó là Bố thí.
Như nhận rõ về các nạn của phiền não, ái dục, tâm chưa từng vi phạm, đó là Trì giới.
Xem xét về sự gây ra tội lỗi đối với mình, chuyển dần sang ít ỏi mỏng manh và cuối cùng là không, đó là Nhẫn nhục.
Đem ánh sáng giác ngộ soi tỏ khắp chốn, từ đấy quan sát mọi tạo tác gây nên tội lỗi đều từ hành động tạo thành, đó là Tinh tấn.
Dùng mọi sự hiểu biết để thiêu đốt sạch các thứ ái dục không còn sót một tí gì, đó là Nhất tâm.
Thông tỏ về đầu mối của mọi nẻo sinh tử trong một đời người, từ đấy xua trừ mọi ái dục tham đắm, không còn gặp lại bao mối hoạn nạn, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là đạt được quả vị Bất hoàn (Ana-hàm) và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như có thể xa lìa mọi tham đắm của cõi Dục giới, thực hiện bốn ân đối với bốn bậc không hề chán nản, đó là Bố thí.
Hay như tâm hoàn toàn dứt hết mọi nạn của phiền não cấu uế, đã dứt sạch tận ngọn nguồn sinh tử nên không còn trở lại cõi đời nữa, đó là Trì giới. Sinh vào cõi trời thứ hai mươi hai là Thiện Thí, chư Thiên ở nơi ấy vẫn tu tập, không rời đạo pháp, đó là Nhẫn nhục.
Sớm tối siêng tu, tâm luôn gắn bó với đạo pháp, nên được sinh vào cõi trời thứ hai mươi ba là Thiện Thí Tánh Thiên, đó là Tinh tấn.
Như được sinh vào cõi trời thứ hai mươi bốn là Vô ái kết thiên, ở nơi ấy vẫn thản nhiên, tâm không mong cầu phước báo ở cõi trời, đó là Nhất tâm.
Hay như tạo được sự thân cận với các bậc đã đạt sáu thứ thần thông, hành hóa luôn chân chánh, là đường đi của bậc Chánh sĩ để đạt tới kho tàng trí thức, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là đạt quả vị Vô trước (A-la-hán) và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như dứt trừ sạch mọi pháp bị quên mất hay hốt nhiên bị mê lầm, để đạt đến quả vị A-la-hán, đó là Bố thí.
Không cần trở lại lo việc giữ gìn khiến các pháp không bị quên mất mà thảy đều tự nhiên thông tỏ tường tận, đó là Trì giới.
Như đem lòng tin tưởng mà tu tập đạt đến giải thoát, tâm dứt sạch mọi hoài nghi, đó là Nhẫn nhục. Hay như dùng mọi sự hiểu biết thông tỏ mà nhằm dứt sạch các nỗi khổ của sinh, lão, bệnh, tử, đó là Tinh tấn.
Tiêu trừ hết thảy mọi khổ ách hoạn nạn trong ba đường dữ, bản thân tự chứng đạt được ánh sáng giác ngộ, đó là Nhất tâm.
Đều đạt được sự thông tỏ cùng gắng sức thực hiện đối với khắp các nẻo sinh tử, hoàn toàn thấu đạt không còn sót một thứ gì, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là đạt quả vị Duyên giác và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như luôn quan sát tiếp xúc với các chốn ít người ít việc, chọn nơi vắng vẻ tịch tĩnh, không hề tham đắm đối với thân mạng, cũng như không chiều theo đám đông phức tạp, đó là Bố thí.
Tuyển chọn các pháp để làm dấy khởi cùng phát huy con đường hành hóa của bậc Chánh sĩ vừa thích ứng với chánh pháp giác ngộ vừa có thể thích nghi với hoàn cảnh, đó là Trì giới.
Chọn ở riêng một chốn để giữ vững chí, dứt mọi phóng dật, đó là Nhẫn nhục.
Đạt đến giải thoát để độ khắp chúng sinh trong ba cõi, dứt trừ phiền não không để bị trói buộc trở lại, đó là Tinh tấn.
Như tu tập theo nẻo tịch nhiên dần đạt đến thế giới vô vi, tâm dứt mọi tham đắm vướng chấp, đó là Nhất tâm.
Dốc hết sức vào một nẻo hành động, là gốc của sự chân chánh, luôn thể hiện an nhiên như pháp, không hành động nghiêng ngả theo hai nẻo, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là bậc Bồ-tát tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như thực hiện công việc cứu tế giúp đỡ, luôn thể hiện tâm bình đẳng, dứt mọi dua nịnh, đó là Bố thí.
Có được tính nhu hòa, thường biểu lộ sự an ổn để chữa trị vọng tâm, đúng như nơi chốn phát sinh mà khai hóa dẫn dắt, đó là Trì giới.
Như đem tâm bình đẳng ban cho chúng sinh, không làm chuyện mưu hại, giết chóc, đó là Nhẫn nhục.
Hay như phụng hành đúng nẻo sâu xa, cốt yếu của pháp không, thể hiện trọn vẹn diệu nghĩa của đạo Chánh giác Vô thượng, cho đến đạt Nhất thiết trí, đó là Tinh tấn.
Không dựa cậy vào âm vang của kẻ khác mà tạo tác để rơi trở lại vào những tiểu tiết, mà luôn thực hiện các pháp chánh thọ một cách bình đẳng, đó là Nhất tâm.
Không hề chán ghét các nẻo sinh tử, dùng ánh sáng giác ngộ để khai mở dẫn dắt tất cả chúng sinh, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là nhằm đạt được trí tuệ rốt ráo và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đem trí tuệ rốt ráo ấy mà sửa trị tạo được mọi thích ứng, không rơi vào sự thiếu kém thua thiệt, đó là Bố thí.
Hoặc như dùng điều thiện chắc chắn để trị lành các hành của thân, khẩu, ý được thanh tịnh, đó là Trì giới.
Nẻo hành hóa luôn trừ diệt cấu uế để có được thanh tịnh, tươi sáng, mà cũng không dấy tưởng chấp, đó là Nhẫn nhục.
Do đoạn trừ các nẻo mê lầm nên có được sự an lạc nơi chánh pháp, từ đấy mọi sự nêu giảng luôn thích nghi, thuận theo giáo pháp của Phật, đó là Tinh tấn.
Dứt hết mọi nẻo tham tiếc, đối với tất cả mọi sở hữu đều nên đem cứu giúp những kẻ nguy khốn, từ đó tu theo chánh pháp, đó là Nhất tâm.
Nhờ có thể từ bỏ các nẻo hành động không thích hợp, hết thảy đều từ vô minh sinh ra, mà tiếp cận được sáu thứ thần thông vi diệu mà Bậc Giác Ngộ đã đạt, cho đến Nhất thiết trí, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là nhằm đạt được “Trí tuệ vô sở sinh” mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đối với ái dục, gốc báo ứng của chúng là nhằm khiến cho con người dấy khởi, thấu đạt thảy là không tức là có được “Trí tuệ vô sở sinh”, đó là Bố thí.
Khiến cho không có hình bóng đi đến cũng như trở lại tỏ được diệu lý “vô sở sinh”, đó là Trì giới.
Không gắn bó với các pháp thế gian dẫn đến những kết hợp phức tạp, chỉ thuần nhất theo chánh pháp tu tập, đó là Nhẫn nhục.
Tinh chuyên tu tập theo đúng các cửa giải thoát là Không, Vô tướng, Vô nguyện, cũng không rơi vào chỗ quên lãng hay thất tán, đó là Tinh tấn.
Sở dĩ có thể nhận ra Trí tuệ vô sở sinh là nhằm dùng để nhận thức và lãnh hội tất cả là “vô sở hữu”, đó là Nhất tâm.
Dùng để đoạn trừ các niệm về tất cả những bụi bặm cấu uế, cũng như dứt bỏ mọi vọng tưởng, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là nhằm đạt “Trí tuệ kiến lập” mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như trường hợp chánh pháp còn tồn tại mà giả thiết như chánh pháp bị mai một, tâm không hề lìa bỏ đạo cũng như các việc cung cấp thức ăn, mặc, hoặc bảo vệ danh dự kiến thức, đó là Bố thí.
Đối với các việc đem giáo pháp giảng dạy, luôn dứt mọi nẻo dựa cậy mong cầu, tâm rộng mở như hư không, đó là Trì giới.
Như có thể đem lại vui vẻ thích thú cho bốn chủng tánh của con người, cũng không dựa cậy vào bốn loại ấy, đó là Nhẫn nhục.
Hay như dốc siêng năng tu tập, sử dụng các phương tiện thích hợp mong đạt quả vị chân thật, thì luôn mong đạt được đạo quả Chánh giác Vô thượng, đó là Tinh tấn.
Hoặc như lúc ở vào hàng A-tu-la cũng luôn học hỏi kinh điển, không rời bỏ Tam bảo, đó là Nhất tâm.
Khiến cho hết thảy chúng sinh nơi thế gian đều được nghe chánh pháp, liền thọ nhận phụng hành không dấy chút tà tâm, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là đạt được Thiên nhãn và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như dùng Thiên nhãn để nhận rõ tất cả các hình sắc, tâm không tham đắm, tỏ ngộ thảy là không, hư, đó là Bố thí.
Ví như có thể nhận diện một cách thông tỏ thế giới vô hình sắc, khéo sử dụng các phương tiện quyền xảo, không bị rơi xuống cõi Dục giới, đó là Trì giới.
Giả sử thông tỏ các sắc trần không có hình tượng, trong sự thấu đạt ấy tâm luôn thể hiện sự bình đẳng dứt mọi yêu ghét, đó là Nhẫn nhục.
Như xem xét mọi nẻo biến chuyển của sinh tử trong khắp các cõi cùng bao mối lo âu về các hoạn nạn khó khăn, nhưng không dấy tâm sợ hãi, đó là Tinh tấn.
Hay như nhận ra tính chất vô niệm cùng với tất cả mọi tư duy, trong ngoài đều không trở ngại, cũng không có nơi chốn để hướng về, đó là Nhất tâm.
Hoặc như thể hiện sự tịch nhiên, tâm tĩnh lặng, an định, ví như hư không bao la chẳng hạn lượng, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là đạt được thiên nhĩ và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như có thể được nghe hết thảy ngôn ngữ âm thanh của chúng sinh, từ âm thanh ca múa kỹ nhạc ở các cõi trời cho đến tiếng kêu la than khóc ở ba cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, từ đấy dấy tâm Từ bi hướng đến, đó là Bố thí.
Khiến cho mọi người được lãnh hội các thứ âm hưởng vi tế, tỏ rõ tất cả ngôn ngữ đều là không, không có ngôn từ, đó là Trì giới.
Hết thảy mọi nẻo hành hóa đều thuận hợp với đạo pháp, không chạy theo các học phái ngoại đạo, gồm trong sáu mươi hai thứ kiến chấp, đó là Nhẫn nhục.
Như dùng miệng để tuyên giảng nêu bày, tâm luôn nhớ nghĩ theo điều ấy để hành động, thích ứng với hoàn cảnh, sử dụng các phương tiện quyền xảo, dùng trí tuệ để hóa độ dẫn dắt, đó là Tinh tấn.
Nghe và lãnh hội hết thảy là không nên muôn vật cũng không, tham vấn thọ nhận kinh điển của đạo pháp mà giữ gìn đọc tụng, đó là Nhất tâm.
Gồm thâu tất cả mọi thứ âm thanh, biết rõ về nẻo tận diệt của chúng để quy về thế giới tịch nhiên của đạo giải thoát vô thượng, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là tâm trí đạt được tự tại, rõ được tâm niệm của mọi người, từ đấy tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như tâm mình, do từ bản thân nhận thấy mọi nơi chốn cùng bao nỗi lo âu hoạn nạn trong ba cõi, mà dấy khởi tâm thương xót hướng đến cứu giúp, đó là Bố thí.
Hay như tâm nhận rõ khắp nẻo ý nghĩa về thiện và bất thiện, tâm ấy luôn thể hiện bình đẳng, không vướng vào các pháp hữu vi, đó là Trì giới.
Quan sát về các nẻo tạo tác của nhân duyên báo ứng để nhận ra gốc của chúng là không có duyên đối, đó là Nhẫn nhục.
Như nhận ra mọi sự việc trong các đời quá khứ, vị lai, thảy đều vui vẻ để thông tỏ cả ngọn ngành gốc rễ, đó là Tinh tấn.
Dùng con mắt bình đẳng để xem xét mọi sự việc trong hiện tại thảy đều như cảnh huyễn hóa, đó là Nhất tâm.
Như nhận thức khắp hết thảy mọi gốc ngọn của sự biến chuyển là không có gốc ngọn, vậy thì có chỗ nào gọi là chính yếu, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là nhớ nghĩ và nhận biết về các thời quá khứ xa xưa, từ đấy tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như nhận thức và biết rõ về quá khứ với nơi chốn sinh ra, những chỗ từng trải qua, cùng mọi nẻo hành động phải trái, đó là Bố thí.
Mọi chốn tạo tác được thành tựu, dùng đấy để khuyến trợ mọi người đi đến với đạo giác ngộ vô thượng, đó là Trì giới.
Khỏi phải bị trở lại nhiều lần mà nhằm tận diệt khiến cho không còn nơi chốn sinh khởi, đó là Nhẫn nhục.
Gọi là danh hiệu đã là “vô sở hữu”, có nơi chốn để nhận thức lãnh hội thì sẽ nhận ra nền tảng của hết thảy mọi pháp, đó là Nhất tâm.
Dùng vô số các phẩm loại để tuyên giảng nêu bày kinh điển đạo pháp, nhân đấy mà khai hóa chúng sinh trong ba cõi thoát mọi nguy khốn, mau đến với đạo giải thoát, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực. (Đoạn này thiếu một pháp Tinh tấn)
–Thế nào gọi là đạt được thần túc có thể phi hành khắp chốn, từ đó tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như do đạt được thần túc nên từ chỗ hiện tại có thể phi hành đến khắp mười phương, đó là Bố thí.
Chỗ thực hiện các phương tiện luôn thuận hợp với ý nghĩa của các pháp, rõ năm ấm là không, dứt mọi nơi chốn phá hoại, đó là Trì giới.
Dấy khởi lòng thương lớn lao đối với chúng sinh nhằm độ thoát hết thảy, đó là Nhẫn nhục.
Mọi nẻo hành hóa đều đầy đủ, giống như mặt trăng tròn đầu sáng tỏ giữa đám tinh tú mà không làm mất đi vẻ hài hòa, đó là Tinh tấn.
Như có thể chế ngự năm uẩn, sáu trần, mười hai duyên khởi, điều phục được chí, đó là Nhất tâm.
Hay nếu chẳng tinh tấn hóa độ khiến cho siêng năng tu tập thì khó hội nhập vào thế giới bao la của Bậc Giác Ngộ, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là dứt sạch các lậu và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như bản thân mình đã nhận thấy rõ về các đối tượng nhưng không phân biệt bỉ ngã, cũng dứt hết các lậu, đó là Bố thí.
Hay như từ sự quan sát các lậu mà biết được về nguyên nhân phát sinh ra chúng để khiến dứt mọi nẻo dấy khởi, đó là Trì giới.
Nhận biết rõ hết thảy các lậu, gốc của chúng là không rễ nên đều có thể tiêu diệt sạch được, đó là Nhẫn nhục.
Như chính mình đã thực hiện được việc xem xét các lậu đã tận diệt, tỏ ngộ diệu lý “tận vô sở tận” (tận nơi không chỗ tận), không còn thấy nơi chốn quy hướng của sinh tử, đó là Tinh tấn.
Hay như khiến cho các lậu trở về cội nguồn của chúng là thế giới an nhiên tự tại hoàn toàn không còn những tác động hữu vi nào, đó là Nhất tâm.
Dùng sức mạnh của tinh tấn để nhổ sạch mọi gốc rễ của các lậu, không còn nơi chốn phát sinh, cũng như chỗ hướng tới, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là có được uy nghi và tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như chính nhờ uy nghi mà khiến cho vô số người biết đến giá trị của lễ phép đức độ, dẫn tới tâm hòa hợp vui vẻ, đó là Bố thí.
Đem lại sự hòa duyệt cho tất cả chúng sinh ở khắp mọi nơi chốn, nhờ đấy mà không ai là không hoan hỷ, trong việc thọ nhận những lời chỉ dạy của giáo pháp, đó là Trì giới.
Nơi quán tưởng luôn tinh chuyên, dứt mọi phóng dật, chỉ giữ vững nơi đạo giác ngộ, đó là Nhẫn nhục.
Đi đến luôn thể hiện tính chất an định, từ tốn, không hề vội vàng hấp tấp, đó là Tinh tấn.
Uy nghi không bao giờ thiếu sót, nét lễ nghĩa luôn thể hiện đầy đủ, đó là Nhất tâm.
Nhận thức về các nẻo tạo tác sâu xa, ánh sáng soi tỏ tận nguồn gốc, đức hạnh luôn biểu hiện gồm đủ, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là từ lòng thương xót mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như đối với kẻ ác mang tâm tà vạy độc ác, mình vẫn đem y phục, thực phẩm để cứu giúp, đó là Bố thí.
Trông thấy kẻ hung dữ độc ác gặp phải cảnh nguy khốn thì mình vẫn dốc tâm cứu giúp họ, nhân đó mà chỉ rõ về kinh điển, giáo pháp, đó là Trì giới. Hoặc như có kẻ ngoại đạo cầu học, có chí nguyện để tìm hiểu đạo pháp, mà thường hay ngã mạn cao ngạo thì nên nhẫn chịu để dần dà cảm hóa, đó là Nhẫn nhục.
Trong trường hợp vì nhiều người, cần có chỗ quảng diễn bàn rộng thêm thì phải gắng nêu bày tuyên giảng thích hợp nghĩa lý giống như cái ao nở đầy hoa sen thơm ngát, đó là Tinh tấn.
Hay như đem các hành động của những bậc hiền thiện mà nêu giảng ý nghĩa khiến cho người nghe tự điều phục thân tâm, đó là Nhất tâm.
Hoặc như gặp trường hợp tế tự nơi các đền thờ, có thể nhân sự tu tập đông đảo ấy mà đến để thuyết giảng giáo pháp, ngôn từ như những chân lý chắc chắn để hóa độ đám ngoại đạo lõa hình, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là từ nhận thức các hành là không mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như trường hợp giúp đỡ không biết chán, không lấy đó làm điều buồn phiền, hóa độ khiến mọi người đến với đạo giác ngộ lánh xa chuyện thế tục, đó là Bố thí.
Mọi nẻo tạo tác đều được tự tại, do chính mình đem lại chứ không phải theo sự chỉ dạy của người khác, đó là Trì giới.
Con đường hành hóa luôn chuyên tinh, không giẫm chân không trở lại rơi vào các tiểu tiết, đó là Nhẫn nhục.
Tu tập đạt đến cứu cánh, không giữa chừng chấp giữ vào sự chứng đắc về các đức đã hoàn tất của Đức Thế Tôn, đó là Tinh tấn.
Nơi chốn thích ứng cho việc phụng hành luôn dứt bỏ mọi sự dựa cậy để tu tập một cách thuần thục, đó là Nhất tâm.
Tùy theo chỗ ưa thích mà tạo lập sự hành hóa để mau chóng dẫn dắt được hết thảy mọi người, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là do từ bỏ hết thảy mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như thể hiện việc từ bỏ các hành động thuộc về cuộc sống, chứng tỏ không tham luyến đối với bản thân, từ đó mọi hành động được tự do không bị trở ngại, đó là Bố thí.
Hoặc như trừ bỏ mọi tạo tác hiện tại của thân, khẩu, tâm, đối với mọi biến chuyển sinh tử trong năm nẻo tâm không chút vướng mắc, đó là Trì giới. Do gắn bó với cảnh giới, theo các pháp an lạc phụng hành bốn tâm vô lượng cùng sáu pháp Độ vô cực mà không có chỗ bị rơi đổ, đó là Nhẫn nhục. Chỗ có thể dứt bỏ, chính là dứt bỏ ba độc tham dâm, sân nộ, si mê, cùng trừ diệt tất cả những khổ não còn lại của các kiến chấp gồm trong sáu mươi hai nẻo, đó là Tinh tấn.
Luôn khiến cho chúng sinh hành động theo nẻo thuần thục, không dấy sự ngã mạn cao ngạo mà lìa bỏ mọi nẻo hành động thích hợp, đó là Nhất tâm.
Do lìa xa được mọi nẻo lo lắng ưu sầu của chúng sinh nên tâm luôn gắn bó với đạo pháp cùng thuận hợp với giới luật, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là nhằm đạt đến cảnh giới diệt độ mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Từ chỗ thấu đạt về không mà dứt bỏ các nẻo vọng tưởng, cho đến khi đạt tới cảnh giới diệt độ cũng rõ là không chỗ sinh, đó là Bố thí.
Nơi chốn kiến lập của tâm là lập ở đạo giải thoát, không có nơi chốn nào để bám víu giữ gìn, đó là Trì giới.
Lìa bỏ mọi an lạc của thân, không dựa cậy vào thân mạng để khai hóa chúng sinh, đó là Nhẫn nhục.
Dùng sức mạnh của các thần túc có thể làm động cả Tam thiên thế giới, nhưng không khiến cho hết thảy chư Thiên, người phải kinh sợ, đó là Tinh tấn.
Như tâm tĩnh lặng, ý định thực hiện các pháp chánh thọ, dứt mọi tham vướng cũng không phóng dật, đó là Nhất tâm.
Sau khi diệt độ, Xá-lợi được phân chia đều khắp mười phương, khiến cho hết thảy chúng sinh đều được đội ân, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là từ sự biến hóa khiến tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như việc phân bố Xá-lợi nơi nơi đều được để lưu hành rộng khắp trong thiên hạ, đó là Bố thí.
Xá-lợi đã hiện ra các điềm tốt đẹp nói lên uy thần sáng chói khiến người trông thấy đều sinh tâm hoan hỷ, đó là Trì giới.
Chúng sinh trông thấy các việc biến hóa ấy tâm dấy sự vui mừng, ca ngợi, nhân đấy mà phát tâm Bồ-đề, đó là Nhẫn nhục.
Chư Thiên xem thấy uy thần cùng công đức lồng lộng, nên khuyến khích để thay nhau bày tỏ sự hoan hỷ, đó là Tinh tấn.
Như trông thấy Xá-lợi nơi bàn chân của bậc tiên phóng ra hào quang, khiến phải rợn người không cầm được nước mắt, đó là Nhất tâm.
Hoặc như thấy Xá-lợi mà lập nguyện chân thành, hiện ra ánh hào quang oai đức gồm trong năm màu sắc sáng rực, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là nhằm đem giáo pháp truyền bá rộng khắp mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như được đông đảo chúng sinh tự quy ngưỡng cúng dường nhiều vật phẩm thì nên đem giúp đỡ cho những nơi chốn thiếu kém, đó là Bố thí.
Luôn giữ gìn lấy tâm mình khiến không dấy khởi các vọng niệm, vì đã không chỗ sinh thì cũng là không chỗ diệt, đó là Trì giới.
Như nương theo diệu lý không sở hữu mà nhận thức mọi hiện tượng trong ba cõi, cả Phật, pháp, người vật, tất cả đều như nhiên, đó là Nhẫn nhục.
Có thể khiến cho kinh điển, đạo pháp được đem ra giảng dạy truyền bá khắp các cõi trời, người, đó là Tinh tấn.
Các loài ma oán cùng đám tay chân trông thấy thảy đều kinh hoảng không dám đương đầu với oai đức của đạo giác ngộ, đó là Nhất tâm.
Ví như giáo pháp luôn được hiển bày sáng tỏ, truyền bá khắp mười phương được mọi người yêu kính, đem lại an vui thích thú cho mỗi người, dần dà tiến tới việc tiếp cận với các pháp giải thoát, đó là Trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
–Thế nào gọi là từ sự phân chia Xá-lợi mà tu các pháp Độ vô cực gồm có sáu sự việc?
Như chính vì Xá-lợi mà mong được mọi người cúng dường đầy đủ, sớm tối bày tỏ mọi việc cung kính, đó là Bố thí.
Có được vô số người thảy cùng hoan hỷ quy ngưỡng kính lễ, đó là Trì giới.
Hoặc như lại thị hiện ra ánh hào quang uy linh, khiến cho mọi người xa gần cùng đến chiêm bái, tâm có thể nhân đó mà được chuyển hóa, đó là Nhẫn nhục.
Chư Thiên, dân chúng thảy cùng biểu lộ sự vui mừng hết mực, đều biết đó là điều hết sức tôn quý làm điều kiện để phát tâm Bồ-đề, đó là Tinh tấn.
Hay như trông thấy Xá-lợi, cho là không còn có niềm vui nào hơn được, nhớ nghĩ về Phật đạo, không gì có thể chỉ bày khéo hơn điều ấy, đó là Nhất tâm.
Hoặc như hết lời ca ngợi Xá-lợi nên đạt được sự biện tài kỳ diệu, không hề gặp trở ngại để hội nhập vào biển trí tuệ.
Ấy là gồm đủ sáu pháp Độ vô cực.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại từ tốn nói với Bồ-tát Hỷ Vương:
–Tất cả đó là hai ngàn một trăm các pháp Độ vô cực, ngoài ra lại có chín mươi pháp Độ vô cực nhằm để tiêu trừ chín thứ phiền não trong đời, hóa độ chín mươi sáu thứ học thuyết ngoại đạo khiến họ trở về với đạo giải thoát.
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Đó là hai ngàn một trăm các pháp Độ vô cực, nêu giảng một cách thích hợp để giáo hóa các loại tham dâm. Hai ngàn một trăm các pháp Độ vô cực, được nêu giảng để giáo hóa các loài sân hận. Hai ngàn một trăm các pháp Độ vô cực, được nêu giảng để chỉ rõ nẻo giác ngộ cho hạng ngu si tăm tối. Hai ngàn một trăm các pháp Độ vô cực, được nêu giảng để chỉ dạy về sự bình đẳng đối với loại hay phân chia. Hợp lại là tám ngàn bốn trăm các pháp Độ vô cực, một pháp biến là mười hợp lại là tám vạn bốn ngàn các pháp Độ vô cực. Đức Phật là bậc Y vương, nêu giảng các pháp là vì chúng sinh, pháp ấy chính là thứ thuốc quý vô thượng đối với tất cả chúng sinh trong ba cõi, trị lành dứt ba độc cùng tiêu trừ bao thứ phiền não che chắc phủ vây, cũng như những kẻ phản nghịch, những người không biết tìm lại bản tính của mình, nhân được trông thấy sự giáo hóa dẫn dắt không ai là không được giải thoát, không ai là không phụng hành tám vạn bốn ngàn các pháp Độ vô cực ấy.
Như nhằm vì hàng trăm ngàn loại người dứt trừ tám vạn bốn ngàn các thứ phiền não cấu nhiễm, đạt được tám vạn bốn ngàn các pháp môn Tam-muội. Nếu như rốt cuộc chưa có thể thành tựu thì nên tu theo tám vạn bốn ngàn pháp nghĩa “Không hành”, dùng pháp ấy mà giáo hóa dẫn dắt cho trăm ngàn loại người, tiêu trừ tám vạn bốn ngàn các thứ phiền não cấu uế, được hội nhập vào tám vạn bốn ngàn các pháp môn Tam-muội. Đó chính là Phật đạo, là hội nhập vào thế giới thâm diệu vô bờ đạt đến Nhất thiết trí.
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Ta lúc an tọa nơi gốc cây Bồ-đề, đã dùng pháp ấy để hàng phục các thứ ma cùng đám tay chân của chúng, thành Bậc Giác Ngộ tối thượng, nhân thông tỏ pháp này mà tạo lập sự bình đẳng, Ở chỗ đất bằng, Ta ngồi kiết già tĩnh tọa, thể hiện uy thần lồng lộng kỳ diệu, khiến cho Phạm vương vội vàng thân hành đến nơi cung kính lễ bái, quy ngưỡng mong được thương xót. Vì lời thệ nguyện lớn lao từ ngày xa xưa là nhằm để cứu độ tất cả chúng sinh, nên hiện nay thảy đều tụ hội đông đảo cùng muốn được nghe kinh pháp. Phạm vương đã rơi nước mắt, dốc tâm khuyến thỉnh: “Xin vì sự tế độ đối với tất cả chúng sinh còn trong vòng mê lầm.” Đức Phật thành tựu quả vị như thế là Bậc Đại Thánh vi diệu, đạt được Chánh giác tối thượng, nên an tọa trong cảnh giới tịch nhiên. Luôn yên lặng tĩnh tọa tâm chỉ nghĩ: “Chúng sinh ở trong cõi đời xấu ác đầy năm thứ uế trược với chín mươi sáu nẻo ngoại đạo gồm trong sáu mươi hai thứ kiến chấp, mê lầm, hung tợn, phần nhiều không biết tìm lại bản tính của mình, không muốn thọ nhận giáo pháp giác ngộ. Chẳng bằng yên lặng mà giữ lấy cảnh giới Niết-bàn tịch diệt.”
Thời gian Phật an tọa nơi gốc cây Bồ-đề hào quang rực rỡ tỏa chiếu khắp mười phương. Tịnh Cư Thân Thiên từ xa trông thấy hào quang với uy thần, dung mạo, công đức không gì là không rực rỡ. Đạo đức rạng ngời thể hiện đầy đủ mọi nẻo an lành. Chánh pháp ấy phải được truyền bá rộng rãi ở đời, vì thế chư Thiên đã tụ hội đông đảo thảy cùng bày tỏ nỗi vui mừng. Tạo lập được ánh sáng giác ngộ lớn lao, tĩnh lặng, chân chánh, thể hiện sự thông đạt của bậc Thánh là vô bờ bến. Ánh hào quang chói lọi rực rỡ, oai đức hiển lộ khắp chốn, thanh tịnh không gì hơn, là bậc tối tôn của ba đời, ứng hiện khắp tất cả cõi Phật trong mười phương. Tâm ấy mở rộng, thấu triệt vang động cả tam thiên quốc độ. Đạo đức, trí tuệ rộng lớn cao xa, thật khó để được nghe thấy chiêm bái lãnh hội, siêu việt, vô tận, mọi danh xưng tôn hiệu đều không đủ để ca ngợi. Ai cũng trông thấy uy thần cùng hào quang kỳ diệu vô lượng ấy, cũng như dung nhan thể hiện sung mãn đức độ, trí tuệ bao la như hư không, thù thắng vượt qua mọi ví dụ.
Bấy giờ, Phạm vương trở lại tâu bày với Đức Phật, dáng khép nép, nhất tâm cung kính tự quy ngưỡng và đọc kệ:
Đạo tràng tỏa hào quang
Hàng ma trừ phiền não
Chấn động khắp Tam thiên
Diệt khổ nơi nẻo ác
Thân đoan chánh an tọa
Ngồi yên, các căn lặng
Sư tử đến an nhiên
Muốn chọn cõi tịch diệt
Bảo tọa ngời ánh sáng
Nơi Thọ vương uy hiển
Rộng bày đạo an vui
Trừ pháp chẳng ích đời
Diệt khổ ách ba đường
Xem dung nhan không chán
Tâm niệm dốc xót thương
Thẩm xét nên nghĩa quý
Cùng diễn pháp bình đẳng
Đạo chọn nghiệp ba đời
Tỏ ba phẩm các pháp
Thuận thời nên nẻo ý
Đạo hiện như trăng tròn
Ba mươi hai tướng tốt
Bậc Đại Thánh trên đời
Chẳng là đời cầu vui
Thần, Phạm thật khó sánh
Thấy rõ đời ba độc
Biết tục, dùng nước pháp
Rưới dứt bao lửa dữ
Ấy lúc mưa cam lồ
Xét tinh tấn không dứt
Mê lầm được đường chính
Mắt tỏ theo một lối
Lòng thương xót, chỉ bày
Đức như biển, núi cao
Vì đời đưa thuyền giác
Cứu độ kẻ đắm chìm
Giáo hóa đám tà học
Người tham buộc lấy thân
Tà kiến, ái dục hại
Ngục tù mãi giam giữ
Dẫn dắt chúng thoát khỏi
Dấy tà, ham ngủ nghỉ
Theo trần, đạo chẳng vui
Giới, định, nguyện dũng mãnh
Sao chẳng gióng trống pháp?
Kẻ đói thiếu, đọa đày
Năm đường đời mong cầu
Thường chẳng đạt vô tận
Sao lại không nên thờ?
Vô số người cùng tin
Chốn tịch thí cam lồ
Lòng thương mở mưa pháp
Giữ giác tỏa ân nhuần
Rõ bệnh tật ba đời
Tâm giũ sạch phiền não
Thông tỏ bao thuốc quý
Sao chẳng đem chữa trị?
Trừ tăm tối muôn loài
Đức lớn nên kho báu
Trí sáng chiếu đại thiên
Sao chẳng rạng cõi Phật?
Xin thương xót trời, người
Đọa nơi bốn dòng xiết
Sao chẳng cứu ách này
Giúp kẻ đọa thoát nạn?
Phật thấy mọi ý tưởng
Trời, người dốc thỉnh cầu
Tâm thành, mong an lạc
Sao chẳng hiện đạo báu?
Mắt Phật xem ba cõi
Phạm thiên khuyên, người trọng
Vì thương đám mê lầm
Chuyển pháp luân trừ dứt
Nơi bảo tòa Sư tử
Chư Thiên, người tụ họp
Mong tuôn cơn mưa pháp
Xin chuyển bánh xe pháp.
-oOo-
Bồ-tát Hỷ Vương lại thưa với Đức Phật:
–Kính thưa Thế Tôn! Hiện nay trong chúng hội này lẽ nào chỉ có các bậc Đại sĩ đạt được pháp định ý ấy, hội nhập vào tám ngàn bốn trăm pháp Độ vô cực cùng với tám vạn bốn ngàn các pháp Độ vô cực chi tiết cũng như tám vạn bốn ngàn các pháp môn Tam-muội, mà thôi chăng?
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Hiện nay, trong chúng hội này có các vị Bồtát Đại sĩ đạt được các pháp định ý và các pháp Độ vô cực, lại được hội nhập vào tám vạn bốn ngàn các pháp môn Tam-muội. Tuy vậy, chẳng những chỉ có các vị Khai sĩ ấy mà còn có cả thời sau này trong Hiền kiếp, các bậc tu học sẽ thành tựu quả vị Tối chánh giác gồm đến một ngàn vị Như Lai. Trừ bốn vị Như Lai từ trước đã thành tựu quả vị Chánh giác Vô thượng, đã là Bậc Tối Chánh Giác, còn lại tất cả các vị cũng đều đạt các pháp môn Tam-muội ấy.
Bồ-tát Hỷ Vương lại thưa với Đức Phật:
–Lành thay Đức Thế Tôn! Xin ban thêm tâm Từ bi, sẽ nêu rõ về tên họ, hiệu vị của chư Bồ-tát ấy. Vì những nơi nào được Đức Thế Tôn thương xót nhớ nghĩ đến thì những chốn ấy đạt được nhiều an lành, huống chi Đức Thế Tôn luôn tỏ tâm thương xót đối với chư Thiên cùng với chúng nhân trong mười phương, nên cần thể hiện sự giúp đỡ đối với kinh pháp khiến cho đạo pháp được tồn tại lâu dài. Vì sự tu học ở đời sau này cần sự hỗ trợ của các vị Bồ-tát nên xin Đức Thế Tôn hiển thị ánh hào quang cho con đường hành hóa của đạo Vô thượng, cảnh giới nhân đó mà thành tựu.
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Bồ-tát hãy gắng lắng nghe, khéo suy nghĩ và gắng ghi nhớ! Ta sẽ vì Bồ-tát cùng các vị trong chúng hội mà nói rõ về danh hiệu của một ngàn vị Phật.
Bồ-tát Hỷ Vương cùng với các vị trong đại chúng vâng theo lời Phật dạy và cùng lắng nghe.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bèn trân trọng, dịu dàng nói về danh tự của chư Phật:
Thiện Tư Nghị
Chư Phật Âm
Duy Niệm An
Ly Cấu Xưng
Đại Danh Văn
Minh Châu Kế
Kiên Sư Tử
Độc Du Bộ
Xả Sở Niệm
Cập Trí Tích
Ý Thiện Trụ
Vô Cực Tượng
Vô Lượng Giác
Ngôn Diệu Nhan
Tuệ Quang Diệu
Tiêu Cường Ý
Năng Ủng Hộ
Chí Thành Anh
Liên Hoa Giới
Chúng Chư An
Thánh Tuệ Nghiệp
Tương Công Huân
Vô Tư Nghị
Tịnh Phạm Thí
Bảo Sự Nghiệp
Xử Thiên Hoa
Thiện Tư Duy
Vô Hạn Pháp
Danh Văn Âm
Dĩ Biện Tích
Tự Tại Môn
Thập Chủng Lực
Hữu Thập Lực
Đại Thánh Đức
Vô Sở Việt
Du Tịch Nhiên
Tại Ư Bỉ
Vô Số Thiên
Tư Di Quang
Cực Trọng Tạng
Nhân Việt Độ
Nhi Độc Bộ
Uy Thần Thắng
Đại Bộ Giới
Dĩ Chỉ Hộ
Tương Tam Giới
Hữu Công Huân
Tuyên Danh Xưng
Nhật Quang Minh
Sư Tử Anh
Thời Tiết Vương
Sư Tử Tràng
Thị Hiện Hữu
Quang Viễn Chiếu
Chỉ Sư Tử
Hữu Sở Thí
Mạc Năng Thắng Vi Tối Tràng
Hủy Duyệt Xứng
Kiên Tinh Tấn
Vô Tổn Giảm
Hữu Danh Xưng
Vô Khủng Bố
Vô Trước Thiên
Đại Đăng Minh
Thế Quang Diệu
Vi Diệu Âm
Chấp Công Huân Trừ Ám Minh
Vô Đẳng Luân.
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Phải nên dốc tâm ca tụng các vị Bồ-tát cùng ở trong Hiền kiếp sẽ thành Phật, với các danh hiệu:
Câu-lưu-tôn
Hàm Mâu-ni
Kỳ Ca-diếp
Thích-ca Văn
Từ Thị Phật
Sư Tử Diệm
Nhu Nhân Phật
Cập Diệu Hoa
Thiện Tinh Tú
Cập Đạo Sư
Đại Phong Đa
Đại Lực Phật
Tinh Tú Vương
Kỳ Dược Thị
Tịch Nhiên Anh
Đại Quang Minh
Mâu-ni Phật
Đẳng Quá Phẩm
Cụ Túc Phẩm
Đẳng Nhị Sự
Nhi Chiếu Minh
Nhật Tạng Phật
Nguyệt Quang Diệu
Thiện Minh Phật
Vô Ưu Phật
Tổng Hàm Diệu
Chiếu Chấp Hoa
Công Huân Quang
Nhân Hiện Nghĩa
Định Quang Thí
Hưng Thịnh Phật
Hảo Đạo Sư
Đảnh Quang Minh
Uy Thần Thủ
Nan Thắng Thị
Đức Tràng Phật Tĩnh Nhàn Cư
Phạm Âm Hưởng
Thuận Thứ Kiên
Vô Bản Thị
Tạo Quang Phật
Đại Sơn Thị
Trí Kim Cang
Ức Vô Úy
Bảo Liên Hoa
Lực Nhân Tướng
Hoa Quang Thị
Dĩ Khí Ái
Đại Uy Phật
Phạm Thị phật
Vô Lượng phật
Long Thí Phật
Long Thí Tấn
Kiên Cố Bộ
Vô Hư Kiến
Thí Tinh Phật
Giải Phược Phật
Bất Thoái Một
Sư Tử Tràng
Ca Pháp Thắng
Hỷ Vương Phật
Hiệu Diệu Ngự Thọ Danh Xưng
Đức Phong Đa
Chúng Hương Thủ
Ly Cấu Quang
Sư Tử Giáp
Hiệu Bảo Xưng
Diệt Trừ Uế
Vô Lượng Phật
Hiệu Tổng Trì
Hùng Nhân Nguyệt
Thiện Kiến Phật
Đãi Nghiêm Phật
Minh Châu Quang
Sơn Đảnh Anh
Hiệu Pháp Sự
Liễu Nghĩa Lý
Tình Tánh Điều
Bảo Phẩm Phật
Niệm Thắng Căn
Lạc Dục Độ
Trụ Lập Giác
Liễu Biệt Đảng
Siêu Việt Tôn
Thủ Tối Phật
Vũ Âm Thanh
Thiện Tư Duy
Hữu Thiện Ý
Ly Cấu Xưng
Đại Danh Văn
Minh Châu Tịnh
Kiên Sư Tử
Trụ Trường Thọ
Xả Tư Duy
Trí Tuệ Đỉnh
Thiện Trụ Lập
Hữu Chí Ý
Vô Lượng Ý
Diệu Nhan Sắc
Thánh Tuệ Quang
Thệ Kiên Cố
Cát Tường Thiện
Hữu Diệu Anh
Nhân Liên Hoa
Sở Tại An
Tuệ Tạo Phật
Công Huân Bố
Quang Huy Phật
Phạm Thiên Thí
Bảo Sự Phật
Diệu Hảo Hoa
Thiên Thần Đỉnh
Thiện Tư Nghĩa Trị Tự Tại
Danh Văn Ý
Tích Biện Tài
Kim Cang Tràng
Quang Diệu Diệm
Đệ Thập Phật
Chư Phật Hiệu
Các Như Thị
Vô Việt Lạc
Du Tịch Tĩnh
Hữu Thế Vương
Nhàn Thiên Phật
Sơn Tràng Phật
Viêm Trọng Thánh
Quang Diệc Nhiên
Bảo Tạng Phật
Bất Lạc Việt
Thắng Đại Giới
Tam Thế Hộ
Hiệu Đức Xưng
Nguyệt Diệm Quang
Hoảng Minh Chiếu
Lâm Dĩ Thời
Hạnh Thủ Tàng
Sở Phụng Hành
Nhi Thị Hiện
Diệm Chiếu Phật
Quang Minh Tôn
Tử Kim Sơn
Sư Tử Thí
Mạc Năng Tràng
Nhân Trung Vương
Quang Diệm Xưng
Kiên Tinh Tấn
Vô Tổn Xứng
Ly Ư Úy
Vô Trước Thiên
Đại Đăng Minh
Nhiêu Ích Thế
Vi Mỹ Hương
Đặc Đức Tôn
Tổn Ư Minh
Đệ Đẳng Luân
Đắc Tự Tại
Sư Tử Thệ
Danh Bảo Xứng
Tiêu Diệt Uế
Chấp Cam Lồ
Ý Trung Nguyệt
Nhật Vô Úy
Dĩ Trang Nghiêm
Ý Chu Quang
Thủ Anh Hạng
Tạo Pháp Bản
Đệ Nhất Nghĩa
Quyết Chúng Lý
Thí Sớ Nguyện
Bảo Phẩm Thân
Trùng Căn Kiếp
Dục Tế Độ
Lạc Ý Trụ
Phân Biệt Bộ
Sư Tử Âm
Hiệu Hý Lạc
Nhu Nam Tử
Thanh Hòa Phật
Long Quang Phật
Hoa Sơn Thị
Long Hân Dự
Hương Thậm Hào
Danh Xứng Phật Thế Đại Thiên
Công Huân Man
Nhiêu Ích Long
Nghiêm Sức Mục
Thiện Hành Đạo
Chí Thành Phật
Mẫn Thương Thị Liễu Tuệ Phật
Vô Lượng Thị
Hiển Minh Phật
Hiệu Chí Thành
Nhật Quang Diệu
Dĩ Quyết Ý
Vô Hạn Phật
Nhan Mạo Tượng
Chiếu Minh Phật
Bảo Anh Thị
Quyết Hồ Nghi
Sư Tử Cố
Chí An Ẩn
Hiệu Nhu Nhuyến
Thiện Hiếp Phật
Bất Hư Giác
Diệu Hoa Anh
Đế Thạch Căn
Hiệu Đại Uy
Tạo Tác Hiện
Vô Lượng Phật
Danh Xưng Bảo
Thiên Tùy Thị
Giải Nghĩa Hỷ
Cụ Túc Ý
Xưng Cao Tạng Vô Ưu Phật
Ly Cấu Thị
Phạm Thiên Phật
Tổng Trì Hào
Mục Hoa Phật
Ly Hạnh Thể
Hiệu Pháp Quang
Vô Hủy Hiện
Đức Hỷ Duyệt
Tam Giới Phụng
Danh Khai Diệp
Bảo Quang Thị
Bảo Anh Phật
Thượng Danh Văn
Tạo Quang Phật
Vô Lượng Uy
Dĩ Tùy Thời
Sư Tử Thân
Minh Ý Phật
Nan Thắng Thị
Công Đức Thể
Danh Xưng Anh
Đắc Lực Thế
Du Vô Hạn
Ly Cấu Nguyệt
Phổ Hiện Nghĩa Dũng Mãnh Phật
Công Phước Phú
Nguyệt Đăng Quang
Chí Đức Diệu
Ý Ly Cấu
Thiện Tịch Nhiên
Hiệu Thiện Thiên
Vĩnh Xả Cấu
Dĩ Vô Thắng
Chấp Thù Cung
Vô Lượng Thị
Tối Hảo Diệu
Vô Ti Tạng
Vô Sở Trụ
Dĩ Phục Giác
Nhật Tôn Trọng
Tục Chi Quang
Nhật Thiện Phật
Phước Phong Nhiêu
Hưng Uy Thị
Hiện Vô Lượng
Ý Cát Tường
Hạnh Đế Vương
Tiêu Bì Lao
Thí Vô Nhiệt
Thi Danh Văn
Thí Hưng Hoa
Thí Tề Sĩ
Kim Cang Phật
Tương Đại Thí
Hiệu Ý Tịch
Thuận Hương Thủ
Câu Tỏa Thị
Hiệu Thiện Thí
Vô Sở Ti
Liêm Khác Phật
Nguyệt Hoảng Dục
Diệm Anh Phật
Đại Cát Tường
Tịch Nhiên Tuệ
Hiệu Cát Nghĩa
Thậm Sơn Đỉnh
Thậm Điều Lương
Liên Hoa Thị
Vô Trước Xưng
Du Thánh Tuệ
Ly Vu Minh
Sung Mãn Phật
Sở Tại An
Quận Vô Tổn
Danh Xưng Thiên
Cần Hiện Hạnh Nguyệt Thị Phật
Đa Công Huân
Bảo Nguyệt Phật
Sư Tử Tràng
Lạc Ư Tuệ
Vô Sở Tổn
Hiệu Bất Hý
Nhạo Công Đức
Vô Trước Phật
Danh Văn Thị
Liên Hoa Diệp
Biện Đại Tạng
Xưng Minh Châu
Hiệu Kim Cang
Vô Lượng Thọ
Tịnh Minh Châu
Đại Căn Bản
Siêu Chúng Ác
Danh Xưng Nguyệt
Hân Hỷ Quang
Vô Sở Phạm
Bảo Ý Nguyệt
Hiệu Tịch Nhiên
Minh Vương Thí
Diệu Đạo Ngự
Du Tự Tại
Bảo Kết Phật
Dĩ Ly Úy
Bảo Tạng Phật
Nhược Can Nguyệt
Ly Cấu Xứng
Hiệu Tịch Diệt
Thiên Cung Kính
Nhàn Tịnh Thiên
Thiện Uy Phật
Bảo Ái Kính
Bảo Phẩm Phật
Bảo Du Bộ
Sư Tử Đảng
Thắng Bất Tịnh
Thiện Ý Phật
Quang Chiếu Thế
Bảo Uy Thần
Ly Lạc Thị
Hiệu Ức Trí
Hảo Thanh Tịnh
Hóa Ngoại Nghiệp
Dĩ Hương Thủ
Ý Diệm Phật
Sơn Tràng Phiên
Thiện Diệu Ý
Kiên Cố Đăng
Uy Thần Cường
Hiệu Châu Khải
Nhân Kiên Phật
An Trụ Nguyệt
Hiện Phạm Âm
Sư Tử Nguyệt
Uy Thần Thủ
Hiệu Thiện Sinh
Mạc Năng Thắng
Nguyệt Thị Phật
Từ Chúng Chư
Nhật Đại Thú
Sơn Quang Huy
Chí Đức Đỉnh
Đại Danh Văn
Hiệu Pháp Xưng
Thi Quang Phật
Diệm Diệu Thí
Tác Chí Thành
Tu Mạng Nghiệp
Dĩ Thiện Thời
Thiện Thậm Trọng
Quyết Liễu Ý
Chí Niệm Hành
Minh Châu Hương
Thắng Hân Hỷ
Sư Tử Quang
Hiệu Chiếu Minh
Thượng Danh Văn
Thiện Sơn Thị
Hoảng Dục Châu
Hiệu Quang Thế
Thế Vô Ti
Cần Tu Diệm
Minh Châu Nguyệt
Tại Thế Tôn
Cát Tường Thủ
Bảo Hân Lạc
Nhàn Tĩnh Minh
Hiếu Tịch Đạo
Quang Nghiêm Ai
Sở Đáo Tịch
Thế Thiện Lạc
Hiệu Vô Ưu
Thuận Thập Sở
Hân Lạc Lực
Thế Lực Thủ
Thế Uy Vương
Đại Thế Chí
Công Huân Tạng
Ngôn Chí Thành
Thượng An Ẩn Viêm Minh Phật
Đại Quang Thị
Đức Quang Minh
Hiệu Bảo Thủ
Quang Diễn Hương
Tạo Đăng Minh
Cát Tượng Thủ
Thiện Hoa Diệp
Trân Bảo Phật
Giang Hải Thị
Chấp Trì Địa
Ý Nghĩa Lý
Ý Thanh Triệt
Công Đức Luân
Bảo Xá Trạch
Hành Chí Nghĩa
Ư Thế Nguyệt
Âm Nhu Hòa
Phạm Anh Tâm
Diện Uy Trọng
Ý Cát Lợi
Kiên Cố Thí
Hiệu Phước Quang
Đại Uy Diệu
Bảo Thị Phật
Hiệu Danh Văn
Chí Trọng Nguyện
Vô Lượng Xưng
Quang Bất Hư
Tiêu Thiên Tật
Thắng Căn Nguyên
Chúng Kim Cang
Anh Thiện Phẩm
Diệu Hoa Quần
Ý Chứng Minh
Vô Thanh Hạnh
Thiện Tư Xứng
Dĩ Chiếu Diệu
Thần Kỳ Phẩm
Tịch Công Huân
Siêu Việt Nghĩa
Trụ Vô Úy
Kiến Lập Từ
Chí Yếu Tàng
Minh Châu Hành
Uy Giải Thoát
Thiện Quang Minh
Chí Vị Phật
Thiện Độ Thoát
Đẳng Uy Thần
Thánh Tuệ Thắng
Phạm Dĩ Sinh
Chí Thành Âm
Thiện Giác Phật
Thế Lực Thí
Sư Tử Bộ
Hiệu Hoa Anh
Tuệ Sự Nghiệp
Tuệ Dữ Hoa
Công Đức Tạng
Bố Danh Văn
Trừ Ti Tiện
Vô Khủng Bố
Ý Quang Minh
Ư Tư Phạm
Tự Vọng Thiên
Ái Sự Nghiệp
Chân Thành Thiên
Minh Châu Tàng
Công Đức Thất
Tích Thánh Tuệ
Mạc Năng Dụ
Hỷ Duyệt Hỷ
Kiên Cố Nguyện
Sở Thí Thiên
Phạn Nhu Nhân
Ý Sở Thú
Đắc Tiêu Ác
Hỏa Hách Diệm
Đại Uy Thần
Tư Di Hoa
Minh Hống Phật
Thiện Kế Số
Căn Vô Ức
Đại Ái Kính
Thiện An Ý
Quang Trùng Diệu
Hoằng Vi Diệu
Chủ Sở Sinh
Tinh Sở Chí
Thiện Quyết Nghĩa
Hữu Cảnh Giới
Thiện Đa Phật
Ca-đà Nguyện
Cứu Ư Thế
Phước Quang Thị Bảo Âm Phật
Kim Cang Tướng
Hiệu Phú Hữu
Sư Tử Lực
Ly Cấu Mục
Thân Giải Thoát
Giác Thanh Triệt
Thánh Tuệ Bộ
Uy Kiên Cố
Đại Quang Minh
Nhật Hoảng Diệu
Thể Ly Cấu
Phân Biệt Oai
Vô Tổn Háo
Nhu Nhuyến Nghiệp
Nguyệt Quang Thị
Lôi Thí Phật
Hành Tịch Nhiên
Hiệu Vô Nộ
Đa Hữu Đăng
Hoảng Diệu Điền
Thanh Tịnh Quốc
Siêu Xuất Thượng
Liên Hoa Thượng
Quang Thủ Phật
Bảo Thanh Tịnh
Hiệu Cực Hiền
Bảo Thượng Thị
Thiện An Minh
Giang Hải Thí
Phạm Thiên Anh
Thiện Bảo Cái
Hảo Diệu Diệm
Tùy Thời Nghĩa Minh Đạt Tưởng
Công Đức Huy
Tuyên Âm Phật
Thạnh Mãn Nguyệt Liên Hoa Quang
Thiện Chuyên Tinh
Đỉnh Minh Vương
Điện Diệm Anh
Quang Minh Vương
Hiệu Hoảng Dục
Xưng Vô Quyên
Liên Hoa Tạng
Cúng Dường Chí
Tứ Thiền Nghiệp
Vô Sở Đắc
Cường Thế Binh
Công Đức Tạng
Độc Du Bộ
Vô Ngại Phật
Giác Ý Tĩnh
Tuệ Quang Minh
Hiệu Thiên Thánh
Ngự Quang Minh
Ứng Sở Thú
Hoa Anh Phật
La-vân Thị
Đại Dốc Tín
Tinh Tú Vương
Y Vương Phật
Công Phước Bình
Sở Phú Cái
Tuyên Sướng Vương
Nhật Quang Minh
Pháp Tạng Thị
Thiện Ý Phật
Đức Căn Niệm
Tổn Binh Nhẫn
Hiệu Trí Tích
Thiện Trụ Lập
Thiện Liễu Hành
Phạm Thiên Âm
Long Lôi Điện
Hòa Âm Phật
Thần Thông Anh
Thánh Trí Phẩm Cát An Tường
Phạn Bình Đẳng
Diệu Mục Liệu
Hiệu Bố Long
Chí Thành Anh
Minh Liễu Phật
Vô Khiếp Nhược Bảo Âm Thanh
Nhu Nhuyến Hưởng
Hiệu Sư Tử
Hiệu Kỳ Tát
Nhược Can Biện
Dũng Tuệ Thị
Liên Hoa Tích
Hiệu Hoa Khai
Hành Bộ Chí
Tích Công Đức Nhan Mạo Quý
Chủ Uy Diệu
Nguyệt Đăng Minh
Uy Thần Vương
Giác Vương Phật
Vô Tận Thị
Giác Đạt Nguyệt
Hiệu Duyệt Dự
Trí Quận Thượng
Hiệu Tối Thượng
Đãi Uy Thí
Trí Tuệ Thị
Âm Nhu Âm
Đạo Sư Nguyên
Thanh Vô Ngại
Thí Tôn Tạng
Hào Tuệ Phật
Độc Du Bộ
Đại Hoảng Diệu
Ứng Căn Hương
Thiện Quang Minh
Bố Uy Xứng
Hảo Nhan Vương
Hiệu Cát Lợi
Sư Tử Binh
Sở Chỉ Túc
Danh Văn Phục
Hòa Diệu Tạng
Phước Quang Minh
Trụ Lương Tánh
Đăng Minh Vương
Tích Thánh Tuệ
Tôn Thiên Phật
Đại Chủ Nguyên
Giải Liễu Hạnh
Hiệu Kim Kiết
Nhàn Tĩnh Giáo
Hiệu Nan Thắng
Duyệt Hỷ Nhân
An Minh Thị
Tử Kim Quang
Hiệu Diệu Hảo Công Huân Căn
Pháp Nhiên Ích
Công Đức Đa
Phong Đa Thị
Hiệu Hư Không
Vi Diệu Tuệ
Giác Giải Vi
Nhất Thiết Úy
Như Dược Phật
Giải Thoát Anh
Trí Tạng Phật
Tích Thánh Tuệ
Khả Kính Uy
Hàng Phục Lưu
Giải Vô Ngại
Tập Chí Thành
Thiện Âm Hưởng
Uy Trọng Đế
Ưng Như Niệm
Hiệu Xưng Pháp
Giải Uy Thần
Tôn Hóa Thân
Ngôn Nhu Nhuyến Sư Tử Phát
Quyên Trọng Đảm
Bạt Chúng Căn Kính Sư Tử
Pháp Bạn Lữ
Du An Ẩn
Vô Nộ Giác
Nhan Sắc Thịnh
Uy Thần Vương
Thị Chư Giác
Thiện Minh Phật
Trụ Lập Nghĩa
Giác Quang Minh
Thần Diệu Âm
Uy Duyệt Chúng
Hành Bất Hư
Tiêu Hoại Sân
Nhan Mạo Tôn
Thiện Tử Kim
Điều Hòa Phật
Giải Thoát Kết
Trụ Ư Pháp
Hiệu Vãng Quy
Khí Tự Đại
Thánh Tuệ Tạng
Phạm Thiên Du
Hiệu Chiên-đàn
Vô Sầu Thích
Thanh Tịnh Thân Hiệu Phật Anh
Liên Hoa Phật
Uy Vô Lượng
Thiên Quang Diệu
Chánh Trí Hoa
Hiệu Tác Tư
Công Đức Tuệ
Phạm Thiên Cư Bảo Khiên Phật
Đế Vương Thị
Vô Tổn Phật
Chí Tôn Giáo
Thủy Đế Vương
Tinh Minh Thị
Vô Sở Hại
Lưu Ly Tạng
Hiệu Thiên Hoa
Dương Danh Xưng
Cung Thân Quang
Cực Thiện Minh
Nhất Thiết Huân
Thậm Quý Quang
Trân Bảo Phật
Nguyên Thủ Thị
Diệu Trượng Phu
Hiệu Nguyệt Sở
Vô Lượng Quang
Khoái Ý Niệm
Viêm Minh Phật
Thị Vô Yếm
Sư Tử Phật
Hảo Lạc Tuệ
Sơn Căn Bản
Tịch Nhiên Đức
Tích Thế Lực
Nghi Nghĩa Đế
Sướng Thiện Thanh
Hiệu Khoái Hoa
Trụ Ư Nghĩa
Oai Đức Vương
Hệ Vô Đẳng
Hiệu Vô Hạn
Âm Hưởng Phật
Danh Thù Thắng
Thiện Quang Minh
An Ẩn Tư
Giải Thoát Phật
Tâm Tư Nghĩa
Hiệu Cực Quý
Tuyên Sướng Âm
Hoảng Dục Nghiệp
Đẳng Hư Không Thân Danh Văn
Lợi Tịch Nhiên
Vô Hà Uế
Hiệu Thanh Tịnh
Ý Tập Hành
Liên Hoa Phật
Thuận Phẩm Đệ
Thiện Quang Diệu
Diệu Biện Tài Hiệu Tận Cực
Thiện Chu Biến
Trùng Căn Nguyên
Ly Bố Úy
Tuệ Thanh Bạch
An Trụ Phật
Tuyên Biện Tài
Tối Minh Mục
Giác Danh Văn
Thường Không Phật
Nguyệt Tịch Nhiên
Vô Khủng Cụ
Đại Hiển Hiện
Phạm Thiên Thị
Hảo Âm Hưởng
Đại Thánh Tuệ
Độ Biên Tế
Phổ Vô Tế
Giác Liễu Ý
Thọ Căn Duyên
Hành Cực Thuận
Thanh Trừ Âm
Tịch Công Đức
Hữu Lực Thế
Hiệu Cường Thủ
Kính Thánh Phật
Dĩ Đãi Đức
Hiệu Minh Vị
Lôi Chấn Hống
Vũ Âm Thanh
Nhãn Ái Kính
Nhân Hiền Thị
Minh Cực Khoái
Cực Phú Hữu
Hợp Tập Đức
Nhi Tịch Nhiên
Hiệu Duyệt Dự
Pháp Tràng Phan
Chí Thánh Hưởng
Tâm Hư Không
Pháp Từ Âm
Công Đức Phật
Phân Biệt Âm Đức Quang Minh
Hữu Uy Thần
Đạt Căn Nguyên
Hữu Ý Niệm
Hữu Tiệp Biện
Tịch Nhiên Luân
Nhân Thiện Vương
Nhược Can Nguyệt
Viết Viễn Văn
Vô Cấu Trần
Đức Chí Thành
Thù Diệu Hoa
Đức Tràng Phan
Quần Biện Tài
Hảo Trân Bảo
Hoài Duyệt Dự
Kính Ái Nguyệt
Vô Tốt Bạo
Sư Tử Lực
Tự Tại Vương
Duyệt Vô Lượng
Bình Đẳng Nghiệp
Vô Sân Khuể
Diệt Cấu Uế
Ban Tuyên Nghi
Tuệ Vô Ngu
Huyền Diệu Phật
Thiện Nhân Hiền
Nhi Ưng Trụ
Thập Tuệ Tịch
Ngôn Đàm Đế
Hiệu Trượng Phu
Hữu Thâm Ý
Hành Vô Lượng
Hữu Pháp Lực
Chí Cúng Dường
Hoa Quang Minh
Tại Tam Thế
Gian Tĩnh Cung Nhật Diệu Tạng
Thiên Phụng Sự
Tràng Phan Phật
Hữu Giải Thoát
Chí Chân Phát
Diễn Cam Lồ
Cực Thù Dị
Kiên Hùng Tâm
Chân Trân Bảo
Quang Minh Phẩm
Du Huyền Diệu
Ngôn Từ Tịnh
Chấn Quang Minh Tích Công Đức
Diễn Quang Diệu
Vô Tổn Thủ
Sư Tử Bộ
Siêu Xuất Nạn
Bố Thí Hoa
Nhan Duyệt Dự
Hồng Liên Hoa
Hảo Ái Tuệ
Tịnh Huyền Châu
Thanh Vô Hư
Tuệ Thánh Minh
Khiêm Ty Hành
Trừ Tràng Phan Thiện Tư Duy
Hảo Thoát Môn
Hiểu Liễu Minh
Văn Như Hải
Tổng Trì Bảo
Thành Trí Thức
Khả Duyệt Ý
Sướng Âm Thanh
Kiến Vô Nghiệp
Hảo Sở Lạc
Đoạn Cấu Trần
Hành Cực Biến Đa Hóa Dị
Thiên Bố Hưởng
Bảo Du Bộ
Hồng Liên Hoa
Tượng Hương Thủ
Phục Oán Địch
Phú Đa Văn
Hận Thiện Quận
Diệu Hoa Quang
Sư Tử Hưởng
Nguyệt Du Trụ
Định Hoại Minh
Vô Sở Động
Nhẫn Tế Bộ
Phước Đăng Độ
Chúc Lụy Âm
Nhi Tối Thượng
Tinh Tấn Lực
Trụ Thuật Ý
Phát Tịch Nhiên
Diệu Thiện Nguyệt
Giác Ý Hoa
Cát Tường Thiện
Sở Ngôn Khoái
Tuệ Thế Lực
Uy Phương Tiện Đăng Hỏa Quang
Hành Bộ Cường
Thiên Âm Thanh
Thuận Tịch Nhiên
Nhược Can Nhật
Dĩ Tùy Thời
An Lạc Phật
Giới Quang Minh
Tu Kiến Lập
Vô Trần Ai
An Trụ Hòa
Hữu Thánh Tuệ
Chuyển Tăng Ích
Hương Quang Minh
Nhân Thuận Thời
Âm Huy Diệu
Nhu Nhuyến Nghiệp
Vô Quái Ngại
Tịch Tràng Phan
Thú Tối Đạo
Hành Huyền Diệu
Ái Kính Bảo
Pháp Sở Du
Nhi Ngôn Thiên
Vô Cực Từ
Thiện Tri Hữu
Bộ Tịch Nhiên
Vô Lượng Độ
Minh Diệu Sơn Hiền Sở Thán
Hưng Phát Đạo Tư Uy Thần
Sở Hiện Quang
Báo Thiện Hạnh
Đãi Cực Thiện
Ly Ưu Thích
Bảo Quang Minh
Sở Hành Đạo
Công Phước Hành
Đức Như Hải
Nhược Can Phẩm
Hàng Phục Ma
Trừ Hại Phi
Sở Túc Chỉ
Nhập Ngoại Học
Vô Hoại Ý
Năng Tư Viễn
Nhân Sở Thành
Thủ Trùng Giải
Tư Ái Kính
Đạo Tràng Phan
Thánh Tuệ Hưởng Hiệu Tu Thân
Tư Phạm Thiên
Lạc Ẩn Phật
Thần Túc Anh
Thắng Căn Địa
Sở Chấp Trì
Nhật Cung Khác
Nguyệt Cung Sinh
Ca Ích Hoa
Hiền Sở Thí
Trì Tinh Minh
Phước Sở Ai
Hảo Lạc Lực
Thiện Âm Thuyết
Pháp Quý Phật
Phạm Thiên Hưởng
Kỳ Khoái Thiện
Vô Khuyết Lậu
Giác Cử Hiệu
Đại Hoằng Quảng
Danh Văn Xưng
Anh Diệu Ý
Sướng Thần Âm
Sư Âm Thọ
Khí Ngu Si
Giáng Cam Lồ
Nhân Hiền Nguyệt Biện Vô Lượng
Tuyên Danh Xưng
Ủng Tánh Hạnh
Cúng Dường Độ
Nhi Hoài Ưu
Ái Lạc An
Hư Tục Chí
Lạc Sở Thú
Quy Sở Hành
Phá Chúng Nghiệp
Thanh Liên Hoa
Điều Hoa Phật
Vĩnh Vô Để
Tuyên Biện Tài
Hiệu Quang Diệu
Tư Đãi Trí
Hữu Công Huân Ngự Tinh Tấn
Thiên Cảnh Vực
Tối Thượng Hạnh
Tập Hảo Lạc
Công Phước Ý
Tuyên Minh Diệu
Đức Vô Lượng
Tập Uy Thần
Sư Tử Bộ
Diệu Vô Động
Hành Hoảng Diệu
Long Âm Hưởng
Chấp Trì Luân
Tôn Thế Tượng
Lạc Ai Thế
Pháp Âm Phật
Lạc Vô Để
Hiệu Danh Xưng
Vũ Tràng Phật
Vũ Đức Hành
Mỹ Hảo Hương
Hiệu Hư Không
Âm Hưởng Từ
Thiên Đế Vương
Hoằng Minh Châu
Thiện Tài Nghiệp Đăng Hoa Diệm
Đoạn Căn Vương
Nhàn Tịch Tĩnh
Chủ An Ẩn
Sư Tử Âm
Lưu Bảo Danh
Kiến Lập Nghĩa
Kiến Thị Hiện
Sở Hữu Hoa
My Gián Quang Vô Biên Tế
Biện Tài Vương
Phẫu Phán Tuệ
Do Tự Tại
Sư Tử Phát
Du Hoảng Dục
Đức Đăng Diệm
Nguyệt Huy Diệu
Vô Sở Sầu
Quận Độ Địa
Tâm Giác Giải
Thù Thắng Pháp
An Quang Giáo
Ủng Mỹ Hương
Kỳ Hữu Lực
Trí Tuệ Hoa
Kỳ Âm Cường
Thuận An Ẩn
Nghĩa Lý Thị
Hảo Ái Hỷ
Đắc Trí Thắng
Chấp Y Bát
Hành Tịch Nhiên
Nhân Sư Tử
Hữu Danh Xưng Hiệu Lâu Do.
Đó là một ngàn vị Phật trong Hiền kiếp sẽ lần lượt ứng hiện ở cõi đời để độ thoát hết thảy chúng sinh trong khắp mười phương. Một ngàn vị Phật ấy mỗi vị đều có danh hiệu như đã nêu trên. Nếu như có người được nghe danh hiệu của chư Phật ấy, thọ trì, đọc tụng, giữ vững việc tu học, dốc tâm tinh chuyên để nhận thức thông tỏ, hành động không phóng dật, cũng như hết lòng cúng dường, thì có thể dứt trừ được các nỗi lo lắng về những sự khổ nhọc nơi các nẻo ác, đạt được sự an ổn lâu dài trong quá trình vâng giữ giới luật cùng có được hướng tin tưởng thuận hợp vui thích trong khi tiếp cận với kinh sách, đạo pháp, dẫn đến sự hành hóa thích ứng, thanh tịnh, tạo được đầy đủ các quả tốt đẹp. Đó chính là pháp nhẫn thâm diệu, cội nguồn của mọi pháp nhẫn, cứu giúp tất cả các đời trong vô số ức kiếp. Nếu phạm phải các hành động xấu ác không rõ về quả báo của tội phước, mà được nghe danh của chư Phật thì có thể dứt trừ tất cả các tội, không còn nỗi lo sợ về chúng.
Giả sử có người thọ trì hết thảy tôn hiệu của chư Phật ấy, dốc sức tu tập thì có thể đạt đến thần túc trong sự nhất tâm định ý, từ ấy sẽ đem lại cho đông đảo chúng sinh sự nhận thức hiểu biết về chư Phật, có được sự tiếp cận tự tại, sẽ là vị Đạo sư đối với họ để hướng dẫn chỉ vẽ cho sự học hỏi kinh điển, đem lại vô lượng công đức, phước lộc trong ức đời.
Đối với việc giải thích nên giảng về diệu nghĩa sẽ có được sự thông đạt thấu suốt khắp mọi nẻo, nhân đó tạo nên sự hiểu biết về pháp Tam-muội định ấy.
Hành giả có được tánh hạnh thanh tịnh, tâm không do dự, nên nẻo trí tuệ luôn được dấy khởi và phát huy, dứt mọi tham đắm vướng mắc trong ba cõi, do đấy mà đạt đến các pháp Tổng trì, tâm luôn thu tóm và giữ vững chúng. Chính đó là điều cần nên thực hiện pháp Tam-muội định ấy.
Bấy giờ, Bồ-tát Hỷ Vương lại thưa với Đức Phật:
–Lành thay, bạch Thế Tôn! Mong được Thế Tôn nói về danh hiệu của chư Phật trong Hiền kiếp, cùng với cha mẹ của Đức Phật, con cái, thị giả, các vị thượng thủ trong Thánh chúng, các đệ tử, Xálợi, ánh hào quang, thọ mạng ngắn dài, chúng Tỳkheo, các hội thuyết pháp được thành lập và thời gian tồn tại, dòng họ của Phật, cách giáo hóa, các kinh pháp lưu truyền khắp nơi, con đường hành hóa độ thoát cho hàng chư Thiên và con người… tất cả khiến cho chúng hội ở đây được nghe, tâm mở ý vui, đều phát tâm Bồ-đề. Vì những nơi chốn nào được Thế Tôn thương xót nhớ nghĩ đến nhiều thì những nơi chốn đó đạt được nhiều an lành.
Hơn nữa, Thế Tôn luôn thể hiện tâm Từ bi đối với chư Thiên và mọi người trong mười phương cũng như đối với tất cả chúng sinh.
Lại vì chư Bồ-tát cầu học ở đời về sau này, nếu được nghe, lãnh hội, thọ nhận kinh pháp ấy thì càng tăng thêm an lạc cho sự tu học, chí nguyện càng tôn vinh đạo pháp, nhằm làm hiển lộ ánh sáng giác ngộ lớn lao. Kính mong Thế Tôn hiện tâm Từ bi, một lần nữa nêu bày khiến cho ba cõi cùng được đội ân.
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Hôm nay ta sẽ nói về các điều ấy, các vị hãy lắng nghe và khéo suy nghĩ, dốc tâm để thọ nhận.
Bồ-tát Hỷ Vương cùng với các vị trong đại chúng đều vâng lời Phật chỉ dạy, nhất tâm tinh chuyên cùng nghe.
Đức Phật nói:
–Về xứ sở cùng chốn sinh của Đức Như Lai Câu-lưu-tôn Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng, thành tên là Nhân Hiền, là kinh đô của vua, họ là Ca-diếp, cha là Từ-tự-thí, xuất thân từ hàng Phạm chí, mẹ là Duy-da Diệu Thắng, con tên là Thượng Thắng, thị giả tên Giác Ý, đệ tử có trí tuệ bậc nhất tên Duy-đầu, đệ tử có thần túc bậc nhất tên Saonhi. Hào quang từ thân tướng của Đức Phật ấy chiếu sáng đến bốn mươi dặm. Hội thứ nhất thuyết pháp giảng kinh cho bốn vạn Tỳ-kheo, hội thứ hai là bảy vạn, hội thứ ba là sáu vạn, đều đắc quả Thanh văn. Lúc Phật tại thế, con người sống đến bốn vạn năm, chánh pháp tồn tại ở đời tám vạn năm, xá-lợi cùng hợp lại đã khiến tạo một ngôi chùa lớn để thờ phụng.
Về xứ sở cùng nơi sinh của Đức Như Lai Câuna-hàm Mâu-ni, thành tên là Thượng bị, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Thí Tôn, mẹ tên là Thượng Diệu, con tên là Trạch Minh Tập, thị giả tên Cát Thiện, đệ tử có trí tuệ bậc nhất tên là Tối Thượng, đệ tử có thần túc bậc nhất tên Bất Xá. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là ba vạn năm. Hội thứ nhất thuyết pháp giảng kinh cho bảy vạn Tỳ-kheo, hội thứ hai là sáu vạn, hội thứ ba là năm vạn, đều đắc quả A-la-hán. Hào quang của Đức Phật ấy chiếu sáng đến hai mươi dặm, chánh pháp tồn tại ở đời một ngàn năm, xá-lợi cùng hợp lại tạo lập nên một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về xứ sở cùng chốn sinh của Đức Như Lai Cadiếp, thành tên là Thần thị, ánh hào quang của Phật chiếu sáng mười dặm. Thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Phạm Thí, mẹ tên là Kinh Nghiệp, con tên là Đạo Sư, thị giả tên là Phổ Hữu, đệ tử có trí tuệ đứng đầu tên là Khai Minh, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Để-xá. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là hai vạn năm, hội thứ nhất thuyết giảng kinh pháp cho hai vạn vị Tỳ-kheo, hội thứ hai một vạn tám ngàn vị, hội thứ ba một vạn sáu ngàn vị, đều được chứng đắc đạo pháp, chánh pháp tồn tại ở đời bảy vạn năm, xá-lợi cùng hợp lại tạo lập một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Bồ-tát Hỷ Vương hãy nghe cho rõ, nay ta nói về xứ sở cùng nơi sinh của Năng Nhân Như Lai tức là ta, thành tên là Ca-duy-la-vệ, thuộc chủng tộc con vua, họ là Cồ-đàm, ánh hào quang tỏa thành vòng tròn chiếu xa bảy thước, cha tên là Bạch Tịnh, mẹ tên là Cực Diệu, con tên là La-vân, thị giả là Anan, đệ tử có trí tuệ thượng thủ là Xá-lợi-phất, đệ tử có thần túc đệ nhất là Mục-kiền-liên, thọ mạng của con người trong đời nay là một trăm năm, hoặc dài hay ngắn hơn. Hội thứ nhất thuyết giảng kinh pháp cho một ngàn hai trăm năm chục vị Tỳ-kheo, thảy đều chứng đắc đạo quả, xá-lợi sẽ được phân chia đều khắp tám phương thiên hạ, chánh pháp tồn tại ở đời năm trăm năm, tượng pháp cũng tồn tại trong năm trăm năm.
Về xứ sở cùng chốn sinh của Đức Như Lai Từ Thị, thành tên là Diệu ý, là kinh đô của vua, hào quang của Đức Phật ấy chiếu tỏa bốn mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Phạm Hồ, mẹ tên là Phạm Kinh, con tên là Đức Lực, thị giả tên là Hải Thị, đệ tử có trí tuệ bậc nhất tên là Tuệ Quang, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Kiên Tinh Tấn. Phật lúc còn ở đời, thọ mạng của con người là tám vạn bốn ngàn năm, hội thứ nhất thuyết giảng kinh pháp có chín mươi sáu ức, thảy đều đắc quả A-lahán, xá-lợi cùng hợp lại tạo dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ, chánh pháp tồn tại ở đời trong tám vạn năm.
Về xứ sở cùng nơi sinh của Đức Như Lai Sư
Tử, thành tên là Hoa độ, ánh hào quang của Phật tỏa chiếu bốn mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Dũng Sư Tử, mẹ tên là Giang Âm, con tên là Đại Lực, thị giả là Thiện Lạc, đệ tử có thần túc bậc nhất là Vũ Thị, đệ tử có trí tuệ bậc nhất là Tuệ Tích. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là bảy vạn năm, hội thứ nhất thuyết pháp cho trăm ức vị Tỳ-kheo, hội thứ hai có chín mươi ức, hội thứ ba có tám mươi ức, đều là hàng Thanh văn cùng được nghe pháp và chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại một ức năm, xá-lợi được phân chia khắp trong tám phương thiên hạ.
Về xứ sở cùng nơi sinh của Đức Như Lai Quang Diệm, thành tên là Tinh tú chủ, hào quang của Phật tỏa chiếu đến hai ngàn dặm, thuộc dòng con vua, cha tên là Thiện Ý, mẹ tên là Diệu Hoa, con tên là Dĩ Thời, thị giả tên Trường Hỷ, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Lôi Hống, đệ tử có trí tuệ bậc nhất tên là Tôn Giáo. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là chín vạn năm, hội thứ nhất thuyết pháp có trăm ngàn ức đệ tử, hội thứ hai có chín mươi chín ức, hội thứ ba có chín mươi tám ức, đều đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong tám vạn năm ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp trong tám phương thiên hạ.
Về xứ sở cùng chốn sinh của Đức Như Lai Mâu-ni Nhu Nhân, thành tên là Thượng hoa là kinh đô của vua, hào quang của Phật chiếu tỏa đến bốn mươi dặm, cha tên là Đại Sơn, mẹ tên là Tu Mãn Quang, con tên là Thượng Bảo, thị giả tên Tôn Thượng, đệ tử có thần túc bậc nhất là Siêu Thí, đệ tử có trí tuệ bậc nhất là Khoái Ý. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là sáu vạn năm, hội thứ nhất có đến tám mươi “cai” (vạn vạn) đệ tử nghe pháp, hội thứ hai có bảy mươi ức, hội thứ ba có năm mươi ức, đều đắc quả A-la-hán, chánh pháp tồn tại ở đời trong một ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho tám phương thiên hạ.
Về xứ sở cùng nơi sinh của Đức Như Lai Hoa Thị, thành tên là Bạch liên hoa, là kinh đô của vua, hào quang của Phật chiếu tỏa đến ba trăm hai mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Tôn Danh, mẹ tên là Diệu Hoa, con tên là Trí Căn, thị giả tên là Lạc Đạo, đệ tử có thần thông đứng đầu tên Vô Hại, đệ tử có trí tuệ bậc nhất tên là Pháp Lực. Hội thứ nhất thuyết pháp cho đệ tử gồm sáu trăm ức, hội thứ hai ba mươi lăm ức, hội thứ ba ba mươi bốn ức, đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là năm mươi vạn năm, chánh pháp tồn tại ở đời đầy đủ trong một ngàn năm, xálợi được phân chia đều khắp cho tám phương thiên hạ.
Lại có một vị Phật cùng đồng danh hiệu là Như Lai Hoa Thị, về nơi sinh cùng xứ sở thì thành tên là Thậm đại quảng, hào quang của Phật chiếu tỏa bốn mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Hoa Phát, mẹ tên là Pháp Chủ, con tên là Tiên Khiết, thị giả tên là Tâm Niệm, đệ tử đứng đầu về thần túc tên là Hân Lạc, đệ tử có trí tuệ bậc nhất tên là Thiện Hân Hỷ. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là chín ức năm, hội thứ nhất thuyết pháp có mười bốn ức đệ tử cùng nghe pháp, hội thứ hai mười lăm ức, hội thứ ba mười sáu ức, đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời là mười ức năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho phương thiên hạ.
Về chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Thiện Mục, thành tên là Tạo hiền, là kinh đô của vua, hào quang của Phật chiếu tỏa đến bốn trăm tám mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Trân Bảo, mẹ tên là Ngôn Đàm, con tên là Túc Vương, thị giả tên Thế Ái, đệ tử đứng đầu về thần túc tên là Sư Tử Bộ, đệ tử có trí tuệ bậc nhất tên là Vô Lượng Ý. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là bảy vạn năm, hội thứ nhất thuyết pháp có đến ba mươi cai đệ tử cùng nghe pháp, hội thứ hai có hai mươi tám cai, hội thứ ba là ba mươi sáu cai, hết thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong một ức năm, xá-lợi được phân chia rộng rãi đều khắp cho mọi nơi chốn.
Từ đây trở đi cần lưu ý: Từ Đức Như Lai thứ nhất ứng hiện ở đời cho đến vị Phật thứ mười một này, tùy theo mức độ thuần thục của căn cơ chúng sinh mà dẫn dắt giáo hóa họ. Ngoài ra, các vị Phật khác cũng đều như mười một vị này.
Về nơi sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Kỳ Đạo Sư, thành tên là Tối cẩm, là kinh đô của vua, hào quang của Phật tỏa chiếu đến một ngàn ba trăm sáu mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Vô Nạn, mẹ tên là Mẫn Thương, con tên là Ái Quang, thị giả tên là Đại Phiếm Lưu, đệ tử đứng đầu về trí tuệ là Thượng Thủ, đệ tử có thần túc bậc nhất là Thị Mẫn. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một ngàn ức năm, hội thứ nhất thuyết pháp cho số đệ tử là bảy mươi cai, hội thứ hai là sáu mươi cai, hội thứ ba là năm mươi cai, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong chín vạn hai ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp mọi nơi chốn.
Về chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Đại Đa, thành tên là Tục nhân, là kinh đô của vua, hào quang của Phật chiếu tỏa đến ba ngàn dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Nội Tiến, mẹ tên là Xả Tật, con tên là Chiếu Minh, thị giả tên là Thiện Tư, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên Vô Nan Âm, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Tuế Vô Thanh. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là bốn mươi ức năm, hội thứ nhất thuyết kinh có một trăm ngàn cai đệ tử cùng đến nghe, từ đó về sau số lượng không thể tính kể hết, chánh pháp tồn tại ở đời trong một ức năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho mọi nơi chốn.
Về chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Đại Lực, thành tên là Bảo uy, hào quang của Phật chiếu tỏa đến một ngàn hai trăm dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Sở Tuyển, mẹ tên là Thậm Uy, con tên là Sư Tử Bộ, thị giả tên là Ái Tử, đệ tử đứng đầu về thần túc tên là Thiện Trụ, đệ tử có trí tuệ bậc nhất tên Tôn Thí. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là bốn vạn năm, hội thứ nhất thuyết kinh cho số đệ tử là một cai cùng đến dự nghe, hội thứ hai hai cai, hội thứ ba một cai, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong tám vạn bốn ngàn năm, xá-lợi cùng tập hợp lại, lập một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Tú Vương, thành tên là Tử kim, là kinh đô của vua, thuộc dòng Phạm chí, hào quang của Phật chiếu tỏa đến bốn ngàn dặm, cha tên là Thí Quang, mẹ tên là Thiện Ý, con tên là Cúng Dường, thị giả tên là Cần Lực, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Xí Thạnh Âm, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Kiến Lập, hội thứ nhất thuyết kinh với số đệ tử là một trăm ức cùng dự nghe, hội thứ hai chín mươi ức, hội thứ ba tám mươi ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong một ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho mọi nơi chốn.
Về nơi sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Tu Dược, thành tên Đàm chủ, là kinh đô của vua, hào quang của Phật tỏa chiếu bốn mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Thiện Tịch, mẹ tên là Sở Lạc, con tên là Tu-di Tràng, thị giả tên là Hoa Thị, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Tôn Pháp, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Phước Lực. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là bảy vạn bảy ngàn năm, hội thứ nhất thuyết pháp có bảy mươi ức đệ tử cùng nghe, hội thứ hai có sáu mươi chín ức, hội thứ ba có sáu mươi tám ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong sáu vạn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp mọi nơi chốn.
Về nơi sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Danh Xưng Anh, thành tên là Thanh uy, thuộc dòng họ con vua, hào quang Phật tỏa chiếu một trăm hai mươi dặm, cha tên là Quang Diệm, mẹ tên là Đàm Ngôn, con tên là Thượng Hoa, thị giả tên Nhãn Thọ, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Trí Lực, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Sư Tử Lực, hội thứ nhất thuyết kinh có số đệ tử là ba mươi ba cai, hội thứ hai là ba mươi hai cai, hội thứ ba ba mươi mốt cai, hết thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong hai ức năm, xá-lợi được tập hợp lại và xây một ngôi chùa lớn để thờ.
Về chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Đại Quang, thành tên là An lạc, hào quang của Phật chiếu tỏa đến một ngàn sáu trăm dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Kim Cang, mẹ tên là Phục Thí, con tên là Lương Điền, thị giả tên Tịch Ý, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Đạo Chúng, đệ tử có thần túc bậc nhất là Kiên Nhận. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một trăm ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có số đệ tử là tám mươi ức ba ngàn vạn cùng đến nghe, hội thứ hai lại còn nhiều hơn, hội thứ ba là sáu cai, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong ba vạn năm, xálợi được phân chia đều khắp cho mọi nơi chốn.
Về nơi sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Chiếu Minh, thành tên là An ẩn pháp, hào quang của Phật chiếu tỏa đến ba trăm sáu mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Danh Xứng, mẹ tên là Thiện Cung, con tên là Phụng Hành, thị giả tên Thượng Thiện Quận, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Thiện Hiền, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Lưu Giang. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là năm trăm năm, hội thứ nhất thuyết kinh cho số đệ tử là sáu mươi hai cai, hội thứ hai sáu mươi mốt cai, hội thứ ba sáu mươi cai, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong bốn vạn tám ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho mọi nơi chốn.
Về nơi sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Nhật Tạng, thành tên là Hoa chủ, là kinh đô của vua, hào quang của Phật tỏa chiếu đến tám vạn dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Phú Hữu, mẹ tên là Diệu Hoa, con tên là Diệm Quang, thị giả tên Tuệ Thượng, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Trí Binh, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Cương Binh. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là bảy mươi ức năm, hội thứ nhất thuyết kinh có một trăm ngàn vị Tỳ-kheo cùng đến nghe, hội thứ hai là một trăm ức, hội thứ ba thì nhiều như vi trần, hết thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong ba mươi ức năm, xá-lợi cùng tập hợp lại thờ phụng nơi một ngôi chùa lớn.
Về nơi sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Nguyệt Thị, thành tên là Thượng bảo, là kinh đô của vua, hào quang của Phật chiếu tỏa ba trăm hai mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Thanh Bộ, mẹ tên là Dược Tử, con tên là Mãn Túc, thị giả tên Cung Vị, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Trí Tối, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Nhân Pháp Cung. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là sáu ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có hai ngàn hai trăm ức đệ tử, hội thứ hai có một ngàn bốn trăm ức, hội thứ ba có một ngàn tám trăm ức, hội thứ tư có một ngàn bốn trăm ức, hết thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong một vạn một ngàn năm, xá-lợi cùng tập hợp thờ phụng nơi một ngôi chùa lớn.
Về chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Quang Chiếu, thành tên là Âm thừa, hào quang của Phật tỏa chiếu đến hai ngàn sáu trăm bốn mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Phước Thí, mẹ tên là Pháp Chủ, con tên là Văn Thượng, thị giả tên Thiện Biện, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Vũ Âm, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Tuệ Thượng. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là trăm ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có bảy mươi vạn đệ tử, hội thứ hai tám mươi vạn, hội thứ ba chín mươi vạn, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong mười vạn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho mọi nơi chốn.
Về nơi sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Thiện Chiếu, thành tên là Quang diệm, là kinh đô của vua, hào quang của Phật tỏa chiếu đến sáu trăm bốn mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Nhật Huy, mẹ tên là Nguyệt Thị, con tên là Đại Thần Diệu, thị giả tên là Đa Kiên, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Tuệ Thí, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Sở Tại Các. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là tám vạn năm ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có số đệ tử là năm trăm ức, hội thứ hai là bốn trăm ức, hội thứ ba là ba trăm ức, thảy đều chứng đắc đạo pháp, chánh pháp tồn tại ở đời trong bốn vạn năm ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp mọi nơi chốn.
Về nơi sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Vô Ưu, thành tên là Trí tuệ, hào quang của Phật tỏa chiếu đến bốn trăm dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Chấp Hoa, mẹ tên là Pháp Thị, con tên là Chấp Quang, thị giả tên Lạc Âm, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Vũ Tích, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Thắng Thí. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là trăm ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có số đệ tử là hai cai, hội thứ hai có một cai, hội thứ ba có chín mươi lăm ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong mười ba vạn năm, xá-lợi cùng được tập hợp thờ phụng nơi một ngôi chùa lớn.
Về chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Uy Thần, thành tên là Diêm-phù thượng, hào quang của Phật chiếu tỏa ba trăm hai mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Hiền Thiên, mẹ tên là Ái Thí, con tên là Minh Diệm, thị giả tên là Kiến Kính, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Thủ Anh, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Độ Thế. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là ba vạn ba ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có số đệ tử là tám mươi ức, hội thứ hai là bảy mươi tám ức, hội thứ ba là bảy mươi sáu ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong bảy mươi bảy ức năm, xá-lợi cùng được tập hợp xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Diệm Quang, thành tên là Đăng thị, hào quang của Phật chiếu tỏa khắp đến ngàn cõi Phật, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Kính Pháp, mẹ tên là Liên Hoa Thị, con tên là Nguyệt Hành, thị giả tên Thông Mộ Âm, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Đức Thủ, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Tư Thí. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một vạn bốn ngàn năm, hội thứ nhất thuyết pháp với số đệ tử là mười sáu ức, hội thứ hai có mười bảy ức, hội thứ ba có mười tám ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong hai mươi mốt - mười vạn năm (hai trăm mười vạn), xá-lợi được phân chia đều khắp mọi nơi chốn.
Về chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Chấp Hoa, thành tên là Tạo phước, là kinh đô của vua, hào quang của Phật chiếu tỏa đến ba ngàn hai trăm dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Bạch Liên Hoa, mẹ tên là Thi Đức, con tên là Phước Thủ, thị giả tên Hảo Nhan, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Vô Lượng Độ, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Trọng Vương. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là bảy vạn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có số đệ tử là chín mươi ức, hội thứ hai có chín mươi chín ức, hội thứ ba có tám mươi tám ức, tất cả đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong một ức năm, xá-lợi được phân chia đều khắp mọi nơi chốn.
Về nơi sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Huân Quang, thành tên là Liên hoa, là kinh đô của vua, hào quang của Phật tỏa chiếu đến hai ngàn bốn trăm dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Quang Chiếu, mẹ tên là Đức Chí, con tên là Pháp Biện, thị giả tên là Phước Cung, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Lưu Ly Tạng, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Cực Thí. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là ba trăm năm, hội thứ nhất thuyết kinh có mười sáu ức đệ tử cùng nghe, hội thứ hai có mười hai ức, hội thứ ba có mười tám ức, hết thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong một ức năm, xá-lợi được phân chia đều khắp mọi nơi chốn.
Về chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Hiện Nghĩa, thành tên là Đạo ngự, là chốn cai trị của quân vương, hào quang của Phật chiếu tỏa đến hai ngàn bốn trăm tám mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Nhu Quận, mẹ tên là Kính Thiên, con tên là Đức Xưng, thị giả tên là Phạm Âm, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Huấn Giới Ý, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Thắng Thí. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một trăm năm, hội thứ nhất thuyết kinh có đến sáu mươi hai cai đệ tử tham dự, hội thứ hai có bảy mươi cai, hội thứ ba có tám mươi cai, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong một ức năm, xá-lợi được phân chia đều khắp mọi nơi chốn.
Về nơi sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Đĩnh Diệu, thành tên Bảo cẩm, là kinh đô của vua, hào quang Phật chiếu tỏa đến hai ngàn dặm, thuộc dòng họ con nhà vua, cha tên là Bảo Thí, mẹ tên Diệm Vị, con tên Bảo Tạng, thị giả tên là Ý Duyệt, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên Vô Năng Đương, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Đại Lực. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là năm vạn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có bảy mươi vạn đệ tử, hội thứ hai có chín mươi vạn, hội thứ ba có một trăm vạn, hết thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong hai mươi vạn năm, xá-lợi cùng tập hợp xây dựng một ngôi chùa lớn để thờ phụng.
Về chốn sinh và xứ sở của Đức Như Lai Hưng Thịnh, thành tên là Uy quang, hào quang Phật chiếu tỏa bốn mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Thiện Hưng, mẹ tên là Khoái Ý, con tên là Thắng Hữu, thị giả tên là Sư Tử Lực, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Quang Ưu Thí, đệ tử có thần túc bậc nhất tên Sơn Tích. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là bốn vạn năm, hội thứ nhất thuyết pháp có một ức đệ tử, hội thứ hai có hai ức, hội thứ ba có ba ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong chín vạn năm, xálợi được phân chia đều khắp cho mười phương.
Về nơi sinh và xứ sở của Đức Như Lai Hiền Thị, thành tên Chuyên cát, là kinh đô của vua, hào quang Phật chiếu tỏa đến ba ngàn tám mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Chiên Thí, mẹ tên là Diêm Thượng, con tên là Hùng Thí, thị giả tên Nguyệt Ái, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Hải Thị, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Long Lực. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là bảy vạn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có hai trăm ba mươi vạn đệ tử, hội thứ hai có ba trăm năm chục vạn, hội thứ ba có ba trăm tám chục vạn, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong mười vạn năm, xá-lợi được tập hợp xây cất một ngôi chùa lớn để thờ phụng.
Về chúng sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Thiện Lạc, thành tên là Thiện phú, hào quang Phật chiếu tỏa bốn trăm dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Thổ Tôn, mẹ tên là Nguyệt Từ, con tên là Pháp Tự Do, thị giả tên là Thế Ái, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Lôi Âm, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Thi Hoa. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là ba vạn sáu ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có ba mươi ức đệ tử, hội thứ hai có hai vạn tám ngàn, hội thứ ba có hai vạn bảy ngàn, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong trăm ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp trong mười phương.
Về nơi sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Đảnh Kế Thí, thành tên là Thanh thiên, hào quang Phật tỏa chiếu bốn ngàn dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Trọng Vương, mẹ tên là Phi Kỳ Tư, con tên là Sơn Thí, thị giả tên là Nguyệt Thiên, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Lạc Tuệ, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Ma Sở Cung. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là năm ngàn năm, hội thứ nhất giảng kinh có sáu mươi hai ức đệ tử cùng tham dự, hội thứ hai có sáu mươi mốt ức, hội thứ ba có sáu mươi ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong bảy vạn bảy ngàn năm, xá-lợi được tập hợp tạo lập ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai My Gián, thành tên là Duyệt thiên, hào quang Phật tỏa chiếu đến bốn ngàn dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Quốc Trọng, mẹ tên là Tập Thí, con tên là Chánh Thí, thị giả tên là Nguyệt Thiên, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Tuệ Thí, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Cung Nhu. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là năm vạn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có sáu mươi hai ức đệ tử, hội thứ hai có sáu mươi mốt ức, hội thứ ba có sáu mươi ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong bảy vạn năm, xá-lợi cùng được tập hợp, xây cất một ngôi chùa lớn để tôn thờ.
Về chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Kiên Cố, thành tên là Phước âm, hào quang Phật chiếu tỏa đến bốn ngàn dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Thọ Vương, mẹ tên là Thí San Hô, con tên là Thí Thế, thị giả tên là Thủ Lực, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Nguyệt Anh, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Động Quang. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một vạn hai ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có trăm ngàn đệ tử cùng tham dự, hội thứ hai có chín vạn, hội thứ ba có tám vạn đệ tử, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong hai vạn tám ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp trong mười phương.
Về nơi sinh và xứ sở của Đức Như Lai Thủ Uy, thành tên là Bảo thị, hào quang Phật chiếu tỏa bốn trăm dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Nhu Hoa, mẹ tên là Pháp Thị, con tên là Ái Anh, thị giả tên là Kiên Tấn, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Thí Đoạn, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Nhân Lực. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một trăm năm, hội thứ nhất thuyết kinh có đến một trăm ức đệ tử tham dự, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong một ức năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho mười phương.
Về chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Nan Thắng, thành tên là Liệu cát, là kinh đô của vua, hào quang Phật chiếu tỏa đến bốn mươi ức dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Thanh Thiên, mẹ tên là Phước Thị, con tên là Nguyệt Tịch, thị giả tên là Thành Ái, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Bảo Thượng, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Lôi Âm. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là tám ức năm, hội thứ nhất thuyết giảng kinh có ba mươi cai đệ tử tham dự, hội thứ hai có năm mươi cai, hội thứ ba có tám mươi cai đệ tử, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong tám mươi ức năm, xá-lợi được phân chia đều khắp mọi nơi chốn trong mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Đức Tràng, thành tên là Thiện nhu, là kinh đô của vua, hào quang Phật chiếu tỏa đến hai trăm dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Cung Hữu, mẹ tên là Cư Thế, con tên là Kim Cang Tập, thị giả tên là Bảo Ái, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên Nhật Tạng, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Thừa Ngự. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một ức năm, hội thứ nhất thuyết kinh có đến ba mươi vạn cai đệ tử, hội thứ hai có năm chục vạn cai, hội thứ ba có sáu chục vạn cai đệ tử, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong ba ức năm, xá-lợi được tập hợp xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Nhàn Tĩnh, thành tên là Bảo diệu, hào quang Phật chiếu tỏa đến ba ngàn bốn mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Việt Bộ, mẹ tên là Vô Sở Tiến, con tên là Nguyệt Huấn, thị giả tên là Lưu Ly Tạng, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Lực Thiên, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Hỷ Ái. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là trăm ngàn năm. Như chỗ ứng hiện hành hóa của chư Như Lai đã nêu ở trước, chư Phật còn lại cũng đều như thế. Con đường giáo hóa độ thoát chúng sinh không có gì khác, vì vậy nơi chúng hội ấy chánh pháp tồn tại ở đời trong năm mươi vạn năm, quốc độ của Phật đều do các thứ châu báu hợp thành, thảy đều có các thứ châu báu cùng các loại cây báu, có loại cây làm ra y phục ở khắp mọi nơi trong nước. Quốc độ cũng như chỗ sinh của dân chúng không có các nạn của ba đường ác, xá-lợi được phân chia đều khắp cho mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Kiên Trọng, thành tên là Giai diệu, hào quang Phật tỏa chiếu hai mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Bảo Thượng, mẹ tên là Bảo Quang, con tên là Trì Địa, thị giả tên là Tịch Ý, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Âm Thập Lý, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Cát Lợi. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là ba ngàn năm, hội thứ nhất thuyết giảng kinh pháp có đến trăm ngàn đệ tử cùng dự, thảy đều chứng đắc đạo quả, không có hội thứ hai, chánh pháp tồn tại ở đời trong bảy vạn bảy ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Phạm Âm, thành tên là Quang uy, hào quang Phật chiếu tỏa đến ba ngàn ba trăm hai mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Thượng Tối, mẹ tên là Chí Thành Thị, con tên là Phước Uy, thị giả tên là Liên Mục, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Tuyết Sắc, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Thí Viêm. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là chín vạn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có tám mươi sáu ức đệ tử, hội thứ hai có chín mươi ức, hội thứ ba có một trăm ức, hết thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong ba ngàn năm, xá-lợi cùng được tập hợp tôn thờ tại một ngôi chùa lớn.
Thứ Hiền, thành tên là Hoa mậu, hào quang Phật chiếu tỏa đến hai trăm bốn mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Phước Ái, mẹ tên là An Dưỡng, con tên là Thời Tiết Thí, thị giả tên là Tạo Nghĩa, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Nhật Nguyệt, đệ tử đứng đầu về thần túc tên là Thượng Kim. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là năm mươi vạn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có bảy mươi ức đệ tử, hội thứ hai có bảy mươi tám ức, hội thứ ba có tám mươi ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong bốn vạn năm, xá-lợi được tập hợp xây ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Vô Bản, thành tên là Tục sở kính, hào quang Phật chiếu tỏa đến bốn trăm dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Hải Thị, mẹ tên là Khí Cấu, con tên là Tứ Nhãn, thị giả tên là Hàng Căn, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Thiện Tư Nghĩa, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Hưởng Thẩm. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là tám vạn năm, hội thứ nhất thuyết giảng kinh pháp có bảy vạn hai ngàn năm trăm đệ tử tham dự đều đắc quả A-la-hán, hội thứ hai có bảy vạn sáu ngàn ba trăm người, hội thứ ba có bảy vạn năm ngàn, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong tám vạn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp mười phương.
Quang Hưng, thành tên là Kim quang, hào quang Phật tỏa chiếu khắp hai ngàn quốc độ, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Quang Diệm, mẹ tên là Bảo Thí, con tên là Lạc Đức, thị giả tên là Nguyệt Hoa, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Cực Âm, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Tự Tại. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là năm ức năm, hội thứ nhất thuyết kinh có năm mươi ức trăm ngàn đệ tử, hội thứ hai có bốn mươi ức trăm ngàn đệ tử, hội thứ ba có ba mươi ức trăm ngàn, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong bảy ức trăm ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Đại Minh Sơn, thành tên là Bảo tịnh, hào quang Phật chiếu tỏa đến ba ngàn hai trăm dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Nguyệt Thạnh, mẹ tên là Nhật Thí, con tên là Thiện Cái, thị giả tên là Bảo Cộng, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Nhược Can Giác, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Trí Ái. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là tám ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có bảy mươi ức đệ tử cùng đến lãnh hội, hội thứ hai có tám mươi ức, hội thứ ba có chín mươi ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong chín vạn hai ngàn năm, xá-lợi được tập hợp xây dựng ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Kim Cang, thành tên là Thiện hạnh uy, hào quang Phật chiếu tỏa đến một trăm bốn mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Minh Châu Quang, mẹ tên là Thanh Liên Mục, con tên là Thọ Mạng, thị giả tên là Hải Thị, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Kiên Thí, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Tôn Hữu. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một trăm ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có bốn mươi ức đệ tử cùng đến lãnh hội, hội thứ hai có ba mươi ức, hội thứ ba có ba mươi hai ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong một ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Ức Thức, thành tên là Chiên-đà thị, hào quang Phật chiếu tỏa đến ba ngàn ba trăm sáu mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Hoa Thị, mẹ tên là Diệm Quang, con tên là Bảo Xả, thị giả tên là Ý Lạc, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Vô Úy, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Thạch Vương. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một ức năm, hội thứ nhất thuyết kinh có bảy mươi cai đệ tử cùng đến lãnh hội, hội thứ hai có sáu mươi sáu cai, hội thứ ba có năm mươi cai, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong hai ức năm mươi cai, xá-lợi được tập hợp xây ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Vô Úy, thành tên là Thậm hòa nhu, hào quang Phật chiếu tỏa đến ba ngàn sáu trăm dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Thí Quang, mẹ tên là Thiện Mục, con tên là Tư Di Hoa, thị giả tên là Nguyệt Thị, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Trọng Vương, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Thiện Thị. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là trăm ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có tới tám mươi cai đệ tử cùng đến lãnh hội, hội thứ hai có bảy mươi tám cai, hội thứ ba có bảy mươi sáu cai, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong một ức năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Bảo Thị, thành tên là Thứ kiên, hào quang Phật tỏa chiếu một trăm hai mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Khí Tật, mẹ tên là Phước Thí Cung, con tên là Thí Cung Dược, thị giả tên Tập Thí, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Vô Năng Đương, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Cường Bộ. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một vạn tám ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có bốn mươi ức đệ tử cùng đến lãnh hội, hội thứ hai có ba mươi tám ức, hội thứ ba có mười sáu ức, thảy đều chứng đắc quả vị, chánh pháp tồn tại ở đời trong bảy vạn năm, xá-lợi được tập hợp xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Liên Hoa Mục, thành tên là Hoa quận, hào quang Phật chiếu tỏa đến một ngàn hai trăm tám mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Thượng Hoa, mẹ tên là Diệu Nhan, con tên là Đại Ái, thị giả tên là Vô Ưu Hoa, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Trí Quang, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Trọng Thí. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là tám ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có bảy ức đệ tử cùng đến lãnh hội, hội thứ hai có ba mươi bốn ức, hội thứ ba có bốn mươi ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong năm mươi sáu ức năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Lực Tướng, thành tên là Thượng hiền, hào quang Phật tỏa chiếu khắp hai trăm mười dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Lực Thiên, mẹ tên là Thi An, con tên là Mãn Minh, thị giả tên là Hộ Pháp, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Thắng Vương, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Thiện An. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một vạn sáu ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có đến sáu mươi vạn đệ tử cùng lãnh hội, hội thứ hai có năm mươi vạn tám ngàn, hội thứ ba có bảy mươi lăm vạn hai ngàn, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong một ngàn năm, xálợi được tập hợp xây dựng ngôi chùa lớn để thờ phụng.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Hoa Quang, thành tên là Thiện nguyệt hoa, hào quang Phật chiếu tỏa đến ba ngàn một trăm hai mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Ái Kiến, mẹ tên là Tinh Tú, con tên là Kiên Chứng, thị giả tên Giác Thị, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Nghĩa Thị, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Tường Tràng. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là hai vạn hai ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có ba mươi ức đệ tử cùng đến lãnh hội, hội thứ hai có ba mươi hai ức, hội thứ ba cũng có ba mươi hai ức đệ tử, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong năm vạn năm, xálợi được phân chia đều khắp cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Phục Ái, thành tên là Thượng tài, hào quang Phật chiếu tỏa đến ba trăm hai mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Thời Thị, mẹ tên là Hiền Thủ, con tên là Huấn Tịch, thị giả tên là Mẫn Thương, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Thiện Túc, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Tư Di Hoa. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một trăm ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có chín trăm ức đệ tử cùng đến lãnh hội, hội thứ hai có tám mươi ức, hội thứ ba có bảy mươi ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong năm mươi vạn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp trong mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Đại Uy, thành tên là Phú từ, hào quang Phật chiếu tỏa đến hai trăm dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Bảo Tạng, mẹ tên là Uy Thị, con tên là Chiếu Thượng, thị giả tên là Thiện Đa, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Diệm Quang, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Tử Tàng. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là năm ngàn năm, hội thứ nhất thuyết giảng kinh pháp có bảy vạn đệ tử cùng đến lãnh hội, hội thứ hai có bảy vạn năm ngàn, hội thứ ba có tám vạn, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong hai vạn một ngàn năm, xálợi được tập hợp, xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Phạm Thị, thành tên là Thượng vị, hào quang Phật chiếu tỏa một trăm hai mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Ái Vô Ưu, mẹ tên là Chiên Đà Thị, con tên là Thắng Binh, thị giả tên Thậm Điều, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Tiến Sĩ, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Kim Cang Cát. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một vạn hai ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có một ức đệ tử cùng đến lãnh hội, chỉ có một hội ấy và hết thảy đệ tử đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong một vạn bốn ngàn năm, xá-lợi được tập hợp xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai
Vô Lượng Diệu, thành tên là Thần kỳ, hào quang Phật chiếu tỏa đến ba ngàn tám trăm dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Tôn Âm, mẹ tên là Nguyệt Quang, con tên là Hân Thiện, thị giả tên là Thiện Binh, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Lạc Hưởng, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Diệm Quang. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là tám vạn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có hai trăm ức đệ tử cùng đến lãnh hội, hội thứ hai có bốn trăm ức, hội thứ ba có sáu trăm ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời cũng tám vạn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Long Thí, thành tên là Bảo cẩm, hào quang Phật tỏa chiếu hai mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Trì Thắng, mẹ tên là Pháp Thị, con tên là Phước Lực, thị giả tên là Bảo Thành, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Diêm Tối, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Hùng Thiên. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là bảy vạn sáu ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có tám vạn đệ tử cùng đến lãnh hội, hội thứ hai có bảy vạn tám ngàn, hội thứ ba có bảy vạn năm ngàn, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong một ngàn năm, xálợi được tập hợp, xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Kiên Bộ, thành tên là Thượng hiền, hào quang Phật chiếu tỏa hai trăm dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Sư Tử Phát, mẹ tên là Na-la-thi, con tên là Pháp Âm, thị giả tên là Thiện Ứng, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Bảo Thí, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Nguyệt Thí. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một ức năm, hội thứ nhất thuyết kinh có một trăm ức đệ tử cùng đến lãnh hội, hội thứ hai có chín mươi ức, hội thứ ba có chín mươi tám ức, hết thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong năm vạn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Bất Hư Kiến, thành tên là Đãi thọ, hào quang Phật tỏa chiếu thành vòng tròn bảy thước, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Thanh Thí, mẹ tên là Nhu Cam Cụ, con tên là Diệm Vị, thị giả tên Diêm Hống, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là An Minh Hữu, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Y-sa-la. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một trăm năm, hội thứ nhất thuyết kinh có chín mươi sáu ức đệ tử cùng đến lãnh hội, hội thứ hai chín mươi tám ức, hội thứ ba một trăm ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong một ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Tinh Tấn Thí, thành tên là Trị ba, hào quang Phật tỏa chiếu bốn mươi dặm, thuộc dòng họ Phạm chí, cha tên là Hiền Hống, mẹ tên là Thủ Ý, con tên là Vô Ưu Thiên, thị giả tên Đại Thần Tiện, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Lạc Tôn, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Nguyệt Thủ. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một ngàn năm, hội thứ nhất thuyết giảng kinh có tám mươi cai đệ tử cùng đến nghe pháp, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong ba ngàn năm, xá-lợi được tập hợp lại xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Hiền Lực, thành tên là Đắc lạc chí, hào quang Phật chiếu tỏa bốn trăm dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Bảo Uy, mẹ tên là Phước Ý, con tên là Thường Thí, thị giả tên là Thạch Lạc, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Tuệ Thù, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Hải Ý. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là sáu ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có tám trăm vạn ức đệ tử cùng đến nghe pháp, thảy đều chứng đắc đạo quả, do đó đều được tự tại, chánh pháp tồn tại ở đời trong hai vạn một ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp trong mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Hân Lạc, thành tên là Tài phú, hào quang Phật chiếu tỏa đến một trăm sáu mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Phạm thiên, mẹ tên là Cung Thủ, con tên là Đại Uy, thị giả tên là Hành Bộ An, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Đa Phước, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Lạc Mục. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là tám vạn bốn ngàn năm, hội thứ nhất thuyết giảng có bảy mươi ba ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có bảy mươi hai ức, hội thứ ba có bảy mươi mốt ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong chín ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Bất Thoái Một, thành tên là Trường uy, hào quang Phật tỏa chiếu đến ba ngàn tám trăm dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Y Vương, mẹ tên là Túc Thủ, con tên là Hoa Thiên, thị giả tên Lực Thắng, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Xưng Vô Lượng, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Dũng Bộ. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là hai vạn một ngàn năm, hội thứ nhất thuyết giảng kinh có sáu mươi ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có năm mươi tám ức, hội thứ ba có năm mươi sáu ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong chín ngàn năm, xá-lợi được tập hợp lại xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Sư Tử Tràng, thành tên là Ô-phiến-ca, hào quang Phật chiếu tỏa đến ba trăm sáu mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Pháp Tràng, mẹ tên là Phước Hữu, con tên là Quý Thí, thị giả tên là Đại
Thần, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Ái Thí, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Cần Nghệ. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là hai vạn tám ngàn năm, hội thứ nhất thuyết giảng kinh có hai mươi hai ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có hai mươi mốt ức, hội thứ ba có hai mươi ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong tám ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Thắng Tri, thành tên là Bảo diệm, hào quang Phật chiếu tỏa bốn trăm dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Nhật Tạng, mẹ tên là Hoa Mục, con tên là Lạc Thành, thị giả tên Pháp Thị, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Tu Thành, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Thiện Pháp. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là tám vạn năm, hội thứ nhất thuyết giảng kinh có ba mươi sáu ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có ba mươi bảy ức, hội thứ ba có ba mươi tám ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong sáu trăm vạn năm, xá-lợi được tập hợp lại dựng một ngôi chùa lớn để thờ phụng.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Pháp Thị, thành tên là Ái thiên, thuộc dòng Phạm chí, hào quang Phật chiếu tỏa đến hai trăm tám mươi dặm, cha tên là Mạc Thắng, mẹ tên là Văn Thị, con tên là Thắng Thiên Căn, thị giả tên Nhật Thí, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Đại Lạc, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Thí Dược. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một ức năm, hội thứ nhất thuyết giảng kinh có tám ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có bảy ức, hội thứ ba có sáu ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong một ức năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Hỷ Vương, thành tên là Sở tại cát, hào quang Phật chiếu tỏa đến ba ngàn hai trăm dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Tối Thượng, mẹ tên là Thủ Quy Duyệt, con tên là Niệm Diêm Hống, thị giả tên Hòa An, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Bảo Thượng, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Chấp Nhân Thiên. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là năm ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có bốn mươi ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có ba mươi tám ức, hội thứ ba có ba mươi bảy ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong một trăm ngàn năm, xá-lợi được tập hợp lại xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Diệu Ngự, thành tên là Bảo tạng, hào quang Phật tỏa chiếu bốn mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Viết Thi, mẹ tên là Bảo Thị, con tên là Đức Quang, thị giả tên là Hải Thân, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Hành Diệu Thí, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Thượng Thí, hội thứ nhất thuyết kinh có chín mươi ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có chín mươi tám ức, hội thứ ba có một trăm ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một ức năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong ba ức năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho hết thảy mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Kính Anh, thành tên là Thế lạc, hào quang Phật tỏa chiếu hai mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Phong Thế, mẹ tên là Hân Lạc, con tên là Ngoại Thị, thị giả tên là Tôn Khải, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là An Thượng, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Thoái Thí. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một trăm ngàn năm, hội thứ nhất thuyết kinh có năm mươi ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có bốn mươi tám ức, hội thứ ba có bốn mươi sáu ức, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong một ức năm, xá-lợi được tập hợp lại xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Diệu Thiên, thành tên là Thiện ý, hào quang Phật chiếu tỏa đến một ngàn hai trăm dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Chân Mạt, mẹ tên là Pháp Ý, con tên là Nguyệt Thượng, thị giả tên là Uy Anh, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Ái Thủ, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Vô Ưu, hội thứ nhất thuyết giảng kinh có bảy mươi ức trăm ngàn đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có sáu mươi ức trăm ngàn, hội thứ ba có năm mươi ức trăm ngàn, thảy đều chứng đắc đạo quả, chánh pháp tồn tại ở đời trong hai vạn năm. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là bốn vạn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Đa Huân, thành tên là Hương thị, hào quang Phật tỏa chiếu ba trăm sáu mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Thọ Thí, mẹ tên là Uy Thủ, con tên là Uy Thần, thị giả tên Thanh Liên, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Vô Cấu Thí, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Thí Hưng Hân Lạc, hội thứ nhất thuyết kinh có mười bốn ức đệ cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có mười sáu ức, hội thứ ba có mười tám ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là hai vạn năm ngàn năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong năm vạn năm, xá-lợi được tập hợp lại xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Chúng Hương Thủ, thành tên là Phước hương, hào quang Phật chiếu tỏa một ngàn hai trăm tám mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Thủ Lạc, cha tên là Diệu Hoa, con tên là Bảo Thượng Quang, thị giả tên là Thành Anh, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Ái Nguyệt, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Thắng Lực, hội thứ nhất thuyết kinh có sáu mươi sáu ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có sáu mươi bốn ức, hội thứ ba có sáu mươi hai ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là bảy vạn năm, chánh pháp tồn tại ở đời cũng trong bảy vạn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Thuận Quán, thành tên là Độ diêm, hào quang Phật tỏa chiếu bốn mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Thi Nhan, mẹ tên là Bảo Thú, con tên là Sở Sinh, thị giả tên là Ý Duyệt, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Thi Minh, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Ý Cẩm, hội thứ nhất thuyết kinh có bảy mươi ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có sáu mươi tám ức, hội thứ ba có sáu mươi sáu ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là chín mươi ức năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Vũ Âm, thành tên là Túc ái, hào quang Phật chiếu tỏa đến một ngàn bảy trăm sáu mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Minh Thí, mẹ tên là Uy Thủ, con tên là Kỳ Pháp, thị giả tên là Thậm Đế, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Nguyệt Tạng, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Lực Bộ, hội thứ nhất thuyết kinh có bảy mươi ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có bảy mươi lăm ức, hội thứ ba có tám mươi ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là chín vạn năm, xá-lợi được tập hợp lại xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Thiện Tư, thành tên là Vô lượng bảo, hào quang Phật tỏa chiếu hai mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Niệm Kiên, mẹ tên là Phước Kỳ, con tên là Hoa Thí, thị giả tên là Lực Thí, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Vô Dụ, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Xả Tật, hội thứ nhất thuyết kinh có một trăm ngàn vạn đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có tám mươi vạn, hội thứ ba có bảy mươi vạn, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một ngàn năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong tám vạn bốn ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Khoái Ý, thành tên là Khoái kiến, hào quang Phật tỏa chiếu năm trăm sáu mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Túc Thiên, mẹ tên là Uy Thị, con tên là Hoa Thị, thị giả tên là Câu Thoái, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Phổ Thí, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Siêu Bộ, hội thứ nhất thuyết kinh có hai mươi tám ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có hai mươi lăm ức, hội thứ ba cũng có hai mươi lăm ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là ba vạn năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong sáu vạn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp trong mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Ly Cấu, thành tên là Thành uy, hào quang Phật tỏa chiếu bốn mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Thủ Tạng, mẹ tên là Hoa Từ, con tên là Trí Uy, thị giả tên là Vô Hạn, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Hữu Chí, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Quận Thị, hội thứ nhất thuyết kinh có tám mươi vạn đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có chín mươi vạn, hội thứ ba có một trăm vạn, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là sáu vạn năm ngàn năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong hai vạn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp trong mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Danh Văn, thành tên là Vô ưu, hào quang Phật chiếu tỏa đến bốn ngàn dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Tối Thượng, mẹ tên là Uy Thí, con tên là Thượng Thủ, thị giả tên là Pháp Trụ, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Thạch Thị, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Ái Cấu, hội thứ nhất thuyết kinh có một trăm ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có chín mươi ức, hội thứ ba có tám mươi ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là bảy vạn năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong hai mươi vạn dặm, xá-lợi được phân chia đều khắp trong mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Đại Xưng, thành tên là Hảo viên, hào quang Phật tỏa chiếu đến tám trăm tám mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Thủ Tích, mẹ tên là Nhật Thí, con tên là Thắng Ly Ý, thị giả tên Văn Nghĩa Tư, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Mật Quận, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Đoạn Thí, hội thứ nhất thuyết kinh có năm trăm ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có ba trăm ức, hội thứ ba có hai trăm ức, hết thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là tám vạn năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong năm vạn năm, xálợi được phân chia đều khắp cho cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Minh Châu Kế, thành tên là Chiếu quận, hào quang Phật chiếu tỏa một trăm hai mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Giác Hỷ, mẹ tên là Tư Di Thị, con tên là Tư Binh, thị giả tên là Vô Lượng Tịch, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Bảo Uy, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Đãi Trí, hội thứ nhất thuyết kinh có chín trăm ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có một ngàn ức, hội thứ ba có một ngàn hai trăm ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là chín vạn năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong một ức năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Kiên Cường, thành tên là An tư, hào quang Phật tỏa chiếu khắp một ngàn quốc độ, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Thần Thị, mẹ tên là Thọ Ngôn, con tên là Viêm Nhạc, thị giả tên Minh Châu Vị, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Lạc Hài, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Thậm Điều, hội thứ nhất thuyết kinh có một ngàn ba trăm ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có ba mươi tám ức, hội thứ ba có năm ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là ba vạn năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong chín vạn năm, xálợi được tập hợp lại xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Sư Tử Bộ, thành tên là Thanh bạch thị, hào quang Phật chiếu tỏa đến một ngàn ba trăm hai mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Nhược Can Trần, mẹ tên là Diệu Dược, con tên là Bất Đà Lưu, thị giả tên là Ý Hành, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Đa Phong, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Dữ Hộ, hội thứ nhất thuyết kinh có một trăm bảy mươi tám vạn đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có một trăm hai mươi vạn, hội thứ ba có một trăm bốn mươi vạn, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một vạn tám ngàn năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong bảy ức năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Thần Thọ, thành tên là Thượng diêm-phù, hào quang Phật chiếu tỏa đến một ức dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Thọ Vương, mẹ tên là Ý Anh, con tên là Ái Tục, thị giả tên là Thí Diệu, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Dược Giải, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Nhị Tài, hội thứ nhất thuyết giảng kinh có bốn mươi tám ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có ba trăm năm mươi ức, hội thứ ba có ba trăm ba mươi ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một vạn tám ngàn năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong bảy mươi vạn năm, xá-lợi được tập hợp lại, xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Triếp Thắng, thành tên là Dược thị, hào quang Phật tỏa chiếu ba trăm sáu mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Kiến Kính, mẹ tên là Tài Thí, con tên là Dũng Thí, thị giả tên là Pháp Dữ, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Liễu Tướng, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Đại Căn Danh Văn, hội thứ nhất thuyết kinh có bảy mươi sáu ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có bảy mươi bốn ức, hội thứ ba có bảy mươi hai ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là tám vạn năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong sáu trăm ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai
Trí Tuệ, thành tên là Hiền thí, hào quang Phật chiếu tỏa bốn trăm bốn mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Thích Thí, mẹ tên là Mật Uy, con tên là Phạm thiên, thị giả tên là Pháp Xưng, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Căn Ý, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Tôn Thị, hội thứ nhất thuyết kinh có bốn mươi ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có ba mươi ức, hội thứ ba có hai mươi ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là ba ngàn năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong một vạn năm, xá-lợi được tập hợp lại xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Thiện Trụ, thành tên là Nhàn uy, hào quang Phật chiếu tỏa bốn trăm dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Hộ Vô Hại, mẹ tên là Lạc Âm, con tên là Cụ Hoặc, thị giả tên là Giác Tật, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Thượng Dữ, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Chấp Khải, hội thứ nhất thuyết giảng kinh có bốn vạn sáu ngàn đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có hai vạn năm ngàn, hội thứ ba có bốn vạn ba ngàn, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là năm trăm vạn năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong tám vạn năm, xá-lợi được tập hợp lại xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai
Hư Không, thành tên là Ái cư, hào quang Phật tỏa chiếu một trăm hai mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Căn Thí, mẹ tên là Thiên Hào, con tên là Thủy Thiên, thị giả tên là Trí Kết, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Thượng Ý, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Pháp Thủ, hội thứ nhất thuyết giảng kinh có chín mươi ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có tám mươi ức, hội thứ ba có bảy mươi ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Vô Lượng Giác, thành tên là Thiện cái, hào quang Phật chiếu tỏa đến ba ngàn tám mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Sinh Minh Nhãn, mẹ tên là Long Thí, con tên là Diệu Hảo, thị giả tên là Hiền Thiên, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Tâm Âm, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Đại Chi Bộ, hội thứ nhất thuyết kinh có bảy mươi ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có năm mươi ức, hội thứ ba có bốn mươi ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một ức năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong sáu mươi ức năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Thiện Nhan, thành tên là Uy thị, hào quang Phật chiếu tỏa năm trăm hai mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Lạc Âm, mẹ tên là Lạc Thị, con tên là Sở Tại Cát, thị giả tên là Thượng Dữ, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Phước Tuệ, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Vô Cụ, hội thứ nhất thuyết giảng kinh có bảy ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có chín ức, hội thứ ba có mười ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là ba ngàn năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong một vạn sáu ngàn năm, xá-lợi được tập hợp lại xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Thánh Tuệ, thành tên là Thiện thanh bạch, hào quang Phật tỏa chiếu đến năm trăm sáu mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Y-sư-đàn, mẹ tên là Ly Trần, con tên là Dũng Mãnh, thị giả tên là Danh A-nan, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Ý Hành, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Tu-đạt, hội thứ nhất thuyết kinh có hai mươi hai ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có hai mươi mốt ức, hội thứ ba có hai mươi ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là hai vạn tám ngàn năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong sáu vạn năm, xá-lợi được tập hợp lại xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Quang Minh, thành tên là Lưu ly quang, hào quang Phật chiếu tỏa đến ba ngàn ba trăm hai mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Ái Kính, mẹ tên là Ý Lạc, con tên là Ái Quang, thị giả tên là Viên Quán, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Lạc Ái, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Điều Hữu, hội thứ nhất thuyết kinh có tám mươi hai ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có tám mươi bảy ức, hội thứ ba có tám mươi sáu ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một vạn năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong ba ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Kiên Thệ, thành tên là Nhật du, hào quang Phật tỏa chiếu bốn mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Thiên Ái, mẹ tên là Thiện Ý Âm, con tên là Tôn Bảo, thị giả tên Nhu Âm, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Ngôn Thí, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Nhu Nhuyến, hội thứ nhất thuyết giảng kinh có một trăm ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có chín mươi bảy ức, hội thứ ba có chín mươi lăm ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một ức năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong bốn mươi ức năm, xá-lợi được tập hợp lại xây dựng ngôi chùa lớn để tôn phụng.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Cát Tường, thành tên là Mẫu ái, hào quang Phật tỏa chiếu hai trăm tám mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Cẩm Vương, mẹ tên là Hoa Nguyên, con tên là Vô Lượng Thủ, thị giả tên là Dưỡng Hữu, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Pháp Sự, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Thắng Hữu, hội thứ nhất thuyết giảng kinh có năm mươi ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có tám mươi hai ức, hội thứ ba có tám mươi sáu ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là năm mươi vạn năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong một ức năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho tất cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Thành Anh, thành tên là Ái hưởng, hào quang Phật chiếu tỏa bốn mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Phước Ngoại, mẹ tên là Hiền Thị, con tên là Ái Danh Xưng, thị giả tên là Tôn Hữu, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Nguyệt Hiền, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Thọ Mục, hội thứ nhất thuyết kinh có tám mươi ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có bảy mươi ức, hội thứ ba có sáu mươi ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một ức năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong tám ức năm, xá-lợi được tập hợp lại xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Thanh Liên, thành tên là Thậm hoa uy, hào quang Phật chiếu tỏa bốn trăm tám mươi dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Tổng Trì, mẹ tên là Hân Thí, con tên là Công Phước, thị giả tên là Nan Thắng, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Lạc Pháp, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Dược Thị, hội thứ nhất thuyết kinh có mười vạn đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có chín vạn chín ngàn, hội thứ ba có chín vạn tám ngàn, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là năm trăm năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong một vạn ngàn năm, xá-lợi được tập hợp lại xây dựng một ngôi chùa lớn để phụng thờ.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Câu Tỏa, thành tên là Tập hiền, hào quang Phật tỏa chiếu ba trăm dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Ái Mục, mẹ tên là Thí Thiện Chí, con tên là Nhân Hiền, thị giả tên là Minh Châu Kết, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Học Hữu, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Nhược Can Nguyệt, hội thứ nhất thuyết giảng kinh có sáu mươi ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có hai mươi ức, hội thứ ba có chín mươi ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là một vạn hai ngàn năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong ba vạn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai An Thị, thành tên là Ý lạc, hào quang Phật chiếu tỏa một trăm hai mươi dặm, thuộc dòng Phạm chí, cha tên là Vô Lượng Bảo, mẹ tên là Phong Thạnh Thị, con tên là Địa Thí Tôn, thị giả tên là Kiên Cường, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Nguyệt
Diệu, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Sư Tử, hội thứ nhất thuyết kinh có chín mươi sáu ức đệ tử cùng đến nghe pháp, hội thứ hai có chín mươi bốn ức, hội thứ ba có chín mươi hai ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là tám vạn bốn ngàn năm, chánh pháp tồn tại ở đời cũng trong tám vạn bốn ngàn năm, xá-lợi được phân chia đều khắp cho cả mười phương.
Về nơi chốn sinh cùng xứ sở của Đức Như Lai Tuệ Nghiệp, thành tên là Phước phú, hào quang Phật chiếu tỏa bốn trăm dặm, thuộc dòng họ con vua, cha tên là Vô Ưu, mẹ tên là Ái Hải, con tên là Hòa Thiện Giác, thị giả tên là Thiện Thí, đệ tử đứng đầu về trí tuệ tên là Hiện Tại Thánh, đệ tử có thần túc bậc nhất tên là Phước Ái, hội thứ nhất quy tụ đông đảo các bậc Thánh đến nghe pháp không thể tính kể hết, hội thứ hai có tám trăm ức, hội thứ ba có bảy trăm ức, thảy đều chứng đắc đạo quả. Thời Phật tại thế, thọ mạng của con người là tám vạn cai năm, chánh pháp tồn tại ở đời trong năm ức năm, xá-lợi của Phật được phân nhỏ như thuốc để phân bố khắp chốn.
Bấy giờ, thần tướng của Đức Phật như đứng yên cao lồng lộng không gì có thể sánh kịp. Nếu như có người được nghe danh hiệu của một trăm lẻ một vị Phật thì những người ấy sẽ mau chóng thành tựu quả vị Chánh giác như Phật. Huống chi lại được cung kính tôn phụng một ngàn vị Như Lai kia. Các đệ tử dốc tâm tu học thật không đủ lời để ca ngợi công đức chư Như Lai, các vị Bồ-tát tu tập hành hóa đúng đường của chư Phật, sẽ đạt pháp Không thoái chuyển, pháp nhẫn Vô sở tùng sinh, đạt quả vị Nhất sinh bổ xứ, giáo hóa độ thoát chúng sinh trong mười phương không thể tính kể hết.
Bồ-tát Hỷ Vương lại thưa với Đức Phật:
–Lành thay, Thế Tôn! Mong Thế Tôn rủ tâm Từ bi hơn nữa, nêu rõ về hành trạng của một ngàn vị Phật trong Hiền kiếp ấy, từ thời xa xưa tạo tác hành động thế nào cho đến lúc làm Bồ-tát, ở nơi Đức Phật nào bắt đầu phát tâm Bồ-đề, rồi tích lũy công đức thêm dày, luôn tự điều phục mình, cúng dường chư Phật, đạt đến quả vị Chánh giác, giáo hóa độ thoát hết thảy muôn loài?
Đức Phật bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Bồ-tát hãy lắng nghe! Khéo suy nghĩ và ghi nhớ, Như Lai sẽ vì Bồ-tát và các vị trong chúng hội mà nói về sự phát tâm cùng quá trình tu tập của chư Như Lai trong Hiền kiếp.
Bồ-tát Hỷ Vương cùng với các vị trong đại chúng vâng theo lời Phật dạy yên lặng lắng nghe.
Đức Phật nói:
–Đức Phật Câu-lưu-tôn về thọ mạng đời trước, từng gặp Đức Như Lai Nguyệt Ý, tâm liền bừng tỏ như từ trong bóng tối mà trông thấy ánh sáng, nên biết rõ đạo Vô thượng là tối tôn trong ba cõi, bèn tìm chiếc lọng báu dâng lên cúng dường Đức Phật, lúc mới phát tâm đạo luôn dốc tinh tấn không hề biếng trễ, tự đạt đến quả vị Chánh giác, giáo hóa độ thoát hết thảy muôn loài. Đức Phật Câu-na-hàm về thọ mạng ở đời trước từng gặp Đức Như Lai Sư Tử, đã dùng xâu chuỗi quý giá cùng hoa Tu-mạn dâng lên cúng dường Phật, nhân đó, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, rồi tích lũy công đức thêm sâu dày, tự đạt quả vị Chánh giác, độ thoát tất cả chúng sinh. Đức Phật Ca-diếp, về thọ mạng ở đời trước, sinh trong một gia đình Phạm chí, làm một Đồng tử ấu thơ được gặp Đức Như Lai Tư Di Tối, tâm liền giác ngộ, bèn cởi chiếc áo đẹp đẽ quý giá đang mặc trên người cung kính dâng lên để cúng dường Phật, lúc mới phát tâm Bồ-đề tu tập các pháp Bồ-tát luôn tinh cần không hề gián đoạn, biếng trễ, tự đạt quả vị Chánh giác, giáo hóa độ thoát muôn loài.
Đức Phật nói tiếp:
–Nay ta thành Phật hiệu là Thích-ca Văn, về thọ mạng ở đời trước, từng làm vị lương y nổi tiếng, dốc sức chữa trị bệnh cho mọi người, được xem là một lương y tận tâm với nghề, có được nhiều vật dụng quý giá cùng y phục đầy đủ, gặp Đức Phật thời xa xưa, đồng hiệu với ta, cũng tên hiệu là Như Lai Năng Nhân, biết đó là Đấng Chí Tôn, nhân đấy mà lấy các thứ y phục dâng lên cúng dường Đức Phật, lúc mới phát tâm Bồ-đề đã dốc thực hiện bốn Tâm vô lượng, bốn ân, sáu pháp Độ vô cực, ba cửa giải thoát là Không, Vô tướng, Vô nguyện, chẳng giữa chừng chấp giữ vào sự tu chứng, đạt được pháp nhẫn Vô sở tùng sinh, được gặp Phật Định Quang, thị hiện thọ ký, nhằm cứu độ tất cả chúng sinh trong ba cõi, tự đạt được quả vị Chánh giác, độ thoát hết thảy muôn loài.
Đức Như Lai Từ Thị về thọ mạng ở đời trước, từng làm vị Chuyển luân thánh vương, được gặp Đức Phật hiệu là Đãi Vô Cực, nhân đấy phát tâm Bồ-đề, thỉnh Phật cùng với Thánh chúng để cúng dường các thức ăn ngon lạ, lại dâng cúng mọi thứ ánh sáng quý giá để cứu giúp mọi người, luôn thể hiện tâm nhân từ thương xót đối với các hạng thấp kém thua thiệt, đi lại khắp mọi nẻo sinh tử cũng như trải qua hằng hà sa số kiếp không hề lấy đó làm điều khó nhọc, tự đạt đến quả vị Phật để độ thoát hết thảy muôn loài, gặp thời Đức Phật ấy tại thế, thọ mạng của con người đến những tám vạn bốn ngàn năm.
Đức Như Lai Sư Tử về thọ mạng ở đời trước, từ lúc mới phát tâm được gặp Đức Phật hiệu là Hoảng Dục Âm, nhân đấy mà phát tâm Bồ-đề, dùng năm tấc loại y năm mảnh dâng lên cúng dường Đức Phật, luôn dốc tâm cung kính phụng sự Đức Thế Tôn và tu tập các pháp Bồ-tát, tự đạt quả vị Phật-đà.
Đức Như Lai Quang Diệm, về thọ mạng ở đời trước từng làm người khách buôn bán đi vào biển lớn, thu đạt được nhiều thứ ngọc báu quý giá, theo Đức Phật Vô Lượng Quang, bắt đầu phát tâm Bồđề, lúc mới gặp Đức Thế Tôn trong lòng hết mực vui mừng liền lấy ngọc báu Minh nguyệt dâng lên cúng dường Phật, nhân đấy mà tâm đạo được vun đắp, hành các pháp Bồ-tát, tự đạt đến quả vị Phậtđà, độ thoát hết thảy muôn loài.
Đức Như Lai Mâu-ni, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Như Lai Duyệt Ý, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là người thường của cải giàu có vô lượng, được gặp Phật, tâm liền tỏ ngộ, bèn chọn những thứ châu báu cùng sửa sang loại lọng quý dâng lên cúng dường Phật, nhân đấy tâm đạo thêm vững, thực hiện các pháp tu Bồ-tát, tâm nguyện xin đem công đức ấy hướng về khắp mười phương chúng sinh thảy đều được che chở giúp đỡ, tu tập luôn tinh tấn không chút biếng trễ, tự đạt quả vị Chánh giác, độ thoát hết thảy muôn loài.
Đức Như Lai Thiện Mục, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Phật Kỳ Diệu, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc vừa mới gặp Phật tâm liền bừng sáng, bèn dùng hương hoa dâng lên cúng dường, nhân đấy tâm đạo được củng cố, tu tập các pháp Bồ-tát, thực hiện bốn tâm vô lượng, bốn ân, bốn thứ biện tài vô ngại, sáu pháp Độ vô cực, luôn thương xót chúng sinh khắp mười phương, đạt Bậc Chánh Giác tối thượng, độ thoát mọi chúng sinh bị khổ ách, cứu giúp đem lại sự an lạc lớn lao.
Đức Như Lai Thiện Túc, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Như Lai An Duyệt, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là một vị trưởng giả được gặp Phật tâm vô cùng vui mừng, dâng lên Phật nào những thứ châu báu ngọc quý, lầu gác để cúng dường, nhân đấy tâm đạo được vun đắp, tu tập các pháp Bồ-tát nhằm giáo hóa dẫn dắt hết thảy chúng sinh trong mười phương, tự đạt đến quả vị Phật-đà, độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Hoa Thị, về thọ mạng ở đời trước, được gặp Phật Đạo Ngự nên bắt đầu phát tâm Bồđề, lúc còn nghèo khốn nhân phát tâm mà rõ được ba cõi là không, bèn cởi áo người chết dâng lên cúng dường Phật, phụng hành các pháp Bồ-tát để tế độ hết thảy chúng sinh khiến họ luôn được dồi dào về bảy thứ tài sản, không một ai gặp phải cảnh cùng khốn, chúng sinh khắp trong mười phương đều được che chở giúp đỡ, tự đạt đến quả vị Phậtđà độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Hoa Thị thứ hai, là Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Siêu Việt Thủ, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, dùng bình nước trong lành cùng một nhành dương liễu, dâng lên cúng dường Phật, nhân đó mà vun đắp tâm đạo, tu tập các pháp Bồtát nhằm độ thoát chúng sinh, tự đạt đến quả vị Chánh giác cứu độ bao nạn khổ ách trong khắp ba cõi.
Đức Như Lai Đạo Sư, về thọ mạng ở đời trước, được gặp Phật Chí Thành, từ đấy bắt đầu phát tâm Bồ-đề, thời còn là người thường đã đem chiếc giường nằm đẹp đẽ, tọa cụ cùng với gỗ chiên-đàn đỏ dâng lên cúng dường Phật, nhân đấy mà củng cố tâm đạo tu tập các pháp Bồ-tát nhằm cứu độ chúng sinh khắp mười phương, tự đạt đến quả vị Phật-đà, độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Đại Đa, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Cung Xưng, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc sắp sửa vào kinh thành thì gặp Đức Phật từ trong đi ra, nhân đấy hết mực cung kính đảnh lễ, cúng dường, dốc tâm thành dâng lên Phật một cành trúc đẹp đẽ, tâm niệm: Mong muốn cho chúng sinh hành động luôn ngay thẳng như cây trúc, không có các ý tưởng tà vạy, do vì nhân duyên ấy mà luôn được gặp Tam bảo, tự đạt đến quả vị Chánh giác, nhằm cứu độ chúng sinh khắp mười phương.
Đức Như Lai Đại Lực, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Sư Ý, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, thời gian sinh làm con trong một gia đình sản xuất hương liệu, chuyên bán các thứ hương liệu tươi tốt, gặp Phật đi vào thành, trong lòng vô cùng hoan hỷ liền dâng lên cúng dường Phật một bình đựng hương mộc dùng cho việc tắm gội, tay cầm thêm các thứ hương liệu tươi đẹp có mùi thơm khác lạ, đi theo hầu phụng Đức Thế Tôn, nguyện cho hết thảy chúng sinh đều được hội nhập vào cửa đạo pháp, nhân các công đức ấy cùng dốc tâm tu tập, tự chứng đắc quả vị Chánh giác, độ thoát hết thảy muôn loài.
Đức Như Lai Tinh Tú Vương, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Thi Ý, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, thời còn là dân thường ở trong nước, gia đình nghèo khổ không có gì, làm kẻ chăn bò thuê, được gặp Phật tâm vô cùng vui mừng, liền bẻ hoa dâng lên cúng dường, tu tập theo hạnh Bồ-tát luôn tinh tấn không chút biếng trễ, tự chứng đắc quả vị Chánh giác nhằm độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Tu Dược, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Vi Diệu Hương, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, thời còn làm bậc “Ngự sư” đã gặp Đức Phật Thế Tôn liền tỏ ra cung kính quy lễ, dốc tôn phụng Bậc Đại Thánh Vô Thượng, đem tâm thấp kém của mình cùng với Đức Phật hỏi han bàn bạc, do nhân duyên ấy mà đã dứt trừ được các khổ nạn trong ba cõi, tự chứng đắc quả vị Phật-đà đem lại ân ích cho hết thảy muôn loài.
Đức Như Lai Danh Xưng Anh, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Đăng Điện, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, được thấy Phật thuyết pháp liền dùng các thứ cờ phướn dâng lên cúng dường Đức Như Lai, ngay đêm ấy thắp đèn kính lễ Phật, sớm tối siêng năng tu tập, tự chứng đắc quả vị Phật-đà nhằm độ thoát hết các nạn trong ba cõi cùng bao nỗi khổ hoạn nơi năm đường, thảy đều nhờ vào phước lành ấy mà khắp mọi nơi chốn đều được an lạc.
Đức Như Lai Anh Diệu, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Liên Hoa, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, bấy giờ thân đang làm việc cày bừa nơi đồng áng, gặp Phật liền hết sức vui mừng bỏ cày đuổi trâu, quỳ lạy đảnh lễ bên chân Phật, dùng hoa Giải Thoát dâng lên cúng dường Phật, nguyện cho chúng sinh đều được cày bừa vun xới mảnh ruộng đạo đức để đạt đến Bậc Giác Ngộ, do nhân duyên ấy mà luôn tuân phụng thực hiện bốn tâm vô lượng, bốn ân, ba cửa giải thoát cùng sáu pháp Độ vô cực, liền thành Bậc Chánh Giác, độ thoát hết thảy muôn loài.
Đức Như Lai Đại Quang, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Đại Đĩnh Quang, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là dân thường trong nước, gia cảnh hết sức nghèo khó, đi vào nơi đồng rộng vắng vẻ được thấy Phật cùng Tăng chúng, liền dùng đồng tiền ít ỏi dâng lên cúng dường Bậc Chí Tôn, ở nơi chốn mênh mông vắng lặng ấy đã đốt hương thắp đèn kính lễ Phật, nguyện cho hết thảy chúng sinh trong ba cõi tâm không ý tịnh cũng như cảnh vắng lặng mênh mông này, ba đời luôn được thấy ánh sáng chánh pháp dứt trừ ba độc tăm tối, do đấy dốc tu tập tự chứng đắc quả vị Phật-đà, nhằm độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Giải Ấm, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Phạm Âm, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là người thợ đóng giày đã dâng lên cúng dường Phật một đôi giày đẹp đẽ, nguyện khiến cho hết thảy chúng sinh luôn được tiếp cận với đủ loại xe cộ, sau đấy đều đạt được mọi diệu dụng của năm thứ thần thông, do công đức ấy mà dốc tu tập, tự chứng đắc quả vị Phật-đà nhằm độ thoát hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Chiếu Minh, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Ly Mạn Ý, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, thời còn là vị Chuyển luân thánh vương đã dùng tám vạn bốn ngàn các thứ cây gỗ dâng lên cúng dường Phật để dùng vào việc xây cất tinh xá, trong quá trình tu tập luôn tinh tấn không chút biếng trễ, tự chứng đạt quả vị Phật-đà nhằm độ thoát hết thảy muôn loài.
Đức Như Lai Nhật Tạng, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Vô Lượng Thành, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, thời làm con trong một gia đình thuộc dòng họ Phạm chí nổi tiếng, đã dùng hoa Câu Dực dâng lên cúng dường Phật, do duyên lành ấy mà luôn tu học, tự đạt quả vị Chánh giác, cứu độ hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Nguyệt Thị, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Danh Xưng Diệp, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là con trong một gia đình chuyên đúc đồ binh khí, đã dùng một chiếc trượng báu đẹp đẽ dâng lên cúng dường Phật, do nhân duyên ấy mà tu học, tự chứng đắc quả vị Chánh giác nhằm hóa độ muôn loài.
Đức Như Lai Quang Diệu, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Vô Lượng Minh, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là dân thường trong nước gia đình vô cùng nghèo túng, thường cùng cả đám đội cỏ ra chợ để bán, được gặp Phật tâm hết sức vui mừng nhưng không có gì để dâng cúng, bèn dâng cỏ lên cúng Phật, nguyện cho công đức này hướng đến khắp chúng sinh trong mười phương, tự đạt quả vị Phật-đà độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Thiện Chiếu, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Duyệt Ý Thành, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn làm người coi sóc vườn hoa, được gặp Phật tâm vô cùng sung sướng liền dùng hoa Tử Di dâng lên cúng dường Phật, tu tập các pháp Bồ-tát luôn tâm niệm: “Mong nguyện cho hết thảy chúng sinh tâm được nhu hòa, mềm dịu như hoa, nhân đấy luôn tinh tấn tu tự chứng quả vị Phật-đà, độ thoát các loài.”
Đức Như Lai Vô Ưu, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Ly Ý Xứng, bắt đầu phát tâm
Bồ-đề, lúc còn là con bậc Trưởng giả trong một gia đình quyền quý, đã chọn loại hoa tươi tốt nhất tung rải lên cúng dường Phật, dốc cầu đạo Chánh giác Vô thượng, do duyên lành ấy mà tu tập tự đạt đến quả vị giác ngộ, độ thoát hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Uy Thần, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Đức Khải Mã, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là con một gia đình Trưởng giả đã dùng ngọc quý Minh nguyệt cùng với hoa sen đỏ dâng lên cúng dường Phật, tinh tấn tu tập không chút biếng trễ, tự đạt quả vị Chánh giác nhằm cứu độ hết thảy mọi khổ hoạn trong ba cõi, năm đường.
Đức Như Lai Diệm Quang, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Thiện Kiến, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn làm khách buôn bán đã nhiều lần đi vào biển lớn tìm kiếm châu báu, đã dùng loại xích chiên-đàn làm giường nằm, ngọa cụ tốt đẹp dâng lên cúng dường Phật, nhân đấy mà tu tập hạnh Bồ-tát, tự đạt quả vị Phật-đà, nhằm độ thoát mọi khổ ách của sinh tử trong ba đời.
Đức Như Lai Chấp Hoa, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Duyệt Ý Uy, bắt đầu phát tâm Bồ-đề. Thời đó sinh vào làm con một gia đình trưởng giả, đã tự mình ăn mặc thứ y phục tốt đẹp, được giặt giũ bằng sữa thơm, để thắp các thứ danh hương quý giá dâng lên cúng dường Phật, muốn đem công đức ấy hướng về khắp mười phương cầu cho tất cả chúng sinh thảy được đội ân tế độ, do nhân duyên ấy mà tu tập, tự đạt quả vị Chánh giác, độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Huân Quang, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Bất Tàng Uy, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là người dân thường, được gặp Phật tâm vô cùng sung sướng, liền hết sức cung kính đảnh lễ, lại lấy gương sáng cùng các thứ ngọc quý giá dâng lên cúng dường Phật, nguyện tu tập theo các pháp Bồ-tát, do nhân duyên ấy mà tự chứng đắc quả vị Chánh giác, độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Hiện Nghĩa, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Vô Lượng Âm, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, về thời xa xưa làm vị Chuyển luân thánh vương được gặp Đức Phật, biết đó là Bậc Chí Tôn của đạo Giác ngộ vô thượng, nên đã dùng bao nhiêu là lớp dãy lầu gác, tinh xá dâng lên cúng dường Phật, nguyện cầu cho hết thảy chúng sinh đều có được đức lớn lao như hư không, nhờ duyên lành ấy mà tu tập đạt quả vị Chánh giác, độ thoát tất cả các loài.
Đức Như Lai Đĩnh Diệu, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Minh Ngu Lạc, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, ở thời ấy sinh làm con trong một gia đình buôn bán hương hoa, đã chọn nhiều thứ hương hoa dâng lên Đức Thánh Tôn, luôn điều phục, chế ngự tâm ý, cùng với cả gia đình và sáu mươi ức quyến thuộc cùng đến cúng dường Phật, tham vấn, lãnh thọ đạo pháp tu tập theo các pháp Bồ-tát, tu chứng đắc quả vị giác ngộ, độ thoát hết thảy các loài.
Đức Như Lai Quang Uy, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Phổ Xưng, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là một vị Tiên cư ngụ trong núi, đã dùng tấm nệm trắng tốt đẹp đi đến chỗ kinh hành dâng lên cúng dường Đức Phật, biết đó là Bậc Chí Tôn nên dốc tu các pháp Bồ-tát, tự đạt quả vị Chánh giác, cứu độ muôn loài.
Đức Như Lai Y Thị, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Ly Chủng, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là người con trong gia đình làm nghề thuốc, được gặp Phật, tâm vô cùng hoan hỷ, dùng những viên thuốc cùng các thứ hương hoa vật phẩm dâng lên cúng dường Phật, nguyện cho tất cả chúng sinh đều được dứt trừ ba thứ bệnh độc, do nhân duyên ấy mà dốc tâm tu tập các pháp Bồ-tát, tự đạt quả vị Chánh giác cứu độ các loài.
Đức Như Lai Thiện Lạc, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Kỳ Nhu Thuận, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là con một gia đình buôn bán dầu, đã dùng dầu thắp đèn dâng lên cúng dường Phật, nguyện cầu cho khắp mười phương thảy đều đội ân của ánh sáng nơi đạo pháp giác ngộ soi tới, do duyên lành ấy mà tu tập, tự chứng đắc quả vị Chánh giác, tế độ hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Hưng Thịnh, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Quảng Phổ Xưng, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, dâng lên cúng dường Phật một tấm đệm trắng mềm mại, đẹp đẽ, lại đi khắp chốn kinh thành nêu bày, khuyến trợ về việc giúp đỡ kẻ khác, nhân đó mà dốc tâm tu tập hạnh Bồ-tát, luôn nhớ nghĩ thương xót chúng sinh, tự chứng đắc quả vị Chánh giác, độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Y Sở, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Ly Cấu, bắt đầu phát tâm Bồđề, sinh trong gia đình làm nghề thuốc, nối nghiệp nghề của ông cha, được gặp Phật, tâm vô cùng hoan hỷ liền dâng lên cúng dường Phật vô số các viên thuốc quý, do nhân duyên ấy mà dốc tâm tu các pháp Bồ-tát, tự chứng đắc quả vị Chánh giác, độ hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Đảnh Kế, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Phổ Hiện, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là con trong gia đình chuyên sản xuất các loại xâu chuỗi trang sức quý giá, đã dâng lên cúng dường Phật các xe cộ và phương tiện di chuyển cùng những chuỗi ngọc quý giá, từ sự tôn phụng hết mực ấy mà tu tập theo các pháp Bồtát, luôn tinh tấn không chút biếng trễ, tự chứng đắc quả vị Chánh giác độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Kiến Cố, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Mạc Năng Thắng, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là vị Chuyển luân thánh vương, được gặp Đức Phật, đã đem những tám vạn bốn ngàn các thứ giường chiếu, đồ ngồi, bàn ghế đủ loại đều làm bằng bảy thứ châu báu, dâng lên cúng dường Phật, từ đấy tâm đạo luôn được phát huy, dốc tu tập các pháp Bồ-tát, tự chứng đắc quả vị Chánh giác, độ thoát hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Thủ Y, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Uy Vương Quang, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, vốn là một khách buôn thường đi vào nơi biển lớn, đã dùng ngọc báu Minh nguyệt dâng lên cúng dường Phật, ngọc báu ấy đã tỏa ánh sáng chiếu đến bốn mươi dặm, từ duyên lành đó mà tinh tấn tu tập, tự chứng đắc quả vị Chánh giác của đạo Bồ-đề vô thượng, nhằm độ thoát hết thảy các loài.
Đức Như Lai Nan Thắng, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Kiên Bộ Việt, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là chủ nhân coi việc chuyên chở các thứ cây, gỗ, được gặp Phật tâm vô cùng vui mừng, liền dùng một cành dương liễu dâng lên cúng dường Phật dùng vào việc súc miệng xỉa răng, do nhân duyên ấy mà luôn tu tập các pháp thanh tịnh, tự chứng đắc quả vị giác ngộ, độ thoát tất cả chúng sinh.
Đức Như Lai Đức Tràng, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Nhu Xưng, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, dâng lên cúng dường Phật một chiếc thau đồng lớn để đựng nước, dùng vào việc tắm rửa, tẩy trừ mọi cấu uế nơi thân, khiến cho thân thể được hoàn toàn trong sạch, từ đấy tạo lập mọi nghiệp thiện theo ánh sáng giác ngộ, thể hiện công đức bố thí khắp mọi nơi chốn, tự chứng đắc quả vị Chánh giác, độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Nhàn Tĩnh, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Vô Thượng, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là con trong gia đình chuyên sản xuất các thứ xâu chuỗi quý giá, đã dùng những xâu chuỗi trang nghiêm dâng lên cúng dường Phật, lại dùng các thứ giày dép, giường nằm, hương liệu có màu sắc tươi đẹp bố thí cho mọi người cùng cúng dường Phật nguyện cho hết thảy chúng sinh đều đạt được các pháp định ý, do nhân duyên ấy mà dốc tu tập, tự chứng đắc quả vị Chánh giác, độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Kiên Trọng, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Đại Thanh Duyệt, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, cúng dường Phật những tấm đệm mềm mại sạch sẽ để làm ấm áp nơi chốn tắm rửa, giặt giũ của Thánh chúng, cùng dâng cúng nhiều thứ hương, nhân đấy mà tâm đạo được vun đắp thêm, tu các pháp Bồ-tát, tự chứng đắc quả vị giác ngộ, cứu độ hết thảy chúng sinh trong mười phương.
Đức Như Lai Phạm Âm, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Nhu Âm, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là vị quốc vương thường nuôi nhiều loài dê, bấy giờ Đức Phật Nhu Âm vừa mới thành Bậc Chánh Giác, an trú gần nơi một đầm rộng lớn vắng vẻ, gặp được Đức Phật, nhà vua vô cùng vui mừng sung sướng, bèn lấy một nửa số lương khô mình mang theo dâng lên cúng dường Phật, từ nhân duyên ấy mà tu tập hạnh Bồ-tát của đạo giác ngộ vô thượng, luôn tinh tấn không chút biếng trễ, tự chứng đạt quả vị Chánh giác, độ thoát hết thảy muôn loài.
Đức Như Lai Kiên Cường, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Vô Động Bộ, tự tay mang nhiều thứ ngọc ngà châu báu dâng lên cúng dường Phật, lúc ấy là con trong một gia đình là bậc đại Đạo sư, nhân sự hiến cúng ấy mà phát tâm Bồđề, do từ công đức đó nên tu tập, tự chứng đắc quả vị Chánh giác, độ thoát hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Cực Thượng Hân Diệu, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Vô Lượng Thanh Tịnh, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là Thái tử con vua Ngu Lạc, trị vì nước Sa-kiệt, bấy giờ Đức Phật vừa thành Bậc Chánh Giác, phóng hào quang tỏa chiếu khắp mười phương, do nhân duyên được gặp Phật ấy, tu các hạnh Bồ-tát, tự đạt quả vị Chánh giác, độ thoát hết thảy muôn loài.
Đức Như Lai Hưng Quang, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Uy Thủ Quang, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn làm vị Chuyển luân thánh vương đã dùng nhiều thứ y phục tốt đẹp, cùng với những châu báu kỳ lạ quý hiếm dâng lên cúng dường Phật, cũng như bố thí giúp đỡ mọi người, do nhân duyên ấy mà tinh tấn tu tập, tự chứng quả vị Chánh giác của đạo Giác ngộ vô thượng, độ thoát hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Đại Minh Sơn, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Vãng Đạo, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, dùng hoa Vô ưu dâng lên cúng dường Phật, từ đấy tích lũy công đức, luôn chế ngự đối với mọi tạo tác của mình, thể hiện tâm Từ bi lớn lao thương xót nhớ nghĩ đến hết thảy chúng sinh, tự tu tập chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm độ muôn loài.
Đức Như Lai Kim Cang, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Kiên Cố, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, được sinh lên cõi trời Đao-lợi làm vị Thiên đế Thích, đã dùng các thứ hoa Thiên ý, hoa Man-đà-lặc tung rải lớp lớp xuống như mưa để cúng dường Phật, từ nhân duyên ấy mà hành đạo, tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm độ thoát hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Ức Thức, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Ái Giải Thoát, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, đã dùng các thứ vàng ròng, châu báu, chuỗi ngọc, cùng dâng lên cúng dường Phật, từ việc cúng dâng ấy tâm đạo được phát huy, tự chứng đắc quả vị Chánh giác nhằm độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Vô Úy, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Bất Khủng, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, tuy mưu sinh bằng nghề buồn thương bi thảm mà vẫn luôn vui vẻ tươi cười, thường hòa tấu kỹ nhạc, đánh trống, ca hát tạo sự vui thích mà cúng dường Phật, tự tu tập đạt đến quả vị Chánh giác, nhằm hóa độ hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Bảo Thị, về túc mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Vô Lượng Âm, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là một vị đại thần, đã dùng nhiều thứ hoa hương tươi tốt dâng lên cúng dường Phật, từ đấy tu các pháp Bồ-tát, tự chứng đắc quả vị Chánh giác, cứu độ muôn loài.
Đức Như Lai Liên Hoa Mục, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Phổ Quang, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, tự thân mình mang những thứ vòng ngọc quý giá cùng giường nằm để dâng lên cúng dường Phật, mong muốn cho hết thảy chúng sinh đều có được nhiều công đức, tự tu tập đạt quả vị Chánh giác, độ thoát các loài.
Đức Như Lai Lực Tướng, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Đại Ngự, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là vị y vương đã đem một quả A-ma-lặc dâng lên cúng dường Phật, do nhân duyên ấy mà sự hành hóa được thành tựu, tự đạt quả vị Chánh giác, nhằm cứu độ hết thảy mọi chúng sinh.
Đức Như Lai Hoa Quang, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Nhất Thiết Uy, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là một người thợ kim hoàn, đã đem nhiều đồ trang sức đẹp đẽ quý giá dâng lên cúng dường Phật, do nhân duyên ấy mà các hạnh được đầy đủ, tu tập tự đạt đến quả vị Chánh giác, nhằm cứu độ muôn loài.
Đức Như Lai Ái Phục, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Hối Cung, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, thời còn là người con trong gia đình chuyên nghề cờ bạc, đã đem một lò hương tốt đẹp dâng lên cúng dường Phật, từ nhân duyên ấy mà tích lũy công hạnh, tự tu tập chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm cứu độ hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Đại Uy, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Chiếu Diệu Thủ, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, thời còn là con của một bậc Tôn giả, đã dùng các thứ y phục tốt đẹp dâng lên cúng dường Phật, do nhân duyên ấy mà vun đắp công hạnh, tu tập đạt đến quả vị Chánh giác, nhằm hóa độ muôn loài.
Đức Như Lai Phạm Thị, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Ban Tuyên Tôn, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, thời còn làm một vị quan lớn, đã đem các thứ mật ong, đường mật ngon ngọt dâng lên cúng dường Phật, từ nhân duyên ấy mà tích chứa công đức tự tu tập, đạt quả vị Chánh giác, nhằm hóa độ hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Vô Lượng Diệu, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Tịnh Quang Minh, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là người khách buôn bán xứ xa, đã đem các thứ dù lọng đẹp đẽ dâng lên cúng dường Phật, từ nhân duyên ấy mà công đức được luôn vun đắp, tu tập tự chứng quả vị Chánh giác, nhằm hóa độ muôn loài.
Đức Như Lai Long Thí, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Sư Tử Tần Thân, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là con trong một gia đình làm nghề sản xuất các thứ vòng hoa trang sức, đã đem những đồ vật quý giá làm bằng hoa dâng lên cúng dường Phật, từ nhân duyên ấy mà mọi công đức luôn được vun đắp, tu tập tự đạt quả vị Chánh giác, nhằm hóa độ muôn loài.
Đức Như Lai Kiên Bộ, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Ly Ý Thắng, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là con trong một gia đình chuyên về nghề làm châu ngọc, đã đem các thứ châu báu, chuỗi ngọc cùng giường nằm, đồ ngồi dâng lên cúng dường Phật, do nhân duyên ấy mà tích lũy công đức, tu tập tự đạt quả vị Chánh giác, nhằm cứu độ hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Bất Hư Kiến, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Thiện Kiến, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là một vị thầy thuốc nổi tiếng chữa trị bệnh cứu sống nhiều người, đã đem nhiều thứ thuốc hay dâng lên cúng Thánh chúng, dùng để trị các thứ bệnh, do nhân duyên ấy mà mọi công đức luôn được tích chứa, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm hóa độ muôn loài.
Đức Như Lai Tinh Tấn Thí, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Độ Vô Lượng, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là vị Chuyển luân thánh vương đã cho xây cất sửa sang nhiều tinh xá với những lầu gác, phòng ốc, số lượng có đến hàng trăm ngàn, lại dùng thứ xích chiên-đàn để làm các giường nằm cùng các thứ tọa cụ đẹp đẽ dâng lên cúng dường Phật, do duyên lành ấy mà mọi công đức luôn được vun đắp, tu tập tự đạt đến quả vị Chánh giác, cứu độ hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Hiền Lực, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Danh Văn Quang, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là người dân thường, đã đem hàng trăm thứ thức ăn dâng lên cúng dường Phật và Thánh chúng, lại thường tổ chức cúng dường cơm nước cho hàng mười ức triệu đệ tử của Phật, do nhân duyên ấy mà mọi công đức càng thêm vun đắp, tu tập tự đạt quả vị giác ngộ tối thượng nhằm độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Hân Lạc, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Hoằng Xưng, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, thời còn là con trong một gia đình Trưởng giả giàu sang thuộc dòng Phạm chí, đã đem các thứ ngọc trai dùng trang sức, phất trần cùng quạt kỳ lạ tuyệt hảo để dâng lên cúng dường Phật, từ nhân duyên ấy mà tích lũy công đức, dốc tu tập đạt quả vị Chánh giác, nhằm giáo hóa hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Vô Thoái Một, về thọ mạng ở đời trước, từng theo Đức Phật Tịnh Căn, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, thời còn là một vị sứ giả đã đem năm quả Tỷ-la dâng lên cúng dường Phật, từ nhân duyên ấy mà mọi công đức luôn được vun đắp, tu tập tự đạt quả vị Chánh giác, nhằm độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Sư Tử Tràng, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Thanh Hòa Âm, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, thời còn là một người dân thường, hay dắt trâu cày ruộng, đã đem một quả Ha-ma-lặc dâng lên cúng dường Phật, do nhân duyên ấy mà dốc tâm vun đắp công đức, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm cứu độ hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Thắng Tri, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Vô Năng Hủy Chuyển Pháp Luân, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là người thợ làm giày dép, đã đem quả Ha-lê-lặc dâng lên cúng dường Phật, từ nhân duyên ấy mà luôn tích lũy công đức tu tập, tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm cứu độ muôn loài.
Đức Như Lai Pháp Thị, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Vô Lượng Hưởng, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là một lực sĩ, đã tìm kiếm loại cờ phướn tốt đẹp dâng lên cúng dường Phật, do nhân duyên ấy mà mọi công đức luôn được vun đắp, tu tập đạt quả vị Chánh giác, nhằm giáo hóa hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Hỷ Vương, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Hàng Niệm, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là một người thợ chuyên sản xuất các thứ hương liệu, đã đem các thứ hương tươi tốt dâng lên cúng dường Phật, do nhân duyên ấy mà dốc tích lũy công đức, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm cứu độ muôn loài.
Đức Như Lai Diệu Ngự, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Thần Túc Uy, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, ngay từ lúc còn trẻ thơ, đã đem ba thứ quả dâng lên cúng dường Phật, từ nhân duyên ấy mà công đức luôn luôn được vun đắp, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, cứu độ muôn loài.
Đức Như Lai Ái Anh, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Công Huân Vương, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là Thái tử Minh Trí con một quốc vương, đã đem nhiều hoa dâng lên cúng dường Phật, từ nhân duyên ấy mà dốc tích lũy công đức, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm giáo hóa hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Diệu Thiên, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Thán Độ Vô Cực, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là một người khách buôn, đã dâng lên cúng dường Phật một bình bát thức ăn ngon ngọt, từ nhân duyên ấy nên luôn tích chứa các công đức tu tập, chứng đạt quả vị Chánh giác, nhằm hóa độ muôn loài.
Đức Như Lai Đa Huân, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Đại Lực, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là người dân nghèo trong nước, đã dâng lên cúng dường Phật một chiếc gậy dài sáu thước, ngay ở chỗ Phật đi kinh hành, do từ duyên lành ấy mà mọi công đức luôn được vun đắp, tu tập chứng đạt quả vị Chánh giác, nhằm độ thoát các loài.
Đức Như Lai Chúng Hương Thủ, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Diệu Diệu Tịnh, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là con một gia đình chuyên buôn bán các thứ hương liệu, đã dùng nước hương thơm rưới lên chỗ đi kinh hành của Đức Thế Tôn, từ duyên lành ấy mà các công đức luôn được tích lũy, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm cứu độ hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Thuận Quán, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng được gặp Đức Phật Kiến Vô Quái Ngại, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, bấy giờ ngụ ở trong núi, đã đem các thứ lụa dày vải tơ tốt đẹp để làm nên một chiếc dù nhiều màu sắc tươi đẹp dâng lên cúng dường Phật, từ duyên lành ấy mà tích chứa các công đức, tu tập được chứng đắc quả vị giác ngộ tối thượng, nhằm hóa độ muôn loài.
Đức Như Lai Vũ Âm, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Sư Tử Bộ, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là người thợ chuyên sản xuất đồ gốm, đã đem chiếc lọ dùng chứa nước rửa ráy dâng lên cúng dường Phật, từ duyên lành ấy mà luôn tích lũy công đức, tu tập tự đạt quả vị Chánh giác, nhằm độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Thiện Tư, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Phổ Quán, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là con trong gia đình chuyên nghề hái hoa, đã đem một cành hoa sen dâng lên cúng dường Phật, từ nhân duyên ấy mà luôn tích chứa các công đức, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm độ thoát các loài.
Đức Như Lai Khoái Ý, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Thí Siêu Độ, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là con một bậc Tôn giả, đã dâng lên cúng dường Phật một chuỗi hoa Tu-mạn, do duyên lành ấy mà mọi công đức luôn được vun đắp dốc tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm độ thoát hết thảy mọi chúng sinh.
Đức Như Lai Ly Cấu, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Thiện Kiến, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, ngay trong đêm ghé tinh xá, đã dâng lên cúng dường Phật những thứ khăn cầm tay, lau tay, từ nhân duyên ấy mà luôn tích lũy công đức, tu tập chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Danh Văn, về thọ mạng ở đời quá khứ, lúc còn là con trong gia đình làm nghề nhuộm, từng theo Đức Phật Thiện Tai Tượng, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, đã tự mình mang đầy những hoa Ha-êlặc cung kính tung rải lên cúng dường Phật, do duyên lành ấy mà mọi công đức luôn được vun đắp, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm giáo hóa muôn loài.
Đức Như Lai Đại Xưng, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Y Xứng, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, bấy giờ là người dân cùng khổ trong nước, đã dùng một cành hoa Câu-tu-ma mềm mại tươi tốt dâng lên cúng dường Phật, từ duyên lành ấy mà tích lũy công đức, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm độ thoát hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Minh Châu Kế, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Bảo Tịnh, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn trẻ thơ, đã mang đầy các thứ hương thơm tung rải cúng dường Phật, từ duyên lành ấy mà mọi thứ công đức luôn được vun đắp, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm hóa độ muôn loài.
Đức Như Lai Kiên Cường, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Xí Thạnh Quang, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là vị Thiên tử Thần Diệu ở trên cõi trời đã dùng chiếc quạt trời đẹp đẽ dâng lên cúng dường Phật, từ duyên lành ấy mà tích lũy công đức, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm giáo hóa muôn loài.
Đức Như Lai Sư Tử Bộ, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Độ Siêu Việt, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, vốn làm nghề sản xuất dù, ô, vào lúc thời tiết nóng bức đã dâng lên cúng dường Phật dù và giày dép, từ duyên lành ấy mà các thứ công đức luôn được tích chứa, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm độ thoát hết thảy muôn loài.
Đức Như Lai Thần Thọ, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Bảo Tịnh, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn làm nghề chăn nuôi dê hay lùa dê đến chốn gò, đồng vắng vẻ để cho ăn, trên đường được gặp Phật khiến tâm vô cùng hoan hỷ, liền chọn lấy một tấm vỏ cây dâng lên cúng dường Phật, từ nhân duyên ấy mà tích chứa công đức, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Triếp Thắng, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Quyết Liễu Giác, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, thời còn làm nghề chăn nuôi dê, đã dùng một bình bát tốt đẹp đựng đầy sữa dâng lên cúng dường Phật, từ duyên lành ấy mà mọi công đức đều luôn được vun đắp, sức tu tập tự đạt quả vị Chánh giác, nhằm hóa độ hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Trí Tích, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Tuệ Anh, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là người dân thường, đã bày biện pháp tòa, trong một ngày cúng dường Phật và chúng Tỳ-kheo, từ duyên lành ấy mà tích chứa mọi công đức, tu tập tự đạt quả vị Chánh giác, nhằm giáo hóa muôn loài.
Đức Như Lai Thiện Trụ, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Động Giác, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là con trong một gia đình làm nghề thuộc da, đã dâng lên cúng dường Phật một bó lông thú, từ duyên lành ấy mà tích lũy công đức, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm độ thoát hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Hư Không, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Hạnh Ý, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là người làm thuê đã đem loại nước uống thơm ngon dâng lên cúng dường Phật, rồi bỏ công việc cũ, đích thân làm các món ăn dâng cúng dường Phật, từ duyên lành ấy mà mọi công đức luôn vun đắp, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Hữu Thừa Lạc, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Thiện Căn, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, dâng lên cúng dường Phật chiếc áo dài hết sức tôn quý, dưới có viền màu đen, là thứ áo tốt dùng những sợi tơ mịn màng tạo nên, từ duyên lành ấy mà mọi thứ công đức luôn được vun đắp, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm độ tất cả chúng sinh.
Đức Như Lai Vô Lượng Giác, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Uy Âm, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, ở ngay nơi chỗ hành hóa của Phật, đã dâng lên cúng dường một khu đất có thể làm chỗ ngồi quán tưởng, từ duyên lành ấy mà tích chứa công đức, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm giáo hóa muôn loài.
Đức Như Lai Thiện Nhan, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Quang Âm, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc làm nghề hái quả, đã đem năm cành hoa sen xanh dâng lên cúng dường Phật, do duyên lành ấy mà các thứ công đức đã được tích lũy, tu tập, tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm hóa độ hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Thánh Tuệ, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Thiện Trụ, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là vị Tỳ-kheo thường ở nơi thanh vắng yên tĩnh, làm sạch sẽ nơi Đức Phật đi kinh hành, từ nhân duyên ấy mà tích chứa công đức, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm độ thoát muôn loài.
Đức Như Lai Quang Minh, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Vô Lượng Uy, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, ở nơi chốn thành thị đã đích thân mang đến hàng trăm ngàn các thứ tọa cụ, giường nệm quý giá dâng lên cúng dường Phật, từ duyên lành ấy mà mọi công đức luôn được vun đắp, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm giáo hóa tất cả chúng sinh.
Đức Như Lai Kiên Thệ, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Duyên Tư, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là thợ chuyên làm chuỗi hoa vòng hoa, đã dùng nhiều hoa dâng lên cúng dường Phật, từ duyên lành ấy mà tích lũy công đức, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm độ thoát các loài.
Đức Như Lai Cát Tường, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Nhàn Xưng, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc vác củi đi trên đường gặp phải mưa gió, nhân đấy vào trú nhờ nơi tinh xá được thấy đệ tử Phật, đã dùng loại hoa hết mực tươi đẹp để dâng lên cúng dường Phật, từ duyên lành ấy mà tích chứa công đức, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm hóa độ tất cả chúng sinh.
Đức Như Lai Thành Anh, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Như Lai Huân Hoa, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc vừa tắm rửa sạch sẽ xong, nhân đấy mà phát tâm, tự tay dâng lên cúng dường Phật loại hương thơm quý giá, từ duyên lành ấy mà dốc vun đắp mọi thứ công đức, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác nhằm hóa độ muôn loài.
Đức Như Lai Thanh Liên Hoa, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Như Lai Diệu Hoa Quang, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn là con một gia đình thuộc hàng Tôn giả, thông minh, khỏe mạnh, sáng suốt, đã dùng loại hoa sen đỏ dâng lên cúng dường Phật, do duyên lành ấy mà luôn tích chứa mọi công đức, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm độ thoát hết thảy chúng sinh.
Đức Như Lai Câu Tỏa, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Nan Thắng, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, lúc còn làm chủ một phố chợ chuyên mua bán các thứ hương liệu, đã dùng hương bột xích chiên-đàn rải khắp vùng đất Phật đi kinh hành, do duyên lành ấy mà mọi thứ công đức luôn được vun đắp, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm cứu độ tất cả các loài.
Đức Như Lai An Thị, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Nhuyễn Hưởng, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, bấy giờ được quốc vương sai làm sứ giả, đã cùng cả quyến thuộc dùng ba thứ y dâng lên cúng dường Phật, từ duyên lành ấy mà luôn dốc tâm vun đắp các thứ công đức, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm hóa độ mọi chúng sinh.
Đức Như Lai Tuệ Nghiệp, về thọ mạng ở đời quá khứ, từng theo Đức Phật Thiện Kiến, bắt đầu phát tâm Bồ-đề, đã cùng với đại chúng đem các thứ cờ, phướn, dù, lọng lớn, đẹp, tất cả cùng một tâm ý thành kính dâng lên cúng dường Phật, từ duyên lành ấy mà luôn tích lũy mọi thứ công đức, tu tập tự chứng đắc quả vị Chánh giác, nhằm độ thoát hết thảy các loài.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn đã nêu bày tổng quát về một ngàn vị Phật trong Hiền kiếp, đều nhằm làm sáng tỏ quá trình tu tập và chứng đắc của chư Phật, khiến cho hết thảy các vị nơi chúng hội này được biết rõ về những điều cốt yếu trong khi dốc tâm tán thán công đức của chư Phật. Nên có bài tụng:
Nơi chốn chư Phật tạo lập phước đức
Nẻo đường tu tập, sức ít, thiếu lời
Mà đạt báo ứng, quả thật như vậy
Chốn nào biết rõ chẳng phát tâm đạo?
Hư không hãy còn lường được giới mốc
Nước biển mênh mông cũng còn đoán biết
Dần dần tin, vui, hướng về chốn Phật
Báo ứng từ Đức Phật không hạn lượng
Tám nạn không rơi, che ngăn chẳng gặp
Duyên ấy nên đạt vô vi an lạc
Gặp Phật chính là phước điền tối thắng
Cung kính, tôn phụng, dứt mọi phóng dật
Ta nay hiện tại cùng sau diệt độ
Giữ xá-lợi Phật như gìn hạt cải
Kẻ tin, vui, cùng tôn quý phụng thờ
Phước ấy vô tận, đức thật khó bàn
Cả cõi hư không cũng cõi chúng sinh
Khởi Nhất thiết trí, tâm nêu Đức Phật
Có bốn pháp ấy, ai vượt đáy bờ
Chỉ riêng trí Phật vượt mọi hạn lượng
Giống như kẻ nghèo thiếu đói cùng khốn
Vui được kho lớn khắp bốn mươi dặm
Như phát tâm đạo, đức ấy cũng vậy
Chốn trụ cứu giúp hết thảy chúng sinh
Mười lực tôn quý, tám nẻo an vui
Lại thêm ân của năm trăm Phật hộ
Từng thấy tám vạn chư Phật thượng thủ
Phật đem nêu bày bốn nẻo nghĩa vui
Phân biệt, thông tỏ tám mươi tư nghĩa
Cho đến sáu vạn với đủ pháp môn
Nêu rộng bảy mươi sáu tuệ đạo địa
Phật đã thông suốt mười tám các hạnh
Mười cát tường ấy, ý năm phương tiện
Từ mười hạnh gốc biến thành hơn trăm
Các bậc Duyên giác chưa thể đạt đến
Huống chỉ dựa âm như hàng Thanh văn
Còn thêm các tướng, tám mươi vẻ đẹp
Uy nghi, công đức chư Phật đạt được
Thật vô bờ bến, vượt mọi ví dụ
Vì thế Phật là bất khả tư nghì
Nếu kẻ phát tâm hướng đạo tối tôn
Tuy sống thế gian, an lạc đời đời
Trải khắp nơi chốn, vô vàn phú quý
Khỏi phải cậy nhờ, dứt mọi ràng buộc
Hàng phục các ma, đạt pháp cam lồ
Đem đủ bảy báu, cứu giúp mọi ách
Nguyện sống ở đời, dứt mọi đắm nhiễm
Như trận mưa lớn thấm nhuần bao chốn
Tuy lại gặp khổ, vô số trăm ngàn
Công lao oai đức sẽ chóng viên thành
Hết thảy thế gian đều cùng quy kính
Hành đạo do vậy quên mọi khó nhọc
Thảy nên nhẫn chịu trước những khổ nạn
Như do tội báo đọa nơi đường dữ
Nương theo công đức được sinh cõi trời
Chốn nào trí sáng cùng ngu tranh biện?
Vô minh mê lầm, tuệ tỏ nên an
Trí đạt đạo quả, si thì mờ mịt
Hành đạo như vậy, hãy nên nhẫn nhục
Ngu đắm tranh loạn, trí dứt hý luận
Từ đấy dứt trừ các nghiệp xấu ác
Tu tập tinh tấn đúng nẻo giác ngộ
Thể hiện hạnh xả, không cầu lợi dưỡng
Luôn nên dốc tu theo pháp Tam-muội
Mỗi mỗi nhớ nghĩ đạo đức chư Phật
Vô số ức kiếp hành nhẫn vượt khó
Công đức của Phật chẳng thể nghĩ bàn
Dù gặp mọi khổ, kiên trì nẻo đạo
Nhẫn là áo giáp thực hành định ý
Dựng cờ tinh tấn vui mừng giới luật
Trí tuệ là thuốc sức chẳng ai hơn
Các ma đã trừ, quả cam lồ hiện
Đồ đệ đạo Từ, lớp lớp phụng hành
Tu pháp Độ vô cực không chốn hủy hoại
Nẻo hành thênh thang, vô vi vui sống
Tụ tập, tạo tác, dốc vun trí đức
Do vậy trí nên lìa xa phóng dật
Mới rõ đường tu tuân phụng lời dạy
Như tiếng nhạn kêu tan cả mây mù
Đạt được Phổ Trí ngọn nguồn thông tỏ.
-oOo-
Bấy giờ, Đức Phật lại bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Về thời quá khứ xa xưa, có Đức Phật hiệu là Như Lai Vô Lượng Tinh Tấn, là Bậc Chánh Đẳng Chánh Giác Vô Thượng đầy đủ các tôn hiệu Minh Hạnh Thành Vi, Thiện Tuệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Đạo Pháp Ngự, Thiên Nhân Sư, Phật Hiệu Thế Tôn, đã vì hàng trăm ngàn ức các đệ tử cùng các chúng trời, rồng, quỷ thần… mà thuyết giảng về pháp Định ý ấy.
Lúc này, có một vị quốc vương tên là Đức Hoa, được nghe Phật thuyết giảng về ý nghĩa của pháp Định ý đó, nên đã nói với tám vạn bốn ngàn các vị hậu phi, thể nữ cùng một ngàn người con:
Pháp Định ý ấy thật vô cùng sâu xa khó có thể nhận rõ, diệu nghĩa mà nó nhằm hướng đến thật mênh mông, vời vợi, rất khó tiếp cận, mà nếu tiếp cận được cũng không thể thông tỏ một cách trọn vẹn. Tuy khó có thể thực hành nhưng cũng mong cầu có được hiểu biết đúng đắn. Chỉ thệ nguyện, tâm tư, hành động đều nên dồn vào việc khuyến trợ pháp định ấy. Bởi vì những điều Phật diễn giảng là hết sức thích hợp đem lại niềm vui sướng vô hạn. Hết thảy mọi người đều nên dốc tâm cùng khuyến trợ pháp Định ý kia. Những điều Đức Thế Tôn giảng dạy ấy thật vô cùng tốt đẹp. Do sự khuyến trợ ấy nên luôn vượt qua được mọi hoạn nạn trong tám mươi kiếp sinh tử. Ngay ở nơi gia đình cũng đạt được pháp Tổng trì, tên là Sự Nghiệp. Đã không còn vướng ở nẻo nghi ngờ do dự mà thảy đều hết lòng tin tưởng đúng như lời Phật chỉ dạy. Từ gốc công đức được vun đắp ấy nên luôn được gặp gỡ hàng ba ức triệu chư Phật, Thế Tôn, đều cùng với chư Phật đạt được pháp Tam-muội ấy, không bị đọa vào ba đường ác với những nẻo khổ đau, phiền não mãi vây bủa, cũng không gặp phải tám nạn với các ách luôn đè nặng trói buộc. Nhân đấy, mọi tạo tác, hành hóa đã thành tựu, chứng đắc quả vị Tối chánh giác của đạo Giác ngộ vô thượng, độ thoát chúng sinh trong mười phương không loài nào là không được đội ân cứu giúp, tế độ.
Này Bồ-tát Hỷ Vương! Bồ-tát có ý nghĩ như thế nào? Vị vua tên là Đức Hoa ấy phải chăng là một người xa lạ? Chớ nên nghĩ như vậy. Vì sao? Vì vị vua ấy hiện tại chính là Đức Như Lai Vô Lượng Quang, còn một ngàn người con của nhà vua chính là một ngàn vị Phật ứng hiện trong Hiền kiếp. Chỉ dốc tâm khuyến trợ pháp Định ấy mà có được thần túc, oai đức lồng lộng như thế, huống chi là còn nhất tâm đọc tụng, phụng hành, thực hiện, gìn giữ đúng theo chánh pháp đã nêu dạy.
Đức Phật lại bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Về thời quá khứ xa xưa, trong vô số kiếp về trước, bấy giờ có Đức Phật hiệu là Lạc Vô Lượng Thí, cùng với chúng quyến thuộc là mười ức triệu vây quanh và Đức Phật vì họ mà thuyết pháp. Ánh hào quang màu vàng óng tỏa chiếu rực rỡ nơi chỗ Phật đang giảng nói. Từ chỗ sáng chói đó, ánh hào quang hòa nhập với mùi hương xích chiên-đàn cùng các loại hương thù diệu khác quyện tỏa xông khắp mười phương. Do chính bản thân Đức Phật luôn tinh tấn siêng năng trong sự tu tập, luôn thương xót nhớ nghĩ đến hết thảy chúng sinh, phụng hành đạo pháp thanh tịnh, trong sáng nên mới đạt được phước báo về công đức như vậy.
Thời ấy có vị Chuyển luân vương tên là Trạch Minh, từ việc so sánh các hình tượng trên mà biết được oai đức của Phật, nên đã dốc tâm cúng dường đầy đủ, phụng hành bình đẳng Bậc Chánh Giác cùng hết thảy các vị trong Thánh chúng, nơi mỗi mỗi tinh xá đều khiến người chu cấp. Nhà vua cũng cùng nghe về pháp Tam-muội Định ý ấy, nhân đấy mà mọi hành động của nhà vua đều có ảnh hưởng đến khắp mọi nơi chốn trong cõi, hết thảy chánh pháp do Phật nêu bày, giảng dạy cũng được nhà vua nhất tâm tham vấn, thọ nhận các yếu nghĩa. Có vị thị giả của Đức Phật tên là Vô Tổn Trí, là bậc nghe rộng nhớ nhiều chưa hề bỏ quên các điều Phật dạy, luôn thích nghi với hoàn cảnh nhưng không trái với những chuẩn mực của chánh pháp.
Lúc ấy, Đức Phật nói với vị thị giả: “Chư Phật đều lý giải thông tỏ về pháp Tam-muội Định ý ấy. Như ta vốn tu tập được pháp Tam-muội đó trong hoàn cảnh là phải lìa khỏi những ràng buộc của gia đình, nhờ đấy mới có thể lãnh hội thông suốt diệu nghĩa sâu xa của nó.”
Vị Chuyển luân vương được nghe những lời dạy thân thiết của Đức Phật như thế bèn tâm niệm: “Ở nơi đất nước uế trược làm sao tìm được thanh tịnh, chỉ có thể lìa khỏi đất nước, ngôi báu, sự nghiệp, cạo bỏ râu tóc, mặc lấy chiếc ca-sa làm vị Sa-môn, rời đục theo trong thì mới có thể ứng hợp với lời Phật dạy.”
Tức thì nhà vua thực hiện ý định của mình: Bỏ đất nước, lìa ngôi báu, không chút tham tiếc đối với bốn phương bờ cõi, lại cạo sạch râu tóc, mặc pháp phục là chiếc ca-sa làm vị Sa-môn, cùng với một ngàn người con, tám vạn vị đại thần, tám vạn bốn ngàn các hậu phi thể nữ, thảy đều theo nhà vua xuất gia và cùng làm Sa-môn, tất cả đều đi đến nơi Đức Phật, cung kính đảnh lễ dưới chân, quỳ gối chắp tay thưa hỏi về pháp Tam-muội Định ấy.
Bấy giờ, Đức Phật đã rõ căn tánh của họ đến độ thuần thục, nên đem pháp Tam-muội ấy, đầy đủ trong bảy ngày giảng dạy một cách tường tận. Tất cả các vị Sa-môn kia đều dốc tâm lãnh hội và lần lượt cùng bày tỏ, đây là pháp Tam-muội, không dễ gì được gặp được nghe, vậy chúng con xin đem hết lòng thành để biên chép ra, vừa giữ gìn đọc tụng, học hỏi, lại vì người khác mà nêu giảng.
Được Đức Phật chấp thuận, họ đã biên chép pháp Tam-muội ấy và dốc tâm cúng dường, phụng trì, mỗi người giữ lấy một quyển để có thể đọc tụng.
Sau khi mạng chung, các vị ấy thảy đều cùng được gặp đến sáu mươi ức triệu chư Phật đều là Bậc Chánh Giác, mỗi người đều ở chỗ chư Phật để được nghe giảng về pháp Tam-muội thâm diệu ấy. Do từ gốc công đức đó mà hết thảy các vị Sa-môn kia đều thành Phật, đúng như bản nguyện chân chánh của mình đối với chánh pháp.
Đức Phật nói:
–Này Bồ-tát Hỷ Vương! Hẳn Bồ-tát muốn biết vị Chuyển luân thánh vương thời ấy có ý nguyện rộng khắp đó là ai, chính là Đức Như Lai Định Quang. Còn vị thị giả của Đức Phật thời ấy tên là Tỳ-kheo Vô Tổn Trí, chính là Đức Phật Duy-vệ. Về một ngàn người con của nhà vua thì đó chính là một ngàn vị Phật đã lần lượt ứng hợp trong Hiền kiếp, vì có sáu mươi lăm kiếp sẽ bị dứt đoạn, không có Phật ra đời, sau đấy có một kiếp hiệu là Đại danh xưng, một ngàn vị kia trong kiếp đó đều cùng đắc quả vị Tối chánh giác. Còn tám vạn vị đại thần của bậc Chuyển luân thánh vương thời ấy, ở trong kiếp Đại danh xưng thảy đều dốc tâm học đạo, qua hết kiếp ấy thì có một khoảng thời gian bị dứt hẳn, lại trong tám mươi kiếp đều không có Phật ra đời, sau đấy có một kiếp tên là Dụ tinh tú, bấy giờ tám vạn vị đại thần kia, ở trong kiếp này đều thành Bậc Tối Chánh Giác. Hết kiếp Tinh tú thì có một thời gian dài bị dứt hẳn vì lại có đến ba trăm kiếp cũng không có Phật xuất hiện ở đời, sau đấy có kiếp tên là Trọng thanh tịnh và số lượng tám vạn bốn ngàn các vị hậu phi, thể nữ của bậc Chuyển luân thánh vương thời trước, ở trong kiếp này đều cùng đạt quả vị Tối chánh giác, mỗi vị đều có danh hiệu riêng.
Đức Phật nói tiếp:
–Này Bồ-tát Hỷ Vương! Pháp Tam-muội Định ấy đã đem đến những phước báo thật vời vợi vô bờ bến, vì thế hôm nay Như Lai hết lời giao phó dặn dò đối với hết thảy các vị Bồ-tát: “Nếu có những vị Bồ-tát tu tập và thể hiện tính nhân hòa, tâm dứt mọi vướng bận ràng buộc, không tham luyến thân mạng mình, thì nên chuyên nhớ nghĩ mong đạt được pháp Tam-muội định ấy.
Nếu có những vị Bồ-tát dốc tâm tu tập để chóng đạt đến quả vị Tối chánh giác của đạo Bồ-đề vô thượng, thì nên siêng năng tinh tấn học hỏi pháp Tam-muội Định ý này, lãnh hội, kính giữ, đọc tụng, nhất tâm phụng hành, lại vì người khác mà giảng giải rộng về diệu nghĩa.”
Đức Phật bèn đọc tụng:
Mong cầu diệu nghĩa đạo
Đạt quả vị Phật-đà
Nên tinh cần tu học
Thiên Trung Thiên tôn quý
Về các nẻo học khác
Chẳng đưa đến giác ngộ
Chỉ nên lập chánh trụ
Tu tập đúng nẻo đạo
Như tin, vui đức ấy
Nơi chốn sinh chẳng đổi
Nẻo thệ nguyện như thế
Được phước báo thích hợp
Do vậy đem tâm hòa
Không mang ý dua nịnh
Chuyên tinh đường tu tập
Đúng theo lời chỉ dạy.
Lời Phật ngợi khen điểm thù thắng
Như muốn tiếp cận mọi uy thần
Cùng nêu rộng lời giáo pháp dạy
Nên tu tập đúng nẻo người trước
Như cùng khuyến trợ đầy đủ đức
Hay lại chấp trì cùng đọc tụng
Chúng sinh tư duy còn khó đạt
Huống chi nghe, lãnh hội phụng hành
Như phân biệt giảng, nhằm giáo hóa
Thể hiện cõi rực rỡ của đạo
Dốc đạt tướng tốt cùng pháp Phật
Thời nên đạt pháp Tam-muội ấy
Tiêu trừ bao tội cùng diệt ma
Dứt sạch mọi kiến chấp, tham, ái
An lạc, thanh tịnh nơi cõi Phật
Theo pháp định ấy tất chóng đạt
Liền được giải thoát, đủ ánh sáng
Thu tóm nắm giữ mọi tạo tác
Sở nguyện thành tựu đạt Chánh giác
Trụ pháp định ấy, báo ứng hợp
Phật luôn ngợi khen nên chỉ dạy.
Các ông như chẳng theo pháp ấy
Về thời vị lai chớ mang giận
Rằng ta đánh mất Nhất thiết trí
Nay chỗ khen ngợi pháp vô cực
Nếu có mộ tìm dấu đạo sáng
Như gặp, khó hành đúng diệu nghĩa
Dựa chấp nơi thân nên mịt mờ
Vị lai đời mạt, làm kẻ trái
Tiêu diệt các pháp, đọa nẻo ác
Các bậc Đại trí thảy nên lo
Luôn lìa bụi bặm, dứt phóng dật.
Đức Phật lại bảo Bồ-tát Hỷ Vương:
–Như có các vị Bồ-tát, trong hàng ngàn kiếp phụng hành sáu pháp Độ vô cực, nhưng bỏ hết các phương tiện quyền xảo, chẳng bằng trong một lúc được nghe pháp Tam-muội chánh định ấy mà dốc tâm khuyến trợ. Từ thời xa xưa đến nay, chỗ tạo lập các phước đức thường lấy kinh điển làm điểm cao cho sự so sánh để nương theo đó mà vun trồng công đức, đối với pháp Tam-muội ấy thì sự so sánh còn gấp trăm ngàn lần vạn lần, hơn ức vạn lần nữa, không thể dùng gì để ví dụ được.
Vì sao như thế? Là vì kinh ấy hàm chứa những điều vô cùng quan trọng, chư Phật quá khứ, hiện tại và vị lai đều từ nơi ấy phát sinh và thành tựu. Các Đức Như Lai như Đại Mục A-di-đà, Đại Mục A-súc, một ngàn vị của Hiền kiếp, ba đời không hạn lượng đều từ pháp định ấy tu tập đạt quả vị Phật-đà. Giống như hư không hàm chứa thọ nhận hết thảy hàng vạn chủng loại hiện có trong mười phương, ba cõi, hữu hình hay vô hình, pháp định ấy cũng như thế. Cõi mênh mông của đạo Chánh giác Vô thượng bao hàm mọi nẻo tu tập giác ngộ, từ đấy khai thị, giáo hóa muôn loài hội nhập vào pháp thân thường trụ.
Lúc Đức Phật giảng nói kinh này, các vị Bồ-tát không thể tính kể đã lãnh hội một cách thấu đáo và đều được đứng vững nơi địa Không thoái chuyển. Vô số người thảy cũng phát tâm Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, các chúng hội trong mười phương đều cùng được đội ân, những tám mươi ức chư Thiên, chúng nhân đều xa lìa mọi thứ phiền não cấu uế, phát sinh pháp nhãn. Chư Thiên cùng chúng nhân được nghe Phật thuyết giảng ấy, tâm thiện phát khởi, tâm đạo sáng tỏ, nên đã tung rải hoa khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, phủ lên thân tướng Phật. Trong tam thiên thế giới cũng hiện ra đủ sáu cách chấn động. Chư Thiên trụ nơi hư không hòa tấu hàng trăm ngàn thứ kỹ nhạc, đem lại sự an vui thích thú cho Phật và các vị trong đại chúng, Bồ-tát Hỷ Vương cùng với ba mươi ức vị khác thảy đều trong một lúc đạt được pháp Tammuội ấy.
Bấy giờ, Thiên Đế Thích liền đến trước Phật, thưa:
–Sung sướng thay pháp giáo hóa với ý nghĩa vô cùng thâm diệu không gì có thể sánh được! Từ xưa tới nay chưa từng được nghe thấy những diệu nghĩa chân chánh như vậy. Các pháp Độ vô cực mỗi mỗi loại được nêu bày đầy đủ, rõ ràng, từng phẩm từng phẩm được tuyên giảng không gì là không thông suốt tường tận, trong ngoài, trên dưới, các mặt nổi chìm của giáo pháp đều được mở ra, chỉ rõ. Ba độc, năm ấm với mười hai nẻo dẫn dắt, bốn đại, sáu trần với bao nẻo che lấp mê mờ, đều nên gấp dứt trừ. Đã nêu bày chỉ dẫn về bốn tâm vô lượng, bốn ân, sáu pháp Độ vô cực, ba cánh cửa giải thoát là Không, Vô tướng, Vô nguyện, tâm đại
Từ, đại Bi với việc khéo dùng các phương tiện để diễn đạt giảng giải rộng khắp đạo pháp, giáo hóa muôn loài nhằm tiêu trừ tám vạn bốn ngàn thứ phiền não trói buộc chúng sinh, lại cũng kịp thời diệt trừ bốn thứ ma, khiến chúng quy phục. Nẻo đạo giác ngộ cũng như thuốc hay chữa trị lành bệnh của chúng sinh nơi ba cõi, dùng thuyền của ba đức thông đạt mà chở, độ các loài trong mười phương. Chư Phật ba đời quá khứ, hiện tại, vị lai đều từ sự tu tập pháp Tam-muội ấy mà thành tựu. Ca ngợi tán thán vô số chư Phật thời quá khứ là điểm khởi đầu để các bậc tu học từ đây trở đi phát tâm Bồ-đề, vun đắp các hạnh giác ngộ chân chánh để tự chứng đắc quả vị Phật-đà. Đức Thế Tôn đã nêu bày về quá trình tu tập của một ngàn vị Phật, từ lúc phát tâm cho đến khi thành Bậc Tối Chánh Giác, cùng với các chi tiết về đất nước, cha mẹ, các con, thị giả gần gũi, các bậc đứng đầu trong chúng đệ tử, nẻo đường tu học cũng như dạy bảo đệ tử…
Chúng tôi được nghe hết những điều ấy như ở chốn tối tăm mà bỗng được nhìn thấy ánh sáng. Nếu có người tu học, lãnh hội và thực hành những diệu nghĩa cốt yếu của kinh Hiền Kiếp Tam-muội này thì chúng tôi cùng với đám thuộc hạ sẽ thân hành đến tận nơi để hộ trì, sẽ khiến cho tâm an ý định, luôn minh mẫn, chúng tôi sẽ thường có mặt bên cạnh để bảo vệ, giữ gìn, khiến chúng tà ma quỷ dữ tự nhiên tiêu trừ, nhờ vậy mà các vị tu học sẽ dốc tâm ý, thêm tinh tấn, có được sự an ổn lâu dài.
Đức Phật nói:
–Lành thay, Thiên đế Thích! Như Lai nay thật hết sức hoan hỷ! Như muốn khuyến trợ, bảo vệ đạo giác ngộ vô thượng, cũng là chốn phát sinh và thành tựu của chư Phật ba đời, thì không ngoài việc khuyến trợ việc khéo sử dụng các phương tiện để tu tập sáu pháp Độ vô cực và ba mươi bảy thứ trợ đạo, vì nếu bỏ các pháp ấy đi thì hết thảy các pháp khác sẽ không thể đạt được. Những người tu học các pháp ấy sẽ vượt qua mọi nẻo sinh tử, mau thành tựu quả vị Chánh giác.
Bấy giờ, Tứ Thiên vương liền đến trước Phật, thưa:
–Kính thưa Thế Tôn! Chúng tôi sẽ xin lìa bỏ các thú vui an nhiên trên cõi trời, để đích thân đến các nơi chốn tu tập của các vị Pháp sư mà dốc tâm hộ trì. Trong khoảng một trăm do-tuần bao quanh nơi tu tập ấy, khiến luôn được an ổn, thanh tịnh, cũng như luôn hộ trì các vị Pháp sư trong việc truyền bá chánh pháp rộng khắp để hóa độ muôn loài, làm cho đạo pháp của Bậc Đại Thánh mãi mãi trường tồn. Chúng tôi cũng dốc tâm hộ trì khiến cho quá trình tu tập của một ngàn vị Phật trong Hiền kiếp được lưu hành khắp mười phương. Để cho các bậc tu học ở đời sau này hâm mộ lãnh hội cùng theo đó mà tu tập thành tựu, khiến cho pháp Tam-muội ấy luôn được tiếp nối phát huy, Tam bảo được hưng thịnh và tất cả chúng sinh đều được đội ân tế độ.
-oOo-
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Hiền giả A-nan:
–Hiền giả cũng như các vị trong chúng hội phải dốc tâm thọ nhận bản kinh nói về nơi xuất phát và thành tựu của chư Phật xưa nay. Thân mạng người khó được, kinh điển, đạo pháp khó gặp, được gặp Phật ra đời lại là việc khó hơn nữa! Vì sao biết đó là điều khó?
Như một ngàn vị Phật đã trải qua sáu mươi lăm kiếp ở đời không có Phật, trong khoảng thời lâu như thế hoàn toàn vắng bóng Phật! Qua hết kiếp Đại xưng, trong tám mươi kiếp tiếp theo cũng lại không có Phật xuất hiện! Hết kiếp Tinh tú, trải qua ba trăm kiếp nữa, giáo pháp thâm diệu hầu như vắng bặt vì Phật cũng không ứng hiện ở đời, cho tới kiếp Tịnh quang thì mới có Phật độ sinh. Vì vậy nên biết Phật ở đời là điều khó gặp và chúng sinh nơi thế gian thật là đáng thương! Vì chúng sinh luôn lao vào chốn tối tăm mờ mịt không biết đến đạo pháp giải thoát, mãi bị cuốn theo dòng sinh tử luân chuyển không bến bờ! Như ở cõi địa ngục phải bị thiêu đốt, nung nướng với bao nỗi thống khổ độc hại, không thể tính biết là bao nhiêu năm tháng khổ não độc hại, không thể tính biết là bao nhiêu năm tháng bị đọa đày. Hay ở chốn ngạ quỷ bị đói khát khốn khổ cùng cực, sống chết chẳng biết, thống khổ triền miên, không thể tính kể về thời hạn phải chịu, làm sao biết được lúc nào thoát khỏi! Hoặc nơi loài súc sinh, cầm thú, cùng sát hại ăn thịt lẫn nhau, nhận lấy bao sự độc hại ấy liên tục trong bao nhiêu kiếp. Từ cõi tăm tối đi vào chốn tối tăm, từ cảnh khổ này nối tiếp cõi khổ khác. Ra khỏi cảnh địa ngục lại vào chốn ngạ quỷ, rời bỏ nơi ngạ quỷ lại vào loài súc sinh với bao thứ sâu bọ côn trùng, như các loài trùn nơi đất, nơi phân nhơ, nơi cỏ rác, lúa rau… Thật vô số không thể nào nói hết được, chịu những nỗi thống khổ không lời nào diễn tả xiết, hết sức đáng thương!
Phật xuất hiện ở thế gian đều vì các loài chúng sinh ấy. Đã dùng lời giảng dạy, đã khai mở chỉ dẫn nhưng chẳng chịu tin tưởng thọ nhận, lại phóng tâm theo nẻo buông lung không biết gìn giữ như kẻ mù lao vào chỗ tối tăm, như người điên cuồng tự dìm mình chìm trong nước, như kẻ mê cứ ào tới hang sâu không thấy những tai nạn đang chờ mình. Phật đem tâm đại Bi nêu bày rõ về đạo giác ngộ lớn lao, giảng dạy đầy đủ về các pháp Độ vô cực gồm đến tám vạn bốn ngàn nẻo, dùng vô lượng các pháp để hóa độ chúng sinh, dứt trừ mọi khổ hoạn của bao phiền não trói buộc tới những tám vạn bốn ngàn loại, dứt trừ các nạn của bốn thứ ma, thảy đều được hàng phục. Lại không chấp vào sự phân biệt tôi, ta, từ đấy khiến phát tâm Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, tu tập theo các pháp Bồ-tát, cứu giúp bao nỗi khổ về sinh tử, không còn bị đọa vào ba đường ác, tự độ mình cùng độ kẻ khác, dứt sạch mọi hoạn nạn trong ba cõi. Nhưng về sau này, vào đời vị lai, các bậc tu học trong bốn chúng, nghe giảng về các pháp tu của Bồ-tát, thông tỏ và tỏ ra thích thú hết mực, nhưng lại không đọc tụng, tâm chỉ ôm giữ những điều chấp trước, vui thích với lối nói năng câu lời lan man lộn xộn, không chú vào sự tìm hiểu lãnh hội những ý nghĩa thâm diệu của các pháp, không hay nẻo giác ngộ sâu xa, an nhiên, vô tận. Lại dấy những chỗ bắt chước hoặc tập nhiễm cho đó là hơn hết, có nghe nói tới đạo giác ngộ lớn lao thì cho mình không đủ sức để lãnh hội! Muốn có được những hiểu biết dễ dãi để nói về chuyện tội phước, toàn là dựa dẫm để khoa trương, cậy vào các tập tục về Thần tiên hoặc các thứ sách vở của thế gian bàn đủ chuyện tạp nhạp, cho đấy là điều cao xa để cùng học hỏi, tự bày tỏ sự hớn hở tột độ như là niềm vui mừng chưa hề có! Nhờ có những công phước từ trước nên được nghe giảng các pháp thâm diệu, nhưng lại hiểu theo nghĩa phản lại, đó chính là một sự phản bội nặng nề mà không thể biết! Thêm vào chuyện ngủ nghỉ li bì, hoặc nằm mà không thèm nghe giảng, chánh pháp suy đốn, đến nỗi bị diệt đều do những nguyên nhân như thế.
Đức Phật nói tiếp:
–Ta nhớ lại về thời quá khứ trải qua vô số kiếp về trước, đã từng tỏ ra thích thú với lối hiểu biết diễn tả câu lời lan man cạn cợt mà vọng tưởng là có sự am tường vững chắc, đối với sáu pháp Độ vô cực không thể tự đạt, nói chi tới việc lãnh hội rốt ráo đạo giác ngộ lớn lao. Đến khi được gặp Đức Phật Định Quang thì mới tỉnh ngộ, lìa bỏ mọi thứ vọng tưởng, tâm dứt hết các mối vướng mắc, mới đạt đến pháp nhẫn Vô sở tùng sinh, nhờ đấy mà được Đức Phật Định Quang dẫn dắt và thọ ký, rõ ba đời là không, tu tập các pháp vô ngại. Kịp đến hôm nay, ở cõi đời đầy năm thứ vẩn đục này, nhiều nghịch ít thuận, tội lỗi thật không tính kể xiết, nhưng chính ở cõi đời sau này mà ta thị hiện thân Phật, để nhằm hóa độ hết thảy mọi nẻo ô trược khiến cho chúng sinh đi về với đạo pháp, cứu giúp các nạn trong khắp ba cõi khiến thảy được hoàn toàn an lạc.
Đức Phật bảo Hiền giả A-nan:
–Hiền giả phải gắng thọ nhận con đường tu tập của chư Phật quá khứ, hiện tại cũng như vị lai, tức là các pháp Độ vô cực gồm tám ngàn bốn trăm pháp biến làm tám vạn bốn ngàn pháp, cùng với quá trình tu tập của một ngàn vị Phật trong Hiền kiếp, gồm có các nẻo hành hóa ở đời trước, từ lúc bắt đầu phát tâm cho tới khi đạt quả vị Phật-đà, cả về đất nước, thọ mạng, cha mẹ, vợ con, hàng đệ tử xuất sắc, số lượng chúng sinh được hóa độ… cần chú ý về nẻo giáo hóa, cũng giống như người trồng cây gieo hạt giống vào đất, không thể nhìn thấy hạt giống ấy, cả mình cùng người ngoài, nhưng mầm từ hạt giống sẽ dần dần sinh trưởng, nhân đó mà trở thành đại thọ vô cùng cao lớn, um tùm, che phủ cả một vùng đất, với cành lá hoa quả, đem lại lợi ích cho dân chúng xa gần khắp chốn. Bồ-tát hành hóa cũng như vậy. Từ lúc bắt đầu phát tâm Bồ-đề trở đi, tức là bắt đầu ít phước, rồi tích lũy công đức, cho đến khi đủ năng lực tu tập các pháp Độ vô cực rộng lớn, tự chứng đắc quả vị Tối chánh giác nhằm độ thoát hết thảy các loài.
Này Hiền giả A-nan! Hiền giả cũng như các vị trong chúng hội đây phải gắng thọ trì, đọc tụng, lại vì người khác mà thuyết giảng đối với kinh này, vì đó là con đường cần được phụng hành của các vị Bồ-tát ở các đời sau. Nếu như ở trong một ngàn kiếp thực hành sáu pháp Độ vô cực khỏi phải sử dụng các phương tiện quyền xảo thật không bằng được nghe và lãnh hội các điểm cốt yếu của kinh điển này, phước đức nhiều hơn trường hợp trên. Huống chi lại còn dốc tâm thọ trì, đọc tụng, tuyên giảng chỉ rõ cho bốn chúng để cùng học hỏi, tu tập và thành tâm phụng hành thì phước đức thật không thể ví dụ hết.
Lại phải ân cần biên chép ra sách vở, chớ để thất thoát dù là một chữ. Vì sao? Vì đấy là nơi chốn phát sinh và thành tựu của chư Phật trong ba đời, nên cần tuyên giảng chỉ rõ để cùng tu học và lưu hành rộng rãi khắp mười phương, khiến cho hết thảy chúng sinh đều được đội ân đạo Từ bi, đó chính là báo ân Phật.
Hiền giả A-nan thưa với Đức Phật:
–Kính thưa Thế Tôn! Chúng con xin dốc tâm nhận lấy việc dùng ngôn ngữ để tuyên giảng, chỉ rõ khắp hết thảy mọi nơi chốn, vậy kinh này tên gọi là gì và làm thế nào để phụng trì?
Đức Phật bảo Hiền giả A-nan:
–Kinh này tên là Hiền Kiếp Tam-muội Thiên Phật Bản Mạt Quyết Chư Pháp Bản Tam-muội Chánh Định (Pháp Tam-muội trong Hiền kiếp, nói về quá trình tu tập của một ngàn vị Phật, xác định rõ về các pháp căn bản của pháp Tam-muội - Chánh định). Nên theo ý nghĩa ấy mà phụng hành nhằm tuyên giảng nêu bày khắp mười phương vô tận.
Đức Phật giảng nói xong kinh này xong, Bồ-tát Hỷ Vương cùng các vị Khai sĩ, các vị hàng Thanh văn, Thiên, Long, Quỷ, Thần, A-tu-la, Người… được nghe Phật thuyết giảng thảy đều hoan hỷ cung kính đảnh lễ và lui ra.
-oOo-
“Kinh Hiền Kiếp, vào ngày 21 tháng 7, niên hiệu Vĩnh Khang nguyên niên (Đời Tấn Tuệ Đế, năm 300 TL) Pháp sư Trúc Pháp Hộ người nước Nguyệt Chi, từng theo học vị Sa-môn người nước Kế Tân, được kinh Hiền Kiếp Tam-muội này, tay cầm kinh, miệng tuyên giảng. Bấy giờ, một số thân hữu của Pháp sư từ Lạc Ký đến mới bàn chuyện ghi chép kinh, người được giao việc chấp bút là Triệu Văn Long.
Xin nguyện cho công đức này với chút phước được lưu hành trong mười phương khiến khắp nơi đều được đội ân, lìa mọi tội lỗi che chắn. Yếu chỉ của kinh này là lần lượt được biết về một ngàn vị Phật, cung kính, đảnh lễ bậc đem đạo độ đời, nhân lấy sự quyết định của Bồ-tát, đạt đến pháp Nhẫn vô sinh, cho tới hết thảy các pháp trong mười phương cũng vậy.”
[Mục lục bộ Kinh tập][426][427][428][429][430][431][432][433][434][435][436][437][438][439][440][441][442][443][444][445][446][447][448][449][450][451][452][453][454][455][456][457][458][459][460][461][462][463][464][465][466][467][468][469][470][471][472][473][474][475][476][477][478][479][480][481][482][483][484][485][486][487][488][489][490][491][492A][492B][493][494][495][496][497][498][499][500][501][502][503][504][505][506][507][508][509][510][511][512][513][514][515][516][517][518][519][520][521][522][523][524][525][526][527][528][529][530][531][532][533][534][535][536][537][538][539][540][541][542][543][544][545][546][547][548][549][550][551][552][553][554][555][556][557][558][559][560][561][562][563][564][565][566][567][568][569][570][571][572][573][574][575][603][604][605][606][607][608][609][610][611][612][613][614][615][616][617][618][619][620][621][622][623][624][625][626][627][628][629][630][631][632][633][634][635][636][637][638][639][639][640][641][642][643][644][645][646][647][648][649][650][651][652][653][654][655][656][657][658][659][660][661][662][663][664][665][666][667][668][669][670][671][672][673][674][675][676][677][678][679][680][681][682][683][684][685][686][687][688][718][719][720][721][721][722][723][724][725][726][727][728][729][730][731][732][733][734][735][736][737][738][739][740][741][742][743][744][745][746][747A][747B][748][749][750][751][752][753][754][755][756][757][758][759][760][761][762][763][764][765][766][767][768][769][770][771][772][773][774][775][776][777][778][779][780][781][782][783][784][785][786][787][788][789][790][791][792][793][794A][794B][795][796][797A][797B][798][799][800][801][802][803][804][805][806][807][808][809][810][811][812][813][814][815][816][817][818][819][820][821][822][823][824][825][826][827][828][829][830][831][832][833][834][835][836][837][838][839][840][841][842][843][844][845][846][847]