TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH
BỘ KINH TẬP (425-847)

SỐ 671-KINH NHẬP LĂNG-GIÀ

Hán dịch: Đời Nguyên Ngụy, Tam tạng Pháp sư Bồ-đềlưu-chi, người Thiên Trúc.

MỤC LỤC

QUYỂN 1

Phẩm 1: THỈNH PHẬT

Phẩm 2: VẤN ĐÁP

QUYỂN 2

Phẩm 3: TẬP HỢP TẤT CẢ PHÁP PHẬT (Phần 1)

QUYỂN 3

Phẩm 3: TẬP HỢP TẤT CẢ PHÁP PHẬT (Phần 2)

QUYỂN 4

Phẩm 3: TẬP HỢP TẤT CẢ PHÁP PHẬT (Phần 3)

QUYỂN 5

Phẩm 4: PHẬT TÂM

QUYỂN 6

Phẩm 5: Lô-CA-DA-ĐÀ

Phẩm 6: NIẾT-BÀN

Phẩm 7: PHÁP THÂN

QUYỂN 7

Phẩm 8: VÔ THƯỜNG

Phẩm 9: NHẬP ĐẠO

Phẩm 10: THƯA HỎI ĐỨC NHƯ LAI LÀ THƯỜNG HAY VÔ THƯỜNG

Phẩm 11: PHẬT TÁNH

Phẩm 12: NĂM PHÁP MÔN

Phẩm 13: HẰNG HÀ SA

QUYỂN 8

Phẩm 14: SÁT-NA

Phẩm 15: HÓA

Phẩm 16: NGĂN ĂN THỊT

Phẩm 17: ĐÀ-LA-NI

QUYỂN 9

Phẩm 18: TỔNG TRÌ (Phần 1)

QUYỂN 10

Phẩm 18: TỔNG TRÌ (Phần 2)


QUYỂN 1

Phẩm 1: THỈNH PHẬT

Quy mạng Đại Trí Hải Tỳ-lô-giá-na Phật!

Tôi nghe như vầy:

Một thuở Đức Thế Tôn cư ngụ trong thành Lăng-già trên đỉnh núi Ma-la-gia bên bờ biển lớn, núi đó được tạo thành bằng đủ loại vật báu, các báu xen lẫn, ánh sáng rực rỡ như trăm ngàn mặt trời soi sáng núi vàng. Lại có vô lượng vườn hoa, cây thơm đều là rừng hương báu, gió nhẹ thổi qua, lay cành rung lá, làm trăm ngàn hương thơm cùng lúc lan tỏa, trăm ngàn âm thanh cực hay đồng thời phát ra. Núi cao trùng trùng điệp điệp, nơi nơi đều có tiên đường, linh thất, khám thờ, hang động do vô số vật báu tạo thành, trong ngoài sáng rực, làm ánh sáng mặt trời, mặt trăng đều phải mờ nhạt. Nơi đây chính là chỗ xưa các Tiên, Thánh hiền tư duy pháp như thật và đắc đạo. Đức Phật đã cùng với chúng đại Tỳ-kheo tăng và chúng Đại Bồ-tát đều từ các cõi Phật ở phương khác đến tập hội nơi đây. Các vị Bồ-tát này đầy đủ vô lượng lực tự tại Tam-muội thần thông, du hóa tinh tấn, năm pháp tự tánh, hai thứ vô ngã rốt ráo thông đạt, do Đại Bồ-tát Đại Tuệ làm thượng thủ. Tất cả chư Phật đều dùng tay làm pháp quán đảnh và thọ ký ngôi vị Phật cho chư vị ấy tự tâm là cảnh, giỏi hiểu ý nghĩa ấy, đủ loại chúng sinh, đủ thứ tâm sắc, tùy theo đủ loại tâm, đủ loại niệm khác nhau, dùng vô lượng pháp môn độ thoát nên tùy chỗ đáng độ, tùy việc ứng thấy mà vì họ thị hiện khắp nơi.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói pháp ở cung vua rồng trong biển lớn đã mãn bảy ngày, rồi đi đến bờ Nam. Khi ấy, có vô lượng ức Đế Thích, Phạm vương, Thiên vương, các vua rồng… vô biên đại chúng đều cùng nhau hướng về bờ biển phía Nam. Lúc ấy, Đức Thế Tôn từ xa quan sát thành Lănggià trên núi Ma-la-gia, tôn nhan thư thái như lay động núi vàng, vui vẻ mỉm cười rồi nói:

–Chư Phật Ứng Chánh Biến Tri đời quá khứ ở trong thành Lăng-già trên đỉnh núi Ma-la-gia kia, nói lên pháp Tự nội thân thánh trí chứng, lìa khỏi tất cả tà kiến giác quán, chẳng phải cảnh giới tu hành của các ngoại đạo, Thanh văn, Bích-chiphật… Ta cũng nên ở trong thành Lăng-già trên núi Ma-la-gia kia mà vì vua Dạ-xoa La-bà-na thượng thủ nói lên pháp này.

Bấy giờ, vua Dạ-xoa La-bà-na nhờ thần lực của Đức Phật nên nghe tiếng của Đức Như Lai. Sau khi rời khỏi cung vua rồng biển qua khỏi biển lớn Đức Phật cùng với vô lượng ức Phạm vương, Đế Thích, Thiên vương, các Long vương… vây quanh cung kính. Bấy giờ, Đức Như Lai quan sát sóng biển cả A-lê-gia thức của chúng sinh bị các cảnh giới gió mạnh thổi động nên làn sóng chuyển thức theo duyên mà khởi. Bấy giờ, vua Dạ-xoa La-bà-na tự nghĩ: “Ta nên thỉnh Đức Như Lai vào thành Lănggià để khiến cho ta mãi mãi ở trong trời, người, cùng với những trời, người được lợi ích lớn, mau được an lạc.” Bấy giờ, vua Dạ-xoa La-bà-na, chủ của thành Lăng-già cùng với các quyến thuộc cưỡi cung điện hoa đi đến chỗ Đức Như Lai. Rồi ông cùng các quyến thuộc từ cung điện xuống, nhiễu quanh Đức Phật ba vòng, dùng đủ loại âm nhạc để cúng dường Đức Như Lai. Những nhạc khí họ mang theo đều làm bằng báu Nhân-đà-la xanh lớn và khảm xen vào các thứ báu khác như đại tỳ lưu ly, mã não…, bao bọc nhạc cụ bằng lớp áo màu sắc vô giá. Họ dùng tiếng Phạm và vô lượng những âm thanh khác ca tụng khen ngợi tất cả công đức của Đức Như Lai rồi nói kệ:

Tâm đủ ở Pháp tạng
Lìa vô ngã, kiến chấp
Thế Tôn nói các hạnh
Nội tâm biết pháp rồi
Pháp thiện được thân Phật
Nội thân pháp chứng được
Hóa thân bày hóa thân
Đúng lúc vào Lăng-già
Nay đây thành Lăng-già
Vô lượng Phật quá khứ
Và các hàng Phật tử
Vô lượng thân thọ dụng
Thế Tôn nếu nói pháp
Thì vô lượng Dạ-xoa
Hiện bày vô lượng thân
Muốn nghe tiếng thuyết pháp.

Bấy giờ, vua thành Lăng-già La-bà-na dùng đủ loại âm thanh vi diệu Đô-đà-ca để ca tụng khen ngợi những công đức của Đức Như Lai rồi, lại dùng diệu thanh kệ tụng ca ngợi Đức Như Lai:

Như Lai ở bảy ngày
Trong biển lớn ác thú
Qua biển đến bờ kia
Ra khỏi rồi liền trụ
Đức vua La-bà-na
Cùng vợ con Dạ-xoa
Và quyến thuộc vô kể
Các đại thần đại trí
Thúc-ca-bà-la-na
Những Thiên chúng như vậy
Tất cả đều hiện ra
Những thần thông vô lượng
Cưỡi cung điện hoa quý
Đi đến chỗ Đức Phật.
Đến rồi, xuống điện hoa
Lễ bái cúng dường Phật
Nương nơi oai lực Phật
Liền ở trước Như Lai
Tự nói lên danh tự:
Con, La-sát mười đầu
Nguyện xin thương xót con
Những chúng sinh thành này
Nhận thành Lăng-già này
Núi báu Ma-la-gia
Vô lượng Phật quá khứ
Ở trong thành Lăng-già
Trên núi đủ loại báu
Tự nói Pháp thân chứng
Như Lai cũng vậy nên
Ở trong núi báu này
Đồng chư Phật quá khứ
Cũng nói pháp như vậy
Nguyện cùng các Phật tử
Nói pháp thanh tịnh này
Con và chúng Lăng-già
Đều rất muốn được nghe
Nhập Lăng-già kinh điển
Phật quá khứ tán thán:
Cảnh giới trí nội thân
Lìa lời nói, tên gọi
Con nghĩ đời quá khứ
Vô lượng Đức Như Lai
Hàng Phật tử vây quanh
Giảng nói kinh điển này
Ngày hôm nay Đức Phật
Cũng nên vì chúng con
Và tất cả những chúng
Nói pháp sâu xa này
Các Thế Tôn vị lai
Và các hàng Phật tử
Ở trên núi báu này
Giảng sâu xa pháp này
Nay tại Lăng-già thành
Hơn cung trời vi diệu
Đất, đá không làm tường
Những lưới báu che phủ
Những Dạ-xoa này từng
Ở chỗ Phật quá khứ
Lìa các lỗi, tu hành
Trụ Đại thừa rốt ráo
Khéo tư duy nội tâm
Như thật nghĩ tương ứng
Nguyện Phật rủ lòng thương
Vì các Dạ-xoa nói,
Nguyện Phật, Thầy trời, người
Vào núi Ma-la-gia
Dạ-xoa và thê tử
Muốn được Đại thừa tôn
Những La-sát tai vò
Cũng đã trụ trong thành
Từng cúng dường quá khứ
Vô lượng ức Thế Tôn
Nay lại muốn dâng cúng
Hiện tại Đại Pháp vương
Muốn nghe hạnh nội tâm
Muốn được Đại thừa tôn.
Nguyện Phật thương xót con
Và những chúng Dạ-xoa
Cùng các hàng Phật tử
Vào thành Lăng-già này
Những cung điện của con:
Thê tử và quyến thuộc
Mũ báu, các chuỗi ngọc
Đủ vật dụng trang nghiêm
Vườn rừng A-thư-ca
Đủ thứ đều ưa thích
Và những cung điện hoa
Dâng lên Phật, đại chúng!
Con ở chỗ Thế Tôn
Không vật gì chẳng xả
Nguyện Đại Mâu-ni Tôn
Thương xót con thọ nhận
Các Phật tử và con
Nhận lời pháp của Phật
Nguyện Phật rủ lòng thương
Vì con, nhận giảng nói
Bấy giờ Tam Giới Tôn
Nghe lời Dạ-xoa thỉnh
Vì Dạ-xoa giảng nói
Phật quá khứ, vị lai
Dạ-xoa! Quá khứ Phật
Ở trong núi báu này
Thương xót Dạ-xoa nên
Nói Nội Thân Chứng Pháp
Các Thế Tôn vị lai
Cũng ở núi báu này
Vì các chúng Dạ-xoa
Cũng nói pháp mầu này
Dạ-xoa! Ở núi báu
Người tu hành như thật
Người tu pháp hiện tại
Mới an trụ nơi này
Dạ-xoa! Nay bảo ông
Ta và các Phật tử
Do thương xót các ông
Nhận cúng dường, thỉnh giảng
Như Lai lược đáp xong
Tịch tĩnh yên lặng ngồi
La-sát La-bà-na
Dâng Phật cung điện hoa
Như Lai và Phật tử
Nhận rồi và lên ngự
Dạ-xoa La-bà-na
Tự ngồi cung điện hoa
Lệnh các thể nữ, nhạc
Tấu đưa Phật đến thành
Đã đến thành diệu đó
Dạ-xoa La-bà-na
Và vợ Dạ-xoa ấy
Cùng con trai con gái…
Mang đồ cúng tốt đẹp
Đủ loại đều vi diệu
Cúng dường Đấng Như Lai
Và các chúng Phật tử
Chư Phật cùng Bồ-tát
Đều nhận cúng dường đó
Các chúng La-bà-na
Cúng dường người nói pháp
Quan sát lời nói pháp
Chứng cảnh giới nội thân
Cúng dường Đại Tuệ sĩ
Lâu sau mà thỉnh rằng:
Đại sĩ! Ngài hỏi Phật
Tu cảnh giới nội thân
Con cùng chúng Dạ-xoa
Và các hàng Phật tử
Tất cả những thính giả
Đều thỉnh Ngài thưa hỏi
Đại sĩ nói pháp thắng
Tu hành cũng tối thắng
Con tôn trọng Đại sĩ
Thỉnh hỏi Phật thắng hành!
Lìa các chấp ngoại đạo
Nhị thừa cũng rời khỏi
Nói nội pháp thanh tịnh
Như Lai địa cứu cánh!
Bấy giờ, lực Thế Tôn
Lại hóa làm thành, núi
Tướng cao ngất trăm ngàn
Nghiêm sức núi Tu-di
Vô lượng ức vườn hoa
Đều là những rừng báu
Mùi hương tỏa lan tràn
Thơm nức, chưa từng nghe
Trong mỗi một núi báu
Đều thị hiện thân Phật
Cũng có Dạ-xoa vương
La-bà-na và chúng
Đất nước Phật mười phương
Cùng với những thân Phật
Phật tử, Dạ-xoa vương
Đến tập hợp núi đó
Những chúng hiện có đây
Ở trong thành Lăng-già
Đều thấy được thân mình
Trong hóa thành Lăng-già
Như Lai hiện thần lực
Cũng đồng Lăng-già đó
Các núi và vườn rừng
Báu trang nghiêm cũng vậy.
Phật trong mỗi núi báu
Đều có Đại Tuệ hỏi
Như Lai đều nói lên
Sự chứng pháp nội thân
Phát trăm ngàn tiếng hay
Kinh pháp này nói xong
Phật và các Phật tử
Tất cả đều biến mất.
Dạ-xoa La-ba-na
Bỗng nhiên thấy tự thân
Ở tại cung điện cũ
Chẳng thấy còn vật khác
Mới khởi lên suy nghĩ:
Cái nhìn thấy ai làm
Ai là người nói pháp
Là những ai lắng nghe
Pháp gì ta đã thấy
Có những việc như vậy
Đất nước các Thế Tôn
Và những thân Phật đó
Việc vi diệu như thế
Nay đã đi về đâu
Là điều nhớ trong mộng
Hay việc làm của huyễn
Hay thành ấp chân thật
Hay thành Càn-thát-bà
Hay bị che, thấy dối
Hay là bóng nắng khởi
Là mơ thạch nữ sinh
Là ta thấy vầng lửa
Hay thấy khói hỏa luân
Ta thấy cái gì vậy?
Lại tự mình suy nghĩ
Thể các pháp như vậy
Cảnh giới chỉ tự tâm
Nội tâm hay chứng biết
Mà các hạng phàm phu
Bị vô minh che lấp
Tâm hư vọng phân biệt
Mà không thể biết thông.
Năng kiến và sở kiến
Tất cả chẳng vẹn toàn
Người nói và điều nói
Như vậy… cũng là không.
Thể Phật pháp chân thật
Chẳng có cũng chẳng không
Pháp tướng hằng như vậy
Chỉ tự tâm phân biệt
Nay thấy vật là thật
Người đó chẳng thấy Phật!
Chẳng trụ tâm phân biệt
Cũng chẳng thể thấy Phật!
Chẳng thấy có các hành
Như vậy gọi là Phật!
Nếu thấy được như vậy
Thì người đó thấy Phật.
Bậc trí quán như trên
Tất cả các cảnh giới
Chuyển thân được diệu thân
Tức là Bồ-đề, Phật.

Bấy giờ, vua thành Lăng-già, La-sát mười đầu La-bà-na thấy lỗi của tâm phân biệt mà chẳng trụ ở trong tâm phân biệt, do lực căn lành đời quá khứ nên hiểu rõ như thật tánh chất các luận, có thể thấy như thật về thật tướng các pháp, chẳng theo lời dạy của kẻ khác, giỏi tự suy nghĩ hiểu rõ các pháp, có thể lìa khỏi tất cả sự nhận thức của tà kiến, có thể tu hành như thật hành pháp, ở trong tự thân có thể hiện tất cả đủ loại sắc tượng mà được cứu cánh, hiểu rõ đại phương tiện, biết rõ tướng mạo tự thể trên tất cả các địa thượng, ưa quan sát tự thể của tâm ý và thức thấy thân tương tục ở ba cõi, đoạn lìa thường kiến của các ngoại đạo, nhờ trí như thật biết rõ Như Lai tạng, giỏi trụ ở thật trí nội tâm của Phật địa, nghe trong hư không và trong tự thân phát ra âm thanh vi diệu như vầy: “Hay thay! Hay thay! Này vua Lăng-già! Những người tu hành đều nên tu học như ngươi!”

Lại nói: “Hay thay! Này vua Lăng-già! Pháp Như Lai chư Phật và phi pháp như ông đã thấy, nếu chẳng đúng như điều thấy của ông thì gọi là Đoạn kiến. Này vua Lăng-già! Ông nên lìa khỏi tâm, ý, thức, mà tu hành như thật các pháp thật tướng. Ông nay cần phải tu hành nội pháp, chớ chấp trước tướng tà kiến nghĩa ngoại đạo. Này Lăng-già Vương, ông chớ tu hành theo cảnh giới tu hành của Thanh văn, Duyên giác, các ngoại đạo… Ông chẳng nên trụ ở các Tam-muội khác của tất cả ngoại đạo. Ông chẳng nên ưa thích đủ thứ hý luận của tất cả ngoại đạo. Ông chẳng nên trụ ở Vi-đà-tà kiến của tất cả ngoại đạo. Ông chẳng nên đắm trước trong lực tự tại buông lung của ngôi vua. Ông chẳng nên đắm trước trong lực tự tại thần thông của thiền định. Này vua Lăng-già! Những việc như trên đây đều là thật hạnh của người tu hành như thật, có thể hàng phục tà luận của tất cả ngoại đạo, có thể phá tất cả tà kiến hư vọng, có thể chuyển lỗi ngã kiến của tất cả kiến, có thể chuyển tất cả hạnh của thức vi tế mà tu hạnh Đại thừa. Này vua Lănggià! Ông nên nội thân Như Lai địa, tu hạnh như thật. Người tu hành như vậy được chuyển lên pháp Thượng thanh tịnh. Này vua Lăng-già! Ông chớ bỏ đạo sở chứng của ông, khéo tu Tam-muội Tamma-bạt-đề. Ông chớ đắm trước cảnh giới Tammuội của Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo mà lấy làm thắng lạc, như người tu hành theo đạo phàm phu, ngoại đạo. Ông chớ phân biệt. Này vua Lăng-già! Ngoại đạo chấp trước ngã kiến. Có ngã tướng nên hư vọng phân biệt. Ngoại đạo thấy có tướng bốn đại mà chấp trước sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cho là thật có. Thanh văn, Duyên giác thấy có vô minh duyên hành cho là thật có. Họ khởi lòng chấp trước, lìa khỏi “như thật không”, hư vọng phân biệt chuyên chấp trước “hữu pháp” mà rơi vào trong năng kiến, sở kiến. Này vua Lănggià! Pháp thắng đạo này có thể khiến cho nội thân chúng sinh giác quán, có thể khiến cho chúng sinh được thì Đại thừa thắng, có thể sinh ra ba cõi. Này vua Lăng-già! Hạnh nhập Đại thừa này có thể phá đủ thứ màn che, đủ thứ sóng thức của chúng sinh, chẳng rơi vào trong các kiến, hành của ngoại đạo. Này vua Lăng-già! Đây chính là hạnh của Đại thừa, chẳng phải hạnh vào ngoại đạo. Hạnh ngoại đạo thì nương vào “nội thân hữu ngã” mà thực hạnh thấy hai pháp sắc, thức cho là thật nên thấy có sinh diệt. Hay thay! Này vua Lăng-già! Tư duy nghĩa này đúng như tư duy của ông tức là thấy Phật.”

Bấy giờ, vua Lăng-già La-bà-na lại nghĩ: “Ta nên hỏi Đức Phật về pháp hành như thật để chuyển đến hành của tất cả các ngoại đạo, tu hành nội tâm, cảnh giới sở quán, lìa khỏi ứng thân Phật làm việc ứng hợp, lại có thắng pháp. Sở dĩ gọi người tu hành như thật là khi chứng được pháp thì đạt được niềm vui của Tam-muội cứu cánh. Nếu được niềm vui đó thì gọi là người tu hành như thật. Vậy nên, ta nên hỏi Đức Thế Tôn Như Lai đại Từ bi, Như Lai có thể đốt cháy hết củi phiền não và các Phật tử cũng có thể đốt cháy hết. Đức Như Lai có thể biết phiền não sai khiến tâm của tất cả chúng sinh. Đức Như Lai đến khắp chỗ Nhất thiết trí. Đức Như Lai có thể hiểu biết rõ như thật là tướng hay phi tướng. Ta nay nên dùng sức thần thông vi diệu để thấy được Đức Như Lai. Thấy Đức Như Lai rồi thì người chưa được, người đã được đều chẳng thoái lui, được Vô phân biệt Tam-muội Tam-ma-bạt-đề, được tăng trưởng đầy đủ hành xứ của Như Lai.”

Lúc ấy, Đức Thế Tôn như thật soi biết vua Lăng-già đã đến lúc ứng chứng Vô sinh pháp nhẫn, thương xót vua La-sát mười đầu nên làm cho cung điện đã ẩn mất hiện trở lại như cũ và hiện thân ở trong thành ở trên núi với vô số lưới báu trang nghiêm.

Bấy giờ, La-sát mười đầu, vua thành Lăng-già thấy các cung điện trở lại như cũ. Trong mỗi một núi, khắp nơi đều thấy có Đức Phật Thế Tôn Ứng Chánh Biến Tri với ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm thân, ở tại trong núi, ông tự thấy thân mình ở trước khắp các Đức Phật. Ông lại thấy tất cả cõi nước chư Phật và các quốc vương nghĩ về thân vô thường, do tham vương vị, vợ con, quyến thuộc, năm dục trói buộc nhau không có kỳ hạn giải thoát nên liền đem đất nước, cung điện, vợ con, voi ngựa, trân báu… dâng cúng Phật và Tăng rồi vào với núi rừng xuất gia học đạo. Ông lại thấy Phật tử ở trong rừng núi dũng mãnh tinh tấn gieo thân cho hổ đói, sư tử, La-sát để cầu Phật đạo. Ông lại thấy Phật tử ở dưới rừng cây đọc tụng Kinh điển, vì người diễn nói để cầu Phật đạo. Ông lại thấy Đức Bồ-tát nghĩ về chúng sinh khổ, ngồi dưới gốc cây Bồ-đề nơi Đạo Tràng tư duy Phật đạo. Ông lại thấy trước mỗi một Đức Phật đều có Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ nói về cảnh giới tu hành nội thân và cũng thấy tất cả quyến thuộc Dạ-xoa vây quanh mà nói danh tự chương cú.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng trí tuệ quan sát đại chúng hiện tại, chẳng phải dùng mắt thịt quan sát, như dáng chồm lên của sư tử chúa, nhìn khắp rồi cười lớn, nhục kế trên đỉnh phóng ra vô lượng ánh sáng, từ vai, hông, lưng, đùi, ngực, chỗ chữ 卐 đức và những lỗ chân lông đều phóng ra tất cả ánh sáng không lường như cái cầu vồng ở không trung, như ngàn ánh sáng mặt trời, như khi hết kiếp lửa mạnh bốc cháy bừng bừng… Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương… ở trong hư không, quan sát Đức Như Lai, thấy Đức Phật ngồi ở trên núi Tu-di đối diện với đỉnh núi Lăng-già và cười lớn. Bấy giờ, chúng Bồ-tát, Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương… suy nghĩ như vầy: “Vì nhân duyên gì Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri ở trong các pháp mà được tự tại, chưa từng cười lớn như vậy, lại tự thân phóng ra vô lượng ánh sáng, ngồi yên chuyên niệm cảnh giới trí tuệ nội thân chẳng cho là thù thắng, như sư tử nhìn xem vua Lăng-già niệm hạnh như thật?

Lúc ấy, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ trước đã nhận sự thỉnh cầu của vua Lăng-già La-bà-na, nghĩ đến vua Lăng-già, biết những pháp tâm hành của tất cả chúng Đại Bồ-tát, quan sát tất cả chúng sinh vị lai, lòng đều ưa danh tự nói pháp, lòng mê sinh ra nghi, theo đúng như lời nói mà chấp trước tất cả hành hóa của hàng Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo. Còn các Đức Phật Thế Tôn lìa khỏi những sự vận hành của tất cả tâm thức, có thể cười, cười lớn. Vì đại chúng kia đoạn dứt lòng nghi hoặc, Thánh giả hỏi Đức Phật:

–Đức Như Lai vì nhân gì, duyên gì, việc gì, mà cười lớn?

Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông có thể quan sát tâm của thế gian vọng tưởng, phân biệt, tà kiến, điên đảo. Ông thật có thể biết việc ba đời mà còn hỏi việc này. Như câu hỏi của ông thì câu hỏi của bậc Trí cũng lại như vậy, vì tự lợi và lợi tha. Này Đại Tuệ! Vua Lănggià này đã từng hỏi tất cả các Đức Phật Ứng Chánh Biến Tri đời quá khứ hai pháp như vậy, hiện tai lại cũng muốn hỏi ta hai pháp như vậy. Hai pháp này thì tất cả Thanh văn, Duyên giác, ngoại đạo chưa từng biết tướng của hai pháp này. Này Đại Tuệ! La-sát mười đầu này cũng hỏi tất cả chư Phật đời vị lai hai pháp như đây.

Bấy giờ, Đức Như Lai biết nên hỏi vua La-bàna:

–Này vua Lăng-già! Ông có điều nghi ngờ gì thì nay đều có thể hỏi. Ta đều có thể đáp để dứt trừ lòng nghi ngờ của ông, khiến cho ông được hoan hỷ. Này vua Lăng-già! Ông đoạn trừ tâm phân biệt hư vọng, được Địa đối trị phương tiện quan sát, trí tuệ như thật có thể vào Tam-muội Nội thân như thật tướng, ưa tu hành Tam-muội thì Như Lai liền nhiếp lấy thân của ông, khéo an trụ trong cảnh giới an lạc của định, qua khỏi sự cấu bẩn nơi Tam-muội bất tịnh của các Thanh văn, Duyên giác thì có thể trụ ở địa Bất động, địa Thiện tuệ, địa Pháp vân… biết rõ như thật về pháp vô ngã, ngồi lên vương tòa Đại bảo liên hoa, được vô lượng Tam-muội mà nhận của vị Phật.

Này vua Lăng-già! Chẳng bao lâu nữa, ông sẽ tự thấy thân mình cũng ngồi trên vương tòa Liên hoa như vậy, giữ gìn pháp như vậy, vô lượng quyến thuộc của hoa sen chúa vô lượng quyến thuộc của Bồ-tát, tất cả đều ngồi tòa hoa sen chúa mà tự vây quanh ngắm nhìn nhau, chẳng bao lâu tất cả đều được an trụ ở cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn đó. Như là khởi một hạnh phương tiện trụ trong các Địa, có thể thấy chẳng thể nghĩ bàn cảnh giới, thấy vô lượng, vô biên đủ loại pháp tướng của địa Như Lai mà tất cả Thanh văn, Duyên giác, Tứ Thiên vương, Đế Thích, Phạm vương… chưa từng thấy.

Lúc ấy, vua Lăng-già nghe Đức Phật Thế Tôn nói. Sau khi nghe và hỏi rồi, ở trên núi được trang nghiêm bằng mọi thứ báu, hoa sen báu lớn với vô lượng ánh sáng thanh tịnh đó, có vô lượng thiên nữ tự vây quanh, rồi hiện ra vô lượng vô số hoa lạ, đủ loại hương lạ, hương tung rải, hương bôi xoa, cờ, phướn báu, mũ báu, chuỗi ngọc, đồ trang sức thân. Lại hiện ra đủ loại đồ trang nghiêm thù thắng vi diệu mà thế gian chưa từng nghe thấy. Lại hiện ra vô lượng đủ loại nhạc cụ hơn cả nhạc cụ của các trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… Lại biến hóa ra nhạc cụ giống như trong ba cõi, cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc. Lại biến hóa ra đủ loại nhạc cụ thù thắng vi diệu như ở cõi nước chư Phật khắp mười phương lại hóa làm vô lượng màn lưới báu lớn che khắp ở bên trên tất cả chư Phật, đại chúng Bồ-tát. Lại dựng vô lượng vô số cờ báu. Vua La-bà-na làm những việc biến hóa như vậy rồi, thân bay lên hư không, cao bảy cây Đa-la, rồi trụ trong hư không mưa xuống đủ loại kỹ nhạc, mưa xuống đủ loại hoa, mưa xuống đủ loại hương, mưa xuống đủ loại y phục… đầy trong hư không như trời tuông mưa lớn dùng để cúng dường Đức Phật và Phật tử. Mưa cúng dường xong, ông ấy từ trên xuống, đến giữa hư không, liền ngồi ở trên tòa Đệ nhị điển quang minh trang nghiêm bằng hoa sen báu chúa và vô số núi báu.

Bấy giờ, Đức Như Lai thấy ông ấy ngồi liền mỉm cười, nghe vua Lăng-già hỏi hai pháp. Vua Lăng-già bạch:

–Bạch Thế Tôn! Hai pháp này con đã từng nghe ở các Đức Phật Ứng Chánh Biến Tri đời quá khứ, các Đức Phật Thế Tôn đó đã vì con mà giảng nói. Bạch Thế Tôn! Con hiện tại nương vào danh tự chương cú thưa hỏi Đức Như Lai, kính mong Đức Như Lai giảng nói rõ ràng cho con.

Bạch Thế Tôn! Hóa Phật ứng hóa giảng nói, hai pháp này chẳng phải căn bản Như Lai. Bạch Thế Tôn! Căn bản Như Lai tu tập cảnh giới Tam-muội an lạc thì chẳng nói những cảnh giới ngoài tâm thức. Hay thay! Bạch Thế Tôn! Tự thân Như Lai đối với tất cả pháp mà được tự tại. Nguyện xin Đức Thế Tôn Ứng Chánh Biến Tri nói hai pháp này. Tất cả Phật tử và bản thân con cũng nguyện muốn nghe.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn biến nên liền bảo vua Lăng-già:

–Này vua Lăng-già! Ông hỏi hai pháp này chăng?

Bấy giờ, vua Dạ-xoa thay đổi đủ loại vật dụng trang sức bằng vàng như đội mũ vàng, đeo chuỗi ngọc vàng… rồi bạch:

–Đức Như Lai thường nói, pháp còn nên xả bỏ, huống gì là phi pháp? Bạch Thế Tôn! Sao gọi là hai pháp xả? Bạch Thế Tôn! Những gì là pháp? Những gì là phi pháp? Bạch Thế Tôn! Pháp xả làm sao có hai? Do rơi vào trong tướng phân biệt nên hư vọng phân biệt là pháp có, không, không Đại, có Đại. Bạch Thế Tôn! Thức A-lê-gia biết danh thức tướng. Thể tướng vốn có của nó như trong hư không có vầng lông trụ, là cảnh giới mà trí thanh tịnh biết được. Bạch Thế Tôn! Nếu pháp như vậy thì làm sao mà xả?

Đức Phật bảo vua Lăng-già:

–Này vua Lăng-già! Ông chẳng thấy cái bình… là pháp vô thường, biến hoại. Phàm phu ngu si phân biệt tướng sai biệt của cảnh giới này. Này vua Lăng-già! Vì sao không thủ chấp tướng sai biệt của pháp và phi pháp như vậy? Nương theo tâm phân biệt của phàm phu ngu si thì có, chớ chẳng phải trí chứng Thánh cho là có thể thấy. Này vua Lăng-già! Như việc đặt cái bình… đủ thứ tướng thì tâm phàm phu ngu si gọi là có, chẳng phải gọi Thánh nhân cho là có pháp. Này vua Lăng-già! Ví như có một ngọn lửa đốt cháy cung điện, vườn rừng, cỏ cây mà nhìn thấy đủ loại màu sắc ánh sáng của lửa mỗi một đều sai biệt. Nương vào đủ thứ củi, cỏ, cây dài hay ngắn mà phân biệt thì thấy có tướng hơn, thua. Trong này vì sao chẳng biết có tướng sai biệt của pháp và phi pháp như vậy? Này vua Lăng-già! Chẳng phải chỉ ngọn lửa nương vào trong một thân nối tiếp nhau mà thấy có đủ những loại tướng sai biệt. Này vua Lăng-già! Như một hạt giống là một sự nối nhau sinh ra mầm, thân, cành, lá, hoa, trái, cây rừng… đủ các tướng khác nhau. Như vậy, sự sinh ra các pháp trong, ngoài như vô minh và hành, ấm, giới, nhập… tất cả các pháp, mọi vật sinh ra trong ba cõi đều có sai biệt, như hiện ra niềm vui, hình tướng, ngôn ngữ, đi lại, thắng trí, dị tướng… cảnh giới một tướng mà chấp lấy tướng cũng thấy tướng thù thắng, thượng, trung, hạ, tướng nhiễm, tịnh, thiện, bất thiện. Này vua Lăng-già! Chẳng phải chỉ trong đủ loại pháp thấy tướng sai biệt, mà người giác ngộ đạo như thật, trong tu hành nội chứng cũng có thấy đủ các tướng sai khác, huống gì là pháp, phi pháp mà không phân biệt đủ loại tướng sai biệt? Này vua Lăng-già! Có đủ thứ tướng sai biệt của pháp và phi pháp!

Này vua Lăng-già! Thế nào là pháp? Đó là sự thấy phân biệt của tất cả ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác, phàm phu ngu si. Từ nhân và vật thật mà lấy làm căn bản để sinh ra đủ thứ pháp. Những pháp như vậy… nên xả, nên lìa, chớ thủ chấp tướng mà sinh ra phân biệt. Thấy pháp tự tâm liền cho là thật. Này vua Lăng-già! Không có pháp thật về cái bình mà phàm phu ngu si hư vọng phân biệt. Pháp vốn không có tướng quán sát, biết như thật thì gọi là xả các pháp.

Này vua Lăng-già! Những gì là phi pháp? Cái gọi là không có thân tướng, chỉ tự tâm diệt vọng tưởng phân biệt mà những phàm phu thấy thật pháp chẳng phải thật pháp, Bồ-tát thấy như thật.

Như vậy là xả bỏ phi pháp. Lại nữa, này vua Lănggià! Cái gì là phi pháp nữa? Cái gọi là sừng thỏ, sừng ngựa, sừng lừa, sừng lạc đà, thạch nữ không thân, không tướng mà phàm phu ngu si chấp là có, vì nghĩa của thế gian nên nói đến danh tự, chẳng phải chấp tướng như cái bình kia… là pháp có thể xả. Người trí chẳng chấp sự phân biệt hư vọng như vậy, sừng thỏ… pháp danh tự cũng có thể xả bỏ. Đó là xả bỏ pháp và phi pháp. Này vua Lăng-già! Ông nay hỏi ta về pháp và phi pháp làm sao xả bỏ, ta đã nói xong.

Này vua Lăng-già! Ông nói rằng: “Con đã hỏi pháp này nơi các đấng Ứng Chánh Biến Tri đời quá khứ, những Đức Như Lai đó đã vì con nói.” Này vua Lăng-già! Ông nói quá khứ thì tức là tướng phân biệt. Phân biệt vị lai, hiện tại cũng vậy. Này vua Lăng-già! Ta nói Chân như pháp thể là như thật cũng là phân biệt. Như phân biệt sắc là thật tế, vì chứng thật trí nên ưa tu hành trí tuệ vô tướng. Vậy nên, chớ phân biệt Như Lai là thân trí, thể trí. Trong tâm chớ phân biệt, trong ý chớ thủ chấp ngã, nhân, thọ mạng… sao chẳng phân biệt? Trong ý thức, chấp giữ đủ thứ cảnh giới như sắc, hình tướng… như vậy chớ thủ chấp, chớ phân biệt cái có thể phân biệt.

Lại nữa, này vua Lăng-già! Ví như vẽ lên vách đủ thứ hình tướng, tất cả chúng sinh cũng lại như vậy. Này vua Lăng-già! Tất cả chúng sinh giống như cỏ cây không nghiệp, không hành. Này vua Lăng-già! Tất cả pháp, phi pháp không nghe, không nói. Này vua Lăng-già! Tất cả pháp thế gian đều như huyễn mà các ngoại đạo, phàm phu chẳng biết. Này vua Lăng-già! Nếu có thể thấy như vậy, thấy như thật thì gọi là chánh kiến. Nếu thấy khác thì gọi là tà kiến. Nếu phân biệt thì gọi là nắm giữ cả hai. Này vua Lăng-già! Ví như hình tượng trong gương tự thấy hình tượng. Ví như bóng dáng trong nước tự thấy bóng dáng. Như bóng ánh sáng đèn, trăng ở trong nhà tự thấy bóng dáng. Như tiếng vang trong không tự phát ra tiếng rồi thủ chấp cho là tiếng… Nếu như vậy chấp giữ pháp cùng phi pháp đều là vọng tưởng hư vọng phân biệt. Vậy nên chẳng biết pháp và phi pháp, tăng thêm hư vọng, chẳng được tịch diệt. Tịch diệt thì gọi là nhất tâm, nhất tâm thì gọi là Như Lai tạng, thể nhập cảnh giới trí tuệ nội thân, đạt được Tam-muội Vô sinh pháp nhẫn.

Phẩm 2: VẤN ĐÁP

Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ cùng tất cả những Bồ-tát có trí tuệ rộng lớn đều ở nơi tất cả cõi nước chư Phật, nương thần lực Đức Phật nên đứng dậy sửa lại y phục, chắp tay cung kính, dùng kệ khen Đức Phật:

Phật tuệ quán đại Bi
Lìa sinh diệt thế gian
Giống như hoa hư không
Chẳng vướng mắc có, không.
Phật tuệ quán đại Bi
Tất cả pháp như huyễn
Lìa xa tâm, ý, thức
Chẳng chấp giữ có, không
Phật tuệ quán đại Bi
Giống như mộng thế gian
Xa lìa khỏi thường, đoạn
Chẳng vướng mắc có, không.
Phật tuệ quán đại Bi
Chướng trí chướng phiền não
Cả hai vô ngã, tịnh
Chẳng chấp giữ có, không.
Phật chẳng vào bất diệt
Cũng chẳng trụ Niết-bàn
Lìa pháp, pháp sở giác
Lìa cả hai có, không
Nếu như vậy quán Phật
Tịch diệt lìa diệt, sinh
Người đó nay, đời sau
Thanh tịnh, không nhiễm, chấp.

Lúc ấy, Đại Bồ-tát Đại Tuệ theo đúng như pháp nói kệ khen Phật xong, rồi tự nói tên mình:

Con tên là Đại Tuệ
Nguyện đạt thông Đại thừa
Dùng trăm lẻ tám câu
Kính hỏi Vô Thượng Tôn.
Tối thắng thế gian giải
Nghe Đại Tuệ hỏi han
Quan sát các chúng sinh
Bảo các Phật tử rằng:
Các ông, những Phật tử
Và Đại Tuệ thưa hỏi:
Ta sẽ vì ông nói
Cảnh giới tự giác ngộ!

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ nghe Đức Phật cho phép hỏi, liền đảnh lễ dưới chân Phật, chắp tay cung kính, dùng kệ hỏi:

Làm sao tịnh các giác
Nhân đây mà có giác
Nhân đâu thấy mê hoặc
Nhân đâu có mê hoặc
Nhân đâu có đất nước
Các ngoại đạo biến hóa
Sao gọi là Phật tử
Tịch tĩnh và thứ lớp
Giải thoát đi về đâu
Ai trói? Nhân đâu thoát
Người thiền quán pháp nào
Nhân đâu có ba thừa
Do đâu pháp duyên sinh
Tác, sở tác nhân đâu
Nhân đâu nói khác nhau
Nhân đâu không mà hiện
Nhân đâu định Vô sắc
Và cùng định Diệt tận
Định tưởng diệt do đâu
Nhân đâu từ định xuất
Làm sao nhân quả sinh
Nhân đâu thân đi, đứng
Nhân đâu quán kiến chấp
Nhân đâu các Địa sinh
Những ai phá ba cõi
Thân nào? Đến chỗ nào
Trụ ở chỗ ra sao
Làm sao các Phật tử
Nhân đâu được thần thông
Và Tam-muội tự tại
Nhân đâu được tịnh tâm
Xin Phật vì con nói:
Là Tàng thức nhân đâu
Nhân đâu ý và thức
Do đâu thấy các pháp
Nhân đâu đoạn kiến chấp
Sao là tánh, phi tánh
Tâm không pháp ra sao
Nói pháp tướng nhân đâu
Sao gọi là vô ngã
Nhân đâu không chúng sinh
Nhân đâu có Thế đế
Nhân đâu chẳng thấy thường
Nhân đâu chẳng thấy đoạn
Làm sao Phật ngoại đạo
Hai tướng chẳng trái nhau
Nhân đâu đời vị lai
Đủ những loại bộ khác
Sao lại gọi là không
Nhân đâu niệm chẳng trụ
Nhân đâu có thai tàng
Nhân đâu niệm chẳng động
Làm sao như huyễn mộng
Nói như Càn-thát-bà
Loáng nắng trăng trong nước
Xin Phật vì con nói:
Sao nói là Giác chi
Sao là Bồ-tát phần
Nhân gì nước loạn động
Tạo hữu kiến nhân gì
Nhân đâu chẳng sinh diệt
Như không hoa nhân gì
Giác thế gian nhân gì
Nhân đâu nói chữ không
Không phân biệt ra sao
Như hư không nhân đâu
Chân như bao nhiêu loại
Tâm có bao nhiêu bờ
Nhân đâu Địa thứ lớp
Chân như không thứ lớp
Hai vô ngã nhân đâu
Nhân đâu cảnh giới tịnh
Trí, giới có bao nhiêu
Chúng sinh do đâu sinh
Ai làm tính các báu
Vàng, ngọc báu Ma-ni…
Ai sinh ra lời nói
Của đủ loại chúng sinh
Kỹ thuật, chỗ ngũ minh
Ai hay nói như vậy
Kệ có bao nhiêu loại
Sao là “trường đoản cú?”
Pháp lại có bao nhiêu
Bao nhiêu cách giải nghĩa
Giống thực phẩm nhân đâu
Nhân đâu sinh ái dục
Sao gọi vua Chuyển luân
Sao gọi là tiểu vương
Nhân đâu giữ đất nước
Bao nhiêu loại chư Thiên
Nhân đâu mà có đất
Và mặt trời, trăng, sao
Bao nhiêu loại giải thoát
Bao nhiêu người tu hành
Bao nhiêu hàng Phật tử
Bao nhiêu A-xà-lê
Bao nhiêu hạng Như Lai
Bản sinh bao nhiêu loại
Có bao nhiêu thứ ma
Ngoại đạo bao nhiêu loại
Tự tánh có bao nhiêu
Tâm có bao nhiêu loại
Thí giả danh là sao
Xin Phật vì con nói
Nhân đâu có gió mây
Nhân đâu có thông tuệ
Nhân đâu có rừng cây
Thế Tôn vì con nói!
Sao có voi, ngựa, nai
Vì sao người bắt lấy
Nhân đâu bị thấp hèn
Xin Phật vì con nói!
Nhân đâu có sáu thời
Nhân đâu thành Xiển-đề
Trai gái và chẳng trai
Vì con nói tính ấy!
Nhân gì tu hành thoái
Tu hành tiến vì sao
Dạy những người nào tu
Khiến trụ những pháp nào
Những chúng sinh qua lại
Nhân gì ở loài nào
Nhân đâu giàu của cải
Thế Tôn vì con nói!
Dòng họ Thích thế nào
Nhân đâu có họ Thích
Dòng Cam giá thế nào
Nhân đâu tiên trường thọ
Tiên trường thọ gần đâu
Làm sao giáo hóa họ
Thế Tôn như hư không
Vì con phân biệt nói!
Nhân đâu Phật Thế Tôn
Tất cả lúc xuất hiện
Vô số loại sắc, danh
Chúng Phật tử vây quanh
Nhân đâu chẳng ăn thịt
Sao chế cấm ăn thịt
Những chủng loại ăn thịt
Vì sao mà ăn thịt
Tướng mặt trời, mặt trăng
Tu-di và hoa sen
Sư tử là hơn hết
Xin Phật vì con nói!
Loạn lạc trùm thế giới
Như lưới Nhân-đà-la
Tất cả đất nước báu
Vì con nói: Nhân đâu
Như cầm sắt, không hầu
Trống, hình hoa đủ loại
Cõi lìa ánh nhật nguyệt
Vì con nói do đâu
Những gì Phật hóa thân
Những gì Phật báo thân
Những gì như trí Phật
Vì con nói: Nhân đâu
Làm sao ở Dục giới
Chẳng thành Đẳng chánh giác
Làm sao Sắc cứu cánh
Được đạo trong ly dục
Như Lai Bát-niết-bàn
Người nào trì chánh pháp
Thế Tôn trụ lâu bằng
Thời gian pháp trụ không
Phật lập bao nhiêu pháp
Chủng loại có bao nhiêu
Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo
Xin Phật vì con nói!
Nhân đâu trăm biến đổi
Trăm tịch tĩnh nhân đâu
Thanh văn, Bích-chi-phật
Thế Tôn nói vì con!
Nhân đâu thông thế gian
Nhân đâu thông xuất thế
Nhân đâu thất địa tâm
Thế Tôn vì con nói!
Tăng-già bao nhiêu loại
Nhân đâu là phá tăng
Sao y là phương luận
Xin Phật vì con nói.
Ca-diếp, Câu-lưu-tôn
Câu-na-hàm… là con!
Thường vì các đệ tử
Nói như vậy, vì sao
Vì sao nói nhân, ngã
Vì sao nói đoạn, thường
Vì sao chẳng chỉ nói
Chỉ có một tâm thôi
Nhân đâu rừng nữ nam
Ha-lê, A-ma-lặc
Kê-la và thiết vi
Cùng Kim cang… các núi
Thứ đến vô lượng núi
Đủ loại báu trang nghiêm
Tiên vui, người sung mãn
Xin Phật vì con nói!
Khi Đại thiên Phật nghe
Những câu kệ đó xong
Đại thừa nẻo giải thoát
Tâm chư Phật đệ nhất:
Hỏi hay thay! Hay thay!
Này Đại Tuệ! Nghe kỹ!
Ta nay theo lớp lang
Lời ông hỏi mà nói
Sinh cùng với chẳng sinh
Sát-na, Niết-bàn không
Đường đến không tự thể
Con Phật, Ba-la-mật
Thanh văn, Bích-chi-phật
Người ngoại đạo Vô sắc
Núi, biển và Tu-di
Bốn thiên hạ đất đai
Mặt trăng, mặt trời, sao
Ngoại đạo, trời, tu-la
Tự tại, không giải thoát
Tịch định, lực tư duy
Diệt và Như ý túc
Đạo phẩm và Giác chi
Vô lượng các thiền định
Năm ấm và đến đi
Bốn không định diệt tận
Phát khởi tâm nói lên!
Tâm, ý và ý thức
Pháp vô ngã có năm:
Tự tánh, tướng, sở tưởng
Hai năng kiến, sở kiến
Sao gọi vô số thừa
Tính vàng, ngọc ma-ni
Nhất-xiển-đề, bốn đại
Loạn động và nhất Phật
Cảnh giới trí dạy được
Chúng sinh có, không có
Voi, ngựa, các cầm thú
Làm sao mà bắt lấy
Ví như nhân tương ưng
Lực, nói pháp ra sao
Nhân đâu có nhân quả
Rừng mê hoặc như thật
Chỉ tâm không cảnh giới.
Các địa không thứ lớp
Trăm đổi thay, vô tướng
Luận y phương khéo léo
Chú thuật các minh xứ
Vì sao mà hỏi ta
Các núi, tu-di, đất
Hình thể nhỏ hoặc to
Biển cả, trời, trăng, sao
Vì sao mà hỏi ta
Chúng sinh thượng, trung, hạ
Thân bao nhiêu vi trần
Khuỷu tay đến mười dặm
Bốn mươi và hai mươi
Lông thỏ, bụi cửa sổ
Lông dê, bụi bột mì
Một thăng bao nhiêu bột
Nửa thăng bao nhiêu đầu
Một hộc và mười hộc
Trăm vạn và một ức
Tần-bà bao vi trần
Hạt cải bao nhiêu bụi
Bao cải thành hạt đỏ
Bao hạt cỏ thành đậu
Bao thù thành một lượng
Bao lượng thành một phân
Thứ lớp tính như vậy
Bao nhiêu thành Tu-di
Nay vì sao Phật tử
Chẳng hỏi ta như vầy:
Thanh văn và Duyên giác
Chư Phật và Phật tử
Thân bao nhiêu vi trần
Vì sao chẳng hỏi rằng:
Ngọn lửa bao nhiêu bụi
Gió có bao nhiêu vi trần
Bụi từng căn bao nhiêu
Chân lông, mi bao bụi
Nhân đâu làm Tự tại
Chuyển luân thánh Đế vương
Nhân đâu vua ủng hộ
Giải thoát rộng lược nói
Chúng sinh đủ thứ dục!
Làm sao mà hỏi ta
Nhân đâu các thực phẩm
Nhân đâu rừng trai gái
Núi Kim cang vững chắc
Ta phải nói thế nào
Nhân đâu như huyễn mộng
Khát ái ví nai hoang
Nhân đâu mây xuất hiện
Nhân đâu có sáu thời
Nhân đâu đủ thứ vị
Nam, nữ, phi nam nữ
Nhân đâu các trang nghiêm
Phật tử nhân đâu hỏi
Làm sao các núi báu
Tiên vui, người trang nghiêm
Giải thoát, chỗ nào đến
Ai trói, trói ra sao
Cảnh giới Thiền thế nào
Niết-bàn và ngoại đạo
Sao lại không nhân làm
Nhân đâu được thấy buộc
Nhân đâu tịnh các giác
Có các giác do đâu
Nhân đâu chuyển tạo tác
Vì hạnh nguyện hỏi ta
Nhân nào đoạn các tưởng
Tam-muội có nhân đâu
Ai phá bỏ ba cõi
Thân do đâu, ở đâu
Làm sao không nhân, ngã
Nương thế nói do đâu
Nhân đâu hỏi ngã tướng
Hỏi vô ngã thế nào
Sao gọi là thai tạng
Ông nhân đâu hỏi ta
Nhân đâu thường, đoạn kiến
Tâm được tịnh vì sao
Nhân đâu nói và trí
Giới tính, các Phật tử
Suy xét đệ tử, thầy
Đủ hạng các chúng sinh
Sao là tham ẩm thực
Thí, thông minh, hư không
Nhân đâu có cây rừng
Phật tử nhân đâu hỏi
Sao gọi đủ thứ cõi
Nhân đâu tiên sống lâu
Đủ loại thầy nhân đâu
Ông nhân đâu hỏi ta
Vì sao có xấu xí
Tu hành chẳng muốn thành
Sắc cứu cánh thành đạo
Làm sao mà hỏi ta
Nhân đâu hiểu thế gian
Nhân đâu là Tỳ-kheo
Là hóa, báo thân Phật
Nhân đâu mà hỏi ta
Sao gọi như trí Phật
Sao gọi là chúng Tăng
Không hầu, trống, hoa, cõi
Làm sao lìa ánh sáng
Sao gọi là Tâm địa
Phật tử mà hỏi ta
Đây và chúng sinh khác
Phật tử nên thưa hỏi
Mỗi một tướng tương ứng
Xa lìa lỗi kiến chấp
Lìa các pháp ngoại đạo.
Ta nói ông lắng nghe
Đây trăm lẻ tám kiến
Như lời chư Phật nói
Ta nay nói phần ít
Phật tử khéo lắng nghe.

Sinh kiến bất sinh kiến, thường kiến vô thường kiến, tướng kiến vô tướng kiến, trụ dị kiến phi trụ dị kiến, sát-na kiến phi sát-na kiến, ly tự tánh kiến phi ly tự tánh kiến, không kiến bất không kiến, đoạn kiến phi đoạn kiến, tâm kiến phi tâm kiến, biên kiến phi biên kiến, trung kiến phi trung kiến, biến kiến phi biến kiến, duyên kiến phi duyên kiến, nhân kiến phi nhân kiến, phiền não kiến phi phiền não kiến, ái kiến phi ái kiến, phương tiện kiến phi phương tiện kiến, xảo kiến phi xảo kiến, tịnh kiến phi tịnh kiến, tương ưng kiến phi tương ưng kiến, thí dụ kiến phi thí dụ kiến, đệ tử kiến phi đệ tử kiến, sư kiến phi sư kiến, tính kiến phi tính kiến, thừa kiến phi thừa kiến, tịch tĩnh kiến phi tịch tĩnh kiến, nguyện kiến phi nguyện kiến, tam luân kiến phi tam luân kiến, tướng kiến phi tướng kiến, hữu vô lập kiến phi hữu vô lập kiến, hữu nhị kiến vô nhị kiến, duyên nội thân Thánh kiến phi duyên nội thân Thánh kiến, hiện pháp lạc kiến phi hiện pháp lạc kiến, quốc thổ kiến phi quốc thổ kiến, vi trần kiến phi vi trần kiến, thủy kiến phi thủy kiến, cung kiến phi cung kiến, tứ đại kiến phi tứ đại kiến, số kiến phi số kiến, thông kiến phi thông kiến, hư vọng kiến phi hư vọng kiến, vân kiến phi vân kiến, công xảo kiến phi công xảo kiến, minh xứ kiến phi minh xứ kiến, phong kiến phi phong kiến, địa kiến phi địa kiến, tâm kiến phi tâm kiến, giả danh kiến phi giả danh kiến, tự tánh kiến phi tự tánh kiến, ấm kiến phi ấm kiến, chúng sinh kiến phi chúng sinh kiến, trí kiến phi trí kiến, Niết-bàn kiến phi Niếtbàn kiến, cảnh giới kiến phi cảnh giới kiến, ngoại đạo kiến phi ngoại đạo kiến, loạn kiến phi loạn kiến, huyễn kiến phi huyễn kiến, mộng kiến phi mộng kiến, dương việm kiến phi dương việm kiến, tượng kiến phi tượng kiến, luân kiến phi luân kiến, Kiền-thát-bà kiến phi Kiền-thát-bà kiến, thiên kiến phi thiên kiến, ẩm thực kiến phi ẩm thực kiến, dâm dục kiến phi dâm dục kiến, kiến kiến phi kiến kiến, Ba-la-mật kiến phi Ba-la-mật kiến, giới kiến phi giới kiến, nhật nguyệt tinh tú kiến phi nhật nguyệt tinh tú kiến, đế kiến phi đế kiến, quả kiến phi quả kiến, diệt kiến phi diệt kiến, khởi diệt tận định kiến phi khởi diệt tận định kiến, trị kiến phi trị kiến, tướng kiến phi tướng kiến, chi kiến phi chi kiến, xảo minh kiến phi xảo minh kiến, thiền kiến phi thiền kiến, mê kiến phi mê kiến, hiện kiến phi hiện kiến, hộ kiến phi hộ kiến, tộc tánh kiến phi tộc tánh kiến, tiên nhân kiến phi tiên nhân kiến, vương kiến phi vương kiến, bổ thủ kiến phi bổ thủ kiến, thật kiến phi thật kiến, ký kiến phi ký kiến, Nhất-xiểnđề kiến phi Nhất-xiển-đề kiến, nam nữ kiến phi nam nữ kiến, vị kiến phi vị kiến, tác kiến phi tác kiến, thân kiến phi thân kiến, giác kiến phi giác kiến, động kiến phi động kiến, căn kiến phi căn kiến, hữu vi kiến phi hữu vi kiến, nhân quả kiến phi nhân quả kiến, sắc cứu cánh kiến phi sắc cứu cánh kiến, thời kiến phi thời kiến, thọ lâm kiến phi thọ lâm kiến, chủng chủng kiến phi chủng chủng kiến, thuyết kiến phi thuyết kiến, Tỳ-kheo kiến phi Tỳ-kheo kiến, Tỳ-kheo-ni kiến phi Tỳ-kheo-ni kiến, trụ trì kiến phi trụ trì kiến, tự kiến phi tự kiến.

Này Đại Tuệ! Một trăm lẻ tám kiến này, chư Phật đời quá khứ đã nói. Ông và các Bồ-tát phải học như vậy.

QUYỂN 2

Phẩm 3: TẬP HỢP TẤT CẢ PHÁP PHẬT (Phần 1)

Lúc bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Các thức có bao nhiêu loại, sinh, trụ, diệt?

Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Các thức sinh, trụ, diệt chẳng phải do suy nghĩ mà có thể biết được.

Này Đại Tuệ! Các thức đều có hai loại sinh, trụ, diệt.

Này Đại Tuệ! Các thức có hai loại diệt, một là tướng diệt, hai là tương tục diệt.

Này Đại Tuệ! Các thức lại có hai loại trụ, một là tướng trụ, hai là tương tục trụ.

Này Đại Tuệ! Các thức lại có hai loại sinh, một là tướng sinh, hai là tương tục sinh.

Này Đại Tuệ! Thức có ba loại. Những gì là ba?

1. Chuyển tướng thức.

2. Nghiệp tướng thức.

3. Trí tướng thức.

Này Đại Tuệ! Có tám thức mà lược nói thì có hai. Những gì là hai?

1. Liễu biệt thức.

2. Phân biệt sự thức.

Này Đại Tuệ! Như thấy các sắc tượng trong gương sáng.

Này Đại Tuệ! Liễu biệt thức cũng như vậy, thấy đủ loại cảnh tượng.

Này Đại Tuệ! Liễu biệt thức, Phân biệt sự thức, hai thức đó không sai khác mà đắp đổi nhau làm nhân.

Này Đại Tuệ! Liễu biệt thức huân tập chẳng thể nghĩ bàn biến nhân.

Này Đại Tuệ! Phân biệt thức là phân biệt, chấp giữ cảnh giới, do từ vô thủy đến nay, huân tập phiền não.

Này Đại Tuệ! A-lại-gia thức hư vọng phân biệt, huân tập đủ loại mà diệt thì các căn cũng diệt.

Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng diệt.

Này Đại Tuệ! Tương tục diệt nghĩa là nhân nối tiếp nhau diệt tức là tương tục diệt. Nhân diệt, duyên diệt tức là tương tục diệt.

Này Đại Tuệ! Gọi là nương vào pháp, nương vào duyên, nói nương vào pháp nghĩa là sự huân tập vọng tưởng phiền não từ vô thủy; nói nương vào duyên nghĩa là tự tâm thức thấy cảnh giới phân biệt.

Này Đại Tuệ! Ví như cục bùn với bụi trần chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác. Vàng với vật dụng trang sức bằng vàng cũng lại như vậy, chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác.

Này Đại Tuệ! Nếu như loại bùn khác thì chẳng phải do bụi trần kia tạo thành mà thật do nó tạo thành. Vậy nên chẳng khác. Nếu chẳng khác thì bùn ấy và bụi trần lẽ ra không sai biệt.

Này Đại Tuệ! Như vậy Chuyển thức, A-lê-gia thức nếu tướng khác thì chẳng từ A-lê-gia thức sinh ra, nếu chẳng khác thì Chuyển thức. A-lê-gia thức lẽ ra cũng diệt mà tự tướng A-lê-gia thức chẳng diệt. Vậy nên, này Đại Tuệ! Tự tướng các thức diệt mà tự tướng diệt thì nghiệp tướng diệt. Nếu tự tướng diệt thì A-lê-gia thức phải diệt.

Này Đại Tuệ! Nếu A-lê thức diệt thì đây chẳng khác hý luận đoạn kiến của ngoại đạo.

Này Đại Tuệ! Những ngoại đạo đó nói như vầy: “Gọi là lìa các cảnh giới thì thức tương tục diệt, thức tương tục diệt rồi tức là diệt các thức.

Này Đại Tuệ! Nếu thức tương tục diệt thì từ vô thủy đến nay các thức phải diệt.

Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo nói các thức tương tục từ người tạo tác sinh ra. Họ chẳng nói thức nương vào mắt, hình sắc, hư không, ánh sáng hòa hợp sinh ra mà nói có người tạo tác.

Này Đại Tuệ! Người tạo tác của ngoại đạo là người nào? Là bậc thù thắng, tự tại đối với vi trần… chính là người có khả năng tạo tác.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có bảy tự tánh. Những gì là bảy?

1. Tập tánh tự tánh.

2. Tánh tự tánh.

3. Tướng tánh tự tánh.

4. Đại tánh tự tánh.

5. Nhân tánh tự tánh.

6. Duyên tánh tự tánh.

7. Thành tánh tự tánh.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có bảy loại Đệ nhất nghĩa. Những gì là bảy?

1. Tâm cảnh giới.

2. Trí cảnh giới.

3. Tuệ cảnh giới.

4. Nhị kiến cảnh giới.

5. Quá nhị kiến cảnh giới.

6. Quá Phật tử địa cảnh giới.

7. Nhập Như Lai địa nội hành cảnh giới.

Này Đại Tuệ! Đây chính là Tánh tự tánh Đệ nhất nghĩa tâm của các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri quá khứ, vị lai và hiện tại.

Này Đại Tuệ! Nương vào Tánh tự tánh Đệ nhất nghĩa tâm này, các Đức Phật Như Lai đạt được sự rốt ráo ở thế gian, xuất thế gian. Từ mắt trí tuệ của chư Phật mà các pháp đồng tướng, khác tướng được kiến lập. Như sự kiến lập này thì chẳng giống với ngoại đạo tà kiến.

Này Đại Tuệ! Sao chẳng giống với ngoại đạo tà kiến? Đó là cảnh giới phân biệt tự tâm, vọng tưởng kiến chấp mà chẳng biết rõ tự tâm vọng tưởng kiến chấp.

Này Đại Tuệ! Những phàm phu ngu si lấy điều không thật thể làm Đệ nhất nghĩa nên nói Nhị kiến luận.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Nay ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông giải nói. Hư vọng phân biệt cho là có vật, là đoạn trừ ba khổ. Những gì là ba? Là vô tri, ái nghiệp, nhân duyên diệt, kiến chấp tự tâm như cảnh giới huyễn.

Này Đại Tuệ! Các Sa-môn, Bà-la-môn nói như vầy: “Vốn từ vô thủy sinh ra, nương vào nhân quả mà hiện.” Họ lại cho rằng: “Thật có vật tồn tại, nương theo các duyên nên có ấm, giới, nhập, sinh, trụ, diệt. Do sinh thì có diệt.”

Này Đại Tuệ! Sa-môn, Bà-la-môn đó nói, thể tương tục vốn có từ vô thủy, hoặc sinh, hoặc diệt, hoặc Niết-bàn, hoặc đạo, hoặc nghiệp, hoặc quả, hoặc đế. Phá hoại các pháp chính là đoạn diệt luận, chẳng phải là lời nói của ta. Vì sao? Vì pháp hiện tại chẳng thể nắm bắt, chẳng thấy căn bản.

Này Đại Tuệ! Ví như các bình vỡ thì chẳng có công dụng của bình.

Này Đại Tuệ! Ví như giống bị đốt cháy thì chẳng sinh ra mầm…

Này Đại Tuệ! Ấm, giới, nhập kia chính là diệt, mà ấm, giới, nhập quá khứ diệt thì ấm, giới, nhập hiện tại, vị lai cũng diệt. Vì sao? Vì nương vào hư vọng, phân biệt, kiến chấp nơi tự tâm.

Này Đại Tuệ! Vì không có cái thể tương tục của ấm, giới, nhập kia vậy.

Này Đại Tuệ! Nếu vốn từ vô thủy sinh, nương vào ba pháp sinh ra đủ loại thức thì vì sao lông rùa chẳng sinh? Cát chẳng sinh ra dầu? Nghĩa quyết định lập ra của ông tức là tự hoại. Ông nói có, không, nói sinh, nhân quả tạo thành cũng hoại.

Này Đại Tuệ! Nếu nương vào nhân duyên ba pháp như vậy thì có thể sinh ra tự tướng nhân quả của các pháp, hữu vô quá khứ, hiện tại, vị lai, thí dụ về các tướng và lãnh vực tự giác quán của Ahàm nương vào nhận thức nơi tự tâm mà nói lên chủ thuyết như vậy. Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si cũng lại như vậy, bị sự phá hại của ác kiến, ý mê nơi tà kiến, kẻ vô trí mà hư dối xưng là Nhất thiết trí nói.

Này Đại Tuệ! Nếu lại có Sa-môn, Bà-la-môn thấy các pháp lìa khỏi tự tánh như mây, vừng lửa, thành của Kiền-thát-bà chẳng sinh, chẳng diệt, như huyễn, loáng nắng trăng trong nước, như mộng bên trong ngoài tâm nương theo từ đời vô thủy đến nay mà hư vọng phân biệt, hý luận hiện ra, lìa khỏi tự tâm hư vọng phân biệt là có thể thấy nhân duyên, lìa khỏi vọng tưởng Diệt tận để giảng nói giáo pháp, lìa khỏi của cải của tự thân để giữ gìn, sử dụng vào pháp, lìa khỏi A-lê-gia thức chọn lấy cảnh giới tương ứng, vào cảnh giới tịch tĩnh, lìa khỏi pháp sinh, trụ, diệt. Tư duy, quán sát sự sinh khởi nơi tự tâm như vậy.

Này Đại Tuệ! Bồ-tát như vậy chẳng bao lâu sẽ đạt được tâm bình đẳng Niết-bàn ở thế gian.

Này Đại Tuệ! Ông dùng phương tiện khéo léo để mở bày phương tiện, quan sát cảnh giới của tất cả chúng sinh đều như huyễn hóa, như hình tượng trong gương, không nhân duyên khởi, xa lìa cảnh bên trong tự tâm thấy cảnh giới bên ngoài, thứ lớp thể nhập vào cõi vô tướng, thứ lớp hội nhập từ địa đến cảnh giới Địa Tam-muội, tin vào sự huyễn hóa tự tâm của ba cõi. Này Đại Tuệ! Người tu hành như vậy sẽ đạt được Tam-muội Như huyễn, vào cảnh giới tịch tĩnh của tự tâm, đến được cảnh giới bờ kia, lìa khỏi các pháp sinh ra do tạo tác, đạt được Tam-muội Kim cang, thể nhập thân của Như Lai, nhập vào hóa thân của Như Lai, hội nhập những lực thông tự tại đại Từ, đại Bi trang nghiêm thân, đi đến tất cả các cõi Phật, thể nhập tất cả niềm vui của chúng sinh, lìa khỏi cảnh giới của tâm ý và thức chuyển thân đạt được thân vi diệu.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát tu hành như vậy thì nhất định đạt được thân vi diệu Vô thượng của Như Lai.

Này Đại Tuệ! Bồ-tát muốn chứng đắc thân Như Lai thì nên xa lìa ấm, giới, nhập vào pháp hòa hợp nhân duyên của tâm, xa lìa hý luận phân biệt hư vọng sinh, trụ, diệt, các pháp chỉ có tâm. Phải biết rõ như vậy, ba cõi từ đời vô thủy đến nay đều do hư vọng phân biệt hý luận mà có, quan sát địa Như Lai tịch tĩnh chẳng sinh, tiến đến hạnh của bậc Thánh ở nội thân.

Này Đại Tuệ! Ông sẽ chẳng bao lâu đạt được hạnh Vô công dụng rốt ráo, tự tại của tâm, như mọi màu sắc theo báu Ma-ni hóa thân đi vào tâm vi tế của chúng sinh. Do vào theo Tâm địa nên khiến cho các chúng sinh thứ lớp nhập vào địa.

Vậy nên, này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát cần phải biết rõ nội pháp tự tu hành của các Bồ-tát.

Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Nguyện xin Đức Thế Tôn vì các vị Đại Bồ-tát giảng nói về pháp môn “Tâm, ý, ý thức ngũ pháp tự thể tương ứng”, chỗ tu hành của chư Phật, Bồtát, xa lìa tà kiến nơi tự tâm hòa hợp với cảnh giới có thể phá tất cả thể tướng ngôn ngữ, thí dụ, tâm nói pháp của tất cả chư Phật vì các Bồ-tát ở thành Lăng-già trên núi Ma-la-gia trong biển lớn, nói lên sự quan sát cảnh giới sóng biển cả A-lê-gia thức, giảng nói giáo pháp về Pháp thân Như Lai.

Lúc ấy, Đức Phật bảo Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Có bốn nhân duyên mà nhãn thức sinh ra. Những gì là bốn?

1. Chẳng biết trong tự thân chấp cảnh giới.

2. Từ đời vô thủy đến nay hư vọng phân biệt cảnh giới của sắc, huân tập chấp trước hý luận.

3. Thể tự tánh của thức như vậy.

4. Ưa thấy đủ thứ sắc tướng.

Này Đại Tuệ! Đó gọi là bốn nhân duyên, đối với biển A-lê-gia thức nổi dậy sóng mạnh, có thể sinh ra chuyển thức.

Này Đại Tuệ! Như nhãn thức khởi lên nhận thức thì tất cả lỗ chân lông của các căn đồng thời sinh ra Chuyển thức, như hình tượng trong gương nhiều hay ít đều nhất thời hiện ra. Lại có thứ tùy theo nhân duyên thứ lớp sinh ra, này Đại Tuệ! Giống như gió mạnh thổi biển tâm cảnh mà sóng thức sinh, chẳng đoạn dứt nhân sự tướng, cùng đắp đổi chẳng lìa nhau, nghiệp thể sai khiến, trói buộc nhau, chẳng hiểu biết sắc thể mà năm thức thân chuyển vậy. Này Đại Tuệ! Không xa lìa nhân của năm thức kia và tướng của Liễu biệt thức thì gọi là ý thức, do cùng với nhân ấy luôn vận chuyển.

Này Đại Tuệ! Năm thức và tâm thức chẳng khởi ý niệm này: “Ta cùng đắp đổi làm nhân, tự tâm thấy hư vọng phân biệt, chấp lấy các cảnh giới mà thức kia mỗi mỗi đều chẳng khác, cùng nhau hiện cảnh giới phân biệt.” Như vậy thức kia sinh diệt vi tế. Do người tu hành Tam-muội chẳng hiểu, chẳng biết huân tập vi tế mà người tu hành khởi tâm này: “Ta diệt các thức để nhập vào Tammuội”, mà người tu hành chẳng diệt các thức để nhập vào Tam-muội, này Đại Tuệ! Tâm huân tập chủng tử chẳng diệt, các thức chấp giữ cảnh giới bên ngoài thì diệt.

Này Đại Tuệ! Như vậy là sự vận hành của vi tế của A-lê-gia thức, trừ Phật Như Lai và các Đại Bồtát nhập Địa, còn các Thanh văn, Bích-chi-phật, người tu hành ngoại đạo khác thì chẳng thể biết, trí lực thể nhập Tam-muội cũng chẳng thể hiểu, vì họ chẳng biết tướng của các Địa, vì chẳng thể biết phương tiện, trí tuệ khéo quyết định sai biệt, vì chẳng thể hiểu sự huân tập các thiện căn của các Đức Phật Như Lai, vì chẳng thể biết tự tâm hiện cảnh giới phân biệt hý luận, vì chẳng thể vào hang động A-lê-gia thức với vô số rừng rậm.

Này Đại Tuệ! Chỉ có người tu hành đúng như thật thượng, trung, hạ mới có thể phân biệt thấy Hư vọng kiến chấp trong tự tâm, có thể ở trong vô lượng cõi nước được các Đức Như Lai thọ ký, được vô lượng lực thần thông Tam-muội Tự tại, nương theo Thiện tri thức, quyến thuộc Phật tử mà có thể được thấy cảnh giới tự thể, tự tâm của tâm, ý và thức phân biệt biển lớn sinh tử do nghiệp ái vô trí làm nhân mà có vậy.

Này Đại Tuệ! Người tu hành như thật nên tìm kiếm, thân cận Thiện tri thức.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Ví như sóng biển cả
Do gió mạnh nổi lên
Sóng cả vỗ biển rộng
Không có lúc đoạn dừng
Lê-gia thức cũng vậy
Cảnh giới gió thổi rung
Đủ thứ những sóng thức
Ào ạt mà chuyển động
Xanh, đỏ, muối trắng, sữa
Và cả vị ngọt đường
Mọi hoa cùng quả trái
Như ánh mặt trời, trăng
Chẳng khác, chẳng không khác
Nước biển dậy sóng lên
Bảy thức cũng như vậy
Tâm cùng hòa hợp sinh.
Ví như nước biển động
Đủ làn sóng chuyển thành.
Lê-gia thức cũng vậy
Đủ các loại thức sinh
Tâm, ý và ý thức
Vì các tướng nói lên
Các thức không khác tướng.
Chẳng tướng kiến, sở kiến
Ví như sóng nước biển
Đều không hề sai biệt
Các thức tâm như vậy
Khác cũng không thể được
Tâm hay nhóm các nghiệp
Ý hay quán cảnh chung
Thức hay rõ nhận thức
Năm thức hiện phân biệt.

Lúc ấy, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ dùng kệ hỏi Đức Phật:

Các sắc tướng xanh, đỏ…
Nhãn thức thấy như trên
Sóng nước, pháp tương đối
Vì sao nói như vậy?

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng kệ đáp:

Các tạp sắc xanh đỏ
Trong sóng đều là không
Nói chuyển thức trong tâm
Vì tướng phàm phu nói
Nghiệp đó đều là không
Tự tâm lìa chấp giữ
Sở thủ và năng thủ
Cùng giống những sóng kia
Thân, của cải giữ gìn
Chúng sinh chỉ thấy thức
Vậy nên hiện Chuyển thức
Sóng nước tương tự thức
Sóng biển cả rung động
Nhấp nhô phân biệt được
Vì sao chẳng biết thông
Thức A-lê-gia chuyển?
Phàm phu không trí tuệ
Thức Lê-gia như biển
Pháp chuyển động như sóng
Vậy nên nói ví dụ.

Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại nói kệ:

Mặt trời mọi soi khắp
Chúng sinh thượng, trung, hạ
Như Lai hiện ở đời
Vì phàm phu nói thật
Phật được pháp rốt cùng
Vì sao chẳng nói thật?
Nếu nói pháp chân thật
Tâm kia không chân thật
Như sóng biển mênh mông
Mộng và cảnh trong gương
Đồng thời mà được hiện
Cảnh giới tâm cũng vậy
Cảnh giới chẳng đầy đủ
Nên thứ lớp hiện lên
Thức nhận biết cái biết
Ý là đúng hay sai
Năm thức do hiện thấy
Trong định không như vậy.
Ví như vị họa sĩ
Cùng với các đệ tử
Vẽ hình tượng đủ màu
Ta nói pháp cũng vậy.
Sắc màu vốn không nét
Chẳng bút cũng chẳng vật
Vì chúng sinh nói nên
Vẽ đan xen hình tượng.
Lời nói lìa chân thật
Chân thật lìa danh tự
Ta được chỗ chân thật
Như thật trong thân biết
Lìa tướng giác, sở giác
Hiểu như thật nói lên
Nói đây vì Phật tử
Người ngu phân biệt khác.
Mọi thứ như huyễn thôi
Chỉ thấy chẳng phải thật
Nói các việc như vậy
Tùy việc thật chẳng thật
Nói lên vì người này
Vì người kia chẳng nói
Hết thảy những bệnh nhân
Lương y tùy cho thuốc
Như Lai vì chúng sinh
Chỉ nói tâm ứng hợp
Vọng tưởng phi cảnh giới
Thanh văn chẳng phân biệt
Các Như Lai Thế Tôn
Nói cảnh giới tự giác.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Nếu Đại Bồ-tát muốn biết tự tâm lìa khỏi hư vọng phân biệt, tướng cảnh giới năng thủ, sở thủ thì phải lìa khỏi sự náo loạn, lìa khỏi sự che phủ của thùy miên, đầu đêm cuối đêm luôn tự tỉnh thức tu hành phương tiện, lìa khỏi tất cả hý luận của các ngoại đạo, lìa khỏi tướng của thừa Thanh văn, Duyên giác, phải thông đạt tự tâm hiện thấy tướng hư vọng phân biệt.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát kiến lập, an trụ tâm tướng trí tuệ thì đối với ba tướng Thượng Thánh trí phải siêng năng tu học.

Này Đại Tuệ! Những gì là ba tướng Thượng thánh trí? Đó là tướng Vô sở hữu, tướng tất cả chư Phật tự nguyện trụ trì, tướng nội thân thánh trí tự giác tri. Người tu hành này có thể xả bỏ tướng trí tuệ của con lừa què đạt được ba tướng tu hành của Địa thứ tám Thắng tử.

Này Đại Tuệ! Thế nào là tướng Vô sở hữu? Là quan sát tướng của Thanh văn, Duyên giác và ngoại đạo.

Này Đại Tuệ? Thế nào là tướng của tất cả chư Phật tự nguyện trụ trì? Nghĩa là chư Phật vốn tự tác nguyện trụ trì các pháp.

Này Đại Tuệ! Thế nào là tướng nội thân Thánh trí tự giác tri? Tất cả pháp tướng không có sự chấp trước, đạt được thân như huyễn Tam-muội, chỗ các Phật địa tiến đến tu hành.

Này Đại Tuệ! Đó gọi là ba tướng Thượng chánh trí. Nếu người thành tựu ba tướng này thì có thể đến cảnh giới thánh trí tự giác. Vậy nên, này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát cầu ba tướng Thượng thánh trí phải học tập như vậy.

Bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ Đại Bồ-tát biết ý niệm trong tâm những chúng Đại Bồ-tát, liền nương lực trụ trì của Đức Phật Như Lai mà hỏi Đức Như Lai về tên gọi của Thể pháp môn thực hành phân biệt về Thánh trí:

–Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Thế Tôn vì con nói về tên gọi của thể pháp môn thực hành phân biệt về Thánh trí, nương theo một trăm lẻ tám kiến mà phân biệt nói.

Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri nương vào một trăm lẻ tám kiến vì các Đại Bồ-tát phân biệt nói về pháp tự tướng, đồng tướng, vọng tưởng, phân biệt thể tu hành sai biệt:

–Này Đại Tuệ! Các Bồ-tát khéo đạt được sự tu hành sai biệt của pháp vọng tưởng phân biệt tự thể này thì có thể thanh tịnh được nhân vô ngã, pháp vô ngã, hiểu rõ được các Địa, vượt qua niềm vui thiền định Tam-ma-bạt-đề của các Thanh văn, Bích-chi-phật đạt được cảnh giới tu hành chẳng thể nghĩ bàn của các Đức Phật Như Lai, được lìa khỏi tướng hạnh tự thể của năm pháp, nhập vào hạnh chân thật, thể Pháp thân của chư Phật, đạt đến chỗ khéo quyết định của Pháp thân Như Lai, thành tựu cảnh giới như huyễn, tất cả cõi nước, từ trời Đâusuất đến cõi A-ca-ni-sấc đều được Pháp thân của Như Lai.

Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Có một dòng ngoại đạo tà kiến chấp trước “Không vô”, họ vọng tưởng phân biệt nhân của trí có hai: Tự thể và vô thể. Họ phân biệt sừng thỏ không có. Như sừng thỏ không có thì các pháp cũng không có.

Này Đại Tuệ! Lại có ngoại đạo khác thấy công đức bốn đại thật có vật. Họ thấy mỗi mỗi vật đều có tướng sai biệt, thật không có sừng thỏ, rồi hư vọng chấp trước vọng tưởng phân biệt thật có sừng trâu.

Này Đại Tuệ! Những ngoại đạo đó rơi vào hai kiến chấp, chẳng biết chỉ có tâm, vọng tưởng phân biệt tăng trưởng nơi cảnh giới tự tâm.

Này Đại Tuệ! Như thân, của cải, đồ dùng, thế gian… chỉ là sự phân biệt của tâm, chẳng được phân biệt sừng thỏ, lìa khỏi có, không.

Này Đại Tuệ! Chẳng phân biệt được tất cả các pháp, lìa khỏi có, không.

Này Đại Tuệ! Nếu có người lìa khỏi có không mà nói như vầy: “Không và có là có việc phân biệt có sừng thỏ, chẳng được phân biệt không và có, cho là có sừng thỏ.” Người đó thấy được tướng đại nhân, chẳng được phân biệt không có sừng thỏ. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì cho đến quan sát hạt bụi rất nhỏ cũng chẳng thấy sự thật, lìa khỏi cảnh giới trí tuệ của bậc Thánh, chẳng được phân biệt có sừng trâu!

Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Phàm phu ngu si chẳng thấy tướng phân biệt mà sánh với trí phân biệt thì người đó thấy không có!

Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Chẳng phải quan sát tâm phân biệt người đó là không tướng. Vì sao? Vì nương vào tâm hư vọng phân biệt, nương vào sừng mà có tâm phân biệt. Này Đại Tuệ! Nương vào sừng hư vọng mà có tâm phân biệt. Vậy nên, nương vào nhân của sự nương tựa, lìa tướng pháp đối đãi thì chẳng phải thấy pháp không có sừng kia.

Này Đại Tuệ! Nếu lìa tâm phân biệt lại có phân biệt thì nên lìa cái có của sừng, chẳng phải nương vào cái có của sừng.

Này Đại Tuệ! Nếu chẳng lìa tâm phân biệt đó thì pháp kia thậm chí quan sát bụi trần, chẳng thấy có vật thật. Này Đại Tuệ! Chẳng lìa khỏi tâm thì pháp đó không có; do hai pháp có và không đó chẳng thể nắm bắt. Nếu vậy thì thấy những pháp gì có những pháp gì là không? Này Đại Tuệ! Nếu chẳng thấy có, không như vậy thì chẳng phân biệt được có không. Nghĩa này ra sao? Thấy có sừng trâu, thấy không có sừng thỏ, chẳng được phân biệt như vậy.

Này Đại Tuệ! Vì nhân chẳng tương tự nên nghĩa có, không chẳng thành; vì các ngoại đạo, phàm phu, Thanh văn nói nghĩa có, không, cả hai đều chẳng thành.

Này Đại Tuệ! Lại có ngoại đạo khác thấy sắc là có, rồi nhân đó vọng tưởng chấp trước hình tướng dài ngắn, thấy hư không không hình tướng giới hạn rõ ràng, thấy các sắc tướng khác với hư không, có giới hạn rõ ràng.

Này Đại Tuệ! Hư không tức là sắc, do sắc đại vào hư không, này Đại Tuệ! Sắc tức là hư không, nương pháp này có pháp kia, nương pháp kia có pháp này. Do nương sắc phân biệt hư không, nương hư không phân biệt sắc vậy.

Này Đại Tuệ! Bốn Đại chủng sinh ra tự tướng đều riêng biệt, chẳng trụ ở hư không mà trong bốn Đại chẳng phải không có hư không.

Này Đại Tuệ! Sừng thỏ cũng như vậy, nhân có sừng trâu mà nói không có sừng thỏ.

Này Đại Tuệ! Lại nữa, đem sừng trâu đó chặt nát thành bụi trần thì phân biệt tướng bụi trần chẳng thể thấy được tất cả những gì là pháp có, tất cả những gì là pháp không nói là có hay là không? Nếu quan sát như vậy thì những pháp khác cũng vậy.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Ông hãy nên lìa sừng thỏ, sừng trâu, hư không, sắc vọng tưởng, kiến chấp khác…

Này Đại Tuệ! Ông cũng nên vì các Bồ-tát nói lìa tướng sừng thỏ…

Này Đại Tuệ! Ông nên biết tướng hư vọng phân biệt kiến chấp của tự tâm.

Này Đại Tuệ! Ông nên ở trong cõi nước chư Phật, vì các Phật tử mà nói tất cả cảnh giới hư vọng của tự tâm đang thấy.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói:

Sắc chẳng ở trong tâm
Tâm nương cảnh thấy có
Trong thức thấy chúng sinh
Thân, của cải, trụ xứ
Tâm, ý, cùng ý thức
Tự tánh và năm pháp
Hai vô ngã thanh tịnh
Như Lai nói như vậy
Dài, ngắn và có, không…
Hỗ tương sinh đắp đổi
Do có nên thành không
Do không nên thành có
Phân biệt thể bụi trần
Chẳng khởi vọng tưởng sắc
Chỉ chỗ an trụ tâm
Ác kiến chẳng thể tịnh
Chẳng cảnh trí vọng tưởng
Thanh văn chẳng biết thông
Lời nói của Thế Tôn
Cảnh giới của tự giác.

Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ vì tự tâm thanh tịnh đang tuôn chảy, lại thỉnh Đức Như Lai:

–Bạch Thế Tôn! Làm sao khiến tự tâm thanh tịnh đang tuôn chảy? Là thanh tịnh theo thứ lớp hay cùng một lúc vậy?

Đức Phật bảo Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Tự tâm thanh tịnh đang tuôn chảy, thứ lớp trở nên thanh tịnh, chẳng phải là cùng một lúc.

Này Đại Tuệ! Ví như trái Am-ma-la chín dần dần, chẳng phải cùng một lúc.

Này Đại Tuệ! Chúng sinh tự tâm thanh tịnh đang tuôn chảy cũng lại như vậy, thanh tịnh dần dần chẳng phải cùng một lúc. Ví như người thợ gốm làm những đồ dùng, dần dần thành tựu chẳng phải cùng một lúc.

Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai làm thanh tịnh tự tâm các chúng sinh đang tuôn chảy cũng lại như vậy, dần dần mà thanh tịnh, chẳng phải thanh tịnh cùng lúc.

Này Đại Tuệ! Ví như đại địa sinh ra những rừng cây, dược thảo, muôn vật… tăng trưởng dần dần, chẳng phải một lúc mà thành.

Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai làm thanh tịnh tự tâm các chúng sinh đang tuôn chảy cũng lại như vậy, dần dần thanh tịnh, chẳng phải thanh tịnh cùng một lúc.

Này Đại Tuệ! Ví như có người học các âm nhạc, ca múa, thư họa, đủ thứ kỹ thuật cứ dần dần mà hiểu được, chẳng phải biết cùng một lúc.

Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai làm thanh tịnh tự tâm các chúng sinh đang tuôn chảy cũng lại như vậy, dần dần thanh tịnh, chẳng phải thanh tịnh cùng một lúc.

Này Đại Tuệ! Ví như gương sáng không có tâm phân biệt, tất cả sắc tượng đều hiện lên cùng lúc. Đức Như Lai Thế Tôn cũng lại như vậy, không có phân biệt thanh tịnh tự tâm các chúng sinh đang tuôn chảy, làm thanh tịnh cùng một lúc, chẳng phải thanh tịnh dần dần, khiến cho họ trụ ở chỗ tịch tĩnh không phân biệt.

Này Đại Tuệ! Ví như ánh sáng của vầng mặt trời, mặt trăng cùng một lúc soi khắp tất cả sắc lượng, chẳng phải là trước hay sau.

Này Đại Tuệ! Đức Như Lai Thế Tôn cũng lại như vậy, vì khiến cho chúng sinh lìa khỏi não tự tâm, thấy lỗi lầm của tập khí chứa nhóm nên cùng một lúc, thị hiện cảnh giới trí tối thắng chẳng thể nghĩ bàn.

Này Đại Tuệ! Ví như A-lê-gia thức phân biệt cảnh hiện tại nơi tư thân, tài sản, thế gian… thì biết cùng lúc, chẳng phải là trước hay sau.

Này Đại Tuệ! Báo thân Phật Như Lai cũng lại như vậy, thành tựu các cõi chúng sinh, cùng lúc đưa đến cung điện thanh tịnh vi diệu của trời Cứu Cánh, chỗ tu hành thanh tịnh.

Này Đại Tuệ! Ví như Phật pháp, Báo thân Phật phóng ra những ánh sáng có Ứng và Hóa thân Phật chiếu soi các thế gian.

Này Đại Tuệ! Pháp thể ánh sáng của nội thân Thánh hạnh chiếu soi diệt trừ tà kiến, hữu vô của thế gian cũng lại như vậy.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Pháp Phật mà báo thân Phật nói, tự tướng tất cả pháp là đồng tướng, do tự tâm hiện thấy tướng huân tập, do hư vọng phân biệt hý luận trói buộc nhau. Như đã nói, pháp không có thể như vậy.

Này Đại Tuệ! Như nhà ảo thuật biến hóa tất cả đủ thứ hình tượng. Những người ngu si lấy đó làm thật mà những hình tượng đó thật ra chẳng thể thật được.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Pháp thể hư vọng nương vào pháp nhân duyên, chấp trước là thật có, do phân biệt sinh ra.

Này Đại Tuệ! Như nhà ảo thuật giỏi nương vào cỏ cây gạch đá tạo ra vô số việc, nương vào chú thuật, sức nhân công thành tựu tướng tất cả chúng sinh với hình sắc và thân phận, gọi là hình dáng người huyễn. Chúng sinh thấy đủ thứ hình sắc huyễn mà chấp trước là người nhưng thật ra không có người.

Này Đại Tuệ! Chúng sinh tuy thấy đó là người nhưng không thật thể là người. Này Đại Tuệ! Nhân duyên pháp thể theo tâm phân biệt cũng lại như vậy, do thấy tâm tướng đủ thứ huyễn. Vì sao? Vì do chấp trước tướng hư vọng, do huân tập tâm phân biệt.

Này Đại Tuệ! Đó gọi là thể tướng của hư vọng phân biệt. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng báo thân Phật nói pháp.

Này Đại Tuệ! Pháp Phật nói pháp là lìa tâm thể tương ứng, cảnh giới nội chứng thánh hạnh. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng Pháp Phật nói pháp.

Này Đại Tuệ! Ứng và Hóa thân của Phật tạo ra ứng thân Phật giảng nói: Thí, giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, ấm, giới, nhập, giải thoát, kiến lập thức, tưởng, hạnh sai biệt, nói tướng thứ lớp vô sắc Tam-ma-bạt-đề của các ngoại đạo. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Ứng thân Phật tạo ra ứng thân Phật nói pháp tướng.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Pháp Phật nói pháp là lìa khỏi nắm bắt vào duyên, lìa khỏi năng quán, sở quán, lìa khỏi sở tác tướng, lượng tướng.

Này Đại Tuệ! Chẳng phải cảnh giới của các phàm phu, Thanh văn, Duyên giác, ngoại đạo, vì các ngoại đạo chấp trước hư vọng, ngã tướng. Vậy nên, này Đại Tuệ! Như vậy, nội thân tự giác tu hành thắng tướng thì nên học như vậy.

Này Đại Tuệ! Ông nên lìa khỏi tướng chấp tự tâm, vì chúng chẳng phải thật.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Thanh văn thừa có hai tướng sai biệt. Đó là ở nội thân chứng được Thánh tướng, chấp trước tướng hư vọng phân biệt có vật.

Này Đại Tuệ! Thế nào là nội thân Thanh văn chứng được Thánh tướng? Là gọi cảnh giới vô thường, khổ, không, vô ngã vậy, là chân đế, ly dục, tịch tĩnh, là ấm, giới, nhập, tự tướng, đồng tướng, tướng nội ngoại bất diệt, thấy pháp như thật, đạt được tâm Tam-muội, được tâm Tam-muội rồi, đạt được thiền định giải thoát Tam-muội, đạo quả Tam-ma-bạt-đề bất thoát giải thoát, lìa khỏi huân tập biến dịch sinh tử chẳng thể nghĩ bàn, nội thân chứng được pháp Thánh lạc hạnh, trụ ở địa Thanh văn.

Này Đại Tuệ! Đó gọi là Thanh văn nội thân chứng đắc Thánh tướng.

Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát nhập vào pháp lạc Tam-muội nội chứng Thánh hạnh của các Thanh văn mà chẳng thủ chấp niềm vui Tịch diệt không môn, chẳng nắm giữ niềm vui Tam-ma-bạt-đề, do thương xót chúng sinh nên khởi phát lực hạnh bản nguyện. Vậy nên, Bồ-tát tuy biết nhưng chẳng chấp, cho là cứu cánh.

Này Đại Tuệ! Đó gọi là Thanh văn nội thân chứng thánh, tu hành tướng an lạc. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát nên tu hành nội thân chứng Thánh tu hành pháp môn an lạc mà chẳng nắm giữ.

Này Đại Tuệ! Những gì là Thanh văn phân biệt có vật, chấp trước tướng hư vọng? Là gọi tướng cứng, ướt, nóng, động của bốn Đại, tướng xanh, vàng, đỏ, trắng,… không có người tạo tác mà có sinh ra tự tướng, đồng tướng, đo lường, tương ứng với A-hàm hơn trước thấy khéo nói vậy. Nương vào pháp đó mà hư vọng chấp trước, cho là thật có. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Thanh văn phân biệt có vật, chấp trước tướng hư vọng.

Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát đối với pháp Thanh văn đó nên biết mà xả bỏ, xả bỏ rồi thể nhập tướng pháp vô ngã. Nhập vào tướng pháp vô ngã rồi, hội nhập nhân vô ngã. Quan sát tướng vô ngã rồi, thứ lớp nhập vào các Địa.

Này Đại Tuệ! Đó gọi là Thanh văn phân biệt có vật, chấp trước tướng hư vọng. Này Đại Tuệ! Gọi là thừa Thanh văn có hai tướng thì ta đã nói xong.

Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Lời nói của Đức Thế Tôn pháp thường chẳng thể nghĩ bàn, pháp nội thân chứng của bậc cảnh giới Thánh, pháp thứ nhất đã nói ở trước. Bạch Thế Tôn! Ngoại đạo cũng nói nhân quả thường chẳng thể nghĩ bàn. Nghĩa này là sao?

Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo nói nhân quả thường chẳng thể nghĩ bàn thì chẳng thành. Vì sao? Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo nói thường chẳng thể nghĩ bàn, chẳng phải nhân tự tướng tương ứng. Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo nói thường chẳng thể nghĩ bàn mà nếu nhân tự tướng tương ứng thì đây là những pháp gì? Những pháp gì tỏ rõ hiện bày? Vậy nên ngoại đạo chẳng được nói Thường chẳng thể nghĩ bàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Các ngoại đạo nói Thường chẳng thể nghĩ bàn, nếu nhân tự tướng tương ứng thì ứng thành vô thường chẳng thể nghĩ bàn do có tướng của nhân. Vậy nên chẳng thành Thường chẳng thể nhiều nghĩ bàn. Này Đại Tuệ! Ta nói Thường chẳng thể nghĩ bàn là Đệ nhất nghĩa. Thường chẳng thể nghĩ bàn cùng tướng Đệ nhất nghĩa tương ứng nhân quả vì lìa khỏi hữu vô, vì tướng nội thân chứng đắc, vì có tướng đó, vì nhân tướng của Đệ nhất nghĩa trí tương ứng, vì lìa khỏi có không, vì chẳng phải tạo tác mà cùng tương ứng với hư không Niết-bàn tịch diệt thí dụ. Vậy nên, thường chẳng thể nghĩ bàn. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ta nói Thường chẳng thể nghĩ bàn chẳng đồng với luận Thường chẳng thể nghĩ bàn của ngoại đạo. Này Đại Tuệ! Thường này chẳng thể nghĩ bàn, các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri quả thật là pháp thường vì Thánh trí của chư Phật do nội thân chứng được, chẳng phải cảnh giới của tâm, ý và ý thức. Vậy nên, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát nên phải tu hành Thường chẳng thể nghĩ bàn, thánh trí hành pháp chứng đắc của nội thân.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Thường chẳng thể nghĩ bàn của các ngoại đạo là nhân tương ứng với tướng pháp vô thường. Vậy nên, nó là vô thường, chẳng phải nhân vào tướng mà được danh xưng. Vậy nên, pháp Thường chẳng thể nghĩ bàn. Này Đại Tuệ! Nếu Thường chẳng thể nghĩ bàn của những ngoại đạo thấy pháp có, không mà nói là thường, do pháp đó Tỷ trí biết được nên nói rằng có Thường. Này Đại Tuệ! Ta cũng như vậy, liền nhân pháp này mà tạo ra cái thấy có, không, vô thường ứng với thường. Vì sao? Vì không có nhân.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Các ngoại đạo nói, nếu nhân tướng tương ứng thành Thường chẳng thể nghĩ bàn, mà do ngoại đạo kia nói, nhân tự tướng có không thì đồng với sừng thỏ. Này Đại Tuệ! Thường này chẳng thể nghĩ bàn chỉ là các ngoại đạo… hư vọng phân biệt. Vì sao? Vì do không có sừng thỏ mà chỉ hư vọng phân biệt không có tướng tự nhân vậy. Này Đại Tuệ! Thường chẳng thể nghĩ bàn của ta chỉ là nội chứng nhân của tướng, lìa khỏi pháp tạo tác hữu vô. Vậy nên thường chẳng thể nghĩ bàn, do không có tướng bên ngoài tương ứng với pháp thường. Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo… thấy không có tướng bên ngoài, do tỷ trí biết thường chẳng thể nghĩ bàn lấy làm thường thì ngoại đạo… kia chẳng biết thường chẳng thể nghĩ bàn! Tướng nhân của mình và tướng nhân của người do tướng cảnh giới nội thân chứng thánh trí. Này Đại Tuệ! Những ngoại đạo kia đối với pháp của ta chẳng nên vì họ mà nói.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Các Thanh văn, Bíchchi-phật sợ khổ sinh tử, vọng tưởng mà cầu Niếtbàn, chẳng biết thế gian và Niết-bàn không có sai biệt. Họ phân biệt tất cả pháp cùng phi pháp mà diệt hết các căn, chẳng thủ chấp cảnh giới vị lai mà hư vọng chấp giữ làm Niết-bàn, chẳng biết pháp tu hành nội thân chứng, đắc chẳng biết do A-lê-gia thức chuyển vậy.

Này Đại Tuệ! Vậy nên, những người ngu đó nói có pháp ba thừa mà chẳng thể biết chỉ tâm tưởng vắng lặng thì đạt được pháp tịch diệt. Vậy nên, kẻ ngu thiếu trí tuệ đó chẳng biết các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri quá khứ, vị lai và hiện tại thấy cảnh giới tự tâm, mà chấp trước cảnh giới bên ngoài tâm. Vậy nên, này Đại Tuệ! Người ngu si đó ở trong vòng sinh tử của thế gian, luôn xoay chuyển chẳng trụ.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Tất cả các Đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều nói các pháp chẳng sinh. Vì sao? Vì là tự tâm thấy pháp có, không. Nếu lìa khỏi có, không thì các pháp chẳng sinh. Vậy nên, này Đại Tuệ! Tất cả pháp chẳng sinh. Này Đại Tuệ! Tất cả pháp như sừng thỏ, sừng lừa, sừng lạc đà… Này Đại Tuệ! Kẻ phàm phu ngu si do vọng tưởng phân biệt mà phân biệt các pháp. Vậy nên, tất cả các pháp chẳng sinh. Này Đại Tuệ! Tướng tự thể của tất cả các pháp chẳng sinh, là nội thân chứng cảnh giới Thánh trí, chẳng phải là tự thể phân biệt hai cảnh giới của các phàm phu vậy. Này Đại Tuệ! Chính là A-lê-gia thức! Tướng tự thể của thân, tài sản, thế gian, đến đi thấy sự chuyển biến của năng thủ và sở thủ. Các phàm phu rơi vào sinh, trụ, diệt và hai tướng của tâm nên phân biệt các pháp, sinh ra có, không. Này Đại Tuệ! Ông nên biết pháp như vậy.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Ta nói về tánh chứng pháp của năm thừa. Những gì là năm?

1. Tánh chứng pháp của thừa Thanh văn.

2. Tánh chứng pháp của Bích-chi-phật.

3. Tánh chứng pháp của thừa Như Lai.

4. Tánh chứng pháp của thừa Bất định.

5. Tánh chứng pháp của không.

Này Đại Tuệ! Tánh chứng pháp của thừa Thanh văn là gì? Nghĩa là, nói pháp ấm, giới, nhập, nói pháp tự tướng, đồng tướng chứng trí, khắp các lỗ chân lông của thân đó vui vẻ hân hoan, ưa tu tướng trí, chẳng tu tướng “nhân duyên Bất tương ly”. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tính chứng pháp của thừa Thanh văn. Trí biết tà kiến của hàng Thanh văn đó lìa khỏi sự sinh khởi phiền não thô, chẳng lìa khỏi phiền não của vô minh huân tập, thấy tướng chứng đắc của thân mình, gọi là lìa khỏi các phiền não trong Sơ địa cho đến Ngũ địa, Lục địa. Tuy việc xa lìa giống nhau, nhưng do huân tập vô minh phiền não, nên bị rơi vào Biến dịch tử chẳng thể nghĩ bàn, rồi nói: “Sinh tử của ta đã hết, phạm hạnh đã lập, việc làm đã xong, chẳng còn thọ thân sau… như vậy… ta được thể nhập vào nhân vô ngã.” Cho đến họ phát sinh tâm cho là đã được Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Lại có ngoại đạo khác cầu chứng Niết-bàn mà nói rằng: “Biết rõ ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, tác giả, thọ giả, trượng phu thì đó là Niết-bàn.” Này Đại Tuệ! Lại có ngoại đạo khác thấy tất cả các pháp nương vào nhân mà có nên sinh khởi tâm Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Những ngoại đạo đó không đạt được Niết-bàn giải thoát do chẳng thấy pháp vô ngã. Này

Đại Tuệ! Đó gọi là tính ngoại đạo của thừa Thanh văn, ở chỗ chẳng phải xa lìa mà sinh ra tư tưởng xa lìa. Này Đại Tuệ! Ông nên chuyển tà kiến này mà tu hành hạnh như thật.

Này Đại Tuệ! Tánh chứng pháp của thừa Bíchchi-phật là gì? Nghĩa là, nghe giảng nói nhân duyên mà giác ngộ chứng pháp, toàn thân sởn gai ốc, buồn khóc rơi nước mắt, chẳng ưa nơi ồn ào. Quan sát các pháp nhân duyên, chẳng chấp trước các pháp nhân duyên, nghe nói đủ loại thần thông của tự thân, hoặc lìa hoặc hợp đủ loại biến hóa, tâm ấy theo đó mà thể nhập. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tính chứng pháp của Thừa Duyên giác. Ông hãy nên biết thuận theo lời nói của Duyên giác!

Này Đại Tuệ! Tính chứng pháp của thừa Như Lai là gì? Này Đại Tuệ! Tánh chứng pháp của thừa Như Lai có bốn loại. Những gì là bốn?

1. Chứng tánh của pháp chân thật.

2. Lìa pháp chân thật để chứng tánh. tự thân chứng đắc tánh Thánh trí.

3. Chứng được pháp tánh thù thắng vi diệu trang nghiêm nơi các cõi nước bên ngoài.

Này Đại Tuệ! Nếu khi nghe nói mỗi một pháp này mà chỉ có tâm A-lê-gia thấy của cải nương tựa bên ngoài thân, hay cảnh giới khí thế gian chẳng thể nghĩ bàn mà chẳng kinh sợ, chẳng lo buồn, thì này Đại Tuệ! Ông nên biết người đó chứng tánh Như Lai thừa. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng của người có tánh chứng pháp của Như Lai thừa.

Này Đại Tuệ! Tánh chứng pháp của thừa Bất định là gì? Này Đại Tuệ! Nếu người nghe ba pháp này mà ở trong mỗi một pháp có được niềm vui thì thuận theo vì họ nói. Này Đại Tuệ! Nói ba thừa là vì phát khởi Địa tu hành. Nói các tánh sai biệt chẳng phải Địa cứu cánh. Vì muốn kiến lập rốt ráo có thể nắm giữ Địa tịch tĩnh. Này Đại Tuệ! Ba hạng người đó lìa khỏi phiền não chướng, huân tập đạt được thanh tịnh, thấy pháp vô ngã, được Tammuội lạc hạnh, Thanh văn, Duyên giác đều rốt ráo chứng được Pháp thân của Như Lai.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Nghịch Lưu tu vô lậu
Vãng lai và Bất hoàn
Ứng Cúng, A-la-hán
Những tâm đó mê hoặc
Ta nói đủ ba thừa
Một thừa, chẳng có thừa
Các Thánh hiểu như thật
Phàm phu chẳng biết thông
Pháp môn Đệ nhất nghĩa
Xa lìa khỏi hai giáo
Kiến lập cả ba thừa
Vì trụ chỗ tịch tĩnh
Các thiền và Vô lượng
Tam-ma-đề Vô sắc
Vô tưởng định, Diệt tận
Trong tâm cũng đều Không.

Này Đại Tuệ! Thừa Vô tánh là gì? Nghĩa là Nhất-xiển-đề. Này Đại Tuệ! Nhất-xiển-đề thì không có tánh Niết-bàn. Vì sao? Vì ở trong giải thoát, Nhất-xiển-đề chẳng sinh ra tín tâm, chẳng nhập vào Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Nhất-xiển-đề thì có hai loại. Những gì là hai?

1. Thiêu đốt tất cả căn lành.

2. Thương xót tất cả chúng sinh mà phát nguyện độ hết tất cả chúng sinh trong các cõi.

Này Đại Tuệ! Sao gọi là thiêu đốt tất cả thiện căn? Nghĩa là chê bai tạng Bồ-tát mà nói như vầy: “Những người đó chẳng thuận theo kinh, luật giải thoát mà nói, xả bỏ các thiện căn.” Vậy nên chẳng đạt được Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Thương xót chúng sinh mà phát nguyện độ hết cõi chúng sinh thì đó là Bồ-tát. Này Đại Tuệ! Bồ-tát phương tiện khởi nguyện rằng: “Nếu các chúng sinh chẳng vào Niết-bàn thì ta cũng chẳng vào Niết-bàn.” Vậy nên Đại Bồ-tát chẳng vào Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Đó gọi là hai hạng Nhất-xiển-đề không có tánh Niết-bàn. Do nghĩa này nên quyết định chấp giữ hạnh Nhất-xiểnđề.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Hai hạng Nhất-xiển-đề này thì những Nhất-xiển-đề nào thường chẳng vào Niếtbàn?

Đức Phật bảo Đại Bồ-tát Đại Tuệ:

–Nhất-xiển-đề thường chẳng vào Niết-bàn. Vì sao? Vì có thể biết rõ tất cả các pháp vốn là Niếtbàn. Vậy nên chẳng vào Niết-bàn, chẳng phải hạng xiển-đề xả bỏ tất cả thiện căn. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì người đó là xiển-đề xả bỏ ta thiện căn, nếu gặp các Đức Phật, Thiện tri thức… liền phát tâm Bồ-đề, sinh ra các thiện căn thì chứng đắc Niếtbàn. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì các Đức Phật Như Lai chẳng bỏ tất cả chúng sinh. Vậy nên, này Đại Tuệ! Bồ-tát Nhất-xiển-đề thường chẳng vào Niếtbàn.

QUYỂN 3

Phẩm 3: TẬP HỢP TẤT CẢ PHÁP PHẬT (Phần 2)

Lại nữa, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát phải biết rõ ba pháp tướng tự thể. Này Đại Tuệ! Những gì là ba pháp tướng tự thể?

1. Tướng hư vọng phân biệt danh tự.

2. Tướng nhân duyên pháp thể tự tướng.

3. Tướng Đệ nhất nghĩa đế pháp thể.

Này Đại Tuệ! Tướng hư vọng phân biệt danh tự là gì? Nghĩa là từ danh tự mà hư vọng phân biệt tướng tất cả pháp. Đó gọi là tướng hư vọng phân biệt danh tự.

Này Đại Tuệ! Tướng nhân duyên pháp thể tự tướng là gì? Này Đại Tuệ! Nhân duyên pháp thể tự tướng tướng là từ cảnh giới sinh ra sự việc. Này Đại Tuệ! Nhân duyên sự tướng cảnh giới của pháp thể mà các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri nói là hư vọng phân biệt, có hai loại khác nhau.

Những gì là hai?

1. Vọng chấp danh tự hý luận phân biệt.

2. Vọng chấp tướng danh tự phân biệt sự tướng của tướng cảnh giới.

Này Đại Tuệ! Vọng chấp tướng danh tự, sự tướng của tướng cảnh giới là gì? Tức là trong ngoài pháp đó tự tướng đồng tướng. Này Đại Tuệ! Đó gọi là nhân duyên pháp thể. Hai tướng tự tướng do nương vào pháp đó để quan sát pháp đó sinh ra. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng Nhân duyên pháp thể tự tướng.

Này Đại Tuệ! Tướng Đệ nhất nghĩa đế pháp thể là gì? Nghĩa là, các Đức Như Lai lìa khỏi tướng danh tự, tướng cảnh giới, tướng sự tướng, dùng trí bậc Thánh để tu hành cảnh giới hành xứ. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng Đệ nhất nghĩa đế, tâm của chư Phật Như Lai tạng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Việc phân biệt, danh, tướng.
Và pháp có hai tướng.
Trí chánh diệu Chân như
Là tướng Đệ nhất nghĩa.

Này Đại Tuệ! Đó gọi là pháp môn quan sátnăm pháp tự tướng là tướng các Đức Phật, Bồ-tát tu hành cảnh giới nội chứng. Ông và các Bồ-tát nên học như vậy.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát cần phải quan sát khéo léo hai tướng vô ngã. Này Đại Tuệ!

Những gì là hai?

1. Nhân vô ngã trí.

2. Pháp vô ngã trí.

Sao gọi là nhân vô ngã trí? Nghĩa là lìa khỏi sự chứa nhóm ngã, ngã sở, ấm, giới, nhập cùng vô trí, nghiệp, ái, sinh. Nương vào mắt, sắc… hư vọng, chấp trước, tự tâm hiện thấy tất cả các căn, đồ dùng, thân, nhà cửa… phân biệt về tự tâm phân biệt, phân biệt về nhận thức phân biệt như dòng sông chảy, chủng tử (hạt giống), đèn, ngọn lửa, gió, mây… từng niệm từng niệm đắp đổi trước sau sai khác, chuyển động vội vàng như khỉ vượn, như ruồi nhặng… ưa thích nơi cảnh giới bất tịnh, không biết nhàm chán như lửa. Nhân huân tập cảnh giới hý luận từ vô thủy đến nay giống như cơ quan con lăn bánh xe. Ở trong ba cõi sinh ra đủ thứ sắc, đủ loại thân như huyễn hóa khởi lên hão huyền.

Này Đại Tuệ! Như vậy quan sát, tướng các pháp bằng trí phương tiện khéo léo, đó gọi là biết rõ tướng cảnh giới trí của nhân vô ngã.

Này Đại Tuệ! Pháp vô ngã trí là gì? Nghĩa là, như thật phân biệt tướng ấm, giới, nhập. Này Đại Tuệ! Bồ-tát quan sát ấm, giới, nhập… vô ngã, ngã sở. Chứa nhóm ấm, giới, nhập nhân sợi dây nghiệp ái đắp đổi, trói buộc nhau, do nhân duyên sinh ra nên không có ngã, không có người tạo tác.

Này Đại Tuệ! Ấm, giới, nhập… lìa khỏi tướng đồng, tướng khác, nương vào tướng chẳng thật mà hân biệt được danh. Phàm phu ngu si vọng tưởng phân biệt cho là có, chẳng phải người thật chứng thấy mà cho là có.

Này Đại Tuệ! Bồ-tát quan sát tâm, ý, ý thức, như vậy thể tướng năm pháp, tất cả lìa khỏi nên các nhân duyên không. Đó gọi là biết rõ tướng cảnh giới trí vô ngã của các pháp.

Này Đại Tuệ! Bồ-tát biết rõ các pháp vô ngã rồi, quan sát Chân Như, tu hạnh tịch tĩnh, chẳng bao lâu sẽ được địa Hoan hỷ đầu tiên, có thể quan sát khéo léo địa Hoan hỷ rồi, như vậy các Địa theo thứ lớp hoán chuyển sáng tỏ, cho đến chứng được địa Pháp vân. Bồ-tát trụ ở địa Pháp vân đó rồi, vô lượng loại báu xen lẫn trang nghiêm, rồi cảnh giới huyễn của nghiệp sinh ra cung điện báu lớn với vương tòa hoa sen lớn như thật mà ngồi lên trên tòa ấy, tất cả Phật tử đồng hạnh… cung kính vây quanh, được các Đức Phật mười phương đưa tay xoa đỉnh đầu trao cho quả vị Phật, như vua Chuyển luân làm lễ quán đảnh thái tử, qua khỏi địa vị Phật tử. Qua khỏi địa vị Phật tử rồi, quan sát các Phật pháp, đúng như thật tu hành, ở trong các pháp mà được tự tại. Được tự tại rồi gọi là chứng được Pháp thân Vô thượng của Như Lai vì thấy pháp vô ngã vậy. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng như thật của pháp vô ngã. Này Đại Tuệ! Ông và các Bồ-tát nên học như vậy.

Lúc ấy, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Tướng phỉ báng có không, nguyện xin Thế Tôn vì con giảng nói. Bạch Thế Tôn! Con và các Đại Bồ-tát nếu được nghe thì lìa khỏi tà kiến có không, mau chóng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, lìa khỏi sự kiến lập tà kiến đoạn thường và liền có thể kiến lập chánh pháp của chư Phật.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nhận lời thỉnh của Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ liền nói kệ:

Trong tâm không đoạn, thường
Thân, của cải, trụ xứ…
Chỉ tâm thiếu trí tuệ
Không vật mà thấy có.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn, đối với ý nghĩa kệ này, lại một lần nữa tuyên nói với Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Có bốn tướng kiến lập phủ định.

Những gì là bốn?

1. Tướng kiến lập chẳng phải có.

2. Tướng kiến lập chẳng phải chánh kiến.

3. Tướng kiến lập chẳng phải có nhân.

4. Tướng kiến lập chẳng phải có thể.

Này Đại Tuệ! Đó gọi là bốn loại kiến lập.

Này Đại Tuệ! Tướng phủ tịnh là gì? Này Đại Tuệ! Quán sát tự kiến lập pháp của tà kiến chẳng thấy thật tướng liền phủ nhận các pháp mà nói rằng, tất cả đều không. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng kiến lập phủ định.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Tướng kiến lập chẳng phải có là gì? Là phân biệt ấm, giới, nhập chẳng phải pháp có. Từ vô thủy đến nay hý luận chẳng phải thật có mà chấp trước tướng đồng, tướng khác. Pháp nào như vậy, như vậy… rốt ráo chẳng khác. Này Đại Tuệ! Nương vào phiền não huân tập từ vô lượng đời đến này mà chấp trước khởi lên. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng kiến lập chẳng phải có.

Này Đại Tuệ! Tướng kiến lập chẳng phải chánh kiến là gì? Này Đại Tuệ! Trong ấm, giới, nhập kia không có ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, tác giả, thọ giả mà kiến lập tà kiến gọi là có ngã, nhân… Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng kiến lập chẳng phải chánh kiến.

Này Đại Tuệ! Tướng kiến lập chẳng phải có nhân là gì? Là thức ban đầu chẳng từ nhân sinh ra, vốn chẳng sinh mà thời gian sinh ra như huyễn hóa, vốn không nương vào vật mà có, nương vào mắt, hình sắc, ánh sáng, ý niệm nên sinh ra thức, sinh ra rồi trở lại diệt đi. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng kiến lập chẳng phải có nhân.

Này Đại Tuệ! Tướng kiến lập chẳng phải có thể phủ nhận pháp là gì? Là kiến lập chấp trước hư không diệt, Niết-bàn không tạo tác, không sự vật.

Này Đại Tuệ! Ba pháp đó lìa khỏi có, không. Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp như sừng, lông của thỏ, ngựa, lừa, lạc đà… lìa khỏi tướng kiến lập có không. Này Đại Tuệ! Tướng kiến lập phủ định là do các phàm phu hư vọng phân biệt, chẳng biết chỉ là sự chấp của tâm. Các pháp là có thì chẳng phải là cái thấy của bậc Thánh nhân. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng kiến lập chẳng có thể bài báng pháp. Vì vậy, ông nên xa lìa tướng kiến lập không chánh kiến, bài báng pháp.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Những Đại Bồ-tát biết như thật về tâm, ý, ý thức, năm pháp thể tướng, hai loại vô ngã… vì yên ổn chúng sinh nên hiện ra vô số, hình dáng. Như sự hư vọng kia không hề phân biệt, chỉ nương vào pháp nhân mà có đủ thứ.

Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, nương vào chúng sinh hiện ra vô số màu sắc như báu Như ý theo các tâm niệm của tất cả chúng sinh ở trong đại chúng của các cõi Phật mà hiện ra, như huyễn, như mộng, như tiếng vang, như trăng như nước, như hình dáng trong gương, xa lìa các pháp, chẳng sinh chẳng diệt, chẳng phải thường, chẳng phải đoạn. Bồ-tát đó hiện ra Phật Như Lai, lìa khỏi các thừa Thanh văn, Duyên giác, nghe các Phật pháp liền được vô lượng trăm ngàn vạn ức Tammuội sâu xa. Được Tam-muội rồi, Bồ-tát nương vào sức Tam-muội, từ một cõi Phật này đến một cõi Phật khác để cúng dường các Đức Phật, thị hiện sinh ra ở trong cung điện khen ngợi ngôi Tam bảo, hiện làm thân Phật với đại chúng Bồ-tát, Thanh văn vây quanh khiến cho tất cả các chúng sinh được nhập vào “tự tâm thấy cảnh”, vì chúng sinh nói cảnh bên ngoài không có sự vật, có sự vật khiến cho họ được xa lìa pháp kiến lập có không vậy.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Phật tử thấy thế gian
Chỉ tâm, không các pháp
Chủng loại chẳng do thân
Được thành lực tự tại.

Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh Đức Phật:

–Nguyện xin Đức Thế Tôn vì chúng con nói về tất cả pháp không, không sinh, không hai, lìa khỏi tướng tự thể. Con và tất cả các chúng Bồ-tát biết các pháp là không, không sinh, không hai lìa khỏi tướng tự thể rồi, lìa khỏi vọng tưởng có không, mau chóng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe! Ta sẽ vì ông phân biệt giảng nói rõ ràng.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng chúng con xin lắng nghe!

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ rằng:

–Này Đại Tuệ! Không tức là phạm trù vọng tưởng pháp thể. Này Đại Tuệ! Nương vào chấp trước pháp thể vọng tưởng mà nói không, không sinh, không thể tướng, chẳng hai. Này Đại Tuệ!

Không có bảy loại. Những gì là bảy?

1. Tướng không.

2. Tất cả các pháp có tự tánh không tự tánh đều không.

3. Hành không.

4. Chẳng hành không.

5. Tất cả pháp lìa ngôn ngữ không.

6. Đệ nhất nghĩa Thánh trí đại không.

7. Bỉ bỉ không.

Này Đại Tuệ! Tướng không là gì? Là tất cả pháp tự tướng, đồng tướng đều không, thấy chúng cùng đắp đổi tích tụ. Này Đại Tuệ! Quán sát mỗi một pháp tự tướng, đồng tướng không một pháp nào có thể nắm bắt, lìa khỏi tự tướng, tha tướng, cả hai tướng không có tướng nào có thể trụ, có thể thấy. Vậy nên gọi là tự tướng không.

Này Đại Tuệ! Tất cả pháp có tự tánh, không tự tánh đều không là gì? Là tướng tự thể thật có pháp sinh. Này Đại Tuệ! Tướng tự thể của các pháp có không đều không. Vậy nên, gọi là tướng tự thể có tự tánh không có tự tánh đều không.

Này Đại Tuệ! Hành không là gì? Là các ấm… lìa khỏi ngã, ngã sở, nương vào nhân tạo tác nghiệp mà có sinh. Này Đại Tuệ! Vậy nên gọi là hành không.

Này Đại Tuệ! Bất hành không là gì? Là trong pháp ấm. Niết-bàn chưa từng thực hành. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Bất hành không.

Này Đại Tuệ! Tất cả pháp không có ngôn ngữ không là gì? Là vọng tưởng phân biệt, tất cả các pháp không có ngôn ngữ nào có thể nói. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tất cả pháp không có ngôn ngữ không.

Này Đại Tuệ! Đệ nhất nghĩa Thánh trí đại không là gì? Là trong tự thân chứng thánh trí pháp không, lìa khỏi các lỗi huân tập tà kiến. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Đệ nhất nghĩa Thánh trí đại không. Này Đại Tuệ! Bỉ bỉ không là gì? Là gồm những pháp xứ gì? Pháp kia không, pháp này có, pháp kia có pháp này không. Vậy nên nói không. Này Đại Tuệ! Ta thuở xưa từng vì Lộc Mẫu nói cung điện nhà cửa trống không, không voi ngựa, trâu, dê… thì gọi là không, có các Tỳ-kheo… gọi là chẳng phải không mà thể cung điện, nhà cửa của cung điện nhà cửa không có, thể Tỳ-kheo của Tỳ-kheo cũng chẳng thể nắm bắt mà voi, ngựa, trâu, dê… kia chẳng phải chỗ khác cũng không có. Này Đại

Tuệ! Như vậy tự tướng đồng tướng của các pháp cũng chẳng thể nắm bắt lìa khỏi chỗ này chỗ kia. Vậy nên ta nói rằng, bỉ bỉ không. Này Đại Tuệ! Đó gọi là bảy loại không. Này Đại Tuệ! Bỉ bỉ không này rất là thô thiển. Này Đại Tuệ! Ông phải nên lìa khỏi “bỉ bỉ không”, chẳng cần tu tập.

Bồ-tát Đại Tuệ hỏi:

–Bất sinh là gì?

–Này Đại Tuệ! Tự thể chẳng sinh mà chẳng phải chẳng sinh. Nương vào Thế đế nên nói là sinh, nương vào bản thể chẳng sinh nên nói là chẳng sinh.

Bồ-tát Đại Tuệ hỏi:

–Vô thể tướng là gì?

–Này Đại Tuệ! Ta nói Vô thể tướng là thể tất cả các pháp vốn chẳng sinh. Vậy nên, ta nói các pháp vô thể mà thể từng sát-na nối tiếp nhau chẳng trụ. Này Đại Tuệ! Do thấy từng tướng khác, tướng khác nối nhau. Vậy nên, tất cả pháp không thể tướng.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Thế nào gọi là Bất nhị Pháp tướng?

–Này Đại Tuệ! Tướng hai pháp là gọi bóng ánh sáng mặt trời dài ngắn, đen trắng. Những pháp như vậy đó… thì mỗi một đều có tên riêng nên chẳng được nói rằng chẳng hai. Này Đại Tuệ! Như thế gian, Niết-bàn… tất cả các pháp, mỗi một đều có hai. Này Đại Tuệ! Những gì là Niết-bàn? Nơi đó không có thế gian. Chỗ nào là thế gian? Chỗ đó không có Niết-bàn, do tướng nhân khác nhau. Vậy nên, ta nói tất cả các pháp chẳng hai. Tất cả các pháp chẳng hai là thế gian, Niết-bàn không hai. Vậy nên, ông nên tu học các pháp không, vô tướng, vô thể, bất nhị vậy.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Ta thường nói pháp không
Xa lìa khỏi đoạn, thường
Sinh tử như huyễn mộng
Nghiệp kia chẳng mất tan
Hư không và Niết-bàn
Diệt cả hai cũng vậy
Phàm phu sinh phân biệt
Thánh nhân lìa có, không.

Lúc ấy, Đức Phật bảo Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Tất cả pháp không đều chẳng sinh, không thể, chẳng có hai tướng. Trong kinh của các Đức Phật Như Lai đã nói thì phàm các pháp môn đều nói ý nghĩa này.

Này Đại Tuệ! Tất cả kinh điển tùy theo tâm của tất cả chúng sinh nên phân biệt hiển bày. Này Đại Tuệ! Ví như sóng nắng mê hoặc loài cầm thú nên chúng hư vọng sinh ra chấp trước tưởng là nước mà thật ra trong sóng nắng không có nước.

Này Đại Tuệ! Tất cả kinh nói về pháp cũng lại như vậy, vì các phàm phu tự tâm phân biệt nên khiến cho họ được hoan hỷ, chứ chẳng phải ở nơi lời nói như thật của bậc Thánh trí. Này Đại Tuệ! Ông nên thuận theo ý nghĩa, chớ chấp trước danh tự, chương cú của lời nói.

Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như kinh nói, tự tánh của Như Lai tạng thanh tịnh, đủ ba mươi hai tướng, ở trong thân của tất cả chúng sinh, bị sự bao bọc của chiếc áo ấm, giới, nhập cấu bẩn tham, sân, si chẳng thật như được ràng buộc bằng chiếc áo cấu bẩn báu vô giá. Đức Như Lai Thế Tôn lại nói là thường hằng thanh lương chẳng biến đổi. Bạch Thế Tôn! Như vậy ngoại đạo cũng nói ngã có thần ngã thường trụ bất biến. Đức Như Lai cũng nói, Như Lai tạng là thường… cho đến chẳng biến đổi. Bạch Thế Tôn! Ngoại đạo cũng nói có sự tạo tác thường, chẳng nương vào các duyên, tự nhiên mà có, cùng khắp chẳng diệt. Nếu như vậy thì lời Như Lai và ngoại đạo nói đều không sai biệt.

Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Ta nói Như Lai tạng là thường, chẳng đồng với sự có thần ngã của ngoại đạo. Này Đại Tuệ! Ta nói văn từ chương cú Như Lai tạng trống không, thật tế Niết-bàn chẳng sinh, chẳng diệt, không tướng, không nguyện… Gọi là Như Lai tạng.

Này Đại Tuệ! Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì tất cả những phàm phu ngu si nghe nói vô ngã thì sinh ra kinh sợ. Vậy nên, ta nói có Như Lai tạng mà Như Lai tạng không có sự phân biệt, tịch tĩnh vô tướng gọi là Như Lai tạng.

Này Đại Tuệ! Những Bồ-tát hiện tại và vị lai… chẳng nên chấp trước tướng có ngã. Này Đại Tuệ! Ví như người thợ gốm giỏi nương vào cục bùn mịn, vòng bánh xe, sợi dây, tay nhân công, sức phương tiện của cây nên làm ra đủ thứ đồ dùng.

Này Đại Tuệ! Như Lai Thế Tôn cũng lại như vậy, pháp vô ngã kia lìa khỏi tất cả những tướng phân biệt, dùng trí tuệ phương tiện khéo léo gọi là Như Lai tạng, hoặc nói Vô ngã, hoặc nói thật tế và Niết-bàn… thị hiện đủ loại danh tự, chương cú như người thợ gốm giỏi kia tạo tác đủ thứ đồ dùng. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ta nói Như Lai tạng chẳng đồng với ngoại đạo nói có tướng của ngã.

Này Đại Tuệ! Ta nói Như Lai tạng là vì các ngoại đạo chấp trước đối với ngã, vì thu phục họ nên nói Như Lai tạng để khiến cho ngoại đạo kia xa lìa thần ngã vọng tưởng, thấy chỗ chấp trước của tâm, đi vào ba cửa giải thoát, mau chóng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Đại Tuệ! Do ý nghĩa này nên các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri nói Như Lai tạng. Vậy nên, ta nói có Như Lai tạng chẳng đồng với ngoại đạo chấp trước Thần ngã. Vậy nên, này Đại Tuệ! Vì lìa khỏi tất cả ngoại đạo tà kiến nên các Đức Phật Như Lai nói như vậy. Ông nên tu học pháp tướng Vô ngã của Như Lai.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Nhân, ngã cùng với ấm
Mọi duyên cùng vi trần
Tự tánh vốn tự tại
Chỉ tâm vọng phân biệt.

Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ quan sát tất cả chúng sinh vị lai, lại thỉnh Đức Phật:

–Nguyện xin Thế Tôn vì các Bồ-tát nói pháp tu hành như thật. Các vị Bồ-tát đó nghe nói pháp tu hành như thật liền được thành tựu sự tu hành như thật.

Đức Phật bảo Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Có bốn pháp được gọi là tu hành đại Như thật. Những gì là bốn?

1. Biết rõ tự tâm thấy được hiện tại.

2. Xa lìa sinh, trụ, diệt.

3. Hiểu rõ sự có, không của pháp bên ngoài.

4. Ưa tu “nội thân chứng trí”.

Này Đại Tuệ! Bồ-tát thành tựu bốn pháp như vậy thì được thành tựu sự tu hành đại Như thật.

Này Đại Tuệ! Thế nào là Đại Bồ-tát quan sát ba cõi chỉ là một tâm tạo tác? Do lìa ngã, ngã sở, không động không giác, lìa khỏi sự nắm giữ, xả bỏ từ vô thủy đến nay hư vọng chấp trước, tâm hý luận huân tập của ba cõi, đủ thứ sắc hạnh thường trói buộc, thân và tài sản, sáu đường trong khí thế gian đều hư vọng hiện bày. Này Đại Tuệ! Đó gọi là các Đại Bồ-tát biết rõ tự tâm thấy tướng trong hiện tại. Này Đại Tuệ! Làm sao tất cả Đại Bồ-tát thấy xa lìa pháp sinh, trụ, diệt? Là quán các pháp như huyễn như mộng nên tất cả pháp, tự mình và người khác, hai loại đều không có nên chẳng sinh, do tùy theo tự tâm thấy biết ở hiện tại, do không có pháp bên ngoài, các thức chẳng khởi, quán các nhân duyên không chứa nhóm, thấy ba cõi có nhân duyên, chẳng chấp tất cả các pháp trong, ngoài đều không thật thể, xa lìa việc sinh ra các pháp chẳng chánh kiến, hiểu rõ tướng như huyễn tất cả pháp của Đại Bồ-tát, bấy giờ gọi là chứng đắc Sơ địa Vô sinh pháp nhẫn. Lìa xa tâm, ý, ý thức, năm thể tướng của pháp đạt được vô ngã, như ý ý thân cho đến đạt được Bất động Địa thứ tám như ý ý thân vậy.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là như ý ý thân?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Theo ý đi mau như nhớ nghĩ liền đến, không có chướng ngại gọi là như ý thân. Này Đại Tuệ! Nói như ý là đối với núi vách đá, chướng ngại vô lượng trăm ngàn vạn ức do-tuần mà ý niệm vốn đã ghi nhớ mọi thứ cảnh giới thì sự trói buộc tự tâm chẳng thể ngăn ngại, tự tại mà đi.

Này Đại Tuệ! Như ý thân cũng lại như vậy, được thần lực tự tại của Tam-muội Như huyễn trang nghiêm thân ấy, tiến đến tất cả chủng loại thân Thánh trí không chướng ngại, tùy ý mà đi, do nghĩ về cảnh giới năng lực bản nguyện, vì giáo hóa tất cả các chúng sinh. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Đại Bồ-tát xa lìa tướng sinh, trụ, diệt.

Này Đại Tuệ! Thế nào là Đại Bồ-tát hiểu rõ tướng có, không của pháp bên ngoài? Đó gọi là Bồtát thấy tất cả pháp như sóng nắng, như giấc mơ, như vừng sáng. Do từ vô thủy đến nay chấp trước đủ thứ hý luận, huân tập phân biệt vọng tưởng nên thấy tất cả pháp không có thể tướng, cầu chứng đắc cảnh giới tu hành Thánh trí vậy. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Bồ-tát hiểu rõ tướng có, không của pháp bên ngoài liền thành tựu sự tu hành đại như thật. Này Đại Tuệ! Ông nên tu học như vậy.

Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đức Thế Tôn nói tướng nhân duyên của tất cả pháp khiến con và tất cả các Bồ-tát… biết rõ tướng nhân duyên của các pháp, lìa khỏi có, không, chẳng chánh kiến… vọng tưởng phân biệt các pháp theo thứ lớp hay cùng lúc sinh ra lỗi lầm.

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp có hai loại tướng chứa nhóm nhân duyên là trong và ngoài. Này Đại Tuệ! Tướng chứa nhóm nhân duyên của pháp bên ngoài như gọi viên bùn, trụ, vòng bánh xe, sợi dây, nhân công, nhờ duyên làm phương tiện nên có cái bình sinh ra. Này Đại Tuệ! Như nhân duyên viên bùn… sinh ra cái bình, như vải gai, chiếu cỏ, giống mầm…, nhân công sinh ra sữa đặc. Sinh sữa đặc rồi sinh ra váng sữa. Sinh ra váng sữa rồi thì được đề hồ. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng chứa nhóm nhân duyên của pháp bên ngoài. Từ dưới lên trên ông nên biết.

Này Đại Tuệ! Tướng chứa nhóm nhân duyên của pháp bên trong là gì? Này Đại Tuệ! Đó là vô minh, nghiệp, ái… những pháp như vậy gọi là tướng chứa nhóm nhân duyên bên trong. Này Đại Tuệ! Nương vào vô minh… ấm, giới, nhập… mà được gọi là tướng chứa nhóm nhân duyên, nhưng các phàm phu do hư vọng phân biệt đều thấy có tướng riêng biệt.

Này Đại Tuệ! Nhân có sáu loại. Những gì là sáu?

1. Đương nhân.

2. Tương tục nhân.

3. Tương nhân.

4. Tác nhân.

5. Liễu nhân.

6. Tương đãi nhân.

Này Đại Tuệ! Đương nhân là tạo tác nhân rồi có thể sinh ra pháp trong, ngoài.

Này Đại Tuệ! Tương tục nhân là có thể nương vào duyên, pháp trong ngoài, ấm, chủng tử…

Này Đại Tuệ! Tương nhân là có thể sinh khởi nối tiếp nhau theo thứ lớp tạo tác sự việc mà chẳng đoạn dứt.

Này Đại Tuệ! Tác nhân là có thể làm Tăng thượng nhân như Chuyển luân vương.

Này Đại Tuệ! Liễu nhân là việc vọng tưởng sinh ra rồi có thể hiển thị như đèn soi màu sắc…

Này Đại Tuệ! Tương đãi nhân là đến khi diệt chẳng thấy hư vọng sinh ra pháp, việc nối tiếp nhau đoạn dứt.

Này Đại Tuệ! Các pháp như vậy, phàm phu tự tâm hư vọng phân biệt.

Này Đại Tuệ! Các pháp này chẳng phải theo thứ lớp sinh ra, chẳng phải cùng lúc sinh ra. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì nếu tất cả pháp cùng lúc sinh thì nhân quả chẳng thể sai biệt, do chẳng thấy thân tướng của nhân quả vậy. Nếu các pháp theo thứ lớp sinh thì chưa được thân tướng, chẳng được nói là theo thứ lớp sinh, như chưa có con chẳng thể nói là cha.

Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si tự tâm quan sát, thứ lớp nối tiếp nhau chẳng tương ứng nên nói như vầy: “Nhân duyên, thứ đệ duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên… có thể sinh ra các pháp.”

Này Đại Tuệ! Như vậy các pháp chẳng phải theo thứ lớp sinh ra. Này Đại Tuệ! Hư vọng phân biệt chấp giữ thể, tướng của pháp. Cùng lúc, thứ lớp đều cũng chẳng sinh. Lại nữa, này Đại Tuệ! Do trong tự tâm thấy có thân và của cải vậy. Này Đại Tuệ! Tự tướng, đồng tướng, pháp bên ngoài, pháp không, vậy nên thứ lớp và cùng lúc chẳng sinh.

Này Đại Tuệ! Chỉ là thức hư vọng sinh ra sự thấy của tự tâm vậy.

Này Đại Tuệ! Ông hãy nên lìa khỏi việc nhân duyên chẳng chánh kiến và pháp sinh theo thứ lớp và cùng lúc.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Nhân duyên không sinh ra
Chẳng sinh nên chẳng diệt
Sinh diệt nhân duyên giả
Không sinh cũng không diệt
Vì ngăn các nhân duyên
Người ngu chấp hư vọng
Duyên có, không chẳng sinh
Nên các pháp chẳng khởi
Do ở trong ba cõi
Huân tập tâm mê hoặc
Nhân duyên vốn tự không
Chẳng sinh cũng chẳng diệt.
Thấy những pháp hữu vi
Thạch nữ, hoa hư không.
Lìa sở thủ, năng thủ
Hoặc, vọng kiến chẳng sinh.
Hiện tại đều chẳng sinh
Duyên vốn cũng chẳng có
Hết thảy pháp như thế…
Tự thể là trống không
Cũng không có chỗ trụ
Nói có vì thế gian.

Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đức Thế Tôn vì con nói pháp môn gọi là phân biệt ngôn ngữ tướng tâm. Con và tất cả các Bồ-tát… nếu được biết hoàn thiện pháp môn phân biệt ngôn ngữ tướng tâm thì có thể thông đạt lời nói và nghĩa của hai pháp, mau chóng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chứng Bồ-đề rồi, dùng lời nói và nghĩa có thể khiến cho tất cả các chúng sinh… được thanh tịnh giải thoát.

Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe! Ta sẽ vì ông mà nói.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Con xin nghe nhận!

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Có bốn loại ngôn ngữ vọng tưởng. Những gì là bốn?

1. Tướng ngôn thuyết.

2. Mộng ngôn thuyết.

3. Vọng chấp ngôn thuyết.

4. Vô thủy ngôn thuyết.

Này Đại Tuệ! Tướng ngôn thuyết là gọi sự chấp trước sắc… các tướng mà sinh ra.

Này Đại Tuệ! Mộng ngôn thuyết là nhớ nghĩ về cảnh giới hư vọng đã ghi nhận từ xưa. Nương vào cảnh giới, tỉnh mộng rồi biết nương vào cảnh giới hư vọng chẳng thật mà sinh ra.

Này Đại Tuệ! Chấp trước ngôn thuyết là nhớ nghĩ về việc nghe, việc tạo tác nghiệp xưa mà sinh ra.

Này Đại Tuệ! Vô thủy ngôn thuyết là từ vô thủy đến nay huân tập hạt giống chấp trước, hý luận, phiền não mà sinh ra.

Này Đại Tuệ! Ta đã nói xong bốn loại ngôn thuyết hư vọng chấp trước.

Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại dùng ý nghĩa này thỉnh cầu Đức Như Lai mà bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Thế Tôn vì con nói lại về bốn tướng của hư vọng chấp trước ngôn thuyết. Ngôn ngữ của chúng sinh từ đâu ra? Làm sao sinh ra? Nhân nào sinh ra?

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Từ đầu, ngực, yết hầu, mũi, môi, lưỡi, răng chuyển nên hòa hợp phát ra âm thanh.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Ngôn ngữ trong miệng và tướng của pháp hư vọng là khác hay là chẳng khác? Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Ngôn ngữ hư vọng là chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác. Vì sao? Này Đại Tuệ! Do pháp tướng hư vọng kia làm nhân sinh ra ngôn ngữ. Này Đại Tuệ! Nếu ngôn ngữ khác thì lẽ ra không có nhân sinh ra. Này Đại Tuệ! Nếu chẳng khác thì lời nói chẳng thể tỏ rõ cảnh giới trước nhưng ngôn ngữ đó biết rõ cảnh trước. Vậy nên chẳng phải khác, chẳng phải chẳng khác.

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Vậy ngôn ngữ là Đệ nhất nghĩa, hay lời nói, ngôn ngữ là Đệ nhất nghĩa?

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Chẳng phải ngôn ngữ là Đệ nhất nghĩa. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì khiến cho Đệ nhất nghĩa thuận theo ngôn ngữ nhập vào cảnh giới bậc Thánh. Có ngôn ngữ nói Đệ nhất nghĩa, chẳng phải ngôn ngữ tức là Đệ nhất nghĩa. Này Đại Tuệ! Đệ nhất nghĩa là sự chứng đắc Thánh trí, chẳng phải pháp ngôn ngữ là cảnh giới Trí, do ngôn ngữ có thể biết rõ cảnh giới đó. Này Đại Tuệ! Nói ngôn ngữ Đệ nhất nghĩa chính là pháp sinh diệt, từng niệm từng niệm chẳng trụ, nhân duyên hòa hợp thì có ngôn ngữ sinh ra. Do nhân duyên hòa hợp thì chúng chẳng thể biết rõ Đệ nhất nghĩa. Vì sao? Vì do không có tự tướng và tha tướng. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ngôn ngữ chẳng thể biết rõ Đệ nhất nghĩa.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Thuận theo tự tâm thấy các pháp bên ngoài không có pháp để phân biệt. Vậy nên chẳng thể rõ biết Đệ nhất nghĩa. Do đó, ông hãy nên lìa khỏi đủ loại tướng ngôn ngữ hư vọng phân biệt.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Các pháp vốn hư vọng
Không có tự thể thật
Vậy nên các ngôn ngữ
Chẳng thể nói có không.
Rỗng không cùng chẳng không
Phàm phu chẳng thể biết
Các pháp, không thể tướng
Nói chúng sinh cũng vậy.
Pháp phân biệt có, không
Giống như huyễn hóa, mộng…
Quán sát tất cả pháp
Chẳng trụ ở Niết-bàn
Cũng chẳng trụ thế gian
Như vua và trưởng giả…
Vì khiến các con mừng
Lấy bùn làm cầm thú
Trước cho vật hư ngụy
Việc thật sau mới trao
Ta nói đủ loại pháp
Tương tự bóng trong gương
Làm các Phật tử mừng
Sau thuyết minh thật tế.

Lúc ấy, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Thế Tôn vì các vị Bồ-tát và bản thân con, nói về lìa có và không, một và khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường và vô thường, việc chẳng thể làm của tất cả ngoại đạo, việc tu hành tự chứng giác của Thánh trí, lìa khỏi pháp tự tướng đồng tướng, thể nhập pháp tánh chân thật Đệ nhất nghĩa, các Địa theo thứ lớp dần dần thanh tịnh, hội nhập tướng địa Như Lai, nương vào lực bản nguyện, như báu Như Ý, vô lượng tướng cảnh giới tu hành tự nhiên vận hành, đối với tất cả pháp tự tâm thấy rõ tướng sai biệt, khiến con và các Bồtát… lìa khỏi vọng tưởng phân biệt đồng tướng, dị tướng như vậy, mau đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chứng quả Bồ-đề rồi, chúng con sẽ ban cho tất cả chúng sinh yên ổn vui sướng, đều khiến cho họ thỏa mãn đầy đủ.

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông vì thương xót tất cả hàng trời, người, muốn họ được nhiều an lạc, nhiều lợi ích nên mới có thể hỏi ta ý nghĩa như vậy. Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ vì ông phân biệt giải nói!

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Con xin lắng nghe! Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si chẳng thể hiểu biết là chỉ có tự tâm thấy mà chấp trước vô số những pháp tướng bên ngoài, rồi cho là thật có. Vậy nên, họ hư vọng phân biệt là một hoặc khác, đồng chẳng đồng, có hoặc không, chẳng phải có hoặc chẳng phải không, thường và vô thường, do tự tâm huân tập, nương tâm hư vọng phân biệt.

Này Đại Tuệ! Ví như bầy thú bị khát bức bách nương vào sóng nắng tự tâm mê loạn tưởng là nước, chạy rong khắp nơi, chẳng biết là chẳng phải nước.

Này Đại Tuệ! Như vậy tâm phàm phu ngu si thấy pháp sinh, trụ, diệt, chẳng phân biệt rõ nương vào hư vọng chấp trước hý luận huân tập từ vô thủy đến nay, lửa tham, sân, si bức bách khiến tâm mê hoặc, ưa cầu vô số những cảnh giới sắc. Vậy nên phàm phu rơi vào một hoặc khác, đồng hoặc chẳng đồng, có không, chẳng phải có hoặc chẳng phải không, thường hoặc vô thường…

Này Đại Tuệ! Ví như phàm phu thấy thành Càn-thát-bà mà sinh ra tư tưởng là có thành thật. Họ nương vào chủng tử huân tập thành tưởng phân biệt hư vọng từ vô thủy đến nay mà thấy.

Này Đại Tuệ! Thành kia chẳng phải thành, chẳng phải chẳng thành.

Này Đại Tuệ! Tất cả ngoại đạo cũng lại như vậy, nương vào hý luận huân tập từ vô thủy đến nay mà chấp trước pháp là một-khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường vô thường.

Này Đại Tuệ! Do chẳng hiểu biết là chỉ tự tâm thấy hư vọng.

Này Đại Tuệ! Ví như có người trong giấc mộng thấy những nam, nữ, voi ngựa, xe cộ, thành ấp, xóm làng, bò cùng trâu, vườn rừng, cây cối, vô số núi sông, dòng suối, ao tắm, cung điện, lầu đài, đủ thứ trang nghiêm, rộng lớn rực rỡ, thấy thân ở trong đó, họ bỗng nhiên tỉnh thức. Thức dậy rồi, họ vẫn nghĩ nhớ đến ngôi thành rộng lớn ấy.

Này Đại Tuệ! Ý ông thế nào? Người đó gọi là Thánh giả chăng?

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Chẳng phải vậy, bạch Thế Tôn!

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Tất cả phàm phu ngu si, ngoại đạo, tà kiến, các kiến chấp cũng lại như vậy, chẳng thể hiểu biết các pháp, trong mộng tự tâm thấy nên chấp trước các thấy một khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có chẳng phải không, thường vô thường.

Này Đại Tuệ! Ví như hình vẽ chẳng cao chẳng thấp.

Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si thấy hư vọng cho rằng các pháp có cao, có thấp.

Này Đại Tuệ! Vào đời vị lai, nương theo ngoại đạo nên tâm huân tập tà kiến mà tăng trưởng hư vọng phân biệt một khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có chẳng phải không, thường vô thường…

Này Đại Tuệ! Ngoại đạo kia tự hoại và hủy hoại người khác, nói lời như vầy: “Các pháp chẳng sinh, chẳng diệt, có, không, tịch tĩnh.” Người đó gọi là người chánh kiến.

Này Đại Tuệ! Những ngoại đạo đó phỉ báng pháp nhân quả. Do tà kiến nên nhổ sạch tất cả các căn lành và nhân duyên thanh tịnh của pháp thiện.

Này Đại Tuệ! Người muốn cầu pháp thù thắng thì phải xa lìa người nói pháp như vậy. Tâm người đó chấp trước hai kiến chấp mình và người khác, chấp pháp hư vọng, rơi vào chê bai, kiến lập tâm tà đi vào đường ác.

Này Đại Tuệ! Ví như mắt bị nhặm, thấy trong hư không có vừng sáng nói với người khác rằng: “Những màu sắc, xanh, vàng, trắng, đỏ này sao ông chẳng xem?” Này Đại Tuệ! Vừng sáng đó vốn tự không hình thể. Vì sao? Vì cái có thấy chẳng thể thấy vậy. Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo… nương theo tâm tà kiến hư vọng phân biệt cũng lại như vậy, hư vọng chấp trước một khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có chẳng phải không, thường vô thường sinh ra các pháp.

Này Đại Tuệ! Ví như trời mưa sinh ra bong bóng nước tợ như ngọc pha lê, người phàm phu ngu si thấy sai lầm chấp trước, tưởng là ngọc mà đuổi theo khắp nơi. Này Đại Tuệ! Bong bóng nước đó chẳng phải ngọc báu, chẳng phải chẳng ngọc báu. Vì sao? Vì có chấp giữ, chẳng thể nắm giữ. Này Đại Tuệ! Những ngoại đạo kia nương vào tâm hư vọng nên phân biệt, huân tập cũng lại như vậy, nói chẳng phải pháp có là nương vào nhân duyên sinh ra, lại có thuyết nói rằng, thật có pháp diệt.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Những ngoại đạo đó kiến lập ba lượng, năm phần luận rồi cho rằng, quả thật có pháp nội chứng của bậc Thánh, lìa khỏi hai tự thể, hư vọng phân biệt vậy. Này Đại Tuệ! Lìa tâm, ý, ý thức thì khi chuyển thân liền được thân thánh chủng. Tu hành các hạnh không có tâm như vậy thì lìa khỏi cảnh giới hư vọng của tự tâm chấp “năng thủ và sở thủ” thể nhập Như Lai địa, tự thân tiến đến chứng Thánh trí. Người tu hành như thật thì chẳng sinh tâm có, không. Này Đại Tuệ! Người tu hành như thật thì nhất định đạt đến cảnh giới như vậy.

Này Đại Tuệ! Nếu chấp giữ pháp có, không tức là tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sinh, tướng thọ giả.

Này Đại Tuệ! Nói pháp có, không tự tướng, đồng tướng thì đó gọi là ứng hóa Phật giảng nói, chẳng phải pháp Phật nói.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Đức Như Lai ứng hóa nói pháp như vậy là thuận theo tâm thấy của phàm phu ngu si để khiến cho họ tu hành, chẳng phải là kiến lập sự tu hành như thật, thị hiện hạnh an lạc tự thân chứng Thánh trí Tam-muội.

Này Đại Tuệ! Ví như người thấy bóng cây trong nước. Này Đại Tuệ! Cái đó chẳng phải bóng chẳng phải chẳng bóng. Vì sao? Ví có cây thì có, không cây thì không vậy.

Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo kia nương theo tà kiến vọng tưởng huân tập cũng lại như vậy, phân biệt một khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có chẳng phải không, thường vô thường là vọng tưởng phân biệt vậy. Vì sao? Vì do chẳng hay chẳng biết chỉ là tự tâm thấy vậy.

Này Đại Tuệ! Ví như gương sáng tùy theo duyên được thấy tất cả sắc tượng không có tâm phân biệt. Này Đại Tuệ! Đó chẳng phải hình dáng, chẳng phải chẳng hình dáng. Vì sao? Có duyên thì được thấy, không có duyên thì chẳng thấy.

Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si tự tâm phân biệt thấy hình tượng có, không.

Này Đại Tuệ! Tất cả các ngoại đạo tự tâm vọng tưởng phân biệt hình tượng trong gương cũng lại như vậy, thấy một khác, đồng chẳng đồng.

Này Đại Tuệ! Ví như những tiếng vang nhờ vào người, núi, sông, nước, gió, trống không, nhà… hòa hợp lại mà nghe. Tiếng vang nghe được đó chẳng phải có, chẳng phải không. Vì sao? Vì nhờ vào âm thanh mà nghe âm thanh.

Này Đại Tuệ! Tất cả ngoại đạo tự tâm hư vọng phân biệt huân tập, thấy một khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có chẳng phải không, thường vô thường.

Này Đại Tuệ! Ví như đại địa, chỗ không có các cây cỏ do ánh sáng mặt trời, bụi đất hòa hợp mà thấy sóng nước dao động, nhưng sóng nước đó chẳng phải có, chẳng phải không. Vì sao? Vì khiến cho chúng sinh hoan hỷ, điều chẳng hoan hỷ.

Này Đại Tuệ! Tất cả ngoại đạo, phàm phu ngu si cũng lại như vậy, do từ vô thủy đến nay tâm phiền não huân tập hý luận, phân biệt, sinh, trụ, diệt, một khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có chẳng phải không, thường vô thường. Trong pháp môn chứng trí nơi tự thân của Thánh nhân, thị hiện việc khát ái như sóng nắng vậy.

Này Đại Tuệ! Ví như có người nương theo sức chú thuật khiến thây chết đứng dậy, người gỗ, máy không có thể của chúng sinh nhưng nương theo lực Tỳ-xá-xà, nương theo sức người thợ khéo tạo ra sự đi lại mà những phàm phu ngu si chấp trước cho là thật có. Do việc đi lại của chúng nên, này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si, các ngoại đạo… rơi vào tâm tà kiến cũng lại như vậy, chấp trước hư vọng một khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có chẳng phải không, thường vô thường. Vậy nên phàm phu, ngoại đạo, hư vọng kiến lập pháp như vậy. Vậy nên này Đại Tuệ! Ông phải xa lìa sinh trụ, diệt, một khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có chẳng phải không, thường vô thường mà tự thân nội chứng Thánh trí phân biệt vậy.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Năm ấm cùng với thức
Như bóng cây trong nước
Thấy như huyễn như mộng
Chớ nương chấp ý thức
Các pháp như vầng sáng
Như loáng nước mê hoặc.
Quán sát khắp ba cõi
Tất cả như huyễn mộng
Nếu quán sát như vậy
Tu hành được giải thoát
Như loài thú khát nước
Tâm dao động mê hoặc
Chỗ kia không có nước
Vọng tưởng thấy là nước
Như hạt giống ý thức
Cảnh giới động, thấy sinh
Ngu si chấp là thật
Pháp đó sinh như che
Ngu si đời vô thủy
Chấp vật như hoài bão
Như nhờ chốt tháo chốt
Dùng pháp lừa người phàm.
Huyễn, khởi thây, máy móc
Mộng, chớp, mây thường vậy.
Quán, thế gian như thế
Trừ chấp có, giải thoát
Sóng nắng trong hư không
Các thức không thể biết
Quán các pháp như vậy
Chẳng thấy tất cả pháp
Các thức chỉ có tên
Còn các tướng rỗng không
Thấy ấm như vầng sáng
Phân biệt gì trong pháp?
Hình vẽ, các vừng sáng
Càn-thát-bà, huyễn, mộng
Vầng lửa, chim tìm nước
Thấy có mà thật không.
Thường vô thường và một
Hai, đồng và chẳng đồng
Nương nhân vô thủy buộc
Phàm phu tâm mê hoặc
Trong gương, báu nước, mắt
Hiện đủ loại hình ảnh
Vọng thấy đủ loại sắc
Như mộng, con thạch nữ
Tất cả pháp không thật
Như thú khác nước không.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai nói pháp lìa khỏi bốn kiến chấp. Đó là lìa khỏi một khác, đồng chẳng đồng, xa lìa kiến lập có, không.

Này Đại Tuệ! Tất cả các Đức Phật Như Lai nói pháp vương vào thật tế, nhân duyên, tịch diệt, giải thoát.

Này Đại Tuệ! Tất cả các Đức Phật Như Lai nói pháp nương theo cảnh giới cứu cánh, chẳng phải tự tánh, trời tự tại, không có nhân, thời gian, vi trần… chẳng nương như vậy mà nói pháp.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Các Đức Phật nói pháp lìa khỏi hai chướng là phiền não chướng và trí chướng. Như vị đại thương chủ dẫn mọi người lần lượt đến chỗ rất tịch tĩnh, hoàn toàn yên ổn chưa từng thấy, theo thứ lớp an trí khiến cho họ hiểu biết tướng, sai biệt của Thừa và Địa.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có bốn Thiền. Những gì là bốn?

1. Thiền của phàm phu ngu si thực hành.

2. Thiền quan sát nghĩa.

3. Thiền niệm Chân như.

4. Thiền của Phật Như Lai.

Này Đại Tuệ! Thiền của phàm phu ngu si thực hành là gì? Là người tu hành theo Thanh văn, Duyên giác, ngoại đạo, quan sát nhân vô ngã, tự tướng đồng tướng, xương cốt liền nhau, vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh… chấp trước các tướng, hoàn toàn quyết định như vậy chẳng khác, như vậy theo thứ lớp quan sát trước, theo thứ lớp tiến tới cho đến Phi tưởng, định Diệt tận, giải thoát. Đó gọi là Thiền của Thanh văn, ngoại đạo, phàm phu ngu si…

Này Đại Tuệ! Thiền quán sát nghĩa là gì? Là quán sát nhân vô ngã, tự tướng, đồng tướng, thấy ngoại đạo, phàm phu ngu si tự tướng, đồng tướng, tướng mình, tướng người khác đều không thật; quán sát pháp vô ngã, nghĩa hành tướng của các Địa theo thứ lớp. Này Đại Tuệ! Đó gọi là thiền quán sát nghĩa.

Này Đại Tuệ! Quán thiền Chân như nghĩa là gì? Là quán sát nhân duyên phân biệt hư vọng, biết như thật về hai loại vô ngã, phân biệt như thật thể tướng của tất cả các pháp đều không thật. Bấy giờ, chẳng trụ trong tâm phân biệt đạt được cảnh giới tịch tĩnh. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Thiền quán chân như.

Này Đại Tuệ! Quán sát thiền Như Lai là gì? Là thể nhập như thật Như Lai địa, nhập vào ba không, ba hạnh an lạc của tướng nội thân Thánh trí, có thể thành tựu cho chúng sinh chẳng thể nghĩ bàn. Này Đại Tuệ! Đó gọi quán sát thiền Như Lai.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Những phàm phu… hành thiền
Quán sát thiền nghĩa tướng
Quán niệm Thiền chân như
Thiền Phật tịnh rốt ráo
Như ánh trăng, mặt trời
Tướng Bát-đầu-ma hải
Tướng lửa diệt, hư không
Hành giả quán như vậy
Đủ các tướng như trên
Rơi vào pháp ngoại đạo
Cũng rơi vào Thanh văn
Và hạnh Bích-chi-phật
Xả bỏ hết tất cả
Tức là vô trụ chấp
Phật cõi nước mười phương
Đều dùng tay chân như
Xoa đầu người tu hành
Vào Chân như vô tướng.

Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn nói về Niết-bàn!

Những pháp gì mới gọi là Niết-bàn?

Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Nói Niết-bàn là chuyển diệt thể tướng của các thức, pháp, chuyển các kiến huân tập, chuyển tâm, ý, A-lê-gia thức, pháp tướng huân tập… gọi là Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Ta và các Đức Phật nói về sự rỗng rang của cảnh giới Niết-bàn pháp thể như vậy. Lại nữa, này Đại Tuệ! Nói Niết-bàn nghĩa là cảnh giới tu hành của Thánh trí nội thân, lìa khỏi pháp hư vọng phân biệt có, không.

Này Đại Tuệ! Chẳng phải thường là sao? Là lìa khỏi pháp phân biệt tự tướng đồng tướng. Đó gọi là chẳng phải thường.

Này Đại Tuệ! Chẳng phải đoạn là gì? Là tất cả Thánh nhân quá khứ, vị lai, hiện tại đều được chứng đắc. Đó là chẳng phải đoạn.

Này Đại Tuệ! Bát-niết-bàn là chẳng phải chết, chẳng phải diệt.

Này Đại Tuệ! Nếu Bát-niết-bàn là pháp tử thì đáng lẽ có sinh trói buộc.

Này Đại Tuệ! Nếu Bát-niết-bàn là pháp diệt thì đáng lý rơi vào pháp hữu vi. Vậy nên, này Đại Tuệ! Bát-niết-bàn là chẳng phải chết, chẳng phải diệt, là chỗ nương về của người tu hành như thật.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Nói Niết-bàn là chẳng phải có thể nắm giữ, chẳng phải có thể xả bỏ, chẳng phải chỗ này, chẳng phải chỗ kia, chẳng phải đoạn, chẳng phải thường, chẳng phải một nghĩa, chẳng phải nhiều loại nghĩa. Vậy nên gọi là Niết-bàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Niết-bàn của Thanh văn là quan sát tự tướng đồng tướng mà thấu hiểu các pháp nên gọi là Niết-bàn của Thanh văn. Này Đại Tuệ! Niết-bàn của Bích-chi-phật là chẳng ưa nơi ồn nào, thấy các cảnh giới vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, chẳng sinh ra tướng điên đảo. Vậy nên Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng phải chỗ cứu cánh để sinh ra tưởng Niết-bàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Ta vì ông nói về hai thể tướng của pháp. Những gì là hai?

1. Chấp trước thể tướng của lời nói.

2. Chấp trước thể tướng của các pháp thế gian.

Này Đại Tuệ! Chấp trước thể tướng của lời nói là gì? Là từ vô thủy đến nay chấp trước lời nói hý luận huân tập mà sinh ra.

Này Đại Tuệ! Chấp trước thể tướng của các pháp thế gian là gì? Là chẳng như thật biết chỉ là tự tâm thấy cảnh giới bên ngoài.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát nương vào hai nguyện lực kiến lập để đảnh lễ các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, thưa hỏi chư Như Lai về sự nghi ngờ. Những gì là hai loại nguyện lực trì?

1. Nương vào lực trụ trì của Tam-muội Tamma-đề.

2. Toàn thân được an lạc, gọi là được tay của chư Như Lai xoa đầu trao cho lực trụ trì ngôi vị Phật.

Này Đại Tuệ! Các vị Đại Bồ-tát trụ trong Sơ địa, nương lực trụ trì của các Như Lai gọi là thể nhập vào Tam-muội Đại thừa quang minh của Bồtát.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát nhập vào Tammuội Đại thừa quang minh rồi, bấy giờ các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri mười phương ban cho các Bồ-tát lực trụ trì nên thị hiện thân, miệng, ý.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát Kim Cang Tạng và các Đại Bồ-tát khác thành tựu tướng công đức như vậy.

Này Đại Tuệ! Những Đại Bồ-tát như vậy chứng Sơ địa, trụ ở lực trụ trì Tam-muội Tam-ma-bạt-đề, dùng năng lực căn lành tu tập ở trăm ngàn vạn ức kiếp, theo thứ lớp như thật biết và thành tựu pháp tướng đối trị các Địa. Đại Bồ-tát đến Pháp vân địa, trụ ở cung điện vua Đại Bảo Liên Hoa, ngồi lên tòa Sư tử với Đại Bồ-tát quyến thuộc đồng loại vây quanh, mũ báu, chuỗi ngọc trang nghiêm thân mình như vàng Diêm-phù-đàn, hoa Chiêm-bặc, ánh sáng mặt trời mặt trời, mặt trăng, màu sắc của hoa sen thù thắng.

Bấy giờ, tất cả các Đức Phật mười phương đều duỗi tay ra, từ xa xoa đầu Đại Bồ-tát trên vương tòa Liên hoa như vị thái tử được Tự tại vương, Đế Thích vương, Chuyển luân vương làm lễ quán đảnh trao ngôi vị.

Này Đại Tuệ! Vị Bồ-tát được trao ngôi vị kia và những Đại Bồ-tát quyến thuộc nương theo tay Như Lai xoa đầu nên được an lạc toàn thân. Vậy nên nói rằng, lực trụ trì của tay xoa đầu Bồ-tát.

Này Đại Tuệ! Đó gọi là hai lực trụ trì của những Đại Bồ-tát.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát nương vào hai lực trụ trì này nên có thể quán sát thân của tất cả các Đức Như Lai.

Này Đại Tuệ! Nếu không có hai lực trụ trì thì chẳng được thấy các Đức Phật Như Lai.

Này Đại Tuệ! Nếu các vị Đại Bồ-tát lìa khỏi hai lực trụ trì mà có thể nói pháp thì phàm phu ngu si lẽ ra cũng nói pháp. Vì sao? Vì chẳng được lực trụ trì của các Đức Phật.

Này Đại Tuệ! Nương theo lực trụ trì của các Đức Như Lai nên núi sông, vách đá, cỏ cây, vườn rừng và đủ loại kỹ nhạc, thành ấp, xóm làng, cung điện, nhà cửa… đều có thể phát ra tiếng nói pháp, các nhạc cụ tự nhiên đều phát ra âm thanh.

Này Đại Tuệ! Huống gì là người có tâm khiến vô lượng chúng sinh điếc, mù, câm, ngọng lìa khỏi những khổ não.

Này Đại Tuệ! Lực trụ trì của các Đức Phật Như

Lai có vô lượng lợi ích làm cho chúng sinh an lạc. Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao khi các Đại Bồ-tát nhập vào Tam-muội Tam-ma-bạt-đề và thể nhập các Địa thì được các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến

Tri gia hộ lực trụ trì?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Vì hộ trì nghiệp ma tâm phiền não tán loạn, vì chẳng rơi vào cõi thiền định của Thanh văn, vì nội thân chứng Như Lai địa, vì tăng trưởng nội thân chứng pháp.

Này Đại Tuệ! Vậy nên các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì các Bồ-tát gia hộ lực trụ trì.

Này Đại Tuệ! Nếu các Đức Như Lai chẳng vì Bồ-tát gia hộ lực trụ trì thì chư vị ấy rơi vào việc ma của các ngoại đạo, Thanh văn, Bích-chi-phật, chẳng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vậy nên, các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri đại Từ luôn hộ trì các vị Bồ-tát.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Bồ-tát nương tự thân
Bản nguyện lực thanh tịnh
Thể nhập các Tam-muội
Từ Sơ đến Thập địa
Chư Phật nhân trung tôn
Dùng thần lực trụ trì.

QUYỂN 4

Phẩm 3: TẬP HỢP TẤT CẢ PHÁP PHẬT (Phần 3)

Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Đức Thế Tôn giảng nói, mười hai nhân duyên từ nhân sinh ra quả, chẳng nói tự tâm vọng tưởng phân biệt, thấy sức lực mà sinh ra. Bạch Thế Tôn! Nếu vậy, ngoại đạo cũng nói từ nhân sinh ra quả. Bạch Thế Tôn! Ngoại đạo nói rằng, từ nơi tự tánh, khi trời Tự tại do vi trần… sinh ra tất cả pháp. Đức Như Lai cũng nói, nương vào nhân duyên mà sinh ra các pháp, mà chẳng nói có pháp tự kiến lập. Bạch Thế Tôn! Ngoại đạo cũng nói, từ nơi có không mà sinh ra các pháp. Đức Thế Tôn nói rằng, các pháp vốn không, nương nhân duyên mà sinh, sinh rồi trở lại diệt. Đức Thế Tôn nói, từ Vô minh duyên hành cho đến hữu, nương vào nhãn thức… sinh ra tất cả pháp. Như Đức Thế Tôn nói thì cũng có các pháp không có nhân mà sinh. Vì sao? Vì chẳng từ nhân sinh ra một lúc, không sinh ra trước, sau. Do nhân pháp này sinh ra pháp này. Đức Thế Tôn tự nói, nương vào nhân hư vọng mà pháp sinh ra; pháp này chẳng phải theo thứ lớp sinh ra. Nếu vậy thì ngoại đạo nói pháp hơn Đức Như Lai sao. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì ngoại đạo nói, nhân không nhân duyên có thể sinh ra quả. Đức Như Lai nói, nhân của pháp cũng nương vào quả, quả cũng nương vào nhân. Nếu vậy thì nhân duyên không nhân, không quả. Bạch Thế Tôn! Nếu vậy thì nhân quả đó đây đắp đổi không cùng. Thế Tôn nói rằng, từ pháp này sinh ra pháp kia. Nếu vậy thì không nhân sinh ra pháp?

Đức Phật bảo Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Ta nay sẽ nói, nhân pháp này sinh ra pháp kia chẳng đồng với sự kiến lập nhân quả của ngoại đạo. Pháp không nhân cũng từ nhân sinh ra, còn ta chẳng như vậy. Ta nói, các pháp từ nhân duyên sinh, chẳng phải không nhân duyên, cũng chẳng tạp loạn, cũng không lỗi đắp đổi vô cùng. Vì sao? Vì do pháp không có năng thủ, sở thủ. Này Đại Tuệ! Ngoại đạo chẳng biết tự tâm thấy nên chấp trước pháp năng thủ, sở thủ, chẳng biết rõ chỉ tự tâm thấy pháp cả trong lẫn ngoài. Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo kia chẳng biết cảnh giới bên trong của tâm mình nên thấy vật có, không. Vậy nên, ngoại đạo có lỗi như vậy, chẳng phải lỗi của ta. Ta thường nói rằng, nhân duyên hòa hợp mà sinh ra các pháp, chẳng phải không có nhân sinh ra.

Bồ-tát Đại Tuệ lại nói:

–Bạch Thế Tôn! Có ngôn ngữ để nói thì lẽ ra có các pháp. Bạch Thế Tôn! Nếu không có các pháp thì lẽ ra chẳng nói lời nói. Bạch Thế Tôn! Vậy nên nương vào lời nói lẽ ra có các pháp.

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Cũng có và không có pháp mà nói lời nói, như sừng thỏ, lông rùa, thạch nữ có con… ở trong thế gian mà có lời nói. Này Đại Tuệ! Sừng thỏ đó chẳng phải có, chẳng phải không mà nói lời nói. Này Đại Tuệ! Ông nói, do có lời nói nên có các pháp thì nghĩa này đã bị phá. Này Đại Tuệ! Chẳng phải tất cả cõi Phật đều dùng ngôn ngữ để nói pháp. Vì sao? Vì các ngôn ngữ chỉ là tâm người phân biệt mà nói. Vậy nên, này Đại Tuệ! Có cõi nước Phật chỉ nhìn thẳng không chớp mắt, miệng không phát ra lời nói gọi là nói pháp, có cõi nước Phật thị hiện tướng của người đó gọi là nói pháp. Có cõi nước Phật chỉ nhướng mày gọi là nói pháp. Có cõi nước Phật chỉ nháy mắt gọi là nói pháp. Có đất nước Phật chỉ cười gọi là nói pháp. Có cõi nước Phật chỉ ngáp gọi là nói pháp. Có cõi nước Phật chỉ tằng hắng gọi là nói pháp. Có cõi nước Phật chỉ niệm gọi là nói pháp. Có đất nước Phật, thân mạng gọi là nói pháp. Này Đại Tuệ! Như thế giới Vô thuấn và thế giới Chúng hương, ở chỗ Đức Phổ Hiền Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, hàng Đại Bồ-tát ở đó quán sát Như Lai không hề chớp mắt thì đạt được pháp Nhẫn vô sinh, cũng đạt được vô lượng pháp Tam-muội thù thắng. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ông chẳng được nói rằng, có ngôn ngữ để nói nên có các pháp. Này Đại Tuệ! Như Lai cũng thấy tất cả loài chúng sinh trong các thế giới như vi trùng, muỗi, mòng, ruồi nhặng… chẳng nói ngôn ngữ mà cùng nhau hoàn thành công việc của mình.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Như hư không, sừng thỏ
Và thạch nữ sinh con
Không mà có ngôn ngữ
Như vậy phân biệt suông
Pháp nhân duyên hòa hợp
Ngu si sinh phân biệt
Chẳng biết pháp như thật
Xoay vần trong ba cõi.

Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói pháp là thường, thì nương vào những pháp gì mà nói những lời như vậy?

Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Nương vào pháp mê hoặc ta nói là thường. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì bậc Thánh cũng thấy pháp mê hoặc của thế gian, chẳng phải là tâm điên đảo. Này Đại Tuệ! Ví như loáng nắng, vừng lửa, vừng sáng thành Càn-thát-bà, huyễn, mộng, trăng trong nước, hình tượng trong gương… Người thế gian chẳng phải bậc Trí tuệ thì thấy có các hình tượng, thấy điên đảo vậy. Người có trí tuệ thì chẳng sinh ra phân biệt, chẳng phải chẳng thấy sự việc mê hoặc đó. Này Đại Tuệ! Người có trí tuệ thì thấy vô số việc mê hoặc kia, chẳng sinh tâm cho là thật. Vì sao? Vì lìa khỏi pháp có, không vậy.

Đức Phật lại bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Pháp mê hoặc lìa khỏi có, không là sao? Nghĩa là những phàm phu ngu si thấy có đủ loại cảnh giới như những ngạ quỷ thấy biển cả sông Hằng, tuy thấy nước mà chẳng thấy. Này Đại Tuệ! Pháp mê hoặc này thì chẳng được nói có, chẳng được nói không.

Này Đại Tuệ! Còn chúng sinh khác thì thấy đó chính là nước nên chẳng được nói không. Này Đại Tuệ! Việc mê hoặc cũng lại như vậy, do các Thánh nhân lìa khỏi cái thấy điên đảo.

Này Đại Tuệ! Nói rằng pháp mê hoặc thường, là do sự sai biệt của tưởng vậy. Này Đại Tuệ! Do pháp mê hoặc nên thấy đủ loại tướng mà pháp mê hoặc chẳng phân biệt sự sai biệt nào khác. Vậy nên, này Đại Tuệ! Pháp mê hoặc là thường.

Này Đại Tuệ! Sao pháp mê hoặc mà gọi là thật? Do các Thánh nhân ở trong pháp mê hoặc, chẳng sinh tâm điên đảo, cũng chẳng sinh tâm chân thật. Này Đại Tuệ! Các bậc Thánh thấy pháp mê hoặc đó khởi lên chút ít tâm tưởng, chẳng sinh ra sự tướng của Thánh trí. Này Đại Tuệ! Khởi lên chút ít tưởng thì đó gọi là phàm phu, chẳng phải gọi là bậc Thánh.

Này Đại Tuệ! Phân biệt pháp mê hoặc đó là điên đảo, chẳng phải là điên đảo là có thể sinh ra hai tánh. Những gì là hai?

1. Có thể sinh ra tánh phàm phu.

2. Có thể sinh ra tánh Thánh nhân.

Này Đại Tuệ! Tánh Thánh nhân đó là có thể sinh ra ba tánh sai biệt. Đó là tánh sai biệt về cõi nước của Thanh văn, Bích-chi-phật và Phật.

Này Đại Tuệ! Pháp phàm phu ngu si phân biệt mê hoặc là gì mà có thể sinh ra tánh Thanh văn thừa đó? Này Đại Tuệ! Đó gọi là chấp trước mê hoặc pháp tự tướng, đồng tướng kia thì có thể thành tánh Thanh văn thừa. Này Đại Tuệ! Đó gọi là pháp mê hoặc có thể sinh ra, có thể thành tánh thừa Thanh văn.

Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si phân biệt, mê hoặc pháp là gì mà có thể sinh ra tánh thừa Bíchchi-phật đó? Này Đại Tuệ! Đó là chấp trước mê hoặc pháp đó quan sát tự tướng, đồng tướng của các pháp mà chẳng ưa ồn náo thì có thể sinh ra tánh thừa Bích-chi-phật. Này Đại Tuệ! Đó gọi là pháp Mê hoặc có thể sinh ra, có thể thành tánh thừa Bích-chi-phật.

Này Đại Tuệ! Bậc trí liền phân biệt pháp mê hoặc đó có thể sinh ra tánh Phật thừa là gì? Này Đại Tuệ! Là gọi sự thấy về năng kiến, sở kiến đó chỉ là tự tâm, mà chẳng phân biệt pháp có, không. Này Đại Tuệ! Như vậy quan sát pháp mê hoặc có thể sinh ra, có thể thành tánh Như Lai thừa. Này Đại Tuệ! Như vậy gọi là nghĩa của tánh.

Này Đại Tuệ! Thế nào là tất cả phàm phu ngu si? Tức là phân biệt pháp mê hoặc đó thấy đủ thứ việc, có thể sinh tánh thừa của thế gian. Do quan sát các pháp như vậy… như vậy… quyết định chẳng sai khác. Vậy nên, này Đại Tuệ! Pháp mê hoặc đó, kẻ phàm phu ngu si hư vọng phân biệt đủ loại pháp thể. Này Đại Tuệ! Mê hoặc pháp đó chẳng phải là việc thật, chẳng phải là việc chẳng thật. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì bậc Thánh quan sát pháp mê hoặc đó mà chẳng hư vọng phân biệt. Vậy nên, bậc Thánh có thể chuyển biến tâm, ý, ý thức, thân tướng, lìa khỏi sự tích tập phiền não. Vậy nên, bậc Thánh chuyển pháp mê hoặc đó, gọi là Chân như.

Này Đại Tuệ! Pháp này tên là gì? Này Đại Tuệ! Đây gọi là pháp Chân như, pháp lìa phân biệt. Này Đại Tuệ! Vì nghĩa này nên ta một lần nữa tuyên nói pháp thể Chân như, pháp lìa phân biệt. Trong Chân như đó không có pháp hư vọng phân biệt kia.

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Pháp mê hoặc kia là có hay không?

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Pháp mê hoặc kia chấp trước đủ loại tướng nên gọi là có. Này Đại Tuệ! Pháp mê hoặc kia ở trong vọng tưởng nếu là có thì tất cả bậc Thánh, lẽ ra chẳng lìa khỏi do chấp trước nên có pháp hư vọng có, không. Này Đại Tuệ! Như ngoại đạo nói mười hai nhân duyên, có từ nhân sinh ra, chẳng từ nhân sinh ra. Nghĩa này cũng như vậy!

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nếu thấy pháp mê hoặc như huyễn thì pháp mê hoặc này khác với mê hoặc, vì pháp mê hoặc có thể sinh ra pháp?

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Chẳng phải pháp mê hoặc sinh ra lỗi lầm phiền não. Này Đại Tuệ! Nếu chẳng phân biệt pháp mê hoặc thì chẳng sinh ra các lỗi lầm.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Tất cả pháp huyễn nương và công sức người và chú thuật mà sinh ra, chẳng phải tự âm phân biệt phiền não mà sinh ra. Vậy nên, này Đại Tuệ! Pháp mê hoặc kia chẳng sinh ra các lỗi lầm, chỉ là người ngu si thấy pháp mê hoặc. Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si chấp trước việc hư vọng vi tế mà sinh ra các lỗi lầm, chẳng phải là bậc Thánh.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Thánh chẳng thấy mê hoặc
Thế gian cũng không thật
Mê hoặc tức là thật
Pháp thật ắt mê lầm.
Xa lìa các mê hoặc
Nếu có tướng phát sinh
Tức đó là mê hoặc
Chẳng tịnh như ngăn che.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Ông chẳng nên nói huyễn là không, nên tất cả các pháp cũng không như huyễn.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Vì chấp trước các pháp tướng như huyễn nên nói rằng, các pháp như huyễn. Vì chấp trước tướng các pháp điên đảo nên nói rằng, các pháp hư huyễn. Bạch Thế Tôn! Nếu chấp trước các pháp tướng như huyễn thì Thế Tôn chẳng nên nói rằng, tất cả pháp đều như tướng huyễn. Nếu chấp trước các pháp tướng điên đảo nên nói như huyễn thì chẳng nên nói rằng, tất cả pháp như huyễn. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Sắc có đủ vô số nhân, tướng để thấy. Không có nhân khác để sắc có các tướng có thể thấy như huyễn. Vậy nên, chẳng nên nói rằng, chấp trước các pháp, tất cả đều như huyễn.

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Chẳng phải gọi chấp trước đủ loại pháp tướng thì nói rằng, các pháp tất cả đều như huyễn. Này Đại Tuệ! Các pháp điên đảo diệt mau chóng như ánh chớp nên nói như huyễn. Tất cả các pháp ví như ánh chớp, chợt thấy liền mất mà phàm phu chẳng thấy. Tất cả các pháp cũng lại như vậy, do tự tâm phân biệt đồng tướng, dị tướng của tất cả pháp, do chẳng thể quán sát nên chẳng thấy như thật, do vọng chấp sắc, pháp…

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Chẳng thấy sắc và pháp
Nói rằng pháp không, huyễn
Nên chẳng trái trên dưới
Ta nói tất cả pháp
Chẳng thấy có bản tánh
Như huyễn, thể không sinh.

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn nói, các pháp chẳng sinh, rồi lại nói rằng như huyễn. Theo lời nói trước sau của Thế Tôn về tự tướng không trái sao? Do Đức Như Lai nói tất cả pháp chẳng như huyễn. Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Ta nói, tất cả pháp chẳng sinh, như huyễn thì chẳng thành ra trước sau có sự trái lỗi nhau. Vì sao? Vì tất cả phàm phu ngu si chẳng thấy pháp sinh và pháp chẳng sinh, chẳng thể hay biết tự tâm có không, pháp bên ngoài có không. Vì sao? Do chẳng thể thấy pháp chẳng sinh. Này Đại Tuệ! Như vậy, ta nói các pháp trước sao không có trái nhau.

Này Đại Tuệ! Ta ngăn ngoại đạo kiến lập nghĩa nhân quả chẳng tương đương. Vậy nên ta nói các pháp chẳng sinh.

Này Đại Tuệ! Tất cả ngoại đạo tụ tập lại mà nói như vầy: “Từ nơi có, không sinh ra tất cả các pháp.” Họ chẳng nói do tự tâm phân biệt, chấp trước, nhân duyên mà sinh ra.

Này Đại Tuệ! Ta nói các pháp có cũng chẳng sinh, không cũng chẳng sinh. Vậy nên, ta nói, các pháp chẳng sinh, chẳng diệt.

Này Đại Tuệ! Ta nói tất cả các pháp có là để giúp đỡ các đệ tử, khiến cho họ biết hai pháp.

Những gì là hai?

1. Giữ gìn các thế gian.

2. Vì giúp đỡ cho các đoạn kiến.

Vì sao? Vì nương theo nghiệp nên có đủ thứ nhân, sinh ra trong sáu đường. Vậy nên ta nói rằng, có các pháp giữ gìn thế gian.

Này Đại Tuệ! Ta nói, tất cả pháp như huyễn là vì khiến cho tất cả phàm phu ngu si rốt cùng có thể lìa khỏi tự tướng, đồng tướng. Do tâm các phàm phu ngu si chấp trước nên rơi vào tà kiến. Do chẳng thể biết, chỉ là tự tâm thấy hư vọng, khiến cho lìa khỏi sự chấp trước nơi pháp nhân duyên sinh. Vậy nên ta nói, tất cả các pháp như huyễn, như mộng, không có thật thể. Vì sao? Vì nếu chẳng nói như vậy thì phàm phu ngu si chấp tâm tà kiến, lừa dối tự thân và cả người khác, lìa khỏi sự thấy như thật đối với tất cả pháp.

Này Đại Tuệ! Làm sao trụ ở sự thấy như thật?

Là thể nhập tự tâm, thấy các pháp vậy.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Như ông nói các pháp
Tất cả đều chẳng sinh
Là chê bai nhân quả
Như thật thấy chẳng sinh
Ta nói có pháp sinh
Giữ gìn các thế gian
Thấy các pháp như huyễn
Chẳng chấp tướng các kiến.

Lại nữa, Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Ta nay vì các Đại Bồ-tát nói về danh, cú, tự thân, tướng để các Bồ-tát khéo biết về danh, cú, tự thân, tướng mà nương theo danh, cú, tự thân tướng mau chóng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chứng đắc Bồ-đề rồi, các Bồ-tát vì chúng sinh nói về danh, cú, tự, tướng.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Thế Tôn giảng nói!

–Này Đại Tuệ! Thế nào là danh thân? Là nương theo những pháp gì tạo ra tên gọi, danh thân và sự vật có tên khác nhau nhưng nghĩa là một.

Này Đại Tuệ! Danh này ta nói là danh thân.

Này Đại Tuệ! Thế nào là cú thân? Là việc nghĩa quyết định thấy nghĩa rốt ráo. Đó gọi là ta nói cú thân.

Này Đại Tuệ! Thế nào là chữ thân? Là văn cú rốt ráo.

Lại nữa, danh thân là nương vào những pháp gì để phân biệt rõ danh cú, có thể biết rõ hình tướng của mình.

Này Đại Tuệ! Cú thân là gọi văn cú, sự việc rốt ráo vậy.

Này Đại Tuệ! Danh thân là gọi những chữ từ tên gọi sai biệt như từ chữ A cho đến chữ Ha gọi là danh thân.

Này Đại Tuệ! Chữ thân là gọi tiếng dài ngắn, âm vận cao thấp gọi là tự thân.

Này Đại Tuệ! Cú thân là gọi đường đi, dấu vết như đường đi, dấu vết của người, voi, ngựa, các loài thú… được gọi là cú.

Này Đại Tuệ! Danh tự là gọi bốn ấm không sắc nương vào danh mà nói.

Này Đại Tuệ! Tướng danh tự là gọi khả năng phân biệt rõ tướng của danh tự. Đó gọi là danh, cú, tự thân tướng. Như vậy, danh, cú, tự tướng, ông nên học và diễn nói cho người khác.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Danh thân cùng cú thân
Và tự thân sai biệt
Phàm phu ngu chấp trước
Như voi chìm xuống bùn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Trong đời vị lai, người không trí tuệ, do tâm tà kiến, chẳng biết pháp như thật nên do luận thế gian mà tự cho là người trí. Người có trí hỏi pháp như thật, lìa khỏi tướng tà kiến: một khác, đồng chẳng đồng mà người ngu kia nói như vầy: “Phải hỏi chẳng phải là chẳng phải hỏi chánh niệm. Gọi các pháp sắc… là thường vô thường, là một là khác. Như vậy Niết-bàn là hữu vi. Các hành là một là khác. Năng kiến, sở kiến trong tướng là một là khác. Tác giả, sở tác là một là khác. Sắc, hương, vị, xúc trong bốn đại là một là khác. Năng kiến, sở kiến là một là khác. Viên bùn, vi trần là một là khác. Sự hiểu biết của người trí là một là khác. Tướng thứ lớp thượng thượng, vô ký thượng thượng như vậy để đáp rằng, Đức Phật nói như vậy, thì đó là bài báng ta.

Này Đại Tuệ! Ta chẳng nói pháp như vậy, chỉ vì ngăn chận ngoại đạo và người tà kiến nói. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì ngoại đạo… nói thân tức mạng, thân khác mạng khác. Những pháp như vậy… mà ngoại đạo đã nói chính là Pháp vô ký. Này Đại Tuệ! Ngoại đạo mê mờ đối với nghĩa nhân quả, vậy nên vô ký, chẳng phải trong pháp của ta, gọi là vô ký.

Này Đại Tuệ! Trong Phật pháp của ta lìa khỏi tưởng năng kiến, sở kiến hư vọng, tâm không phân biệt. Vậy nên, trong Pháp của không có trí đáp. Các ngoại đạo… chấp trước sở thủ, năng thủ mà chẳng biết chỉ là tự tâm thấy pháp. Vì những người đó nên ta nói rằng, có bốn loại hỏi pháp, vô ký, trí đáp chẳng phải ở trong pháp của ta.

Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì các chúng sinh, có bốn loại lời nói để đáp.

Này Đại Tuệ! Vì đúng thời nên ta nói pháp như vậy. Vì chúng sinh căn chưa thành thục, chẳng phải vì chúng sinh căn thuần thục. Vậy nên, ta nói nghĩa của trí đáp.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Tất cả các pháp nếu lìa khỏi người tạo tác và nhân thì chẳng sinh, do không có người tạo tác nên ta nói, các pháp chẳng sinh.

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Tất cả các pháp không có thể tướng.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao tất cả các pháp không có thể tướng?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Vì tự trí quán sát tự tướng, đồng tướng của tất cả các pháp mà chẳng thấy các pháp.

Vậy nên ta nói tất cả các pháp không có thể tướng thật

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ: Tất cả các pháp cũng không có tướng chấp giữ.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Do nghĩa gì mà tất cả các pháp cũng không có tướng chấp giữ?

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Do tự tướng, đồng tướng không có pháp có thể chấp giữ nên ta nói không có pháp chấp giữ.

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp cũng không có tướng xả

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao các pháp cũng không tướng xả?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Quán sát pháp tự tướng, đồng tướng thì không có pháp có thể bỏ. Vậy nên ta nói, tất cả pháp cũng không có tướng xả.

Đức Phật lại bảo:

–Này Đại Tuệ! Các pháp chẳng diệt!

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao tất cả các pháp chẳng diệt?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Quán sát tự tướng, đồng tướng của tất cả pháp không có thể tướng. Vậy nên ta nói, các pháp chẳng diệt.

Đức Phật lại bảo:

–Này Đại Tuệ! Các pháp vô thường.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao tất cả các pháp vô thường?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp luận vô thường mà tưởng là thường, vì chẳng sinh ra tướng. Vậy nên ta nói, các pháp vô thường. Lại nữa, này Đại Tuệ! Ta nói, tất cả các pháp vô thường.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao tất cả các pháp vô thường?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Do tướng chẳng sinh, do chẳng sinh ra thể tướng nên luôn vô thường. Vậy nên ta nói, các pháp vô thường.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Ký luận có bốn loại:
Trực đáp, phản chất đáp
Phân biệt đáp, trí đáp
Để chế ngự ngoại đạo!
Hữu và phi hữu sinh
Thế sư, tăng-khư-tỳ
Nói rằng, đều vô ký
Họ nói lời như trên.
Người chánh trí quán sát
Tự tánh chẳng nắm bắt
Vậy nên chẳng thể nói
Và nói, không thể tướng.

Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Thế Tôn vì chúng con nói về tướng sai biệt những hạnh của Tu-đàhoàn… để con và tất cả Đại Bồ-tát… biết rõ tướng tu hành của Tu-đà-hoàn… rồi được biết như thật về Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-lahán… mà sẽ như vậy… như vậy… vì chúng sinh giải nói. Chúng sinh nghe rồi, thể nhập vào hai tướng vô ngã thanh tịnh hai chướng, thứ lớp tiến lên đạt được Địa, tướng thù thắng của Địa, đạt được cảnh giới tu hành chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai. Bồ-tát đạt được chỗ tu hành rồi thì như ngọc báu Như ý, tùy theo ý niệm thọ dụng, cảnh giới và sự vận hành thân miệng ý của chúng sinh.

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Hay thay! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe! Ta nay vì ông giảng nói.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Con xin nghe nhận!

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Tu-đà-hoàn có ba quả sai biệt!

Bồ-tát Đại Tuệ hỏi:

–Những gì là ba?

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Đó gọi là hạ, trung, thượng. Này Đại Tuệ! Sao gọi là hạ Tu-đà-hoàn? Nghĩa là bảy lần trở lại thọ sinh trong ba cõi.

Này Đại Tuệ! Sao gọi là trung? Nghĩa là ba lần sinh hay năm lần sinh trở lại, rồi nhập Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Sao gọi là thượng? Nghĩa là một lần sinh trở lại rồi nhập Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Ba bậc Tu-đà-hoàn này luôn có ba loại kết sử, gọi là thượng, trung, hạ.

Này Đại Tuệ! Những gì là ba kết sử? Là thân kiến, nghi, giới cấm thủ. Vượt lên trên ba thứ kết sử đó thì đạt được quả A-la-hán.

Này Đại Tuệ! Thân kiến có hai thứ. Những gì là hai?

1. Câu sinh.

2. Hư vọng phân biệt mà sinh, như pháp nhân duyên phân biệt.

Này Đại Tuệ! Ví như nương theo các pháp tướng nhân duyên hư vọng phân biệt mà sinh ra thật tướng. Trong pháp nhân duyên đó chẳng phải có, chẳng phải không; do phân biệt có, không nên chẳng phải là thật tướng. Phàm phu ngu si chấp trước đủ loại pháp tướng, như các loài cầm thú thấy loáng nắng mà chấp giữ cho là nước. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Tu-đà-hoàn phân biệt thân kiến. Vì sao? Vì do không có trí mà từ đời vô thủy đến nay hư vọng chấp giữ tướng.

Này Đại Tuệ! Thân này thấy cấu bẩn, thấy được nhận vô ngã thì mới có thể lìa xa.

Này Đại Tuệ! Sao câu sinh là thân kiến của Tuđà-hoàn? Là đều chấp thân mình, thân người khác. Bốn ấm của hai thân kiến đó, khi sinh ra sắc ấm ở Vô sắc thì nương vào bốn Đại và bốn trần… Nhân duyên đó, đây hòa hợp sinh ra sắc, mà Tu-đà-hoàn đã biết thì có thể xa lìa tà kiến có, không, đoạn trừ thân kiến. Đoạn thân kiến rồi, chẳng sinh lòng tham. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng thân kiến của Tu-đà-hoàn.

Này Đại Tuệ! Sao gọi là tướng nghi của Tu-đàhoàn? Nghĩa là được chứng pháp thiện, thấy tướng rồi thì trước tiên đoạn trừ thân kiến và tâm phân biệt nhị kiến. Vậy nên, ở trong các pháp chẳng sinh tâm nghi, lại chẳng sinh tâm đối với những bậc tôn kính khác, do vì tưởng bậc tôn kính là tịnh hay bất tịnh. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng nghi của Tuđà-hoàn.

Này Đại Tuệ! Sao là tướng giới thủ của Tu-đàhoàn? Nghĩa là thấy rõ tướng khổ của chỗ thọ sinh. Vậy nên, chẳng chấp giữ giới tướng. Này Đại Tuệ! Giới thủ nghĩa là các phàm phu trì giới tinh tấn, làm vô số điều lành để cầu cảnh giới an vui, sinh trong các cõi trời. Bậc Tu-đà-hoàn kia chẳng chấp thủ tướng này mà chỉ chấp giữ nội chứng tự thân, hồi hướng tiến đến chỗ thù thắng hơn, lìa khỏi các vọng tưởng, tu giới phần vô lậu. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng giới thủ của Tu-đà-hoàn. Vì vậy, Tuđà-hoàn ba kết sử phiền não, xa lìa tham, sân, si.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Đức Thế Tôn nói, mọi người nhiều tham, Tu-đà-hoàn lìa khỏi những tham gì?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Tu-đà-hoàn xa lìa việc cùng với nữ nhân hòa hợp, chẳng vì niềm vui hiện tại mà gieo nhân khổ vị lai, xa lìa đánh đập, than thở, ôm ấp, liếc nhìn. Này Đại Tuệ! Tu-đà-hoàn chẳng sinh lòng tham như vậy. Vì sao? Vì đã được Tam-muội lạc hạnh. Này Đại Tuệ! Tu-đà-hoàn xa lìa những sự tham như vậy… chẳng phải lìa khỏi tham Niếtbàn.

Này Đại Tuệ! Sao là quả tướng của Tư-đàhàm? Nghĩa là một lần trở lại là thấy sắc tướng khởi tâm hiện tiền chẳng phải thấy do tưởng hư vọng phân biệt, do thấy rõ tướng thiền tu hành. Một lần trở lại thế gian, liền đoạn hết khổ, được nhập Niết-bàn. Đó gọi là Tư-đà-hàm.

Này Đại Tuệ! Tướng A-na-hàm là gì? Nghĩa là ở trong sắc tướng quá khứ, hiện tại, vị lai sinh ra tâm có không, do kiến giải khiến tâm hư vọng phân biệt, nhưng các kết sử chẳng sinh, chẳng tái sinh nên gọi là A-na-hàm.

Này Đại Tuệ! Tướng A-la-hán là gì? Nghĩa là chẳng sinh ra tư duy phân biệt cái có thể tư duy, tâm phân biệt về lực, Tam-muội, giải thoát, thần thông, phiền não, khổ… đó gọi là A-la-hán.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nói về ba bậc A-la-hán thì đây nói những La-hán nào gọi là A-la-hán? Xin Thế Tôn vì con nói về La-hán chắc chắn được tịch diệt, La-hán vì căn lành phát nguyện Bồ-đề mà quên mất căn lành, La-hán vì hóa độ nên ứng hóa.

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Ta vì ông nói về Thanh văn Lahán chắc chắn được tịch diệt, chẳng phải La-hán khác. Này Đại Tuệ! La-hán khác là gọi người từng tu hành hạnh Bồ-tát, lại có Ứng hóa Phật đã hóa ra La-hán. Do lực phương tiện căn lành của nguyện xưa nên hiện ra ở các cõi Phật, sinh ra trong đại chúng, làm trang nghiêm đại hội của chư Phật vậy. Này Đại Tuệ! Các vị ấy phân biệt quá khứ, vị lai nói đủ mọi việc, xa lìa quả chứng có thể tư duy về năng tư duy, sở tư duy, do thấy tự tâm, vì thấy sở kiến, nói chứng đắc quả tướng.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Nếu Tu-đà-hoàn khởi tâm như vầy: “Đây là ba kiết, ta lìa khỏi ba kiết thì đó gọi là chấp ba pháp, rơi vào thân kiến, người đó nếu như vậy thì chẳng lìa khỏi ba kiết.

Này Đại Tuệ! Vậy nên Tu-đà-hoàn chẳng khởi tâm như vậy. Lại nữa, này Đại Tuệ! Nếu muốn xa lìa Thiền vô lượng Vô sắc giới thì nên phải xa lìa kiến tướng nơi tự tâm, xa lìa thiểu tướng, tướng tịch diệt định Tam-ma-bạt-đề. Này Đại Tuệ! Nếu chẳng như vậy thì tâm Bồ-tát kia thấy các pháp do chỉ có tâm.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Những Thiền bốn vô lượng
Vô sắc Tam-ma-đề
Thiểu tướng, tịch diệt định
Tất cả tâm vốn không
Nghịch lưu tu vô lậu
Và một lần tái sinh
Vãng lai và Bất hoàn
La-hán tâm mê đắm
Tư, khả tư, năng tư
Xa lìa, thấy chân đế
Chỉ là tâm hư vọng
Biết rõ được giải thoát.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có hai loại trí. Những gì là hai?

1. Trí quan sát.

2. Trí hư vọng phân biệt chấp giữ tướng.

Này Đại Tuệ! Trí quan sát là gì? Là những trí nào quán sát tất cả thể tướng của các pháp, lìa khỏi bốn pháp thì không có pháp có thể nắm bắt. Đó gọi là trí quán sát.

Này Đại Tuệ! Bốn pháp là gì? Là một, khác đồng, chẳng đồng đó gọi là bốn pháp.

Này Đại Tuệ! Nếu lìa khỏi bốn pháp thì tất cả pháp chẳng thể nắm bắt.

Này Đại Tuệ! Nếu muốn quán sát tất cả pháp thì phải nương vào bốn pháp mà quán sát các pháp. Này Đại Tuệ! Trí hư vọng phân biệt chấp giữ tướng nghĩa là chấp trước tướng hư vọng phân biệt của bốn đại như cứng nóng, ẩm ướt, chuyển động; là chấp trước tướng kiến lập, nhân, thí dụ mà kiến lập pháp chẳng phải thật lấy làm thật. Này Đại Tuệ! Đó gọi là trí hư vọng phân biệt chấp trước tướng. Đó gọi là hai loại trí tướng.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát biết tường tận hai tướng này, tiến đến tướng vô ngã của pháp, biết rõ tướng địa hạnh của trí chân thật. Biết được rồi, Bồtát liền đạt được Sơ địa, được trăm Tam-muội, nương vào lực Tam-muội thấy trăm Đức Phật, thấy trăm vị Bồ-tát, có thể biết sự việc trong trăm kiếp quá khứ, trăm kiếp vị lai, chiếu soi trăm thế giới Phật. Chiếu soi trăm thế giới Phật rồi, Bồ-tát biết rõ tướng trí thượng thượng của các Địa. Rồi do lực bản nguyện nên Bồ-tát có thể tinh tấn thị hiện đủ mọi thần thông, ở trong Pháp Vân địa, nương theo mưa pháp được thọ ký quả vị, chứng được Như Lai Nội cứu cánh Pháp thân trí tuệ địa, nương theo sự chuyển biến của mười căn lành vô lượng, vì giáo hóa chúng sinh mà ứng hóa đủ thứ, tự thân thị hiện đủ loại ánh sáng do được niềm vui của Tam-muội tu hành chứng trí.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát nên biết rõ tướng bốn Đại và bốn trần. Này Đại Tuệ! Thế nào gọi là Bồ-tát biết tướng bốn đại và bốn trần? Này Đại Tuệ Đại Bồ-tát! Nên tu hành như vậy. Sở dĩ nói là thật nghĩa là không có xứ sở của bốn đại. Quán sát bốn đại xưa nay chẳng sinh ra. Quán sát vậy rồi lại khởi ý niệm này: Nói quán sát là chỉ tự tâm thấy, biết rõ hư vọng, do thấy trần cảnh bên ngoài không có vật chất chỉ là tâm phân biệt danh tự mà thấy, sở dĩ gọi là ba cõi vì lìa khỏi tướng bốn đại và tướng bốn trần. Thấy như vậy rồi, lìa khỏi bốn kiến chấp, thấy pháp thanh tịnh, lìa ngã và ngã sở, trụ ở trong pháp tự tướng như thật. Này Đại Tuệ! Nên trụ ở trong pháp tự tướng như thật nghĩa là trụ ở trong pháp tự tướng để kiến lập pháp vô sinh.

Này Đại Tuệ! Ở trong bốn đại làm sao có bốn trần? Này Đại Tuệ! Là vọng tưởng phân biệt mềm mại, ẩm ướt, thấm nhuần mà sinh ra Thủy đại trong ngoài.

Này Đại Tuệ! Vọng tưởng phân biệt ấm áp tăng trưởng mà sinh ra Hỏa đại trong ngoài.

Này Đại Tuệ! Vọng tưởng phân biệt tướng chuyển động nhẹ nhàng mà sinh ra Phong đại trong ngoài.

Này Đại Tuệ! Vọng tưởng phân biệt có tướng cứng mà sinh ra Địa đại trong ngoài.

Này Đại Tuệ! Vọng tưởng phân biệt hư không cùng trong ngoài mà sinh ra tướng trong ngoài. Do chấp trước tà kiến hư vọng trong ngoài mà năm ấm nhóm họp, bốn đại và bốn trần sinh ra.

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Thức có thể chấp trước đủ các cảnh giới, ưa tìm cầu cõi khác, chấp giữ cảnh giới kia. Này Đại Tuệ! Bốn đại có bốn, gọi là sắc, hương, vị, xúc. Này Đại Tuệ! Bốn đại không nhân. Vì sao? Vì là hình tướng tự thể của đất dài ngắn chẳng sinh ra tướng của bốn đại. Này Đại Tuệ! Nương theo hình tướng lớn nhỏ, dung mạo trên dưới mà sinh ra các pháp, chẳng lìa khỏi hình tướng lớn nhỏ, dài ngắn mà có pháp. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ngoại đạo hư vọng phân biệt bốn đại và bốn trần. Chẳng phải trong ngã pháp như sự phân biệt này.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Ta vì ông nói thể tướng của năm ấm. Này Đại Tuệ! Tướng năm ấm là gì? Là sắc, thọ, tưởng, hành, thức.

Này Đại Tuệ! Bốn ấm không sắc tướng là thọ, tưởng, hành, thức.

Này Đại Tuệ! Sắc nương vào bốn Đại sinh ra. Tướng bốn Đại mỗi một đều chẳng đồng.

Này Đại Tuệ! Pháp không có sắc tướng giống như hư không thì làm sao được thành bốn loại số tướng? Này Đại Tuệ! Ví như hư không lìa khỏi số tướng mà hư vọng phân biệt, đây là hư không. Này Đại Tuệ! Số tướng của ấm lìa khỏi các tướng, lìa khỏi tướng có không lìa khỏi bốn tướng. Phàm phu ngu si nói các số tướng, chẳng phải là Thánh nhân. Này Đại Tuệ! Ta nói, các tướng như huyễn, đủ loại hình tướng xa lìa tướng một tướng khác, nương theo giả danh mà nói theo hình tượng trong gương, như giấc mộng chẳng lìa khỏi đối tượng nương tựa.

Này Đại Tuệ! Như bậc Thánh trí tu hành phân biệt thấy năm ấm là hư vọng. Này Đại Tuệ! Đó gọi là năm ấm không có thể tướng năm ấm.

Này Đại Tuệ! Ông nay nên lìa khỏi tướng hư vọng phân biệt như vậy. Lìa khỏi như vậy rồi, vì các Bồ-tát nói pháp không tịch, lìa các pháp tướng để ngăn các tướng kiến chấp của ngoại đạo.

Này Đại Tuệ! Nói pháp tịch tĩnh, được chứng tướng vô ngã thanh tịnh, thể nhập Viễn hành địa. Vào Viễn hành địa rồi, đạt được vô lượng Tammuội, tự tại, sinh ra thân như ý, do được Tam-muội các pháp như huyễn, do được lực thần thông tự tại, nên tùy theo tất cả chúng sinh tự tại sử dụng như đại địa.

Này Đại Tuệ! Ví như đại địa, tất cả chúng sinh tùy ý sử dụng.

Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát theo sự sử dụng của chúng sinh cũng lại như vậy.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Ngoại đạo nói có bốn loại Niết-bàn. Những gì là bốn?

1. Tự thể tướng Niết-bàn.

2. Chủng chủng tướng hữu vô Niết-bàn.

3. Tự giác thể hữu vô Niết-bàn.

4. Chư ấm tự tướng đồng tướng đoạn tương tục thể Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Đó gọi là bốn loại Niết-bàn của ngoại đạo, chẳng phải điều ta nói.

Này Đại Tuệ! Điều ta nói là, thấy cảnh giới hư vọng, mà thức phân biệt diệt, gọi là Niết-bàn.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Đức Thế Tôn đã chẳng nói có tám thức sao?

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Ta nói có tám thức.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nếu Đức Thế Tôn nói tám thức thì sao chỉ nói là ý thức chuyển diệt mà chẳng nói bảy thức chuyển diệt?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Do nương theo ý niệm kia quan sát là có nên chuyển thức diệt thì bảy thức cũng diệt.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Ý thức chấp trước, nắm giữ sinh ra cảnh giới. Sinh ra rồi huân tập mọi thứ, tăng trưởng A-lê-gia thức, cùng với ý thức, lìa tướng ngã và sở ngã, chấp trước hư vọng rỗng không mà sinh ra phân biệt.

Này Đại Tuệ! Tướng của hai thức đó không sai biệt. Do nương theo nhân của A-lê-gia thức quán sát tự tâm thấy cảnh mà vọng tưởng chấp trước sinh ra đủ thứ tâm giống như buộc tre đắp đổi cùng làm nhân, như sóng biển cả, do tự tâm thấy cảnh giới gió thổi mà có sinh diệt. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ý thức chuyển diệt thì bảy thức chuyển diệt.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Ta chẳng chấp Niết-bàn
Chẳng bỏ tướng tạo tác
Chuyển diệt tâm hư vọng
Nên nói, chứng Niết-bàn
Nương nhân và niệm nên
Ý đến các cảnh giới
Thức cùng tâm làm nhân
Đối tượng nương của thức
Như dòng nước khô cạn
Thì sóng chẳng khởi dậy
Như ý thức diệt tan
Các thức chẳng sinh nữa.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Ta đã vì ông nói tướng sai biệt hư vọng phân biệt pháp thể. Ông và các Đại Bồ-tát khéo phân biệt biết tướng sai biệt pháp thể hư vọng, lìa khỏi pháp phân biệt và đối tượng phân biệt, biết rõ pháp trong thân để tu hành, xa lìa cảnh giới năng thủ, sở thủ của ngoại đạo, xa lìa thể tướng của đủ thứ pháp nhân duyên hư vọng phân biệt, xa lìa rồi thì chẳng còn tướng phân biệt hư vọng. Tướng hư vọng phân biệt pháp thể sai biệt là gì? Này Đại Tuệ! Tướng hư vọng phân biệt tự thể sai biệt có mười hai loại. Những gì là mười hai?

1. Ngôn ngữ phân biệt

2. Khả tri phân biệt

3. Tướng phân biệt.

4. Nghĩa phân biệt.

5. Thật thể phân biệt.

6. Nhân phân biệt.

7. Kiến phân biệt.

8. Kiến lập phân biệt.

9. Sinh phân biệt.

10. Bất sinh phân biệt.

11. Hòa hợp phân biệt.

12. Chuyển bất phân biệt.

Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng phân biệt tự thể, tướng pháp sai biệt.

Này Đại Tuệ! Ngôn ngữ phân biệt nghĩa là ưa chấp trước âm thanh hay của đủ loại ngôn ngữ. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Ngôn ngữ phân biệt.

Này Đại Tuệ! Khả tri phân biệt nghĩa là khởi sự suy nghĩ này: Nên có tướng thật sự của pháp trước, Thánh nhân tu hành biết nương theo pháp đó mà sinh ra ngôn ngữ. Phân biệt như vậy gọi là Khả tri phân biệt.

Này Đại Tuệ! Tướng phân biệt nghĩa là trong cảnh giới có thể biết, chấp đủ thứ tướng như nóng, ẩm ướt, chuyển động, cứng chắc, cho là thật như loáng nắng giữa hư không mà các loài cầm thú nhìn thấy, khởi tưởng cho là nước. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Tướng phân biệt.

Này Đại Tuệ! Nghĩa phân biệt nghĩa là ưa thích vàng bạc… đủ thứ cảnh giới thật. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Nghĩa phân biệt.

Này Đại Tuệ! Tự thể phân biệt nghĩa là chuyên nghĩ về hình tướng tự thể của pháp, pháp này như vầy… như vầy… chẳng khác; chẳng phải chánh kiến mà thấy phân biệt. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Tự thể phân biệt.

Này Đại Tuệ! Nhân phân biệt nghĩa là những loại nhân gì? Những loại duyên gì? Là nhân liễu biệt có, không, tướng sinh ra tướng liễu biệt. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Nhân phân biệt.

Này Đại Tuệ! Kiến phân biệt nghĩa là có không, một khác, đồng chẳng đồng mà ngoại đạo tà kiến chấp trước phân biệt. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Kiến phân biệt.

Này Đại Tuệ! Kiến lập phân biệt nghĩa là chấp thủ tướng của ngã, ngã sở, nói pháp hư vọng. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Kiến lập phân biệt.

Này Đại Tuệ! Sinh phân biệt nghĩa là nương theo mọi duyên có không trong pháp mà sinh tâm chấp trước. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Sinh phân biệt. Này Đại Tuệ! Bất sinh phân biệt nghĩa là tất cả các pháp từ xưa đến nay chẳng sinh. Do vốn không mà nương vào nhân duyên có nên không có nhân quả. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Vô sinh phân biệt.

Này Đại Tuệ! Hòa hợp phân biệt nghĩa là những pháp nào hòa hợp như sợi vàng hợp lại, những pháp nào hòa hợp như sợi vàng hòa hợp, này Đại Tuệ! Đó gọi là Hòa hợp phân biệt.

Này Đại Tuệ! Phược bất phược phân biệt nghĩa là nhân của trói buộc chấp trước như đối tượng bị trói buộc. Này Đại Tuệ! Như người phương tiện thắt dây làm nút, thắt rồi lại mở ra. Này Đại Tuệ! Đó gọi là phược bất phược phân biệt. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng sai biệt hư vọng phân biệt pháp thể. Tất cả phàm phu chấp trước có không nên chấp trước đủ thứ nhân duyên của pháp tướng. Vậy nên, này Đại Tuệ! Tướng phân biệt pháp thể sai biệt thấy đủ thứ pháp, chấp trước làm thật, như nương vào huyễn thấy đủ mọi việc mà phàm phu phân biệt biết khác với huyễn, cho là có pháp như vậy.

Này Đại Tuệ! Ta ở trong vô số pháp chẳng nói gì khác với huyễn, cũng chẳng phải chẳng khác. Vì sao? Vì nếu huyễn khác với đủ loại pháp khác thì chẳng nên nhân duyên mà sinh ra đủ loại. Nếu huyễn tức là đủ mọi pháp thì chẳng nên thấy khác, đây là huyễn, đây là đủ loại mà thấy sai biệt. Vậy nên ta nói, chẳng khác, chẳng phải chẳng khác. Vậy nên này Đại Tuệ! Ông và những Đại Bồ-tát chớ phân biệt huyễn có thật hay không có thật.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Tâm nương, buộc cảnh giới
Tri giác theo cảnh sinh
Nơi thù thắng Tịch mịch
Trí tuệ bình đẳng sinh.
Vọng tưởng phân biệt có
Với duyên pháp thì không
Chấp hư vọng mê loạn
Chẳng biết lực khác sinh.
Đủ loại pháp duyên sinh
Là huyễn chẳng chân thật
Kia có đủ thứ tưởng
Vọng phân biệt chẳng thành.
Tưởng kia chính là lỗi
Đều từ tâm buộc sinh
Người ngu si, không trí
Phân biệt pháp nhân duyên.
Các thể vọng tưởng ấy
Chính là pháp duyên khởi
Vọng tưởng có đủ loại
Phân biệt trong mọi duyên.
Thế đế Đệ nhất nghĩa
Thứ ba không nhân sinh
Vọng tưởng nói thế đế
Đoạn cảnh giới Thánh nhân.
Ví như người tu hành
Một việc thấy vô số
Pháp kia không đủ loại
Tướng phân biệt như vậy.
Như mắt che mọi thứ
Vọng tưởng thấy các sắc
Ngăn vô sắc, phi sắc
Vô trí chấp pháp ấy.
Như vàng ròng lìa bẩn
Như nước lìa bùn đục.
Như hư không sạch mây
Chân pháp tịnh cũng vậy.
Không có pháp vọng tưởng
Nhân duyên pháp cũng không
Chấp có, phủ nhận không
Quán phân biệt thì thấy
Vọng tưởng nếu không chân
Pháp nhân duyên nếu thật
Lìa nhân nên sinh pháp
Thật pháp sinh ra thật pháp
Nhân hư vọng gọi pháp
Thấy các nhân duyên sinh
Danh, tưởng chẳng lìa nhau
Như vậy hư vọng sinh.
Hư vọng vốn không thật
Thì vượt các vọng tưởng
Về sau biết thanh tịnh
Đó gọi là Đệ nhất nghĩa
Vọng tưởng có mười hai
Duyên pháp có sáu loại
Cảnh giới chứng nội thân
Không hề có sai biệt.
Năm pháp là chân thật
Và ba loại, cũng vậy
Người tu hành hạnh này
Chẳng lìa khỏi Chân như
Các tưởng và nhân duyên
Gọi pháp đó phân biệt
Những tướng vọng tưởng ấy
Từ nhân duyên kia sinh.
Khéo quán trí chân thật
Không vọng tưởng, không duyên
Đệ nhất nghĩa không vật
Làm sao trí phân biệt?
Nếu có pháp chân thật
Xa lìa khỏi có không
Nếu lìa khỏi có không
Làm sao có hai pháp?
Phân biệt hai pháp thể
Pháp thể nếu có hai
Hư vọng thấy đủ thứ
Cảnh giới Thánh thanh tịnh
Thấy vô số vọng tưởng
Trong nhân duyên phân biệt
Nếu có phân biệt khác
Thì rời vào ngoại đạo
Vọng tưởng nói vọng tưởng
Nhân thấy hòa hợp sinh
Lìa hai loại vọng tưởng
Tức là pháp chân thật.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Thế Tôn vì con nói về tướng tu hành tự thân nội chứng Thánh trí và pháp Nhất thừa, chẳng nhờ người khác, tự tại đến tất cả các cõi nước Phật, thông đạt Phật pháp.

Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Hay thay!

Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Ta sẽ vì ông nói.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng con xin nghe nhận.

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát lìa khỏi pháp danh tự A-hàm, lời nói phân biệt pháp tướng của các luận sư, ở chỗ tịch tĩnh, ngồi một mình tư duy, tự mình dùng trí tuệ quan sát các pháp chẳng theo lời dạy người khác, lìa khỏi đủ loại tướng kiến chấp hư vọng, phải siêng tu hành nhập và Thượng thượng chứng trí của Như Lai địa. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng tu hành tự thân nội chứng Thánh trí.

Này Đại Tuệ! Lại có người tu tướng Nhất thừa trong ba cõi.

Này Đại Tuệ! Tướng Nhất thừa là gì? Này Đại Tuệ! Như thật giác ngộ đạo Nhất thừa nên ta gọi là Nhất thừa.

Này Đại Tuệ! Như thật giác ngộ biết tướng đạo Nhất thừa là gì? Nghĩa là chẳng phân biệt cảnh giới sở thủ, năng thủ, chẳng sinh tướng chấp giữ các pháp như vậy, do chẳng phân biệt tất cả các pháp vậy. Này Đại Tuệ! Đó gọi là như thật giác ngộ tướng đạo Nhất thừa.

Này Đại Tuệ! Như vậy giác ngộ tướng đạo Nhất thừa mà tất cả ngoại đạo, Thanh văn, Bíchchi-phật, Phạm thiên… chưa từng được biết, chỉ trừ ta. Này Đại Tuệ! Vậy nên ta gọi là tướng đạo Nhất thừa.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn vì nhân gì nói tới ba thừa, chẳng nói Nhất thừa?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Thanh văn, Duyên giác chẳng thể tự biết chứng đắc Niết-bàn. Vậy nên ta nói chỉ có đạo Nhất thừa. Này Đại Tuệ! Do tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật kính nhận lời Phật dạy, nhàm chán thế gian, tự mình chẳng thể được giải thoát.

Vậy nên ta nói chỉ có đạo Nhất thừa.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Tất cả Thanh văn, Bíchchi-phật chẳng xa lìa trí chướng, chẳng lìa nghiệp chướng tập khí phiền não. Vậy nên ta nói chỉ có đạo Nhất thừa. Này Đại Tuệ! Thanh văn, Bích-chiphật chưa chứng pháp vô ngã, chưa thể lìa khỏi chẳng thể nghĩ bàn biến dịch sinh tử. Vậy nên, ta vì các Thanh văn nên nói đạo Nhất thừa. Này Đại Tuệ! Thanh văn, Bích-chi-phật, nếu lìa tất cả các lỗi huân tập thì được chứng pháp vô ngã.

Bấy giờ, lìa khỏi các lỗi được Tam-muội vô lậu, ưa thích pháp giác ngộ rồi tu hành, ra khỏi thế gian, ở trong cõi vô lậu, được tất cả công đức, do tu hành nên đạt được Pháp thân tự tại chẳng thể nghĩ bàn.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ:

Chư Thiên và Phạm chúng
Thừa Thanh văn, Duyên giác
Chư Phật Như Lai thừa
Ta nói các thừa ấy
Do tâm có diệt, sinh
Các thừa chẳng rốt ráo
Nếu Tâm đó diệt tận
Chẳng có thừa, không thừa
Không có thừa sai biệt
Ta nói là Nhất thừa
Dẫn đường cho chúng sinh
Phân biệt nói các thừa
Giải thoát có ba loại
Và hai pháp vô ngã
Chẳng lìa hai thứ chướng
Xa lìa chân giải thoát
Như cây nổi trên biển
Thường theo sóng xoay chuyển
Các Thanh văn cũng vậy
Trôi nổi theo tướng gió
Lìa các tùy phiền não
Huân tập buộc phiền não
Đắm vị vui Tam-muội
An trụ cõi vô lậu
Không có cõi rốt ráo
Cũng lại chẳng thoái lui
Được các thân Tam-muội
Mê mờ vô lượng kiếp
Như người say mê man
Rượu tan rồi mới tỉnh
Được Phật thể vô thượng
Là chân Pháp thân ta.

QUYỂN 5

Phẩm 4: PHẬT TÂM

Bấy giờ, Đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Ta nay vì ông nói về tu hành sai biệt của Ý sinh thân! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe! Ta sẽ vì ông nói.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin nghe nhận.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Có ba loại Ý sinh thân. Những gì là ba?

1. Ý sinh thân đạt được niềm vui Tam-ma-bạtđề.

2. Ý sinh thân như thật biết rõ tướng các pháp.

3. Ý sinh thân chủng loại sinh không tạo tác hạnh.

Bồ-tát từ Sơ địa tu hành như thật thì sẽ đạt được Thượng thượng địa chứng tướng trí.

Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát đạt được Ý sinh thân Tam-muội an lạc Tam-ma-bạt-đề là gì? Nghĩa là trong Địa thứ ba, thứ tư, thứ năm, tự tâm tịch tĩnh tu hành vô số hạnh. Sóng tâm biển cả chuyển tướng thức thành niềm vui Tam-ma-bạt-đề, gọi là Ý thức sinh. Do thấy cảnh giới tự tâm nên biết như thật tướng có, không. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng Ý sinh thân.

Này Đại Tuệ! Ý sinh thân hiểu biết như thật các pháp tướng là gì? Nghĩa là Đại Bồ-tát ở trong Địa thứ tám quan sát hiểu rõ, đạt được các pháp vô tướng, pháp như huyễn... đều không vướng mắc, thân tâm chuyển biến, đạt được Tam-muội Như huyễn và vô lượng pháp môn an lạc Tam-ma-bạtđề khác, vô lượng tướng lực thần thông tự tại hoa báu trang nghiêm tự tại như ý, giống như huyễn, mộng, trăng trong nước, hình tượng trong gương, chẳng phải bốn đại sinh ra mà tương tự tướng bốn đại, đầy đủ thân phần. Tất cả sự tu hành đều được tự tại như ý, tùy thuận nhập vào đại chúng của các cõi nước chư Phật. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Ý sinh thân biết rõ như thật về tướng các pháp.

Này Đại Tuệ! Chủng loại sinh vô tác hạnh Ý sinh thân là gì? Nghĩa là tự thân nội chứng tất cả các pháp, an lạc như thật với tướng an lạc, tướng pháp. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Chủng loại sinh vô tác hạnh Ý sinh thân.

Này Đại Tuệ! Đối với ba loại thân tướng đó, ông nên quan sát biết rõ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ:

Thừa ta chẳng Đại thừa
Không nói chẳng văn tự
Không giải thoát, không đế
Chẳng phải không cảnh giới
Nhưng đối với Đại thừa
Tự tại Tam-ma-đề
Đủ loại Ý sinh thân
Hoa tự tại trang nghiêm.

Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Đức Thế Tôn nói, thiện nam, thiện nữ tạo lập năm nghiệp vô gián. Bạch Thế Tôn! Những gì là năm nghiệp vô gián mà thiện nam, thiện nữ tạo lập năm nghiệp vô gián liền nhập vào vô gián.

Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe! Ta sẽ vì ông nói.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và ghi nhận.

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Năm vô gián:

1. Giết mẹ.

2. Giết cha.

3. Giết A-la-hán.

4. Phá hòa hợp Tăng.

5. Ác tâm làm thân Phật chảy máu.

Này Đại Tuệ! Mẹ của chúng sinh là gì? Nghĩa là lại thọ đời sau, ham thích sinh ra như duyên vào mẹ lập nên.

Này Đại Tuệ! Cha là gì? Nghĩa là vô minh là cha, sinh ra sự nhóm họp của sáu nhập. Này Đại Tuệ! Đoạn trừ hai thứ căn bản có khả năng sinh khởi đó thì gọi là giết cha, mẹ.

Này Đại Tuệ! Giết A-la-hán là gì? Nghĩa là các sử, như loài chuột bị trúng độc, nhổ đi các sử oán căn bản, nên chẳng sinh ra. Này Đại Tuệ! Đó gọi là giết A-la-hán.

Này Đại Tuệ! Phá hòa hợp Tăng là gì? Nghĩa là tướng khác nhau của năm ấm hòa hợp tích tụ mà đoạn trừ hết thì gọi là phá Tăng.

Này Đại Tuệ! Tâm ác làm thân Phật chảy máu là gì? Nghĩa là thấy tự tướng đồng tướng là tướng bên ngoài tự tâm, thân tám thức nương vào vô lậu, ba cửa giải thoát, đoạn trừ rốt ráo Phật tám thức thì gọi là ác tâm làm thân Phật chảy máu. Này Đại Tuệ! Đó gọi là năm loại vô gián trong thân thiện nam, thiện nữ nào tu theo vô gián này được gọi là người vô gián, người vô gián gọi là chứng đắc pháp như thật.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Ta vì các ông nói năm tướng vô gián bên ngoài. Các Bồ-tát nghe nghĩa đó rồi, ở đời vị lai chẳng sinh tâm nghi ngờ.

Này Đại Tuệ! Năm vô gián bên ngoài là gì? Nghĩa là giết cha, mẹ, A-la-hán, phá hòa hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu. Người tạo lập vô gián này thì ở trong ba cửa giải thoát chẳng thể chứng đắc mỗi một cửa giải thoát nào chỉ trừ nương vào lực gia hộ Như Lai. Thần lực của Như Lai, Bồ-tát, Thanh văn ứng hóa vì năm hạng người có tội mà sám hối tâm nghi ngờ. Đoạn trừ tâm nghi này khiến sinh ra thiện căn, rồi vì người có tội đó thị hiện ứng hóa mà giảng nói. Này Đại Tuệ! Nếu người phạm năm tội vô gián thì hoàn toàn chẳng được chứng đắc đạo phần, trừ những ai thấy tự tâm chỉ là hư vọng, lìa khỏi chỗ nương trụ và của cải của thân, phân biệt thấy tướng của ngã và ngã sở, ở trong vô lượng, vô biên kiếp gặp được Thiện tri thức, thân ở cõi khác thì lìa khỏi lỗi thấy của tự tâm hư vọng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn một lần nữa lại nói kệ:

Tham ái gọi là mẹ
Vô minh tức là cha
Thức liễu cảnh là Phật
Các sử là La-hán
Ấm nhóm họp là Tăng
Vô gián nối nhau đoạn
Nghiệp vô gián lại không
Được chân như vô gián.

Bấy giờ, Thánh giả Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nguyện xin vì con nói tướng tri giác của các Đức Như Lai!

Đức Phật bảo Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Biết như thật nhân vô ngã, pháp vô ngã, có thể biết rõ như thật hai chướng, xa lìa hai thứ phiền não. Đó gọi là Tri giác như thật của Như Lai. Thanh văn, Bích-chi-phật đạt được pháp này thì cũng gọi là Phật. Này Đại Tuệ! Do nhân duyên này nên ta nói Nhất thừa.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Biết rõ hai vô ngã
Hai chướng, hai phiền não
Biến hóa chẳng nghĩ bàn
Gọi là tri giác Phật.

Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Sao Thế Tôn ở trong đại chúng nói lời như vầy: “Ta là tất cả Phật quá khứ” và nói vô số kinh Bản Sinh: “Bấy giờ, ta làm vua Đảnh Sinh, voi lớn sáu ngà, chim Anh vũ, tiên nhân Tỳ-gia-đa, vua trời Đế Thích, Bồ-tát Thiện Nhãn... như vậy, trong trăm ngàn kinh đều nói Bản Sinh.

Đức Phật bảo Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Nương theo bốn thứ bình đẳng, Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, ở trong đại chúng xướng lên lời như vầy: “Vào lúc ấy, ta làm Phật Câu-lưu-tôn, Phật Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Cadiếp.” Những gì là bốn?

1. Tự bình đẳng.

2. Ngữ bình đẳng.

3. Pháp bình đẳng.

4. Thân bình đẳng.

Này Đại Tuệ! Nương vào bốn pháp bình đẳng này, các Đức Phật Như Lai ở trong chúng nói lời như vậy.

Này Đại Tuệ! Tự bình đẳng là gì? Nghĩa là những chữ gì mà Phật quá khứ gọi Phật thì ta đồng với chữ đó cũng gọi là Phật, chẳng vượt qua chữ đó mà cùng với chữ đó ngang bằng không sai khác. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tự bình đẳng.

Này Đại Tuệ! Ngôn ngữ chư Phật bình đẳng là gì? Nghĩa là ngôn ngữ nói pháp của chư Phật quá khứ có sáu mươi bốn loại Phạm thanh cực hay thì ta cũng có sáu mươi tư loại ngôn ngữ nói pháp bằng Phạm thanh vi diệu. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật vị lai cũng dùng ngôn ngữ nói pháp bằng sáu mươi tư Phạm thanh vi diệu, không thêm không bớt, chẳng khác, không sai biệt, tiếng Phạm vi diệu như tiếng Ca-lăng-tần-già. Này Đại Tuệ! Đó gọi là ngôn ngữ bình đẳng của các Đức Phật.

Này Đại Tuệ! Thân bình đẳng của chư Phật là gì? Này Đại Tuệ! Pháp thân, sắc thân của ta và chư Phật, tướng tốt trang nghiêm không khác, không sai biệt, trừ việc nương theo những chúng sinh đáng hóa độ. Những chúng sinh kia ở khắp nơi nên chư Phật Như Lai hiện vô số thân để độ họ. Này Đại Tuệ! Đó gọi là thân bình đẳng của chư Phật.

Này Đại Tuệ! Sao là pháp bình đẳng của chư Phật? Nghĩa là chư Phật đó và ta đều đạt được ba mươi bảy pháp phần Bồ-đề, mười Lực, bốn Vô úy... Này Đại Tuệ! Đó gọi là Pháp bình đẳng của chư Phật.

Này Đại Tuệ! Nương vào bốn pháp bình đẳng này nên Như Lai ở trong đại chúng nói lời như vầy:

“Ta là vua Đảnh Sinh đời quá khứ...”

Bấy giờ, Đức Thế Tôn một lần nữa lại nói kệ:

Ca-diếp, Câu-lưu-tôn
Câu-na-hàm... là ta
Nói cho các Phật tử
Nương bốn pháp bình đẳng

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai nói rằng, đêm đó ta chứng Đại Bồ-đề? Đêm đó ta vào Bát-niết-bàn? Trong khoảng thời gian đó ta chẳng nói một chữ Phật nói là chẳng phải nói. Đức Thế Tôn nương vào những nghĩa gì mà nói lời như vậy? Lời nói của Phật chẳng phải lời nói?

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Như Lai nương vào hai pháp mà nói lời như vậy. Những gì là hai để ta nói như vậy?

1. Nương vào pháp tự thân chứng đắc.

2. Nương vào pháp bản trụ.

Ta nương vào hai pháp này mà nói lời như vậy. Này Đại Tuệ! Thế nào là nương vào pháp tự thân chứng đắc? Là pháp chứng đắc của các Đức Phật Như Lai quá khứ kia, ta cũng chứng được như vậy, chẳng thêm chẳng bớt, tự thân chứng đắc các hạnh cảnh giới, lìa khỏi tướng ngôn ngữ phân biệt, lìa khỏi hai loại văn.

Này Đại Tuệ! Pháp bản trụ là gì? Này Đại Tuệ! Nghĩa là đường bản hạnh bằng phẳng ví như có các báu vàng, bạc, trân châu ở chỗ đó. Này Đại Tuệ! Đó gọi là pháp tánh bản trụ xứ.

Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai ra đời, chẳng ra đời thì pháp tánh, pháp giới, pháp trụ, pháp tướng pháp chứng vẫn thường trụ như đường đi vốn có của ngôi thành. Này Đại Tuệ! Ví như có người đi trong vùng hoang vắng, thấy hướng đi về ngôi thành có con đường ngay bằng phẳng liền theo đó vào thành. Vào ngôi thành đó rồi, nhận được mọi niềm vui, tạo tác đủ thứ nghiệp. Này Đại Tuệ! Ý ông thế nào? Việc làm trước của người đó chính là con đường theo vào thành sao? Trước đã tạo vô số sự trang nghiêm sao?

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Chẳng phải vậy, bạch Thế Tôn!

–Này Đại Tuệ! Ta và tất cả chư Phật quá khứ thì pháp tánh, pháp giới, pháp trụ, pháp tướng, pháp chứng thường trụ cũng lại như vậy. Này Đại Tuệ! Ta nương vào ý nghĩa này mà ở trong đại chúng nói lên như vầy: “Ta đêm nào đạt được Đại Bồ-đề, đêm nào vào Bát-niết-bàn, khoảng giữa hai đêm này, ta chẳng nói một chữ, cũng chẳng đã nói, sẽ nói và hiện nói.”

Bấy giờ, Đức Thế Tôn một lần nữa lại nói kệ:

Ta đêm nào thành đạo
Đêm nào Bát-niết-bàn
Khoảng giữa hai đêm ấy
Ta không nói lời nào
Nội thân chứng pháp tánh
Ta nương lời như vậy
Ta và mười phương Phật
Các pháp không sai biệt.

Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh Đức Phật:

–Nguyện xin Đức Thế Tôn nói về tướng có không của tất cả pháp, khiến cho con và đại chúng Bồ-tát khác khi được nghe rồi, lìa khỏi tướng có không, mau thành tựu được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe! Ta sẽ vì ông giải nói.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và tin nhận.

Đức Phật nói:

Này Đại Tuệ! Người thế gian, đa phần rơi vào hai kiến chấp. Những gì là hai kiến chấp?

1. Thấy có.

2. Thấy không.

Do thấy có các pháp, thấy các pháp, chẳng phải pháp cứu cánh mà sinh ra tưởng cứu cánh.

Này Đại Tuệ! Sao thế gian lại rơi vào chấp có? Nghĩa là, do nhân duyên thật có mà sinh ra các pháp chẳng phải chẳng thật có. Pháp thật có sinh chẳng phải không có pháp sinh ra.

Này Đại Tuệ! Người thế gian nói như vậy đó gọi là nói không nhân, không duyên và bài báng thế gian, không nhân không duyên mà sinh ra các pháp.

Này Đại Tuệ! Người thế gian làm sao rơi vào chấp không? Là nói rằng, tham, sân, si, thật có tham, sân, si mà lại nói rằng, không tham, sân, si, phân biệt có, không.

Này Đại Tuệ! Nếu lại có người nói lên lời như vầy: “Không có các pháp do chẳng thấy tướng của các vật.”

Này Đại Tuệ! Nếu lại có người nói lên như vầy: “Thanh văn, Bích-chi-phật không tham, không sân, không si” rồi lại nói, trước thì có. Hai hạng người này thì người nào hơn? Người nào chẳng đúng?

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nếu người nói rằng, trước có tham, sân, si, thời gian sau không còn thì người này chẳng đúng.

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hiểu lời ta hỏi. Này Đại Tuệ! Chẳng phải chỉ nói trước thật có tham, sân, si, về sau nói không giống với Vệ thế sư... Vậy nên chẳng đúng.

Này Đại Tuệ! Chẳng phải là chỉ không giống như diệt tất cả pháp của Thanh văn, Bích-chi-phật. Vì sao? Này Đại Tuệ! Do thật không có các pháp trong hay ngoài, do chẳng phải một chẳng phải khác, do các phiền não chẳng phải một, chẳng phải khác vậy. Này Đại Tuệ! Pháp tham, sân, si trong thân chẳng thể nắm bắt được, trong pháp bên ngoài cũng chẳng thể nắm bắt được, không thật thể nên ta chẳng chấp nhận. Này Đại Tuệ! Ta chẳng chấp nhận là chẳng chấp nhận có tham, sân, si. Vậy nên, người đó diệt pháp của Thanh văn, Bích-chi-phật. Vì sao? Vì các Đức Phật Như Lai biết pháp Tịch tĩnh còn Thanh văn, Duyên giác chẳng thấy pháp, do không có nhân của năng trói buộc và sở trói buộc. Này Đại Tuệ! Nếu có năng trói buộc thì nhất định có sở trói buộc. Nếu có sở trói buộc thì nhất định có nhân năng trói buộc. Này Đại Tuệ! Nói như vậy gọi là diệt các pháp. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng Vô pháp.

Này Đại Tuệ! Ta nương vào nghĩa này mà trong Kinh khác nói rằng, thà khởi lên ngã kiến như núi Tu-di mà khởi lên kiêu mạn, chứ chẳng nói rằng, các pháp là trống không.

Này Đại Tuệ! Người tăng thượng mạn nói rằng, các pháp không có thì chính là diệt các pháp, rơi vào kiến chấp tự tướng, đồng tướng. Do thấy tự tâm thấy pháp, do thấy vật bên ngoài vô thường, các tướng đắp đổi mỗi một đều sai biệt, do thấy thể nối tiếp nhau của ấm, giới, nhập, do các nhân duyên đắp đổi mà sinh ra, do tự tâm hư vọng phân biệt. Vậy nên, này Đại Tuệ! Như người này là diệt các Phật pháp.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Hữu, vô là nhị biên
Đều do cảnh giới tâm
Xa lìa pháp cảnh giới
Tâm bình đẳng, tịch tĩnh
Không chấp pháp, cảnh giới
Diệt chẳng có, chẳng không
Như chân như vốn có
Chính là cảnh giới Thánh
Vốn không mà có sinh
Đã sinh, lại diệt mất
Chẳng có, chẳng không sinh
Chẳng phải lời ta dạy
Không ngoại đạo, chẳng Phật
Không ngã cũng chẳng khác
Từ nhân duyên không thành
Sao lại cho là có
Nếu nhân duyên không sinh
Sao lại nói là không
Khởi pháp luận tà kiến
Vọng tưởng chấp có, không
Nếu biết không hề sinh
Cũng biết chưa từng diệt
Quán đời đều rỗng lặng
Họ chẳng chấp có, không.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Đấng Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, thầy của trời, người kiến lập tướng tu hành chánh pháp cho con và tất cả hành Bồ-tát, khiến con và tất cả Đại Bồ-tát biết rõ tướng tu hành chánh pháp, mau chóng chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề, không rơi vào tất cả sự quán sát hư vọng của các ma.

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Lành thay! Lành thay! Này Đại Tuệ! Hãy lắng nghe! Ta sẽ giảng nói cho ông.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Lành thay! Bạch Thế Tôn! Con xin lắng nghe và tin nhận!

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Có hai pháp để Đức Phật Như

Lai kiến lập tướng tu hành chánh pháp cho các Bồtát, Thanh văn và Bích-chi-phật. Những gì là hai?

1. Kiến lập tướng chánh pháp.

2. Giảng nói kiến lập tướng chánh pháp.

Này Đại Tuệ! Thế nào là kiến lập tướng Chánh pháp? Nghĩa là, tự thân chứng đắc tướng các pháp thù thắng, xa lìa văn tự, ngôn ngữ, chương cú, có thể nắm giữ Chánh giới vô lậu, chứng đắc các Địa, tu hành pháp tướng, xa lìa sự quán sát hư vọng của ngoại đạo và các cảnh giới của ma, hàng phục tất cả ngoại đạo, các ma, hiển bày pháp chứng đắc của tự thân, như thật tu hành. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Tưởng kiến lập tướng chánh pháp. Này Đại Tuệ! Thế nào là kiến lập tướng thuyết pháp? Nghĩa là, giảng nói chín bộ loại giáo pháp, xa lìa tướng chấp một khác, có không, trước nói phương tiện thiện xảo, vì khiến chúng sinh thể nhập an lạc, là tùy theo chúng sinh có bao nhiêu niềm tin đối với pháp thì giảng nói bấy nhiêu pháp. Này Đại Tuệ! Ông và các Bồ-tát nên tu học Chánh pháp như vậy.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn một lần nữa lại nói kệ:

Kiến lập pháp nội chứng
Và nói tướng, danh pháp
Nếu phân biệt rõ ràng
Chẳng theo lời người khác.
Pháp ngoại đạo thật, không
Như phàm phu phân biệt
Nếu các pháp hư vọng
Vì sao chấp giải thoát
Quan sát các hữu vi
Sinh diệt luôn tương tục
Tăng trưởng hai kiến chấp
Chẳng thể biết nhân duyên
Niết-bàn lìa khỏi thức
Chỉ một pháp thật này
Quán thế gian hư vọng
Như cây chuối, huyễn, mộng.
Tuy có tham, sân, si
Không có người tạo tác
Từ ái sinh các ấm
Như huyễn, mộng mà có.

Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì các Bồ-tát nói về vọng tưởng chẳng thật. Vọng tưởng không thật trong pháp là những gì?

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông vì yên ổn cho tất cả chúng sinh, làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, an vui cho tất cả chúng sinh, thương xót tất cả trời, người của thế gian mà thỉnh ta việc này. Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe!

Ta sẽ vì ông giảng nói.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Con xin lắng nghe và tin nhận!

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Tất cả chúng sinh chấp trước tưởng hư vọng chẳng thật từ kiến chấp nên sinh ra vô số pháp hư vọng. Do chấp trước các cảnh giới hư vọng năng thủ sở thủ, chấp nơi tự tâm mà sinh ra tưởng hư vọng, rơi vào trong bè đảng nhị kiến có không, trong nhóm phi pháp, tăng trưởng thành tựu sự huân tập dị kiến hư vọng của ngoại đạo. Này Đại Tuệ! Do chấp giữ những nghĩa hý luận bên ngoài nên khởi lên tâm hư vọng và tâm số pháp giống như bó cỏ, phân biệt pháp ngã và ngã sở. Này Đại Tuệ! Do nghĩa này nên sinh ra vọng tưởng chẳng thật.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nếu các chúng sinh chấp trước tưởng hư vọng chẳng thật thì từ kiến chấp, đủ thứ pháp hư vọng sinh ra, chấp trước tất cả cảnh giới hư vọng năng thủ sở thủ, chấp tự tâm sinh ra tưởng hư vọng, rơi vào trong bè đảng nhị kiến có không, trong nhóm phân biệt, tăng trưởng thành tựu sự huân tập dị kiến hư vọng của ngoại đạo. Do chấp thủ nghĩa hý luận của ngoại đạo, vọng tưởng chẳng thật mà khởi lên tâm hư vọng và tâm số pháp, giống như bó cỏ, chấp giữ ngã và ngã sở... thì Bạch Thế Tôn! Như những chúng sinh đó nương vào đủ các cảnh giới, đủ loại tướng bên ngoài, rơi vào trong tướng có bè đảng, rơi vào trong tướng không bè đảng, lìa khỏi tướng chấp có, không.

Bạch Thế Tôn! Đệ nhất nghĩa đế cũng nên như vậy, xa lìa pháp A-hàm mà bậc Thánh đã giảng xa lìa các căn, xa lìa sự kiến lập ba pháp là tướng, nhân duyên, thí dụ.

Bạch Thế Tôn! Sao gọi là một nơi có đủ loại phân biệt chấp trước? Đủ loại tưởng hư vọng sinh ra? Vì sao chẳng chấp trước Đệ nhất nghĩa đế? Hư vọng phân biệt mà sinh ra phân biệt? Đức Thế Tôn nói pháp như vậy chẳng phải nói bình đẳng mà nói không nhân duyên. Vì sao? Vì một nơi sinh, một nơi chẳng sinh vậy. Nếu Thế Tôn nói như vậy thì rơi vào hai bè đảng. Do thấy chấp trước hư vọng phân biệt mà sinh ra phân biệt, do Thế Tôn nói, như nhà ảo thuật nương vào đủ thứ nhân duyên tạo ra đủ thứ sắc tượng, do tự tâm Thế Tôn hư vọng phân biệt, do Thế Tôn nói đủ thứ hư vọng, hoặc có, hoặc không, chẳng thể ngôn thuyết... là lìa khỏi phân biệt. Như vậy, Như Lai rơi vào luận thế gian, vào trong nhóm bè đảng tâm tà kiến.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Ta phân biệt hư vọng chẳng sinh chẳng diệt. Vì sao? Vì chẳng sinh ra tướng phân biệt có không, chẳng chấp tất cả có không ở bên ngoài. Này Đại Tuệ! Do thấy tự tâm là thấy như thật nên hư vọng phân biệt chẳng sinh chẳng diệt. Này Đại Tuệ! Lời nói này của ta chỉ vì hạng phàm phu ngu si mà nói tự tâm phân biệt, phân biệt đủ thứ tùy theo tâm trước sinh ra, phân biệt đủ thứ chấp trước tướng có. Vì sao? Vì nếu chẳng nói thì phàm phu ngu si chẳng lìa khỏi sự nhận biết hư vọng của tự tâm, chẳng lìa khỏi chấp trước sự thấy của ngã và ngã sở, chẳng lìa khỏi những lỗi nhân duyên của nhân quả, hiểu biết như thật hai loại tâm, biết rõ hành tướng của tất cả các Địa, biết rõ cảnh giới nội chứng, các hạnh tự thân của chư Phật, chuyển năm pháp thể, thấy tướng phân biệt nhập vào Như Lai địa.

Này Đại Tuệ! Nhân việc này nên ta nói, tất cả các chúng sinh... chấp trước hư vọng sinh ra tâm hư vọng, tự tâm phân biệt đủ các nghĩa. Do nghĩa này nên tất cả chúng sinh biết nghĩa như thật mà được giải thoát.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn một lần nữa lại nói kệ:

Các nhân và cùng duyên
Từ đây sinh thế gian
Vọng tưởng chấp bốn cú
Chẳng biết lời ta nói
Đời chẳng sinh, không, có
Lìa chẳng sinh, có, không
Sao ngu si phân biệt
Nương nhân duyên pháp sinh
Nếu hay thấy thế gian
Có không, chẳng có không
Chuyển biến tâm hư vọng
Được pháp chân vô ngã.
Các pháp vốn chẳng sinh
Mà nương nhân duyên sinh
Các duyên tức là quả
Từ quả chẳng sinh có.
Từ quả, chẳng sinh quả
Nếu vậy có hai quả
Nếu đã có hai quả
Khó được quả trong quả.
Niệm, sở niệm rồi Quán
các pháp hữu vi Thấy
các pháp do tâm
Nên ta nói duy tâm
Lượng thể và hình tướng
Lìa các pháp và duyên
Cứu cánh có thanh tịnh
Ta nói lượng như vậy.
Thế đế ta giả gọi
Đó thì không thật sự
Các ấm, ấm giả danh
Giả danh chẳng thật pháp.
Có bốn bình đẳng là
Tướng, nhân, sinh, vô ngã
Bốn Bồ-đề như thế
Là pháp người tu hành
Chuyển tất cả các kiến
Lìa phân biệt, phân biệt
Chẳng thấy và chẳng sinh
Nên ta nói duy tâm
Pháp chẳng có, chẳng không
Lìa các pháp có, không
Như vậy lìa tâm pháp
Nên ta nói duy tâm
Phân biệt nương huân tập
Chân như không thật tế
Niết-bàn và pháp giới
Ý thân và thân tâm
Nên ta nói duy tâm
Tâm nương các cảnh sinh.
Chúng sinh thấy ngoại cảnh
Nên ta nói duy tâm
Được thấy ngoại pháp không
Tâm thấy hết như vậy
Trụ xứ, của cải thân
Nên ta nói duy tâm.

Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai nói rằng, như lời nói của ta, ông là các Bồ-tát chớ chấp trước nghĩa của âm thanh ngôn ngữ. Bạch Thế Tôn! Làm sao Bồ-tát chẳng chấp trước vào nghĩa của ngôn ngữ?

Ngôn ngữ là gì? Nghĩa là gì?

Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ta sẽ vì ông nói!

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và tin nhận.

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Âm thanh là gì? Nghĩa là nương vào sự huân tập ngôn ngữ, danh tự hòa hợp phân biệt từ vô thủy; nương vào yết hầu, mũi, răng, má, môi, lưỡi hòa hợp chuyển động mà phát ra ngôn ngữ đó để phân biệt các pháp. Đó gọi là Thanh.

Này Đại Tuệ! Nghĩa là gì? Là Đại Bồ-tát nương vào văn, tư, tu lực trí tuệ bậc Thánh, ở chỗ yên tĩnh, ngồi một mình để tư duy.

Sao gọi là Niết-bàn hướng đến đạo Niết-bàn? Là quan sát cảnh giới tu hành nội thân, từng Địa, mỗi từng chỗ tướng tu hành thù thắng, làm chuyển biến nhân huân tập từ vô thủy đó. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Bồ-tát khéo hiểu rõ tướng của nghĩa.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Sao gọi là Đại Bồ-tát khéo hiểu rõ nghĩa của ngôn ngữ? Bồ-tát thấy nghĩa của ngôn ngữ và thanh chẳng một chẳng khác. Thấy nghĩa, ngôn ngữ, thanh chẳng một chẳng khác. Nếu nói rằng, ngôn ngữ lìa khỏi nghĩa thì chẳng nên do tiếng ngôn ngữ đó mà có được nghĩa, mà nghĩa nương vào ngôn ngữ đó hiểu rõ.

Này Đại Tuệ! Như nương vào ngọn đèn phân biệt rõ mọi hình sắc. Này Đại Tuệ! Ví như có người thắp đèn lên quan sát đủ loại châu báu, chỗ này như vầy... như vầy... chỗ kia như vầy... như vầy... Này Đại Tuệ! Bồ-tát nương vào âm thanh, ngôn ngữ mà chứng đắc lìa khỏi ngôn ngữ, vào được nghĩa tự thân tu hành.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Tất cả các pháp chẳng sinh chẳng diệt, bản lai tự tánh nhập vào Niết-bàn. Ba thừa, một thừa, năm tâm pháp, các pháp thể đều đồng. Ngôn ngữ, thanh, nghĩa nương vào mọi duyên mà chấp tướng, rơi vào hữu, vô chấp các pháp, là chắc thật thấy thể của các pháp đều trụ ở tướng khác mà phân biệt tướng khác. Phân biệt như vậy rồi, thấy vô số pháp tướng như huyễn, thấy đủ loại phân biệt. Này Đại Tuệ! Ví như huyễn có đủ loại khác nhau, phân biệt khác nhau, chẳng phải là sự thấy của Thánh nhân mà là sự thấy của phàm phu.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ:

Phân biệt ngôn ngữ, thanh
Kiến lập nên các pháp
Do kiến lập như vậy
Nên rơi các đường ác.
Trong năm ấm vô ngã
Trong ngã không năm ấm
Chẳng như vọng tưởng đó
Cũng chẳng phải là không.
Phàm phu vọng phân biệt
Thấy các pháp có thật
Nếu nhận thức như trên
Tất cả nên thấy chân
Tất cả pháp nếu không
Nhiễm, tịnh cũng là không
Thấy đó không như vậy
Chẳng phải không thật có.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Ta nay vì ông nói tướng của trí thức! Ông và các Đại Bồ-tát nên biết rõ tướng của trí thức đó và như thật tu hành tướng trí thức để mau chóng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Đại Tuệ! Có ba loại trí. Những gì là ba?

1. Thế gian trí.

2. Xuất thế gian trí.

3. Xuất thế gian thượng thượng trí.

Này Đại Tuệ! Thức là tướng sinh diệt; Trí là tướng chẳng sinh diệt.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Thức là rơi vào tướng có tướng không, rơi vào đủ loại nhân của tướng có, không đó.

Này Đại Tuệ! Tướng trí là xa lìa tướng có, tướng không, tướng nhân có không gọi là tướng trí.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Tập hợp các pháp thì gọi là tướng của thức, chẳng tập hợp các pháp thì gọi là tướng của trí.

Này Đại Tuệ! Trí có ba loại. Những gì là ba?

1. Quan sát tự tướng đồng tướng.

2. Quan sát tướng sinh, tướng diệt.

3. Quan sát tướng chẳng sinh chẳng diệt.

Này Đại Tuệ! Thế gian trí là gì? Là những ngoại đạo, người phàm phu... chấp trước tất cả các pháp có không. Đó gọi là tướng của Thế gian trí.

Này Đại Tuệ! Xuất thế gian trí là gì? Là tất cả những Thanh văn, Duyên giác hư vọng phân biệt tự tướng, đồng tướng. Đó gọi là Xuất thế gian trí.

Này Đại Tuệ! Xuất thế gian thượng thượng trí là gì? Là Phật Như Lai Đại Bồ-tát quan sát tất cả các pháp tịch tĩnh, chẳng sinh, chẳng diệt, đạt được Như Lai địa chứng pháp vô ngã, lìa khỏi hai kiến bè đảng có, không kia.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Sở dĩ nói trí là không có tướng chướng ngại thức là nhận biết những tướng cảnh giới đó.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Thức là hòa hợp khởi lên sự tạo tác và đối tượng tạo tác gọi là tướng của Thức, không chướng ngại pháp tương ứng thì gọi là tướng của trí.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Tướng không thể nắm bắt, gọi là trí, do cảnh giới tu hành tự thân chứng được Thánh trí, vào ra nơi các pháp như trăng trong nước. Đó gọi là trí tướng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Thức chứa nhóm các nghiệp
Trí phân biệt rõ ràng
Tuệ hay được vô tướng
Và cảnh diệu trang nghiêm.
Thức bị cảnh giới buộc
Trí biết rõ các cảnh
Vô tướng và thắng cảnh
Là trú xứ Tuệ thông.
Tâm, ý và ý thức
Thường xa lìa các tướng
Thanh văn phân biệt pháp
Chẳng phải đệ tử ta
Tịch tĩnh tinh tấn, nhẫn
Trí Như Lai thanh tịnh
Sinh ra trí Thiện thắng
Xa lìa các tạo tác.
Ta có ba loại tuệ
Nương đó được Thánh danh
Đối tưởng kia phân biệt
Có thể nghe có, không
Lìa khỏi hạnh Nhị thừa
Tuệ lìa khỏi cảnh giới
Chấp giữ tưởng có, không
Từ các Thanh văn sinh
Hiểu được chỉ là tâm
Tướng trí tuệ sạch trong

Lại nữa, này Đại Tuệ! Các ngoại đạo có chín loại thấy chuyển biến. Những gì là chín?

1. Hình tướng chuyển biến.

2. Tướng chuyển biến.

3. Nhân chuyển biến.

4. Tương ứng chuyển biến.

5. Thấy chuyển biến.

6. Vật chuyển biến.

7. Duyên liễu biệt chuyển biến.

8. Tác pháp liễu biệt chuyển biến.

9. Sinh chuyển biến.

Này Đại Tuệ! Đó gọi là chín loại thấy chuyển biến. Nương theo chín loại thấy chuyển biến này mà tất cả ngoại đạo cho rằng chuyển biến từ có, không sinh ra.

Này Đại Tuệ! Hình tướng chuyển biến của ngoại đạo là gì? Này Đại Tuệ! Ví như dùng vàng làm ra vật dụng trang sức như vòng, xuyến, chuỗi ngọc... đủ loại khác nhau. Hình tướng tuy khác nhưng thể của vàng chẳng biển đổi. Tất cả ngoại đạo phân biệt sự chuyển biến hình tướng của các pháp cũng lại như vậy.

Này Đại Tuệ! Lại có ngoại đạo phân biệt các pháp nương vào nhân chuyển biến. Này Đại Tuệ! Mà các pháp kia cũng chẳng phải như vậy, chẳng phải chẳng như vậy do nương vào phân biệt. Này Đại Tuệ! Như vậy, tất cả chuyển biến cũng vậy. Ông nên biết ví như sữa, sữa đặc, rượu, trái cây... khi chín rồi thì từng thứ một chuyển biến. Tất cả ngoại đạo phân biệt chuyển biến cũng lại như vậy, mà pháp không thật do chuyển biến, do tự tâm thấy có không rồi chấp giữ phân biệt có không vậy.

Này Đại Tuệ! Tất cả phàm phu cũng lại như vậy, do nương vào tự tâm phân biệt mà sinh ra tất cả các pháp. Này Đại Tuệ! Không có pháp sinh ra, không có pháp chuyển biến, như huyễn, như trong giấc mộng thấy các hình sắc, sự việc. Ví như trong giấc mộng thấy tất cả việc, con của thạch nữ sinh ra và chết đi.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Khi hình tướng chuyển biến
Bốn đại chủng, các căn
Trung ấm và nắm giữ
Chấp vậy chẳng phải trí.
Nhân duyên sinh thế gian
Phật chẳng nói như vậy
Nhân duyên tức thế gian
Như thành Càn-thát-bà.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri giảng nói rõ tướng của tất cả các pháp nối tiếp hay chẳng nối tiếp nhau. Nguyện xin Đấng Thiện Thệ giảng nói, tướng của tất cả pháp nối tiếp, hay chẳng nối tiếp nhau khiến con và tất cả các chúng Bồ-tát hiểu rõ tướng của các pháp nối tiếp hay chẳng nối tiếp nhau, phương tiện khéo léo biết rồi, chẳng rơi vào sự chấp trước tướng của các pháp là nối tiếp hay chẳng nối tiếp, lìa khỏi lời nói, văn tự, vọng tưởng của tất cả pháp nối tiếp hay, chẳng nối tiếp rồi thì được diệu lực thần thông tự tại, đến khắp trong đại chúng của tất cả cõi nước chư Phật ở mười phương pháp môn Đà-la-ni khéo ấn chứng ấn đã ấn chứng, mười tận cú khéo chuyển đã chuyển, đủ loại ánh sáng biến hóa chiếu sáng, ví như bốn mặt trời, mặt trăng lớn, ngọc ma-ni tự nhiên hiện ra. Chúng sinh thọ dụng xa lìa các cõi, chỉ tự tâm thấy tướng phân biệt, hiện ra tất cả các pháp như huyễn, như mộng hiện bày vào nương tựa Địa của chư Phật. Đối với cõi chúng sinh thì tùy theo sự ứng hợp của họ mà vì họ nói pháp, ủng hộ, khiến cho họ hiểu rõ tất cả các pháp như huyễn như mộng, lìa khỏi tất cả bè đảng có, không, sinh diệt vọng tưởng, khác với lời nói ý nghĩa, chuyển thân tự tại, sinh đến cõi thù thắng.

Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe, ta sẽ vì ông giải nói.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và tin nhận.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Tướng tương tục, chẳng tương tục của tất cả các pháp nghĩa là, như Thanh văn chấp trước nghĩa tương tục, tướng chấp trước tương tục, duyên chấp trước tương tục, có không chấp trước tương tục, phân biệt sinh chẳng sinh chấp trước tương tục, phân biệt diệt chẳng diệt chấp trước tương tục, phân biệt thừa chẳng phải thừa chấp trước tương tục, phân biệt hữu vi vô vi chấp trước tương tục, phân biệt Địa, tướng của Địa chấp trước tương tục, phân biệt tự phân biệt chấp trước tương tục, phân biệt có không vào bè đảng ngoại đạo chấp trước tương tục...

Này Đại Tuệ! Như vậy phàm phu ngu si có vô lượng tâm phân biệt tương tục khác nhau rồi nương vào sự tương tục mà ngu si phân biệt như con tằm làm kén. Họ nương vào cái thấy của tâm mình mà phân biệt tương tục mãi, ưa hòa hợp tự ràng buộc và ràng buộc người khác, chấp trước có không hòa hợp tương tục.

Này Đại Tuệ! Nhưng không có tương tục, không có tướng tương tục, vì thấy các pháp tịch tĩnh. Này Đại Tuệ! Do các vị Bồ-tát thấy tất cả pháp không có tướng phân biệt nên gọi là thấy pháp môn tịch tĩnh của tất cả Bồ-tát.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có thể biết như thật tất cả pháp bên ngoài lìa khỏi có không, hiểu biết như thật tự tâm thấy tướng, do thể nhập được tướng tự tâm vô tướng.

Này Đại Tuệ! Do thấy mà phân biệt pháp có, không nên gọi là tương tục. Do thấy các pháp tịch tĩnh nên gọi là không tương tục không có tướng tương tục, không tương tục các pháp tướng. Này Đại Tuệ! Không trói, không mở do rơi vào nhị kiến, nên tự tâm phân biệt có trói có mở. Vì sao? Vì chẳng thể biết các pháp có, không.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si có ba loại tương tục. Những gì là ba? Là tham, sân, si và ưa thích sinh. Do những tương tục này nên có đời sống về sau. Này Đại Tuệ! Tương tục là chúng sinh nối tiếp nhau sinh ra ở năm đường. Này Đại Tuệ! Cắt đứt sự tương tục thì không nối tiếp nhau, không có tướng tương tục.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Chấp trước nhân duyên tương tục nên sinh ra ba cõi. Do các thức đắp đổi nối tiếp nhau chẳng gián đoạn, nhưng thấy ba cửa giải thoát mà chuyển biến diệt trừ nhân và thức chấp trước ba cõi. Đó gọi là đoạn tương tục.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Chẳng thật, vọng phân biệt
Gọi là tướng tương tục
Biết như thật đó rồi
Cắt đứt lưới tương tục
Nếu chấp tiếng là thật
Tự buộc như kén tằm
Tự tâm vọng tưởng buộc
Phàm phu chẳng thể biết.

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn nói thì do những gì, những gì mà tâm phân biệt? Phân biệt những pháp gì, những pháp gì? Mà những pháp đó không có thể tướng như vậy, như vậy đó, chỉ là tự tâm phân biệt? Bạch Thế Tôn! Nếu chỉ tự tâm phân biệt chẳng phải tướng pháp đó thì như Thế Tôn nói, tất cả các pháp lẽ ra không có nhiễm hay tịnh. Vì sao? Vì như Đức Như Lai nói rằng, tất cả các pháp do vọng phân biệt mà thấy, không có thật thể.

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Đúng vậy! Đúng vậy, đúng như lời ông nói! Này Đại Tuệ! Nhưng tất cả những phàm phu ngu si phân biệt các pháp mà các pháp đó không có tướng như vậy, chỉ hư vọng phân biệt cho là thật có. Này Đại Tuệ! Đó chính là phàm phu hư vọng phân biệt thể tướng các pháp, hư vọng mà biết chẳng phải thấy như thật. Này Đại Tuệ! Như Thánh nhân biết tánh tướng tự thể của tất cả các pháp, nương vào trí Thánh nhân, nương vào sự thấy của Thánh nhân, nương vào Tuệ nhãn của Thánh nhân mà biết đúng như thật tự thể của các pháp.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn và các Thánh nhân... nương vào Thánh trí, nương vào Thánh kiến, y vào Thánh tuệ nhãn, chẳng phải Nhục nhãn, Thiên nhãn mà biết rõ thể tướng của tất cả các pháp không có tướng như vậy, chẳng phải như phàm phu hư vọng phân biệt. Bạch Thế Tôn! Làm sao phàm phu ngu si chuyển tướng hư vọng?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Có thể biết như thật về cảnh giới Thánh nhân mà chuyển sự nhận thức hư vọng. Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Phàm phu ngu si đó chẳng phải kiến chấp điên đảo, chẳng phải chẳng kiến chấp điên đảo! Vì sao vậy? Vì do chẳng thể thấy pháp thể như thật của cảnh giới Thánh nhân, do thấy tướng chuyển biến có, không vậy.

Bạch Thế Tôn! Tất cả Thánh nhân cũng có phân biệt, tất cả những việc không tướng như vậy, do tự tâm thấy tướng cảnh giới. Bạch Thế Tôn! Những Thánh nhân đó thấy có pháp thể phân biệt pháp tướng, do Thế Tôn chẳng nói có nhân, chẳng nói không nhân. Vì sao? Vì rơi vào có pháp tướng, còn người khác thấy cảnh chẳng thấy như vậy.

Bạch Thế Tôn! Nói như vậy thì có lỗi vô cùng. Vì sao? Vì do chẳng biết rõ pháp tướng vốn không có tướng tự thể.

Bạch Thế Tôn! Chẳng phải nhân phân biệt có tướng pháp thể mà có các pháp.

Bạch Thế Tôn! Điều đó làm sao phân biệt? Chẳng nên phân biệt điều đó như vậy hay nên phân biệt như vậy? Bạch Thế Tôn! Tướng phân biệt khác với tướng, tướng tự thể khác với tướng. Bạch Thế Tôn! Mà hai nhân đó chẳng tương tự, phân biệt các loại... thể tướng của pháp khác nhau thì làm sao phàm phu phân biệt như vậy, mà nhân này chẳng thành đúng như điều đã thấy? Thế Tôn nói rằng, ta vì muốn đoạn trừ tâm hư vọng phân biệt của tất cả các chúng sinh. Nói lời như vậy thì như phàm phu kia hư vọng phân biệt không có pháp như vậy.

Bạch Thế Tôn! Vì sao ngăn sự thấy có, không của các chúng sinh mà chấp trước cảnh giới Thật pháp Thánh trí? Bạch Thế Tôn! Lại khiến cho tất cả chúng sinh rơi vào chỗ Vô kiến. Vì sao? Vì nói các pháp tịch tĩnh không tướng. Như vậy pháp thể Thánh trí là vô tướng.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Ta chẳng nói rằng, tất cả các pháp tịch tĩnh vô tướng, cũng chẳng nói rằng, các pháp đều không, cũng chẳng khiến cho họ rơi vào Vô kiến, cũng khiến cho họ chẳng chấp trước cảnh giới của tất cả Thánh nhân như vậy. Vì sao? Vì ta làm cho chúng sinh lìa khỏi chỗ kinh sợ, do các chúng sinh từ đời vô thủy đến nay chấp trước thể tướng các pháp thật có. Vậy nên ta nói, Thánh nhân biết thể tướng của Pháp thật có, lại nói, các pháp tịch tĩnh vô tướng.

Này Đại Tuệ! Ta chẳng nói rằng, pháp thể là có hay không. Ta nói, tự thân chứng pháp như thật.

Do nghe pháp của ta mà tu hành các pháp tịch tĩnh vô tướng, được thấy cảnh giới Chân như vô tướng, thể nhập tự tâm thấy pháp, xa lìa sự thấy có, không của pháp bên ngoài, được ba cửa giải thoát, đạt được rồi, dùng ấn như thật khéo ấn chứng vào các pháp, trí tuệ tự thân nội chứng quan sát, lìa khỏi sự thấy có không.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Bồ-tát chẳng nên kiến lập các pháp chẳng sinh. Vì sao? Vì do kiến lập pháp thì đồng với các pháp có. Nếu chẳng vậy thì đồng với các pháp không.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Do kiến lập các pháp có nên nói, tất cả pháp giống với pháp kiến lập. Vì sao? Vì do sự kiến lập đó chẳng đồng với tất cả pháp chẳng sinh. Vậy nên nói, kiến lập tất cả pháp là lời nói tự phá. Vì sao? Vì do trong kiến lập không có sự kinh luận đó. Nếu chẳng vậy thì kinh luận đó cũng chẳng sinh, do đồng với tướng không sai biệt của các pháp. Vậy nên kiến lập các pháp chẳng sinh gọi là tự phá. Do kiến lập ba pháp, năm pháp đó hòa hợp mà có nên lìa khỏi kiến lập thì có, không chẳng sinh ra.

Này Đại Tuệ! Kiến lập đó hội nhập trong các pháp chẳng thấy pháp có, không. Này Đại Tuệ! Nếu kiến lập đó thì các pháp chẳng sinh mà nói lời này, tất cả pháp chẳng sinh. Này Đại Tuệ! Nói như vậy thì kiến lập tức là phá. Vì sao? Vì lìa khỏi kiến lập thì tướng có, không chẳng thể được.

Này Đại Tuệ! Vậy nên, chẳng nên kiến lập các pháp chẳng sinh.

Này Đại Tuệ! Do kiến lập đó đồng với tất cả pháp thể chẳng sinh kia, vậy nên chẳng nên kiến lập các pháp chẳng sinh do có nhiều lỗi vậy.

Này Đại Tuệ! Lại có chẳng nên kiến lập các pháp chẳng sinh. Vì sao? Vì do ba pháp, năm pháp nhân của chúng chẳng đồng.

Này Đại Tuệ! Lại có, chẳng nên kiến lập các pháp chẳng sinh. Vì sao? Vì do ba pháp, năm pháp đó tạo tác hữu vi vô thường. Vậy nên, chẳng nên kiến lập tất cả các pháp chẳng sinh.

Này Đại Tuệ! Như vậy, chẳng nên kiến lập tất cả pháp trống không. Thể tướng của tất cả các pháp không thật, này Đại Tuệ! Mà các Bồ-tát vì chúng sinh nói tất cả các pháp như huyễn như mộng, do tướng thấy, chẳng thấy, do tướng các pháp mê hoặc trí thấy. Vậy nên, nên nói như huyễn như mộng để ngăn trừ tất cả phàm phu ngu si lìa khỏi sự kinh sợ. Này Đại Tuệ! Do các phàm phu rơi vào trong tà kiến có không, do phàm phu nghe như huyễn như mộng sinh ra kinh sợ. Các phàm phu nghe, sinh ra kinh sợ rồi xa lìa Đại thừa.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn một lần nữa nói kệ:

Không tự thể, không thức
Không A-lê-gia thức
Ngu si vọng phân biệt
Tà kiến như thây chết.
Tất cả pháp chẳng sinh
Thấy khác nói chẳng thành
Các pháp đều chẳng sinh
Nhân duyên chẳng thể thành.
Tất cả pháp chẳng sinh
Chớ kiến lập pháp vậy
Đồng, bất đồng chẳng thành
Vậy nên kiến lập hoại.
Ví như mắt có màng
Hư vọng thấy vầng sáng
Phân biệt ở có không
Phàm phu thấy hư vọng
Ba cõi chỉ giả danh
Không có pháp thể thật
Chấp giả danh là thật
Phàm phu khởi phân biệt
Sự tướng và giả danh
Tâm ý đã chấp giữ
Phật tử nên xa lìa
Trụ cảnh giới tịch tĩnh
Không nước chấp tướng nước
Các thú, tâm vọng si
Phàm phu thấy pháp vậy
Thánh nhân thì chẳng vậy.
Thánh nhân thấy thanh tịnh
Ba thoát, Tam-muội sinh
Xa lìa khỏi sinh diệt
Được vô chướng tịch tĩnh
Tu hành chẳng vướng mắc
Cũng lại chẳng thấy không
Pháp có, không bình đẳng
Vậy nên quả Thánh sinh.
Sao gọi pháp có không
Làm sao thành bình đẳng
Chẳng thể thấy do tâm
Pháp trong ngoài vô thường
Nếu diệt trừ pháp đó
Thấy tâm được bình đẳng.

Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn nói, trí tuệ quan sát chẳng thể thấy cảnh giới các pháp trước. Biết được cảnh giới bấy giờ chỉ là nội tâm. Tâm, ý, ý thức hiểu biết như thật, không có pháp sở thủ, cũng không có pháp năng thủ. Vậy nên trí cũng chẳng thể phân biệt mà nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Nếu nói rằng, trí tuệ chẳng thể nắm giữ thì vì thấy tự tướng, đồng tướng của các pháp khác với pháp tướng khác, đủ loại pháp thể khác nhau chẳng đồng nên trí chẳng thể biết. Vì thấy đủ loại thể tướng của các pháp chẳng thể khác nên trí chẳng thể biết. Vì chính sự chướng ngại của núi non, vách đá, tường vách, rừng rậm, cây cối... đất, nước, lửa, gió nên trí chẳng thể biết, vì chính là chỗ rất xa rất gần nên trí chẳng thể biết. Vì chính là già, trẻ, vì chính là mù tối, các căn chẳng đủ nên trí chẳng thể biết.

Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp đều khác, pháp tướng đều khác với pháp thể tự tướng đồng tướng, đủ loại chẳng đồng mà trí chẳng thể biết thì, bạch Thế Tôn! Nếu vậy, trí đó chẳng phải là trí. Vì sao? Vì chẳng thể biết cảnh giới thật trước.

Bạch Thế Tôn! Nếu đủ loại thể tướng, tự tướng đồng của tất cả pháp chẳng thấy khác nhau mà trí chẳng thể biết, nếu vậy trí kia chẳng được nói rằng trí. Vì sao? Vì thật có cảnh giới chẳng thể biết. Bạch Thế Tôn! Có cảnh giới trước có thể thấy như thật gọi đó là trí. Nếu vì núi non vách đá, tường ngăn, rừng cây, cây cỏ, đất nước, lửa, gió, rất xa, rất gần, già trẻ, mù tối, các căn chẳng đủ... mà chẳng thể thấy biết thì trí đó không là trí, vì cảnh giới có thật mà chẳng biết.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Như lời ông nói về vô trí thì nghĩa này chẳng vậy! Vì sao? Vì có thật trí.

Này Đại Tuệ! Ta chẳng nương vào lời nói như vậy của ông, cảnh giới là không có, chỉ là tự tâm thấy. Ta nói rằng, chẳng hiểu chỉ là tự tâm thấy các vật bên ngoài, rồi cho là có, không. Vậy nên, trí tuệ chẳng thấy cảnh giới. Trí chẳng thấy thì chẳng vận hành ở tâm. Vậy nên ta nói, vào ba cửa giải thoát, trí cũng chẳng thấy. Nhưng các phàm phu từ đời vô thủy đến nay, hư vọng phân biệt, nương theo hý luận huân tập chất chứa trong tâm nên phân biệt như vậy, thấy hình tướng cảnh giới bên ngoài có, không, vì làm cho họ lìa khỏi tâm hư vọng như vậy nên ta nói, tất cả pháp chỉ là tự tâm thấy, chấp trước ngã và ngã sở nên chẳng thể hiểu biết, chỉ là tự tâm. Hư vọng phân biệt chính là trí, chính là cảnh giới. Do phân biệt chính là trí, chính là cảnh giới, nên quan sát pháp bên ngoài chẳng thấy có, không thì rơi vào Đoạn kiến.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Có cảnh giới, sự việc
Trí chẳng thể thấy được
Vô trí chẳng phải trí
Hư vọng thấy cho rằng
Các pháp là vô lượng
Trí này chẳng thể biết
Chướng ngại và xa gần
Trí vọng, chẳng phải trí
Già, trẻ, các căn tối
Chẳng thể sinh trí tuệ
Mà thật có cảnh giới
Trí đó chẳng thật trí.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si nương vào phiền não hý luận, phiền não phân biệt của thân đời vô thủy, thân huyễn hóa mà kiến lập pháp của mình. Rồi họ chấp trước tự tâm thấy cảnh giới bên ngoài, chấp trước danh tự, chương cú, lời nói mà chẳng thể biết kiến lập chánh pháp, chẳng tu chánh hạnh, lìa khỏi bốn pháp cú thanh tịnh.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Bạch Thế Tôn! Đúng vậy, đúng như lời của Thế Tôn! Thế Tôn vì con giảng nói kiến lập pháp tướng. Con và tất cả các Bồ-tát... vào đời vị lai biết rõ tướng kiến lập nói pháp, chẳng mê theo tà kiến của ngoại đạo, pháp chẳng chánh kiến của Thanh văn, Bích-chi-phật.

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe! Ta sẽ vì ông nói!

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Con xin lắng nghe và tin nhận!

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Có hai loại pháp mà các Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri đời quá khứ, vị lai và hiện tại đã giảng nói. Những gì là hai?

1. Kiến lập nói pháp tướng.

2. Kiến lập như thật pháp tướng.

Này Đại Tuệ! Kiến lập nói pháp tướng là gì? Nghĩa là đủ các công đức, Tu-đa-la, Ưu-ba-đề-xá (Kinh, Luật) tùy theo lòng tin của chúng sinh mà vì họ nói pháp. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Kiến lập thuyết pháp tướng.

Này Đại Tuệ! Kiến lập như thật pháp tướng là gì? Nghĩa là nương vào những pháp nào mà tu chánh hạnh, xa lìa tự tâm hư vọng phân biệt các pháp tướng, chẳng rơi vào trong nhóm bè đảng một khác, đồng chẳng đồng, lìa khỏi tâm, ý, ý thức, bên trong chứng cảnh giới hành hóa của Thánh trí, lìa khỏi tướng chấp tương ứng của các tướng nhân duyên, lìa khỏi tà kiến của tất cả ngoại đạo, lìa khỏi các kiến chấp của tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật, lìa khỏi kiến chấp của hai bè đảng có, không. Này Đại Tuệ! Đó gọi là kiến lập như thật pháp tướng. Này Đại Tuệ! Ông và các Đại Bồ-tát cần phải tu học.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Ta kiến lập hai pháp
Nói pháp, pháp như thật
Nương danh tự nói pháp
Vì người thật tu hành.

QUYỂN 6

Phẩm 5: Lô-CA-DA-ĐÀ

Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Một thuở, Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri nói rằng: Đủ thứ biện luận của Lôca-da-đà, nếu có gần gũi cúng dường người đó thì nhận lấy vật thực tham dục thực, chẳng có được pháp thực.

Bạch Thế Tôn! Vì sao nói rằng, đủ thứ biện luận của Lô-ca-da-đà, nếu gần gũi cúng dường, thì nhận lấy vật thực tham dục, chẳng có được pháp thực?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Lô-ca-da-đà có đủ thứ biện tài, ngôn từ, câu cú sắc sảo mê hoặc thế gian, chẳng nương vào như pháp mà nói, chẳng nương vào như nghĩa mà nói, chỉ tùy theo sự ưa thích tình cảm phàm phu ngu si ở thế gian mà nói việc thế tục, chỉ có ngôn từ khéo léo, chương cú êm dịu làm mất đi chính nghĩa. Này Đại Tuệ! Đó gọi là lỗi đủ thứ biện tài lạc thuyết của Lô-ca-da-đà.

Này Đại Tuệ! Biện tài như vậy của Lô-ca-dađà chỉ thu phục phàm phu ngu si của thế gian, chẳng phải thể nhập pháp tướng như thật mà nói pháp, tự mình chẳng biết rõ tất cả pháp, rơi vào trong nhóm tà kiến nhị biên, tự mất chính đạo, cũng khiến cho người khác mất. Vậy nên, họ chẳng thể lìa khỏi các cõi, do chẳng thể thấy chỉ là tự tâm, phân biệt chấp trước pháp bên ngoài có tướng. Vậy nên chẳng lìa khỏi hư vọng phân biệt.

Này Đại Tuệ! Vậy nên ta nói, Lô-ca-da-đà tuy có đủ thứ biện tài sắc sảo để giảng nói các pháp nhưng mất chánh lý nên chẳng thoát khỏi sinh già, bệnh, chết buồn rầu, khổ não... tất cả khổ nhóm họp, do nương vào đủ loại danh tự, chương cú, thí dụ, nói khéo léo để mê hoặc, lừa dối người.

Này Đại Tuệ! Thích Đề-hoàn Nhân lý giải các luận rộng rãi tự tạo ra thanh luận. Lô-ca-da-đà đó có một đệ tử chứng được thần thông thế gian, đi đến cung trời Đế Thích kiến lập luận pháp nói rằng: “Thưa Kiều-thi-ca! Tôi đánh cược với ông là cùng nhau bàn luận. Nếu người nào chẳng đúng thì phải chịu khuất phục.” Để cho tất cả những người trời thấy biết, ông ấy liền lập lời yêu cầu chung: “Nếu tôi thắng ông thì tôi sẽ phá nát bánh xe ngàn nan hoa của ông. Nếu tôi thua thì sẽ chặt từng đốt, từng đốt xương từ đầu đến chân, để đáp tạ cho ông.” Nói lời thề rồi, người đệ tử của Lô-ca-da-đà hiện làm thân rồng cùng bàn luận với Thích Đề-hoàn Nhân.

Ông dùng luận pháp của mình liền thắng được Thích Đề-hoàn Nhân kia nên khiến cho trời ấy khuất phục. Ông liền ở trong trời phá tan nát bánh xe có ngàn nan hoa thành bụi trần, rồi trở về nhân gian.

Này Đại Tuệ! Bà-la-môn Lô-ca-da-đà với đủ loại ví dụ tương ứng như vậy... cho đến hiện thân súc sinh, nương vào danh tự mê hoặc thế gian, Trời, Người, A-tu-la... do tất cả chúng sinh của các thế gian chấp trước pháp sinh diệt, huống gì là đối với loài người?

Này Đại Tuệ! Do nghĩa này nên phải xa lìa Bàla-môn Lô-ca-da-đà, vì nhân lời nói của người đó có thể sinh ra sự chứa nhóm khổ. Vậy nên, chẳng nên thân cận cúng dường, cung kính thưa hỏi Bàla-môn Lô-ca-da-đà.

Này Đại Tuệ! Pháp của Bà-la-môn Lô-ca-dađà giảng nói chỉ thấy cảnh giới thân trí hiện tiền, nương vào danh tự của đời để nói các pháp tà. Này Đại Tuệ! Luận của Bà-la-môn Lô-ca-da-đà tạo ra có đến trăm ngàn kệ mà đời sau phân ra làm nhiều bộ, mỗi mỗi đều có tên khác, nương vào tự tâm chấp giữ mà tạo ra vậy.

Này Đại Tuệ! Bà-la-môn Lô-ca-da-đà không có đệ tử có thể thọ trì luận ấy. Vậy nên đời sau phân làm nhiều bộ với đủ thứ tên khác nhau.

Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo... nội tâm không hiểu biết như thật nên nương vào đủ loại nhân, mọi lý giải khác nhau, tùy theo tự tâm tạo ra mà vì người nói, chấp trước nhân Tự tại...

Này Đại Tuệ! Trong sự tạo luận của tất cả ngoại đạo không có pháp như thật, chỉ là tất cả Thế luận, đủ loại pháp môn nhân duyên giảng nói trăm ngàn vạn pháp mà những ngoại đạo đó chẳng biết là Lôca-da-đà.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả ngoại đạo chỉ nói Lô-ca-da-đà, nương vào đủ mọi danh tự, chương cú, thí dụ của thế gian mà chấp trước các nhân thì, bạch Thế Tôn! Chúng sinh, Trời, Người, A-tu-la của tất cả cõi nước khắp mười phương tập họp chỗ Đức Như Lai, Đức Như Lai cũng dùng đủ loại danh tự, chương cú, thí dụ của thế gian nói pháp mà chẳng nói pháp tự thân chứng trí. Nếu vậy thì cũng đồng với lời nói của tất cả ngoại đạo, chẳng khác.

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Ta chẳng nói tới Lô-ca-da-đà, cũng chẳng nói rằng, các pháp chẳng đến chẳng đi. Này Đại Tuệ! Ta nói, các pháp chẳng đến chẳng đi.

Này Đại Tuệ! Sao gọi là đến? Này Đại Tuệ! Sở dĩ nói rằng “đến” là gọi nhóm họp sinh ra, do hòa hợp sinh ra.

Này Đại Tuệ! Sao gọi là đi? Này Đại Tuệ! Sở dĩ nói rằng “đi” là gọi đó là diệt. Này Đại Tuệ! Ta nói, chẳng đi chẳng đến là gọi chẳng sinh chẳng diệt.

Này Đại Tuệ! Ta nói chẳng đồng với pháp của ngoại đạo kia. Vì sao? Vì do chẳng chấp trước vật bên ngoài có không, chỉ kiến lập giảng nói tự tâm thấy, chẳng trụ hai chỗ, chẳng hành hóa phân biệt cảnh giới các tướng, do biết như thật kiến chấp tự tâm nên chẳng sinh ra sự chấp tự tâm phân biệt. Do chẳng phân biệt tất cả tướng mà có thể hội nhập ba cửa giải thoát Không, Vô tướng, Vô nguyện nên gọi là giải thoát.

Này Đại Tuệ! Ta nhớ thuở quá khứ, ở một chỗ nọ, bấy giờ có một đại Bà-la-môn Lô-ca-da-đà đi đến chỗ của ta, thưa: “Này ông Cù-đàm! Tất cả tạo tác sao?” Này Đại Tuệ! Khi đó ta đáp: “Này Bà-lamôn! Tất cả tạo tác thì đây là Lô-ca-da-đà Đệ nhất. Bà-la-môn nói: “Này ông Cù-đàm! Tất cả chẳng tạo tác sao?” Ta đáp: “Này Bà-la-môn! Tất cả chẳng tạo tác chính là Lô-ca-da-đà thứ hai.” Bà-lamôn nói: “Như vậy tất cả thường hay tất cả vô thường? Tất cả sinh hay tất cả chẳng sinh?” Ta đáp: “Này Bà-la-môn! Chính là Lô-ca-da-đà thứ sáu.”

Này Đại Tuệ! Lô-ca-da-đà lại hỏi: “Này ông Cù-đàm! Tất cả một chăng? Tất cả khác chăng? Tất cả giống nhau chăng? Tất cả khác nhau chăng? Tất cả các pháp nương vào nhân sinh ra, thấy đủ loại nhân sinh?” Này Đại Tuệ! Ta đáp: “Này Bà-lamôn! Chính là Lô-ca-da-đà thứ mười một.”

Này Đại Tuệ! Bà-la-môn đó lại hỏi: “Này ông Cù-đàm! Tất cả vô ký sao? Tất cả hữu ký sao? Có ngã sao? Không ngã sao? Có đời này sao? Không có đời này sao? Có đời sau chăng? Không có đời sau chăng? Có giải thoát chăng? Không giải thoát chăng? Tất cả trống rỗng chăng? Tất cả chẳng trống rỗng chăng? Tất cả hư không chăng? Chẳng phải duyên diệt sao? Niết-bàn sao? Này Cù-đàm! Tạo tác chăng? Chẳng phải tác chăng? Có trung ấm chăng? Không có trung ấm chăng?” Này Đại Tuệ! Ta đáp: “Này Bà-la-môn! Nói như vậy, tất cả đều chính là Lô-ca-da-đà, chẳng phải lời nói của ta, chinh là pháp ông nói. Này Bà-la-môn! Ta nói do hý luận hư vọng phân biệt phiền não huân tập từ vô thủy nên nói ba cõi kia. Do chẳng biết rõ đó chỉ là tự tâm phân biệt thấy có, chẳng phải thấy bên ngoài có như pháp ngoại đạo.”

Này Đại Tuệ! Ngoại đạo nói rằng: “Ngã, căn, ý nghĩa, ba thứ hòa hợp có thể sinh ra trí.” Ta đáp: “Này Bà-la-môn! Ta chẳng như vậy, ta chẳng nói nhân, cũng chẳng nói không nhân mà chỉ nói tự tâm phân biệt thấy có tướng cảnh giới khả thủ năng thủ. Ta nói nhân duyên giả danh tập họp mà sinh ra các pháp, chẳng phải như Bà-la-môn các ông và cảnh giới khác, do rơi vào ngã kiến.”

Này Đại Tuệ! Niết-bàn, hư không, duyên diệt chẳng thành ba loại, huống gì nói rằng, tạo tác có tạo tác, chẳng tạo tác?

Này Đại Tuệ! Lại có Bà-la-môn Lô-ca-da-đà đến hỏi ta: “Này ông Cù-đàm! Nhân của nghiệp ái vô minh ở những thế gian này sinh ra ba cõi có hay là không nhân?” Ta đáp: “Này Bà-la-môn! Hai pháp này của Lô-ca-da-đà, chẳng phải pháp của ta!” Bà-la-môn lại hỏi: “Này ông Cù-đàm! Tất cả pháp rơi vào tự tướng hay đồng tướng?” Ta đáp: “Này Bà-la-môn! Đây chính là Lô-ca-da-đà, chẳng phải pháp của ta. Này Bà-la-môn! Chỉ có tâm, ý, ý thức chấp trước vật bên ngoài đều chính là Lô-cada-đà, chẳng phải pháp của ta vậy.”

Này Đại Tuệ! Bà-la-môn Lô-ca-da-đà lại hỏi: “Này ông Cù-đàm! Vả lại, có pháp chẳng phải Lôca-da-đà sao? Này ông Cù-đàm! Tất cả ngoại đạo kiến lập đủ loại danh tự, chương cú, nhân, thí dụ để nói thì đều là pháp của chúng tôi sao?” Ta đáp: “Này Bà-la-môn! Có pháp chẳng phải pháp của ông mà chẳng phải chẳng kiến lập, cũng chẳng phải chẳng nói đủ loại danh tự, chương cú, cũng chẳng phải chẳng nương nghĩa, hoặc nương nghĩa giảng nói mà chẳng phải pháp kiến lập của Lô-cada-đà. Này Bà-la-môn! Có pháp chẳng phải Lô-cada-đà, do các pháp đó, tất cả ngoại đạo cho đến cả ông chẳng thể rõ biết, do hư vọng chấp trước pháp chẳng thật bên ngoài, phân biệt hý luận. Sao gọi là xa lìa phân biệt? Là tâm quan sát có, không, tự tâm thấy tướng, thấy biết như thật. Vậy nên chẳng sinh ra tất cả phân biệt, chẳng thủ đắc các pháp cảnh giới bên ngoài, dừng tâm phân biệt, trụ chỗ tự tại, cảnh giới tịch tĩnh. Đó gọi là chẳng phải Lô-ca-dađà, là luận pháp của ta, chẳng phải luận của ông. Này Bà-la-môn! Trụ nội tự tại, chẳng sinh chẳng diệt. Chẳng sinh chẳng diệt là chẳng sinh tâm phân biệt. Này Bà-la-môn! Đó gọi là chẳng phải Lô-cada-đà. Này Bà-la-môn! Ta chỉ lược nói. Do đâu mà thức chẳng vận hành, chẳng thủ chấp, chẳng thoái, chẳng cầu, chẳng sinh, chẳng chấp trước, chẳng vui, chẳng thấy, chẳng nhìn, chẳng trụ, chẳng xúc... Đó gọi là trụ, tức là tên khác nghĩa một. Này Bà-la-môn! Chấp trước đủ các tướng, tự ngã hòa hợp, tham ái chấp trước các nhân thì chính là pháp Lô-ca-da-đà của Bà-la-môn, chẳng phải là pháp của ta vậy!”

Này Đại Tuệ! Bà-la-môn Lô-ca-da-đà đi đến chỗ ta hỏi pháp như vậy, ta đáp lại Bà-la-môn đó những lời nói như trên, Bà-la-môn lặng thinh ra đi mà chẳng hỏi sự kiến lập pháp chân thật của ta. Bàla-môn Lô-ca-da-đà tác khởi ý niệm trong tâm: “Sa-môn Thích tử ở bên ngoài pháp của ta này thật là đáng thương xót. Ông ta nói tất cả pháp không nhân, không duyên, không có tướng sinh, chỉ nói rằng, tự tâm phân biệt thấy pháp. Nếu có thể biết rõ tự tâm thấy tướng thì tâm phân biệt diệt.” Này Đại Tuệ! Ông nay hỏi ta, vì sao Lô-ca-da-đà có đủ loại biện tài giảng nói, mà thân cận cúng dường, cung kính người đó, chỉ nhận lấy vị tham dục, chẳng đạt được pháp vị.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Sao gọi là Thực cú nghĩa? Sao gọi là Pháp cú nghĩa?

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông mới có thể vì chúng sinh đời vị lai thưa hỏi Như Lai hai nghĩa như vậy. Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói!

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và tin nhận.

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Thế nào là thực? Là ăn, tiếp xúc với vị, mong cầu phương tiện, khéo dua nịnh, đắm say vị, chấp trước ngoại cảnh... những pháp như vậy tướng là tên khác nhưng nghĩa là một, do chẳng thể nhập vào nghĩa pháp môn cảnh giới không hai.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Gọi là thực thì nương vào tà kiến, sinh ra các ấm có chi thể, chẳng lìa khỏi sinh, già, bệnh, chết lo buồn, khổ não, ái sinh ra hữu... những pháp như vậy gọi đó là thực. Vậy nên, ta và tất cả chư Phật đều nói thân cận cúng dường Bà-la-môn Lô-ca-da-đà kia thì gọi là được thực vị, chẳng được pháp vị.

Này Đại Tuệ! Những gì là pháp vị? Là có thể biết như thật hai loại vô ngã; do thấy tướng nhân vô ngã, pháp vô ngã, vậy nên chẳng sinh ra tướng phân biệt và có thể biết như thật trí thượng thượng của các Địa, bấy giờ có thể lìa khỏi tâm, ý, ý thức, thể nhập Địa ngôi vị trí chư Phật, đạt được tất cả các chỗ tận cùng chương cú, có thể biết như thật tất cả cõi tự tại của chư Phật. Đó gọi là pháp vị, chẳng rơi vào tất cả tà kiến hý luận phân biệt nhị biên.

Này Đại Tuệ! Ngoại đạo nói pháp nhiều khiến cho chúng sinh rơi vào nhị biên, chẳng khiến cho bậc Trí rơi vào nhị biên. Vì sao? Này Đại Tuệ! Những ngoại đạo... nói nhiều về đoạn, thường do không có nhân nên rơi vào thường kiến, thấy nhân diệt nên rơi vào đoạn kiến.

Này Đại Tuệ! Ta nói thấy như thật, chẳng chấp trước sinh diệt. Vậy nên lời nói của ta gọi là Pháp vị. Này Đại Tuệ! Đó gọi là ta nói về thực vị và Pháp vị. Này Đại Tuệ! Ông và các Đại Bồ-tát nên học pháp này.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Ta nhiếp phục chúng sinh
Nương giới ngăn các ác
Trí tuệ, tà kiến diệt
Ba giải thoát lớn thêm.
Ngoại đạo nói hư vọng
Đều là luận thế gian
Dùng tà kiến nhân quả
Lập luận, không chánh kiến
Ta lập pháp kiến lập
Lìa hư vọng, chấp nhân
Vì các đệ tử nói
Lìa khỏi pháp thế gian.
Chỉ tâm, không pháp khác
Không có tâm nhị biên
Pháp năng thủ, sở thủ
Lìa khỏi kiến đoạn, thường.
Chỉ hành xứ của tâm
Đều là luận thế tục.
Nếu quán sát tự tâm
Chẳng thấy các hư vọng
Nếu đến thấy nhân sinh
Khi đi thấy quả diệt.
Đến, đi biết chân thật
Chẳng phân biệt hư vọng
Thường, vô thường, tạo tác
Chẳng tạo, vật đây, đó.
Tất cả Pháp như vậy
Đều là luận Thế tục.

Phẩm 6: NIẾT-BÀN

Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như lời Phật nói về Niết-bàn, Niết-bàn là do những pháp gì gọi là Niết-bàn mà tất cả ngoại đạo đều hư vọng phân biệt Niết-bàn?

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông giải nói. Các ngoại đạo... hư vọng phân biệt tướng của Niết-bàn. Như sự phân biệt của ngoại đạo đó thì không phải là Niết-bàn.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Con xin lắng nghe và tin nhận!

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo nhàm chán các cảnh giới, thấy ấm, giới, nhập diệt, các pháp vô thường, tâm, tâm số pháp chẳng sinh, hiện tiền do chẳng nhớ nghĩ về cảnh giới vui ở quá khứ, vị lai và hiện tại, chỗ các ấm diệt tận như lửa đèn tắt, đủ loại gió ngăn chặn lại, chẳng chấp giữ các tướng hư vọng phân biệt... gọi là Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Ngoại đạo kia thấy những pháp như vậy sinh ra tâm Niết-bàn, chẳng phải thấy diệt nên gọi là Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Hoặc có ngoại đạo, từ phương này đến phương kia thì gọi là Niếtbàn.

Này Đại Tuệ! Có ngoại đạo phân biệt các cảnh như gió, vậy nên phân biệt gọi là Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Lại có ngoại đạo nói như không thấy cảnh giới năng kiến, sở kiến chẳng diệt thì gọi là Niếtbàn. Lại có ngoại đạo cho rằng không thấy phân biệt, thấy thường không thường gọi là Niết-bàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo nói do phân biệt thấy đủ loại tướng khác nhau có thể sinh ra các khổ. Do tự tâm thấy hư vọng phân biệt tất cả các tướng, kinh sợ các tướng, thấy được vô tướng mà thâm tâm ưa thích sinh ra tưởng Niết-bàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo thấy tự tướng đồng tướng của tất cả pháp chẳng sinh ra tưởng đoạn diệt, phân biệt các pháp quá khứ, vị lai và hiện tại là có thì gọi là Niết-bàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo thấy, ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, thọ giả... là các pháp chẳng diệt rồi hư vọng phân biệt thì gọi là Niếtbàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác, không trí tuệ nên phân biệt tự tánh đối tượng chấp trước nhân mạng chuyển biến, phân biệt chuyển thì gọi là Niết-bàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói vì tội hết nên phước đức cũng hết. Đó gọi là Niếtbàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói vì phiền não hết, nên nương vào trí nên gọi là Niếtbàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói do thấy trời Tự tại tạo tác ra chúng sinh mà hư vọng phân biệt gọi là Niết-bàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói do các chúng sinh cùng nhân đắp đổi mà sinh ra, chẳng phải do nhân khác tạo tác. Như những ngoại đạo kia chấp trước vào nhân mà chẳng hiểu, chẳng biết, ngu si, ám độn hư vọng phân biệt gọi là Niếtbàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói chứng Đạo đế, hư vọng phân biệt gọi là Niết-bàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói có tạo tác và đối tượng tạo tác mà cùng hòa hợp thấy là một, khác đồng, chẳng đồng, hư vọng phân biệt gọi là Niết-bàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói tất cả pháp tự nhiên mà sinh ra, giống như nhà ảo thuật làm ra đủ các hình tượng, thấy đủ loại những vật quý báu, gai nhọn... tự nhiên mà sinh ra, hư vọng phân biệt gọi là Niết-bàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói vạn vật đều chính là thời gian tạo tác, hiểu biết chỉ là thời gian mà hư vọng phân biệt gọi là Niết-bàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có ngoại đạo khác nói thấy có vật, thấy không vật, thấy vật vừa có, không. Như vậy phân biệt gọi là Niết-bàn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Còn bậc Trí kiến lập pháp khác nói thấy như thật thì chỉ là tự tâm, chẳng chấp giữ các cảnh giới bên ngoài, lìa khỏi bốn loại pháp, thấy tất cả pháp đúng như pháp đó trụ, chẳng thấy tướng tự tâm phân biệt, chẳng rơi vào nhị biên, chẳng thấy cảnh giới năng thủ khả thủ, thấy thế gian kiến lập tất cả chẳng thật chỉ mê mờ pháp như thật. Do chẳng thủ đắc các pháp nên gọi đó là thật, do pháp tự thân chứng Thánh trí mà biết như thật hai loại vô ngã, lìa khỏi hai loại cấu bẩn phiền não, thanh tịnh hai chướng, có khả năng biết như thật tướng thượng thượng địa vào Như Lai địa đạt được Tam-muội Như huyễn, xa lìa tâm, ý, ý thức, phân biệt những kiến chấp như vậy... thì gọi là Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Lại có các ngoại đạo... biết, quán sát tà kiến mà nói các luận chẳng cùng tương ứng với chánh pháp như thật mà những bậc Trí xa lìa, quở trách. Này Đại Tuệ! Những ngoại đạo như vậy... đều rơi vào nhị biên hư vọng phân biệt, không thật là Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Tất cả ngoại đạo hư vọng phân biệt Niết-bàn như vậy, không có người trụ ở thế gian, không có người vào Niết-bàn. Vì sao? Vì tất cả ngoại đạo nương vào luận tự tại mà hư vọng phân biệt, không có trí như thật. Như những ngoại đạo kia tụ tâm phân biệt, không có pháp như vậy thì đến, đi, lay động, không có Niết-bàn của ngoại đạo như vậy.

Này Đại Tuệ! Ông và tất cả các Bồ-tát... nên xa lìa Niết-bàn hư vọng của tất cả ngoại đạo.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Ngoại đạo thấy Niết-bàn
Thảy đều khởi phân biệt
Đều từ tướng tâm sinh
Không phương tiện giải thoát
Chẳng lìa trói, bị trói
Lìa xa các phương tiện
Tự sinh tưởng giải thoát
Mà thật không giải thoát.
Ngoại đạo kiến lập pháp
Đều khác chấp các trí
Chúng đều không giải thoát
Vọng phân biệt, ngu si.
Tất cả si ngoại đạo
Thấy vọng tác, sở tác
Vậy nên không giải thoát
Do nói pháp có, không.
Phàm phu ưa hý luận
Chẳng nghe tuệ chân thật
Gốc ba cõi ngôn ngữ
Trí như thật diệt khổ.
Ví như bóng trong gương
Tuy thấy mà chẳng có
Huân tập chấp tâm hương
Phàm phu nói có hai
Chẳng biết chấp do tâm
Vậy nên, phân biệt hai
Biết như thật chỉ tâm
Phân biệt thì chẳng sinh.
Tâm gọi là đủ loại
Năng, sở kiến lìa xong
Thấy tướng không thể thấy
Phàm phu vọng phân biệt.
Ba cõi chỉ vọng tưởng
Cảnh giới ngoài thật không
Vọng tưởng thấy đủ hết
Phàm phu chẳng biết thông.
Kinh, kinh nói phân biệt
Đủ loại danh tự khác
Lìa khỏi pháp ngôn ngữ
Chẳng nói, không nắm bắt.

Phẩm 7: PHÁP THÂN

Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Bạch Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri! Nguyện xin Như Lai diễn nói pháp nhận biết chứng đắc tự thân! Do những pháp gì gọi là Pháp thân, để con và tất cả các Bồ-tát... biết rõ tướng Pháp thân của Như Lai để tự thân và người khác đều không còn nghi hoặc.

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông có điều nghi ngờ gì, cứ tùy ý thưa hỏi, ta sẽ vì ông phân biệt rõ.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Con xin lắng nghe và tin nhận. Bạch Thế Tôn! Pháp thân của Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri pháp tạo tác hay chẳng phải pháp tạo tác vậy? Chính là nhân hay chính là quả vậy? Là năng kiến hay là sở kiến vậy? Chính lời nói hay là đối tượng nói vậy? Chính là trí hay là sự biết của trí vậy? Những từ, cú như vậy... với Pháp thân Như Lai là khác hay chẳng khác vậy?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Tướng Pháp thân của Như Lai Ứng Chánh Biến Tri và những từ, cú như vậy... chẳng phải pháp tạo tác, chẳng phải pháp chẳng tạo tác, chẳng phải thân, quán pháp quả. Vì sao? Vì do nhị biên là có lỗi.

Này Đại Tuệ! Nếu nói rằng, Như Lai chính là pháp tạo tác tức là vô thường. Nếu vô thường thì tất cả tác pháp lẽ ra chính là Như Lai, mà Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri chẳng chấp nhận pháp này.

Này Đại Tuệ! Nếu Pháp thân của Như Lai chẳng phải là pháp tạo tác tức là không có thân nên nói rằng, có người tu hành vô lượng công đức và tất cả hạnh tức là hư vọng.

Này Đại Tuệ! Nếu chẳng tạo tác thì lẽ ra đồng với sừng thỏ, thạch nữ sinh con... Do không nhân tạo tác nên cũng không có thân vậy. Này Đại Tuệ!

Nếu pháp chẳng phải nhân, chẳng phải quả, chẳng phải có, chẳng phải không mà thể của pháp đó lìa khỏi bốn tướng thì, này Đại Tuệ! Bốn pháp đó gọi là ngôn thuyết của thế gian. Này Đại Tuệ! Nếu pháp lìa khỏi bốn pháp thì pháp đó chỉ có danh tự như thạch nữ sinh con. Này Đại Tuệ! Thạch nữ sinh con... chỉ là pháp danh tự chương cú, nói đồng với bốn pháp. Nếu rơi vào bốn pháp thì bậc Trí chẳng chấp giữ. Như vậy, tất cả những câu về Như Lai, bậc Trí nên biết.

Đức Phật lại bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Ta nói tất cả các pháp là vô ngã. Ông hãy lắng nghe nhiếp hóa của vô ngã. Phàm vô ngã thì nội thân vô ngã, vậy nên vô ngã. Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp tự thân là có, thân người khác là không, tựa như trâu, ngựa. Này Đại Tuệ! Ví như thân trâu chẳng phải là thân ngựa, ngựa cũng chẳng phải trâu. Vậy nên, chẳng được nói có hay nói không mà tự thể của chúng chẳng phải là không vậy.

Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp cũng lại như vậy, chẳng phải không thể tướng hay có tướng tự thể. Phàm phu ngu si chẳng biết thể tướng các pháp vô ngã, do tâm phân biệt, chẳng phải tâm chẳng phân biệt.

Này Đại Tuệ! Như vậy tất cả pháp trống không, tất cả pháp chẳng sinh, tất cả pháp không thể tướng cũng vậy.

Này Đại Tuệ! Pháp thân Như Lai cũng lại như vậy, ở trong năm ấm chẳng phải một, chẳng phải khác. Này Đại Tuệ! Pháp thân Như Lai với năm ấm là một tức là vô thường, do năm ấm chính là pháp tạo tác vậy. Này Đại Tuệ! Pháp thân Như Lai với năm ấm khác nhau tức là có hai pháp, chẳng đồng với thể tướng, như hai cái sừng con trâu tương tợ chẳng khác, dù thấy có hình thể riêng, dài ngắn hơi khác.

Này Đại Tuệ! Nếu như vậy thì tất cả các pháp lẽ ra không khác tướng nhưng lại có khác tướng như sừng trái con trâu khác sừng phải, sừng phải khác sừng trái. Như vậy tướng dài ngắn đối đãi đều khác biệt. Như hình sắc đủ thứ đó đây sai biệt.

Này Đại Tuệ! Như vậy, tướng của Pháp thân Như Lai ở trong năm ấm chẳng thể nói một chẳng thể nói khác, ở trong giải thoát chẳng thể nói một chẳng thể nói khác, ở trong Niết-bàn chẳng thể nói một chẳng thể nói khác. Như vậy nương vào giải thoát nói tên tướng của Pháp thân Như Lai.

Này Đại Tuệ! Nếu Pháp thân Như Lai khác giải thoát thì đồng với sắc tướng là vô thường. Nếu Pháp thân Như Lai chẳng khác giải thoát tức là không sai biệt về năng chứng, sở chứng.

Này Đại Tuệ! Nhưng người tu hành lại thấy có năng chứng và cả sở chứng. Vậy nên chẳng phải một. Này Đại Tuệ! Như vậy biết đối với cảnh giới đối tượng nhận biết chẳng phải một, chẳng phải khác. Này Đại Tuệ! Nếu pháp chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải nhân, chẳng phải quả, chẳng phải hữu vi, chẳng phải vô vi, chẳng phải giác, chẳng phải bất giác, chẳng phải năng kiến, chẳng phải khả kiến, chẳng phải lìa khỏi ấm, giới nhập, chẳng phải từ là ấm giới nhập, chẳng phải danh, chẳng phải cảnh giới, chẳng phải một, chẳng phải khác, chẳng phải đồng, chẳng phải chẳng đồng, chẳng phải tương tục, chẳng phải chẳng tương tục... vượt qua tất cả các pháp. Nếu vượt qua các pháp thì chỉ có cái tên ấy thôi. Nếu chỉ có tên thì pháp đó chẳng sinh ra. Do chẳng sinh ra nên pháp đó chẳng diệt. Do chẳng diệt nên pháp đó bình đẳng như hư không.

Này Đại Tuệ! Hư không chẳng phải nhân, chẳng phải quả! Nếu pháp chẳng phải nhân, chẳng phải quả thì pháp đó chẳng thể quan sát, mà chẳng thể quan sát thì pháp đó vượt qua tất cả những hý luận. Nếu vượt qua tất cả các hý luận thì pháp đó gọi là Pháp thân Như Lai. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng của Pháp thân Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, do vượt qua tất cả cảnh giới các căn vậy.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ: Lìa các pháp và căn

Không quả cũng không nhân

Đã lìa giác, sở giác

Năng, khả kiến lìa luôn

Năm ấm và các duyên

Phật không thấy có pháp Nếu không thấy có pháp Làm sao mà phân biệt?

Chẳng tác, chẳng không tác

Không quả cũng không nhân Chẳng ấm, chẳng lìa ấm Cũng chẳng trụ nơi khác.

Những tâm nào phân biệt

Phân biệt chẳng thấy được

Pháp đó chẳng phải không

Các pháp, pháp tự nhiên

Trước có nên nói không Trước không nên nói có

Vậy nên chẳng nói không

Cũng chẳng được nói có

Mê theo ngã, vô ngã

Chỉ chấp trước âm thanh

Đó rơi vào nhị biên

Vọng nói thế gian hoại

Lìa khỏi tất cả lỗi Thì thấy được pháp ta. Đó gọi là chánh kiến

Chẳng phỉ báng Thế Tôn.

Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Thế Tôn vì con giải nói! Nguyện xin Đấng Thiện Thệ vì con giải nói! Đức Như Lai ở đâu cũng nói rằng, các pháp chẳng sinh chẳng diệt.

Bạch Thế Tôn! Thế Tôn lại nói rằng, chẳng sinh chẳng diệt gọi là Pháp thân của Như Lai, nên nói chẳng sinh chẳng diệt.

Bạch Thế Tôn! Như Lai nói rằng, chẳng sinh chẳng diệt, vì không có pháp nên gọi chẳng sinh chẳng diệt. Vì Như Lai khác gọi chẳng sinh chẳng diệt mà Phật Như Lai thường nói, các pháp chẳng sinh chẳng diệt do lìa khỏi pháp kiến lập có không vậy.

Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả pháp chẳng sinh thì đây chẳng được nói rằng, tất cả pháp, do tất cả pháp chẳng sinh. Nếu nương vào pháp khác có danh này thì xin Thế Tôn giảng nói cho con.

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe! Ta sẽ vì ông giải nói.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Vâng con xin lắng nghe và tin nhận! Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Pháp thân Như Lai chẳng phải là không vật chất, cũng chẳng phải là tất cả pháp chẳng sinh chẳng diệt, cũng chẳng được nói rằng, nương vào nhân duyên mà có, cũng chẳng phải hư vọng nói chẳng sinh chẳng diệt.

Này Đại Tuệ! Ta thường nói rằng, chẳng sinh chẳng diệt thì gọi là Ý sinh thân. Pháp thân Như Lai chẳng phải là cảnh giới của các ngoại đạo, Thanh văn, Bích-chi-phật, cũng chẳng phải cảnh giới của Bồ-tát trụ ở Địa thứ bảy.

Này Đại Tuệ! Ta nói chẳng sinh chẳng diệt tức là tên khác của Như Lai. Này Đại Tuệ! Ví như Thích Đề-hoàn Nhân, Đế Thích, Bất-lan-đà-la, thủ trảo, thân thể, địa, phù di, hư không, vô ngại... những danh hiệu như vậy, tên gọi thì khác mà nghĩa chỉ một, chẳng nương vào nhiều danh hiệu mà nói rằng, có nhiều thể Đế Thích!

Này Đại Tuệ! Ta cũng như vậy, ở trong thế giới Ta-bà với ba trăm ngàn ức danh hiệu, phàm phu tuy nói mà chẳng biết là danh hiệu khác của Như Lai.

Này Đại Tuệ! Hoặc có chúng sinh biết Như Lai, có người biết Tự Tại, có người biết Nhất Thiết Trí, có người biết Đấng Cứu Thế, có người biết là Đấng Đạo Sư, có người biết là bậc Tướng, có người biết là bậc Thắng, có người biết bậc Vi diệu, có người biết là đấng Thế Tôn, có người biết là Đức Phật, có người biết là Ngưu Vương, có người biết là Sư Tử, có người biết là Tiên nhân, có người biết là đấng Phạm, có người biết là Na-la-diên, có người biết là bậc Thắng, có người biết là Ca-tỳ-la, có người biết là bậc Cứu Cánh, có người biết A-lị-sấc-ni-di, có người biết là mặt trăng, có người biết là mặt trời, có người biết là Bà-lâu-na, có người biết là Tỳ-giata, có người biết là Đế Thích, có người biết là bậc Lực, có người biết là Biển, có người biết là bậc chẳng sinh, có người biết là bậc chẳng diệt, có người biết là đấng Không, có người biết là Chân Như, có người biết là Thật Tế, có người biết là Niết-bàn, có người biết là Pháp giới, có người biết là Pháp tánh, có người biết là đấng Thường Hằng, có người biết là bậc Bình Đẳng, có người biết là đấng Bất Nhị, có người biết là Vô Tướng, có người biết là Duyên, có người biết là Phật thể, có người biết là Nhân, có người biết là giải thoát, có người biết là Đạo, có người biết là Thật Đế, có người biết là Nhất Thiết Trí, có người biết là Ý sinh thân... Này Đại Tuệ! Vô số những danh hiệu Như Lai Ứng Chánh Biến Tri như vậy ở trong thế giới Ta-bà và các thế giới khác, ba trăm ngàn ức danh hiệu chẳng thêm chẳng bớt mà chúng sinh đều biết, như vầng trăng trong nước, chẳng vào chẳng ra mà các phàm phu chẳng hay chẳng biết, do rơi vào trong pháp nhị biên tương tục, nhưng họ đều cung kính cúng dường ta, chẳng thể hiểu rõ được danh tự, câu nghĩa, thủ đắc tướng sai biệt, chẳng thể tự biết, chấp trước danh tự nên hư vọng phân biệt, chẳng sinh chẳng diệt gọi là Không có pháp, mà chẳng biết đó là tướng sai biệt của danh hiệu Như Lai, như Nhân Đà-la, Đế Thích, Vương, Bất-lan-đà-la... Do chẳng thể quyết định danh hiệu chân thật mà thuận theo danh tự âm thanh chấp giữ pháp cũng lại như vậy.

Này Đại Tuệ! Vào đời vị lai, phàm phu ngu si nói lời như vầy: “Nghĩa cũng giống như danh vậy” mà họ chẳng biết khác danh có nghĩa. Vì sao? Vì do nghĩa không có thể tướng. Họ lại nói lời này: “Chẳng khác danh tự âm thanh có nghĩa, mà danh tự âm thanh tức là nghĩa. Vì sao? Vì họ chẳng biết thể tướng của danh tự.

Này Đại Tuệ! Người ngu si kia chẳng biết âm thanh tức là sinh, tức là diệt, còn nghĩa thì chẳng sinh diệt.

Này Đại Tuệ! Tánh của âm thanh rơi vào danh tự mà nghĩa thì chẳng đồng rơi vào danh tự, do lìa khỏi có không nên vô sinh, vô thể.

Này Đại Tuệ! Như Lai nói pháp nương vào tiếng của mình mà nói, chẳng thấy các chữ là có không nên chẳng chấp trước danh tự. Này Đại Tuệ! Nếu người chấp trước danh tự mà nói thì người đó chẳng gọi là người nói pháp giỏi. Vì sao? Vì pháp không danh tự vậy.

Này Đại Tuệ! Vậy nên trong kinh ta nói, các Đức Phật Như Lai thậm chí chẳng nói một chữ, chẳng thị hiện một danh. Vì sao? Vì các pháp không có chữ, nương vào nghĩa không mà nói, nương vào phân biệt mà nói vậy.

Này Đại Tuệ! Nếu chẳng nói pháp thì pháp luân của các Đức Phật Như Lai sẽ đoạn diệt. Pháp luân đoạn diệt thì cũng không có Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát mà không có Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát thì vì những người nào? Nói những pháp gì? Những việc gì? Này Đại Tuệ! Vậy nên Đại Bồ-tát chẳng nên chấp trước lời nói, danh tự. Này Đại Tuệ! Danh tự chương cú chẳng phải là pháp cố định, nương vào tâm của chúng sinh mà nói. Các Đức Phật Như Lai tùy theo niềm tin của chúng sinh mà nói các pháp. Vì khiến cho họ xa lìa tâm, ý, ý thức nên chẳng nói Tự thân chứng đắc Thánh trí kiến lập các pháp, khiến cho họ có thể biết như thật tất cả tướng tịch tĩnh của các pháp, chỉ thấy tự tâm biết rõ các pháp, lìa khỏi hai tướng phân biệt của tâm... các Đức Phật chẳng nói như vậy.

Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát nương vào nghĩa chẳng nương vào lời nói. Nếu thiện nam, thiện nữ tùy theo văn tự mà nói thì rơi vào tà kiến, tự thân hoại mất Đệ nhất nghĩa đế, cũng hủy hoại người khác, khiến cho họ, chẳng thể nhận biết.

Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo... đều nương vào luận của mình và kiến chấp khác mà nói năng.

Này Đại Tuệ! Ông nên biết rõ tướng của tất cả Địa, biết rõ biện tài giảng nói, văn chương, từ cú. Biết rõ tướng của tất cả các Địa rồi, ông tiến đến nắm giữ biện tài nhạo thuyết về danh cú, biết rõ nghĩa tướng tương ưng của các pháp. Bấy giờ, tự thân đối với niềm vui pháp vô tướng mà nhận lấy an lạc, trụ ở trong Đại thừa, khiến cho chúng sinh biết rõ.

Này Đại Tuệ! Giữ gìn Đại thừa thì tức là hộ trì các Đức Phật, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát. Hộ trì các Đức Phật, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát là ủng hộ tất cả chúng sinh. Ủng hộ tất cả chúng sinh là giữ gìn pháp tạng thù thắng vi diệu. Giữ gìn pháp tạng tức là chẳng gián đoạn Phật chủng. Chẳng gián đoạn Phật chủng thì chẳng đoạn tất cả chỗ sinh ra thù thắng vi diệu. Do chỗ thù thắng đó là nơi các Bồ-tát nguyện sinh ra, để gặp các chúng sinh trong pháp Đại thừa, với mười Lực tự tại, tùy theo hình sắc của các chúng sinh và các sử, có thể tùy theo đó để ứng hiện nói pháp như thật.

Này Đại Tuệ! Pháp như thật là gì? Như thật pháp là chẳng khác, chẳng sai biệt, chẳng chấp giữ, chẳng bỏ, lìa khỏi các hý luận. Đó gọi là Pháp như thật.

Này Đại Tuệ! Thiện nam, thiện nữ chẳng nên chấp trước văn tự, âm thanh, do tất cả pháp không có văn tự.

Này Đại Tuệ! Ví như có người vì chỉ vật cho người, dùng ngón tay chỉ bày mà người ngu liền chấp trước ngón tay, chẳng nương theo ngón tay để lấy vật được chỉ bày.

Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si cũng lại như vậy, Thanh văn chấp trước “ngón tay” văn tự, cho đến chết cũng chẳng thể bỏ “ngón tay” văn tự để nắm giữ Đệ nhất nghĩa.

Này Đại Tuệ! Ví như lúa gạo gọi là thức ăn của phàm phu mà chẳng giã, chẳng thổi nấu thì chẳng thể ăn được. Nếu lúa gạo ấy, có người chưa làm thành đồ ăn mà ăn thì gọi là điên cuồng, cần phải theo thứ lớp... cho đến thổi nấu chín mới thành đồ ăn được.

Này Đại Tuệ! Chẳng sinh chẳng diệt cũng lại như vậy, chẳng tu hạnh phương tiện trí khéo léo thì chẳng được Pháp thân đầy đủ sự trang nghiêm.

Này Đại Tuệ! Người chấp trước danh tự để nói được nghĩa thì như người ngu si kia chẳng biết giã, thổi, nấu mà nuốt lấy những “hạt thóc” văn tự, chẳng được “món ăn” nghĩa. Do ý nghĩa này nên phải học đến nghĩa, chớ chấp trước văn tự.

Này Đại Tuệ! Sở dĩ nói nghĩa là gọi Niết-bàn, nói danh tự là tướng phân biệt, trói buộc sinh ra lý giải của thế gian.

Này Đại Tuệ! Nghĩa là từ nơi người học rộng hiểu nhiều mà được.

Này Đại Tuệ! Nói học rộng hiểu nhiều là gọi phương tiện khéo léo của nghĩa, chẳng phải phương tiện khéo léo của âm thanh.

Này Đại Tuệ! Nghĩa phương tiện thì lìa khỏi tất cả tà thuyết của ngoại đạo, cũng chẳng hòa lẫn vào nhau. Nói như vậy thì tự thân chẳng rơi vào pháp tà của ngoại đạo. Này Đại Tuệ! Đó gọi là học rộng hiểu nhiều có nghĩa phương tiện.

Này Đại Tuệ! Muốn hiểu được nghĩa thì nên thân cận bậc Trí học rộng hiểu nhiều cúng dường cung kính. Những ai chấp trước danh tự thì nên lìa xa, chẳng nên gần gũi.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ nương thần lực chư Phật mà bạch:

–Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai Thế Tôn nói, tất cả pháp chẳng sinh chẳng diệt chẳng phải là đặc biệt kỳ lạ. Vì sao? Vì tất cả ngoại đạo cũng nói, các nhân chẳng sinh chẳng diệt. Đức Như Lai cũng nói, hư không, chẳng phải sô duyên diệt và cõi Niếtbàn chẳng sinh chẳng diệt.

Bạch Thế Tôn! Các ngoại đạo cũng nói, nương vào các nhân duyên sinh ra các chúng sinh. Đức Như Lai cũng nói, nghiệp vô, minh, ái nhân duyên phân biệt sinh ra các thế gian. Nếu vậy, Đức Như Lai cũng nói tướng nhân duyên danh tự khác nhau, nương vào nhân duyên bên ngoài có thể sinh ra các pháp. Ngoại đạo cũng nói, nương vào nhân duyên bên ngoài mà sinh ra các pháp. Vậy nên, Đức Như Lai cùng với ngoại đạo nói không có sai biệt.

Bạch Thế Tôn! Ngoại đạo nhân vi trần, thắng nghĩa căn, Tự tại thiên, Phạm thiên... cùng với chín loại nhân duyên bên ngoài mà nói rằng, các pháp chẳng sinh chẳng diệt. Đức Như Lai cũng nói, tất cả các pháp chẳng sinh chẳng diệt, có, không chẳng thể nắm bắt, do bốn đại chẳng diệt. Tự tướng chẳng sinh chẳng diệt, theo như Đức Phật Như Lai nói có đủ loại khác nhau mà chẳng lìa khỏi lời nói của ngoại đạo, các ngoại đạo cũng nói, các Đại chẳng lìa khỏi Đại thể. Bạch Thế Tôn! Các ngoại đạo phân biệt các đại, Như Lai cũng phân biệt các đại như vậy. Do nghĩa này nên lời nói của Đức Như Lai chẳng khác ngoại đạo. Nếu chẳng đồng thì Đức Như Lai lẽ ra nói có tướng khác. Nếu có tướng khác thì sẽ biết chẳng đồng với lời nói của ngoại đạo.

Bạch Thế Tôn! Nếu Phật Như Lai ở trong pháp của mình chẳng nói tướng thù thắng thì trong các ngoại đạo lẽ ra cũng có Phật, do nói các pháp chẳng sinh chẳng diệt. Đức Như Lai thường nói trong một thế giới mà có nhiều Đức Phật cùng ra đời thì không có điều này. Nhưng theo lời nói trên thì trong một thế giới đáng lý có nhiều Đức Phật. Vì sao? Vì đã nói có nhân, không nhân đều không sai khác vậy. Như lời Phật nói không hư dối thì tại sao, ở trong pháp của mình, Thế Tôn chẳng nói lên tướng thù thắng.

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Ta nói “pháp chẳng sinh chẳng diệt” chẳng đồng với chẳng sinh chẳng diệt của ngoại đạo, cũng chẳng đồng với pháp vô thường chẳng sinh kia. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì các ngoại đạo nói có thể tánh thật có, chẳng sinh, chẳng biến tướng, còn ta thì chẳng rơi vào trong nhóm bè đảng có, không như vậy.

Này Đại Tuệ! Lời ta nói lìa khỏi pháp có không, lìa khỏi tường sinh, trụ, diệt, chẳng phải có, chẳng phải không, thấy tất cả đủ loại sắc tượng như huyễn như mộng. Vậy nên chẳng được nói điều ấy là có hay không.

Này Đại Tuệ! Tại sao chẳng được nói điều ấy có hay không? Nghĩa là thể tướng của sắc có thấy hay chẳng thấy, có thủ chấp hay chẳng thủ chấp vậy. Này Đại Tuệ! Vậy nên, ta nói tất cả các pháp chẳng phải có chẳng phải không.

Này Đại Tuệ! Do chẳng hiểu biết, chỉ là tự tâm phân biệt sinh ra kiến chấp. Tất cả các pháp thế gian xưa nay chẳng sinh diệt mà các phàm phu sinh ra phân biệt, chẳng phải Thánh nhân vậy.

Này Đại Tuệ! Tâm mê hoặc phân biệt nghĩa chẳng thật thì ví như phàm phu thấy thành Cànthát-bà, thấy nhà ảo thuật tạo tác vô số người huyễn đủ loại voi ngựa..., thấy những thứ ấy vào ra mà hư vọng phân biệt nói lời như vầy: “Những thứ này vào như vầy... như vầy..., ra như vầy... như vầy...” Này Đại Tuệ! Nhưng chỗ ấy thật không người ra, vào chỉ là tự tâm thấy mê hoặc phân biệt, pháp sinh hay pháp chẳng sinh cũng lại như vậy.

Này Đại Tuệ! Nhưng ở đó thật không có điều này, là không, là các pháp, như việc tạo tác việc huyễn của nhà ảo thuật kia, mà nhà huyễn thuật kia chẳng sinh chẳng diệt.

Này Đại Tuệ! Các pháp có không cũng không có đối tượng để tạo ra do lìa khởi sinh diệt vậy. Chỉ những phàm phu rơi vào tâm điên đảo phân biệt sinh diệt, chẳng phải là Thánh nhân.

Này Đại Tuệ! Điên đảo thì như tâm phân biệt pháp này thì như vậy, như vậy, pháp kia thì chẳng như vậy, như vậy... cũng chẳng phải điên đảo mà phân biệt điên đảo thì chấp trước các pháp là có, là không, chẳng phải thấy tịch tĩnh vậy. Chẳng thấy tịch tĩnh thì chẳng thể xa lìa hư vọng phân biệt.

Vậy nên, này Đại Tuệ! Thấy tịch tĩnh thì gọi là tướng thù thắng, chẳng phải thấy các tướng thì gọi là tướng thù thắng, do chẳng thể đoạn tướng sinh nhân. Này Đại Tuệ! Nói vô tướng là xa lìa tất cả các tâm phân biệt. Vô sinh, vô tướng thì chính là điều ta nói, gọi là Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Nói Niết-bàn nghĩa là thấy được trụ xứ như thật của các pháp, xa lìa tâm phân biệt, tâm số pháp, nương theo thứ tự như thật tu hành đối với sự chứng đắc Thánh trí tự thân. Ta nói như vậy gọi là Niết-bàn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Vì ngăn các pháp sinh Kiến lập pháp vô sinh

Ta nói pháp không nhân.

Phàm phu chẳng thể biết.

Ta nói pháp không nhân

Mà phàm phu chẳng biết Tất cả pháp chẳng sinh Cũng chẳng được nói không.

Càn-thát-bà, mộng, huyễn Các pháp không có nhân

Các pháp không, vô tướng. Làm sao ta giảng nói?

Lìa các duyên hòa hợp

Trí tuệ chẳng thể thấy

Do không vốn chẳng sinh

Vậy nên nói vô thể

Mỗi một duyên hòa hợp

Thấy vật chẳng nắm bắt

Ngoại đạo không thể thấy Hòa hợp chẳng nắm bắt.

Mộng, huyễn và vầng sáng. Càn-thát-bà loáng nắng

Vọng thấy mà không nhân Việc thế gian cũng vậy.

Hàng phục luận không nhân

Thì thành nghĩa vô sinh Có thể thành vô sinh Thì pháp ta chẳng diệt. Nói các luận vô nhân

Ngoại đạo sinh kinh sợ:

Tại sao những người nào?

Nhân gì? Ở đâu thế?

Sinh các pháp vô nhân

Chẳng nhân, chẳng vô nhân Bậc trí nếu thấy được Xa lìa thấy diệt, sinh. Không pháp sinh, chẳng sinh Là không tướng nhân duyên.

Nếu là pháp danh tự

Là ta nói Vô nghĩa

Chẳng sinh pháp có không

Cũng chẳng có nhân duyên

Pháp trước chẳng có danh

Danh cũng chẳng phải không

Phi cảnh giới Thanh văn

Bích-chi-phật, ngoại đạo Và bậc trụ Thất địa Chỗ đó không tướng sinh. Lìa các pháp nhân duyên Vì ngăn các nhân duyên.

Nói kiến lập duy tâm

Ta nói tên không sinh

Các pháp không nhân duyên

Lìa phân biệt phân biệt

Lìa bè đảng có không

Ta nói tên không sinh

Tâm xa lìa chấp pháp

Lìa khỏi hai pháp thể

Chuyển thân nương chánh tướng.

Ta nói tên vô sinh.

Ngoài phi thật, không thật.

Chẳng có tâm chấp thủ

Huyễn, mộng và vầng sáng

Càn-thát-bà loáng nắng

Xa lìa các kiến chấp

Gọi là tướng Vô sinh Như vậy những pháp không...

Nên biết những văn cú

Chẳng sinh và không không

Mà không ở sinh không

Các nhân duyên hòa hợp

Có diệt và có sinh

Xa lìa các nhân duyên

Chẳng diệt cũng chẳng sinh

Lìa nhân duyên, không pháp Lìa hòa hợp không thành.

Ngoại đạo vọng phân biệt

Đều thấy có một, khác

Có không chẳng pháp sinh

Chẳng nắm bắt có không Chỉ các pháp hòa hợp Mà thấy có diệt, sinh. Và có ở danh tự

Đắp đổi làm gông cùm

Lìa nhân duyên xiềng xích Sinh pháp chẳng thể thành.

Pháp sinh chẳng thấy sinh Lìa khỏi lỗi ngoại đạo Ta nói duyên xiềng xích Phàm phu chẳng biết thông.

Nếu lìa duyên xiềng xích

Không có pháp phân biệt

Tức là không nhân duyên

Phá nghĩa duyên trói buộc

Như đèn hiển hình tượng

Xiềng xích sinh cũng vậy Nếu xa lìa xiềng xích Lại có các pháp sinh.

Pháp sinh vốn không thể

Tự tánh như hư không Lìa xiềng xích cầu pháp Người ngu không biết rõ.

Lại có vô sinh khác

Pháp Thánh nhân chứng đắc

Pháp sinh, vô sinh đó Là pháp Nhẫn vô sinh.

Nếu thấy các thế gian

Tức là thấy xiềng xích Tất cả đều trói buộc

Vậy là định được tâm.

Vô minh và nghiệp ái...

Là xiềng xích bên trong Dùi, trục, bùn, bánh xe Chủng tử xiềng xích lớn.

Nếu lại có pháp khác

Mà sinh từ nhân duyên

Lìa khỏi nghĩa xiềng xích Đó chẳng trụ Thánh giáo.

Nếu pháp sinh là không

Ai là người trói buộc Đắp đổi mà sinh ra Đó gọi nghĩa nhân duyên.

Pháp cứng, ẩm, nóng, động

Phàm phu sinh phân biệt Lìa buộc lại không pháp Vậy nên nói không thể.

Như thuốc trị mọi bệnh

Tùy bệnh mà chữa trị Bàn luận không sai biệt Bệnh khác nên thuốc khác.

Ta nghĩ các chúng sinh

Bị nhiễm lỗi phiền não Biết căn, lực sai biệt

Theo sức nhận mà nói.

Pháp ta không sai biệt

Tùy căn bệnh nói khác Pháp ta chỉ Nhất thừa

Tám Thánh đạo thanh tịnh.

QUYỂN 7

Phẩm 8: VÔ THƯỜNG

Bấy giờ, Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Đức Thế Tôn nói vô thường thì tất cả ngoại đạo cũng nói vô thường. Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai nương vào danh tự, chương cú nói lời như vầy, các hạnh vô thường là pháp sinh diệt. Bạch Thế Tôn! Pháp này là chân thật hay là hư vọng? Bạch Thế Tôn! Lại có bao nhiêu loại vô thường?

Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Tất cả ngoại đạo hư vọng phân biệt có tám loại vô thường. Những gì là tám?

1. Phát khởi việc làm mà chẳng làm. Đó gọi là vô thường. Sao gọi là phát khởi? Nghĩa là pháp sinh, pháp bất sinh, pháp thường pháp vô thường gọi là phát khởi vô thường.

2. Hình tướng dừng nghỉ gọi là vô thường.

3. Sắc... tức là vô thường.

4. Sắc chuyển biến nên sai khác là vô thường, các pháp nối tiếp nhau tự nhiên mà diệt như sữa, chuyển biến thành sữa đặc. Đối với tất cả pháp chẳng thấy sự chuyền biến ấy cũng chẳng thấy diệt thì gọi là vô thường.

5. Lại có ngoại đạo khác... do không có vật nên gọi là vô thường.

6. Có pháp, không pháp đều là vô thường, do tất cả pháp vốn chẳng sinh nên gọi là vô thường. Do pháp vô thường hòa hợp trong đó chính là vô thường.

7. Lại có ngoại đạo khác... cho rằng, vốn không sau lại có gọi là vô thường. Nghĩa là nương vào sự diệt tướng sinh của các Đại, chẳng thấy sự sinh ấy lìa khỏi thể nối tiếp nhau thì gọi là vô thường.

8. Chẳng sinh vô thường. Nghĩa là chẳng phải thường chính là vô thường. Thấy các pháp có không, sinh chẳng sinh... cho đến quán sát bụi trần chẳng thấy pháp sinh nên nói rằng chẳng sinh, các pháp chẳng phải sinh. Này Đại Tuệ! Đó gọi là tướng vô sinh vô thường mà các ngoại đạo chẳng biết pháp đó sở dĩ chẳng sinh. Vậy nên họ phân biệt các pháp chẳng sinh nên nói rằng, vô thường.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Ngoại đạo phân biệt pháp vô thường, cho là có vật. Những ngoại đạo đó tự tâm hư vọng phân biệt về vô thường, thường, chẳng phải vô thường, do có vật. Vì sao? Vì tự thể chẳng diệt vậy. Tự thể chẳng diệt là thể của vô thường, thường là chẳng diệt.

Này Đại Tuệ! Nếu pháp vô thường là có vật thì đáng lẽ sinh ra các pháp, do vô thường đó có thể làm nhân vậy. Này Đại Tuệ! Nếu tất cả pháp chẳng lìa khỏi vô thường thì các pháp có, không, tất cả lẽ ra phải thấy. Vì sao? Vì như gậy, cây, sành, đá là vật năng phá, sở phá đều bị phá hủy hết. Thấy vô số tướng kia khác nhau, vậy nên vô thường do tất cả pháp không là pháp, cũng chẳng phải nhân, cũng chẳng phải quả.

Này Đại Tuệ! Lại có các lỗi, do nhân quả kia không sai biệt mà chẳng được nói rằng, đây là vô thường mà kia là quả. Do nhân quả sai biệt nên chẳng được nói rằng, tất cả pháp là thường, do tất cả pháp không nhân.

Này Đại Tuệ! Các pháp có nhân mà các phàm phu chẳng hiểu, chẳng biết nhân khác chẳng thể sinh ra quả khác.

Này Đại Tuệ! Nếu nhân khác có thể sinh ra quả khác thì khác nhân nên sinh ra tất cả các pháp. Nếu vậy thì lại có lỗi, nên nhân quả sai biệt mà thấy sai biệt.

Này Đại Tuệ! Nếu vô thường ấy là có vật thì lẽ ra giống với việc có đối tượng tạo tác của nhân thể. Lại có lỗi nữa, ở trong một pháp lẽ ra đầy đủ tất cả các pháp do giống tất cả đối tượng tạo tác, nhân quả nghiệp tướng không sai biệt. Hoặc tự có là vô thường, vô thường có thể vô thường vậy. Hoặc tất cả các pháp vô thường lẽ ra thường hằng vậy. Hoặc nếu vô thường ấy đồng với các pháp thì rơi vào pháp ba đời.

Này Đại Tuệ! Sắc quá khứ đồng với vô thường nên đã diệt, pháp vị lai chưa sinh ra do đồng với sắc vô thường nên chẳng sinh ra, hiện tại có pháp chẳng lìa khỏi sắc. Do sắc cùng với tướng các Đại kia nương vào năm Đại, nương vào trần, vậy nên chẳng diệt, do những pháp đó chẳng lìa nhau.

Này Đại Tuệ! Tất cả ngoại đạo chẳng diệt các đại, ba cõi nương vào đại, nương vào vi trần... Vậy nên nương vào pháp đó nói rằng, sinh trụ diệt. Này Đại Tuệ! Lìa khỏi pháp này, lại không có các pháp như: bốn đại, các trần... do ngoại đạo kia kia hư vọng phân biệt, lìa khỏi tất cả pháp, lại có vô thường nên ngoại đạo nói rằng, các đại chẳng sinh chẳng diệt, do tướng tự thể thường hằng chẳng diệt vậy. Vậy nên họ nói, phát khởi việc làm mà giữa chừng chẳng làm thì gọi là vô thường. Các đại lại có sự phát khởi các đại, không có những dị tướng đồng tướng đó, chẳng có pháp sinh diệt. Do thấy các pháp chẳng sinh diệt mà ở nơi đó sinh ra trí vô thường.

Này Đại Tuệ! Sao gọi là hình tướng vô thường dừng nghỉ? Nghĩa là hình tường năng tạo, sở tạo, thấy hình tướng khác như dài, ngắn, chẳng phải các đại diệt mà thấy hình tướng các đại chuyển biến.

Người đó rơi vào trong pháp Tăng-khư (Số luận).

Này Đại Tuệ! Hình tướng vô thường nghĩa là những người nào là sắc thì gọi là vô thường. Người đó thấy ở hình tường vô thường mà chẳng phải các đại chính là pháp vô thường. Nếu các đại vô thường thì tất cả các thế gian chẳng được bàn luận việc đời, rơi vào bè đảng tà kiến Lô-ca-da-đà, do nói là, tất cả pháp chỉ có danh.

Lại thấy các pháp do tướng tự thể sinh ra. Này Đại Tuệ! Chuyển biến vô thường nghĩa là thấy đủ loại tướng khác của các sắc, chẳng phải các đại chuyển biến. Ví như thấy vàng được làm thành vật trang sức thì hình tướng chuyển biến mà thể của vàng chẳng khác. Các pháp khác chuyển biến cũng lại như vậy. Này Đại Tuệ! Như vậy ngoại đạo hư vọng phân biệt thấy pháp vô thường. Lửa chẳng thiêu đốt các đại, tự thể chẳng thiêu đốt, do tự thể các đại đó sai khác.

Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo nói, nếu lửa có thể thiêu đốt các đại thì các đại đoạn diệt. Vậy nên chẳng thiêu đốt. Này Đại Tuệ! Ta nói đại và các trần chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Vì sao? Vì ta chẳng nói cảnh giới bên ngoài là có. Ta nói ba cõi chỉ là tự tâm, chẳng nói đủ loại tướng là có. Vậy nên nói rằng, chẳng sinh chẳng diệt, chỉ là nhân duyên bốn đại hòa hợp, chẳng phải đại và các trần là pháp thật có, do tâm hư vọng phân biệt hai pháp khả thủ và năng thủ. Có thể biết như thật hai loại phân biệt. Vậy nên, lìa khỏi tướng thấy có không bên ngoài, chỉ là tự tâm phân biệt tạo tác nghiệp, gọi là sinh nhưng nghiệp chẳng sinh do lìa khỏi tâm phân biệt có không vậy.

Này Đại Tuệ! Vì sao chẳng phải thường, chẳng phải không thường? Vì do có những pháp thế gian và xuất thế gian thượng thượng. Vậy nên chẳng được nói rằng, thường. Vì sao chẳng phải vô thường? Vì có thể hiểu biết chỉ là tự tâm phân biệt thấy. Vậy nên chẳng phải vô thường. Do các ngoại đạo rơi vào tà kiến, chấp trước hai bên, không biết tự tâm hư vọng phân biệt, chẳng phải các Thánh nhân phân biệt vô thường.

Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp có ba loại.

Những gì là ba?

1. Thế gian pháp tướng.

2. Xuất thế gian pháp tướng.

3. Xuất thế gian thượng thượng thắng pháp tướng.

Do nương vào ngôn ngữ nói vô số pháp mà các phàm phu chẳng hiểu, chẳng biết.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Lìa tạo tác từ trước
Cùng với hình tướng khác
Gọi có vật vô thường
Ngoại đạo vọng phân biệt
Các pháp không có diệt
Các Đại trụ tự tánh
Rơi vào mọi kiến chấp
Ngoại đạo nói vô thường.
Các ngoại đạo kia nói
Các pháp chẳng diệt, sinh
Các đại thể tự thường
Thì pháp nào vô thường?
Cả thế gian do tâm
Mà tâm thấy hai cảnh
Pháp khả thủ, năng thủ
Pháp không ngã, ngã sở
Pháp ba cõi trên dưới
Ta nói, đều là tâm
Lìa khỏi các tâm pháp
Lại không thể nắm bắt.

Phẩm 9: NHẬP ĐẠO

Lúc Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đức Thế Tôn vì con nói về tướng thứ lớp nhập định Diệt tận của tất cả các Bồ-tát, Thanh văn, Bích-chi-phật, con và tất cả các Bồ-tát... nếu được biết rõ tướng thứ lớp nhập vào định Diệt tận và phương tiện khéo léo thì chẳng rơi vào niềm vui Tam-muội Tam-ma-bạt-đề định Diệt tận của Thanh văn, Bích-chi-phật, chẳng rơi vào pháp mê hoặc của Thanh văn, Bích-chiphật và ngoại đạo.

Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, lắng nghe! Ta sẽ vì ông giải nói.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và tin nhận!

Đức Phật dạy:

–Này Đại Tuệ! Bồ-tát từ Sơ địa cho đến Địa thứ sáu nhập vào định Diệt tận, Thanh văn, Bíchchi-phật cũng nhập vào định Diệt tận. Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát ở trong Địa thứ bảy từng niệm từng niệm thể nhập định Diệt tận do các Bồ-tát đều có thể xa lìa tướng có, không của tất cả các pháp.

Này Đại Tuệ! Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng thể từng niệm từng niệm nhập vào định Diệt tận do Thanh văn, Bích-chi-phật nương vào hạnh hữu vi để hội nhập định Diệt tận, rơi vào cảnh giới khả thủ năng thủ. Vậy nên Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng thể nhập vào định Diệt tận từng niệm từng niệm trong Địa thứ bảy, do Thanh văn, Bích-chi-phật phát sinh tư tưởng kinh sợ, sợ rơi vào tướng không, khác của các pháp, do hiểu các pháp với đủ loại tướng khác nhau: Pháp có, pháp không, pháp thiện, pháp ác, cùng tướng, khác tướng... mà vào định Diệt tận. Vậy nên Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng thể nhập vào định Diệt tận từng niệm từng niệm trong Địa thứ bảy, do không có trí phương tiện khéo léo.

Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát ở Địa thứ bảy chuyển diệt tâm, ý, ý thức của Thanh văn, Bích-chi-phật. Này Đại Tuệ! Từ Sơ địa cho đến Địa thứ sáu, Đại Bồ-tát thấy ở ba cõi chỉ là tâm, ý, ý thức của tự tâm, lìa khỏi pháp ngã và ngã sở, chỉ là tự tâm phân biệt chẳng rơi vào đủ các tướng của pháp bên ngoài, chỉ là nội tâm ngu si của phàm phu rơi vào nhị biên, thấy có pháp khả thủ, năng thủ. Do không biết mà chẳng hiểu rõ từ đời vô thủy đến nay, do thân miệng và ý huân tập vọng tưởng phiền não, hý luận mà sinh tử các pháp.

Này Đại Tuệ! Ở trong Địa thứ tám, tất cả Bồtát, Thanh văn, Bích-chi-phật nhập vào tưởng Niếtbàn. Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát nương thần lực Phật và Tam-muội tự tâm, chẳng vào pháp môn Tam-muội An lạc, rơi vào Niết-bàn mà trụ, do chẳng đầy đủ Như Lai địa. Nếu Bồ-tát đó trụ ở phần Tam-muội thì dừng nghỉ độ thoát tất cả chúng sinh, đoạn tuyệt giống Như Lai, diệt tan nhà của Như Lai. Vì thị hiện các cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai, vậy nên chẳng vào Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Thanh văn, Bích-chi-phật rơi vào pháp môn Tam-muội An lạc. Vậy nên Thanh văn, Bích-chi-phật sinh ra tưởng Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát từ Sơ địa cho đến Địa thứ bảy đầy đủ phương tiện khéo léo, quan sát tưởng của tâm, ý, ý thức, xa lìa pháp tướng chấp giữ của ngã và ngã sở, quan sát ngã không, pháp không, quan sát đồng tướng, dị tướng, hiểu rõ nghĩa phương tiện khéo léo của bốn vô ngại mà tự tại thứ lớp nhập vào pháp Bồ-đề phần của các Địa. Này Đại Tuệ! Nếu ta chẳng nói pháp đồng tướng dị tướng của các Đại Bồ-tát thì tất cả các Bồtát chẳng biết như thật thứ lớp các Địa, sợ rơi vào pháp ngoại đạo tà kiến... Ta theo thứ lớp nói về tướng của các Địa.

Này Đại Tuệ! Nếu người theo thứ lớp mà vào Địa thì chẳng rơi vào đạo khác. Ta nói tướng các Địa theo thứ lớp thì chỉ tự tâm thấy thứ lớp các Địa và đủ các hành tướng trong ba cõi mà các phàm phu chẳng hiểu chẳng biết. Do các phàm phu chẳng hiểu biết, vậy nên ta và tất cả các Đức Phật nói đến tướng các Địa theo thứ lớp và kiến lập đủ các hành tường của ba cõi.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Thanh văn, Bích-chiphật đối với Địa thứ tám của Bồ-tát ưa thích say đắm pháp môn An lạc Tam-muội Tịch diệt nên chẳng thể biết rõ chỉ là sự thấy tự tâm, rơi vào tự tướng đồng tướng huân tập chướng ngại, rơi vào lỗi thấy nhân vô ngã, pháp vô ngã vậy. Do tâm phân biệt gọi là Niết-bàn mà chẳng thể biết các pháp tịch tĩnh.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát, do thấy pháp môn An lạc Tam-muội tịch tĩnh, nhớ nghĩ bản nguyện tâm đại Từ bi độ các chúng sinh, biết mười hạnh trí vô tận như thật. Vậy nên chẳng nhập vào Niết-bàn ngay.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát xa lìa tâm hư vọng phân biệt, xa lìa cảnh giới năng thủ, sở thủ gọi là vào Niết-bàn. Do trí như thật biết tất cả các pháp chỉ là tự tâm, vậy nên chẳng sinh ra tâm phân biệt. Do đó, chẳng chẳng chấp thủ tâm, ý, ý thức, chẳng chấp trước tướng pháp bên ngoài là thật có, chẳng phải chẳng vì tu hành Phật pháp, nương theo căn bản trí đắp đổi tu hành, vì ở tự thân cầu chứng Địa trí của Phật Như Lai vậy.

Này Đại Tuệ! Như người nằm mộng thấy đi qua nước biển cả, tạo ra phương tiện lớn muốn đưa mình qua. Chưa qua khỏi giữa chừng bỗng nhiên thức dậy, khởi sự suy nghĩ này: “Đây là thật hay hư vọng?” Người đó lại nghĩ: “Tướng như vậy chẳng phải thật, chẳng phải hư dối chỉ là ta vốn hư vọng phân biệt cảnh giới chẳng thật, huân tập nhân nên thấy đủ loại sắc, hình tướng điên đảo, chẳng lìa có không, do ý thức huân tập nên thấy trong giấc mộng.

Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, ở nơi Địa thứ tám, thấy tâm phân biệt, các pháp cùng một tướng ở trong Sơ địa, như mộng, như huyễn bình đẳng không sai khác, lìa các công dụng tâm phân biệt khả thủ, năng thủ, thấy tâm, tâm số pháp vì chưa đạt được Phật pháp thượng thượng. Người tu hành thì khiến cho đạt được vậy. Đại Bồ-tát tu hành pháp thù thắng gọi là Niết-bàn, chẳng phải diệt tất cả pháp gọi là Niết-bàn. Đại Bồ-tát xa lìa tướng phân biệt về tâm, ý, ý thức, nên đạt được pháp nhẫn Vô sinh. Này Đại Tuệ! Trong Đệ nhất nghĩa cũng không thứ lớp, không có hạnh thứ lớp, các pháp tịch tĩnh cũng như hư không.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn nói, Thanh văn, Bích-chi-phật thể nhập pháp môn an vui Tịch tĩnh của Bồ-tát ở Địa thứ tám. Đức Như Lai lại nói, Thanh văn, Bích-chi-phật chẳng biết chỉ là tự tâm phân biệt. Thế Tôn lại nói, các Thanh văn đạt được “nhân vô ngã” mà chẳng hiểu được “Pháp vô ngã” là rỗng không. Nếu nói như vậy thì Thanh văn, Bích-chi-phật còn chưa thể chứng được pháp Sơ địa, huống gì thể nhập pháp môn an vui tịch diệt của Địa thứ tám?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Ta nay vì ông phân biệt tuyên nói. Này Đại Tuệ! Thanh văn có ba bậc. Nói rằng người nhập vào pháp môn Tịch diệt của Địa thứ tám, đây là người trước đã tu hạnh Bồ-tát mà rơi vào Thanh văn địa, rồi trở lại nương vào bản tâm tu hạnh Bồ-tát để cùng vào pháp môn an vui tịch diệt của Địa thứ tám, chẳng phải là Tăng thượng mạn Thanh văn tịch diệt, do hàng Thanh văn đó chẳng thể nhập vào hạnh Bồ-tát, chưa từng biết rõ ba cõi chỉ là tâm, chưa từng tu hành các pháp Bồtát, chưa từng tu hành các Ba-la-mật, hạnh Địa thứ mười. Vậy nên chắc chắn là Thanh văn tịch diệt chẳng thể chứng được pháp môn an vui tịch diệt mà Bồ-tát đó thực hành.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Chỉ tâm không sở hữu
Phật địa và các hành
Phật khứ, lai, hiện tại
Ba đời nói như trên.
Thất địa là Tâm địa
Không sở hữu Bát địa
Nhị địa gọi là hành
Địa khác gọi ngã địa.
Tịnh và chứng nội thân
Đây gọi là ngã địa
Chỗ Tự tại tối thắng
Trời A-ca-ni-sấc
Chiếu sáng như lửa hừng
Phát ánh sáng vi diệu
Đủ loại đẹp đáng ưa
Hóa làm ở ba cõi
Sắc ba cõi hiện lên
Hoặc có tại Quang hóa
Chỗ đó nói các thừa
Tự Tại địa của ta
Thập địa là Sơ địa
Sơ địa là Bát địa
Cửu địa là Thất địa
Thất địa là Bát địa
Nhị địa là Tam địa
Tứ địa là Ngũ địa
Tam địa là Lục địa
Tịch diệt đầu thứ lớp?
Chắc chắn các Thanh văn
Chẳng hành Bồ-tát hạnh
Đồng vào Địa thứ tám
Vốn là hạnh Bồ-tát.

Phẩm 10: THƯA HỎI ĐỨC NHƯ LAI LÀ THƯỜNG HAY VÔ THƯỜNG

Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai Ứng Chánh Biến Trí là thường hay vô thường?

Đức Phật bảo Thánh giả Đại tuệ:

–Này Đại Tuệ! Như Lai Ứng Chánh Biến Tri chẳng phải thường, chẳng phải vô thường. Vì sao? Vì nhị biên là có lỗi vậy. Này Đại Tuệ! Nhị biên có, không nên có lỗi lầm. Này Đại Tuệ! Nếu nói Như Lai là pháp thường thì đồng với nhân của thường. Này Đại Tuệ! Do các ngoại đạo nói rằng, vi trần... các nhân là thường, chẳng phải là pháp do tạo tác.

Này Đại Tuệ! Vậy nên chẳng được nói Như Lai thường. Do chẳng phải là pháp tạo tác nên nói rằng thường. Này Đại Tuệ! Cũng chẳng được nói Như Lai vô thường. Nói vô thường tức là đồng với pháp hữu vi tạo tác. Pháp sở kiến, năng kiến của năm ấm là không, nên năm ấm diệt. Năm ấm diệt thì các Đức Phật Như Lai lẽ ra cũng diệt, mà Phật Như Lai chẳng phải là pháp đoạn trừ.

Này Đại Tuệ! Phàm các pháp tạo tác đều là vô thường, như cái bình, cái áo, cái xe, cái nhà và tấm vải, chiếc chiếu... đều là pháp tạo tác, vậy nên vô thường. Này Đại Tuệ! Nếu nói tất cả đều vô thường pháp Nhất thiết trí, tất cả công đức của người chứng Nhất thiết trí lẽ ra cũng vô thường do đồng tướng tất cả các pháp, do đó nên có lỗi. Nếu nói tất cả đều là vô thường thì các Đức Phật Như Lai lẽ ra chính là pháp tạo tác mà Phật Như Lai chẳng phải là pháp tạo tác, do không lại nói có nhân thù thắng nhân. Vậy nên, ta nói rằng, Như Lai chẳng phải thường cũng chẳng phải vô thường.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Như Lai chẳng phải thường. Vì sao? Vì tánh của hư không cũng không tu hành các công đức vậy. Này Đại Tuệ! Ví như hư không chẳng phải thường chẳng phải vô thường. Vì sao? Vì lìa khỏi thường và vô thường, do chẳng rơi vào một khác, đồng chẳng đồng, có không, chẳng phải có chẳng phải không, thường vô thường, chẳng phải thường, chẳng phải vô thường.

Vậy nên lìa khỏi tất cả các lỗi, chẳng nắm bắt, giảng nói.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Cũng chẳng được nói Như Lai là thường. Vì sao? Vì nếu nói là thường thì đồng với sừng của thỏ, ngựa, lạc đà, lừa, rùa, rắn, nhặng cá... Vậy nên chẳng nói rằng. Như Lai là thường.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Cũng chẳng được nói Như Lai là thường sợ rơi vào “bất sinh thường”. Vậy nên chẳng được nói Như Lai Thế Tôn là thường.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Lại có pháp khác, nương vào pháp đó nên được nói Như Lai Thế Tôn là thường. Vì sao? Vì vào pháp thường chứng đắc trí ở nội tâm. Vậy nên được nói Như Lai là thường. Này Đại Tuệ! Pháp Chứng đắc trí nội tâm của các Đức Phật Như Lai là thường hằng, thanh lương, chẳng biến đổi.

Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri hoặc ra đời hay không ra đời, pháp tánh vẫn thường. Như vậy pháp thể là thường. Như vậy quy tắc của pháp cũng thường. Như vậy, do pháp tánh đó mà tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật... cũng chẳng từng nghe, cũng chẳng từng thấy, như vậy pháp thể chẳng phải trong hư không nên phàm phu chẳng hiểu, chẳng biết.

Này Đại Tuệ! Trí chứng đắc của chư Phật Như

Lai là nương vào đó mà có tên gọi. Này Đại Tuệ! Do nương vào trí tuệ như thật tu hành nên được gọi là Phật, chẳng phải do tâm, ý, ý thức, vô minh, năm ấm... huân tập mà có tên gọi.

Này Đại Tuệ! Tất cả ba cõi chẳng thật, do vọng tưởng phân biệt hý luận nên có tên gọi. Này Đại Tuệ! Phân biệt chẳng thật về hai pháp được gọi là thường cùng vô thường, nhưng Phật Như Lai chẳng rơi vào hai pháp, chẳng rơi vào nhị biên năng thủ, khả thủ. Như Lai tịch tĩnh nên hai pháp chẳng sinh. Vậy nên, này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri thì chẳng được nói là thường cùng vô thường. Này Đại Tuệ! Phàm có ngôn ngữ mà được nói rằng, thường cùng vô thường thì xa lìa sạch hết tất cả phân biệt, chẳng được nói chấp giữ pháp thường, pháp vô thường. Vậy nên, ta ngăn tất cả phàm phu, chẳng được phân biệt thường cùng vô thường. Do đạt được pháp chân thật tịch tĩnh nên hết phân biệt, chẳng sinh ra phân biệt.

Lúc ấy, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Lìa khỏi thường, vô thường
Chẳng thường, chẳng vô thường
Nếu thấy Phật như vậy
Chẳng rơi trong đường ác.
Nếu nói thường, vô thường
Những công đức hư vọng
Kẻ vô trí phân biệt
Ngăn nói thường, vô thường
Người lập pháp, chấp giữ
Đều có những lỗi lầm.
Nếu thấy chỉ do tâm
Chẳng rơi vào các lỗi.

Phẩm 11: PHẬT TÁNH

Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì con giảng nói. Xin Đấng Thiện Thệ vì con nói về tướng sinh diệt của ấm, giới, nhập. Bạch Thế Tôn! Nếu vô ngã thì ai sinh, ai diệt? Bạch Thế Tôn! Tất cả phàm phu nương vào sinh, diệt mà trụ, chẳng thấy hết khổ. Vậy nên, chẳng biết tướng Niết-bàn.

Đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông nói.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và tin nhận.

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Như Lai tạng là nhân thiện hay chẳng thiện, có thể cùng tạo tác nhân duyên sinh tử trong sáu đường. Ví như nhà nghề làm ra đủ tài khéo léo, chúng sinh nương vào Như Lai tạng, sinh tử trong năm đường. Này Đại Tuệ! Mà Như Lai tạng cũng lìa khỏi ngã và ngã sở, các ngoại đạo... chẳng biết, chẳng hiểu. Vậy nên chẳng thể đoạn trừ nhân duyên sinh tử của ba cõi.

Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo... vọng chấp có ngã nên chẳng thể thấy như thật về Như Lai tạng, do các ngoại đạo từ đời vô thủy đến nay hư vọng chấp trước đủ thứ hý luận và các sự huân tập.

Này Đại Tuệ! A-lê-gia thức gọi là Như Lai tạng cùng liên hệ với bảy thức vô minh, như sóng ở biển cả, thân câu sinh thường chẳng đoạn dứt, nếu lìa khỏi lỗi vô thường, lìa khỏi lỗi của ngã, thì tự tánh thanh tịnh. Còn bảy thức, tâm, ý, ý thức... từng niệm từng niệm chẳng trụ, chính là pháp sinh diệt. Bảy thức do nhân hư vọng đó sinh ra, chẳng thể phân biệt như thật các pháp, xem xét hình tướng cao thấp, dài ngắn, chấp trước danh tướng, có thể khiến cho tự tâm thấy sắc tướng, có thể nhận lấy khổ vui, có thể lìa khỏi nhân của giải thoát, do danh tướng sinh ra phiền não tham. Nương vào ý niệm đó, nương vào sự diệt tận các căn, chẳng theo thứ lớp sinh ra, còn tự ý phân biệt chẳng sinh ra cảm nhận khổ vui. Vậy nên nhập vào định Thiểu tưởng Diệt tận, vào Tam-ma-bạt-đề, Tứ Thiền, Thật đế giải thoát mà người tu hành sinh ra tướng giải thoát, do chẳng biết chuyển diệt tướng hư vọng.

Này Đại Tuệ! Như Lai tạng thức chẳng ở trong A-lê-gia thức. Vậy nên, bảy thức có sinh, có diệt.

Như Lai tạng thức chẳng sinh chẳng diệt. Vì sao? Vì bảy thức nương vào ý niệm quán sát các cảnh giới mà sinh ra. Cảnh giới bảy thức này, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật, ngoại đạo tu hành thì chẳng thể thông đạt, chẳng biết như thật về nhân vô ngã, do chấp giữ pháp cùng tướng và khác tướng, do thấy các pháp ấm, giới, nhập...

Này Đại Tuệ! Như Lai tạng thấy như thật về thể tướng của năm pháp, pháp vô ngã nên chẳng sinh, biết như thật các Địa thứ lớp đắp đổi hòa hợp, còn ngoại đạo thì chẳng chánh kiến nên chẳng thể quan sát.

Này Đại Tuệ! Bồ-tát trụ ở Bất Động địa, bấy giờ được mười pháp môn Tam-muội... là bậc đứng đầu, đạt được vô lượng, vô biên Tam-muội. Nương vào Tam-muội chư Phật an trụ mà quán sát chẳng thể nghĩ bàn pháp của chư Phật và năng lực bản nguyện của mình, ngăn chặn hộ trì cảnh giới thật tế của pháp môn Tam-muội. Ngăn chặn rồi, nhập vào cảnh giới Tự thân chứng Thánh trí của pháp Chân thật, chẳng đồng với cảnh giới quan sát tu hành của Thanh văn, Bích-chi-phật và ngoại đạo.

Bấy giờ, vượt qua mười Thánh đạo đó, thể nhập trí thân, ý sinh thân của Như Lai, lìa khỏi các tâm Tam-muội dụng công. Vậy nên, này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát muốn chứng pháp thù thắng của Như Lai tạng và A-lê-gia thức thì nên tu hành khiến cho thanh tịnh.

Này Đại Tuệ! Nếu Như Lai tạng, A-lê-gia thức gọi là không thì lìa khỏi A-lê-gia thức không sinh không diệt. Tất cả phàm phu và các Thánh nhân nương vào A-lê-gia thức đó nên có sinh có diệt. Do nương vào A-lê-gia thức nên những người tu hành chứng đắc Thánh hạnh nơi tự thân, hiện tại được hạnh an lạc của pháp mà chẳng dừng nghỉ.

Này Đại Tuệ! Các cảnh giới về tâm A-lê-gia thức, Như Lai tạng của Như Lai này, tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật, ngoại đạo... chẳng thể phân biệt. Vì sao? Vì Như Lai tạng là tướng thanh tịnh mà khách trần phiền não thì cấu bẩn bất tịnh.

Này Đại Tuệ! Ta nương vào ý nghĩa này, nương vào phu nhân Thắng Man nương vào các Đại Bồ-tát khác, những người trí tuệ thậm thâm mà nói tạng A-lê-gia thức của Như Lai, cùng với bảy thứ thức sinh ra gọi là tướng chuyển diệt, vì các Thanh văn, Bích-chi-phật... hiện bày pháp vô ngã. Đáp lại lời phu nhân Thắng Man nên nói rằng, Như Lai tạng chính là cảnh giới Như Lai.

Này Đại Tuệ! Cảnh giới Như Lai tạng, A-lê-gia thức, ta nay cùng ông và các Bồ-tát, những người có trí tuệ thậm thâm có thể phân biệt rõ hai pháp này. Còn những Thanh văn, Bích-chi-phật và ngoại đạo... những người chấp trước danh tự thì chẳng thể biết rõ hai pháp này. Này Đại Tuệ! Vậy nên, ông và các Đại Bồ-tát nên học pháp này.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Như Lai tạng sâu xa
Cùng bảy thức đều sinh
Chấp hai pháp thì sinh
Như thật biết chẳng sinh
Như tâm hiện bóng gương
Huân tập từ vô thủy
Như thật xét kỹ càng
Các cảnh đều trống không
Ngu nhìn tay chỉ trăng
Thấy tay, chẳng thấy trăng
Người chấp trước danh tự
Chẳng thấy Ngã chân thật
Tâm như thợ nghề khéo
Ý như kẻ gian manh
Ý thức và năm thức
Chấp cảnh giới hư vọng
Hòa hợp như nhà nghề
Lừa dối kẻ phàm phu.

Phẩm 12: NĂM PHÁP MÔN

Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vì con giải nói. Cúi xin Đấng Thiện Thệ vì con giảng nói về thể tướng của năm pháp và hành tướng sai biệt của hai vô ngã. Con và các Bồtát... nếu được biết rõ thể tướng của năm pháp và tướng sai biệt của hai vô ngã thì tu hành pháp này, theo thứ lớp thể nhập tất cả các Địa, tu hành pháp này có thể vào trong tất cả pháp của chư Phật. Đã hội nhập pháp của chư Phật thì có thể chứng đắc Trí địa Tự Thân Như Lai.

Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông nay hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông giải nói.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và tin nhận.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Ta vì ông nói thể tướng của năm pháp và hành tướng sai biệt của hai loại ngã.

Này Đại Tuệ! Những gì là năm pháp?

1. Danh.

2. Tướng.

3. Phân biệt.

4. Chánh trí.

5. Chân như.

Những ai tự thân tu hành, chứng trí bậc thánh thì lìa khỏi đoạn kiến và thường kiến, hiện tại như thật tu hành thì được vào Tam-muội an lạc, pháp môn Tam-ma-bạt-đề vậy.

Này Đại Tuệ! Tất cả phàm phu chẳng hiểu chẳng biết thể tướng năm pháp và hai loại vô ngã mà chỉ do tự tâm thấy vật bên ngoài nên sinh ra tâm phân biệt, chẳng phải là Thánh nhân.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Sao phàm phu sinh tâm phân biệt, chẳng phải Thánh nhân vậy?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Tất cả phàm phu chấp trước danh tướng, thuận theo pháp sinh ra. Thuận theo pháp sinh rồi, thấy đủ các tướng, rơi vào trong tâm tà kiến, ngã và ngã sở, chấp trước đầy đủ tất cả pháp tướng. Chấp trước rồi vào đến chỗ vô minh tối tăm chướng ngại. Vào chỗ chướng ngại rồi, khởi lên lòng tham. Khởi lên lòng tham rồi, có thể tạo tác nghiệp tham, sân, si. Tạo hành nghiệp rồi, chẳng thể tự dừng như con tằm làm tổ kén, do tâm phân biệt mà tự trói buộc thân, rơi vào biển cả hiểm nạn trong sáu đường, như con lăn (cái ròng rọc) xoay chuyển mà chẳng tự hay biết, do thiếu trí tuệ nên chẳng biết tất cả các pháp như huyễn, chẳng biết vô ngã và ngã sở, các pháp chẳng phải là thật mà từ vọng tưởng phân biệt sinh ra, lại chẳng biết lìa khỏi sở kiến, năng kiến, chẳng biết lìa khỏi tướng sinh, trụ, diệt, chẳng biết do tự tâm hư vọng sinh ra. Gọi là biết thuận theo trời Tự Tại, thời gian, vi trần, ngã sinh ra.

Này Đại Tuệ! Những gì là danh? Là nhãn thức thấy sắc trước... tướng các pháp như: tướng thanh, tướng nhĩ, tướng tỷ, tướng thiệt, tướng thân. Này Đại Tuệ! Những tướng như vậy... ta nói danh, là tướng của danh.

Này Đại Tuệ! Phân biệt là gì? Do nương vào những pháp gì gọi là chấp giữ tướng? Phân biệt rõ pháp này như vậy... như vậy... rốt ráo chẳng khác, như là con voi, con ngựa, chiếc xe, bước đi, nhân dân... phân biệt đủ các tướng. Đó gọi là Phân biệt.

Này Đại Tuệ! Chánh trí là gì? Quan sát danh, tướng. Quan sát rồi, chẳng thấy có thật pháp, chúng do các nhân cùng đắp đổi sinh ra nên nhìn thấy. Do đắp đổi cùng sinh ra thì các thức chẳng khởi lên nên tướng thức phân biệt, chẳng đoạn, chẳng thường. Vậy nên, chẳng rơi vào Địa của tất cả ngoại đạo, Thanh văn, Bích-chi-phật. Này Đại Tuệ! Đó gọi là Chánh trí.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát nương vào Chánh trí, chẳng chấp thủ pháp danh tướng cho là có, chẳng chấp giữ tướng chẳng thấy cho là không. Vì sao? Vì lìa khỏi tà kiến có không, do chẳng thấy danh tướng chính là nghĩa của Chánh trí. Vậy nên, ta nói danh là Chân như.

Này Đại Tuệ! Bồ-tát trụ ở pháp Chân như thì được thể nhập cảnh giới Vô tướng tịch tĩnh. Sau khi hội nhập thì đạt được Hoan hỷ địa đầu tiên của Đại Bồ-tát. Khi Bồ-tát được Hoan hỷ địa đầu tiên thì chứng được pháp môn Bách kim cang Tammuội minh, lìa bỏ tất cả quả nghiệp của hai mươi lăm cõi, vượt qua các địa Thanh văn, Bích-chiphật, trụ ở cảnh giới chân như, nhà của Như Lai, như thật tu hành, biết tướng năm pháp đều như huyễn, như mộng, như thật quán sát tất cả các pháp, khởi lên sự tu hành chứng Thánh trí nơi tự thân. Như vậy, dần dần lìa xa địa quán sát an lạc của thế gian hư vọng, theo thứ lớp cho đến Pháp vân địa. Vào Pháp vân địa rồi, thứ đến đạt được lực Tam-muội thần thông tự tại, địa Chư hoa trang nghiêm của Như Lai. Vào Như Lai địa rồi, vì giáo hóa chúng sinh nên thị hiện đủ loại ánh sáng ứng với thân trang nghiêm, như trăng trong nước. Nương vào Vô tận cú mà khéo trói buộc đối tượng trói buộc, tùy theo niềm tin của chúng sinh mà nói pháp cho họ, lìa khỏi thân, tâm, ý và ý thức vậy. Này Đại Tuệ! Bồ-tát vào Chân như rồi, được vô lượng, vô biên pháp như vậy... như vậy... trong Phật địa.

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn vì năm pháp môn nhập vào ba pháp, vì ba pháp nhập vào trong năm pháp môn, hay vì tướng tự thể mỗi mỗi đều sai biệt. Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Ba pháp nhập vào trong năm pháp môn. Này Đại Tuệ! Chẳng phải chỉ có ba pháp môn nhập vào trong năm pháp môn mà tám thứ thức, hai vô ngã cùng nhập vào năm pháp môn. Này Đại Tuệ! Thế nào là ba pháp nhập vào trong năm pháp? Này Đại Tuệ! Danh tướng là pháp tướng phân biệt. Này Đại Tuệ! Nương vào hai pháp phân biệt đó sinh ra tâm. Tâm số pháp cùng một lúc, chẳng phải trước sau như mặt trời cùng ánh sáng xuất hiện một lúc mà có đủ các tướng phân biệt. Này Đại Tuệ! Đó gọi là ba tướng, nương vào lực nhân duyên sinh ra.

Này Đại Tuệ! Chánh trí Chân như gọi là tướng

Đệ nhất nghĩa đế nương vào pháp không diệt.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Chấp trước tự tâm thấy pháp phân biệt; có tám loại sai biệt, do phân biệt các tướng. Do là thật nên lìa khỏi pháp sinh diệt của ngã, ngã sở, bấy giờ chứng đắc hai pháp vô ngã.

Này Đại Tuệ! Pháp môn của năm pháp thể nhập các Phật địa, pháp tướng các Địa cũng hội nhập trong năm pháp môn, pháp của tất cả Thanh văn, Bích-chi-phật cũng nhập vào trong năm pháp môn, pháp chứng Thánh trí tự thân của Như Lai cũng nhập vào trong năm pháp môn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Năm pháp tướng gọi là Chánh trí phân biệt chân như. Này Đại Tuệ! Sao gọi là tướng? Tướng là thấy hình tướng, màu sắc hơn hay thua. Đó gọi là tướng.

Này Đại Tuệ! Nương vào pháp tướng đó sinh khởi tướng phân biệt: Đây là cái bình, đây là con trâu, con ngựa, con dê... pháp này như vậy... như vậy... chẳng khác. Này Đại Tuệ! Đó gọi là danh. Này Đại Tuệ! Nương vào pháp đó mà thành lập danh, tướng đó thị hiện rõ ràng. Vậy nên lập ra đủ các danh tự, trâu, dê, ngựa... đó. Đó gọi là tâm phân biệt, tâm số pháp.

Này Đại Tuệ! Quán sát từ danh, tướng cho đến vi trần thường chẳng thấy được tướng một pháp, các pháp chẳng thật, do tâm hư vọng phân biệt sinh ra.

Này Đại Tuệ! Nói Chân như tức là Danh chẳng trống rỗng, mà tự tánh tự thể quyết định rốt ráo tận cùng, chánh kiến về tướng Chân như. Ta và Bồ-tát cùng các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri nói danh thì khác mà nghĩa là một. Này Đại Tuệ! Như vậy... thuận theo chánh trí, chẳng đoạn, chẳng thường, không phân biệt, chẳng phân biệt hành xứ, thuận theo sự chứng đắc Thánh trí mới Tự thân lìa khỏi những bè đảng ác kiến, chẳng Chánh trí của tất cả ngoại đạo, Thanh văn, Bích-chi-phật...

Này Đại Tuệ! Đối với năm pháp thì ba pháp tướng, tám thức, hai pháp vô ngã và tất cả Phật pháp đều thể nhập trong năm pháp. Này Đại Tuệ! Ông và các Đại Bồ-tát vì cầu Trí thù thắng thì nên phải tu học. Này Đại Tuệ! Ông nên biết, năm pháp chẳng nương theo lời dạy của người khác.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Tướng tự thể năm pháp
Cùng với tám loại thức
Hai thứ pháp vô ngã
Bao trùm các Đại thừa.
Danh, tướng và phân biệt
Ba pháp tướng tự thể
Chân như và Chánh trí
Là tướng Đệ nhất nghĩa.

Phẩm 13: HẰNG HÀ SA

Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn nương vào danh tự giảng nói, chư Phật quá khứ, vị lai và hiện tại nhiều như cát sông Hằng. Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai nói như vậy là nương vào lời nói trong kim khẩu của Như Lai, con thuận theo chấp lấy, cho là nghĩa! Nguyện xin Thế Tôn vì con giải nói.

Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Như danh tự, chương cú của ta đã giảng nói thì không nên chấp giữ như vậy. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật ba đời chẳng phải nhiều như cát sông Hằng. Vì sao? Vì lời nói thí dụ vượt hơn thế gian thì chẳng phải như thí dụ. Vì sao? Vì do có tương tự và chẳng tương tự vậy.

Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri chẳng định nói thí dụ tương tự, chẳng tương tự vượt hơn thế gian. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì ta nói thí dụ chỉ là phần ít. Này Đại Tuệ! Lời nói thí dụ của ta và các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri chỉ nói lên một ít nghĩa. Vì sao? Vì phàm phu ngu si, các ngoại đạo... sự chấp trước các pháp là thường, tăng trưởng tà kiến, thuận theo thế gian, luân hồi sinh tử. Vì những người đó nhàm chán, khi nghe sinh ra kinh sợ mà lại nghe các Đức Phật nhiều như cát sông Hằng, đối với đạo Thánh vô thượng của Như Lai họ sinh ra tư tưởng dễ có được, dễ cầu pháp xuất thế.

Này Đại Tuệ! Vậy nên, ta nói các Đức Phật Như Lai nhiều như cát sông Hằng. Vì sao? Vì trong những kinh khác mà ta nói, Đức Phật ra đời như hoa Ưu-đàm. Chúng sinh nghe rồi nói rằng, đạo Phật khó đạt được mà chẳng tu hành tinh tấn. Vậy nên ta nói, các Đức Phật Như Lai nhiều như cát sông Hằng.

Này Đại Tuệ! Ta nói, các Đức Phật ra đời như hoa Ưu-đàm nương vào nghĩa này có thể giáo hóa chúng sinh, nên ta nói các Đức Phật ra đời như hoa Ưu-đàm, này Đại Tuệ! Hoa Ưu-đàm ở trong thế gian, không có người từng thấy, rồi sẽ cũng chẳng thấy. Này Đại Tuệ! Chư Phật Như Lai trong thế gian đã thấy, hiện tại đang thấy và sẽ thấy. Này Đại Tuệ! Ta nói như vậy chẳng phải nương vào pháp tự thân chứng đắc mà nói. Vậy nên nói rằng: Như hoa Ưu-đàm, các Đức Phật Như Lai cũng lại như vậy.

Này Đại Tuệ! Ta nương vào pháp chứng đắc nơi tự thân mà nói pháp. Vậy nên, nói thí dụ vượt hơn thế gian, do các phàm phu, chúng sinh không có niềm tin chẳng thể tin lời thí dụ của ta. Vì sao? Vì nói về cảnh giới Thánh trí tự thân mà không thí dụ thì có thể nói được, còn xa lìa tâm, ý và ý thức, qua khỏi các kiến địa, pháp Chân như của các Đức Phật Như Lai thì chẳng thể nói được. Vậy nên ta nói đủ các thí dụ.

Này Đại Tuệ! Ta nói, các Đức Phật nhiều như số cát sông Hằng tức là thí dụ một phần ít. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai bình đẳng, chẳng phải chẳng bình đẳng, do chẳng thể phân biệt mà phân biệt được.

Này Đại Tuệ! Ví như cát trong sông Hằng bị cá, ba ba, rùa, rồng, trâu, dê, voi ngựa... các loài thú giẫm đạp mà cát sông đó chẳng sinh phân biệt, chẳng sân, chẳng giận, cũng chẳng sinh tâm: “Chúng quấy nhiễu”, không phân biệt nên thanh tịnh lìa các cấu bẩn.

Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri cũng lại như vậy, đã chứng đắc Thánh trí nội thân, đủ đầy các lực, thần thông tự tại, công đức như cát sông Hằng. Tất cả tà luận ngoại đạo, những học phái, cá, ba ba... vì ngu si nên đem tâm sân hận chê bai Như Lai mà Như Lai chẳng động, chẳng sinh ra phân biệt. Do năng lực bản nguyện nên ban cho chúng sinh tất cả các niềm vui Tam-muội Tam-ma-bạt đề, khiến họ thỏa mãn đầy đủ, chẳng còn phân biệt điều gì.

Này Đại Tuệ! Vậy nên ta nói, các Đức Phật Như Lai nhiều như cát sông Hằng. Đẳng là bình đẳng, không có tướng khác, do lìa khỏi tấm thân yêu thích. Này Đại Tuệ! Ví như cát của sông Hằng chẳng lìa khỏi tướng của đất. Này Đại Tuệ! Đại địa lửa đốt cháy, lửa chẳng khác đất, lửa chẳng đốt cháy đất. Địa đại có thể tương tục của lửa.

Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si rơi vào trí điên đảo, tự tâm phân biệt nói rằng, đất bị đốt cháy mà đất chẳng cháy, do chẳng lìa khỏi đất mà lại có thân lửa bốn đại vậy.

Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai cũng lại như vậy, thể Pháp thân của các Đức Phật Như Lai giống như cát của sông Hằng, chẳng diệt, chẳng mất. Này Đại Tuệ! Ví như cát sông Hằng vô lượng, vô biên. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai cũng lại như vậy, xuất hiện ở thế gian, phóng ra vô lượng ánh sáng, chiếu khắp tất cả đại hội của chư Phật, vì giáo hóa chúng sinh khiến cho họ đều rốt ráo thông đạt.

Này Đại Tuệ! Như cát sông Hằng lại chẳng sinh ra tướng, như vi trần kia vẫn an trụ nơi thể tướng vi trần. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai cũng lại như vậy, ở trong thế gian chẳng sinh chẳng diệt, các Đức Phật Như Lai đã đoạn trừ nhân hữu.

Này Đại Tuệ! Như cát sông Hằng, nếu ra khỏi sông thì cũng chẳng thể thấy, vào ở trong sông cũng chẳng thể thấy, cũng chẳng khởi tâm: Ta ra vào sông.

Này Đại Tuệ! Lực trí tuệ của các Đức Phật Như Lai cũng lại như vậy, độ các chúng sinh cũng chẳng diệt hết, cũng chẳng tăng trưởng. Vì sao? Vì các pháp không thân vậy.

Này Đại Tuệ! Tất cả loài có thân đều là pháp vô thường, hủy diệt, chẳng phải pháp không thân. Các Đức Phật Như Lai chỉ có Pháp thân.

Này Đại Tuệ! Ví như có người muốn được váng sữa, dầu mà lại ép cát sông Hằng thì nhất định chẳng thể được, không có váng sữa, dầu vậy.

Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai vì khổ não của các chúng sinh đã đè nén sân hận mà chẳng thể được, các Đức Phật chẳng xả tướng pháp giới của mình, chẳng xả tướng pháp vị của mình, chẳng xả bản nguyện cùng chúng sinh an lạc, do được đầy đủ đại Từ đại Bi, rằng: Ta nếu chẳng khiến cho tất cả chúng sinh vào Niết-bàn thì thân ta cũng chẳng thể nhập Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Như cát sông Hằng theo dòng nước mà chảy thì nhất định chẳng ngược dòng. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai vì các chúng sinh nói pháp cũng vậy, thuận theo Niết-bàn thì chẳng phải ngược dòng. Này Đại Tuệ! Do đó, ta nói các Đức Phật Như Lai nhiều như số cát sông Hằng.

Này Đại Tuệ! Ta nói, cát sông Hằng thuận theo dòng thì chẳng phải là nghĩa bỏ đi. Nếu Phật Như Lai có nghĩa bỏ đi thì các Đức Phật Như Lai lẽ ra vô thường và diệt mất.

Này Đại Tuệ! Bản tế của thế gian còn chẳng thể biết, mà chẳng thể biết thì ta làm sao nương vào mà nói nghĩa bỏ đi. Vậy nên, Như Lai chẳng phải là nghĩa bỏ đi. Này Đại Tuệ! Nghĩa bỏ đi thì gọi là nghĩa đoạn diệt nghĩa, phàm phu ngu si chẳng hiểu chẳng biết.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nếu chúng sinh luân hồi trong thế gian, bản tế đến đi chẳng thể biết thì làm sao Đức Như Lai được giải thoát, lại còn khiến cho chúng sinh được giải thoát?

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Nói giải thoát là lìa khỏi tâm phân biệt huân tập tất cả hý luận phiền não từ vô thủy, có thể biết như thật, chỉ là tự tâm thấy tâm xoay chuyển phân biệt bên ngoài. Vậy nên, ta gọi là Giải thoát.

Này Đại Tuệ! Nói giải thoát chẳng phải là pháp

Diệt. Vậy nên, nay ông hỏi ta, nếu ta chẳng biết bản tế làm sao được giải thoát thì câu hỏi này chẳng thành.

Này Đại Tuệ! Nói bản tế thì tức là tâm phân biệt, một thể mà khác tên. Này Đại Tuệ! Lìa khỏi tâm phân biệt lại không có chúng sinh, tức sự phân biệt này gọi là chúng sinh.

Này Đại Tuệ! Trí tuệ chân thật quan sát pháp trong ngoài, không có pháp chủ thể biết và đối tượng để biết. Này Đại Tuệ! Do tất cả pháp vốn là tịch tĩnh.

Này Đại Tuệ! Nếu chẳng biết như thật, chỉ là tự tâm thấy, do hư vọng phân biệt nên sinh ra tâm phân biệt. Biết như thật thì chẳng sinh ra phân biệt.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Quan sát đối chư Phật
Ví như cát sông Hằng
Chẳng diệt cũng chẳng sinh
Người đó thấy được Phật
Xa lìa các trần cấu
Như cát dòng sông Hằng
Thuận theo dòng chẳng đổi
Pháp thân cũng như vậy.

QUYỂN 8

Phẩm 14: SÁT-NA

Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nguyện xin Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri giảng nói cho con. Xin Đấng Thiện Thệ vì con giảng nói về tướng sinh diệt của tất cả pháp. Sao Như Lai nói, tất cả pháp từng niệm từng niệm chẳng trụ.

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông giải nói.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Xin vâng, con xin lắng nghe và tin nhận.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Tất cả pháp. Tất cả pháp là những gì gọi là, pháp thiện, pháp bất thiện, pháp hữu vi, pháp vô vi, pháp thế gian, pháp xuất thế gian, pháp hữu lậu, pháp vô lậu, pháp bên trong, pháp bên ngoài...

Này Đại Tuệ! Lược nói pháp năm ấm, nương vào tâm, ý, ý thức huân tập tăng trưởng. Những người phàm phu nương vào tâm, ý, ý thức huân tập nên phân biệt pháp thiện, pháp bất thiện.

Này Đại Tuệ! Thánh nhân hiện tại chứng Tammuội Tam-ma-bạt-đề, hạnh an lạc pháp thiện vô lậu. Này Đại Tuệ! Đó gọi là pháp thiện.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Nói rằng, pháp thiện, pháp bất thiện là gọi tám thức. Những gì là tám?

1. A-lê-gia thức.

2. Ý.

3. Ý thức.

4. Nhãn thức.

5. Nhĩ thức.

6. Tỵ thức.

7. Thiệt thức.

8. Thân thức.

Này Đại Tuệ! Thân năm thức cùng với thân ý thức đối với pháp thiện, pháp bất thiện đắp đổi sai biệt tương tục, thể không thân sai biệt, thuận theo pháp sinh ra, sinh ra rồi trở lại diệt, chẳng biết tự tâm thấy cảnh giới hư vọng tức là lúc diệt, có thể chấp giữ hiện trạng cảnh giới, hình tướng lớn nhỏ, hơn hay ngang bằng.

Này Đại Tuệ! Ý thức cùng với thân năm thức tương ứng sinh ra, thời gian một niệm chẳng trụ. Vậy nên ta nói, thời gian niệm về pháp đó chẳng trụ.

Này Đại Tuệ! Nói sát-ni-ca thì gọi là Không Alê-gia thức gọi là Như Lai tạng, không cùng với ý chuyển biến thức huân tập nên gọi là không, đầy đủ pháp huân tập vô lậu gọi là bất không.

Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si chẳng hiểu, chẳng biết chấp trước các pháp trong sát-na chẳng trụ, rơi vào tà kiến mà nói: “Pháp vô lậu cũng chẳng trụ trong sát-na, phá chân như Như Lai tạng đó.

Này Đại Tuệ! Thân năm thức chẳng sinh ra sáu đường, chẳng nhận chịu khổ vui, chẳng tạo tác nhân của Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Như Lai tạng chẳng nhận chịu khổ vui, chẳng phải nhân của sinh tử, còn pháp khác thì cùng sinh, cùng diệt, nương vào bốn loại say sưa huân tập, mà các phàm phu chẳng hiểu chẳng biết, huân tập tà kiến, nói rằng, tất cả pháp chẳng trụ trong sát-na.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Kim cang Như Lai tạng, pháp Như Lai chứng đắc chẳng phải trong sát-na chẳng trụ.

Này Đại Tuệ! Pháp Như Lai chứng đắc, nếu trong sát-na chẳng trụ thì tất cả Thánh giả chẳng thành Thánh nhân.

Này Đại Tuệ! Chẳng phải phi Thánh nhân do đó là Thánh nhân vậy.

Này Đại Tuệ! Trụ ở Kim cang một kiếp gọi là bằng trụ không lường, chẳng tăng chẳng giảm.

Này Đại Tuệ! Sao phàm phu ngu si phân biệt các pháp cho rằng, sát-na chẳng trụ, mà các phàm phu chẳng thông đạt ý của ta, chẳng hiểu chẳng biết các pháp trong ngoài từng niệm từng niệm chẳng trụ?

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai thường nói, đủ đầy sáu pháp Ba-la-mật, thì đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bạch Thế Tôn! Những gì là sáu Ba-la-mật? Làm sao đầy đủ?

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Ba-la-mật có ba loại khác nhau, đó là: Thế gian Ba-la-mật, xuất thế gian Ba-la-mật, xuất thế gian Thượng thượng Ba-la-mật.

Này Đại Tuệ! Nói rằng, thế gian Ba-la-mật là phàm phu ngu si chấp trước pháp ngã và ngã sở, rơi vào nhị biên, vì đối với vô số cảnh giới thù thắng vi diệu mà tu hành Ba-la-mật, cầu quả báo nơi cảnh giới Sắc...

Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si hành Thi ba-lamật (Trì giới), Sằn-đề ba-la-mật (Nhẫn nhục), Tỳlê-gia ba-la-mật (Tinh tấn), Thiền ba-la-mật, Bátnhã ba-la-mật-đa (Trí tuệ)... cho đến sinh ở Phạm thiên cầu pháp năm thần thông thế gian. Này Đại Tuệ! Đó gọi là những Ba-la-mật của thế gian.

Này Đại Tuệ! Nói rằng xuất thế gian Ba-la-mật nghĩa Thanh văn, Bích-chi-phật chấp giữ tâm Niếtbàn của Thanh văn, Bích-chi-phật mà tu hành Bala-mật. Này Đại Tuệ! Như phàm phu ngu si thế gian kia vì cầu niềm vui Niết-bàn nơi tự thân mà tu hạnh Ba-la-mật của thế gian. Thanh văn, Duyên giác cũng lại như vậy, vì tự thân cầu niềm vui Niếtbàn mà tu hành hạnh Ba-la-mật xuất thế gian cho đến cầu niềm vui chẳng phải cứu cánh đó.

Này Đại Tuệ! Xuất thế gian Thượng thượng Ba-la-mật là có thể biết như thật, chỉ là tự tâm hư vọng phân biệt nên thấy cảnh giới bên ngoài. Bấy giờ, biết quả thật chỉ là tự tâm thấy pháp trong ngoài, chẳng phân biệt hư vọng phân biệt, chẳng chấp giữ sắc tướng trong ngoài tự tâm. Đại Bồ-tát có thể biết như thật tất cả pháp nên tu hành Đàn bala-mật (Bố thí), vì khiến cho tất cả chúng sinh được niềm vui yên ổn, không kinh sợ. Đó gọi là Đàn bala-mật (Bố thí).

Này Đại Tuệ! Bồ-tát quan sát tất cả các pháp đó, chẳng sinh ra phân biệt mà tùy thuận thanh lương. Đó gọi là Thi ba-la-mật.

Này Đại Tuệ! Bồ-tát lìa khỏi tâm phân biệt mà nhẫn nhịn. Bồ-tát đó tu hành như thật mà biết cảnh giới năng thủ, khả thủ chẳng phải thật, đó gọi là Sằn-đề ba-la-mật của Bồ-tát.

Này Đại Tuệ! Bồ-tát làm sao tu hạnh tinh tấn?

Đầu đêm, giữa đêm, cuối đêm thường siêng năng tu hành, thuận theo pháp như thật, đoạn trừ các phân biệt. Đó gọi là Tỳ-lê-gia ba-la-mật.

Này Đại Tuệ! Bồ-tát lìa khỏi tâm phân biệt, chẳng thuận theo tướng cảnh giới năng thủ khả thủ của ngoại đạo, đó gọi là Thiền ba-la-mật.

Này Đại Tuệ! Bát-nhã ba-la-mật của Bồ-tát là gì? Bồ-tát như thật quan sát tướng tự tâm phân biệt, chẳng thấy phân biệt chẳng rơi vào nhị biên, nương vào sự tu hành như thật mà chuyển biến thân, chẳng thấy một pháp nào sinh ra, chẳng thấy một pháp nào diệt đi, tự thân chứng đắc tu hành Thánh hạnh. Đó gọi là Bát-nhã ba-la-mật của Bồ-tát.

Này Đại Tuệ! Nghĩa Ba-la-mật đủ đầy như vậy thì đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Không, vô thường sát-na
Ngu phân biệt hữu vi
Như sông, đèn, hạt giống
Không, vô thường sát-na.
Phân biệt nghĩa sát-na
Cũng như vậy sát-na
Sát-ni-ca chẳng sinh
Tịch tĩnh lìa tạo tác.
Tất cả pháp chẳng sinh
Ta nói, nghĩa sát-na
Vật sinh tức có diệt
Chẳng nói vì phàm phu.
Phân biệt pháp tương tục
Vọng tưởng thấy sáu đường
Nếu vô minh là nhân
Hay sinh những tâm ấy
Cho đến sắc chưa sinh
Trung gian nương đâu trụ?
Có sinh tức có diệt
Tâm khác theo đó sinh
Sắc chẳng trụ một niệm
Quan sát pháp gì sinh?
Nương nhân nào sinh pháp?
Tâm không nhân mà sinh
Vậy nên sinh chẳng thành!
Làm sao biết niệm hoại?
Người tu hành chứng định
Kim Cang, Xá-lợi-phất
Cung điện trời Quang Âm
Việc thế gian chẳng hoại
Chứng đắc pháp Chân như
Thành tựu trí Như Lai
Tỳ-kheo chứng bình đẳng
Làm sao niệm chẳng trụ?
Huyễn, thành Càn-thát-bà
Vì sao niệm chẳng trụ?
Bốn đại không, thấy sắc
Thì bốn đại là gì?

Phẩm 15: HÓA

Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Phật Thế Tôn thọ ký cho các vị La-hán thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Như Lai lại nói, các Đức Phật Như Lai chẳng vào Niết-bàn, lại nói, Như Lai Ứng Chánh Biến Tri vào đêm đó chứng Đại Bồ-tát, vào đêm đó nhập Bát-niết-bàn và ở khoảng giữa ấy chẳng nói một chữ. Như Lai lại nói, các Đức Phật Như Lai thường vào định Vô giác vô quán vô phân biệt, lại nói, tạo ra vô số thân ứng hóa độ các chúng sinh. Thế Tôn lại nói, các thức sai khác từng niệm từng niệm chẳng trụ. Kim Cang Mật Tích thường theo ủng hộ. Thế Tôn lại nói, bản tế của thế gian khó biết, lại nói rằng, chúng sinh vào Niết-bàn, mà nếu vào Niết-bàn lẽ ra có bản tế. Thế Tôn lại nói, các Đức Phật không có thù oán, mà thấy các ma, lại nói, Như Lai đoạn tất cả chướng, nhưng mà thấy Chiên-già, Ma-na-tỳ, Tôn-đà-lê... bài báng. Phật vào thôn Ta-lê-na rốt cuộc chẳng được thức ăn, mang bát không mà đi ra.

Bạch Thế Tôn! Nếu như vậy thì Như Lai có vô lượng tội, nghiệp chướng, sao Như Lai chẳng lìa khỏi tất cả những tội lỗi mà đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Được Nhất thiết chủng trí?

Đức Phật bảo Thánh giả Bồ-tát Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông giải nói.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và tin nhận.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Ta vì các Thanh văn... đã từng tu hành hạnh Bồ-tát, nương vào Niết-bàn Vô dư mà thọ ký cho họ. Này Đại Tuệ! Ta thọ ký cho Thanh văn là vì chúng sinh khiếp nhược làm cho họ sinh ra có lòng dũng mãnh.

Này Đại Tuệ! Trong thế giới này và những cõi Phật khác, có các chúng sinh tu hạnh Bồ-tát mà ưa thích hạnh của pháp Thanh văn. Vì chuyển cho họ đạt được Đại Bồ-đề nên Phật ứng hóa vì Thanh văn ứng hóa mà thọ ký, chẳng phải là Phật báo thân, Phật Pháp thân mà thọ ký.

Này Đại Tuệ! Niết-bàn của Thanh văn, Bíchchi-phật không sai khác. Vì sao? Vì đoạn trừ phiền não không sai khác, đoạn phiền não chướng chẳng phải đoạn trí chướng.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Thấy pháp vô ngã thì đoạn trừ được Trí chướng. Thấy nhân vô ngã thì đoạn trừ phiền não chướng. Này Đại Tuệ! Chuyển ý thức nên đoạn pháp chướng, nghiệp chướng. Do chuyển huân tập của ý và A-lê-gia thức nên được thanh tịnh hoàn toàn.

Này Đại Tuệ! Ta thường nương vào thể của bản pháp mà trụ, lại chẳng sinh ra pháp, nương vào bản danh tự chương cú chẳng hiểu, chẳng tư duy mà nói các pháp.

Này Đại Tuệ! Như Lai thường biết như ý, thường chẳng mất niệm, vậy nên Như Lai không giác, không quán. Các Đức Phật Như Lai lìa khỏi Tứ địa rồi, xa lìa hai loại sinh tử, hai chướng, hai loại nghiệp vậy.

Này Đại Tuệ! Bảy loại thức, ý, ý thức, nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân từng niệm từng niệm chẳng trụ, do hư vọng huân tập lìa khỏi các thiện pháp vô lậu. Này Đại Tuệ! Như Lai tạng ở thế gian chẳng sinh, chẳng tử, chẳng đến, chẳng đi, thường hằng, thanh lương, bất biến.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Nương vào Như Lai tạng nên có nhân của thế gian, Niết-bàn, khổ vui mà các phàm phu chẳng hiểu, chẳng biết, rơi vào trống không, hư vọng, điên đảo.

Này Đại Tuệ! Kim Cang Mật Tích thường theo ủng hộ, vây quanh Đức Như Lai Ứng Hóa, chẳng phải Phật Pháp thân, Phật báo thân, căn bản Như Lai Ứng Chánh Biến Tri.

Này Đại Tuệ! Căn bản Như Lai xa lìa các căn lớn nhỏ, các lượng xét xa lìa tất cả phàm phu, Thanh văn, Bích-chi-phật... Này Đại Tuệ! Người tu hành như thật đạt được cảnh giới hạnh an lạc Chân như đó, biết căn bản Phật do đạt được pháp nhẫn Bình Đẳng. Vậy nên Kim Cang Mật Tích theo Phật Ứng Hóa.

Này Đại Tuệ! Phật Ứng Hóa thì không còn nghiệp, không bài báng, mà Phật Ứng Hóa chẳng khác Pháp Phật, Báo thân Phật Như Lai mà cũng chẳng là một. Như thợ gốm, muối... người làm việc làm ra, Phật Ứng Hóa làm việc giáo hóa chúng sinh, khác với tướng chân thật nói pháp, chẳng nói pháp chứng đắc cảnh giới Thánh trí nơi tự thân.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Tất cả phàm phu, ngoại đạo, Thanh văn, Bích-chi-phật... thấy sáu thức diệt thì rơi vào Đoạn kiến, chẳng thấy A-lê-gia thức thì rơi vào Thường kiến. Lại nữa, này Đại Tuệ! Chẳng thấy tự tâm phân biệt bản tế, vậy nên thế gian gọi là không bản tế.

Này Đại Tuệ! Xa lìa sự thấy phân biệt nơi tự tâm thì gọi là giải thoát, được chứng Niết-bàn. Này Đại Tuệ! Các Đức Phật Như Lai xa lìa bốn huân tập khí, vậy nên không gây ra những lỗi lỗi.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Ba thừa và phi thừa
Chư Phật vô lượng thừa
Thọ ký thảy Phật địa
Nói đoạn các phiền não
Chứng Thánh trí nội thân
Và Vô dư Niết-bàn
Khuyên gắng chúng sinh khiếp
Nên nói pháp ẩn lấp.
Như Lai chứng đắc trí
Cũng nói đến đạo trên
Chúng sinh nương vào đạo
Nhị thừa không Niết-bàn.
Thấy Dục, Sắc và Hữu
Và huân tập bốn Địa
Ý thức cũng sinh ra
Thấy ý thức cùng trụ.
Thấy ý, nhãn thức thảy
Thường vô thường, đoạn diệt
Nương ý... chấp thường kiến
Khởi kiến chấp Niết-bàn.

Phẩm 16: NGĂN ĂN THỊT

Bấy giờ, Thánh giả Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Con quan sát thế gian, sinh tử lưu chuyển, oán kết liền nhau, rơi vào các đường ác, đều do ăn thịt, giết hại lẫn nhau, tăng trưởng tham sân, chẳng được ra khỏi, thật là khổ sở.

Bạch Thế Tôn! Người ăn thịt đoạn trừ hạt giống đại Từ. Người tu đạo Thánh thì chẳng nên ăn thịt. Bạch Thế Tôn! Các ngoại đạo... nói pháp tà kiến Lô-ca-da-đà, rơi vào luận của thế tục, rơi vào trong hai kiến đoạn thường, hữu vô, đều ngăn ăn thịt, tự mình chẳng ăn, chẳng cho phép người khác ăn. Sao trong pháp thanh tịnh của Như Lai, người tu phạm hạnh thì tự ăn, cho phép người khác ăn, tất cả chẳng cấm chế? Như Lai Thế Tôn đối với các chúng sinh Từ bi bình đẳng thì sao lại cho phép dùng thịt làm thức ăn? Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thế Tôn thương xót thế gian, nguyện xin vì con nói về lỗi của sự ăn thịt và công đức của sự chẳng ăn thịt. Con và những Bồ-tát nghe rồi, được nương vào đó tu hành như thật và tuyên nói, lưu bố rộng rãi, khiến cho chúng sinh hiện tại và vị lai, tất cả đều biết rõ.

Đức Phật bảo Thánh giả Đại Tuệ:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông có tâm đại Từ bi thương xót chúng sinh nên có thể hỏi ý nghĩa này. Ông nay hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông giải nói.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Hay thay! Bạch Thế Tôn! Thưa vâng, con xin lắng nghe và tin nhận.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Luận về ăn thịt có vô lượng lỗi. Các Đại Bồ-tát tu đại Từ bi thì chẳng được ăn thịt.

Tội lỗi và công đức của người ăn thịt cùng chẳng ăn thịt, ta sẽ nói lên một phần ít. Ông nay hãy lắng nghe. Này Đại Tuệ! Ta quán sát chúng sinh từ vô thủy đến nay đã quen ăn thịt, tham trước vị thịt, giết hại lẫn nhau, xa lìa Hiền thánh, chịu khổ sinh tử. Người xả bỏ vị thịt, nghe vị chánh pháp, ở Bồtát địa tu hành như thật thì mau chóng đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại khiến cho chúng sinh vào đến chỗ dừng nghỉ, cả địa Thanh văn, Bích-chi-phật. Dừng nghỉ rồi, khiến họ vào Như Lai địa.

Này Đại Tuệ! Những lợi ích như vậy lấy tâm Từ làm gốc. Người ăn thịt đoạn trừ hạt giống đại Từ thì làm sao sẽ được lợi lớn như vậy? Vậy nên, này Đại Tuệ! Ta quan sát chúng sinh luân hồi sáu đường, đồng ở trong sinh tử, cùng nhau nuôi sống, đắp đổi làm cha mẹ, anh em, chị em, hoặc nam, hoặc nữ hoặc trong lục thân quyến thuộc nội ngoại, hoặc sinh vào đường khác, đường thiện, đường ác, thường làm quyến thuộc. Do nhân duyên đó, ta quan sát chúng sinh ăn thịt lẫn nhau thì không ai là chẳng phải người thân. Do tham vị thịt, họ đắp đổi ăn lẫn nhau, thường sinh tâm ác hại, tăng trưởng nghiệp khổ, lưu chuyển trong sinh tử, chẳng được ra khỏi.

Khi Đức Phật nói lời này, các La-sát ác nghe lời dạy của Đức Phật đều bỏ tâm ác, dừng lại chẳng ăn thịt, cùng khuyên nhau phát tâm Từ bi, hộ trì mạng của chúng sinh, hơn tự hộ thân mình, lìa bỏ tất cả những thứ thịt, chẳng ăn nữa, buồn khóc rơi nước mắt, bạch:

–Bạch Thế Tôn! Con nghe Phật dạy, quan sát kỹ sáu đường, thịt mà con ăn đều chính là người thân của con, mới biết ăn thịt chúng sinh là oán thù lớn, cắt đứt giống đại Từ, lớn thêm nghiệp bất thiện, chính là gốc của khổ đau. Bạch Thế Tôn! Từ ngày hôm nay, con chấm dứt, chẳng ăn thịt và quyến thuộc của con cũng chẳng được phép ăn. Đệ tử của Đức Như Lai có người nào chẳng ăn thịt thì con sẽ ngày đêm gần gũi ủng hộ. Nếu có người ăn thịt thì con sẽ làm cho họ chẳng được nhiều lợi ích. Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Quỷ ác La-sát là loài thường ăn thịt, nghe lời nói của ta còn phát Từ tâm, bỏ thịt chẳng ăn, huống là đệ tử của ta tu hành thiện pháp mà được phép ăn thịt ư? Nếu có người ăn thịt thì phải biết kẻ đó là oán thù của chúng sinh, đoạn trừ Thánh chủng của ta.

Này Đại Tuệ! Nếu đệ tử của ta nghe lời ta dạy, chẳng quan sát kỹ càng mà ăn thịt thì phải biết người đó chính là dòng giống Chiên-đà-la, chẳng phải đệ tử của ta, ta chẳng phải là thầy của người ấy. Vậy nên, này Đại Tuệ! Nếu muốn cùng ta làm quyến thuộc thì tất cả các thứ thịt đều chẳng nên ăn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Bồ-tát nên quan sát tất cả thịt đó đều nương vào máu mủ bất tịnh đỏ trắng của cha mẹ hòa hợp mà sinh ra thân bất tịnh. Vậy nên, Bồ-tát quan sát thịt bất tịnh, chẳng nên ăn thịt. Lại nữa, này Đại Tuệ! Người ăn thịt thì chúng sinh nghe thấy hơi đều kinh sợ, chạy trốn tránh xa. Vậy nên, Bồ-tát tu hạnh như thật, vì hóa độ chúng sinh thì chẳng nên ăn thịt.

Này Đại Tuệ! Ví như Chiên-đà-la, thợ săn, người giết mổ, người đánh cá, kẻ bắt chim... tất cả hành động của họ, chúng sinh thấy từ xa đều khởi lên ý nghĩ như vầy: “Ta nay nhất định chết, người đi đến đây chính là người đại ác, chẳng nhận thức được tội phước, giết hại mạng của chúng sinh, cầu lợi hiện tiền, nay đi đến đây, vì tìm kiếm chúng ta. Nay thân của chúng tôi đều có thịt. Vậy nên, nay chúng tôi nhất định sẽ chết.”

Này Đại Tuệ! Do người ăn thịt có thể khiến cho chúng sinh nhìn thấy đều sinh ra kinh sợ như vậy.

Này Đại Tuệ! Tất cả chúng sinh trong hư không, trên đất thấy người ăn thịt đều sinh ra kinh sợ mà khởi lên ý niệm nghi ngờ: “Đến hôm nay thì ta sống hay chết đây? Như vậy, người ác chẳng tu Từ tâm cũng như loài hổ, chó sói ở thế gian thường tìm kiếm thịt ăn, như trâu ăn cỏ, bọ hung ăn phân... chẳng biết no đủ. Thân ta là thịt chính là thức ăn của chúng, chẳng nên cho chúng nhìn thấy.” Chúng sinh đó liền bỏ chạy trốn, tránh xa những kẻ giết hại ấy, như người sợ sệt La-sát không khác. Này Đại Tuệ! Người ăn thịt có thể khiến cho chúng sinh thấy thì đều sinh ra kinh sợ như vậy. Ông nên biết, ăn thịt chúng sinh là oán thù lớn. Vậy nên, Bồ-tát tu hành từ bi, vì cứu giúp chúng sinh thì chẳng nên ăn thịt họ, chẳng phải vị ăn của người Thánh tuệ, tiếng ác truyền khắp, Thánh nhân quở trách. Vậy nên, này Đại Tuệ! Bồ-tát vì hộ trì chúng sinh chẳng nên ăn thịt.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Bồ-tát vì hộ trì lòng tin của chúng sinh thì chẳng nên ăn thịt. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì nói rằng, Bồ-tát thì chúng sinh đều biết chính là hạt giống tâm Từ của Phật Như Lai, có thể làm nơi nương tựa cho chúng sinh, người nghe tự nhiên chẳng sinh ra nghi ngờ, kinh sợ mà sinh ra tướng thân hữu tưởng Thiện tri thức, tưởng không sợ hãi... còn nói rằng, được chỗ quy y, được chỗ yên ổn, được thầy dẫn đường tốt.

Này Đại Tuệ! Do chẳng ăn thịt, có thể sinh ra lòng tin của chúng sinh như vậy, còn nếu ăn thịt thì chúng sinh liền mất đi tất cả lòng tin và liền nói rằng, thế gian không có người có thể tin được. Họ liền đoạn trừ tín căn. Vậy nên, này Đại Tuệ! Bồ-tát vì hộ trì lòng tin của chúng sinh thì tất cả các thứ thịt đều chẳng nên ăn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Các đệ tử của ta vì ủng hộ thế gian, ngăn bài báng Tam bảo nên chẳng nên ăn thịt. Vì sao? Vì thế gian có người thấy ăn thịt nên hủy báng Tam bảo nói lên lời như vầy: Ở trong Phật pháp, chỗ nào sẽ có Sa-môn, Bà-la-môn tu phạm hạnh chân thật thì bỏ món ăn của Thánh nhân đã ăn mà ăn thịt chúng sinh, giống như La-sát ăn thịt no bụng ngủ say chẳng động, nương vào người phàm ở đời, giàu có thế lực, tìm kiếm thịt để ăn, như vua La-sát làm chúng sinh kinh sợ. Vậy nên, khắp nơi xướng lên lời như vầy: Chỗ nào có Samôn, Bà-la-môn tu hạnh thanh tịnh chân thật thì chỗ đó không pháp, không Sa-môn, không Tỳ-ni, không có người tu hạnh thanh tịnh. Sinh ra vô lượng, vô biên lòng ác, chẳng lành như vậy... đoạn dứt pháp luân của ta, diệt hết Thánh chủng... tất cả đều do lỗi của người ăn thịt. Vậy nên, này Đại Tuệ! Đệ tử của ta vì hộ trì người ác, hủy báng Tam bảo, thậm chí chẳng nên sinh ra ý niệm “tưởng về thịt, huống gì là ăn thịt.”

Lại nữa, này Đại Tuệ! Bồ-tát vì cầu cõi Phật thanh tịnh, giáo hóa chúng sinh thì chẳng nên ăn thịt mà nên quan sát các thứ thịt như thây chết của người, mắt chẳng muốn thấy, chẳng muốn nghe hơi, huống gì có thể ngửi mà đặt vào trong miệng. Tất cả các thứ thịt cũng lại như vậy.

Này Đại Tuệ! Như thiêu đốt thây chết mùi hôi thối bất tịnh cùng với thiêu đốt thịt khác, thối bẩn không khác thì làm sao trong đó có đồ ăn hay chẳng có đồ ăn? Vậy nên, này Đại Tuệ! Bồ-tát vì cầu cõi Phật thanh tịnh, giáo hóa chúng sinh thì chẳng nên ăn thịt.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Bồ-tát vì cầu lìa khỏi sinh tử nên phải chuyên tâm nhớ nghĩ hạnh Từ bi, ít muốn biết đủ, nhàm chán khổ thế gian, mau cầu giải thoát, phải bỏ nơi ồn ào, đến với nơi thanh vắng, ở trong rừng thây chết, chỗ thanh tịnh, vùng tha ma, ngồi một mình dưới gốc cây để tư duy, quan sát các thế gian, không có một thứ gì đáng vui: Vợ con quyến thuộc tưởng như cùm khóa, cung điện lầu đài quán tưởng như lao ngục, quan sát những trân bảo tưởng như đống phân, thấy đồ ăn thức uống tưởng như máu mủ, nhận đồ ăn thức uống như bôi thuốc trị ung nhọt, mục đích giữ được mạng sống buộc niệm vào Thánh đạo, chẳng vì tham vị. Rượu, thịt, hành, hẹ, tỏi, nén... mùi hôi đều bỏ chẳng ăn.

Này Đại Tuệ! Nếu người như vậy, chính là người tu hành chân chánh, đủ sức thọ sự cúng dường của tất cả trời người. Nếu ở thế gian chẳng sinh nhàm chán tham trước nhiều vị: rượu, thịt, cay, nồng... có được liền ăn ngay thì chẳng nên nhận của tín thí ở thế gian.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có các chúng sinh ở quá khứ từng tu vô lượng nhân duyên, có ít thiện căn, lại được nghe pháp của ta. Người tín tâm xuất gia ở trong pháp của ta mà đời quá khứ từng làm quyến thuộc của La-sát, sinh ra trong loài cọp, sói, sư tử, mèo, chồn thì tuy ở tại trong pháp ta nhưng tập quán ăn thịt còn nên thấy người ăn thịt thì vui mừng, gần gũi. Họ vào trong thành ấp xóm làng, tháp chùa mà uống rượu, ăn thịt, cho là vui vẻ. Nhưng người trong thiên hạ xem họ giống như quỷ La-sát dành ăn thây chết với nhau, không khác mà chẳng tự biết, rồi đánh mất chúng của ta, thành quyến thuộc của La-sát. Họ tuy mặc áo ca-sa, cạo bỏ râu tóc nhưng kẻ có mạng sống nhìn thấy họ thì lòng sinh kinh sợ như sợ La-sát. Vậy nên, này Đại Tuệ! Nếu người thờ ta làm thầy thì tất cả các thứ thịt đều chẳng nên ăn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Những thầy chú thuật tà kiến ở thế gian nếu họ ăn thịt thì chú thuật chẳng thành. Vì để thành tà thuật mà còn chẳng ăn thịt, huống là đệ tử của ta vì cầu đạo Thánh vô thượng của Như Lai, cầu giải thoát xuất thế? Tu đại Từ bi, tinh cần khổ hạnh còn sợ chẳng được huống là nơi nào sẽ có giải thoát như vậy, vì người ngu si đó ăn thịt mà được? Vậy nên, này Đại Tuệ! Những đệ tử của ta vì cầu niềm vui giải thoát xuất thế thì chẳng nên ăn thịt.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Ăn thịt có thể sinh ra sắc lực, người ăn vị này khiến có nhiều tham trước nên phải quan sát kỹ càng. Kẻ có thân mạng trong tất cả thế gian đều tự quý trọng, sợ nỗi khổ chết, tiếc giữ thân mạng, người và súc vật không khác biệt, thà phải ưa tấm thân ghẻ lở hoang dã tồn tại, chẳng thể bỏ mạng để đạt được những niềm vui cõi trời. Vì sao? Vì sợ khổ của cái chết.

Này Đại Tuệ! Do sự quan sát chết đó là khổ lớn, chính là pháp đáng sợ, tự thân sợ chết thì làm sao mà ăn thịt người khác được? Vậy nên, này Đại Tuệ! Muốn ăn thịt thì trước tự nghĩ đến thân, thứ đến là quan sát chúng sinh thì chẳng nên ăn thịt.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Phàm người ăn thịt thì chư Thiên xa lìa, huống gì là Thánh nhân. Vậy nên Bồ-tát vì thấy Thánh nhân phải tu từ bi, chẳng nên ăn thịt.

Này Đại Tuệ! Người ăn thịt ngủ nghỉ cũng khổ, khi thức dậy cũng khổ. Hoặc ở trong mộng, thấy đủ thứ ác, kinh sợ dựng tóc gáy, lòng luôn bất an, không có lòng từ nên thiếu thốn các năng lực thiện. Nếu người ấy, một mình ở chỗ thanh vắng thì bị nhiều phi nhân lén lút quấy phá cọp, sói, sư tử cũng đến rình mò muốn tìm cơ hội mà ăn thịt, lòng luôn luôn kinh sợ chẳng được yên ổn.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Những người ăn thịt khó thỏa mãn lòng tham, ăn chẳng biết lượng sức, chẳng thể tiêu hóa, bốn đại tăng thêm, hơi của miệng tanh tao bên trong lại có nhiều vô lượng trùng độc thân nhiều ghẻ lở, hắc lào, bệnh tật đủ thứ, chẳng sạch, phàm phu hiện tại chẳng ưa nghe thấy, huống là có thể được thân người thơm sạch không bệnh trong đời vị lai.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Ta nói, phàm phu vì cầu mạng sống thanh tịnh mà ăn thức ăn thanh tịnh còn nên sinh ra lòng tưởng như ăn thịt con, huống gì là cho phép ăn thức ăn chẳng phải của Thánh nhân. Thánh nhân giải thoát thì dùng thịt có thể sinh ra vô lượng lỗi, mất đi tất cả công đức xuất thế thì làm sao nói rằng, ta cho phép những đệ tử của ta ăn những thứ thịt, máu, vị bất tịnh... Người nào nói rằng, ta cho phép tức là bài báng ta.

Này Đại Tuệ! Ta cho phép đệ tử ăn thứ ăn mà các Thánh nhân ăn, chẳng phải là thức ăn Thánh nhân xa lìa. Thức ăn của Thánh có thể sinh ra vô lượng công đức, xa lìa các tội lỗi.

Này Đại Tuệ! Thức ăn của Thánh nhân quá khứ hiện tại như là gạo lúa nước, đại mạch, tiểu mạch, đậu, đủ thứ dầu, mật, cây mía, nước cốt cây mía, bột kiển-đà, can-đề... tùy lúc được thì cho phép ăn vì thanh tịnh.

Này Đại Tuệ! Ở đời vị lai, có người ngu si nói đủ các Tỳ-ni rằng, được ăn thịt. Do ở đời quá khứ người ấy huân tập ăn thịt, tham đắm vị thịt, tùy theo tâm mình thấy nên nói lời như vậy, chẳng phải Phật, thánh nói vì món ăn ngon.

Này Đại Tuệ! Người chẳng ăn thịt thì do đời quá khứ, cúng dường chư Phật, gieo trồng căn lành, có thể tin lời của Phật, giữ gìn giới luật chắc chắn, tin các nhân quả, đối với thân miệng có thể tự tiết chế, điều lượng, chẳng vì tham trước các vị của thế gian. Thấy người ăn thịt có thể sinh tâm Từ.

Này Đại Tuệ! Ta nhớ, thuở quá khứ, có vị vua tên là Sư Tử Nô ăn đủ thứ thịt, đam mê vị của thịt, lần lượt thậm chí ăn cả thịt người. Vì vua ấy ăn thịt người nên cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc đều xa lìa hết. Tất cả thần dân trong đất nước, xóm làng đều liền mưu phản, cùng muốn giết vua ấy. Do người ăn thịt có những lỗi lầm như vậy. Vậy nên, chẳng nên ăn tất cả loài thịt.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Vua trời Tự tại hóa thân làm chim câu. Thích Đề-hoàn Nhân là chúa của chư Thiên, do tập khí ăn thịt ở đời quá khứ nên hóa thân làm chim ưng đuổi bắt chim bồ câu này. Chim bồ câu bay đến đậu vào ta. Bấy giờ, ta làm vua Thi Tỳ, thương xót chúng sinh ăn nuốt nhau nên cân thịt của thân mình cho chim ưng thay cho thịt bồ câu, cắt thịt thân chẳng đủ đặt lên trên cân, phải chịu đau khổ vô cùng.

Này Đại Tuệ! Như vậy từ vô lượng đời đến nay huân tập ăn thịt, thân mình, thân người khác có lỗi như vậy, huống gì là người thường ăn thịt không hổ thẹn.

Này Đại Tuệ! Lại có vị vua khác chẳng ăn thịt thì cưỡi ngựa dạo chơi, vì ngựa nổi kinh sợ, dẫn vào núi sâu, thất lạc tùy tùng, chẳng biết đường về. Vì vua ấy chẳng ăn thịt nên sư tử, cọp, sói nhìn thấy không có tâm muốn hại, rồi cùng với sư tử cái cùng làm việc dâm dục, cho đến sinh ra con là Ban Túc Vương... Do đời quá khứ huân tập ăn thịt và làm vua cõi người cũng thường ăn thịt, ở tại thôn Thất gia, nhiều người ưa ăn thịt, ăn thịt thái quá liền ăn cả thịt người nên họ sinh ra những con trai, con gái hầu hết là La-sát.

Này Đại Tuệ! Chúng sinh ăn thịt nương vào quá khứ huân tập ăn thịt nên phần nhiều sinh vào trong những loài La-sát, sư tử, cọp, sói, báo, mèo, chồn, cú vọ, diều hâu, chim ưng... Những loài có thân mạng đều tự hộ thân, không ai có thể giết hại, chịu khổ đói khát thì thường sinh ra tâm ác, nghĩ đến việc ăn thịt kẻ khác, mạng chung lại rơi vào đường ác, thọ sinh thân người khó được, huống nữa sẽ đạt được đạo Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Ông nên biết, người ăn thịt có vô lượng những tội lỗi như vậy. Người chẳng ăn thịt tức là gom tụ công đức không lường.

Này Đại Tuệ! Các phàm phu chẳng biết tội lỗi của ăn thịt và công đức của chẳng ăn thịt như vậy. Ta nay lược nói về chẳng cho phép ăn thịt.

Này Đại Tuệ! Nếu tất cả mọi người chẳng ăn thịt thì cũng không có người giết hại chúng sinh. Do người ăn thịt nếu chẳng có để thì đi khắp nơi tìm mua, người vì tài lợi liền giết để buôn bán. Vì người mua nên giết, vậy nên người mua cùng người giết không khác. Vậy nên, ăn thịt có thể làm chướng ngại Thánh đạo.

Này Đại Tuệ! Người ăn thịt đam mê vị thịt, đến nỗi không có vật nuôi thì ăn cả thịt người, huống gì là hươu, nai, trĩ, thỏ, ngỗng, heo, dê, gà, chó, lạc đà, lừa, voi, ngựa, rồng, rắn, cá, ba ba... loài có sinh mạng sống dưới nước, trên đất đã bắt được mà chẳng ăn. Do tham đắm vị thịt nên tạo ra các phương tiện giết hại chúng sinh, tạo tác đủ thứ lưới giăng, cạm bẫy..., lưới bao núi, lưới giăng dưới đất, ngăn sông, chận biển... khắp nơi trên đất, trong nước đều vây lưới, đặt bẫy, đào hầm hố, đặt cung, dao, tên độc... xen lẫn không còn chỗ trống. Đủ thứ chúng sinh sống trong hư không, trên đất, dưới nước đều bị giết hại vì ăn thịt vậy.

Này Đại Tuệ! Thợ săn, kẻ giết mổ, người ăn thịt... tâm ác bền vững có thể làm điều bất nhẫn, thấy hình thể chúng sinh béo tốt, da thịt mơn mởn thì sinh tâm nghĩ đến món ăn, lại chỉ cho nhau rằng, cái này có thể ăn, lòng chẳng sinh một ý niệm bất nhẫn. Vậy nên ta nói, người ăn thịt đoạn mất hạt giống đại Từ.

Này Đại Tuệ! Ta quan sát thế gian, không có thứ thịt nào mà chẳng phải là sinh mạng. Tự mình chẳng giết, chẳng dạy người giết, thì người khác chẳng bị giết, chẳng từ sinh mạng mà có thịt này thì không có điều này. Nếu có thứ thịt chẳng từ sinh mạng mà ra này lại là món ăn ngon thì ta vì lý do gì chẳng cho phép người ăn? Tìm khắp thế gian, không có thứ thịt như vậy. Vậy nên ta nói, ăn thịt là tội, đoạn dứt hạt giống Như Lai nên chẳng cho phép ăn.

Này Đại Tuệ! Sau khi ta Niết-bàn, vào đời vị lai, lúc pháp sắp diệt, ở trong pháp của ta, có người xuất gia, cạo bỏ râu tóc, tự xưng: “Ta là Thích tử Sa-môn”, mặc áo ca-sa của ta mà ngu si như đứa trẻ, tự xưng là luật sư mà rơi vào nhị biên, đủ thứ hư vọng giác quán, loạn tâm, tham trước vị thịt, theo kiến chấp tự tâm nói. Trong Tỳ-ni nói rằng, được ăn thịt, cũng bài báng ta rằng, các Đức Phật Như Lai cho phép người ăn thịt, cũng nói rằng, do cấm chế mà được phép ăn thịt, cũng bài báng ta rằng, Như Lai Thế Tôn cũng tự ăn thịt.

Này Đại Tuệ! Ở trong tất cả kinh, như Tượng Dịch, Ương-quật-ma, Niết-bàn, Đại Vân... của ta chẳng cho phép ăn thịt, cũng chẳng nói, cho thịt vào thức ăn.

Này Đại Tuệ! Ta nếu cho phép các đệ tử Thanh văn lấy thịt làm thức ăn thì nhất định ta chẳng được miệng thường khen ngợi người tu từ bi thực hành hạnh như thật, cũng chẳng khen ngợi người tu hạnh đầu đà trong rừng Thi-đà, cũng chẳng khen ngợi người tu hành Đại thừa trụ ở Đại thừa, cũng chẳng khen ngợi người chẳng ăn thịt. Ta chẳng tự ăn, chẳng cho phép người khác ăn. Vậy nên ta khuyên người tu hạnh Bồ-tát, khen ngợi chẳng ăn thịt, khuyên nên xem chúng sinh như con một thì tại sao xướng lên rằng, ta cho phép ăn thịt. Ta vì đệ tử tu hạnh ba thừa mau đạt được quả nên ngăn chặn tất cả thịt, chẳng cho phép ăn thì tại sao nói rằng trong Tỳ-ni của ta cho phép người ăn thịt.

Lại nữa, nói rằng trong kinh khác của Như Lai nói, có ba thứ thịt cho phép người ăn thì nên biết người đó chẳng lý giải được Tỳ-ni mà cắt đứt thứ lớp nên xướng rằng, được ăn. Vì sao? Này Đại Tuệ! Vì thịt có hai thứ, một là người khác giết, hai là tự chết. Do người đời nói rằng, có thịt được ăn, có thịt chẳng được ăn. Voi, ngựa, rồng, rắn, người, quỷ, khỉ vượn, heo, chó và trâu thì nói chẳng được ăn, còn các loài khác thì được ăn. Người giết mổ chẳng hỏi được ăn hay chẳng được ăn mà cứ giết hết tất cả, bày bán khắp nơi. Chúng sinh không có lỗi mà bị giết hại ngang ngược. Vậy nên, ta cấm chế thịt người khác giết hay tự tử đều chẳng được ăn. Nghe thấy nghi ngờ thì gọi là người khác giết, chẳng nghe thấy nghi ngờ thì gọi là tự tử. Vậy nên, này Đại Tuệ! Trong Tỳ-ni của ta xướng lên lời như vầy: Phàm đối với tất cả Thích tử Sa-môn, thịt đều là thức ăn bất tịnh, làm ô uế mạng sống thanh tịnh, chướng ngại Thánh đạo phần, không có phương tiện mà có thể được ăn. Nếu có nói rằng, trong Tỳni của Phật nói có ba thứ thịt là chẳng cho phép ăn, chẳng phải là cho phép ăn. Ông nên biết là người trụ vững chắc ở Tỳ-ni là người chẳng bài báng ta.

Này Đại Tuệ! Nay trong kinh Lăng-già này, tất cả thời gian, tất cả các thứ thịt, cũng không phương tiện mà có thể được ăn. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ta ngăn ăn thịt chẳng phải vì một người mà hiện tại và vị lai, tất cả chẳng được ăn. Vậy nên, này Đại Tuệ! Nếu người ngu si kia tự nói là luật sư mà nói rằng, trong Tỳ-ni cho phép người ăn thịt, cũng bài báng ta rằng, Như Lai tự ăn thì người ngu si đó thành tội chướng lớn, mãi mãi rơi vào chỗ không lợi ích, chỗ không Thánh nhân, chỗ chẳng nghe pháp, cũng chẳng được gặp đệ tử của bậc Thánh hiền hiện tại, vị lai, huống là sẽ được gặp các Đức Phật Như Lai.

Này Đại Tuệ! Những hàng Thanh văn thường nên ăn gạo, lúa mì, dầu mất, đủ thứ mè, đậu có thể sinh ra mạng thanh tịnh. Nếu là chứa nuôi phi pháp, nhận lấy phi pháp thì ta nói bất tịnh, còn chẳng cho ăn, huống gì là cho phép ăn máu thịt bất tịnh.

Này Đại Tuệ! Các đệ tử Thanh văn, Bích-chiphật, Bồ-tát của ta ăn được pháp thực thì chẳng phải ăn uống thức ăn, huống gì là Như Lai.

Này Đại Tuệ! Pháp thực, pháp trụ của các Đức Phật Như Lai chẳng phải là thân ăn uống, chẳng phải thân trụ ở tất cả các thức ăn thức uống, lìa khỏi các của cải ưa thích... xa lìa tất cả tội lỗi của tập khí phiền não, khéo phân biệt tâm, trí tuệ của tâm, Nhất thiết trí, Nhất thiết kiến, thấy các chúng sinh thương xót bình đẳng. Vậy nên, này Đại Tuệ! Ta thấy tất cả các chúng sinh bình đẳng giống như con một thì làm sao mà cho phép dùng thịt làm thức ăn. Ta cũng chẳng tùy hỉ, huống gì là tự ăn.

Này Đại Tuệ! Như vậy, tất cả hành hẹ tỏi nén hôi nhơ bất tịnh có thể làm chướng ngại đạo Thánh, cũng làm chướng ngại chỗ thanh tịnh của người trời ở thế gian, huống gì là quả báo cõi thanh tịnh của chư Phật. Rượu cũng như vậy, có thể làm chướng ngại Thánh đạo, có thể làm tổn hại nghiệp thiện, có thể sinh ra những tội lỗi. Vậy nên, này Đại Tuệ! Người đến với Thánh đạo thì rượu, thịt, hành, hẹ, tỏi nén... những thứ có thể tạo vị nồng đều chẳng nên ăn.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại nói kệ:

Đại Tuệ Bồ-tát hỏi
Rượu, thịt, tỏi, nén, hành...
Phật rằng, là bất tịnh
Tất cả chẳng cho ăn.
Quỷ La-sát ăn nuốt
Chẳng phải của Thánh ăn
Người ăn, Thánh quở trách
Và tiếng ác lưu truyền
Nguyện Phật phân biệt nói
Tội phước ăn, chẳng ăn.
Này Đại Tuệ! Nghe kỹ.
Ta nói lỗi trong ăn
Rượu, thịt, hành, hẹ, tỏi
Là chướng đạo Thánh nhân
Ta xem trong ba cõi
Chúng đạt được đạo Thánh
Từ thế giới vô thủy
Đắp đổi đều thân thuộc
Làm sao ở trong ấy
Mà có ăn, chẳng ăn.
Quan sát chỗ thịt đến
Xuất xứ chẳng thanh tịnh
Sinh máu mủ trộn lẫn
Phân, giải mủ... hòa chung.
Người tu hạnh thanh tịnh
Phải quán, chẳng nên ăn
Đủ thứ thịt, hành hẹ...
Uống rượu cũng chẳng nên
Đủ loại tỏi và nén...
Người tu thường xa lìa
Xa lìa khỏi dầu mè
Giường thùng lỗ chẳng nằm
Các trùng nhỏ biết bay
Đoạn hai mạng người khác.
Ăn thịt tăng sức mạnh
Do lực sinh tà niệm
Tà niệm sinh tham dục
Nên chẳng cho ăn thịt
Do ăn thịt sinh tham
Lòng tham say mê hoặc
Mê say tăng ái dục
Chẳng giải thoát tử, sinh
Vì lợi giết chúng sinh
Vì thịt tìm của tiền
Nghiệp ác hai người đó
Chết đọa ngục kêu la
Ba thứ gọi tịnh nhục
Chẳng nghi, chẳng thấy nghe
Đời không thịt như vậy
Ăn thịt rơi vào trong
Nạn nhơ uế đáng chán
Thường sinh trong điên cuồng
Sinh vào nhà đồ tể
Chiên-đà-la, thợ săn
Hoặc sinh nữ La-sát
Và những chỗ ăn thịt.
La-sát và mèo, chồn...
Sinh trong loài ăn thịt
Kinh Tượng Dịch, Đại Vân
Kinh Niết-bàn, Thắng Man
Và kinh Nhập Lăng-già
Ta chẳng cho ăn thịt.
Phật, Bồ-tát, Thanh văn
Các vị cũng quở trách
Ăn thịt không hổ thẹn
Đời đời điên cuồng mãi.
Trước nói, nghi, thấy, nghe
Đã đoạn tất cả thịt
Vọng tưởng chẳng hiểu biết
Nên tưởng ăn thịt sinh.
Như lỗi tham dục đó
Chướng ngại Thánh giải thoát
Rượu, thịt, hành, tỏi, nén...
Thánh đạo đều bị ngăn
Chúng sinh đời vị lai
Với thịt, ngu nói rằng:
Thịt thanh tịnh không tội
Phật cho chúng ta ăn
Ăn thanh tịnh như thuốc
Giống như ăn thịt con
Tri túc sinh nhàm chán
Tu hành đi khất thực
Người Từ tâm an trụ
Ta nói, luôn lìa chán
Sư tử, sài lang, cọp
Thường hay đi, ở chung.
Ăn thịt người thấy sợ
Làm sao có thể ăn?
Vậy nên người tu hành
Tâm từ chẳng ăn thịt.
Ăn thịt đoạn tâm Từ
Lìa Niết-bàn giải thoát
Trái lời dạy Thánh nhân
Nên chẳng cho ăn thịt
Không ăn sinh Phạm chủng
Và những người tu đạo.
Trí tuệ và giàu sang
Ấy do chẳng ăn thịt.

Phẩm 17: ĐÀ-LA-NI

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Thánh giả Đại Bồtát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Ông nên lắng nghe, thọ trì chú kinh Lăng-già của ta. Thần chú này, các Đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đã nói, nay nói và sẽ nói.

Này Đại Tuệ! Ta nay cũng nói. Ta vì các pháp sư thọ trì, đọc tụng Kinh Lăng-già mà nói chú:

Đâu đế đâu đế, chúc đế chúc đế, tô pha đế tô pha đế, ca đế ca đế, a ma lị, a ma đế, tỳ ma lê tỳ ma lê, ni di ni di, hề di hề di, bà mê bà mê, ca lê ca lê, ca la ca lê, a tề ma tề, già tề đâu tề, nhượng tề, tô phất tề, cát đệ cát đệ, ba đệ ba đệ, hề mễ hề mễ địa mễ địa mễ, la chế la chế, ba chế ba chế, bàn đệ bàn đệ, a chế di chế, trúc trà lê đâu trà đệ, ba la đệ, át kế át kế, chước kế chước kế lê lợi, nhỉ dương mễ, hề mễ hề mễ, trú trú trú trú, trừu súc trừu súc, trừu trừu trừu trừu, trừ trừ trừ trừ, tô bà ha.

Này Đại Tuệ! Đó gọi là câu văn chú trong kinh Đại Lăng-già. Thiện nam, thiện nữ, Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di... có thể thọ trì đọc tụng câu văn này và vì người diễn nói thì không có người nào có thể tìm ra tội lỗi của những người ấy. Hoặc Trời, thiên nữ, hoặc rồng, rồng nữ, hoặc Dạxoa, Dạ-xoa nữ, A-tu-la, A-tu-la nữ, Ca-lâu-la, Calâu-la nữ, Khẩn-na-la, Khẩn-na-la nữ, Ma-hầu-lagià, Ma-hầu-la-già nữ, Phù-đa, Phù-đa nữ, Cưubàn-trà, Cưu-bàn-trà nữ, Tỳ-xá-xà, Tỳ-xá-xà nữ, Ô-đa-la, Ô-đa-la nữ, A-ba-la, A-ba-la nữ, La-sát, La-sát nữ, Trà-già, Trà-già nữ, Ô-châu-hà-la, Ôchâu-hà-la nữ, Già-tra-phước-đa-la, Già-traphước-đa-la nữ, hoặc người, phi nhân, hoặc người nữ, chẳng phải người nữ... chẳng thể tìm thấy tội lỗi của những người ấy. Nếu có quỷ thần ác làm tổn hại người mà muốn mau chóng khiến cho những ác quỷ đó đi thì tụng một trăm biến chú Đàla-ni này. Những quỷ ác đó kinh sợ gào khóc vội vàng bỏ đi.

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Ta vì hộ trì Pháp sư ủng hộ pháp này lại nói Đà-la-ni!

Đức Phật nói chú:

–Ba đâu di, ba đầu di đề tỳ, hề ni hề ni hề nỉ chư lê, chư la, chư lệ, hầu la, hầu lệ, do lê, do la, do lệ, ba lệ, ba la, ba lệ, văn chế, ân điệt tần điệt bàn thể mạt điệt trì na, ca lê tô ba ha.

Này Đại Tuệ! Câu văn chú Đà-la-ni này, nếu thiện nam, thiện nữ thọ trì đọc tụng, vì người diễn nói thì không người nào có thể gây tạo tội lỗi cho họ. Hoặc trời hoặc thiên nữ hoặc rồng hoặc rồng nữ, Dạ-xoa, Dạ-xoa nữ, A-tu-la, A-tu-la nữ, Calâu-la, Ca-lâu-la nữ, Khẩn-na-la, Khẩn-na-la nữ, Ma-hầu-la-già, Ma-hầu-la-già nữ, Càn-thát-bà, Càn-thát-bà nữ, Phù-đa, Phù-đa nữ, Cưu-bàn-trà, Cưu-bàn-trà nữ, Tỳ-xá-xà, Tỳ-xá-xà nữ, Ô-đa-la, Ô-đa-la nữ, A-bạt-ma-la, A-bạt-ma-la nữ, La-xoa, La-xoa nữ, Ô-thát-a-la, Ô-thát-a-la nữ, Già-traphước-đơn-na, Già-tra-phước-đơn-na nữ, hoặc người, hoặc phi nhân, hoặc người nữ phi nhân nữ... tất cả những người đó chẳng thể tìm được tội lỗi của họ.

Này Đại Tuệ! Nếu có người có thể thọ trì đọc tụng câu văn chú này thì người đó được gọi là tụng tất cả kinh Lăng-già. Vậy nên, ta nói câu chú Đàla-ni này, vì ngăn chận tất cả các La-sát, hộ trì tất cả thiện nam, thiện nữ giữ gìn kinh này.

QUYỂN 9

Phẩm 18: TỔNG TRÌ (Phần 1)

Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng kệ muốn nói lại nghĩa lý sâu xa của khế kinh:

Như cầm thú mê hoặc
Vào mùa hè thấy sóng
Các cầm thú ưa nước
Sóng nước không thật có
Cũng vậy, chủng tử thức
Thấy các cảnh giới động
Các chúng sinh ngu si
Như mắt nhặm thấy vật
Suy đi rồi nghĩ lại
Xa lìa sự tư duy
Thấy thật đế phân biệt
Hiểu rõ, đắc giải thoát
Các pháp chẳng kiên cố
Hư vọng phân biệt sinh
Hư vọng phân biệt không
Nương kia không phân biệt
Năm ấm, thức, các pháp
Như bóng cây trong nước
Như huyễn, mộng vân vân
Trong thức chớ phân biệt
Huyễn khởi cơ quan ảo.
Mộng, điện chớp, mây bay
Dứt ba pháp tương tục
Chúng sinh đắc giải thoát
Nương các pháp tà niệm
Do đó có thức sinh
Tám, chín, vô số thức
Cũng như sóng trong nước
Nương pháp huân chủng tử
Kiên cố thường buộc thân
Tâm lưu chuyển cảnh giới
Như nam châm hít sắt
Nương tựa các chúng sinh
Thật tánh lìa hiểu biết
Xa lìa các việc làm
Lìa pháp hiểu và biết.
Hành Tam-muội như huyễn
Xuất các hạnh Thập địa
Ông quán tâm và pháp
Lìa tâm, cảnh, thức, tướng
Thời biết tâm thường chuyển
Tức thường trụ bất biến
Ở cung điện Liên hoa
Tướng cảnh giới như huyễn
Trụ Thắng xứ kia rồi
Đắc các hành tự tại
Như Ma-ni hiện sắc
Làm việc độ chúng sinh
Không hữu vi, vô vi
Trừ các tâm phân biệt
Người ngu do cố chấp
Như Thạch nữ mong con.
Tịch tĩnh và vô sinh
Năm ấm, nhập tương tục
Nhân duyên các cảnh giới
Không, có và chẳng có
Ta nói các phương tiện
Thật tướng không như vậy
Người ngu chấp thật có
Không có tướng năng, sở
Ta hiểu hết các pháp
Mà không hề hiểu hết.
Ta quán tất cả pháp
Mà không quán tất cả
Ta có Nhất thiết trí
Mà không Nhất thiết trí
Người ngu do phân biệt
Tự nói là Thế trí.
Ta chưa từng giác ngộ.
Chưa giác ngộ chúng sinh
Các pháp chỉ nhất tâm
Các ấm như hoa đốm
Các tướng rốt cục không
Nơi nào có phân biệt
Vật mới sinh vốn không.
Trong các duyên cũng không
Hoa đốm, con tượng đá
Nếu biết được hữu vi
Bấy giờ kiến, sở kiến
Thấy pháp mê tức trụ
Ta không vào Niết-bàn
Không diệt các nghiệp tướng
Diệt các thức phân biệt
Đó ta vào Niết-bàn
Chẳng diệt các pháp tướng
Người ngu vọng phân biệt
Như nước bỗng cạn kiệt
Bấy giờ sóng không sinh
Như các thức diệt mất
Diệt mất không sinh lại
Không và không thức tướng
Như huyễn vốn không sinh
Có, không, lìa có, không
Các pháp này như mộng
Ta nói một thật pháp
Lìa xa các Giác quán
Vi diệu cõi Thánh nhân
Lìa hai pháp thể, tướng.
Như thấy lửa đom đóm
Tướng lửa ấy không thật
Thế gian thấy bốn đại
Tướng ấy cũng như vậy
Như nương cỏ, cây, đá
Hiện bày các tướng huyễn
Huyễn kia không thật tướng
Thể các pháp cũng vậy.
Chấp giữ, không chấp giữ
Không buộc, không giải thoát
Như huyễn, như sóng nắng
Như mộng, mắt nhặm thấy
Nếu thật thấy như vậy
Lìa các sự phân biệt
Tức trụ định như thật
Ngã, kiến kia không si
Trong ấy không tâm thức
Như sóng nắng, hư không
Như vậy biết các pháp
Mà không biết một pháp
Lìa các duyên có, không
Nên các pháp không sinh
Ba cõi, tâm mê hoặc
Cho nên hiện các loại
Mộng và pháp thế gian
Hai pháp này bình đẳng
Sở và tư kiến sinh
Các xúc cùng với lượng
Thân thế gian vô thường
Tất cả sắc cũng vậy
Bậc Thánh trong cõi đời
Nói mọi việc như thế
Chúng sinh trong ba cõi
Tâm mê thấy hai thời
Trí thế gian phân biệt
Thật pháp không như vậy
Thấy thế gian như thế
Hay xa lìa sinh tử
Sinh cùng với không sinh
Người ngu mê hoặc thấy
Không sinh và không diệt
Người tu trí tuệ thấy
Cảnh giới sắc cứu cánh
Xa lìa các ác hạnh
Thường hành không phân biệt
Lìa pháp tâm, tâm sở
Đắc lực, thông, tự tại
Đến chỗ các Tam-muội
Nơi đây thành Chánh giác
Trong ấy thành hóa Phật
Các pháp không sinh diệt
Các pháp thể như vậy
Ứng, hóa vô lượng ức
Thể kia trong xuất thế.
Người ngu nghe Phật pháp
Như tiếng vang không nghĩ
Xa lìa đầu, giữa, sau
Lìa pháp có và không
Biến bất động, thanh tịnh
Không các tướng, hiện tướng
Thức, tánh che Pháp thân
Tất cả thân trong hữu
Mê hoặc là huyễn có
Huyễn chẳng do mê hoặc
Tâm không mê hoặc pháp
Cũng chẳng phải có, không
Tâm nương hai pháp buộc
Thức A-lại-da sinh
Nhưng tâm thấy như vậy
Ngã, pháp như nước chảy
Quán thế gian như thế
Bấy giờ chuyển các tâm
Mới là ngã chân thật
Thành tựu thật pháp hành
Nóng, ấm và kiên, động
Người ngu phân biệt pháp
Chẳng thật, chuyên nghĩ có
Không năng tướng, sở tướng
Tám thức và một thân
Hình tướng và các căn
Người ngu phân biệt sắc
Lưới mê hoặc giăng thân
Các nhân duyên hòa hợp
Người ngu do phân biệt
Không biết pháp như vậy
Luân chuyển trong ba cõi
Các pháp và ngôn ngữ
Là chúng sinh phân biệt
Mà các pháp là không
Như huyễn, mộng vân vân
Quán các pháp như vậy
Không trụ thế, Niết-bàn
Vô số chủng tử tâm
Hiện thấy cảnh giới tâm
Sở kiến phân biệt sinh
Người ngu ưa hai pháp
Vô minh, ái và hành
Là nhân tâm, tâm pháp
Nương tha lực pháp sinh
Nên nói pháp tha lực
Nương pháp rồi phân biệt
Tâm mê hoặc cảnh giới
Nên không thành phân biệt
Mê hoặc phân biệt sai
Tâm vì duyên trói buộc
Cho nên sinh các thân
Nếu lìa các nhân duyên
Ta nói không thấy pháp
Lìa các pháp nhân duyên
Lìa nơi các pháp tướng
Không trụ trong các pháp
Ta nói không thấy cảnh
Như vua, trưởng giả thảy
Dùng các loại cầm thú
Hội tụ trong đồng trống
Để chỉ dạy các con
Ta nói các pháp tướng
Như gương soi hình ảnh
Nội thân trí vì con
Nói về pháp Thật tế
Như biển cả nổi sóng
Do từ gió sinh ra
Hiện tại hay biến đổi
Mà không có đoạn tuyệt
Thức A-lại-da thường
Nương gió cảnh giới sinh
Vô số sóng nước thức
Biến chuyển sinh không dứt
Tướng năng thủ, sở thủ
Chúng sinh thấy như vậy
Không các tướng sở kiến
Không đạo thấy như vậy
Bản thức A-lại-da
Ý cùng với ý thức
Lìa năng thủ, sở thủ
Ta nói tướng như vậy
Năm ấm vốn vô ngã
Và không nhân, chúng sinh
Sinh tức các thức sinh
Diệt tức các thức diệt
Như trong tranh cao, thấp
Sở kiến không như vậy
Như thấy các vật thể
Tướng thấy không như vậy
Như thành Càn-thát-bà
Cầm thú khát thích nước
Như vậy kiến, sở kiến
Trí quán không như vậy
Lìa sở lượng và tưởng
Không nhân, chẳng phải quả
Lìa năng giác, sở giác
Lìa năng kiến, sở kiến
Nương ấm, nhân duyên hiểu
Không nhân kiến, sở kiến
Nếu không kiến, sở kiến
Tại sao tu pháp ấy?
Nhân duyên, nhân, thí dụ
Lập ý và nhân duyên
Mộng thành Càn-thát-bà
Sóng nắng và trời, trăng
Dụ ánh sáng đều huyễn
Ta ngăn các pháp sinh
Như mộng huyễn, mê hoặc
Không phân biệt chúng sinh
Không nương vào ba cõi
Trong, ngoài cũng đều không
Thấy các cảnh không sinh
Mới đắc Vô sinh nhẫn
Đắc Tam-muội như huyễn
Cùng với thân Như ý
Thần thông và Tự tại
Cả thảy tâm, pháp lực…
Các pháp vốn không sinh
Không, không pháp, thể, tướng
Người kia mê không biết
Tùy nhân duyên sinh diệt
Như người ngu phân biệt
Tâm thấy nơi tự tâm
Thấy các tướng bên ngoài
Thật không thể thấy pháp
Thấy tướng xương, tượng Phật
Và các đại lìa tan
Tâm giác ngộ hay biết
Ở trong tướng thế gian
Do duyên thân hiện hữu
Chấp giữ ba loại cảnh
Cảnh giới thức thủ thức
Ý, thức, phân biệt ba
Phân biệt, sở phân biệt
Nên có từ cảnh giới
Không thể thấy thật pháp
Mê lầm kia không thấy
Các pháp không tự thể
Người trí khéo nhận biết.
Các hành mới chấm dứt
Trụ ở chỗ vô tướng
Như dùng mực vẽ gà
Ngu chấp gà của ta
Phàm phu ngu si chấp
Ba thừa đồng là một
Không có các Thanh văn
Cũng không Bích-chi-phật
Đã thấy sắc Thanh văn
Và thấy chư Như Lai
Các Bồ-tát đại Bi
Thị hiện hóa thân ấy
Ba cõi chỉ là tâm
Lìa hai loại thể, tướng
Chuyển biến các tướng kia
Đó tức là Chân như
Hành tướng pháp và nhân
Ánh sáng mặt trời, trăng
Các Ma-ni, châu báu
Không phân biệt các việc
Phật pháp cũng như vậy
Như bệnh thấy hoa đốm
Do đó sinh phân biệt
Ngu si hư vọng chấp
Lìa nơi sinh, trụ, diệt
Lìa thường và vô thường
Bỏ sở kiến, nhiễm, tịnh
Như hoa đốm trong không
Như người lấy cỏ thuốc
Thấy cây cỏ trên đất
Tất cả như sắc vàng
Người ấy không có vàng
Như vậy người ngu si
Vô thủy tâm nhiễm pháp
Sóng nắng, huyễn, tưởng có
Người ngu chấp là thật
Một loại và không loại
Biển cả, một chủng tử
Cũng vô lượng chủng tử
Ngươi quán chủng tử tâm
Một chủng tử thanh tịnh
Chuyển sang không chủng tử
Bình đẳng không phân biệt
Khởi tức là sinh tử
Hay sinh các chủng tử
Cho nên nói chủng tử
Nhân duyên không sinh pháp
Nhân duyên không diệt pháp
Sinh pháp chỉ nhân duyên
Tâm phân biệt như vậy
Ba cõi chỉ giả danh
Thật không, sự, pháp, thể
Người hiểu nhầm phân biệt
Chấp giả danh là thật
Quán thật thể các pháp
Ta không ngăn mê hoặc
Thật thể không sinh pháp
Quán vậy đắc giải thoát
Ta không thấy huyễn, không
Nói các pháp là có
Chuyển biến nhanh như chớp
Cho nên nói như huyễn
Chẳng bản sinh, thủy sinh
Các nhân duyên không thể
Không có xứ và thể
Chỉ có nơi ngôn ngữ
Không ngăn duyên sinh, diệt
Không chận duyên hòa hợp
Ngăn các ngu si thấy.
Phân biệt nhân duyên sinh
Thật không thức, thể, pháp
Không sự và bản thức
Người ngu sinh phân biệt
Như thây chết nhận biết
Ba cõi chỉ là tâm
Các Phật tử thường thấy
Tức đắc các loại thân
Lìa các pháp hữu vi
Đắc thần thông tự tại
Và cùng pháp tương ưng
Hiện bày tất cả sắc
Tâm pháp sinh như vậy
Mà không tâm và sắc
Vô thủy tâm mê hoặc
Bấy giờ người tu hành
Được thấy nơi vô tướng
Trong trí tuệ quán sát
Không thấy các chúng sinh
Giả gọi tướng và sự
Ý chấp các pháp động
Các con ta mê lầm
Không phân biệt tu hành
Thành Càn-thát-bà, huyễn
Hoa đốm và sóng nắng
Không thật mà thấy thật
Thể các pháp như vậy
Như tâm thấy các pháp
Thể, tướng không như vậy
Tất cả pháp không sinh
Chỉ thấy pháp mê hoặc
Không đường mê phân biệt
Để trụ nơi hai pháp
Lúc đầu thức phân biệt
Các thứ chủng tử xấu
Thức như nước tuôn chảy
Đoạn nó tức không sinh
Tất cả pháp quán, niệm
Hoặc chỉ trong tâm sinh
Như hư không trong tường
Tại sao mà không sinh
Nếu có chút quán Tướng
Tâm tức từ duyên sinh
Nếu theo nhân duyên sinh
Không được nói duy tâm
Tâm chấp lấy tự tâm
Không pháp cũng không duyên
Thể tâm, pháp thanh tịnh
Trong hư không chẳng có
Hư vọng chấp tâm mình
Cho nên tâm hiện sinh
Ngoài pháp không thể thấy
Cho nên nói duy tâm
Bản thức chỉ là tâm
Ý hay niệm cảnh giới
Hay giết các cảnh giới
Nên ta nói duy tâm
Tâm pháp thường Vô ký
Ý chấp tướng có, không
Chấp hiện pháp là thức
Đó là thiện, bất thiện
Lìa hai loại thức, tướng
Là đệ “Nhất nghĩa đế”
Nói ba thừa sai khác
Tịch tĩnh không phải tướng
Nếu tâm trụ tịch tĩnh
Liền đến nơi Phật địa
Đây, quá khứ Phật nói
Hiện, vị lai cũng vậy
Một đến bảy Tâm địa
Tịch tĩnh Địa thứ tám
Địa thứ hai: Hành xứ
Địa kia là: Ngã Pháp
Nội thân mình thanh tịnh
Là ở Địa tự tại
Chỗ cứu cánh Tự tại
Hiện cõi Sắc cứu cánh
Ví như ngọn lửa cháy
Thì phát ra ánh sáng
Các loại tâm đáng ưa
Hóa tạo nơi ba cõi
Hoặc có sinh, có hóa
Mà hóa tạo ba cõi
Nơi kia nói các pháp
Là ở Địa tự tại
Các Địa không thời tiết
Cõi nước chuyển cũng vậy
Vượt các pháp: Tâm, địa
Là trụ quả Tịch tĩnh
Thật không mà gọi có
Nên thấy đủ các loại
Người ngu điên đảo chấp
Các thứ điên đảo này
Như trí vô phân biệt
Có việc bất tương ưng
Tâm không trụ các sắc
Cho nên không phân biệt
Các Thiền và vô lượng
Cùng Tam-muội Vô sắc
Diệt hết thảy các tướng
Cho nên trong tâm không
Pháp quả Tu-đà-hoàn
Tư-đà, A-na-hàm
Và quả A-la-hán
Tất cả tâm mê hoặc
Sát-na, không, vô thường
Ngu phân biệt hữu vi
Thí dụ sông chủng tử
Phân biệt nghĩa sát-na
Sát-na không phân biệt
Lìa các pháp tạo tác
Tất cả pháp không sinh
Ta nói nghĩa sát-na
Nói có, không và sinh
Pháp tăng thảy vọng nói
Tất cả pháp vô ký
Cũng là người kia nói
Có bốn cách thuyết pháp
Đáp bằng cách hỏi lại
Đáp phân biệt sai biệt
Im lặng ngăn ngoại đạo
Thế đế tất cả có
Không có Đệ nhất nghĩa
Mà thật tướng, vô tướng
Là Đệ nhất nghĩa đế
Thấy nơi pháp hư vọng
Cho nên nói Thế đế
Do nơi ngôn ngữ sinh
Thật thể không như vậy
Không sự, có ngôn ngữ
Trong Thế đế thật không
Tức là sự điên đảo
Sở kiến cũng là không
Nếu có sự điên đảo
Tịch tĩnh rốt cục không
Nương nơi sự điên đảo
Cùng thấy các pháp sinh
Cuối cùng định là không
Tức là không thể, tướng
Đủ các loại sở kiến
Huân tập phiền não sinh
Tâm mê thấy bên ngoài
Liền chấp cảnh trước mắt
Phân biệt, không phân biệt
Thật tướng pháp Không này
Các tướng như bóng huyễn
Như cây lá bằng vàng
Người thấy, người được thấy
Tâm vô minh huân tập
Thánh nhân không thấy mê
Cũng không hề thấy thật
Mê hoặc tức là thật
Thấy thật tức trung đạo
Xa lìa các mê hoặc.
Nếu hay sinh các tưởng
Đó tức là mê hoặc
Như mù lòa không sáng
Mắt nhặm thấy hoa đốm
Nương mê, chấp các pháp
Ở trong các cảnh giới
Ngu si chấp pháp này
Các pháp như hoa đốm
Sóng nắng, nước, mê hoặc
Ba cõi như mộng huyễn
Tu hành đắc giải thoát.
Phân biệt, bị phân biệt
Hay sinh với phân biệt
Buộc, trói buộc và nhân
Sáu loại nhân giải thoát
Không có Địa, các Đế
Không cõi nước, hóa thân
Thanh văn, Bích-chi-phật
Chỉ là tâm phân biệt
Thân thể và năm ấm
Các duyên và bụi trần
Người thù thắng tự tại
Chỉ là tâm phân biệt
Tâm biến khắp mọi nơi
Cùng khắp đều là tâm
Do tâm không biết xét
Tâm tánh không các tướng
Trong năm ấm không ngã
Trong ngã không năm ấm
Phân biệt không phải pháp
Mà pháp kia chẳng không
Như ngu si phân biệt
Có tất cả các pháp
Như vậy thấy thật có
Tất cả đều thấy thật
Tất cả pháp nếu không
Không nhiễm cũng không tịnh
Ngu si thấy như thế
Pháp kia không như vậy
Ngu si phân biệt tướng
Là tha lực phân biệt
Tướng kia đã có danh
Danh này phân biệt tướng
Danh, tướng là phân biệt
Nhân duyên, Sự hòa hợp
Nếu không sinh tâm kia
Là tướng Đệ nhất nghĩa
Thật thể Báo thân Phật
Và Hóa thân của Phật
Chúng sinh và Bồ-tát
Khắp mười phương cõi nước
Tập khí, Pháp hóa Phật
Cùng với tạo Hóa Phật
Tất cả đều xuất hiện
Từ cõi Phật Di-đà
Ứng, Hóa để thuyết pháp
Báo thân Phật thuyết pháp
Giảng rộng về Khế kinh
Ngươi nên biết mật ý
Nếu có Phật tử nói
Giống như chư Như Lai
Đều là Hóa Phật nói
Chẳng phải người thuần thục
Các pháp này không sinh
Mà pháp ấy chẳng không
Thành huyễn Càn-thát-bà
Giống như mộng, ảo hóa
Các thứ tùy tâm chuyển
Chỉ Tâm chẳng pháp khác
Tâm sinh các pháp sinh
Tâm diệt các pháp diệt
Chúng sinh vọng phân biệt
Không vật mà thấy vật
Vô nghĩa chỉ là không
Không phân biệt, giải thoát
Xa xưa thường hý luận
Nương dựa nơi phiền não
Các phân biệt huân tập
Cho nên tà kiến sinh
Thức không phân biệt nghĩa
Là cảnh trí Chân như
Chuyển kia là Tịch tĩnh
Là cảnh giới các Thánh
Quán sát nghĩa tư duy
Tư duy các phàm phu
Tư duy niệm Chân như
Tư duy chư Phật tịnh
Phân biệt thể các pháp
Tất cả pháp không sinh
Nương nhân duyên tha lực
Chúng sinh mê phân biệt
Tha lực nếu thanh tịnh
Lìa phân biệt tương ưng
Chuyển kia tức Chân như
Lìa phân biệt hành ấy
Chớ phân biệt, phân biệt
Phân biệt là không thật
Pháp phân biệt mê vọng
Chấp, sở chấp không dứt
Thấy ngoại cảnh, phân biệt
Phân biệt thực thể ấy
Tâm phân biệt, phân biệt
Pháp kia do duyên sinh
Tà kiến thấy ngoài nghĩa
Không nghĩa chính là tâm
Quán suy xét tương ưng
Hay diệt chấp, sở chấp
Không có các ngoại cảnh
Ngu si vọng phân biệt
Tâm huân tập tăng trưởng
Tợ như sinh các pháp
Diệt hai loại phân biệt
Cảnh giới trí chân như
Sinh nơi vô pháp tướng
Cảnh Thánh không tư nghì
Danh, tướng và phân biệt
Thật thể hai loại tướng
Chánh trí và Chân như
Thành tựu thật thể này
Nương cha, mẹ hòa hợp
Cùng thức A-lại-da
Như bình, sữa, chuột thảy
Cùng tháng ngày tăng trưởng
Như thây chết sình thối
Bất tịnh chảy tràn ra
Bốn Đại nghiệp Phong tăng
Như các quả chín muồi
Năm và năm lăm thứ
Và chín lỗ bài tiết
Các móng, lông che đậy
Như vậy tăng trưởng sinh
Như trùng sinh trong phẩn
Như người thức trong mộng
Mắt thấy sắc khởi niệm
Phân biệt tăng trưởng sinh
Phân biệt và chuyên nghĩ
Đoạn răng, môi hòa hợp
Miệng mới nói ngôn ngữ
Như oanh vũ cất tiếng
Các ngoại đạo nói định
Đại thừa không quyết định
Nương định tâm chúng sinh
Tà kiến không thể gần
Nội chứng trí, thừa ta
Mê hiểu không cảnh giới
Sau khi Phật diệt độ
Ai trì là nói pháp
Như Lai diệt độ rồi
Vị lai sẽ có người
Này Đại Tuệ! Ông lắng nghe
Có người đem pháp ta
Về nước lớn phương Nam
Có Đại đức Tỳ-kheo
Tên Bồ-tát Long Thọ
Phá chấp có, chấp không
Vì người nói pháp ta
Pháp Đại thừa Vô thượng
Chứng đắc địa Hoan hỷ
Sinh về nước An lạc
Trí tuệ quán sát pháp
Không thấy thật thể pháp
Cho nên chẳng thể nói
Và cũng nói không thể
Nếu nhân duyên sinh pháp
Không được nói có, không
Trong nhân duyên có vật
Ngu phân biệt có, không
Tà kiến hai tà pháp
Tà biết lìa pháp ta
Danh tự tất cả pháp
Vô lượng kiếp thường học
Đã học lại càng học
Mê cùng nhau phân biệt
Nếu không nói các danh
Thế gian nhiều mê hoặc
Cho nên nói danh tự
Vì trừ nghiệp mê hoặc
Nương ba loại phân biệt
Ngu si phân biệt pháp
Nương danh, mê phân biệt
Cùng nhân duyên thường sinh
Tự tánh như hư không
Pháp không thể là thể
Tướng phân biệt tức thể
Ảnh tượng và huyễn, mộng
Sóng nắng và âm vang
Vòng sáng Càn-thát-bà
Các pháp như vậy sinh
Chân như, không không hai
Thật tế và pháp, thể
Ta nói không phân biệt
Thành tựu pháp tướng kia
Khẩu, tâm, cảnh hư vọng
Thật mới lập hư vọng
Tâm rơi vào Nhị biên
Cho nên lập phân biệt
Rơi vào nơi có, không
Ở nơi cảnh giới tâm
Xa lìa các cảnh giới
Bấy giờ chính tâm diệt
Xa lìa cảnh giới Chấp
Diệt kia chẳng có, không
Như cảnh giới Thánh nhân
Người ngu không thể biết
Có diệt, trụ, Chân như
Người trí tuệ hay biết
Như các pháp trụ kia
Người trí hay biết được
Thể, pháp không như vậy
Do các pháp không tướng
Người ngu si thấy sắt
Phân biệt đó là vàng
Chẳng phải vàng, thấy vàng
Như ngoại đạo chấp pháp
Không nói ban đầu sinh
Ban đầu sinh sau diệt
Từ nhân duyên có, không
Thuyết này ta chẳng dạy
Pháp không đầu không cuối
Không như tướng trụ này
Như tướng trụ thế gian
Người tà kiến không biết
Pháp quá khứ là có
Pháp vị lai chẳng không
Pháp hiện tại cũng vậy
Không nên nói pháp sinh
Thời chuyển và tướng hành
Các đại và các căn
Hư vọng chấp trung ấm
Nếu chấp không giác ngộ
Tất cả Phật Thế Tôn
Không nói nhân duyên sinh
Nhân duyên tức thế gian
Như thành Càn-thát-bà
Chỉ pháp duyên hòa hợp
Nương pháp này, sinh pháp.
Lìa các pháp hòa hợp
Không diệt cũng không sinh
Trong gương và trong nước
Mắt và báu Ma-ni
Nhìn thấy hình trong gương
Các hình tượng là không
Như thú ái sóng nước
Thấy đủ loại các sắc
Tất cả tợ như có
Như mộng, con Thạch nữ
Thừa ta chẳng Đại thừa
Không tiếng cũng không tên
Không Đế, không giải thoát
Không cảnh giới Tịch tĩnh
Nhưng pháp Đại thừa ta
Các Tam-muội tự tại
Được các thân như ý
Hoa tự tại trang nghiêm
Một thể và khác thể
Trong nhân duyên không pháp
Lược nói các pháp sinh
Rộng nói các pháp diệt
Không sinh, không là một
Mà sinh, không là hai
Không sinh, không tối thắng
Sinh, diệt tức là không
Chân như, không, thực tế
Niết-bàn cùng pháp giới
Thân và ý vân vân
Ta nói nhiều pháp khác
Kinh luận và giới luật
Phân biệt ngã thanh tịnh
Nương danh không nương nghĩa
Kia không biết vô ngã
Không ngoại đạo, không Phật
Vô ngã cũng như vậy
Theo duyên nên có pháp
Tại sao không các pháp?
Người nào thành tựu pháp
Từ nhân duyên nói không
Thuyết pháp sinh tà kiến
Vọng phân biệt có, không
Nếu người thấy không sinh
Cũng thấy pháp không diệt
Người ấy lìa có, không
Thấy thế gian tịch diệt
Chúng sinh phân biệt kiến
Sở kiến như sừng thỏ
Phân biệt là mê hoặc
Như thú ưa sóng nước
Hư vọng phân biệt pháp
Nương thấy kia phân biệt
Phân biệt không nhân duyên
Không nhân không phân biệt
Không nước, chấp có nước
Như thú vọng sinh ái
Ngu si thấy như vậy
Bậc Thánh không như thế
Thánh nhân thấy thanh tịnh
Đạt được ba giải thoát
Lìa các pháp sinh tử
Tu hành chỗ tịch tĩnh
Phương tiện rất an lạc
Biết cõi nước vi diệu
Ta nói, vì các ông
Không vì những Tiểu thừa
Ba cõi là vô thường
Không, vô ngã, lìa ngã
Đồng tướng và biệt tướng
Vì Thanh văn, ta nói
Không chấp tất cả pháp
Lìa thế gian “độc hành”
Ta nói quả Duyên giác
Chẳng phải cảnh suy lường
Phân biệt thật thể ngoài
Từ tha lực nên sinh
Thấy tự thân mê hoặc
Bấy giờ chuyển các tâm
Thập địa tức Sơ địa
Sơ địa tức Bát địa
Cửu địa tức Thất địa
Thất địa tức Bát địa
Nhị địa tức Tam địa
Tứ địa tức Ngũ địa
Tam địa tức Lục địa
Tịch tĩnh không trước sau
Các pháp thường tịch tĩnh
Tu hành là không pháp
Pháp có, không bình đẳng
Bấy giờ chứng quả Thánh
Các pháp không thể, tướng
Sao đối với pháp vô
Mà hay nói bình đẳng
Tịch tĩnh không phân biệt
Nếu không thấy các tâm
Pháp động trong và ngoài
Bấy giờ các pháp diệt
Đã thấy tâm bình đẳng
Ngu lưu chuyển vô thủy
Ôm giữ chấp các pháp
Cuồng chuyển theo phàm phu
Như dùng nêm, bật nêm
Nương quán và nhân kia
Cùng ý chấp cảnh giới
Nương nơi chủng tử thức
Nương vào tâm tạo tác
Chứng đắc và an trú
Tùy chủng loại thân đắc
Và sở đắc trong mộng
Có bốn loại thần thông
Đắc thần thông trong mộng
Cùng với ân chư Phật
Chấp chủng loại thân đắc
Thần thông ấy không thật
Tâm huân, chủng tử huân
Tợ có pháp chuyển sinh
Người ngu không trí giác
Nếu nói có pháp sinh
Phân biệt với ngoại vật
Thành tựu tướng các pháp
Bấy giờ tâm mê muội
Không thấy, tự mê hoặc
Cớ sao nói về sinh
Do đâu nói không thấy
Không chỗ thấy mà thấy
Nguyện xin vì con, nói
Đối với những người nào
Nói pháp nào là có?
Đối với những người nào
Nói pháp nào là không?
Tâm, thể tự thanh tịnh
Ý khởi các ô trược
Ý và tất cả thức
Hay làm huân chủng tử
Xuất thân A-lại-da
Ý tìm cầu các pháp
Ý thức chấp cảnh giới
Mê hoặc thấy tham chấp
Tự tâm chỗ thấy pháp
Ngoại pháp, không ngoại pháp
Mê hoặc quán như vậy
Thường nhớ nghĩ Chân như
Cảnh giới người tu Thiền
Sự nghiệp lớn của Phật
Ba việc không nghĩ bàn
Cảnh giới bậc Trí tuệ
Quá khứ, hiện, vị lai
Niết-bàn và hư không
Ta nương tục đế, nói
Chân đế không danh tự
Hai thừa và ngoại đạo
Chấp trước nơi tà kiến
Mê muội ở trong tâm
Phân biệt nơi ngoại pháp
Phật, Duyên giác, Bồ-tát
La-hán thấy chư Phật
Tâm Bồ-đề kiên cố
Và thành tựu trong mộng
Ở đâu và những gì
Vì sao và nhân gì
Việc làm và nghĩa gì
Nguyện vì con, giảng nói
Tâm huyễn bỏ tịch tĩnh
Nói bè đảng có, không
Mê chấp chặt trong tâm
Nói có huyễn, không huyễn
Tướng sinh, diệt tương ưng
Tướng, sở tướng có, không
Phân biệt chỉ do ý
Và cùng với năm thức
Ảnh tượng, bọt nước thảy
Từ chủng tử tâm sinh
Nếu tâm cho đến ý
Và các thức không sinh
Thời đắc thân như ý
Cho đến quả vị Phật
Các duyên và ấm, giới
Tự thể tướng pháp này
Giả danh và nhân tâm
Như mộng, như hoa đốm
Thế gian như huyễn mộng
Nương tựa kiến chấp thật
Các tướng vốn tương ưng
Lìa các nhân quán xét
Nội tâm các Thánh nhân
Thường quán các diệu hạnh
Do mê che quán xét
Hiểu thế gian thật có
Lìa các pháp hý luận
Trí không trụ mê hoặc
Các pháp không thực thể.
Không và thường, vô thường
Tâm trụ nơi ngu si
Mê hoặc nên phân biệt
Người nói các pháp này
Chẳng phải nói “Vô sinh”
Một, hai, đối với hai
Bỗng nhiên tự tại có
Nương bụi trần thù thắng
Duyên phân biệt thế gian
Chủng tử ấy là thức
Y chỉ nhân kia sinh
Như nương hình bức tranh
Biết thật tức là diệt
Như người thấy nơi huyễn
Thấy sinh tử cũng vậy
Người ngu si mê ám
Buộc và giải thoát sinh
Nội tâm và ngoại tại
Các pháp và nhân duyên
Tu hành quán như vậy
Trụ ở nơi tịch tĩnh
Trong huân tập không tâm
Tâm không cùng huân tập
Tướng tâm không sai biệt
Huân tập ràng buộc tâm
Như huân tập tà kiến
Ý từ nơi thức sinh
Tâm sáng suốt cũng vậy
Nương huân tập không rõ
Như vật chẳng không vật
Ta nói hư không vậy
Trong thân A-lại-da
Lìa xa vật có, không
Ý thức chuyển diệt rồi
Tâm lìa xa pháp nhiễm
Hiểu biết tất cả pháp
Nên ta nói tâm Phật
Đoạn dứt nơi ba thừa
Lìa xa pháp có, không
Bốn tương ưng thế pháp
Các hữu đều như huyễn
Thể tướng hai pháp này
Bảy Địa từ tâm sinh
Ngoài ra cũng thành tựu
Hai Địa và Phật địa
Sắc giới, Vô sắc giới
Dục giới và Niết-bàn
Tất cả cảnh giới tâm
Không lìa ở trong thân
Nếu thấy các pháp sinh
Là pháp mê hoặc sinh
Biết tự tâm mê hoặc
Là các pháp không sinh
Thể tướng pháp không sinh
Sinh là đắm thế gian
Thấy các tướng như huyễn
Thể tướng pháp như vậy
Tự tâm hư vọng chấp
Chớ phân biệt các pháp
Vì si, vô trí, nói
Ba thừa với Nhất thừa
Và nói về không thừa
Các Thánh nhân tịch tĩnh
Pháp ta có hai loại
Pháp tướng và chứng đắc
Bốn loại tướng quán xét
Lập pháp quán tương ưng
Thắng hơn hình và tướng
Kiến mê hoặc phân biệt
Danh tự và hành xứ
Cõi thánh thật thanh tịnh
Phân biệt nương phân biệt
Nên có tướng phân biệt
Phân biệt lìa phân biệt
Thật thể cảnh giới Thánh
Thật thường hằng, bất biến
Sự tánh và thật thể
Chân như lìa tâm, pháp
Xa lìa nơi phân biệt
Nếu không pháp thanh tịnh
Cũng không có pháp nhiễm
Do có tâm thanh tịnh
Mà thấy có pháp nhiễm
Cảnh giới Thánh thanh tịnh
Cho nên không thật sự
Thể tướng các pháp này
Cảnh giới của Thánh nhân
Nhân duyên sinh thế gian
Lìa xa các phân biệt
Như huyễn, mộng vân vân
Thấy pháp đắc giải thoát
Huân tập các phiền não
Cùng tâm tương ưng sinh
Chúng sinh thấy ngoại cảnh
Chẳng phải thể tâm pháp
Tâm, pháp thường thanh tịnh
Chẳng phải mê hoặc sinh
Mê từ phiền não sinh
Cho nên tâm không thấy
Mê hoặc tức Chân thật
Chốn kia không đạt đến
Không ấm, không chốn kia
Như thật quán ấm, hành
Lìa tướng kiến, sở kiến
Nếu thấy pháp hữu vi
Thấy tự tâm thế gian
Người đó hay lìa tướng
Chớ thấy pháp duy tâm
Chớ phân biệt ngoại nghĩa
Trụ nơi Chân như quán
Vượt qua cảnh giới tâm
Qua cảnh giới tâm rồi
Xa lìa các tịch tĩnh
Tu hành trụ tịch tĩnh
Hành giả tịch tĩnh trú
Không thấy được Đại thừa
Tự nhiên gọi tịch tĩnh
Nương các nguyện thanh tịnh
Trí vô ngã tịch tĩnh
Nên quán cảnh giới tâm
Cũng quán cảnh giới trí
Quán cảnh giới trí tuệ
Không mê ở trong tướng
Cảnh giới tâm: Khổ đế
Cảnh giới trí là tập
Hai Đế và Phật địa
Là cảnh giới Bát-nhã
Đắc quả và Niết-bàn
Cùng với tám Thánh đạo
Biết rõ tất cả pháp
Đắc Phật trí thanh tịnh
Nhãn sắc cùng với Minh
Hư không cùng tâm, ý
Các pháp ấy hòa hợp
Thức từ Lại-da sinh
Thọ hay chấp, bị chấp
Không danh cũng không sự
Không do nhân phân biệt
Hoặc chấp nơi giác ngộ
Ở trong nghĩa không danh
Trong danh, nghĩa cũng vậy
Do không nhân mà sinh
Chớ phân biệt, phân biệt
Tất cả pháp không thật
Ngôn ngữ cũng như thế
Như nghĩa không, không không
Ngu si thấy pháp này
Vọng chấp là thật có
Tà kiến nói giả danh
Một pháp thành năm loại
Thật trí hay xa lìa
Năm loại tà pháp này
Vượt qua pháp có, không
Không cảnh giới tu hành
Là pháp của ngoại đạo
Không mong có tà pháp
Cũng không trông thấy ngã
Do tự biết thường pháp
Chỉ từ ngôn ngữ sinh
Thật đế không nói hết
Tịch diệt thấy các pháp
Nương thức A-lại-da
Hay chuyển sinh ý thức
Y chỉ nơi tâm, y
Thường sinh nơi chuyển thức
Nương hư, hư vọng thành
Chân như là tâm pháp
Như vậy người tu hành
Hay biết thể tâm tánh
Phân biệt thường, vô thường
Tướng ý cùng với sự
Sinh cùng với không sinh
Hành giả không nên chấp
Chớ phân biệt hai pháp
Thức từ Lại-da sinh
Một nghĩa hai pháp sinh
Không biết pháp như thế
Chấp pháp một và hai
Là cảnh giới phàm phu
Người thuyết và không thuyết
Không không để thấy tâm
Không thấy nơi tự tâm
Nên võng lưới kiến sinh
Các nhân duyên không sinh
Các căn cũng như vậy
Không giới và năm ấm
Không tham, không hữu vi
Vốn không có tạo nghiệp
Không tạo, không hữu vi
Không bỏ cũng không buộc
Không trói cũng không mở
Không vô ký, không vật
Không pháp, không phi pháp
Không thời, không Niết-bàn
Thể pháp cũng là không
Không Phật, không Thật đế
Không nhân cũng không qua
Không điên đảo, không diệt
Không diệt cũng không sinh
Mười hai chi cũng không
Biên, vô biên cũng vậy
Lìa xa các tà kiến
Cho nên nói duy tâm
Nghiệp phiền não và thân
Người tạo và quả báo
Như thành Càn-thát-bà
Sóng nắng, mộng vân vân
Trụ ở trong tâm pháp
Mà sinh các pháp tướng
Trụ ở trong tâm pháp
Mà thấy nơi đoạn, thường
Trong Niết-bàn không ấm
Không ngã cũng không tướng
Hội nhập chỉ là tâm
Giải thoát không chấp tướng
Thấy kia đâu lỗi lầm
Các chúng sinh thấy ngoài
Tâm chẳng có, chẳng không
Do huân tập không hiểu
Trong nhơ không thấy sạch
Trong sạch không thấy nhơ
Như mây che hư không
Bởi vậy tâm không thấy
Tâm hay tạo các nghiệp
Ở trong trí phân biệt
Tuệ hay quán tịch tĩnh
Đắc thể đại diệu pháp
Tâm chuyển theo cảnh giới
Trí nương giác quán sinh
Tịch tĩnh thắng cảnh giới
Tuệ hay ở trong hành
Tâm, ý và ý thức
Ở trong tướng phân biệt
Đắc thể không phân biệt
Hai thừa không chủng tử
Tịch tĩnh thắng nhân tướng
Trí tuệ Phật thanh tịnh
Thường sinh với Thắng trí
Đã lìa các hành tướng
Phân biệt có thể pháp
Pháp tha lực là không
Mê hoặc chấp phân biệt
Không phân biệt tha lực
Không các đại, có sắc
Có sắc, không các đại
Càn-thát-bà mộng huyễn
Thú khát không thích nước
Ta có ba loại tuệ
Được y chỉ Thánh nhân
Tâm sinh từ trong pháp
Cho nên không thấy tâm
Do duyên thân hiện hữu
Chúng sinh huân tập thấy
Nương tướng phân biệt kia
Mà nói về các pháp
Lìa hai thừa tương ưng
Lìa tuệ pháp tướng hiện
Hư vọng chấp lấy pháp
Thanh văn thấy nơi pháp
Hội nhập chỉ là tâm
Trí Như Lai không cấu
Hoặc thật và không thật
Pháp từ nhân duyên sinh
Một, hai tà kiến này
Rốt cục hay chấp trước
Tất cả các nhân duyên
Như huyễn không có thật
Như vậy tất cả tướng
Không thể thành phân biệt
Nương nơi tướng phiền não
Các phược từ tâm sinh.
Không biết pháp phân biệt
Tha lực phân biệt này
Đã có thể phân biệt
Tức là pháp Tha lực
Tất cả thấy phân biệt
Đối Tha lực phân biệt
Tục đế, Đệ nhất nghĩa
Thứ ba không nhân sinh
Phân biệt nói tương tục
Đoạn tức cảnh giới Thánh
Một việc người tu hành
Do tâm thấy tất cả
Tâm thể không ở kia
Cho nên phân biệt tướng
Như người bị nhặm mắt
Phân biệt các loại sắc
Không phải sắc phi sắc
Như ngu thấy Tha lực
Như vàng lìa bụi bặm
Như nước lìa bùn đục
Như hư không lìa mây
Tịnh phân biệt như vậy
Thanh văn có ba hạng
Ứng, Hóa và nguyện sinh
Lìa các cấu tham, si
Thanh văn từ pháp sinh
Bồ-tát cũng ba hạng
Chư Như Lai vô tướng
Trong tâm mỗi chúng sinh
Thấy tượng Phật Như Lai
Phân biệt không như vậy
Có thể pháp tha lực
Thấy hai thứ có, không
Thấy vậy nên phân biệt
Hoặc không phân biệt pháp
Tha lực làm sao có
Có xa lìa thể pháp
Thật có thể pháp sinh
Nương tựa nơi phân biệt
Mà thấy về Tha lực
Nương danh, tướng hòa hợp
Mà sinh ra phân biệt
Thường không được thành tựu
Sinh phân biệt Tha lực
Bấy giờ trí thanh tịnh
Thật thể Đệ nhất nghĩa
Phân biệt có mười loại
Tha lực có sáu loại
Chân như là nội thân
Cho nên không tướng khác
Năm pháp thật pháp này
Cùng ba loại thật tướng
Như vậy, người tu hành
Không hoại pháp Chân như
Hình tượng, mây và sao
Tợ như thể trăng, trời
Các chúng sinh thấy tâm
Sở kiến huân tập sinh
Các Đại không tự thể
Không năng kiến, sở kiến
Nếu sắc từ đại sinh
Các đại sinh các đại
Như vậy không sinh đại
Trong đại không bốn đại
Nếu quả là bốn đại
Do địa, thủy, hỏa, phong
Danh, sắc, thật và giả
Huyễn sinh tạo như vậy
Mộng và Càn-thát-bà
Thứ năm: thú ái nước
Xiển-đề trong năm loại
Các chủng tánh cũng vậy
Năm thừa và phi thừa
Niết-bàn có sáu loại
Ấm có hai mươi bốn
Sắc lại có tám loại
Phật có hai mươi bốn
Phật tử có hai loại
Pháp môn có trăm loại
Thanh văn có ba loại
Cõi chư Phật có một
Mà Phật cũng có một
Giải thoát có ba loại
Tâm suy tư có bốn
Vô ngã, ngã: sáu loại
Cảnh sở trí có bốn
Xa lìa các nhân duyên
Cũng lìa khỏi tà kiến
Trí nội thân lìa cấu
Pháp Đại thừa vô thượng
Sinh cùng với không sinh
Có tám đến chín loại
Một thời tuần tự chứng
Lập pháp duy nhất này
Vô sắc có tám loại
Thiền sai biệt: Sáu loại
Duyên giác và Phật tử
Thường chấp có bảy loại
Không có pháp ba đời
Thường, vô thường cũng vậy
Tạo nghiệp và quả nghiệp
Sự việc như trong mộng
Xưa nay Phật không sinh
Thanh văn cũng như vậy
Tâm lìa nơi sở kiến
Cũng thường như pháp huyễn
Thai sinh chuyển pháp luân
Xuất gia và Đâu-suất
Ở trong các cõi nước
Mà không sinh sở kiến
Hành hóa và chúng sinh
Thuyết pháp và Niết-bàn
Biết Thật đế, cõi nước
Từ pháp nhân duyên sinh
Thế gian, các rừng cây
Vô ngã, hành ngoại đạo
Thiền, thừa, A-lại-da
Nói quả không suy lường
Tánh mặt trăng, vì sao
Các vua, A-tu-la
Dạ-xoa, Càn-thát-bà
Do nghiệp mà phát sinh
Thay đổi không thể bàn
Lại nương duyên huân tập
Đoạn tuyệt các biến chuyển
Thời diệt tội, phiền não
Tất cả các Bồ-tát
Hành giả như thật tu
Không chứa các của báu
Vàng, bạc và voi, ngựa
Trâu, dê, nô tỳ thảy
Lúa, gạo cùng ruộng, nhà
Không nằm giường chạm trổ
Không được dùng bùn đất
Vàng, bạc, đồng đỏ, trắng
Chén, bát và đồ dùng
Hành giả tịnh tu hành
Tất cả: không được chứa
Y phục Kiền-xà-da
Tất cả: không được mặc
Ca-sa Khâm-bà-la
Phân ngựa, cỏ, lá, quả
Xanh, đỏ, bùn đất lỏng
Nhuộm hoại màu sắc trắng
Bùn đá cùng với sắt
Ngọc kha và lưu ly
Bát như vậy cho chứa
Vừa đủ lượng Ma-đà
Dùng y phục cắt rọc
Cho chứa dao bốn tấc
Cong như nửa mặt trăng
Không được học kỹ thuật
Người như thật tu hành
Không buôn bán ở chợ
Nếu cần, sai cư sĩ
Và các Ưu-bà-tắc
Thường hộ trì các căn
Biết rõ như thật nghĩa
Đọc tụng Tu-đa-la
Và học các Tỳ-ni
Không ăn cùng Bạch y
Người tu hành như vậy
Chỗ vắng và gò mã
Trong hang dưới rừng cây
Trong cỏ, rừng Thi-la
Cho đến ở ngoài đồng
Người như thật tu hành
Nên ở chỗ như thế
Ba y thường bên mình
Không chứa dư tiền của
Vì thân cần y phục
Mình, người đều cho nhận
Đi ra ngoài khất thực
Cũng không nhìn hai bên
Nhìn trước đất: thước sáu
An bình mà đi thẳng
Như ong hút mật hoa
Khất thực cũng như vậy
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Chúng tạp loạn trong chúng
Ta vì Phật tử nói
Đây là mưu sống ác
Hành giả như thật tu
Nơi này không được ăn
Vua, thái tử, vương tử
Đại thần và trưởng giả
Vì mong cầu ăn uống
Tất cả, không được đến
Nhà có tang, sinh con
Thân thuộc, nhà luyến ái
Chúng Tỳ-kheo tạp loạn
Người tu không cùng ăn
Khói chùa phòng không dứt
Thường làm các thức ăn
Vì người nên làm ra
Hành giả không nên ăn
Lìa bè đảng: Có, không
Năng kiến và Sở kiến
Hành giả quán thế gian
Lìa xa pháp sinh diệt
Tương ưng Lực Tam-muội
Và thần thông tự tại
Nếu không sinh phân biệt
Không lâu được Như pháp
Theo những bậc Tối thắng
Trong duyên chớ phân biệt
Các nhân duyên hòa hợp
Hành giả không phân biệt
Phân biệt các thế gian
Đều từ huân tập sinh
Hành giả như thật quán
Ba cõi như huyễn mộng
Chớ phân biệt ba cõi
Do duyên, thân hiện hữu
Lìa phỉ báng có, không
Cũng lìa thấy: Có, không
Ăn uống xem như thuốc
Thân tâm thường ngay thẳng
Nhất tâm chuyên cung kính
Phật và các Bồ-tát
Hành giả như thật tu
Nên biết tướng các Luật
Và các Tu-đa-la
Chọn lựa tướng các pháp
Năm pháp thể và tâm
Tu hành tướng vô ngã
Thanh tịnh nội Pháp thân
Các Địa và Phật địa
Như vậy người tu hành
Trụ nơi hoa sen lớn
Chư Phật đại Từ bi
Tay Như ý xoa đầu
Đi lại trong sáu đường
Các cõi sinh nhàm chán
Phát khởi hạnh như thật
Đến trong rừng Thi-đà
Thể tướng mặt trời, trăng
Cùng với tướng biển hoa
Hư không, lửa, các thứ
Người tu hành thấy pháp
Thấy các tướng như vậy
Chấp vào pháp ngoại đạo
Cũng thuận đạo Thanh văn
Và cảnh giới Duyên giác
Như vậy lìa tất cả
Trụ ở nơi tịch tĩnh
Lúc Phật Diệu Quang Minh
Ở nơi các cõi nước
Xoa đầu Bồ-tát kia
Diệu tướng xoa đầu này
Tùy thuận pháp Chân như
Ấy được thân vi diệu
Nhân thể pháp có, không
Lìa xa pháp thường, đoạn
Chê bai pháp có, không
Là phân biệt Trung đạo
Phân biệt không các nhân
Không nhân là đoạn kiến
Thấy tất cả ngoại pháp
Người này diệt Trung đạo
Không bỏ tướng các pháp
Sợ có tướng diệt mất
Chê bai pháp có, không
Như thế nói Trung đạo
Biết chỉ ở nội tâm
Không diệt nơi ngoại pháp
Chuyển hư vọng phân biệt
Tức là pháp Trung đạo
Duy tâm không sở kiến
Lìa nơi tâm không sinh
Tức là pháp Trung đạo
Ta và chư Phật nói
Sinh cùng với không sinh
Có vật, không vật, không.
Các pháp không tự thể
Chớ phân biệt hai pháp
Phân biệt là có pháp
Ngu phân biệt giải thoát
Không biết tâm phân biệt
Lìa hai tướng chấp thủ
Biết rõ tự tâm thấy
Thời xa lìa Nhị kiến
Như thật biết xa lìa
Không diệt tướng phân biệt
Thật biết tâm sở kiến
Thời biết phân biệt sinh
Không sinh các phân biệt
Là Chân như, lìa tâm
Lìa khỏi các ngoại đạo
Nếu thấy các pháp sinh
Người trí kia chấp giữ
Niết-bàn mà không diệt
Biết pháp này là Phật
Ta nói, các Phật nói
Nếu thấy các pháp khác
Là việc ngoại đạo nói
Không sinh hiện nơi sinh
Không mất thường hiện mất
Giống như trăng trong nước
Vạn ức cõi nước thấy
Một thân và vô lượng
Lửa cháy và mưa rơi
Tâm, tâm thể không khác
Nên nói chỉ là tâm
Trong tâm chỉ là tâm
Tâm không tâm mà sinh
Các loại sắc, hình tướng
Chỗ thấy chỉ là tâm
Phật và thân Thanh văn
Bích-chi-phật hết thảy
Và vô số sắc thân
Chỉ nói là nội tâm
Vô sắc giới không sắc
Sắc giới và địa ngục
Sắc hiện là chúng sinh
Chỉ là nhân duyên tâm
Pháp Tam-muội Như huyễn
Mà sinh thân Như ý
Thập địa, tâm tự tại
Đắc kia, Bồ-tát chuyển
Tự tâm phân biệt danh
Hý luận và dao động
Nương thấy, nghe sinh biết
Ngu si nương tướng biết
Tướng là thể tha lực
Nó nương danh phân biệt
Phân biệt các tướng này
Nương tha lực, pháp sinh
Trí tuệ quán các pháp
Không tha lực, không tướng
Rốt ráo không thành tựu
Trí nương đâu phân biệt
Hoặc có pháp thành tựu
Xa lìa pháp có, không
Xa lìa thể có, không
Hai thể làm sao có?
Phân biệt hai thể này
Hai thể này nên có
Phân biệt thấy tất cả
Cảnh giới Thánh thanh tịnh
Phân biệt là vô số
Phân biệt là Tha lực
Nếu người phân biệt khác
Rơi vào thuyết ngoại đạo
Phân biệt là phân biệt
Thấy là nhân, thể, tướng
Phân biệt nói phân biệt
Thấy là nhân, tướng sinh
Lìa hai thứ phân biệt
Tức là pháp thành tựu
Cõi nước Phật hóa thân
Nhất thừa và Tam thừa
Không Niết-bàn cả thảy
Không lìa tất cả sinh
Phật, ba mươi sai biệt
Mỗi sai biệt có mười
Tất cả khí thế gian
Nương tâm các chúng sinh
Như pháp tướng phân biệt
Hiện thấy vô số pháp
Pháp ấy không vô số
Phật pháp, thế gian vậy
Phật pháp là chân Phật
Ngoài ra nương hóa thân
Chủng tử các chúng sinh
Thấy tất cả tướng Phật
Nương mê hoặc buộc tâm
Hay sinh các phân biệt
Thật không lìa phân biệt
Và không xa lìa tướng
Thật thể và thọ lạc
Hóa thân tạo các thân
Chúng Phật ba mươi sáu
Là thật thể chư Phật
Như xanh, đỏ và muối
Ngọc kha, sữa, đường phèn
Hoa, lá, quả cả thảy
Như ánh sáng mặt trăng
Chẳng một cũng chẳng khác
Như sóng lớn trong nước
Bảy thức này cũng thế
Cùng hòa hợp với tâm
Như biển cả chuyển biến
Cho nên sóng dập dồn
A-lại-da cũng vậy
Danh, thức cũng như vậy
Tâm, ý và ý thức
Phân biệt nghĩa ngoại tướng
Tám tướng không sai biệt
Không thấy, không chỗ thấy.
Như sóng nước biển cả
Không có tướng sai biệt
Các thức đối với tâm
Chuyển biến không biết được
Tâm hay tạo các nghiệp
Ý hay sinh phân biệt
Ý thức hay biết pháp
Năm thức hư vọng thấy
Các màu xanh đỏ trắng…
Thức chúng sinh hiện thấy
Tướng sóng, nước với pháp
Ta vì ông nói rõ
Xanh, đỏ, trắng các loại
Trong sóng nước không thấy
Ngu si thấy các tướng
Nói là trong tâm chuyển
Trong tâm không thể này
Lìa tâm không thể thấy
Nếu có nơi sở chấp
Thì có nơi năng chấp.
Do duyên thân hiện hữu
Nói tương tự sóng nước
Thức chúng sinh hiện thấy
Sóng nước đều như nhau
Sóng nước biển nổi dậy
Uyển chuyển như nhảy múa
Bản thức chuyển như vậy
Tại sao biết không chấp
Ngu si không trí tuệ
Bản thức như sóng nước
Sóng nước chuyển tương đối
Cho nên nói thí dụ
Như mặt trời xuất hiện
Bình đẳng chiếu chúng sinh
Như đèn sáng Thế Tôn
Không vì ngu nói pháp
Trụ nơi pháp Chân như
Sao không nói thật pháp
Nếu nói về thật pháp
Trong tâm không thật pháp
Như sóng nước trong biển
Như gương và như mộng
Như cảnh giới tự tâm
Đều thấy không trước sau
Không cảnh giới nhất thời
Cho nên thứ lớp sinh
Thức hay biết các pháp
Ý lại hay phân biệt
Năm thức hiện thấy pháp
Tịch tĩnh không thứ lớp
Như họa sĩ ở đời
Và học trò học vẽ
Ta trụ ở pháp vi diệu
Vì thật tu hành, nói
Lìa phân biệt, phân biệt
Là thật trí nội thân
Ta nói cho Phật tử
Không nói cho kẻ ngu
Cũng như huyễn hết thảy
Sở kiến không như vậy
Nói các thứ cũng vậy
Nói cũng vậy, không vậy
Vì một người nói pháp
Không vì người khác nói
Như mỗi người mỗi bệnh
Thầy cho thuốc khác nhau
Chư Phật vì chúng sinh
Tùy tâm nói các pháp
Nương chủng tử ngoại pháp
Phân biệt thuyết hiện pháp
Tâm chấp pháp tha lực
Sở chấp là phân biệt
Nương nơi chủng tử tâm
Quán chấp ngoại cảnh giới
Hai loại chuyển mê hoặc
Lại không nhân thứ ba
Dùng mê hoặc không sinh
Nương pháp nào không sinh
Sáu mươi, mười tám pháp
Cho nên chỉ nói tâm
Tự tâm thấy ngoại pháp
Thấy ấy lìa xa ngã
Hoặc nhập tâm phân biệt
Hay lìa tướng các pháp
Nương vào A-lại-da
Hay sinh ra các thức
Ngu si nhập nội thân
Tâm thấy nơi ngoại nhập
Chấp ánh sáng ngôi sao
Như trong mộng thấy sắc
Hữu vi, vô vi thường
Không phân biệt như vậy
Thành huyễn Càn-thát-bà
Như cầm thú ưa nước
Không như vậy, thấy có
Pháp tha lực cũng vậy
Ngã, các căn, hình tướng
Ta nói ba loại tâm
Tâm, ý và ý thức
Xa lìa tướng, tâm, thể
Tâm, ý và y thức
Xa lìa tướng tự thể
Tâm, ý và ý thức
Không ngã, không hai thể
Năm pháp tự thể tướng
Là cảnh giới chư Phật
Tướng ấy có ba loại
Nương vào nhân huân tập
Như loại tơ năm sắc
Trên tường thấy đủ màu
Hai loại tâm vô ngã
Ý và các thức tướng
Năm loại pháp thể tướng
Tánh ngã không như vậy
Xa lìa tướng các tâm
Thức lìa nơi tướng ý
Thể các pháp như vậy
Là cảnh giới của ta
Lìa xa thể các pháp
Là tánh các Như Lai
Nghiệp thân, miệng và ý
Không tạo pháp trong sạch
Tánh Như Lai thanh tịnh
Xa lìa sự tu hành
Các thần thông tự tại
Sức Tam-muội trang nghiêm
Các loại ý sinh thân
Là tánh tịnh Như Lai
Biết trong thân lìa cấu
Lìa xa tướng các nhân
Bát địa và Phật địa
Là tánh các Như Lai
Viễn hành, Thiện tuệ địa
Pháp vân và Phật địa
Là tánh của Như Lai
Địa xen lẫn ba Thừa
Nương chúng sinh khác biệt
Và vì tướng ngu si
Vì nói bảy loại Địa
Nên Phật thuyết Tâm địa
Thân, miệng, ý, các chướng
Trong Thất địa, không thế
Diệu thân trong Bát địa
Như tướng mông, nước bọt
Bát địa và Ngũ địa
Học các loại kỹ thuật
Tất cả các Phật tử
Làm vua trong ba cõi
Sinh cùng với không sinh
Không phân không, bất không
Thật cùng với không thật
Trong tâm không như vậy
Đây thật, đây không thật
Chớ phân biệt thật ấy
Duyên giác và Thanh văn
Không vì Phật tử nói
Có, không có chẳng thật
Cũng không có tướng không
Giả danh và thật pháp
Trong tâm tất cả không
Nương tục đế có pháp
Đệ nhất nghĩa đều không
Không thật, mê hoặc pháp
Là các pháp tục đế
Tất cả pháp, không pháp
Ta nói đều giả danh
Ngôn ngữ và thọ dụng
Ngu si thấy là thật
Từ nơi pháp ngôn ngữ
Là thật có cảnh giới
Từ ngôn ngữ sinh pháp
Thấy pháp không như vậy
Như lìa tường không vẽ
Cũng như bóng lìa hình
Bản thức cũng như vậy
Như sóng nước không hiện
Cũng vậy, tâm như huyễn
Ý như kẻ lừa đảo
Ý cùng với năm thức
Phân biệt tựa năm sắc
Nói tu tập chân pháp
Có tập hợp, hóa hiện
Là nguồn gốc chư Phật
Ngoài ra Ứng, Hóa Phật
Tâm mê trong chỗ thấy
Chỗ thấy trong tâm không
Do duyên thân hiện hữu
Tức A-lại-da hiện
Tâm, ý và ý thức
Thật thể năm pháp này
Hai loại tịnh vô ngã
Chư Phật Như Lai nói
Hư vọng biết không cảnh
Và Thanh văn cũng vậy
Là cảnh giới nội thân
Chư Phật Như Lai thuyết
Dài, ngắn đối đãi nhau
Đây, kia nương nhau sinh
Có có thể thành không
Không có thể thành có
Và phân biệt bụi trần
Không phân biệt sắc thể
Nói chỉ là nơi tâm
Tà kiến không thanh tịnh
Trong đây phân biệt không
Không không cũng như vậy
Có, không chỉ phân biệt
Nói không thể như vậy
Vô số công đức hợp
Ngu si phân biệt sắc
Mỗi mỗi vi trần: không
Cho nên nghĩa không thật
Tự tâm thấy hình tướng
Chúng sinh thấy ngoại giới
Bên ngoài không chỗ thấy
Cho nên nghĩa không thật
Tâm như hoa đốm huyễn
Thành Càn-thát mộng ảo
Vòng lửa, thú thích nước
Không thật, người thấy có
Thường, vô thường và một
Hai cùng với không hai
Vô thủy đã trói buộc
Ngu si mê phân biệt
Ta không nói ba thừa
Chỉ nói pháp Nhất thừa
Vì nhiếp phục chúng sinh
Cho nên nói Nhất thừa
Giải thoát có ba loại
Cũng nói pháp vô ngã
Bình đẳng trí, phiền não
Nương giải thoát phân biệt.
Cũng như cây trong nước
Bị sóng đẩy trôi dạt
Như Thanh văn ngu si
Vì các tướng phiêu bạt
Ấy, không chỗ cứu cánh
Cũng không sinh trở lại
Đắc Tam-muội Tịch tĩnh
Vô lượng kiếp không biết
Là định của Thanh văn
Không phải Phật, Bồ-tát
Lìa các tùy phiền não
Từ tập, phiền não buộc
Say lạc cảnh Tam-muội
Trú cõi vô lậu kia
Như người say ở đời
Rượu nhạt dần mới tỉnh
Người ấy sau khi đắc
Thể Pháp thân Thế Tôn
Như voi lún bùn sâu
Thân lay động Đông, Tây
Như vậy say Tam-muội
Thanh văn chìm đắm vậy.

QUYỂN 10

Phẩm 18: TỔNG TRÌ (Phần 2)

Nương nơi cảnh giới Phật
Các nguyện lực thanh tịnh
Thọ, thức và Tam-muội
Công đức cùng Thập địa
Hư không với sừng thỏ
Và con của Thạch nữ
Phân biệt pháp như vậy
Không mà nói danh tự
Huân chủng tử thế gian
Chẳng có, chẳng không xứ
Năng kiến đắc giải thoát
Biết rõ pháp Vô ngã
Phân biệt thật thể danh
Thể kia từ duyên sinh
Ta nói là thành tựu
Các kinh thường nói vậy
Câu, chữ, danh, thân thảy
Nơi thắng pháp danh, thân
Người ngu si phân biệt
Như voi lún đầm lầy
Thiên và Phạm thiên thừa
Cùng với Thanh văn thừa
Như Lai và Duyên giác
Ta nói thừa như vậy
Không nói hết các thừa
Có tâm sinh như vậy
Tâm chuyển diệt cũng không
Không thừa cùng với thừa
Tâm phân biệt và thức
Ý cùng với ý thức
A-lại-da, ba cõi
Tâm suy tư tên khác
Mạng cùng với ấm, thức
Mạng căn, A-lại-da
Ý cùng với ý thức
Là phân biệt tên khác
Tâm an trụ nơi thân
Ý thường biết các pháp
Cảnh giới nơi tâm thức
Cùng với thức phân biệt
Ta nói ái là mẹ
Vô minh nhận làm cha
Thức biết các cảnh giới
Cho nên nói danh Phật
Các sử là oan gia
Chúng hòa hợp là ấm
Không ở thể tương tục
Đoạn kia là vô gián
Hai: Vô ngã, phiền não
Và hai loại Vô ngã
Không thể nghĩ bàn được
Không sinh tử là Phật
Ý tương ưng pháp thể
Ngã, pháp là nội thân
Nếu hay thấy như vậy
Ấy không theo vọng giác
Thật không có các pháp
Như ngu si phân biệt
Nương hư vọng không pháp
Làm sao đắc giải thoát
Sinh diệt hòa hợp buộc
Thấy nơi pháp hữu vi
Tăng trưởng nơi hai kiến
Không mất pháp nhân duyên
Cây chuối, mộng, huyễn thảy
Thế gian này như vậy
Chỉ là một thật pháp
Niết-bàn lìa ý thức
Có tham cùng với sân
Và có si, có thân
Từ ái sinh các ấm
Ấm có cũng như mộng
Sao chứng đạo ban đêm
Sao nhập diệt ban đêm
Ở trong hai loại này
Ta không nói một chữ
Nội thân chứng nơi pháp
Ta nương như vậy nói
Phật kia và thân ta
Không có nói thắng pháp.
Thật vật có Thần ngã
Năm ấm lìa tướng kia
Thể ấm là thật hữu
Trong ấm kia không ngã
Mỗi mỗi tự phân biệt
Tùy phiền não, kết sử
Đắc tự tâm thế gian
Lìa khổ đắc giải thoát
Các nhân và nhân duyên
Thế gian như vậy sinh
Là bốn pháp tương ưng
Kia không trụ pháp ta
Chẳng có, không sinh pháp
Lìa có, không không sinh
Ngu làm sao phân biệt
Từ nhân và các duyên
Lìa bốn câu: Có, không
Nếu hay thấy thế gian
Bấy giờ tâm thức chuyển
Tức đắc pháp Vô ngã
Các pháp vốn không sinh
Ấy do nhân duyên sinh
Các duyên tức là quả
Trong quả sinh cõi nước
Trong quả sinh hai loại
Trong quả nên có hai
Mà trong hai không quả
Trong quả không thấy vật
Lìa xa quán, sở quán
Nếu thấy pháp hữu vi
Lìa tâm chỉ là tâm
Nên ta nói duy tâm
Lượng xét thật thể tướng
Lìa xa duyên thật thể
Cứu cánh Đệ nhất tịnh
Ta nói lượng như vậy
Như giả danh là ngã
Pháp sở kiến không thật
Như vậy thể các ấm
Là giả danh không thật
Bình đẳng có bốn loại
Tướng nhân cùng với sinh
Vô ngã cũng bình đẳng
Người tu hành bốn pháp
Chuyển tất cả các kiến
Phân biệt, sở phân biệt
Không kiến cùng không sinh
Nên ta nói duy tâm
Không pháp cũng chẳng không
Lìa xa thể có, không
Chân như lìa xa tâm
Nên ta nói duy tâm
Chân như, không, thật thể
Niết-bàn và pháp giới
Ý sinh thân và tâm
Nên ta nói duy tâm
Phân biệt nương huân tập
Các loại sinh các loại.
Tâm chúng sinh thấy ngoài
Nên ta nói duy tâm
Sở kiến không ngoài vật
Thấy tâm các thứ kiến
Do duyên thân hiện hữu
Nên ta nói duy tâm
Các Thanh văn tận trí
Chư Phật Như Lai sinh
Tất cả Bích-chi-phật
Không hòa hợp mà sinh
Không ngoài các sắc tướng
Tự tâm thấy ngoại pháp
Hiểu biết nơi tự tâm
Ngu phân biệt các pháp
Người ngu không biết ngoài
Tự tâm thấy các thứ
Ví dụ ngăn người ngu
Chấp chặt nơi bốn pháp
Không nhân, không phân biệt
Thí dụ năm loại luận
Tự tâm thể hình tướng
Hay biết được chút ít
Phân biệt, sở phân biệt
Đây là tướng phân biệt
Nương tựa nơi phân biệt
Phân biệt liền hiện sinh
Mỗi phân biệt hòa hợp
Là nhân một chủng tử
Khách Nhị pháp là hai
Nên tâm người không sinh
Phân biệt tâm, tâm pháp
Trụ ở trong ba cõi
Hiện sinh tất cả pháp
Thể kia là hư vọng
Nhân nương hiện hòa hợp
Nên có mười hai nhập
Nương nhân quán hòa hợp
Ta không nói pháp này
Như trong kính thấy hình
Mắt nhặm thấy hoa đốm
Như nương tâm huân này
Là tâm người ngu thấy.
Cùng phân biệt, phân biệt
Mà sinh ra phân biệt
Như ngoại đạo phân biệt
Không như ngoại tướng này
Như người không biết dây
Mà chấp đó là rắn
Không biết nghĩa tự tâm
Phân biệt nơi ngoại pháp
Ràng buộc nơi thể thừa
Lìa một trong hai loại
Dùng phân biệt nơi thừa
Là lìa lỗi tự tâm
Nương pháp nào? Thể nào?
Phân biệt không thể thấy
Không được nói kia không
Thể các pháp như vậy
Nương có nên nói không
Nương không nên nói có
Nên không được nói không
Cũng không được nói có
Tức phân biệt, phân biệt
Không phải thể pháp kia
Tại sao thấy không thể
Mà sinh ra phân biệt
Sắc thể không sắc thân
Như bình và vải thảy
Đã thấy là không pháp
Tại sao có phân biệt
Nếu phân biệt là mê
Pháp hữu vi vô thủy
Pháp nào mê chúng sinh
Xin Phật vì con nói
Các pháp không thể pháp
Mà chỉ nói là tâm
Không thấy nơi tự tâm
Mà sinh khởi phân biệt
Nếu phân biệt không này
Như ngu si phân biệt
Pháp kia không thể khác
Mà trí không thể biết
Nếu Thánh có pháp kia
Không phàm phu phân biệt
Nếu Thánh vọng có kia
Thánh, ngu đều không khác
Thánh nhân không mê hoặc
Do được tâm thanh tịnh
Người ngu không tín tâm
Nên phân biệt, phân biệt
Như mẹ vì các con
Hư không dẫn quả đến
Ngươi nắm quả chớ khóc
Con lấy vô số quả
Ta vì các chúng sinh
Phân biệt các thứ quả
Khiến nói tham hết thảy…
Lìa bè đảng có, không
Nếu vốn không thể pháp
Không nhân, không từ nhân
Vốn không sinh, mới sinh
Cũng không thân thể ấy
Không thân cũng chẳng sinh
Lìa nhân duyên không xứ.
Thể các pháp sinh diệt
Không lìa ở nhân duyên
Lược quán sát như vậy
Có, không chẳng ngoài xứ
Từ nhân duyên sinh pháp
Người trí chớ phân biệt
Nói một thể, hai thể
Ngoại đạo ngu si nói
Thế gian như mộng, huyễn
Không từ nhân duyên sinh
Nương cảnh giới ngôn ngữ
Pháp Đại thừa Vô thượng
Ta nương liễu nghĩa nói
Nên ngu si không hiểu
Thanh văn và ngoại đạo
Nương đố kỵ nói pháp
Nơi nghĩa không tương ưng
Nương theo vọng giác nói
Thể tướng và hình tướng
Gọi là bốn loại pháp
Quán sát pháp như vậy
Nên sinh ra phân biệt
Phân biệt một, hai, nhiều
Kia Phạm thiên trói buộc
Trời, trăng và chư Thiên
Thấy ấy, chẳng con ta
Thánh nhân thấy Chánh pháp
Lấy như thật tu hành
Hay chuyển tướng hư vọng
Cũng lìa nơi đi, lại
Đây là ấn giải thoát
Ta dạy các Phật tử
Lìa xa pháp có, không
Cũng lìa tướng đi, lại
Chuyển các loại sắc, thức
Hoặc diệt tất cả nghiệp
Không hợp thường, vô thường
Không thế gian, sinh pháp
Nếu lúc chuyển hoặc diệt
Sắc lìa nơi xứ kia
Lìa chỗ không lỗi lầm
Nghiệp trụ A-lại-da
Sắc là diệt thể tướng
Trong thức, có cũng vậy
Sắc, thức cùng hòa hợp
Mà không mất các nghiệp
Nếu cùng kia hòa hợp
Chúng sinh mất các nghiệp
Nếu diệt nghiệp hòa hợp
Không sinh tử: Niết-bàn
Nếu cùng với kia diệt
Sinh ở trong thế gian
Sắc cũng cùng hòa hợp
Không sai biệt với có
Có khác cũng không khác
Chỉ là tâm phân biệt
Các pháp không diệt thể
Lìa bè đảng có, không
Pháp nhân duyên giả danh
Thay đổi không sai biệt
Như vô thường trong sắc
Thay đổi sinh các pháp
Lìa hai tướng đây, kia
Phân biệt không thể biết
Có, không có gì thành
Như vô thường trong sắc
Nếu khéo phân biệt thấy
Tức không khởi tha lực
Đối với pháp tha lực
Cũng không khởi phân biệt
Nếu diệt nơi phân biệt
Là diệt nơi pháp ta
Trong pháp ta, tạo tác
Cũng hủy báng có, không
Người hủy báng pháp này
Trong lúc nào mà có
Là diệt pháp luân ta
Không được cùng họ nói
Người trí không cùng nói
Không cùng pháp Tỳ-kheo
Đã diệt nơi phân biệt
Thấy huyễn lìa có, không
Thấy như hoa đốm huyễn
Như mộng, Càn-thát-bà
Cũng như thấy sóng nắng
Thời thấy nơi có, không
Người kia không học pháp
Nếu người ủng hộ họ
Người ấy rơi nhị biên
Cũng hoại đến người khác
Nếu biết pháp tịch tĩnh
Hành giả này thật tu
Lìa xa pháp có, không
Nên nhiếp hộ người ấy
Như nơi có thể xuất
Vàng, bạc, các châu báu
Không tạo tác các nghiệp
Mà chúng sinh lấy dùng
Tánh chân như chúng sinh
Không do nơi nghiệp có
Không chấp nên không nghiệp
Cũng chẳng tạo nghiệp sinh
Các pháp không pháp thể
Như Thánh nhân phân biệt
Mà có ở các pháp
Như ngu si phân biệt
Hoặc pháp không như vậy
Như ngu si phân biệt
Không có tất cả pháp
Chúng sinh cũng không nhiễm
Pháp nương tâm mà có
Phiền não cũng như vậy
Sinh tử trong thế gian
Tùy theo căn mà chuyển
Vô minh, ái hòa hợp
Sinh ra các thân ấy
Ngoài nhân, thường không pháp
Như ngu si phân biệt
Nếu nhân, pháp không sinh
Hành giả không thấy căn
Hoặc các pháp là không
Hay tạo nhân thế gian
Người ngu lìa tạo tác
Tự nhiên được giải thoát
Ngu, thánh không sai khác
Có, không làm sao thành?
Thánh nhân không pháp thể
Do tu ba giải thoát.
Năm ấm và nhân, pháp
Tướng có giống, có khác
Các nhân duyên và căn
Ta vì Thanh văn, nói
Không nhân chỉ là tâm
Diệu sự và các Địa
Trong thân Chân như tịnh
Vì các Phật tử, nói
Người ở đời vị lai
Phỉ báng pháp luân ta
Thân mặc áo ca-sa
Nói các pháp có, không
Không có pháp nhân duyên
Là cảnh giới Thánh nhân
Phân biệt không pháp thể
Người mê lầm phân biệt
Đời vị lai có người
Hạng ngu si ăn trấu
Không nhân và tà kiến
Phá hoại người thế gian
Vi trần sinh cõi nước
Hạt bụi là không nhân
Chín loại vật là thường
Tà kiến nói như vậy
Từ vật sinh ra vật
Công đức sinh công đức
Pháp này khác với pháp
Phân biệt là chân thật
Vốn không bắt đầu sinh
Thế gian có nguồn gốc
Ta nói nơi thế gian
Không có nơi bản tế
Các chúng sinh ba cõi
Vốn là vô thủy sinh
Chó, lạc đà không sừng
Chắc hẳn sinh không nghi
Mắt có từ vô thủy
Sắc, thức cũng như vậy
Chiếu, mũ, vải hết thảy…
Từ trong bùn sinh ra
Trong vải không có bình
Trong cỏ cũng không vải
Trong mỗi một là thật
Vì sao nhân không sinh
Tức mạng, tức là thân
Vốn sinh từ vô thủy
Đây là nói pháp kia
Ta nói các pháp khác
Ta rõ pháp nhân duyên
Sau đó ngăn pháp kia
Ngăn người tà kiến ấy
Sau nói pháp của ta
Vì biết pháp ngoại đạo
Sau đó nói chánh pháp
Sợ đệ tử mê hoặc
Rơi vào pháp có, không
Bậc thù thắng ra đời
Ở thành Ca-tỳ-la
Vì đệ tử nên nói
Các công đức chuyển biến
Chẳng thật, chẳng không thật
Không từ duyên tức duyên
Do không các nhân duyên
Pháp không thật không sinh
Lìa nơi pháp có, không
Lìa nhân cũng lìa duyên
Lìa xa pháp sinh diệt
Tự pháp lìa sở kiến
Thế gian như huyễn, mộng
Lìa các pháp nhân duyên
Thấy có lập nhân duyên
Nên sinh ra phân biệt
Như cầm thú thích nước
Càn-thát-bà, hoa đốm
Lìa xa pháp có, không
Lìa nhân cùng với duyên
Thấy ba cõi không nhân
Thấy như vậy tịnh tâm
Sao gọi người vô sự?
Chỉ có nơi nội tâm
Xa lìa việc ở tâm
Không thể nói duy tâm
Nếu thấy việc bên ngoài
Chúng sinh khởi sinh tâm
Tại sao tâm không nhân
Không thể nói duy tâm
Chân như chỉ có tâm
Người nào không pháp Thánh
Có cùng với không có
Ấy chẳng hiểu pháp ta
Pháp năng chấp, sở chấp
Nếu tâm sinh như vậy
Đó là tâm thế gian
Không thể nói duy tâm
Thân do duyên hiện có
Giống như trong mộng sinh
Nên có hai loại tâm
Mà tâm không hai tướng
Như dao không tự cắt
Tay không chỉ có ngón
Như tâm không tự thấy
Việc kia cũng như vậy
Không kia, không nhân duyên
Phân biệt, chỗ phân biệt
Năm pháp và hai tâm
Tịch tĩnh không như vậy
Năng sinh cùng với sinh
Và hai loại pháp tướng
Ý ta không năng sinh
Nói pháp không tự tướng
Thể các loại hình tướng
Nếu sinh nơi phân biệt
Hư không, sừng thỏ thảy
Thể ấy không hiện sinh
Nếu có tướng các pháp
Nên có với ngoại sự
Do không ngoại phân biệt
Lìa tâm lại không pháp
Thế gian từ vô thủy
Không có ngoài các pháp
Do tâm không nhân sinh
Mà thấy nơi ngoại nghĩa
Nếu nhân không sinh trưởng
Sừng thỏ cũng hiện sinh
Do nhân không tăng trưởng
Tại sao sinh phân biệt
Như không pháp hiện tại
Vậy nguồn gốc cũng không
Không thể hòa hợp thể
Tại sao tâm hay sinh
Chân như, không, thật tế
Niết-bàn và pháp giới
Tất cả các pháp sinh
Là pháp Đệ nhất nghĩa
Phàm phu rơi có, không
Phân biệt nhân và duyên
Không nhân vốn không sinh
Không biết nơi ba cõi
Tâm thấy với sở kiến
Tà kiến nhân vô thủy
Vô thủy cũng không pháp
Sao thấy pháp khác sinh
Nếu không vật hiện sinh
Người nghèo phải nhiều của
Vì sao không vật sinh
Nay Phật vì con nói
Tất cả đều duy tâm
Mà không không các pháp
Càn-thát-bà, mộng, huyễn
Các pháp không có nhân
Không sinh, không thể, tướng
Pháp không là ta nói
Lìa xa pháp hòa hợp
Là không thấy pháp sinh
Bấy giờ không không sinh
Ta nói không pháp tướng
Mộng, huyễn và hoa đốm
Càn-thát-bà, ái nước
Không nhân mà hiện có
Pháp thế gian cũng vậy
Hòa hợp nhau như thế
Lìa nơi không Sở kiến
Chẳng phải ngoại đạo thấy
Hòa hợp không như vậy
Hàng phục nương không nhân
Thành tựu nơi không sinh
Nếu thành tựu không sinh
Pháp luân ta không diệt
Nói về không nhân, tướng
Ngoại đạo sinh sợ hãi
Tại sao, vì người nào?
Ở đâu đến nghe pháp
Ở đâu sinh các pháp
Không nhân mà pháp sinh
Sinh ở trong không nhân
Mà không ở hai nhân
Nếu người trí hay biết
Bấy giờ chuyển tà kiến
Nói sinh tất cả pháp
Không sinh là không vật
Vì quán các nhân duyên
Bấy giờ chuyển tà kiến
Vì pháp có, danh có
Vì pháp không, danh không
Mà pháp không không sinh
Cũng không đợi nhân duyên
Danh không nương nơi pháp
Mà danh chẳng không thể
Thanh văn, Bích-chi-phật
Ngoại đạo không cảnh giới
Bồ-tát trụ Thất địa
Ấy là tướng không sinh
Chuyển nơi pháp nhân duyên
Cho nên ngăn nghĩa nhân
Chỉ nói nương nơi tâm
Nên ta nói không sinh
Không nhân sinh các pháp
Lìa phân biệt, phân biệt
Lìa kiến lập có, không
Nên ta nói không sinh
Tâm lìa nơi sở kiến
Cũng lìa xa hai thể
Chuyển nơi pháp y chỉ
Nên ta nói không sinh
Không mất ngoài pháp thể
Cũng không chấp trong tâm
Lìa tất cả tà kiến
Đây là tướng không sinh
Như vậy không không tướng
Tất cả nên quán sát
Pháp không chẳng sinh không
Vốn không sinh là không
Các nhân duyên hòa hợp
Pháp sinh cùng pháp diệt
Lìa nơi pháp hòa hợp
Không sinh cũng không diệt
Nếu lìa pháp hòa hợp
Lại không thể thật pháp
Một thể và khác thể
Như Ngoại đạo phân biệt
Pháp có, không không sinh
Chẳng thật sinh không sinh
Lìa xa các nhân duyên
Sinh cùng với không sinh
Chỉ đối với tên gọi
Đây, kia buộc, thay đổi
Thể đã sinh tất không
Vòng nhân duyên sai biệt
Lìa sinh và không sinh
Là lìa các ngoại đạo
Ta nói vòng trói buộc
Nhưng phàm phu không biết
Có thể sinh pháp thể
Lìa trói buộc không khác
Người kia không nói nhân
Phá diệt, hoại trói buộc
Như đèn chiếu sáng vật
Trói buộc cũng giải tỏa
Nếu lại phân biệt pháp
Lìa xa thể ràng buộc
Không thể cũng không sinh
Tự tánh như hư vọng
Lìa xa pháp trói buộc
Ngu si tà phân biệt
Đây là khác không sinh
Pháp Thánh nhân chứng đắc
Pháp ấy sinh không sinh
Không sinh là Vô sinh
Nếu thấy các thế gian
Tức là duyên ràng buộc
Thế gian lìa trói buộc
Lúc ấy tâm đắc định
Vô minh, ái và nghiệp
Là pháp buộc bên trong
Lún bùn vòng tròn thảy
Pháp bên ngoài bốn đại
Nương nơi thể pháp kia
Là từ nhân duyên sinh
Không chỉ thể trói buộc
Không thể so sánh được
Nếu pháp sinh kia không
Biết pháp nào làm nhân
Pháp kia thay đổi sinh
Chẳng phải các nhân duyên
Ấm, nóng, động và cứng
Người ngu si phân biệt
Trói buộc này không pháp
Cho nên không thể, tướng
Như thầy thuốc trị bệnh
Trị bệnh có sai khác
Mà xem bệnh như nhau
Tùy bệnh cho khác thuốc
Ta nương thân chúng sinh
Các phiền não, ô trược
Biết các căn và lực
Ta vì người ngu, nói
Phiền não, căn sai khác
Ta dạy không sai biệt
Ta chỉ có Nhất thừa
Tám Thánh đạo mát mẽ
Bình, vải, mũ và sừng
Sừng thỏ không phải nhân
Không nhân nương kia sinh
Nhưng không pháp nhân kia
Mà đó không pháp nhân
Ngươi không được chấp không
Nương nhân có nên không
Nương không không giống nhau
Pháp có đối pháp không
Là pháp đối đãi nhau
Nương một phần pháp có
Thấy một phần pháp có
Không nhân thấy ít pháp
Ít pháp là không nhân
Nếu như nương ngoài pháp
Đây, kia thay đổi thấy
Như vậy lỗi không cùng
Thể ít cũng không ít
Nương sắc, cây cả thảy…
Pháp thấy giống như huyễn
Như vậy việc nương tựa
Người thấy có các loại
Ảo thuật không phải sắc
Không phải cây, không đá
Ngu si thấy như huyễn
Nương tựa nơi thân huyễn
Nương tựa nơi việc thật
Nếu thấy được ít việc
Lúc thấy không hai pháp
Tại sao thấy ít việc
Phân biệt, không phân biệt
Mà chẳng không phân biệt
Nếu phân biệt pháp không
Trói không, giải thoát không
Do phân biệt pháp không
Nên không sinh phân biệt
Nếu không sinh phân biệt
Không thể nói duy tâm
Mỗi mỗi tâm sai khác
Trong pháp, pháp không thật
Bởi vì pháp không thật
Không thế gian, giải thoát
Không ngoại vật, chỗ thấy
Ngu si vọng phân biệt
Như ảnh hiện trong gương
Do tâm huân mê muội
Tất cả pháp không sinh
Không có tợ có sinh
Tất cả chỉ tâm này
Lìa với các phân biệt
Người ngu nói các pháp
Từ nhân, không phải trí
Lìa thật thể nơi tâm
Tâm Thánh nhân thanh tịnh
Tăng-già thầy ở đời
Bà-la-môn lõa hình
Cùng với trời Tự tại
Không thật, đọa tà kiến
Thể không, sinh cũng không
Như hư không không nhiễm
Các Phật nói làm gì?
Và Phật vì ai nói
Người tu hành thanh tịnh
Lìa giác quán tà kiến
Quá khứ Phật đã nói
Nay ta cũng nói vậy
Nếu tất cả duy tâm
Thế gian trụ ở đâu?
Đi, đến nương pháp nào?
Làm sao thấy nơi đất
Như chim trong hư không
Nương theo gió mà bay
Không trụ, không quán sát
Ở trên đất mà đi.
Như vậy các chúng sinh
Nương gió động phân biệt
Đi, lại trong tự tâm
Như chim bay trong không
Thấy thân do duyên sinh
Phật nói tâm như vậy
Vì sao hiện thấy nhân
Chỉ là tâm, xin nói
Do duyên thân hiện hữu
Hiện thấy nương huân sinh
Người không tu hành sinh
Hiện thấy sinh phân biệt
Phân biệt thể cảnh giới
Tâm nương cảnh giới sinh
Biết đối với tâm sinh
Không lại sinh phân biệt
Nếu hay thấy phân biệt
Lìa xa giác, sở giác
Danh, danh không cùng hợp
Là nói pháp hữu vi
Đây chỉ là sở giác
Danh, danh không lẫn lộn
Lìa nơi tri, sở tri
Là nói pháp hữu vi
Đây chỉ là sở giác
Trong danh, danh không lìa
Nếu người tà giác biết
Không tự giác, giác tha
Năm pháp vốn thật pháp
Cùng với tám loại thức
Hai loại không pháp ta
Nhiếp giữ nơi Đại thừa
Nếu thấy tri, sở tri
Tịch tĩnh thấy thế gian
Trong danh, danh phân biệt
Bấy giờ lại không sinh
Tạo danh tự phân biệt
Thấy kia lại không sinh
Không thấy nơi tự tâm
Cho nên sinh phân biệt
Bốn ấm không các tướng
Ấy là vô số pháp
Tại sao sắc nhiều loại
Tướng bốn Đại khác nhau
Xả bỏ các pháp tướng
Không các đại và đại
Nếu có sắc tướng khác
Vì sao ấm không sinh
Nếu thấy tướng như vậy
Không thấy các ấm, nhập
Nương cảnh, căn và thức
Nên sinh tám loại thức
Nương tướng có ba loại
Tịch tĩnh không như vậy
A-lại-da, ý, ngã
Ngã sở cùng với trí
Do chấp nơi hai pháp
Biết pháp ấy tức diệt
Lìa xa pháp đây, kia
Nếu thấy không tướng lìa
Thế gian, tâm phân biệt
Thế Tôn vì con nói
Không phân biệt hai pháp
Ngã cùng với ngã sở
Không tăng trưởng phân biệt
Cũng không nhân ý thức
Lìa xa nhân và duyên
Không vật cũng không sinh
Phân biệt chỉ là tâm
Thế Tôn vì con nói
Lìa xa các nhân duyên
Lìa năng kiến, sở kiến
Thấy tự tâm các loại
Sở kiến vọng phân biệt
Không biết tự tâm thấy
Không hiểu nghĩa tâm khác
Không thấy tà kiến thành
Đối với trí không sinh
Kia vì sao không có
Tâm người kia chấp có
Phân biệt chẳng có, không
Nên không sinh tâm có
Không biết chỉ tâm thấy
Cho nên sinh phân biệt
Không phân biệt, phân biệt
Diệt nó rồi không nhân
Ngăn bốn loại bè đảng
Nếu các pháp có nhân
Tướng danh tự này khác
Người kia tạo không thành
Kia nên tự sinh khác
Không ứng hợp nhân sinh
Nhân duyên nên hòa hợp
Để ngăn nhân sinh pháp
Ta ngăn với lỗi thường
Hoặc các duyên vô thường
Là không sinh, không diệt
Ngu si thấy vô thường
Diệt pháp tướng, pháp không
Không thấy tạo tác nhân
Nên vô thường cho có
Vì sao người không thấy
Ta nhiếp thủ chúng sinh
Dùng trì giới hàng phục
Trí tuệ diệt tà kiến
Nương giải thoát tăng trưởng
Tất cả các thế gian
Ngoại đạo nói dối gạt
Nương nhân, quả tà kiến
Tự pháp không thể lập
Nhưng thành “pháp tự lập”
Lìa nơi nhân, duyên, quả
Nói các chúng đệ tử
Lìa xa pháp thế tục
Duy tâm, chỗ thấy không
Tâm thấy nơi hai loại
Lìa sở chấp, năng chấp
Cũng lìa xa đoạn, thường
Chỉ có tâm chuyển động
Đều là pháp thế tục
Lại không khởi chuyển sinh
Thế gian là tự tâm
Người đến là sự sinh
Người đi là sự diệt
Như thật biết đến đi
Lại không sinh phân biệt
Thường, vô thường, tạo tác
Không tạo tác đây, kia
Như vậy tất cả pháp
Đều là pháp thế tục
Trời, người, A-tu-la
Súc sinh, quỷ Dạ-ma
Chúng sinh đến cõi kia
Ta nói ở sáu đường
Nghiệp nhân thượng, trung, hạ
Thường sinh ở cõi kia
Khéo giữ gìn thiện pháp
Được thắng xứ giải thoát
Phật dạy mỗi niệm sinh
Sinh tử và đọa lạc
Vì chúng Tỳ-kheo, nói
Ý nào vì con, nói
Tâm không đến lần hai
Đã diệt không tiếp nối
Ta vì đệ tử, nói
Tâm thay đổi sinh diệt
Mỗi sắc phân biệt có
Sinh và diệt đã xong
Phân biệt tức là người
Lìa phân biệt không người
Ta nói về pháp niệm
Nương kia ta nói xong
Lìa chấp thủ sắc tướng
Không sinh cũng không diệt
Nhân duyên từ duyên sinh
Vô minh, chân như thảy
Nương hai pháp mà sinh
Chân như không phải thể
Nhân duyên từ duyên sinh
Nếu vậy không pháp khác
Từ thường sinh ra quả
Quả tức là nhân duyên
Không khác với ngoại đạo
Nhân, quả cùng xen lẫn
Phật và chư Phật nói
Đại Mâu-ni không khác
Tầm cứu trong thân này
Khổ đế và Tập đế
Diệt đế và Đạo đế
Ta vì các Phật tử
Chấp ba pháp thật có
Thủ, sở thủ, tà kiến
Pháp thế gian, xuất thế
Người phàm phu phân biệt
Ta rõ biết pháp kia
Cho nên nói ba pháp
Vì ngăn tà kiến kia
Chớ phân biệt thật thể
Nói qua pháp không định
Cũng lại không tâm sinh
Thật cũng không hai thủ
Chân như không hai loại
Vô minh và ái, nghiệp
Thức thảy từ tà sinh
Không cùng, không tạo tác
Trong tạo tác không sinh
Các pháp bốn loại diệt
Kẻ ngu si đã nói
Phân biệt hai loại sinh
Có vật, không có vật
Lìa xa bốn loại pháp
Cũng lìa xa bốn kiến
Hai loại sinh phân biệt
Kiến thấy lại không sinh
Các pháp vốn không sinh
Khởi nơi trí phân biệt
Hiện sinh nơi các pháp
Bình đẳng chớ phân biệt
Nguyện Thế Tôn Mâu-ni
Vì con và chúng sinh
Như pháp tương ưng, nói
Lìa hai loại nhị kiến
Ta lìa nơi tà kiến
Cùng các Bồ-tát khác
Thường không thấy có, không
Do không thấy pháp kia
Lìa ngoại đạo xen tạp
Lìa Thanh văn, Duyên giác
Phật chứng, các pháp Thánh
Vì con nói không mất
Nhân điên đảo, nhân không
Vô sinh và tất cả
Danh khác, các mê hoặc
Bậc trí đã xa lìa
Như mây, mưa, lầu các
Cung điện và cầu vòng
Sóng nắng, hoa đốm, huyễn
Có, không từ tâm sinh
Các ngoại đạo phân biệt
Thế gian từ nhân sinh
Không sinh pháp Chân như
Và cùng thật tế, không
Là các tên pháp khác
Chớ phân biệt không vật
Đối với sắc, các loại
Chớ phân biệt pháp không
Như bàn tay thế gian
Tự do để phá vật
Như vậy tất cả pháp
Chớ phân biệt pháp không
Lìa sắc, không không khác
Cũng không sinh thể pháp
Chớ phân biệt không khác
Phân biệt, chấp tà kiến
Phân biệt, sở phân biệt
Nắm lấy nơi sự tướng
Dài, ngắn, vuông, tròn thảy
Là chấp tướng, phân biệt
Phân biệt là tâm pháp
Sở phân biệt là ý
Nếu hay như pháp biết
Lìa năng tướng, sở tướng
Ngoại đạo nói không sinh
Và chấp nơi ngã, pháp
Phân biệt tướng như vậy
Nhị kiến này không khác
Ý gì, nói như thế
Nếu biết rõ như vậy
Người ấy vào vô lượng
Hay hiểu ta nói pháp
Do thấy vậy, chìm đắm
Không sinh là không nương
Biết đúng hai loại nghĩa
Nên ta nói không sinh
Các pháp không có sinh
Mâu-ni vì con, nói
Không nhân, không giống nhau
Không có pháp xen tạp
Không nhân cũng không sinh
Khác nhân, ngoại đạo thấy
Lìa có, không, pháp không
Nên nói chỉ là tâm
Sinh cùng với không sinh
Lìa pháp là tà kiến
Nói không nhân, không sinh.
Nói có là chấp nhân
Tự nhiên không tác giả
Tác giả là tà kiến
Phương tiện, các nguyện thảy
Thấy đó vì con nói
Nếu các pháp là không
Tại sao sinh ba đời
Lìa năng chấp, sở chấp
Không sinh cũng không diệt
Từ vật thấy vật khác
Nương pháp kia tâm sinh
Các pháp không hóa sinh
Làm sao vì con nói
Thật có mà không biết
Cho nên ta nói pháp
Trong các pháp Mâu-ni
Trước sau lìa tự tướng
Lìa các lỗi ngoại đạo
Lìa nơi nhân điên đảo
Sinh cùng với không sinh
Đại sư vì con nói
Lìa có cùng với không
Không mất nơi nhân, quả
Địa và các Thứ đệ
Vì nói một vô tướng
Thế gian rơi nhị biên
Bị các kiến mê hoặc
Không sinh không sinh thảy
Không biết nhân tịch diệt
Ta không pháp ba đời
Ta cũng không nói pháp
Có hai tất có lỗi
Chư Phật vốn thanh tịnh
Các pháp, không, sát-na
Không thể cũng không sinh
Nói tà pháp, che tâm
Phân biệt không Như Lai
Sinh cùng với không sinh
Xin nguyện vì con nói
Vì sao những pháp gì
Lìa cảnh giới mà sinh
Đầy đủ sắc hòa hợp
Tụ tập từ hý luận
Chấp nơi ngoài sắc tướng
Từ phân biệt mà sinh
Người biết về pháp ấy
Là hiểu nghĩa “như thật”
Tùy thuận tánh Thánh nhân
Mà tâm lại không sinh
Lìa xa tất cả đại
Không tương ưng pháp sinh
Tâm hư vọng quán đại
Quán như vậy không sinh
Chớ phân biệt sai khác
Người trí không phân biệt
Phân biệt với phân biệt
Hai pháp không Niết-bàn
Lập ra pháp không sinh
Như huyễn không thấy pháp
Từ các nhân huyễn sinh
Phá việc lập các pháp
Tâm như hình trong gương
Nhân huân tập vô thủy
Tự nghĩa mà không nghĩa
Quán các pháp như vậy
Như hình bóng trong gương
Lìa xa một, hai tướng
Sở kiến không, chẳng không
Các tướng cũng như vậy
Càn-thát-bà, huyễn thảy
Quán nương nơi nhân duyên
Như vậy thể các pháp
Pháp sinh, chẳng không sinh
Phân biệt tựa như người
Hai loại nương nhau hiện
Nói ngã cùng với pháp
Mà người ngu không biết
Tương vi và vô nhân
Thanh văn, các La-hán
Tự thành và Phật lực
Là năm hạng Thanh văn
Thời nhiếp thủ và diệt
Đệ nhất lìa đệ nhất
Là bốn loại vô thường
Ngu, không trí phân biệt
Ngu si rơi nhị biên
Công đức và vi trần
Không biết nhân giải thoát
Do chấp pháp có, không
Giống như người ngu si
Chắp tay là mặt trăng
Thích danh tự như vậy
Không biết thật pháp ta
Các đại, tướng khác nhau
Thể không sắc cũng sinh
Mà các đại hòa hợp
Không đại, không nương đại
Lửa hay thiêu các sắc
Nước làm mục nát vật
Gió lay động các sắc
Làm sao đại cùng sinh
Sắc ấm cùng với thức
Là hai pháp không năm
Các ấm này khác tên
Ta nói như Đế Thích
Vô số tâm sai biệt
Hiện chuyển các pháp sinh
Bốn đại đây, kia khác
Sắc, tâm không nương theo
Nương xanh thảy có trắng
Nương trắng có xanh thảy
Nương nhân, quả nên sinh
Không, có cùng với không
Nương năng tạo, sở tạo
Nóng, lạnh thấy, chỗ thấy
Tất cả pháp như vậy
Vọng biết, không thể thành
Tâm, ý, sáu thức khác
Các thức cùng hòa hợp
Lìa nơi một thể khác
Sinh tử hư vọng sinh
Sư Tăng-khư-tỳ-thế
Lõa hình, trời Tự tại
Đọa bè đảng có, không
Lìa xa nghĩa tịch tĩnh
Sinh tướng mạo thù thắng
Sinh bốn đại, không trần
Là ngoại đạo nói sinh
Bốn đại và bốn trần
Ngoài ra không thể sinh
Ngoại đạo phân biệt nhân
Ngu si nên không hiểu
Nương bè đảng có, không
Sinh cùng tâm tương ưng
Tử không cùng tương ưng
Pháp thật tương thanh tịnh
Trụ cùng trí tương ưng
Nghiệp cùng với sắc tướng
Năm ấm, cảnh giới, nhân
Thể chúng sinh không nhân
Không trụ Vô sắc giới
Phật nói pháp vô ngã
Không sắc đồng ngoại đạo
Thuyết vô ngã là đoạn
Thức cũng không nên sinh
Tâm có bốn loại trụ
Không sắc làm sao trụ
Tướng trong, ngoài các pháp
Mà thức không cùng hành
Kẻ vọng hiểu chấp có
Trong ấm có năm ấm
Như vậy không sắc sinh
Có mà là không sắc
Tự nhiên được giải thoát
Không chúng sinh và thức
Là ngoại đạo không nghi
Hiểu lầm, không thể biết
Hoặc chỗ ấy không sắc
Cho nên thấy không sắc
Kia không, chẳng lập pháp
Chẳng phải thừa, không thừa
Thức từ chủng tử sinh
Hòa hợp cùng các căn
Một phần tám loại sắc
Đối niệm thời không chấp
Sắc không trụ nơi thời
Căn không trụ với căn
Cho nên Như Lai nói
Các căn, niệm không trụ
Nếu không thấy thể sắc
Thức làm sao phân biệt
Nếu biết là không sinh
Vì sao thế gian sinh
Vừa sinh thời liền diệt
Phật không nói như thế
Nhất thời cũng không niệm
Hư vọng phân biệt chấp
Các căn và cảnh giới
Ngu si không biết đến
Ngu si nghe là chấp
Thánh nhân biết như thật
Ý thức không nương tựa
Dùng không nhân chấp lấy
Không khéo biết nơi ngã
Lìa hẳn nơi pháp có
Ngu đối pháp có, không
Giác ngộ lìa thật trí
Hữu vi, vô vi, ngã
Ngu si không thể biết
Trong một có pháp thí
Trong khác cũng như vậy
Trong tâm cùng một thể
Ý thức hay hiểu biết
Nếu thí đúng là tâm
Tâm sở là tên gọi
Tại sao lìa năng chấp
Phân biệt nơi một, khác
Cùng nhân, nương tựa thấy
Nghiệp sinh, tạo nghiệp thảy
Như lửa, thuyết như vậy
Giống như pháp tương tợ
Như lửa một thời gian
Thiêu và chỗ thiêu khác
Như vậy ta nương nhân
Vọng hiểu sao không vậy
Sinh cùng với không sinh
Mà tâm thường thanh tịnh
Người mê vọng lập Ngã
Cớ sao không nói dụ
Mê nơi rừng rậm thức
Lìa xa pháp chân thật
Vọng hiểu chạy Đông, Tây
Tìm thần ngã cũng vậy
Trong thân tu thật hạnh
Ta là tướng thanh tịnh
Cảnh Phật Như Lai tạng
Vọng hiểu không cảnh giới
Năng chấp và sở chấp
Năm ấm, ngã sai biệt
Nếu hay biết nơi tướng
Bấy giờ sinh chân trí
Ngoại đạo nói ý thức
Tạng thể A-lại-da
Tương ưng cùng với ngã
Pháp ta không nói vậy
Nếu như thật biết pháp
Thật đế được giải thoát
Tu hành mà thấy đạo
Đoạn phiền não, thanh tịnh
Tự tánh tâm thanh tịnh
Pháp thân tịnh Như Lai
Pháp này nương chúng sinh
Lìa hữu biên, vô biên
Như vàng cùng với sắc
Tánh đá cùng vàng thật
Người chế tạo hay biết
Chúng sinh với ấm vậy
Không người, không phải ấm
Phật, bậc Trí vô lậu
Vô lậu là Thế Tôn
Cho nên con quy y
Tự tánh tâm thanh tịnh
Phiền não và tạo nghiệp
Cùng năm ấm tương ưng
Bậc Thù thắng đã nói
Tự tánh tâm thanh tịnh
Ý thảy là nhân duyên
Nó hay tạo các nghiệp
Nên hai loại nhiễm ấy
Ý thảy pháp trần lụy
Ta thanh tịnh phiền não
Kia nương phiền não nhiễm
Cấu bẩn nương thanh tịnh
Như áo lìa cấu bẩn
Cũng như vàng lìa bẩn
Có mà không thể thấy
Ta lìa lỗi cũng vậy
Như đàn cầm, tiếng trống
Các âm thanh vi diệu
Trong ấm, ngã cũng vậy
Ngu si tìm một, khác
Trong đất chứa vật báu
Cùng với nước trong sạch
Trong ấm, ngã cũng vậy
Thật có, không thể thấy
Tâm pháp và tâm sở
Công đức, ấm hòa hợp
Trong ấm, ngã cũng vậy
Ngu si không thể thấy
Như bào thai phụ nữ
Tuy có mà không thấy
Ngã ở trong năm ấm
Ngu si nên không thấy
Như gánh vác hương thuốc
Lửa cùng với các củi
Trong ấm, ngã cũng vậy
Ngu si không thể thấy
Trong tất cả các pháp
Vô thường cùng với không
Trong ấm, ngã cũng vậy
Ngu si không thể thấy
Các Địa và tự tại
Thần thông cùng thọ vị
Các pháp Vô thượng diệu
Cùng các Tam-muội khác
Và cảnh giới thù thắng
Nếu trong ấm không ngã
Mà tất cả pháp này
Hết thảy cũng đều không
Có người phá hoại, nói
Hoặc có ngã ứng hiện
Bậc trí tuệ nên đáp
Ngã ứng hiện tâm người
Nói Ngã không chân như
Chỉ là nói hư vọng
Tạo tác nghiệp Tỳ-kheo
Không nên cùng hòa hợp
Người này lập có, không
Đọa vào hai bè đảng
Phá hoại các Phật pháp
Ấy không trú pháp ta
Lìa lỗi các ngoại đạo
Đốt cháy vô ngã kiến
Khiến ngã kiến hừng cháy
Như kiếp tận thiêu hủy
Như đường phèn, Bồ-đào
Sữa, dầu, cao sữa thảy
Nơi ấy có các vị
Người không dùng không biết
Nắm giữ trong năm loại
Năm ấm, ngã cũng vậy.
Người ngu si không thấy
Trí thấy đắc giải thoát
Nói rõ các thí dụ
Tâm pháp không thể thấy
Ở đâu, nhân duyên gì
Hòa hợp không thể thấy
Các pháp khác thể, tướng
Nhất tâm không thể chấp
Không nhân cũng không sinh
Hư vọng hiểu sai lầm
Thật hành là thấy tâm
Trong tâm không thấy tâm
Chỗ thấy theo thấy sinh
Chỗ thấy nhân nào tạo
Ta họ Ca-chiên-diên
Từ trời Thủ-đà-hội
Vì chúng sinh, thuyết pháp
Hướng đến thành Niết-bàn
Là đường đi xưa kia
Ta và chư Phật kia
Ba ngàn Tu-đa-la
Nói về pháp Niết-bàn
Dục giới và Sắc giới
Phật không kia thành Phật
Trên trời Vô sắc giới
Ly dục thành Bồ-đề
Cảnh giới không buộc nhân
Cảnh giới nhân là buộc
Nương trí đoạn phiền não
Kiếm bén người tu hành
Có ngã, có huyễn thảy
Pháp có, không là gì
Ngu không thấy như vậy
Vì sao có vô ngã
Do có tạo, không tạo
Không nhân mà chuyển sinh
Tất cả pháp không sinh
Ngu si không hiểu biết
Các nhân không thể sinh
Các duyên cũng không tạo
Hai kia không thể sinh
Làm sao phân biệt duyên?
Trước, sau và bây giờ
Người vọng hiểu nói nhân
Hư không, bình, đệ tử
Tất cả các vật sinh
Phật không tạo hữu vi
Các tướng, tướng trang nghiêm
Là công đức Chuyển luân
Không được gọi chư Phật
Chư Phật là trí tướng
Lìa các lỗi tà kiến
Trong thân là trí thấy
Lìa hẳn các lỗi lầm
Điếc, mù lòa, câm ngọng
Lớn, nhỏ ôm lòng ác
Tất cả người như thế
Gọi là không phạm hạnh
Thể rộng lớn, vi diệu
Là tướng Chuyển luân vương
Xuất gia hoặc một, hai
Ngoài ra là buông lung
Tỳ-da, Sa-ca-na
Cùng với Lê-sa-bà
Ca-tỳ-la, Thích-ca
Sau, ta nhập Niết-bàn
Đời vị lai sẽ có
Các bậc Xuất thế ấy
Ta mất, sau trăm năm
Tỳ-da-bà, Vi-đà
Cùng với Bàn-trà-bà
Cưu-la-bà-thất-la
Sau đó lại hiện hữu
Cùng với Mao Ly thảy
Đến Mao Ly, Quật-đa
Kế, có vua vô đạo
Đến lúc đao, kiếm loạn
Kế đao, kiếm mạt thế
Rồi vào đời mạt thế
Không pháp, không tu hành
Quá khứ, vị lai ấy
Như luân chuyển thế gian
Lửa, mặt trời cùng hợp
Thiêu cháy cõi Dục giới
Lại thành thế giới diệu
Khí thế gian kia sinh
Bốn họ và vua chúa
Các Tiên nhân và pháp
Cúng dường hội thí lớn
Thời pháp lại như cũ
Nói pháp vẫn như vậy
Văn chương và chú giải
Chú giải lại tạo ra
Các thuyết nhiều vô lượng
Như vậy ta nghe hết
Mê muội các thế gian
Không biết pháp chân thật
Pháp gì là đúng, sai
Pháp nhiễm như xiêm y
Giặt giũ cho sạch sẽ
Nước, bùn, phân trâu thảy
Hoại sắc mà thọ dùng
Các hương xoa thân, y
Lìa nơi tướng ngoại đạo
Thông suốt pháp luân ta
Là các tướng Như Lai
Không lọc nước không uống
Dây lưng buộc nội y
Đúng thời đi khất thực
Xa lìa nhà trộm cướp
Sinh cảnh trời vi diệu
Cõi tốt đẹp loài người
Các báu cùng thành tựu
Tự tại trong trời, người
Người nương pháp tu hành
Sinh trời Tứ thiên vương
Nhiều lúc được thọ dụng
Do tham nhiều nên diệt
Đúng lúc gặp ba nạn
Và ở ba đời ác
Ta và người gặp lúc
Thời mạt thế Thích-ca
Dòng họ Tất-đạt-đa
Trời Bát tý, Tự tại
Như vậy, các ngoại đạo
Ta diệt, hiện ở đời
Ta nghe hết tất cả
Sư tử Thích-ca nói
Từng có việc như thế
Ty-da-bà nói vậy
Bát tý, Na-la-diên
Và Ma-hê-thủ-la
Nói những lời như vậy
Ta hóa thân thế gian
Mẹ ta tên Thiện Tài
Cha tên Phạm thiên vương
Ta, họ Ca-chiên-diên
Lìa xa các phiền não
Sinh ở thành Chiêm-bà
Cha ta và ông nội
Cha tên là Nguyệt Hộ
Từ dòng trăng sinh ra.
Xuất gia tu thật hạnh
Nói đến hơn ngàn câu
Thọ ký cho Đại Tuệ
Bảo vận chuyển pháp luân
Đại Tuệ cùng Pháp Thắng
Thắng truyền Di-khư-lê
Di-khư cùng đệ tử
Vào đời sau pháp diệt
Ca-diếp, Câu-lưu-tôn
Câu-na-hàm và ta
Lìa xa các phiền não
Tất cả thành Chánh giác
Sau thời chánh pháp ấy
Có Phật tên Như Ý
Ở đó thành Chánh giác
Vì người nói năm pháp
Không hai trong ba nạn
Qua mạt thế cũng vậy
Chư Phật không xuất hiện
Đúng lúc hiện ở đời
Không có người trộm cướp
Y phục không cắt, rọc
Mặc áo vô số mảnh
Như Khổng tước hoại sắc
Hai tấc đến ba tấc
Nôi nhau mà vá lại
Nếu không làm như vậy
Ngu sẽ tham đoạt lấy
Thường diệt lửa tham dục
Nước trí thường tẩy rửa
Ngày đêm trong sáu thời
Tu hành pháp như thật
Như phóng tên, cây, đá
Phóng ra rồi rơi xuống
Phóng một thì rơi một
Thiện, không thiện cũng vậy
Trong một không nhiều loại
Do không cùng như vậy
Như gió thổi tất cả
Như ruộng đất bị cháy
Nếu một tạo tác nhiều
Tất cả không tạo có
Không vậy, tất cả mất
Là pháp người vọng hiểu
Như đèn và tim đèn
Vì sao giống nhau nhiều?
Một hay sinh ra nhiều
Là pháp người mê hiểu
Như vừng không sinh đậu
Lúa tẻ không sinh mì
Ít hạt giống lúa mì
Làm sao một sinh nhiều?
Luận Ba-ni xuất thanh
Thái bạch A-xoa-ba
Mạt thế có tạng Phạm
Nói về luận thế tục
Ca-chiên-diên tạo kinh
Dạ-bà-già cũng vậy
Thiên văn Phù-trù-ca
Là luận cuối mạt thế
Ba-lợi nói phước đời
Người đời nương phước đức
Thường hộ trì các pháp
Vua Bà-ly cho đất
Di-ca-ma-tu-la
A-thư-la các thuyết
Mê hoặc và luận chủ
Mạt thế chư Thiên hiện
Thích tử Tất-đạt-đa
Phù-đơn-đà ngũ giác
Khẩu Lực và Điểm Tuệ
Ta diệt rồi, xuất hiện
A-thị-na, Tam-quật
Di-khư-la, Tháo Quán
Ta ở A-lan-nhã
Phạm thiên thí cho ta
Ông ở đời vị lai
Gọi Bậc xa trần cấu
Hay nói chân giải thoát
Là các tướng vắng lặng
Phạm thiên cùng Phạm chúng
Cùng các chúng trời khác
Da nai đều cho ta
Trở lại trời Tự tại
Các y phục vá nạp
Cùng với bát khất thực
Đế Thích, Tứ Thiên vương
Đem đến cúng cho ta
Nói không sinh và nhân
Sinh cùng với không sinh
Sẽ thành nơi không sinh
Là chỉ nói ngôn ngữ
Nếu các nhân vô minh
Hay sinh nơi các tâm
Lúc chưa sinh nơi sắc
Trung gian trụ ở đâu?
Tức thời diệt nơi tâm
Mà lại sinh tâm khác
Sắc không trụ một niệm
Quán pháp gì hay sinh?
Nương vào nhân duyên gì?
Tâm là nhân điên đảo
Nó không thể thành pháp
Làm sao biết sinh diệt?
Người tu hành hợp định
Kim-an-xà-na tánh
Cung điện Quang âm thiên
Pháp thế gian không hoại
Trụ nơi pháp đã chứng
Là tất cả chư Phật
Như Lai đủ trí tuệ
Tỳ-kheo chứng nơi pháp
Và pháp đã chứng khác
Pháp ấy thường không hoại
Tại sao thấy hư không?
Các pháp không trụ niệm
Sắc Càn-thát-bà huyễn
Tại sao không trụ niệm?
Các sắc không bốn đại
Các đại đâu tạo ra?
Do có tâm vô minh
Thế giới tập vô thủy
Nương sinh diệt hòa hợp
Kẻ vọng hiểu phân biệt
Tăng-khư có hai loại
Thù thắng và chuyển biến
Trong thù thắng có quả
Quả lại thành tựu quả
Thắng là thể tướng đại
Nói công đức sai biệt
Hai pháp nhân và quả
Chuyển biến ở trong không
Như thủy ngân trong suốt
Các bụi, đất không dính
Chân như sạch như vậy
Y chỉ nơi chúng sinh
Như cây hành và hẹ
Phụ nữ lúc mang thai
Muối và vị trong muối
Chủng tử tại sao có?
Khác thể, không khác thể
Hai thể lìa hai pháp
Có pháp không nhân duyên
Chẳng không nơi có, không
Như trong ngựa không trâu
Trong ấm, ngã cũng vậy
Thuyết hữu vi, vô vi
Là pháp không thể nói
Ác kiến, lượng, A-hàm
Nương cấu nhiễm mê lầm
Không biết nói có ngã
Không nhân chẳng lìa nhân
Trong năm ấm không ngã
Chấp ngã là sai lầm
Trong một và trong khác
Kẻ mê, không hiểu biết
Trong gương nước, trong mắt
Như thấy ảnh trong gương
Xa lìa nơi một, khác
Trong ấm, ngã cũng vậy
Sở quán và năng quán
Thiền đạo thấy chúng sinh
Quán sát ba pháp này
Lìa nơi pháp tà kiến
Tức diệt nơi tri kiến
Như rỗng không thấy không
Tướng các pháp chuyển biến
Người ngu vọng phân biệt
Niết-bàn lìa có, không
Trụ chỗ thấy như thật
Xa lìa pháp sinh diệt
Cũng lìa thể có, không
Lìa thấy và chỗ thấy
Quán sát pháp chuyển biến
Lìa các thuyết ngoại đạo
Lìa danh tướng, hình thể
Tà kiến nương trong thân.
Quán sát pháp chuyển biến
Chư Thiên và địa ngục
Xúc chạm và bức não
Không có pháp trung ấm
Vì sao nương thức sinh?
Thai, noãn, thấp, hóa sinh
Sinh ở trong trung ấm
Thân chúng sinh vô số
Nên quán về khứ, lai
Lìa lượng và A-hàm
Hay sinh và phiền não
Các ngoại đạo nói càn
Người trí tuệ chớ chấp
Trước quán sát nơi ngã
Sau quán nơi nhân duyên
Không biết có, nói có
Cho nên con Thạch nữ
Trí tuệ lìa mắt thường
Mắt sáng thấy chúng sinh
Lìa xa ấm hữu vi
Thân chúng sinh vi diệu
Trong sắc xấu và đẹp
Giải thoát khỏi trói buộc
Diệu thể trụ hữu vi
Hay thấy Pháp thân đẹp
Đang ở trong sáu đường
Mê hiểu không cảnh giới
Ta qua nơi cõi người
Chẳng phải mê hiểu kia
Nên thân ta không sinh
Do đâu sinh như vậy?
Như bóng đèn trên sông
Sao không nói như vậy
Mà lúc thức chưa sinh
Chưa có vô minh thảy
Lìa mê ám không thức
Tại sao liên tục sinh
Ba đời và không đời
Năm thức không thể nói
Là cảnh giới chư Phật
Người mê lầm quán sát
Trong hành không thể nói
Do lìa trí trong hành
Bám chấp trong các hạnh
Trí lìa nơi pháp hành
Nương pháp này sinh ra
Hiện thấy là không nhân
Các duyên không thể thấy
Lìa xa không người tạo
Nương gió, lửa hay đốt
Do gió động nên sinh
Gió hay thổi động lửa
Gió trở lại diệt lửa
Người ngu không phân biệt
Tại sao sinh chúng sinh?
Thuyết hữu vi, vô vi
Lìa nương tựa chỗ dựa
Làm sao thành pháp kia
Ngu phân biệt gió, lửa
Sức tăng trưởng đây, kia
Pháp đây, kia không đồng
Làm sao mà lửa sinh
Chỉ ngôn ngữ vô nghĩa
Chúng sinh là ai tạo
Mà phân biệt như lửa?
Có thể tạo ấm, nhập
Thân, ý, nhân duyên sinh
Như nghĩa thường, vô ngã
Cùng tâm thường chuyển sinh
Hai pháp thường thanh tịnh
Lìa xa các nhân quả
Lửa không thể thành kia
Người mê muội không biết
Tâm, chúng sinh, Niết-bàn
Thể vốn tự thanh tịnh
Từ vô thủy đã nhiễm
Như hư không không khác
Ngoại đạo thấy tà vậy
Như voi trắng hùng mạnh
Nương ý, ý thức che
Các đại đều thanh tịnh
Người kia thấy như thật
Thấy rồi phá phiền não
Bỏ rừng rậm thí dụ
Người kia chấp cảnh Thánh
Trí hay biết sai khác
Nó phân biệt khác thể
Người ngu si không biết
Lại nói không thể nói
Ví như trống Chiên-đàn
Người ngu lại nói khác
Như Chiên-đàn ngâm nước
Trí chư Phật cũng vậy
Người ngu không hiểu biết
Do nương thấy hư vọng
Sau trưa không thọ thực
Dùng bát nhận đủ lượng
Lìa lỗi thân, miệng, ý
Ăn thức ăn thanh tịnh
Đây là hành như pháp
Tương ưng không thể biết
Nương pháp có thể tin
Chớ theo tà phân biệt
Không đắm vật thế gian
Khéo giữ gìn chánh nghĩa
Người ấy nhận vàng thật
Hay đốt sáng đèn pháp
Lìa nhân duyên có, không
Lìa phân biệt sai lầm
Các phiền não nhơ bẩn
Xa lìa tham và sân
Bấy giờ lại không sinh
Do không nhiễm tất cả
Chư Như Lai đưa tay
Thọ ký quả vị Phật
Ngoại đạo mê nhân quả
Người khác mê nhân duyên
Và không nhân, có vật
Thấy không có Thánh nhân
Thọ nơi quả chuyển biến
Thức cùng với ý thức
Ý nương tạng thức sinh
Thức từ nơi ý sinh
Các thức nương tạng thức
Hay sinh như sóng biển
Đều từ nhân huân tập
Tùy nhân duyên mà sinh
Niệm ràng buộc sai khác
Trói buộc tâm chấp cảnh
Giống như tướng hình thể
Ý, mắt thảy thức sinh
Lỗi buộc xưa đến nay
Nương huân tập chấp cảnh
Thấy các pháp ngoài tâm
Ngăn cái thấy ngoại đạo
Nương đó sinh các thứ
Và nương đó quán sinh
Cho nên sinh tà kiến
Và thế gian sinh tử
Các pháp như mộng, huyễn
Như thành Càn-thát-bà
Sóng nắng, trăng trong nước
Quán sát nơi tâm này
Làm sai với Chân như
Chánh trí huyễn Tam-muội
Nương định Thủ-lăng-nghiêm
Và các Tam-muội khác
Hội nhập nơi Sơ địa
Đắc các thông, Tam-muội
Trí và thân Như ý
Được thọ ký làm Phật
Bấy giờ tâm không sinh
Do thấy đời hư vọng
Đắc quán địa, các Địa
Và chứng đắc quả Phật
Chuyển thành thân y chỉ
Như các sắc Ma-ni
Cũng như trăng trong nước
Các chúng sinh tạo nghiệp
Lìa bè đảng có, không
Lìa hai và không hai
Ra khỏi chỗ Tiểu thừa.
Rời xa Địa thứ bảy
Các pháp thấy trong thân
Trong mỗi Địa thanh tịnh
Lìa ngoài vật, ngoại đạo
Bấy giờ nói Đại thừa
Chuyển nơi thức phân biệt
Lìa xa diệt biến đổi
Như sừng thỏ, Ma-ni
Người đắc giải thoát nói
Nương phiền não tương ưng
Nương pháp cũng như vậy
Nương tương ưng, tương ưng
Chớ phân biệt sai khác
Nhãn thức, nghiệp và thọ
Vô minh và chánh kiến
Nhãn sắc cùng với ý
Ý thức nhiễm như vậy
Phật nói kinh diệu này
Thánh giả Đại tuệ sĩ
Bồ-tát Ma-ha-tát
Đại vương La-ba-na
Thúc-ca-bà-la-na
Ung-nhĩ-đẳng-la-xoa
Trời, Rồng, Dạ-xoa thảy
Càn-thát-bà, Tu-la
Chư Thiên, chúng Tỳ-kheo
Rất hoan hỷ, vâng làm.


[Đầu trang]


[Mục lục bộ Kinh tập][426][427][428][429][430][431][432][433][434][435][436][437][438][439][440][441][442][443][444][445][446][447][448][449][450][451][452][453][454][455][456][457][458][459][460][461][462][463][464][465][466][467][468][469][470][471][472][473][474][475][476][477][478][479][480][481][482][483][484][485][486][487][488][489][490][491][492A][492B][493][494][495][496][497][498][499][500][501][502][503][504][505][506][507][508][509][510][511][512][513][514][515][516][517][518][519][520][521][522][523][524][525][526][527][528][529][530][531][532][533][534][535][536][537][538][539][540][541][542][543][544][545][546][547][548][549][550][551][552][553][554][555][556][557][558][559][560][561][562][563][564][565][566][567][568][569][570][571][572][573][574][575][603][604][605][606][607][608][609][610][611][612][613][614][615][616][617][618][619][620][621][622][623][624][625][626][627][628][629][630][631][632][633][634][635][636][637][638][639][639][640][641][642][643][644][645][646][647][648][649][650][651][652][653][654][655][656][657][658][659][660][661][662][663][664][665][666][667][668][669][670][671][672][673][674][675][676][677][678][679][680][681][682][683][684][685][686][687][688][718][719][720][721][721][722][723][724][725][726][727][728][729][730][731][732][733][734][735][736][737][738][739][740][741][742][743][744][745][746][747A][747B][748][749][750][751][752][753][754][755][756][757][758][759][760][761][762][763][764][765][766][767][768][769][770][771][772][773][774][775][776][777][778][779][780][781][782][783][784][785][786][787][788][789][790][791][792][793][794A][794B][795][796][797A][797B][798][799][800][801][802][803][804][805][806][807][808][809][810][811][812][813][814][815][816][817][818][819][820][821][822][823][824][825][826][827][828][829][830][831][832][833][834][835][836][837][838][839][840][841][842][843][844][845][846][847]


[Mục lục tổng quát]