TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH
BỘ KINH TẬP (425-847)

SỐ 606-KINH CON ĐƯỜNG TU HÀNH

Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng Trúc Pháp Hộ.

MỤC LỤC

QUYỂN 1

BÀI TỰA

Phẩm 1: TẬP TÁN

Phẩm 2: GỐC NĂM ẤM

Phẩm 3: TƯỚNG NĂM ẤM

Phẩm 4: PHÂN BIỆT NĂM ẤM

Phẩm 5: THÀNH HOẠI CỦA NĂM ẤM

QUYỂN 2

Phẩm 6: TỪ

Phẩm 7: TRỪ SỢ HÃI

Phẩm 8: PHÂN BIỆT HÀNH TƯỚNG

QUYỂN 3

Phẩm 9: KHUYẾN Ý

Phẩm 10: LÌA ĐIÊN ĐẢO

Phẩm 11: HIỂU RÕ THỨC ĂN

Phẩm 12: PHỤC THẮNG CÁC CĂN

Phẩm 13: NHẪN NHỤC

Phẩm 14: KHÔNG ĐÁP TRẢ ĐIỀU ÁC

Phẩm 15: THIÊN NHÃN THẤY THỦY CHUNG

Phẩm 16: THIÊN NHĨ

Phẩm 17: NGHĨ VỀ ĐỜI TRƯỚC

Phẩm 18: BIẾT TÂM NIỆM NGƯỜI

Phẩm 19: ĐỊA NGỤC

QUYỂN 4

Phẩm 20: KHUYẾN DUYỆT

Phẩm 21: HÀNH KHÔNG

QUYỂN 5

Phẩm 22: THẦN TÚC

Phẩm 23: SỔ TỨC

QUYỂN 6

Phẩm 24: QUÁN

Phẩm 25: HỌC ĐỊA

Phẩm 26: BẬC VÔ HỌC

Phẩm 27: VÔ HỌC

QUYỂN 7

Phẩm 28: TU HÀNH CỦA BA BẬC ĐỆ TỬ

Phẩm 29: DUYÊN GIÁC

Phẩm 30: BỒ-TÁT


QUYỂN 1

BÀI TỰA

Người biên tập kinh Con Đường Tu Hành là vị Sa-môn Thiên Trúc, tên là Chúng Hộ, qua ở tại khu vực Khánh hưng Trung Quốc. Thuở nhỏ học kinh điển cao thâm trọng yếu, thông hết cả mười hai bộ loại kinh điển thuộc Pháp tạng. Với trí tam đạt, chẳng có gì mà ngài chẳng quán thông uyên bác, nghiên tầm chỗ huyền diệu, thể nhập sâu xa, đem lòng Từ bi rộng lớn hoằng hóa lợi ích chúng sinh, làm thêm sáng ánh đại quang, chiếu soi, khai ngộ kẻ tăm tối. Lời giáo huấn ban ra chư vị cam lồ êm dịu; quyền hiện phàm phu mà thật ra là Bồ-tát, thương nghĩ đến người sau mong cầu học đạo, hoặc vì sức kém chẳng thể tự tiến được, cho nên tổng kết sự so sánh sâu rộng giữa các kinh, lập nên con đường tắt dễ tiến tới: Phân biệt điểm cốt lõi về việc hình thành, hoại diệt của năm uẩn, làm thay đổi nỗi thống khổ của sinh tử vi tế; khuyên bảo người mê muội, nhắc nhở kẻ lầm lạc, cho nên biên soạn kinh này. Tuy văn giản lược mà nghĩa phong phú; chọn lấy những ví dụ đó đây, phòng chế tâm gian. Chỉ dùng số mục thiền định làm chuyên đề, giải bày nghĩa không, quy về sự quán tưởng không tạp loạn làm tông chỉ. Thật có thể gọi là con đường xa lìa họa hoạn đạt đến chỗ tịch tĩnh vô vi.

Phẩm 1: TẬP TÁN

Sự xuất hiện của Ngài
Sáng hơn ánh mặt trời
Đức chứa cao vời vợi
Hơn hẳn hạng đế vương.
Chư Thiên và Thần tiên
Tinh chuyên mau chóng thành
Học nhiều thông các nghĩa
Tối yếu là giữ lễ.
Trời, người, rồng, quỷ, thần
Ở đời mà tinh tấn
Phụng sự Đức Thế Tôn
Ba cõi không ai sánh.
Dùng tuệ tuyệt vời cứu
Trừ hết sợ sinh tử
Phật, Chánh pháp, chúng Tăng
Ba ngôi không gì hơn.
Nên quán đạo nhãn này
Nói đúng pháp bình đẳng
Lấy ý nêu lời Phật
Giống như rưới cam lồ.
Có người chuyên tu hành
Quán sát ở thế gian
Ba nhiêu thứ ồn ào
Nỗi bất an sinh tử.
Chìm đắm trong cuộc đời
Giống xe hư đắm bùn
Chẳng thể tự cứu được
Nên từ cốt lõi kinh.
Cũng như chọn các hoa
Thương đời nên phải nói
Chuyên nghe kinh tu hành
Trừ hữu để đạt vô.

Ngay khi đang giảng kinh Con Đường Tu Hành thì các loại phiền não bất như ý như sinh, tử, già, bệnh, âu lo, trói buộc, khóc than đều có mặt. Người tu hành, tại gia hoặc xuất gia, muốn đạt được pháp cứu cánh thanh tịnh mà chí chẳng chuyển đổi, trái lại bằng lòng với vị ngọt các hoạn cho là tuyệt diệu, thì những kẻ ấy không ai cứu giúp, không chỗ nương tựa trông nhờ, chỉ nên xả bỏ tất cả mong cầu. Vì vậy người muốn xa lìa phiền não, thường nên tinh tấn phụng hành kinh này. Bài tụng rằng:

Đọa vào sinh, già, chết, sầu buồn
Vì có thân tâm nên có khổ
Muốn được cứu độ không còn khổ
Học tu hành đạo chớ có nản.

Sao gọi không hành, sao gọi là hành?

Thế nào là tu hành, thế nào là con đường tu hành?

Kẻ không hành là kẻ nghĩ về tham dâm, giận dữ, nhằm hại thân thuộc, che khuất quốc độ, chư Thiên và pháp hủy giới cấm, quen nói lời thô ác, nghe điều bất thiện, chẳng ưa học hỏi, tự khinh thường, tự kiêu mạn, chấp hữu, khởi tà tưởng thường còn, tham muốn có chỗ ở cho thân, gần gũi nữ sắc, phóng dật, biếng lười, đắm mê tình dục, chẳng kìa nộ si, mong cầu lắm chuyện, người bỏ lánh xa, phóng túng, tự cho là mình đúng, đa nghi phóng tâm, mất đức tinh tấn, lòng luôn sợ sệt, căn môn chẳng định, đuổi theo căn trần, nói nhiều vô độ, ưa nghĩ viễn vông, luận bàn tà thuyết, thích nói việc quanh co, thuận theo điều phi pháp, xa rời đạo nghĩa, gọi đó là không hành. Như vậy, đối với đạo vô vi chẳng thể thực hiện. Bài tụng rằng:

Sân hận, tham dục nghĩ hại mạng
Thường ưa thân thể, tưởng bất tịnh
Tà trí, thuận theo bao tội lỗi
Phật nói kẻ ấy không thể hành.

Sao gọi là có thể hành? Chẳng khởi sân hận, chẳng nghĩ làm hại, gần gũi bạn lành, giữ giới thanh tịnh, nói hợp với đạo, thọ giáo học hỏi, chẳng tự khinh mạn, nghĩ đến vô thường, khổ, không chẳng phải là nơi thân có thể cư trú; chẳng cận kề nữ sắc, trừ bỏ phóng dật, chí phải tinh tấn, diệt trừ trần lao, ăn ít, biết tiết chế, thực hành cứu độ, nhiếp hóa, ngày đêm tỉnh thức, thâu giữ tâm chẳng quên, chẳng có hồ nghi, không ôm sợ sệt, căn môn vắng lặng, loại bỏ các duyên, lời nói hợp với bình đẳng, giải thoát; thích nơi ở vắng vẻ, quán đúng như thật; pháp chưa đạt được thì quan tâm đến; những pháp đang theo đuổi, kiên trì chẳng quên; hoan hỷ thâu thập điều cốt yếu của pháp hóa. Đối với cơm ăn, áo mặc nên biết rõ chỗ dừng đủ; để hết tâm trí vào kinh điển, chẳng chút mệt mỏi, luôn luôn quán tưởng về thức ăn cấu uế của thế gian vô thường, chẳng an lạc; thực hành đạo vô vi là tĩnh lặng.

Những pháp gần với vô vi như vậy gọi là pháp nên hành, mà thực hành là nhằm mong cầu cái gì, đó là Niết-bàn.

Bài tụng rằng:

Giới tịnh, chí vui, tưởng vô ngã
Chỉ nghe kinh nghĩa, theo bạn lành
Xét kỹ điều biết, làm như biết
Phật nói đây là đạo vô vi.
Các chỗ nên đến là niệm pháp
Thiền định bao nhiêu, ý không nản
Đó là đã giảng chỗ chứa đức
Nhiếp định các căn gọi là lành.

Sao gọi là tu hành, thế nào gọi là hành? Nghĩa là, luôn luôn tuân phụng sự tu tập, đó là tu hành; sự tu và tập ấy gọi là hành.

Sao gọi là con đường tu hành? Tinh chuyên theo con đường tịch tĩnh, đó là con đường tu hành. Sự tu hành ấy có ba bậc: Một là phàm phu; hai là học hướng đạo; ba là vô sở học. Đó là đối với hàng phàm phu, hàng mới tu học, hoặc hàng tu học đã lâu mà chưa thành, vì những hàng ấy mà nói kinh Con Đường Tu Hành. Còn những kẻ không học mà thông đạt thì đối với họ có gì mà luận bàn, cho nên gọi là lặng lẽ quán chiếu kinh Con Đường Tu Hành.

Thế nào là lặng lẽ quán chiếu? Hướng đến quả của bốn đức Sa-môn.

Thế nào là bốn đức? Đó là cảnh giới hữu dư Nê-hoàn.

Thế nào là hữu dư? Đó là người đang đạt đến cảnh giới vô vi.

Thế nào là đang đạt đến cảnh giới vô vi? Đó là đã trừ hết gốc rễ của tất cả khổ đau. Vì vậy hành giả muốn xả bỏ sự não hại của tất cả nỗi khổ kịch liệt, thì thường nên tinh chuyên, chẳng khởi lên việc làm nào khác, chẳng làm thương tổn điều răn cấm, tu tập tịch quán. Nếu như hành giả hủy bỏ giới cấm, làm tổn thương giáo pháp, chẳng đạt tịch quán thì uổng phí công phu. Giống như có người chà gỗ lấy lửa nhưng thường dừng nghỉ, chẳng chuyên nhất, kết quả chẳng đến đâu, đã không lấy được lửa mà uổng phí công sức. Người có tâm lười biếng mà muốn cầu vô vi, cũng giống như thế.

Bài tụng rằng:

Thường được vắng lặng, hành thiền định
Nên bỏ kiêu mạn và khinh, đua
Trân trọng tu hành chớ hủy mất
Ví như đêm tối mở mắt đi.
Như vậy hành giả thấy chỗ đến
Trí tuệ giống như tinh tấn này
Phụng sự chánh hóa chưa từng mỏi
Mới đạt đạo vô vi vắng lặng.
Thấu suốt các việc mầu, vi diệu
Quán thấu lời dạy của đại đức,
Kinh này dạy rộng, tên tịch quán
Tôi chép các kinh để diễn bày.

Phẩm 2: GỐC NĂM ẤM

Từ bao nhiêu kinh chọn cốt lõi
Lập lời cam lồ chẳng già chết
Người mà nghe rõ nên phụng hành
Trí tuệ thanh tịnh trừ tăm tối.
Như ánh mặt trời vào chỗ trống
Giống như mặt trăng chiếu các sao
Đã độ được đời, nên thọ giáo
Tròn đầy hết mức như trăng thu.
Cung phụng La-hán nên cúi đầu
Lạy Đấng Năng Nhân như hư không
Nương đấng cao độ được cam lồ
Trừ mầm mống các dục ở đời
Bao nhiêu đời sống như là quả
Mừng vui, lo lắng là các cành
Phật dạy năm ấm vốn là không
Nên xem các kinh từ bản gốc.

Các người tu hành đạo nên quán thân là cội gốc của năm ấm. Năm ấm là sắc, thống, tưởng, hành, thức. Ví như một thành, có bao nhiêu gia cư ở Đông, Tây, Nam, Bắc hợp lại mới gọi là thành. Sắc cũng như thế, chẳng phải một sắc là sắc ấm, thống, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy, chẳng phải chỉ một thức gọi là thức ấm; nó có mười nhập; hoặc pháp quán sắc, đó là sắc ấm. Tám trăm thống lạc (thọ lạc) gọi đó là thống ấm; tưởng, hành, thức ấm, mỗi thứ có tám trăm mới gọi là ấm. Hiểu về gốc năm ấm cũng nên như thế. Bài tụng rằng:

Sắc, thống, tưởng, hành, thức
Chỗ khởi của năm ấm
Ví như có thành lớn
Gồm nhiều nhà là Sắc.
Một sắc chẳng phải sắc
Gồm có mười sắc nhập
Thống lạc có tám trăm
Tưởng, hành, thức cũng vậy.
Người trí hiểu pháp này
Bao nhiêu mới gọi ấm
Biết rõ chẳng phải một
Hành giả nên ghi nhớ

Phẩm 3: TƯỚNG NĂM ẤM

Tập hợp các duyên có tương quan
Do lìa tuệ nói, bỏ lời Phật
Quen tánh ngu si, chẳng hiểu rõ
Ví như cây có nhiều cành lá.
Theo năm góc mà phân bố sinh
Không có cách hay cũng như thế
Nên biết năm ấm cũng giống vậy
Người trí thông suốt rõ điều này.
Cho nên sinh trưởng có tánh địa
Lời thuyết giảng pháp như mật thoa
Tỳ-kheo giống ong hút vị hoa
Giống như hoa sen đang nở rộ.
Tuệ Ngài sáng tỏ hơn mặt trời
Phật lại siêu vượt hơn hoa sen
Thanh khiết của Phật không vướng mắc
Cho nên cúi đầu quy phục Ngài.
Tướng Ngài an nhiên đạt vô ngại
Tịch tĩnh vô tưởng, đắc thiền định
Chưa từng thoái chuyển và đọa lạc
Chỉ vì cứu tế đạt vô vi.
Chủ động dẫn đưa mà thị hiện
Giáo huấn quần mê như mình làm
Vì thương chúng ta cho nên nói
Chính là chúng sinh ở đời sau.

Người tu hành phải biết rõ tướng của năm ấm.

Thế nào là biết rõ tướng của năm ấm? Có ánh sáng là sắc, có hình dáng là sắc, tay nắm được cũng gọi là sắc, hoặc biểu thị cho người khác biết cũng gọi là sắc. Quen theo cái vui là thống, chẳng vui chẳng khổ cũng là thống, đó là tướng của thống. Tướng của thức là tưởng, hoặc nam hoặc nữ, và các vật khác là tư tưởng. Hễ có tạo tác thì gọi là hành, hoặc làm việc thiện, hoặc làm việc ác, hoặc chẳng thiện, chẳng ác đều gọi là hành. Hiểu rõ tướng là thức; thiện, bất thiện, cũng chẳng phải thiện, chẳng phải bất thiện, hiểu rõ việc ấy là thức.

Như vậy là đều hiểu rõ về tướng của năm ấm.

Bài tụng rằng:

Sắc là bất an, nhiều nhơ bẩn
Phật thuyết kinh giáo đúng như thật
Như lời ngài nói thực hành theo
Phân biệt thành nhiều tướng năm ấm.

Phẩm 4: PHÂN BIỆT NĂM ẤM

Phải dùng cam lồ diệt lửa mạnh
Tiêu trừ gốc khổ của năm ấm
Tuệ Ngài chiếu sáng như mặt trời
Ba cõi quy phụng, con cũng vậy
Phật, Đấng Năng Nhân, sức tuệ sâu
Hiểu rõ, thông tuệ, trí thanh tịnh
Theo điều hiểu biết mà chỉ nghĩa
Chọn giáo pháp Phật tùy cơ nói
Nên phân biệt nghe hiểu bài giảng
Nay đây dẫn dắt theo chủ ý
Phân biệt chỗ khởi gốc năm ấm
Dẫn rộng nhiều nghĩa, khéo suy tư.

Người tu hành phải phân biệt rõ nguồn gốc của năm ấm.

Sao gọi là hiểu rõ gốc của năm ấm? Ví như ở ngã tư đường, có xâu trân châu bị đánh rơi, có người thấy, trong lòng vui mừng muốn đến lượm. Người ấy mắt thấy xâu trân châu gọi là sắc ấm; ưa thích vừa ý gọi là thống ấm; vừa thấy mà biết xâu trân châu gọi là tưởng ấm; người ấy sinh tâm muốn lượm xâu trân châu gọi là hành ấm; phân biệt xâu trân châu là thức ấm. Năm ấm như vậy, như xâu trân châu một khi cùng vận hành, tạo ra bao nhiêu sự vận hành khác. Nếu từ tâm xuất hiện, như xâu trân châu, năm ấm cùng lúc cùng hưng khởi và tiêu diệt. Tất cả mọi người cũng giống như thế, khi mắt thấy sắc, năm ấm đều khởi; tai nghe tiếng; mũi ngửi mùi; lưỡi nếm vị; thân cảm thọ; tâm tưởng pháp cũng như vậy. Bốn ấm thuộc tâm, không phải sắc ấm. Như vậy là nguồn gốc của năm ấm riêng biệt.

Bài tụng rằng:

Đấng đức vô cùng phân biệt nói
Như Ngài đã giảng nghĩa trong kinh
Kẻ tham dục mê chẳng thọ giáo
Con nay thuận pháp giảng theo ngài.

Phẩm 5: THÀNH HOẠI CỦA NĂM ẤM

Kẻ minh trí không phiền Thế Tôn
Điều thuận không ngừng, đạt mục đích
Đã vượt cảnh giới, đến vô biên
Đảnh lễ Thế Tôn, khen vô lượng.
Lời giảng như mặt trời
Chiếu đệ tử như thế
Biết rõ cảnh trần lao
Trừ sợ như hoa héo.
Ngài thấy các khởi, diệt
Rõ, năm ấm thành hoại
Nên cúi đầu lễ Phật
Nghe con giảng lời Ngài.

Người tu hành nên biết sự biến đổi thành hoại của năm ấm. Sao gọi là nên biết sự thành hoại của năm ấm? Ví như khi con người sắp chết, vì sự bức bách cho mạng sống chấm dứt, nên trong thân, lần lượt có bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh dần dần kéo đến, thấy nhiều mộng mị, toàn điềm quái đản, lòng khiến sợ hãi kinh hoàng.

Mộng thấy ong mật, quạ, chim khách, chim cắt, chim thứu đậu trên đỉnh đầu; thấy chúng đậu trên nhà vui chơi; thân choàng y phục xanh, vàng, trắng, đen, cỡi ngựa chứng, rồi lại kêu lên: Than ôi!

Mộng thấy nằm gối trên con chó lớn, lại gối lên con khỉ, nằm ở trên đất. Mộng thấy cùng với người chết, kẻ đồ tể ăn chung một đồ đựng, cùng cỡi xe dạo chơi; hoặc dùng dầu mè và bơ, đề hồ, tự bôi trên thân rồi lại uống ăn nó, luôn luôn như thế. Thấy rắn quấn quanh thân kéo lộn xuống nước.

Hoặc tự thấy thân vui mừng, nhảy nhót, vỗ đùi cười giỡn. Hoặc tự thấy mình trang sức rồi tự nằm trên giường, dùng tro bôi mình, rồi lại lấy ăn. Hoặc thấy kiến bò trên mình. Hoặc thấy ăn muối, chó, khỉ thấy đuổi theo cắn. Hoặc thấy phụ nữ trong làng cúng tế gia thần, thấy nhà ngã đổ, đền thờ các thần tan nát.

Mộng thấy lưỡi cày cày rụng râu tóc; hoặc có khi răng tự rụng xuống đất, lại mặc năm áo trắng. Hoặc thấy thân mình trần trụi mà đi, dùng dầu mè xoa thân, lăn lộn trong đất.

Mộng thấy mặc áo bằng da, cổ rách rưới. Mộng thấy người khác cỡi xe hư mục đến cửa rước đi. Hoặc thấy các hoa đẹp xông mùi thơm, thân thuộc dùng chúng để làm đẹp thân thể. Tổ tiên vì hiện nhan sắc xanh, đen, nên kêu trước bị bắt. Thường mộng như vậy, dạo chơi trong gò mả lượm xâu chuỗi ngọc đẹp và thấy hoa sen đỏ rơi trên cổ, xô ngã xuống sông lớn bị nước cuốn trôi đi.

Mộng thấy lộn nhào xuống nước năm hồ, chín sông không đáy (chẳng bám vào đâu được). Hoặc thấy đi vào rừng rậm không có hoa quả mà còn bị gai gốc móc rách thân thể, bị các thứ ngói đá đè lên thân. Hoặc mộng thấy cây khô trụi không còn cành lá, đu lên trên ấy vui chơi một mình. Hoặc ở nơi miếu mạo tự nhảy múa. Hoặc thấy rừng cây, thích ở trong đó một mình, vui vẻ cười lớn, bẻ chặt cành khô bó lại ôm đi. Hoặc vào nhà tối chẳng có cửa ra vào. Lại leo lên trong hang núi cao chẳng biết đường ra. Lại thấy núi lẻ đà lên trên mình, khóc lóc kêu la thảm thiết. Hoặc thấy bầy voi đi đến giẫm đạp trên thân. Mộng thấy bụi đất dính khắp thân, đầu hoặc mặc áo rách đi giữa đồng hoang.

Mộng thấy cỡi cọp chạy rất nhanh. Hoặc cỡi lừa, chó đi về hướng Nam, vào trong gò mả thâu nhặt tro than, móng tóc. Tự thấy mình đội hoa khô đi vào núi lớn, Diêm vương thấy hỏi.

Bài tụng rằng:

Ở đời ham vui thú,
Lâm chung đến mới sợ
Bị khốn trong bệnh tật
Bức bách chẳng an ổn.
Lo sầu đốt cháy tâm
Thấy mộng lòng sợ hãi
Như thấy người ác đuổi,
Lo sợ cũng như vậy.

Người ấy biết rồi, ôm lòng sợ sệt, thân thể run rẩy, mạng sống sắp tàn, thấu rõ như vậy, chẳng ngờ gì nữa, điềm mộng của ta hôm nay từ xưa chưa từng có. Vì sợ nên lông trên da dựng ngược, bệnh càng nặng thêm, chấn động bất an. Ví như bầy voi mạnh cùng đến giẫm đạp lên cây chuối, bệnh chuyển nặng nằm mẹp trên giường, cũng giống như vậy. Cùng quẫn, chẳng còn cách nào khác là cầu thầy thuốc. Con cháu thân tộc thấy nguy khốn như thế, sai người mời thầy thuốc. Nơi chốn có thể sai người đi thì thân thể dơ bẩn, áo quần rách rưới, hoặc tóc, móng dài thượt, đội nón rách nát, chân mang guốc bằng gỗ bể, đi khập khểnh, cỡi lên xe mục, sắc mặt đen thui, hai mắt lại xanh, thường dùng tay vuốt râu tóc; xe bò mà nó cỡi, hoặc xanh hoặc đen, lại có màu trắng, gấp rút kêu thầy, bồng bỏ lên xe.

Bài tụng rằng:

Khi người đi xem chơi
Chỉ vui không điều ích
Buông lung theo sở dục
Chưa từng nghĩ đến thuốc
Thân vừa có bệnh tật
Khốn khổ nằm mẹp giường
Vậy sau mới mời thầy
Muốn khiến trị lành bệnh.

Khi ấy, thầy thuốc dùng ý quán xét biết người bệnh ắt chết. Vì sao? Vì thấy hiện tượng quái lạ này: Xem sắc phục, ngôn ngữ của người đến mời, thấy đội nón rách, tóc rối móng dài; lại nhằm ngày xấu, như ngày mồng bốn, ngày mồng sáu, ngày mười hai, ngày mười bốn. Vì đến vào những ngày này, nên thầy thuốc không vui, vì gặp lúc tinh tú mất đi giờ tốt, là những ngày cấm của Thần tiên, Tiên thánh. Vị thầy thuốc nghĩ: “Tuy là gặp điềm kiết hung của tinh tú quái la, nhưng có thể trị liệu được.” Vì sao? Vì tuy người có bệnh hơi thở thoi thóp, nhưng bổn mạng chưa dứt, tưởng nên chữa khỏi. Nếu đối với người bệnh chẳng thể chữa lành được thì nói với người ấy: Bất tất phải nhằm ngày tốt, theo sự kiết hung của tinh tú. Vì vậy người trí tuệ chẳng cần nhật lịch để chọn giờ tốt. Thần tiên thường nói, nên cầu phương tiện hoặc người bị bệnh phong hàn mà nặng chưa dứt, thảng hoặc có hoạnh tử thì có thể chữa trị được; dù cho mạng phải chết, vô phương cứu chữa, tuy vậy, phải đến cứu chữa còn hơn là không đến. Thầy thuốc nghĩ vậy rồi liền đứng dậy ra đi.

Bài tụng rằng:

Ví như có hai người
Đều khởi hành vào biển
Người sang được bờ kia
Kẻ biệt tăm trong ấy.
Rơi vào biển bệnh tật
Dụ ấy cũng như vậy
Do chứng bệnh sai khác
Mà kẻ sống, người chết.

Khi ấy, vị thấy thuốc kia đã đến nhà người bệnh, thì có điềm xấu, liền nghe tiếng hung dữ: Chết rồi, thiêu đốt, nát tan, vĩnh biệt, lột bỏ, kéo ra, sợ chết lôi, đưa đi, đóng lại, nên để xem đã. Chẳng thể cứu chữa, cho là chết rồi. Phương Nam, cáo kêu, hoặc nghe tiếng quạ, cú. Hoặc thấy trẻ nít lấy đất dồn lại, đứng trần lôi kéo tóc nhau, đập bể bình chậu và các đồ vật. Thấy những biến trạng này rồi, tới trước thăm hỏi bệnh nhân nằm liệt trên giường.

Bài tụng rằng:

Thầy thuốc xem tướng của người bệnh
Sợ sệt bàng hoàng, chẳng được yên
Hoặc ngồi, hoặc đứng lại nằm mẹp
Phiền muộn, nóng bức tợ đốt da.

Thầy thuốc thấy như vậy liền nghĩ: “Như ta xem qua gốc ngọn các mạch thì chắc chắn chết, sắc diện hoảng hốt, mắt chớp, thân thể vàng úa, miệng chảy dãi, mắt lờ đờ, lỗ mũi hếch, vàng, sắc diện nhợt nhạt, chẳng nghe tiếng, mùi, môi khô, lưỡi thụt, dung mạo như đất, trăm mạch rối loạn, lông tóc dựng ngược, nắm tóc véo mũi đều chẳng hay biết, hơi thở chẳng đều, hoặc chậm, hoặc nhanh.”

Bài tụng rằng:

Sắc diện thì biến đổi
Tóc lông thì dựng đứng
Xem xét như suy nghĩ
Lưỡi cứng điềm xấu, hiện.
Người bệnh có điềm ấy
Mạng sống thoi thóp thôi
Lửa tật đã bao vây
Như thiêu đốt cỏ khô.

Lại có kinh khác nói về sự biến đổi của các điềm lạ khi người lâm chung: Dù có tắm rửa, lại như chẳng tắm; dù đốt các thứ hương tốt như hương thơm của hoa, hương thơm của rễ cây chiên-đàn, cây mật, các loại hương này mùi thơm rất tốt nhưng người bệnh nghe chúng như ngửi mùi thiêu đốt phân, tủy, mỡ, da, thịt, móng, lông, tóc, xương của người chết.

Lại như ngửi mùi rắn, chuột, chó, hồ ly, chim cắt, cú, tiếng của người bệnh biến đổi như tiếng ngói bể, tình trạng giống như nghẹt cổ, giọng nói hoặc như tiếng chim hạc, nhạn, khổng tước, trâu, bò, ngựa, hổ, chó sói, tiếng trống, tánh ý của người ấy thay đổi bất thường, hoặc hiện thân ngay thẳng mềm mại, hoặc thân thể khô cứng, biến đổi luôn luôn; hoặc nhẹ hoặc nặng, chẳng còn biết gì. Đối với các điềm quái lạ này, những người sắp chết, mỗi người gặp một số việc, không cần phải có đủ.

Bài tụng rằng:

Thấy biết bao biến đổi,
Các não đến bức thân
Tâm chí luôn sợ hãi,
Gặp nạn là như thế,
Tánh người tồi như vậy,
Thân biến đổi nhiều thứ
Giống như quả lau, trúc,
Tự sinh, tự nhiên hoại.

Nay theo sự học hỏi, cũng như sự nghe biết của ta thì những điềm quái lạ biến hiện ra khi người sắp chết là miệng chẳng biết vị, tai chẳng nghe tiếng, gân mạch co rút, hơi thở bất định, thân thể đau nhức, rên rỉ, huyết cạn, khí tàn, thân hình gầy yếu, gân cốt lộ ra. Hoặc thân bỗng nhiên phình ra, huyết mạch tăng lên, má, răng trệ xuống, đầu lắc, trông thấy thật đáng chán, cử động yếu ớt, đồng tử trong mắt đen hơn ngày thường, mắt chẳng nhìn thấy, tiều tiện không thông, chân tay rã rời, các căn chẳng định; trong mắt, trong miệng hết thanh khí, hơi thở dồn dập, các điềm quái lạ biến đổi hiện ra như thế.

Bài tụng rằng:

Bệnh tật khổ vô cùng
Huyết mạch tinh khí cạn
Như nước xói gốc cây
Nên thường như nhổ gốc.

Khi ấy, thầy thuốc nghĩ: “Có bệnh như thế này chắc chết, chẳng còn nghi ngờ gì nữa.” Ngày xưa các lương y sáng tác, kết tập sách thuốc, đối với các bệnh dứt trừ sự sợ hãi, có các vị thuốc tên là Trường nhĩ, Khôi chướng, Dưỡng ngôn, Trưởng dục, Cấp giáo, Đa nhiễm, Thiên hựu, Trường cái, Đại thủ, Thoái chuyển, Tiều tụy, Đại bạch, Tối tôn, Lệ diện, Điều ngưu, Kỳ bá, Y hồi, Biến thước... những vị thuốc ấy đều trị thân bệnh.

Bài tụng rằng:

Với các loại như thế
Pháp quý, Phạm chí, Tiên
Cứu đúng có kết quả,
Và vua lương y khác.
Quyết định sự thành bại,
Biết rộng vượt được nạn
Thương dùng kinh cứu mạng,
Như pháp Phạm chí tạo.

Lại có loại thuốc chủ trị về tai mắt, tên là Nhãn huyền, Động diêu, Hòa đấu, Linh minh, Nguyệt thị, Anh tử, Khiếp tàng, Thiện giác, Điều ngưu, Mục kim, Ngốc kiêu, Lực thị, Lôi minh... những vị thuốc trên chủ trị tai mắt.

Bài tụng rằng:

Những vị thuốc về mắt...
Hòa chế được phân minh
Trừ bệnh hết đui mù
Như mặt trời trừ tối.

Lại có loại thuốc về ghẻ chữa lành các mụt nhọt, ghẻ, tên là Pháp tài, Trĩ đệ, Đoan chánh, Từ ước, Hoàng kim, Ngôn đàm. Đó là các vị thuốc chữa trị về ghẻ.

Bài tụng rằng:

Có loại chuyên trị liệu,
Trăm thứ bệnh ghẻ lở
Có thể trừ các bệnh
Như dùng chân đạp đất.
Cho nên xuất pháp tài,
Tạo kinh sách cho đời
Chính là trị ghẻ lở
Khiến chúng lìa hoạn nạn.

Lại có thuốc cho trẻ con, tên các vị thuốc ấy là: Tôn-ca-diệp, Kỳ-vức, Phụng man, Tốc tật, đó là thuốc trị bệnh cho trẻ con.

Bài tụng rằng:

Ví như có ghẻ đầu,
Bỏ việc, trừ cao ngạo
Nên sinh ở thế tục
Thương xót trị trẻ con
Tôn-ca-diệp các món...
Làm lành dùng chánh pháp
Thương nghĩ đám trẻ thơ
Nên làm ra sách thuốc.

Lại có thuốc về quỷ thần, tên là “Đái hoa, Bất sự hỏa.” Đó là những vị thuốc trừ diệt quỷ thần đến quấy nhiễu người.

Bài tụng rằng:

Các sao chuyển vần quanh
Đời người cũng như vậy
Có kẻ chủ khủng bố
Mà có nhiều nguy hại.
Tạo lập kinh điển ấy
Vì giải tai hoạn kia
Như Phật dùng chánh pháp
Trừ ngu khiến được sáng.

Chánh là để cùng kết hợp các loại thuốc trên đây và để những loại phù phép, thuốc mê, bói toán, chú thuật, chẳng thể làm cho lành, khiến bệnh nhân khỏi chết.

Bài tụng rằng:

Tạo tác tội ở đời
Khổ sở ôm phiền não
Bệnh đau loạn tâm chí
Mạng dơ luôn bức xúc.
Bị bệnh làm chìm đắm
Thấy chết mới sợ hãi
Thiên đế và các thần
Chẳng cứu nỗi, huống ta!

Thầy thuốc nghĩ: “Mạng sống kéo dài chưa dứt nên thoái thác tránh đi”, liền nói với mọi người:

–Nay, người bệnh này, nếu có đòi ăn thức ăn ngon thì phải chiều ý cho ăn, không được trái ý. Ta có việc gấp, xin cáo từ; xong việc sẽ trở lại.

Viện lý do này rồi liền ra đi.

Bài tụng rằng:

Khi mạng sống sắp dứt
Bị bệnh thật khốn đốn
Lăn lộn với trần lao
Tội đến chẳng tự biết.
Điềm lạ tự nhiên khởi
Bị các ấm thiêu đốt
Dù cầm nắm kim cương
Cũng chẳng cứu được mạng.

Khi ấy, nam, nữ, già, trẻ trong nhà có người bệnh nghe thầy thuốc nói, liền dẹp hết thuốc thang và các chú thuật. Toàn gia quyến thuộc, họ hàng cùng những người gần gũi quen biết đều đến vây quanh người bệnh, buồn rầu khóc lóc quán niệm nỗi thống khổ của bệnh. Ví như người đồ tể bắt heo trong bầy heo, đem ra sắp giết. Những con heo khác đều kinh hãi dồn lại, vểnh tai nghe tiếng, hoảng sợ nhìn chăm chăm. Ví như cọp dữ bắt bò, trong bầy bò, những con bò khác sợ hãi chạy mất, hoặc chạy lên núi hoặc chui vào hang, hoặc vào rừng cây, vọt nhảy kêu rống. Ví như ngư phủ bủa lưới bắt cá. Các con cá khác thấy sợ chạy tứ tán, lặn trốn vào bờ đá, hoặc dưới cỏ. Lại như con chim nhạn vào giữa bầy chim mà có con bị bắt thì các chim khác thấy vậy đều bay táo tác.

Người ấy cũng vậy, vô thường đến nơi, thân thể hư hoại, gia đình thân thuộc, nghĩ sắp biệt ly nên buồn đau dường ấy. Mạng sắp chấm dứt, sứ giả của Diêm vương tự nhiên đi đến, tới nơi thấy buộc trói, tên sắt bắn vào, lên thuyền sinh tử, bị tội dẫn dắt, liền muốn dắt đi. Gia đình vây quanh, xõa tóc buồn thương, mặt mắt lem luốc, khóc lóc thở than, nước mắt ràn rụa, cùng nói:

–Đau đớn thay! Tại sao bỏ nhau!

Đấm ngực, cào mặt, ca ngợi bao nhiêu đức hạnh của người bệnh, lòng luôn buồn rầu.

Bài tụng rằng:

Người tật bệnh khốn khổ
Nhiệt tiêu, thân lạnh cóng
Người nhà đều tụ quanh
Cất tiếng khóc thê, thảm.
Tạo nghiệp rồi khổ vui
Như ong chọn vị hoa
Tâm liền nhận buồn bã
Và buồn cả thân tộc.

Người kia bệnh tật như vậy, trong thân phong đao khởi, khiến cho xương cốt chân tay người bệnh rã rời. Có gió làm đứt các chi tiết. Có gió làm chấn động gân mạch giãn ra. Có gió làm khiến phá vỡ xương tiêu tủy bệnh nhân. Có gió làm cho biến đổi sắc mặt, mắt, tai, mũi, miệng, yết hầu đều xanh; các lỗ chân lông đều bít lấp, phá hoại da dẽ trên thân. Lại có một thứ gió tên là Chỉ hiếp khiến cho thịt ở thân và đầu gối, lông mi, hông lưng, xương sống, bụng sụp xuống, ruột già, ruột non, gan, phổi, tim, tỳ và nội tạng đều ngừng hoạt động. Có gió tên là Toàn, khiến mỡ, huyết, cơ quan đại tiểu tiện sinh tạng, thục tạng đều chẳng lưu thông, lạnh, hoặc nóng đều khô. Có gió tên là Tiết gian khiến tay chân hoặc co rút, hoặc duỗi ra, rồi giơ tay chân ra muốn nắm bắt hư không. Ngồi đây bần thần, có lúc cười vu vơ, lại thở ra não nuột, các bộ phận cơ thể rã rời, gân giãn mạch trầm, tủy não tiêu hao, mắt chẳng thấy sắc, tai chẳng nghe tiếng, mũi chẳng biết mùi, miệng chẳng biết vị, thân lạnh khí dứt, không còn biết gì, dưới tim còn nóng, thần thức vẫn còn, nhưng người cứng đơ như gỗ, chẳng thể cử động.

Bài tụng rằng:

Khi gió đao khởi lên,
Thân động nhiều chẳng an
Các duyên đều kéo đến,
Chẳng tự hay biết gì
Thân gặp biết bao khổ,
Mạng sống mới kết thúc.
Ví như dây cung nỏ,
Chùng, căng chẳng dùng được.

Bấy giờ, tâm người ấy lẩn quẩn, bốn đại đều suy hoại, mạng yếu ớt đi, tuy tồn tại nhưng như đèn sắp tắt. Trong tâm người này có thân ý căn, lúc còn sống đã làm những việc thiện, ác, tâm liền nghĩ đến cội nguồn của các điều họa phúc, lành, dữ; đời này, đời sau đã và sẽ làm gì, tâm đều tự biết. Người làm điều thiện thì sắc diện khoan hòa, kẻ làm điều ác thì sắc diện chẳng vui. Người mà tâm vui, sắc diện tốt thì nên biết chắc chắn là đi về cõi thiện. Còn người sắc diện xấu, tâm niệm chẳng tốt thì sẽ bị đọa vào nẻo ác. Như có người già soi vào gương trong, tự thấy thân mình đầu bạc mặt nhăn, răng rụng ghẻ chốc, dơ bẩn đen xấu, da dùn, lưng còng, tuổi già run rẩy. Đã thấy như vậy lại tự xấu hổ, nhắm mắt ném gương, tự nhủ ta đã già rồi! Già suy dẫn đến, lòng ôm lo sầu, từ bỏ an ổn, đến với cùng cực. Kẻ chuyên làm ác, khi lâm chung đến, thấy hiện tượng ác, sầu thảm sợ sệt, tự khắc trách mình; ta sa nơi cõi ác chắc chắn vậy rồi. Cũng như người già soi gương thấy hình biết là già nua.

Bài tụng rằng:

Vàng báu làm các thứ
Đẹp xấu thành bất đồng
Nếu có người làm ác
Chìm đắm vào vực sâu
Đã chìm rồi nổi lên
Ngoái nhìn không chỗ tựa
Như bị nước cuốn trôi
Đến chết cũng như vậy.

Người làm thiện thì có ba việc: Nhiếp thân, khẩu, ý tịnh tu các đức; lấy pháp làm tài sản, khi lâm chung, tâm luôn hoan hỷ, nhất định sinh Thiên. Ví như khách buôn đi xa kiếm sống, qua được đường hiểm, thâu nhiều tài lợi, trở về đến nhà, lòng vui vô cùng. Lại như nhà nông cày cấy được mùa, gió thuận mưa hòa, thu nhiều lúa thóc, chứa đầy kho lúa, lòng rất vui mừng. Như bệnh nặng được lành, trả hết nợ nần, trong lòng vui vẻ cũng lại như vậy. Như ong hút hoa cốt để làm mật, tích đức cũng vậy, lòng họ rất vui, nhất định sinh lên cõi trời.

Bài tụng rằng:

Kẻ chánh sĩ có học
Tích lũy hành chân pháp
Để vượt các họa hoạn
Tự đạt được minh đạo
Ví như người nhàn nhã
Lên núi cao nhìn xuống
Người kia khi mạng chung
Thấy đường thiện cũng thế.

Bấy giờ, mạng đã tận, thân căn, thức diệt, liền thọ thân Trung ấm. Như cái cân tùy theo sự nhẹ hay nặng mà lên hoặc xuống, thiện ác cũng như vậy. Thần thức lìa xác, thân trụ ở thân Trung ấm, năm ấm đều đầy đủ không thiếu ấm vào. Khi chết, năm ấm chẳng đến với thân Trung ấm nhưng năm ấm của thân Trung ấm cũng chẳng rời bỏ cội nguồn.

Ví như lấy cái ấn ấn xuống bùn, ấn chẳng dính bùn, bùn cũng chẳng rời ấn. Như trồng ngũ cốc, mầm sinh ra thân quả nhưng thân quả chẳng phải là gốc rễ mà cũng chẳng lìa gốc rễ. Như vậy, tinh thần hồn phách của người chết chẳng cùng ở với năm ấm, nhưng chẳng lìa gốc. Tùy theo sự gieo trồng mà gặt được quả báo. Người làm điều phước đức thì trụ ở thân Trung ấm thiện. Người chỉ làm việc ác thì ở thân Trung ấm tội lỗi, chỉ có đạo nhãn mới thấy mà thôi. Ở thân Trung ấm có ba loại thức ăn: Một là xúc chạm sự mềm mại, hai là tâm thực, ba là ý thức thực. Ở thân Trung ấm hoặc một ngày nhiều nhất là bảy ngày. Đến như cha mẹ cũng tùy theo hạnh nghiệp chính mà hoặc bị đọa vào ba đường ác, hay sinh nơi nhân gian, thiên thượng. Người làm việc ác nhiều, tại thân Trung ấm thấy lửa dữ khởi lên bao quanh thân hình, như lửa đồng hoang thiêu đốt cỏ cây, bụi bặm, phủ khắp thân, thấy các loài quạ, chim cắt, người ác, móng răng đều dài, mặt xấu xí, y phục rách rưới, trên đầu lửa cháy, ai nấy đều cầm đao gậy đánh đập, mâu đâm, kích chém, tâm luôn sợ sệt, muốn cầu cứu hộ, xa thấy rừng cây, đi vào trong ấy, lúc đó rừng cây liền mất. Năm ấm của thân Trung ấm đi vào rừng đao kiếm trong chống địa ngục, người bị đọa vào địa ngục, thần thức thấy như thế.

Bài tụng rằng:

Cuồng mê như voi say
Làm trái Thánh pháp dạy
Nhiễm ô như thấm nước
Tâm mê loạn như thế.
Thường tổn hại chánh đạo
Buông tâm vào đường tà
Người này gặp các khổ
Mạng chung đọa địa ngục.

Người làm ít việc ác thì thấy khói lửa bụi bặm vây quanh khắp thân mình và bị sư tử, hổ, báo, rắn hổ mang, voi rượt đuổi. Lại thấy kên to, nguồn suối, sông sâu, núi lở, khe lớn, tâm luôn sợ sệt, chạy vào trong đó. Khi ấy các thứ kia liền mất. Năm ấm của thân Trung ấm bị đọa vào súc sinh. Người thấy những hiện tượng như vậy thì biết là thọ thân súc sinh.

Bài tụng rằng:

Theo si bỏ trí tuệ
Hoặc mê đọa đường tối
Ác khẩu nói lời thô
Thích việc đánh đập người.
Lại bị phạm tội ương
Ưa làm việc bất thiện
Người vô từ như vậy
Sinh vào loài súc sinh.

Nếu người tội nhẹ thì chung quanh bốn bên có sức nóng thổi lên, thân thể nung nấu, tự nhiên đói khát, xa thấy người đến đều cầm đao gậy, mâu kích cung tên, đứng vây chung quanh. Trông thấy thành lớp, ý muốn vào trong, vừa móng ý ấy, thành liền biến mất, năm ấm của thân Trung ấm sinh vào loài quỷ đói, thấy những hiện tượng như vậy biết là bị đọa vào ngạ quỷ.

Bài tụng rằng:

Ương ngạnh ưa gièm pha
Xa giới, chẳng theo pháp
Phạm cấm việc ô uế
Tham lam ăn một mình.
Đọa vào chốn máu mũ
Đói khát phiền não đốt
Nên biết đám người này
Nhất định làm ngạ quỷ.

Người tu đức lành thanh tịnh thì gió mát bốn phía đến, gió đó rất thơm, biết bao loại hương xông bao phủ khắp trên thân, các loại âm thanh, kỹ nhạc cùng hòa âm. Xem thấy vườn cảnh, rừng cảnh hoa quả đều tươi tốt, mới móng ý muốn vào, tức thời biến mất, tinh thần của năm ấm nơi thân Trung ấm tự nhiên sinh lên cõi trời Đao-lợi.

Bài tụng rằng:

Theo pháp về Thánh đạo,
Gieo nghiệp phước sinh Tiên
Dùng kỹ nhạc tự vui
Dạo trong vườn cây hoa.
Chúng ngọc nữ đẹp đẽ
Mắt sáng ngời, đoan chánh
Thường xem, tâm ưa thích
Ở trên đỉnh thái sơn.

Người làm việc thiện hoặc ác không thuần nhất thì sẽ sinh vào loài người. Khi cha mẹ giao hợp, tinh huyết chẳng mất thì đứa con sẽ đầu thai. Cha mẹ cùng nghĩ về đức tốt ngang nhau thì bào thai suông sẻ, không có gì trở ngại, tâm luôn luôn vui vẻ, không nghĩ bậy thì được an ổn, không buồn bực, không có bệnh tật, có thể giữ lấy thai nhi. Nhưng chẳng được xem thường, cũng không làm việc ngang ngược, làm theo chánh pháp chẳng bị nhiễm ô, tức là dứt bỏ tất cả trần cấu, tội lỗi. Còn tinh huyết chẳng trong cũng chẳng đục, vừa phải, chẳng mạnh cũng chẳng hư, cũng không đỏ đen, chẳng bị phong hàn, các độc xen lộn, chẳng lẫn với nước tiểu, thì thần thức của kẻ sắp sinh hướng đến, tâm tự nghĩ. Nếu ta là nam thì chẳng cùng tương hợp với người nữ, ta muốn cùng tương thông thì khởi tâm sân giận. Kẻ nam tử oán giận kia, ý chí mềm yếu, nghĩ đến người nữ thì vừa giận, vừa vui, liền chê người nam, muốn đến người nữ. Nên khi tinh của người cha vọt ra thì thần thức vào của kẻ ấy vui, mừng, gọi là cho ta.

Bấy giờ, năm ấm của thân trung ấm liền biến mất, bèn nhập vào tinh huyết cha mẹ hợp lại thành bào thai. Đã ở trong bào thai thì vui vẻ bội phần, cái chẳng phải là năm ấm của thân Trung ấm, cũng chẳng lìa nó, thì khi vào bào thai gọi là sắc ấm, khi hoan hỷ là thống lạc ấm, khi nghĩ đến tinh huyết là tưởng ấm, do các duyên tội phước sẵn có được vào bào thai là hành ấm, thần thức ở trong bào thai tức là thức ấm. Hòa hợp như vậy gọi là năm ấm.

Khi tìm đến thai liền được hai căn: Ý căn và thân căn.

Tuần đầu ở trong thai chẳng tăng giảm gì.

Tuần thứ hai thai mới biến chuyển chút ít giống như váng sữa mỏng.

Đến tuần thứ ba tương tợ như kem.

Tuần thứ tư ngưng đọng lại như bơ.

Đến tuần thứ năm bào thai biến đổi giống như váng sữa.

Tuần thứ sáu biến thành cục thịt nhỏ.

Tuần thứ bảy chuyển thành như cục thịt lớn.

Qua tuần thứ tám, nó cứng như đất.

Tuần thứ chín biến thành năm khối u, hai cùi chỏ, hai đùi vế và cổ từ trong đó mọc ra.

Đến tuần thứ mười, lại có năm khối u, đó là hai tay, hai chân và đầu.

Tuần thứ mười một, tiếp tục sinh hai mươi bốn khối u, ngón tay, ngón chân, mắt, tai, mũi, miệng từ đây phát sinh.

Tuần thứ mười hai, tướng bào thai lần lần hình thành.

Tuần thứ mười ba, hiện tướng bụng.

Tuần thứ mười bốn sinh gan, phổi, tim và tỳ, thận.

Tuần thứ mười lăm thì sinh ruột già.

Tuần thứ mười sáu thì có ruột non.

Tuần thứ mười bảy thì có dạ dày.

Tuần thứ mười tám thì khởi hai chỗ sinh tạng và thục tạng.

Tuần thứ mười chín, sinh xương đùi vế và xương chân, bàn tay, bàn chân, cánh tay, các bộ phận của chân tay đã liền nhau.

Tuần thứ hai mươi, sinh hình dáng hậu môn, lỗ rún, khuôn mặt.

Tuần thứ hai mươi mốt, xương cộ của các bộ phận theo đó sinh ra; hai xương ở sọ đầu, ba mươi hai răng ở miệng, bảy xương ở cổ, hai xương ở đùi vế, hai xương khuỷu tay, bốn xương cánh tay, mười hai xương ở bụng, mười tám xương ở lưng, hai xương cổ tay, bốn xương đầu gối, bốn mươi xương ở chân, một trăm lẻ tám xương nhỏ dính với thịt, trong đó, mười tám xương ở hai bên hông, hai xương ở trên mi. Như vậy, xương trong thân thể gồm có ba trăm, chúng dính liền nhau, mềm như trái bầu mới ra.

Tuần thứ hai mươi hai, xương cứng dần như trái bầu chưa già.

Tuần thứ hai mươi ba, xương chuyển thành cứng như hồ đào. Ba trăm xương này đều nối liền nhau: Xương chân nối xương chân, xương đầu gối dính xương đầu gối, xương mắt cá dính với xương mắt cá, xương đùi vế dính với xương đùi vế, xương mông dính với xương mông, xương sống dính với xương sống, xương ngực dính với xương ngực, xương hông dính với xương hông, xương vai dính với xương vai; các xương cổ, mặt, cánh tay, cổ tay, chân lần lượt nói dính liền nhau. Các xương kết tụ như vậy giống như huyễn hóa. Lại như dồn xương làm bờ tướng, gân bó lại, máu chảy quanh, da thịt bít lấp bên trong, lớp da mỏng phủ lên. Do cái nhân là tội hay phước mà gặt hái cái quả như thế, nó không có tư tưởng, nương theo cái gốc tâm của nó theo phong đại dắt dẫn mà cử động.

Bài tụng rằng:

Thân do xương dồn lại,
Theo tâm thả buông lung
Thân hiện tại qua nhanh,
Giống như kéo dắt chạy
Hành nghiệp tạo đời trước,
Pháp thiện, ác hưng khởi
Ví như người đi đường,
Bằng phẳng hoặc gai gốc.

Tuần thứ hai mươi bốn, sinh bảy trăm dây gân dính liền với thân.

Tuần thứ hai mươi lăm, sinh bảy ngàn mạch hãy còn chưa đủ.

Tuần thứ hai mươi sáu, tất cả các mạch đều hình thành đầy đủ nhiều như rễ cây hoa sen.

Tuần thứ hai mươi bảy, ba trăm sáu mươi ba dây gân đều hình thành.

Tuần thứ hai mươi tám, thịt bắt đầu sinh.

Tuần thứ hai mươi chín, thịt dày dần.

Tuần thứ ba mươi mới có da.

Tuần thứ ba mươi mốt, da trở nên dày và cứng.

Tuần thứ ba mươi hai, lớp da hình thành.

Tuần thứ ba mươi ba, tai, mũi, môi, ngón tay, đầu gối, các chi tiết hình thành.

Tuần thứ ba mươi bốn, sinh chín mươi chín vạn lỗ chân lông, tóc mà vẫn chưa xong.

Tuần thứ ba mươi lăm, lỗ chân lông mới đầy đủ.

Tuần thứ ba mươi sáu, móng hình thành.

Tuần thứ ba mươi bảy, trong bụng mẹ biết bao nhiêu thứ gió nổi dậy: Có gió mở tai, mắt, mũi, miệng đứa bé. Có gió nổi lên nhuộm tóc, lông, hoặc đẹp đẽ hoặc xấu xí. Lại có gió nổi lên hình thành hình sắc của thân thể, hoặc là trắng, đỏ, đen, có đẹp có xấu, đều do hành nghiệp đời trước. Trong bảy ngày này, sinh thứ gió lạnh, nóng làm thông đường đại, tiểu tiện.

Bài tụng rằng:

Trong thân gân buộc lại
Huyết, các mạch hình thành
Chứa đầy đồ bất tịnh
Nước rửa các lỗ rỉ.
Tâm hư dối, khiến vậy
Dối trá mà hợp thành
Cơ quan như người gỗ
Nhưng cầu thật khó được.

Tuần thứ ba mươi tám, ở trong thai mẹ tùy theo hạnh nghiệp sẵn có, tự nhiên gió nổi lên. Hành nghiệp đời trước thiện thì có gió thơm, có thể làm cho thân ý điều hòa, không khuyết tật, gân xương ngay ngắn, khiến thân hình đẹp đẽ, ai cũng thương kính. Hành nghiệp sẵn có là ác thì nổi lên gió thối, khiến thân bất an, chẳng thể vừa ý, thổi gân cốt làm cho cong gù, không đẹp đẽ, chẳng ra vẻ đàn ông, người thấy chẳng ưa. Đó là ba mươi tám tuần-chín tháng thiếu bốn ngày, thân thể gân cốt của đứa trẻ thành một con người.

Bài tụng rằng:

Ở bụng mẹ chín tháng
Thì hình thể đầy đủ
Gân xương đều hình thành
Đầy đủ chẳng thiếu gì.
Trong bụng dần tự thành
Chút xíu rồi thành lớn
Cho đến khi đủ đầy
Như trăng vào ngày rằm.

Thân thể đứa trẻ có hai phần: Một phần của cha, một phần của mẹ. Các thứ tóc, lông, má, mắt, lưỡi, yết hầu, tim gan, đùi vế, thận, ruột, máu, thứ mềm mại của thân thể từ mẹ. Còn móng, gân, xương, răng, tủy, não, mạch, các thứ cứng thì từ cha.

Bài tụng rằng:

Thân người nối liền nhau
Đều do cha mẹ sinh
Có biết bao bộ phận
Nhân duyên hóa lập thành.
Nương vào nên thân sắc
Tất phải bị suy hao
Nhiều vật đóng thành xe
Thân thể cũng như vậy.
Làm tên có hai việc
Lập thân giống như thế
Do nương vào cha mẹ
Sau đó mới sinh ra.

Đứa bé ở trong bụng mẹ, ở dưới sinh tạng, trên thục tạng. Bé trai thì lưng ở ngoài mặt hướng vào trong, ở hông bên trái. Bé gái thì quay lưng vào mẹ và mặt hướng ra ngoài, ở hông bên phải, chỗ hôi thối khổ đau, dơ ướt bất tịnh, tất cả gân cốt co rút, không duỗi ra được, ở gọn trong cái bọc da nơi bụng dây nhợ buộc ràng, chỗ chứa máu huyết bôi lấm bức bách. Cứ nương ở nơi phần tiểu dơ bẩn như vậy tới chín tháng thiếu bốn ngày. Nếu đời trước có làm việc thiện thì vào ngày đầu, ngày kế nghĩ rằng: Ta ở tại cung điện cũng như trên trời. Còn kẻ làm ác thì cho là ở địa ngục Nê-lê thế gian, đến ngày thứ ba thì buồn rầu chẳng vui, đến ngày thứ tư thì bụng người mẹ nổi gió, hoặc phía trên, hoặc phía dưới, làm chuyển đổi thân hình đứa bé, khiến quay ngược đầu hướng ra cửa mình. Kẻ có đức thì nghĩ rằng: Ta nhảy vào trong ao nước tắm vui chơi như rơi vào chốn hoa thơm ở rừng sâu vậy. Còn kẻ vô phước thì tự nghĩ ta từ trên núi rơi vào trong hầm xí dơ bẩn bên bờ cây, hoặc như trên lưới gai chốn địa ngục, trong tảng đá giữa đồng trống, trong chốn kiếm kích, sầu lo chẳng vui. Quả báo của việc thiện, ác chẳng đồng như vậy.

Bài tụng rằng:

Như rơi vào lửa cháy
Khói mù bao chung quanh
Quả buông lung đã đến
Như ở trong nước sôi.
Nguyên do của khổ, lạc
Đều do tội, phước thành
Việc làm khi còn sống
Thọ thân đều như vậy.

Thân đứa bé đã hướng đến cửa mình, lại khi sinh ra, bị gió bên ngoài thổi. Người mẹ dùng tay thấm nước nóng rửa thì đau đớn bức bách như là bị bệnh ghẻ, vì thế khổ não sợ chết, liền khởi nghi hoặc, cho nên mê muội chẳng biết từ đâu đến đây. Vừa sinh ra đời, nơi máu huyết dính hôi, loài quỷ mị xúm đến vây quanh. Trong chỗ gian tà, loài phi thi xúc chạm, loài độc hại, quỷ điên đều rình rập xâm phạm. Như ở ngã tư đường, làm rơi một cục thịt, các loài quạ, diều, cắt, sói đều đến tranh giành, các loài yêu quỷ tà vạy muốn được đứa bé, bao vây chung quanh, cũng giống như thế. Người đời trước làm thiện thì đám tà vạy chẳng dễ xâm phạm được. Nếu đời trước làm ác thì đám tà vạy liền chụp lấy. Khi đứa bé mới sinh, nhờ vào sữa mẹ mà sống, dần dần lớn lên nhờ ăn uống mà tồn tại.

Bài tụng rằng:

Khi ở trong bào thai
Gặp biết bao khổ não
Đã sinh, được làm người
Khổ ấy gấp trăm ngàn.
Các căn đã thành tựu
Vì thân vốn mong manh
Có sinh phải già chết
Quả thật rất hư dối.

Đứa bé khi đã trưởng thành, làm lụng nuôi thân. Vừa thu hoạch lúa thóc thì thân thể tức thời sinh ra tám mươi loài trùng:

Hai loài ở chân tóc: Một tên là Điềm, hai tên là Trọng điềm.

Ba loài ở trên đầu tên là Kiên cố, Thương tổn, Hủy hại.

Một loài ở não, hai loài ở ngoài não: Một tên là Triết vị, hai là Hao nhiễu, ba tên là Cối loạn.

Hai loài ở trên trán: Một tên là Ty hạ, hai tên là Hủ hủ.

Hai loài ở mắt: Một tên là Thiệt điềm, hai tên là Trọng điềm.

Hai loài ở tai: Một tên là Thức vị, hai tên là Hiện vị anh.

Hai loài ở nhĩ căn: Một tên là Xích, hai tên là Phục xích.

Hai loài ở mũi: Một tên là Phì, hai tên là Phục phì.

Hai loài ở trong miệng: Một tên là Diêu, hai tên là Động diêu.

Hai loài trong răng: Một tên là Ác tệ, hai tên là Hung bạo.

Ba loài ở chân răng tên là Suyển tức, Hưu chỉ, Tốt diệt.

Một loài ở lưỡi tên là Cam mỹ.

Một loài ở căn lưỡi tên là Nhu nhuyến.

Một loài ở lợi tên là Lai vãng.

Một loài ở yết hầu tên là Đạm hầu.

Hai loài ở đồng tử: Một là Thùy, hai là Phục thùy.

Một loài ở cánh tay tên là Trụ lập.

Một loài ở tay tên là Châu triền.

Hai loài ở ngực: Một tên là Ngạch Khanh, hai tên là Quảng phố.

Một loài ở tim tên là Bang báo.

Một loài ở vú tên là Chúng hiện.

Một loài ở rốn tên là Vi nhiễu.

Hai loài ở hông: Một tên là Nguyệt, hai tên là Nguyệt diện.

Hai loài ở xương sống: Một tên là Nguyệt hành, hai tên là Nguyệt mạo.

Một loài ở giữa lưng và ngực tên là An phong.

Một loài ở trong da tên là Hổ trảo.

Hai loài ở thịt: Một tên là Tiêu lự, hai tên là Thiêu thọ.

Bốn loài ở xương là Thậm độc, Tập độc, Tê cốt, Tạp độc.

Năm loài ở tủy tên là: Sát hại, Vô sát, Phá hoại, Ly hài, Bạch cốt.

Hai loài ở ruột già: Một tên là Khương lang, hai tên là Khương lang huề.

Hai loài ở ruột non: Một tên là Nhi tử, hai tên là Phục tử.

Một loài ở gan tên là Ngân tử.

Một loài ở sinh tạng tên là Bí thu.

Một loài ở thục tạng tên là Thái tức.

Một loài ở đường tiêu hóa tên là Trọng thân.

Ba loài ở trong phân tên là Cân mục, Kiết mục, Biên phát.

Hai loài ở xương cụt: Một tên là Lưu hạ, hai tên là Trọng lưu.

Năm loài ở nước bọt tên là: Tông tánh, Ác tộc, Ngọa mị, Bất giáo, Hộ trấp.

Một loài ở đùi vế tên là Qua trương.

Một loài ở đầu gối tên là Hiện thượng.

Một loài ở mắt cá tên là Châm huề.

Một loài ở chân tên là Tiêu nhiên.

Một loài ở lòng bàn chân tên là Thực bì.

Đó là tám mươi loài trùng ở nơi thân người, ngày đêm gặm nhấm thân thể.

Bài tụng rằng:

Từ đầu tóc xuống tới chân
Trong khắp thân trùng ăn người
Nghĩ kỹ nó là cấu uế
Ví dụ sánh như nước dơ.
Từ mình sinh lại hại mình
Như đao oán làm hại người
Thường đến ăn mòn thân thể
Như dòng nước xói hai bờ.

Trong thân người, do gió, gây bệnh có một trăm lẻ một chứng; hàn, nhiệt cộng lại mỗi loại có một trăm lẻ một. Gồm chung lại có bốn trăm lẻ bốn chứng bệnh ở trong thân người. Như gỗ sinh lửa, lại tự đốt cháy, bệnh cũng như vậy, vốn do thân sinh lại làm nguy thân. Và trong, ngoài thân, tám mươi loài trùng, quấy động thân thể, khiến người bất an, huống gì lại thêm những khổ não bên ngoài nữa. Nghĩ thân như vậy, thường khởi sầu lo. Nhưng kẻ phàm phu, tự cho an ổn, chẳng nghe chẳng hiểu. Vì sao? Vì chẳng thấy sự thật.

Bài tụng rằng:

Tóc lông, các móng, răng
Tim, thịt cùng da xương
Tinh huyết, hàn, nhiệt sinh
Tủy, não, mỡ sinh, thục
Nước mắt cùng mũi, dãi
Đại tiểu tiện thường chảy
Thật cực kỳ bất tịnh
Người ngu cho là quý.

Nghĩ về thân người, bao phủ bằng một lớp da mỏng, như dồn các cây táo, cây gai lại bọc một lớp rất mỏng; vì được che lại nên con người chẳng biết. Giả sử lột hết lớp da ra như khối thịt bất động thì cái gì có thể gọi là thân người. Các đốt xương chống đỡ nhau như xích sắt nối liền. Xem xét kỹ như vậy còn chẳng đủ để nhàm chán, huống là gần gũi để nhìn ngắm ư?

Khi ấy, dùng kệ mà than:

Nghĩ vốn là dơ uế
Ví như cây vữa thối
Chẳng khác các trần cấu
Trùng trong thân cũng vậy.
Như tô vẽ tranh đẹp
Rốt cuộc sẽ hư hại
Sự thật thấy vốn không
Đâu đáng để gần gũi.

Người đời đã tạo ra điều họa phúc, có kẻ chưa hết tuổi thọ đã chết yểu. Ví như thợ đồ gốm, làm các đồ bằng đất nung, có cái mới làm thì bị bể, có cái khi muốn sửa lại để nung bị bể, hoặc có cái bị bể trên lò nung, có cái bị bể khi đưa xuống, có cái để xuống đất bị bể, có cái va chạm bị bể, có cái dòn quá bị bể, có cái bể trong lò, có cái nung chín bị bể, có các bị bể khi di chuyển, có cái sử dụng bị bể, dù không sử dụng lâu ngày cũng bể.

Con người cũng vậy, có kẻ vừa mới khởi ý đi đầu thai, nhưng chưa đi đã chết. Hoặc có kẻ hai căn tại thai mới như kem, có kẻ như bơ, như miếng thịt, cục thịt, đầy đủ sáu tình, hoặc chưa đầy đủ mà đã chết. Hoặc có kẻ khi sắp sinh, hoặc vừa mới sinh một ngày, trăm ngày, một tuổi, mười tuổi, trưởng thành thì chết. Hoặc có kẻ hai mươi, ba mươi, bốn mươi, năm mươi tuổi thì chết; từ một tuổi cho đến trăm tuổi mới chết, tuy trường thọ nhưng rồi cũng chết. Năm ấm như vậy vốn là không, lần lượt nương nhau, khoảnh khắc có, rồi khoảnh khắc mất, cất chân lên, hạ chân xuống đều là vô thường. Người ngu si chẳng nghe, chẳng biết, ngược lại cho là có thân. Từ trẻ cho đến già đều cho là ngã sở, bảo là thuần chất, chẳng biết luôn biến đổi vô thường. Người tu hành nên tư duy quán xét điều ấy. Từ như thế đến như thế, không như thế thì không có gì.

Thế nào gọi là từ như thế đến như thế?

Do hành nghiệp gốc đã tạo ra họa, phúc cho nên đến khi chết ở tại thân Trung ấm, rồi đến thần thức ở trong bào thai, hình trạng như váng sữa mỏng, cục thịt, khúc thịt dần dần đến thịt cứng, rồi có sáu căn, sáu căn đầy đủ thì sinh ra. Từ thân trẻ thơ đến trung niên, cho tới già bệnh, rồi lại trở về cõi chết. Năm ấm ấy cứ xoay vần trong sinh tử, mãi mãi như dòng sông không ngừng nghỉ, tất cả đều không, giống như huyễn hóa. Cứ đảo lộ như vậy cho đến già, bệnh, chết. Ví như có thành lớn, cửa phía tây phát hỏa, từ đó tuần tự thiêu đốt cho đến cửa phía Đông đều thành tro tàn, bảo là lửa nơi cửa Đông chẳng phải là lửa lúc phát khởi. Nhưng sự thiêu cháy đó chẳng lìa ngọn lửa gốc. Con người cũng vậy, do nhân duyên gốc rồi tùy theo đó mà có họa, phúc. Nên quán xét thế này, do như vậy mới có như vậy.

Thế nào gọi là không như vậy thì không có?

Không có họa hay phước và các trần lao khác thì chẳng về cõi chết, đã không chết thì không có thân Trung ấm, nếu không có thân Trung ấm thì do đâu có sinh. Đã không có sinh thì gia, bệnh, chết do đâu mà có. Nghĩ về gốc ngọn của dòng sinh tử như thế, người tu hành nên quán về chỗ phát xuất, sự hình thành và tiêu hoại của năm ấm.

Bài tụng rằng:

Biết rõ nghĩa trí tuệ
Tâm tịnh như trăng tròn
Giữ chí cho chuyên nhất
Thương yêu người ba cõi...
Như hoa sen trong nước
Mọc lên đẹp mềm mại
Miệng nói ra lời nói
Người nghe được vui mừng.
Diễn rõ gốc phát khởi
Hiểu rồi dứt hết sạch
Đạt năng nhân rốt ráo
Vì thương xót chúng sinh.
Nên ta từ kinh Phật
Lược chọn mà chép ra
Do giảng thuyết Phật pháp
Nên tạo kinh tu hành.

QUYỂN 2

Phẩm 6: TỪ

Khách buôn qua đồng vắng
Đói khát nơi đường hiểm
Đạo sư cứu giúp họ
Dẫn đến chỗ sống được.
Bèn dùng đạo vô vi
Dứt trừ các cấu uế
Tâm được nhiều an lạc
Kính lễ Phật Thế Tôn.
Thuyền ở tại biển lớn
Nhằm đúng miệng cá kình
Thuyền ấy vào bụng cá
Khởi lòng Từ cứu giúp.
Trong khoảnh khắc lặn xuống
Cứu người và châu báu
Biết vô số trăm ngàn
Khổ vui tròn chung thủy.
Vượt qua các Thánh trước
Đức ngài như Thái sơn
Trí sáng vượt mặt trời
Cúi đều phụng trí tuệ.

Là người tu hành, nên bỏ sân, si thường giữ tâm Từ. Có người tu hành, chỉ phát nguyện suông, khiến chúng sinh an, nhưng chẳng biết cách gì cứu độ được an. Tuy có lời êm dịu an ổn, nhưng chẳng thực hiện lòng Từ bi bình đẳng. Người tu hành chớ nói Từ bi suông. Hoặc có người tu hành khởi ý nghĩ Từ bi, muốn làm an ổn cho tất cả các loài chúng sinh. Có lòng Từ như thế cũng là tốt rồi, nhưng chẳng phải là lòng Từ đầy đủ đạo đức.

Muốn thực hành đại đạo chớ khởi lòng Từ suông.

Bài tụng rằng:

Giả sử người học đạo
Tâm nghĩ, miệng nói từ
Tự cho chút an ổn
Cũng được ít phước mỏng.
Ví như thợ làm tên
Rơi mất, lửa đốt cháy
Đâu thể khiến tên ấy
Thành tựu để mà dùng.

Trên con đường tu hành, kiến tạo lòng Từ rộng lớn và sẽ thực hiện thế nào?

Nếu người tu hành ở nơi nóng bức thì mong cầu chỗ mát mẻ mới được an ổn; ở nơi lạnh lẽo thì mong cầu đến chỗ ấm áp, mới được an ổn; như đói được ăn, như khát được uống; như đi đường xa mệt mỏi khốn đốn mà được xe chở, mới được an ổn, như đang đứng mà được ngồi; như người quá mệt mà được nằm nghỉ; như người trần trụi mà được y phục che hình; như thân dơ bẩn mà được tắm rửa, lòng rất vui mừng ổn định thanh thản, bao nhiêu nỗi khổ đều được qua khỏi, thân tâm phấn khích, được sự an lạc, giữ tâm chẳng loạn, được người thương kính. Gần gũi, thương yêu cha mẹ, anh em, vợ con, thân thuộc, bạn bè, tri thức, đều khiến họ được an ổn. Tất cả chúng sinh có các nỗi khổ, cũng như thân ta, đều được an ổn, dân chúng khắp mười phương đều khiến độ thoát, thân tâm an ổn, mong cho hai họ nội ngoại, trong ngoài đều được an ổn. Kế đến nghĩ tới những kẻ phàm tục, trang trải thêm lòng Từ đến oan gia, không có tâm sai khác, đều khiến được độ thoát như sự an ổn của thân ta. Giả sử niệm trước nghĩ về dân chúng trong mười phương, niệm kế nghĩ về oan gia, nhưng nếu bị loạn động mà tâm lúc ban đầu không thể chế ngự sự phân biệt giữa người oán và bạn thân, thì nên quán thế này: “Sự kết chặt oán ghét của ta đối với oan gia, tâm ý này đã trôi qua, nay đã xả bỏ”, rồi lại khởi niệm thương yêu như cha mẹ, vợ con, cũng kính trọng như họ hàng. Như vậy thì chẳng còn ôm hận nữa, quán xét về căn nguyên của sinh tử trong năm đường, hoặc đã từng làm cha mẹ, vợ con, anh em, bằng hữu trong nhà, chỉ vì lâu xa chẳng nhớ biết. Vì vậy nên chẳng ôm lòng oán hận.

Bài tụng rằng:

Nên phát hạnh tâm Từ
Nghĩ oán như bạn lành
Xoay vần trong sinh tử
Chắc từng làm bà con.
Ví như cây sinh hoa
Chuyển thành quả không khác
Cha mẹ, vợ con, bạn
Họ hàng cũng như vậy.

Người tu hành tâm tự nghĩ: “Giả sử sân giận với người khác thì tự hại mình thôi. Như cây phát ra lửa trở lại tự đốt mình, như cây chuối sinh quả rồi tự khô, như con la mang thai trở lại nguy thân. Ta cũng như vậy, nếu ôm lòng sân giận, lại tự làm hại mình. Người khởi lòng sân giận đối với người khác, thì, hoặc là do tội này mà đọa làm mãng xà, hay là đọa vào đường ác.” Quán xét kỹ như vậy nên không ôm lòng ác. Nếu ghét người nào thì nên phát khởi thương yêu.

Bài tụng rằng:

Có ai do sân giận
Mà oán hại người khác
Đời sau đọa làm rắn
Hoặc đọa làm thú dữ.
Ví như cây tre chẻ
Cây chuối, la mang thai
Trở lại hại cũng vậy
Nên phải khởi lòng Từ.

Người tu hành phải thực hiện lòng Từ bình đẳng: Đối với cha mẹ, vợ con, anh em, bạn bè và oan gia không gần không xa, bình đẳng không yêu không ghét. Và đối với vô lượng thế giới trong mười phương, trang trải lòng Từ cùng khắp, chưa từng tăng giảm.

Bài tụng rằng:

Người thực hành lòng Từ
Bình đẳng không ghét thương
Chẳng nệ gần hay xa
Mới thực hiện lòng Từ.
Tâm bình đẳng hành Từ
Cho đến ba cõi người…
Người hành từ như thế
Đức ấy hơn Phạm thiên.

Người tu hành thành tựu đầy đủ lòng Từ thì lửa chẳng thiêu được, dao chẳng đâm được, độc chẳng hại được, các tà chẳng hoành hành được.

Bài tụng rằng:

Đao nhân chẳng thể hại
Quan quyền và giặc oán
Tà quỷ, các La-sát
Mãng xà và sấm chớ,.
Sư tử cùng voi cọp
Và các thú dữ khác
Tất cả chẳng dám gần
Không thể làm thương tổn.

Người tu tập hạnh Từ phải nên như vậy thì đêm ngủ an ổn, thức dậy vui tươi. Đêm ngủ người trời bảo vệ, chưa từng có mộng ác, sắc diện vui vẻ, y thực chẳng thiếu, sinh vào chỗ Phạm thiên, đoan nghiêm đẹp đẽ, mắt thì tròng trắng ,tròng đen phân minh, thân thể điều hòa, ít tật bệnh, được sống lâu, chư Thiên cung kính, nhắm đến việc đắc đạo, được Phật khen ngợi, sạch hết trần lao, không còn thoái chuyển. Để được an ổn, đến cảnh giới Vô dư, chứng đắc tịch diệt đều do lòng Từ.

Bài tụng rằng:

Người hành trì lòng Từ
Đẹp đẽ, y thực nhiều
Mọi người đều kính ngưỡng
Sống lâu, sáng như trăng.
Ngủ, thức, đi, đứng yên
Thiên thần đều ủng hộ
Sinh phạm, chư Thiên kính
Được Thế Tôn khen ngợi.
Vì vậy người tu đạo
Phải thực hành lòng Từ.

Bài tụng rằng:

Hành lòng Từ hướng đến tất cả
Trừ các sân hại gọi là Từ
Nay ta chỉ rõ các oán đức
Như trong kinh Phật đã nêu giảng.

Phẩm 7: TRỪ SỢ HÃI

Các điều cần biết rõ
Phân biệt đều hiểu hết
Gặp chư Phật quá khứ
Thấu rõ là như thế.
Vì là Chánh đẳng giác
Cho nên gọi là Phật
Kẻ trí và trời, rồng
Không ai chẳng quay về.
Giáo hóa các cõi, giới
Trừ bỏ những tội lỗi
Đệ dẫn kẻ ngu, ác
Khiến tâm được sáng suốt.
Được an lạc, thoát khổ
Trừ bỏ các sợ sệt
Xin cúi đầu lễ Phật
Quy mạng Đấng Tối Thắng.
Phật hàng phục cứng cỏi
Rống tiếng voi như sấm
Giữ chí, tiếng nghe khắp
Đều thoát khỏi mông muội.
Ngu si tự phóng tâm
Dong ruổi như mưa trào
Voi tên là Đào bát
Để chế phục cao ngạo
Và các vua rồng, thần.
Ôm độc, mắt tóe lửa
Phật dùng điều lành độ
Thần chúng thường vắng lặng.
Giải thoát không chướng ngại
Nay con xin cúi đầu
Quy mạng dưới chân Ngài
Thế Tôn tịch nhiên thắng.
Thấy ma ôm sân độc
Biến hóa lửa khắp nơi
Đội núi, mang binh khí
Cầm đao và mâu kích.
Mãng xà vác cây lớn
Muốn đến hại Thế Tôn
Chư quỷ thần đều tới
Chẳng kinh cũng chẳng hoảng.
Lông chúng như dao nhọn
Vây bọc khắp chung quanh
Tính đếm số rất nhiều
Chẳng lấy làm sợ hãi.
Cũng chưa từng kính nghi
Nhưng chúng không ngu si
Đã bỏ các nạn sợ
Quy mạng Đấng Tối Thắng.

Người tu hành, nếu ở chỗ trống, chỗ vắng mà có sợ hãi, tóc lông dựng đứng, thì nên nghĩ đến điều thiện nơi công đức của Như Lai, hình tượng, dung mạo và Pháp cùng chúng Tăng. Nghĩ đến giới cấm, phân biệt rõ nghĩa Không, biết là sáu phần, mười hai nhân duyên phụng hành Từ bi. Giả sử sợ hãi, thì nghĩ về điều này, không còn sợ nữa.

Bài tụng rằng:

Hoặc vì sợ sệt bò dưới đất
Chẳng thể tự đứng thẳng với pháp
Dạy khiến giữ giới pháp vững chắc
Như gió thổi núi chẳng lay động.
Ví như ong kia chọn vị hoa
Tôi chép các kinh cũng như vậy
Văn tuy rất ít, an lạc chiều
Muốn trừ sợ hãi nên giảng thuyết.

Phẩm 8: PHÂN BIỆT HÀNH TƯỚNG

Tự làm mất châu báu
Rơi vào nước biển lớn
Nhanh chóng cầm dụng cụ
Lặn xuống tìm lại nó.
Siêng năng chẳng kể mệt
Giữ tâm không lay chuyển
Thần biển thấy như vậy
Liền lấy ngọc trở lại.
Vừa khởi phương tiện này
Chấm dứt ý Thiên vương
Vượt đến núi báu lớn
Chẳng cho là mệt nhọc.
Rốt ráo vốn là không
Đảnh lễ Đấng Vô Trước
Ý nguyện không lay chuyển
Quy mạng Đấng Tối Thắng.
Như Long vương cuộn khúc
Ngồi thiền cũng như thế
Cầu đạo dùng tinh tấn
Khởi đại lực thành Phật.
Hành trình trong bảy ngày
Nhẫn hóa được nữ nhân
Đảnh lễ Đấng Chí Tôn
Thấy tin chẳng lay chuyển.

Người tu hành, nếu tâm tự nghĩ ở trong sinh tử chẳng thể tính đếm, quen thói dâm, nộ, si đến nay quá lâu, mạng người đã ngắn mà lại còn lười biếng thì đâu có thể trong một đời trừ hết tội lỗi. Nếu có ý nghĩ ấy, thì nên quán chiếu như sau: Ví như ngôi nhà cũ không có người ở, trải qua nhiều năm tăm tối, chẳng đèn đuốc, nhưng đem lửa vào thì bóng tối tiêu hết. Tuy là lâu ngày quen theo trần cấu, các độc nhưng vì có trí tuệ nên các thứ tội lỗi đều được tiêu trừ. Vì sao? Vì sức của trí tuệ mạnh mẽ, ngu si yếu đuối.

Bài tụng rằng:

Muốn cầu đạo nghĩa chớ biếng lười
Để được pháp lợi, lìa suy hao
Nương trí tuệ quang minh của Phật
Vĩnh viễn trừ hết dâm, nộ, si.

Ai có thể phụng hành theo đạo này như thế?

Chỉ có người tin, siêng năng, trí tuệ; không dối trá, có ý chí mới có thể làm theo được.

Thế nào gọi là tin?

Thấy, biết vạn vật chung quy đều vô thường; những cái mà thân thọ nhận đều là khổ; ba cõi là không; tất cả các pháp đều vô ngã. Người hiểu biết như vậy thì gọi là tin.

Bài tụng rằng:

Người tu hành trì đạo
Nghĩ biết đời chẳng an
Vạn vật đều vô thường
Thân thọ đều là khổ.
Ba cõi thảy là không
Tất cả pháp vô ngã
Nắm vững những điều đó
Thì được gọi là tin.
Nếu khởi tưởng có ta
Gọi là người điên đảo
Thấu rõ tất cả không
Nên biết đó là Phật.
Người hiểu rõ như thế
Đạt được đạo cam lồ
Không gì làm lay động
Đây mới gọi là tin.

Với người tu hành, thế nào gọi là tinh tấn?

Nếu người tu hành tinh chuyên quán về không, vô ngã, tâm chẳng rời bỏ, thì gọi là tinh tấn. Giả như lửa cháy gần đến chỗ ngồi, đốt cháy y phục và đầu, mắt, tâm, nên nghĩ: “Lửa đốt cháy đầu ta, đốt thẳng vào xương thịt da, khiến thân ta chết, nhưng quyết không xả bỏ nẻo hành trì.” Vì sao? Vì tuy thân ta bị thiêu đốt, nhưng chẳng đủ để so với ngọn lửa dâm, nộ, si nằm trong thân tướng này, xoay vần theo sinh tử nơi ba đường ác, thiêu đốt thân ta cho đến nay, trải qua vô số đời. Chưa đạt đến chỗ cứu cánh nơi đạo đức thì tuy bị đốt cháy một thân, chẳng đủ để tự cứu độ, chỉ nên nỗ lực dập tắt ngọn lửa dâm, nộ, si. Đã được diệt độ rồi thì chẳng còn thoái lui nữa. Đã không có thân thì không có các họa hoạn của lửa trong ngoài, dâm, nộ, si ấy chẳng thể dễ diệt. Ví như dùng bùi nhùi mà muốn làm chảy đồng sắt thì chẳng bao giờ có thể được. Giữ tâm kiên cường, bằng tất cả phương tiện mới có thể trừ hết bệnh dâm, nộ, si.

Bài tụng rằng:

Người tinh chuyên tu trì đạo đức
Nên ngay lúc ấy chớ tiếc thân
Ví như có voi rửa thân hình
Tắm rửa vừa sạch, lại nằm đất.
Giả sử nạn gấp đã đến nơi
Sấm sét chớp lòe chẳng kinh sợ
Ví như hoa héo người chẳng tiếc
Vứt bỏ phiền não cũng như thế.

Với người tu hành, thế nào gọi là trí tuệ?

Hiểu rõ khi hành thiền định, biết khi nên quán chiếu, biết khi quán sát tuệ, biết khi thọ pháp, biết khi trụ định, cũng biết khi ra khỏi định chậm hay nhanh; phân biệt tâm mình có thiện ác. Ví như lương y biết bệnh ở trong người, nên kiềm chế tâm, chớ để phóng túng. Ví như con voi mạnh khỏe sắp rơi xuống rãnh, giếng, người giữ voi phải ngăn lại không cho rơi vào.

Người tu hành kiềm chế, cắt đứt sự vướng mắc ngoại duyên cũng phải như vậy, biết tâm là do duyên các tưởng mà hợp thành. Ví như người sáng mắt biết thức ăn dễ dàng. Lại như viên tể tướng biết ý nhà vua thích gì và không thích gì; biết rõ phương tiện, tất cả chỗ tiến lên và dừng lại trên đường hướng đến giải thoát. Giống như người thợ vàng phân biệt vàng tốt hay xấu. Nếu người hành đạo rời bỏ minh trí, chẳng tỏ hướng đi, ôm lòng sợ sệt, cho phải là quấy, cho quấy là phải, thì chẳng thành tựu trí tuệ. Người hành đạo ấy, dù đắc bậc Thiền thứ nhất, đến bậc Thiền thứ hai, thì cũng tự sợ hãi cho là mất thiền, chẳng biết là sự khởi chuyển tịch tĩnh, tâm nghĩ: “Ôi! Ta mê lầm! Vốn có hiện tượng tốt đẹp mà nay lại mất đi”, tâm liền thoái chuyển. Trong niềm hoan hỷ của thiền diệt mà lìa định ý thì tự giới hạn tâm, chẳng tiến bộ được. Hoài nghi như thế thì mất thiền, cho thành là bất thành, cho bất thành là thành.

Thế nào là hiểu rõ ý thiền định?

Chuyên tâm vững chí vào bậc Thiền thứ nhất, tâm ở định diệt tận; vừa khởi hạnh ấy, vào bậc Thiền thứ hai. Sở dĩ người mê từ lâu tập quen thói tục vì chưa biết Chánh đế và các lậu tận. Vì chẳng thấu đạt Chánh đế, nên tâm chí còn ở nơi lậu, hoặc cầu bậc Thiền thứ hai mà không thể chế ngự tâm thì chẳng đầy đủ thiền. Vì vậy hành giả nên biết điều sai lầm ấy. Nếu hành giả sáng suốt chẳng khởi mê lầm ấy thì chẳng mất thiền. Đây gọi là trí tuệ.

Bài tụng rằng:

Giả sử hiểu rõ thân, các pháp
Thì biết đúng đường về của ý
Phương tiện ngăn chế tâm giong ruổi
Ví như móc sắt điều voi trắng.
Có người sáng suốt rõ định ý
Phân biệt tịch quán cũng như vậy
Thường dùng trí tuệ không do dự
Trụ nơi đạo đức thuận giáo pháp.

Với người hành đạo, thế nào là chẳng tà vạy?

Đó là chẳng dua nịnh, tâm ngay thẳng, chuyên tinh hành đạo, vun bồi lòng tin, giữ sự thành thật, dù ở trong dòng biến chuyển nhưng chẳng bị chuyển biến. Có những việc phiền não chẳng thể giải tỏa, thì nên hướng về Pháp sư trình bày điều lầm lỗi vướng mắc của mình. Ví như người bệnh có nỗi khổ của bệnh tật thì sẽ thành thật trình bày với thầy thuốc. Pháp sư quán xét ý chí của hành giả, rồi tùy theo sự thiếu sót của người ấy mà giảng nói pháp.

Bài tụng rằng:

Hành giả luôn ngay thẳng
Giữ tâm không dua nịnh
Vâng theo Pháp sư dạy
Dứt các bẩn trần lao.
An ổn được thanh tịnh
Chuyên tinh siêng tu đạo
Phụng hành lời Phật dạy
Quyết hành trì đúng pháp.

–Giả sử hành giả tình dục bức bách, thì vì họ mà nói pháp bất tịnh về thân người, có ba bậc:

1. Xương của thân giống như các bộ phận của xích sắt chống đỡ liền nhau.

2. Vừa thọ giáo pháp, liền quán xương đầu.

3. Đã rõ phép quán ấy, lại quán sát trên trán, buộc tâm ở đầu.

Giả sử người nhiều sân giận thì vì họ nói về lòng Từ. Lòng Từ có bốn bậc:

1. Cha mẹ, bà con.

2. Người trung gian không thân quá và không sơ quá.

3. Chung cả mọi người.

4. Để được hạnh này, nên trang trải lòng Từ bình đẳng.

Thủ hộ oan gia với đầy đủ lòng Từ thì trừ được chín sự bực bội cùng sự sân giận. Rõ được nghĩa này thì tuy có sự khắn khít nhưng cũng rồi xa. Chín sự bực bội khiến người nổi sân là gì?

1. Tâm sự nghĩ rằng người này vốn đã từng xâm phạm, chống đối ta.

2. Người này về sau sẽ xâm phạm, chống đối ta.

3. Hiện đang khinh dễ ta.

4. Trong thời quá khứ đã chống đối bạn bè ta.

5. Về sau sẽ xâm phạm bạn bè ta.

6. Hiện tại khinh dễ bạn bè ta.

7. Người ấy khi trước kính trọng oan gia của ta.

8. Sau này sẽ lại kính trọng như thế nữa.

9. Hiện nay lại đang kính trọng.

Tuy có tâm lý ấy nhưng đều nên xả bỏ.

–Cái gì có thể khiến người không xâm phạm đến thân mình?

Chỉ nên tự giữ mình đừng xâm phạm đến người khác mà thôi. Nếu bị xâm phạm là sự báo ứng của tội bất thiện từ đời trước của ta, đến nay phải chịu quả ác. Bạn bè của ta vốn cũng có tội, cho nên đến nay phải chịu họa hoạn. Và oan gia của ta vốn cùng với người kia, đời trước là bà con, lại có phước đức khiến người ấy kính trọng, thì với ba bậc quán, chín sự bực bội, không đủ để ôm hận.

–Sao gọi là hoạnh sân?

Chưa từng gặp nhau, vừa thấy liền nổi sân, khi

ấy nên suy nghĩ: “Người này chưa từng xâm phạm hay chống đối ta, nay cũng không có lỗi, lại chẳng có gì sơ suất thì cớ sao nhìn họ bằng ác cảm? Người nào vô cớ khởi tâm ác với người khác thì trở lại tự thọ tội. Giống như ngược gió tung bụi, lại dơ thân vậy.” Người tu hành, nếu chẳng thể diệt trừ sân hận, khiến chẳng khởi lên, thì những người ấy chẳng vào được đạo phẩm. Như chén nước đầy chẳng thể bưng đi xa. Người có khả năng kiềm chế sân hận như nước tưới lửa, thì không hại gì. Thế nên, người tu hành vào luật đạo lấy đó mà noi theo, nên tuy gặp khổ não, đao, cưa xẻ thân cũng chớ khởi sân hận, như đốt cây khô, không có tâm hận, huống là sân hận đối với người vô tội.

Bài tụng rằng:

Quán khắp cả thân mình
Với người oán không khác
Vứt bỏ chín loại bực
Lập chí chẳng hoạnh sân.
Chế tâm, chẳng ôm hận
Như cây khô, không sân
Người trên đường tu hành
Như vậy, không tội lỗi.

Người tu hành, nếu nhiều ngu si thì nên quán chiếu mười hai nhân duyên, phân biệt rõ ràng. Do nhân duyên sinh mà có lão tử. Nếu chẳng có sinh thì không có khởi đầu, kết thúc.

Bài tụng rằng:

Chẳng si thì không sinh
Đã trừ hoạn lão tử
Vốn không có khởi đầu
Thì do đâu kết thúc?
Vì do sáu tình khởi
Loạn động dẫn đến si
Do si có ràng buộc
Trở thành ngu, tối, si.

Người tu hành, nếu có nhiều tạp tưởng thì vì họ mà nói rõ cách đếm hơi thở ra vào. Hơi thở đã định thì ý vắng lặng, vô cầu.

Bài tụng rằng:

Sổ tức, cầu Chỉ và Tương tùy
Quán thấy Chánh đế, tâm liền dừng
Muốn tịnh bản tánh theo như vậy
Ngồi yên loạn tưởng hành chẳng thành.

Người tu hành, nếu nhiều kiêu mạn thì vì họ mà nói nghĩa này: Người có ba loại kiêu mạn:

1. Cho ta không bằng người kia.

2. Người kia bằng ta.

3. Ta hơn người kia.

Người có ý nghĩ ấy là đã ôm lòng tự đại, nên khởi quán sát này: Trong bãi tha ma ở ngoài thành xương, tủy, đầu, thân vứt bỏ lộn xộn khắp các nơi, không còn huyết mạch, da thịt tiêu mất. Nên đến quán xét nơi này: Sự giàu nghèo, sang hèn, nam nữ, lớn nhỏ, đẹp xấu, toàn là xương khô như nhau có gì khác đâu! Từ khi sinh cho đến lúc mạng chung, da bao bọc thịt, máu thấm, gân buộc, y phục che thân, hương hoa, anh lạc trang sức. Ví như làn gió huyễn hóa khéo nêu bày, lại do tâm, ý thức xoay vần mà vận hành, đến như thành quách, quốc ấp, làng xóm, ra, vào, tiến, thoái... Khởi quán như vậy rồi không còn kiêu mạn. Người vốn không quán chiếu thì thấy trong gò mả và tất cả mọi người đều bình thường, không có gì khác lạ.

Bài tụng rằng:

Người tài trí giàu sang
Cỡi xe ngựa dạo thành
Và thây nơi gò mả
Xét kỹ đâu khác gì.
Ở chỗ vắng, dưới cây
Nếu khởi quán như thế
Giữ tâm mà hành đạo
Lửa mạn chẳng thể thiêu.

Pháp sư thuyết giảng kinh, quán sát tâm lý con người gồm có mười chín loại. Căn cứ vào đâu mà biết? Phân biệt phiền não mới biết được. Những gì là mười chín loại?

1. Tham dâm.

2. Sân hận.

3. Ngu si.

4. Dâm nộ.

5. Dâm si.

6. Si, sân.

7. Dâm, nộ, ngu si.

8. Miệng sạch, ý dâm.

9. Lời nhu, tâm cứng.

10. Miệng sáng, tâm si.

11. Lời hay mà chứa ba độc.

12. Lời thô, tâm hòa.

13. Miệng ác, tâm cương.

14. Lời thô, tâm si.

15. Miệng thô chứa ba độc.

16. Miệng si, tâm tà.

17. Miệng si, lòng nộ.

18. Tâm miệng đều si.

19. Miệng si, tâm chứa ba độc.

Bài tụng rằng:

Người có dâm, nộ, si
Gọi chung là ba độc
Hai lần hai xen vào
Kể luôn lại có bốn.
Miệng như cũng có bốn
Miệng si, ngôn si bốn
Theo lời Thế Tôn dạy
Tâm người có mười chín.

–Làm sao để biết người có tướng tham dâm?

Tánh ưa trau dồi lòe loẹt, chơi giỡn, vội vàng, ý chí thay đổi nhanh chóng, tánh như khỉ vượn, hay quên, lầm lẫn, xảo trá, nông nổi, không biết lo xa, cử động, thao tác chẳng nhìn trước sau, làm việc chẳng tha thiết, nhiều việc lo sợ, nói nhiều, ưa khóc, dễ bị lừa đảo, dễ bị chinh phục, yên tâm chịu đựng đủ thứ khổ nhọc, được lợi nhỏ thì lăn vào sự tiêu xài phung phí hỉ hả, mất đi chút đỉnh thì buồn lo quá mức, nghe người khen ngợi thì hớn hở tin theo, những điều cần giấu kỹ đều đem thổ lộ, thân ấm áp, nhiều nhơ bẩn; da mỏng thân hôi, lông tóc thưa thớt, nhiều đóm trắng, nhăn nheo; chẳng ưa râu dài, răng trắng, không đều, ưa y phục sạch, thích mặc lòe loẹt làm đẹp thân thể, ưa mặc đồ mỏng; học nhiều về kỹ thuật không có môn nào là chẳng thông; luôn đi du ngoạn; thường ưa cười mỉm, làm ra vẻ giữ giới; hòa nhã, kính người lớn gặp người thăm hỏi trước; giả bộ tươi tỉnh, diệu dàng, rất nhu mì, e lệ, nhiều lòng Từ, phân biệt tốt xấu để đạt được vấn đề nơi giao dịch, nhu hòa, nhiều buồn rầu, mang nhiều ân huệ. Đối với thân hữu ban cho theo ý họ; có được chút ít, chẳng ban cho người, tranh giành lợi lộc lớn hơn; xét lại bản thân, việc làm chậm chạp; hiểu rõ thế pháp, có thể quyết đoán. Nếu thấy người tốt, cung kính, tôn trọng; biết việc nhanh chóng, khéo léo nói năng, thông minh lanh lợi, lời nói ôn hòa; có nhiều bạn bè nhưng chẳng thể thân mật lâu dài; ít nóng giận, tôn trọng Trưởng lão; đi đứng nằm ngồi chẳng được thong dong. Tuy học giáo pháp, nhưng vẫn ham muốn tài vật. Bà con, bè bạn, bỏ lơ chẳng gắn bó, kết bạn chẳng bền. Nghe việc sắc dục liền khởi tham đắm. Ai phanh phui điều xấu, tìm cách ém giấu, dễ tiến, dễ thoái.

Như vậy là tướng tham dâm.

Bài tụng rằng:

Nhanh nhẹn nhẹ nhàng như vượn khỉ
Thường vui vẻ cười, lại hay khóc
Được lợi rất vui, mất quá buồn
Nói năng nhiều lời, dễ hàng phục.
Mê hoặc, lơ đễnh rồi kinh sợ
Vui vẻ tin người dễ bị lừa
Tánh ý hay quên, chẳng lo xa
Ưa xét giới pháp, có trí tuệ.
Ham nhìn sắc đẹp, ý khéo trao
Làm đẹp thân hình, kính bằng hữu
Thong thả thân ấm, nhiều nhơ bẩn
Dễ tin e lệ, nhưng có dũng.
Bốn pháp tài, sắc và thân hữu
Chẳng thể thích nghi sau hối hận
Các điều đã học, nhanh lãnh hội
Tuy mau biết đó, lại mau quên.
Lòe loẹt trang điểm, bằng y phục
Làm việc vặt vãnh, nhưng kính lão
Người trí kính, người có chí học
Thông đạt rõ ràng mà hòa giải.
Thường ưa ra thành, đi du ngoạn
Nói lời khéo léo, cũng ưa nghe
Lợi khẩu, lời suông thường phân biệt
Chỗ ở, nằm ngồi chẳng được lâu.
Tánh mềm mỏng, chí thành
Khinh việc, chẳng đoái hoài
Vội vàng chẳng chịu khổ
Bạn bè thích ban ân.
Ghét tóc dài, thích ngắn
Vui vẻ mà hôi hám
Trí xảo, da nhăn trắng,
Giữ giới, tuệ vô ngại
Gặp người, niềm nở hỏi
Áo mỏng, mặt, răng sạch
Tâm Từ dễ theo việc
Rong chơi, chẳng tiếc của
Riêng biết người hành Từ
Dễ dạy, chẳng ương ngạnh
Phật dạy, tánh như vậy
Là đúng tướng tham dâm.

–Nên căn cứ vào đâu để xem tướng sân hận?

Hiểu rõ về nghĩa sâu xa thì chẳng vội oán hận. Nếu nóng giận thì khó hiểu rõ được, không có tâm thương xót, lời nói thì hết sức thành thật nhưng hung hăng thô ác, thường thường mang sự hồ nghi, chẳng tìm hiểu tin tưởng, ưa bới móc lỗi người khác, thức nhiều ít ngủ, có nhiều oán ghét, kết bạn có thủy chung; cừu thù khó giải, thọ nhận chẳng quên, không sợ có kẻ oán, người khủng bố chẳng sợ, phần nhiều dùng sức phản kháng lại, chẳng chịu khuất phục, nhiều lo âu, khó giáo huấn; thân thể cao lớn, mày dài, trán vuông, tóc tốt, mạnh khoẻ, tánh cương khó phục; chậm lụt khó tiếp thu những điều được nghe, nhưng khi tiếp thu được rồi thì lại khó quên. Nếu mất của cải do nhu cầu của thân hữu, thì vĩnh viễn không buồn tiếc, khó tiến, khó thoái. Vì vậy biết đó là tướng sân hận.

Bài tụng rằng:

Tánh ý cang cường hiểu sâu nghĩa
Nghi khắp mọi người, tìm tốt, xấu
Ít ưa ngủ nghỉ, khó khuất phục
Tối dạ khó học, cũng khó quên.
Chịu được khổ nhọc, không thể gần
Không sợ ràng buộc, bất chợt sân
Thân khẩu tương ưng khó khuyên can
Mạnh mẽ có sức và cứng cỏi.
Ít sợ, ít bạn, nhiều oán ghét
Ít an ổn, thân thể to lớn
Đã làm việc gì, chẳng hối tiếc
Bỏ của cải rồi, chẳng đoái hoài.
Một khi bỏ bạn, chẳng nghĩ lại
Chưa từng sửa đổi, cũng chẳng phục
Dốc sức tinh tấn lo việc lớn
Phật bảo như vậy là tướng sân.

–Quán xét thế nào mà biết tướng ngu si?

Đó là tánh tình mềm mỏng, ưa tự khen ngợi, không có lòng thương xót, phá hoại cầu chánh pháp, thường lim dim, sắc mặt tiều tụy, không lanh lợi, ưa thích chỗ tối, thường tự than thở, lười biếng không tin, ghét người hiền, thường ưa đi một mình, ít hiểu biết tự tại, làm việc do dự, chẳng rõ lành dữ, chẳng phân thiện ác. Nếu có việc gấp, chẳng thể xử lý, lại chẳng nghe khuyên can; chẳng phân biệt rõ bạn và thù; làm việc ngang ngược, tệ như hổ lang; ăn mặc xấu xí, thân thể dơ bẩn, tánh tình quạu quọ, râu tóc rối bù, chẳng màng chải chuốc; lo nhiều, thích nằm; ăn nhiều không tiết độ; người nhờ vả, sai bảo thì không chịu làm; chẳng nhờ, chẳng sai bảo thì lại tự làm; điều đáng sợ thì chẳng sợ, việc chẳng đáng sợ thì lại sợ, điều nên lo thì lại mừng, nên mừng thì lại lo; việc đáng khóc thì cười, đáng cười thì khóc. Nếu có việc cấp bách sai bảo làm thì chẳng làm; vừa đi, kêu trở lại, chẳng chịu ngoái lại; thường gặp khổ cực chịu nỗi gian lao; ăn uống vật gì chẳng phân biệt mùi vị, nói chuyện cười nhiều, hay quên lời quan trọng, cắn lưỡi liếm môi; nhưng sau cãi lại; đi đứng nằm ngồi chưa từng yên ổn, cử động làm việc, chẳng sợ khó là gì, chẳng biết tiến, thoái. Phật bảo đó là những tiếng ngu si.

Bài tụng rằng:

Bạc nhược, không lòng Từ
Cứng đầu mà tự khoe
Mắt ưa nhắm, chẳng nhìn
Tiều tụy, luôn than thở.
Độc hành, không tin ai
Ghét hiền và lười biếng
Thường lo, nhiều hồ nghi
Chẳng phân biệt thiện, ác.
Thân thể thì dơ bẩn
Chẳng biết lời lành, dữ
Tạo việc nhiều phiền muộn
Chẳng thể tự làm xong.
Nhờ vả chẳng chịu làm
Chẳng sai bảo lại làm
Đáng sợ thì chẳng sợ
Chẳng đáng thì lại sợ.
Đáng vui thì lại buồn
Nên buồn thì lại vui
Đáng khóc thì lại cười
Nên cười thì lại khóc.
Ham ăn, chẳng biết no
Chẳng phân bạn hay thù
Tánh tình ưa ngang ngạnh
Không tuệ, gặp khổ não.
Râu tóc luôn rối bù
Vô tín, ưa bóng tối
Chẳng phân biệt năm mùi
Nằm nhiều, như hổ lang.
Biết ít mà tự cao
Cắn lưỡi và liếm môi
Ưa nói giỡn, rồi cãi
Nói chuyện nhưng cười nhiều.
Nằm, ở lại chẳng yên
Việc gấp khó tiến hành
Kêu lui nhưng cứ tới
Tánh vậy là tướng si.

–Thế nào gọi là tướng dâm, nộ, si?

Đã nói về dâm, nộ, si thế nào thì tướng dâm, nộ, si cũng như vậy. Kẻ mà cùng với tất cả các thứ phiền não cấu uế cùng hòa nhập thì gọi là tướng dâm, nộ, si.

Bài tụng rằng:

Kẻ ở trong phiền não
Hòa nhập với dâm, nộ
Nên quán tướng dâm, nộ
Đó là si, không trí.
Tất cả, trước đã nói
Tham dục các cấu uế
Có hạnh dâm, nộ ngu
Thì biết chẳng lìa si.

–Thế nào gọi là kẻ miệng dục, tâm dục?

Ngôn ngữ mềm mỏng, thuận theo chẳng trái. Điều mình chẳng muốn thì chẳng gán cho người. Lời nói, ý nghĩ hợp với lời thiện, an ổn vừa ý. Ví như cây tốt, sắc hoa tươi thắm, quả cũng ngon ngọt. Miệng dục, tâm dục, cũng giống như vậy.

Bài tụng rằng:

Lời nói thường nhu hòa
Thuận theo được lâu dài
Ngôn hành cũng tương xứng
Thân, tâm chẳng hại người.
Ví như cây, hoa tốt
Thành trái cũng ngon ngọt
Đức Phật gọi đó là
Tướng dâm của tâm, miệng.

–Thế nào gọi là người miệng dục, tâm nộ?

Miệng nói lời như hòa mà tâm ôm độc hại, giống như loại cây đắng, tuy sắc hao tươi thắm mà thành quả rất đắng. Lời nhu hòa chứa độc cũng giống như thế.

Bài tụng rằng:

Người miệng nói nhu hòa
Mà tâm ôm độc hại
Nhìn người rất hoan hỷ
Theo đuổi thì dễ thân.
Miệng nói lời nhu thuận
Trong tâm họ ngậm độc
Như cây, sắc hoa tươi
Quả lại đắng như độc.

–Làm sao biết người miệng dục, tâm si?

Lời nói nhu hòa, nhưng tối dạ, chẳng thể làm ích cho người mà cũng chẳng làm tổn hại người. Ví như cái bình vẽ vời, nhìn bề ngoài rất tốt đẹp nhưng bên trong thì trống rỗng và tối. Miệng dục, tâm si thì cũng giống như thế.

Bài tụng rằng:

Miệng nói có nhu hòa
Mà tâm vẫn si mê
Nên biết những người ấy
Miệng dâm mà tâm ngu.
Xem miệng ấy như tuệ
Trong tâm tối như mực
Ngoài đẹp như bình vẽ
Nhưng trong rỗng, lại tối.

–Thế nào gọi là người miệng dục mà tâm nộ si?

Lời nói thì nhu hòa, nghĩ về điều thiện chút ít, tánh chẳng điều thuận, hoặc lại nghĩ ác, có lúc chẳng nghĩ. Thiện ác chẳng phân, tánh ấy khó biết. Ví như thuốc ngọt trộn lẫn mặn, đắng, chẳng thể phân biệt. Người có miệng dục mà tâm nộ si, cũng giống như vậy.

Bài tụng rằng:

Có người miệng nói dục
Mà tâm ôm nộ, si
Ví như đề hồ ngọt
Xen lẫn cay, đắng, mặn.

–Thế nào gọi là người miệng thô mà tâm dâm? Ngôn ngữ cứng cỏi nhưng trong làm tổn thương người. Mọi người đều ghét, chẳng muốn nhìn thấy, không ai kính trọng. Ví như cha mẹ quở trách con cháu, tuy miệng cứng cỏi nhưng lòng thương yêu. Ví như thuốc chữa ghẻ nhọt, chà rửa mụt ghẻ của người, đang lúc ấy thì rất đau, nhưng dần dần sẽ lành, lòng rất vui vẻ. Người có miệng cứng cỏi mà tâm dâm, cũng giống như thế.

Bài tụng rằng:

Có người miệng nói cứng
Mà tâm ôm dâm dục
Như mặt trời mùa hạ
Ánh sáng chiếu nước lạnh.

–Thế nào gọi là người miệng cứng cỏi mà tâm nộ?

Miệng nói thô bạo và những điều cần suy nghĩ thì không có sự thương yêu, chẳng muốn làm lợi người. Ví như thuốc đắng lại hòa thêm chất độc, nếu cho uống thì người bệnh mửa ra không uống, nếu đã uống vào rồi thì hại đến mạng người. Người miệng cứng cỏi mà tâm nộ, cũng giống như thế.

Bài tụng rằng:

Người miệng nói cứng, không thân kính
Tâm nghĩ tệ ác và ôm độc
Thường ưa chống đối với người khác
Nên xem kẻ này hành tạp độc.

–Thế nào gọi là người miệng thô mà tâm si?

Nói thường cứng cỏi, gán điều ác cho người, cử động làm việc tâm chẳng tự biết, chẳng nghĩ việc thiện của người, cũng chẳng nghĩ điều ác. Ví như có giặc cướp rút đao uy hiếp người, nhưng chẳng làm hại. Như vậy, hành giả biết miệng cứng cỏi mà tâm ngu si.

Bài tụng rằng:

Miệng nói cứng cỏi, tâm chẳng hại
Ưa khủng bố người, không gì khác
Ví như rút đao mà không chém
Miệng thô, tâm si cũng như vậy.

–Thế nào gọi là người miệng thô, tâm chứa ba độc?

Miệng nói cứng cỏi hoặc thiện với người, rồi lại thêm điều ác; bỗng dưng nghĩ điều bất thiện, cũng chẳng thể làm ác. Ví như vị khâm sai bắt được giặc cướp, ông ta ra lệnh thuộc hạ khủng bố, trách mắng, rồi lại cho người dụ dỗ, thăm hỏi; kế đó thuộc hạ lại tra khảo đánh đập. Lại có vị không hỏi thiện, ác cũng chẳng tra khảo, trách mắng. Đó gọi là người miệng thô mà chứa ba độc.

Bài tụng rằng:

Miệng nói lời cứng cỏi
Tâm sẵn chứa ba độc
Người tánh ý như thế
Chẳng thiện, chẳng làm ác.
Làm theo cách người này
Gọi là người trung gian
Khổ nhọc và an ổn
Việc ấy xen lẫn nhau.

–Thế nào gọi là người miệng si mà tâm dục?

Không biết rõ điều gì về người, cùng nói chuyện hoàn toàn không có kiến giải, chẳng hiểu thiện ác. Tâm thường tự nghĩ: ý nghĩa của mục đích hướng đến là nên làm gì, để cho người thêm lợi ích. Đã đến được mục đích như điều mong ước rồi, mà không quên chủ ý ban đầu. Ví như đêm tối, khởi mây, đổ mưa. Người miệng si tâm dục cũng giống như thế.

Bài tụng rằng:

Có người miệng si mà tâm dục
Miệng nói ra lời chẳng hiểu rõ
Như rồng phun mưa mà chẳng sấm
Miệng si tâm dục cũng như thế.

–Thế nào gọi là miệng si tâm cứng cỏi?

Chẳng thể làm việc thiện, cũng chẳng thêm điều ác, thường nghĩ rằng dùng cách gì để làm hại người. Nếu có cách rồi thì liền làm ngay để hại người. Ví như dùng tro phủ lên than đỏ, người đi trên đó liền bị phỏng chân, miệng si tâm nộ cũng như thế.

Bài tụng rằng:

Miệng si mà tâm cứng
Chẳng nhu, không nói ác
Ôm ác gán cho người
Chẳng nghĩ tạo thiên lợi.
Lời nói chẳng rõ ràng
Chứa ác ở trong tâm
Như tro phủ than đỏ
Nếu giẫm, thiêu thân người.

–Thế nào gọi là miệng si, tâm tăm tối?

Chẳng thể dùng điều thiện ban bố cho người, tâm cũng chẳng thể nghĩ thêm điều ác. Đối với điều thiện, ác của người khác, không tăng, không giảm. Vì sao? Vì không có uy lực. Ví như lửa tàn dùng tro phủ lên, nếu mang cỏ khô và phân bò khô, chất đống trên đó, tay chạm chân đạp, không thể thiêu cháy được và cũng chẳng bị phỏng. Vì sao? Vì không còn có khả năng phát hỏa. Miệng si, tâm tăm tối cũng giống như thế.

Bài tụng rằng:

Người miệng nói ngu si
Và trong lòng hắc ám
Đều chẳng thường nghĩ ác
Cũng chẳng luôn nghĩ thiện.
Chẳng thể thành việc được
Cũng có thể làm nên
Như vội vàng thổi, nấu
Không thể nào chín được.

–Thế nào gọi là miệng si, tâm chứa ba độc?

Miệng nói không xâm phạm, cũng chẳng làm ích lợi người, trong đó có chút ít tổn hại thì ngày đêm suy nghĩ, do đâu mà tổn hại đến người, lại nghĩ làm sao để lợi người. Hoặc tâm niệm: chẳng làm tổn hại, hay lợi ích cho người. Ví như chiếc bình cũ chứa đầy vật sạch, hoặc chẳng sạch, rồi đậy miệng lại, chẳng thấy gì bên trong, có nói mới biết.

Miệng si tâm chứa ba độc cũng giống như thế.

Bài tụng rằng:

Tánh ưa làm ngang ngược
Miệng nói chẳng chừa gì
Mà chứa dâm, nộ, si
Đầy ắp điều xú uế.
Ví như bình cũ lớn
Chứa vật tịnh, bất tịnh
Chẳng thể ích cho người
Cũng không làm tổn hại.

Là Pháp sư thì dùng mười chín việc này quán, quán xét tánh tình của người mà giảng nói pháp cho họ. Với người có tướng dâm thì giảng thuyết thế nào? Vì họ mà giảng rằng, người quen thói dục nhiều khi bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ. Sau khi được thoát ra lại làm loài chim dâm dục như là oanh vũ, sẻ xanh, bồ câu, uyên ương, ngỗng, vịt, khổng tước, và loài dã nhân vượn, khỉ. Nếu trở lại làm người thì đa dâm, phóng dật, cẩu thả, vội vàng, hung bạo. Nên quán sát điều này, sắc đẹp và thân người, quán biết là tội lỗi, dơ uế, xấu xa, mong manh, bất tịnh. Chớ quen thói dâm dục.

Bài tụng rằng:

Người quen dâm dục nhiều
Kiêu mạn, mau tự đốt
Trong loài người, súc sinh
Hoặc địa ngục, ngạ quỷ.
Sinh ra rồi tự hại
Lửa trần lao thiêu hủy
Muốn được thoát chốn này
Tùy thuận nên giảng nói.

Nếu người sân si nhiều thì tùy theo nếp sống của họ mà nói pháp thích ứng. Nếu nhiều sân giận thì bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ. Từ chốn ác thoát ra sẽ làm các loài thú độc, quỷ mị, La-sát, phản túc, nữ quỷ, hỗn quỷ, lại làm sư tử, hổ sói, rắn hổ mang; trùng độc, muỗi nhặng, sâu, ong, loài trùng nhiều chân. Nếu từ chốn này trở lại nhân gian thì hình mạo xấu xí, chẳng ai ưa thích, thường chết yểu, nhiều tật bệnh, thân thể bất toàn. Vì tội lỗi phân minh như vậy, nên thực hiện lòng Từ, trừ bỏ sân giận.

Bài tụng rằng:

Người ôm nhiều sân giận
Mọi người ai cũng ghét
Mang tội đọa cõi ác
Nhiều bệnh chẳng an ổn.
Đọa làm quỷ, thú độc
Sinh làm người hạ tiện
Người hành trì tâm Từ
Liền dứt trừ sân giận.

Nếu người nhiều ngu si, thì vì họ nói pháp này: U mê quá mức thì chết bị đọa vào đường địa ngục, ngạ quỷ. Nếu đọa vào súc sinh thì làm những loài thú ngu đần như là trâu, bò, cáo, chó, la, lừa, heo. Nếu trở lại làm người thì tánh chẳng cương quyết, nhãn căn yếu, không rõ, mang nhiều tật bệnh, sáu loài tình cảm chẳng đầy đủ, sinh trong loài dã nhân, man rợ, từ chỗ tối tăm này nhập vào chốn tăm tối khác. Vì vậy dạy cho họ quán mười hai nhân duyên để diệt trừ cội gốc của ngu tối.

Bài tụng rằng:

Người quen thói ngu si
Các căn chẳng hoàn bị
Sinh trong loài trâu, dê
Sau đọa vào địa ngục.
Nếu mà người tu học
Nguyện vượt đường ác này
Muốn thoát khỏi tăm tối
Nên quán mười hai duyên.

Nếu người nhiều dâm, nộ nên thực hiện hai việc: Quán bất tịnh và hành tâm Từ. Nếu nhiều dâm, si thì nêu giảng hai việc: Rỗng không và Từ, nếu nộ si mạnh, thì nói hai việc: dẫn dắt dùng lòng Từ và hiểu rõ gốc si.

Bài tụng rằng:

Hành Từ, quán Bất tịnh
Đối trị dâm, nộ, si
Dạy người ngu chẳng rõ
Sắc nơi mười hai duyên.
Nếu người sân giận mạnh
Và si quá tăm tối
Vì họ giảng tâm Từ
Gốc mười hai nhân duyên.

Nếu có người miệng dâm mà tâm dục, thì vì họ mà nói ý nghĩa vô thường, tịch tĩnh. Còn tâm nộ mà miệng sân thì chỉ giảng nhân từ. Miệng si, tăm tối thì giảng về mười hai duyên. Ngoài ra, bốn loại đầy đủ các bệnh: Một là miệng dâm, tâm ôm ba độc; hai là miệng đầy đủ nộ, dâm, sân, si; ba là miệng ngu, trong chứa ba cấu; bốn là người thuần chứa ba độc, thì vị Pháp sư nên giảng giải cho họ vì họ mà nói pháp giáo hóa, khiến tĩnh lặng, quán gốc nhân duyên. Vì sao? Vì nơi họ phiền não cấu uế dày đặc, chứa nhiều tội lỗi, tự trói buộc mình. Tuy là gặp pháp, nhưng chẳng thấy Thánh đế, chỉ nên dạy họ tụng đọc, khuyến khích tinh tấn. Nhờ vậy, nên chuyên vào việc đọc tụng mà phiền não trở nên cạn mỏng. Tuy chẳng đắc đạo nhưng có thể sinh Thiên.

Bài tụng rằng:

Có người hành phạm dâm
Mà tâm sân hận, si
Nên dạy đọc tụng kinh
Và khuyên làm việc phước.
Thì phiền não tuy mạnh
Nhưng nhờ đó trừ tội
Bởi do phương tiện ấy
Mà mau được sinh Thiên.

Ví như có người chăm sóc vườn cây, san bằng gò đống cao, thấp, tưới tẩm đúng thời, nhổ bỏ gai gốc; cỏ dại, lau lách, cành nhánh cong queo, đâm ngang không hàng lối đều phát chặt hết, đem bỏ bên ngoài bờ rào, khiến khu vườn quang đãng. Cây cối không vướng, rễ xanh lá tốt, đều được giữ gìn, khiến không gãy ngã. Vì vậy nên cây cối lớn nhanh, hoa quả trĩu cành. Người tu hành nhận lãnh lời dạy của thầy diệt trừ các thứ uế dục, tưởng dâm, nộ, si. Vì vậy cho nên sự tu hành càng tăng tiến, cho đến lúc đắc đạo.

Bài tụng rằng:

Cây cối mọc cong, quẹo
Đâm chĩa chẳng thẳng hàng
Gai gốc, các thứ dơ
Dọn sạch, khiến ngay ngắn.
Dùng bao nhiêu phương cách
Sửa soạn mới thành được
Tu hành chăm cây pháp
Theo kinh cũng như vậy.
Trừ các dâm, nộ, si
Nhân trăm ngàn lời thầy
Diệt bỏ các tội lỗi
Như người chăm sóc cây.

Pháp sư thuyết pháp xem xét bốn việc:

1. Học rộng mà được đến với đạo.

2. Mang lòng tin đến với đạo, đối với chỗ học vấn thì không thể luận bàn nghĩa lý.

3. Học rộng mà đạo đức chưa thành tựu.

4. Không hiểu biết, không đạo đức. Lại có bốn pháp:

1. Ban đầu do Pháp sư, thọ nhận lời dạy của Pháp sư mà biết nghĩa, hiểu pháp.

2. Tuy hiểu nghĩa nhưng chẳng thể đạt được chỗ nhiệm mầu.

3. Phân biệt được pháp cạn chứ chẳng thể đến chỗ sâu xa.

4. Chẳng biết ý nghĩa, cũng chẳng hiểu rõ.

Học pháp như thế là đã tập hạnh khổ sở vô ích. Ví như hai người đều chẳng biết bơi lội bị rơi vào chỗ nước sâu, muốn cứu nhau thoát khỏi, nhưng lại bị chết chìm. Ví như người mù dắt người đui muốn đến nơi nào đó, giữa đường mờ mịt, chẳng tới nơi được. Người chẳng biết nghĩa, cũng chẳng thông tuệ mà muốn thuyết pháp, muốn cứu độ người, cũng giống như thế.

Bài tụng rằng:

Ví như người học rộng
Điều thiện nhiều vô số
Đã đạt Ba-la-mật
Như người vượt biển lớn.
Nếu người như thật tịnh
Nhưng không có trí tuệ
Chỉ nắm được điều chính
Chẳng thể đạt nghĩa sâu.
Nếu người tập vào đạo
Tùy thuận chẳng trái luật
Luôn luôn kính thọ giáo
Như vậy có tỉnh thức.
Như gần bậc tôn quý
Chắc chắn được lợi nhiều
Người học đạo tu hành
Mà cầu hiểu biết nghĩa.
Thì chỉ hiểu nghĩa thôi
Chẳng thể đạt thâm diệu
Như người ăn canh không
Chẳng có hạt cơm nào.
Như theo thầy học nghĩa
Chẳng rõ biết lý mầu
Chẳng thể hiểu đại đạo
Chẳng đạt tuệ chân chánh.
Giả sử chẳng vào đạo
Chẳng thể phân biệt nói
Chẳng hiểu rõ trí tuệ
Không nghĩa, chẳng biết gì.
Như mù muốn dẫn đui
Chẳng thể đi đâu được
Không nghĩa cũng không trí
Cũng giống như vậy thôi.

Người tu hành có ba hạng:

1. Thân hành đạo mà tâm chẳng làm theo.

2. Tâm hành đạo nhưng thân chẳng theo.

3. Thân tâm đều hành đạo.

–Thế nào là thân hành đạo mà tâm chẳng theo?

Giả sử người tu hành ngồi kiết già ngay ngắn, như cây đứng yên chẳng từng dao động, tuy biểu hiện tướng này, nhưng nội tâm buông thả, luôn nghĩ về sự trơn láng, mịn màng của sắc, thanh, hương, vị, điều cần sửa đổi thì chẳng sửa đổi, mong cầu tất cả, tâm buông lung, chẳng được tự tại. Ví như thây chết vất ở bãi tha ma, hổ lang, cầm thú, chim, chó, cáo, tranh nhau ăn thịt, thân định, tâm loạn, cũng giống như vậy. Đây là hạng người tu hành đạo đức mà thân định, tâm loạn.

Bài tụng rằng:

Kiết già, ngồi ngay thẳng
Bất động như Thái sơn
Nhưng trong tâm mê loạn
Giống như voi sa vực.
Người tu hành như vậy
Thân định mà tâm loạn
Giống như hoa trái mùa
Không tạo quả mà rụng.

–Thế nào là người tu hành có tâm hợp với đạo mà thân chẳng theo?

Thân chẳng ngồi thẳng mà thành tựu bốn Ý chỉ, bốn Niệm xứ khi ấy tâm tuy định mà thân chẳng ngồi yên.

Bài tụng rằng:

Nếu như tâm tánh tự điều hòa
Trụ bốn Ý chỉ, không tướng khác
Khi ấy gọi là bốn Ý chỉ
Tuy thân chẳng định tâm chẳng loạn.

–Thế nào gọi là người tu hành, thân tâm đều định?

Thân ngồi ngay thẳng, tâm chẳng buông thả. Các căn đều tĩnh lặng, chẳng giong ruổi theo các duyên bên ngoài. Ngay khi ấy, thân tâm đều định, hoàn toàn chẳng lay động, do đó biết là thân tâm đều định.

Bài tụng rằng:

Thân và tâm đều định
Trong, ngoài chẳng buông thả
Tĩnh lặng, ngồi kiết già
Như trụ vững, khó lay.
Thấy sự thật sinh tử
Như nước xoáy vây bờ
Thân và tâm tương ưng
Mau thành đạo, đắc quả.

Người tu hành chuyên cần tinh tấn, tu đạo không động chuyển, như vậy mau đạt đến Niết-bàn tịch tĩnh.

Bài tụng rằng:

Giảng thuyết bao nhiêu nghĩa chính yếu
Như sữa, mật trộn vào thức ăn
Người không dua nịnh, thường theo pháp
Dùng giáo pháp Phật tự điều hòa.

QUYỂN 3

Phẩm 9: KHUYẾN Ý

–Theo phương pháp tu hành, thì dùng cách gì để tự định tĩnh tâm mình?

Tôi đã từng nghe:

Ngày xưa có một vị quốc vương muốn tuyển chọn một người thông minh trong nước để làm phụ thần. Bấy giờ, nhà vua tạm bày ra vô lượng cách thức khéo léo, tuyển chọn được một người thông minh quảng bác, ý chỉ rộng lớn, cao nhã, oai dũng nhưng không hung bạo, danh đức đầy đủ. Nhà vua muốn thử người này để biết như thế nào, cho nên dùng trọng tội gán ghép ông ta, ra lệnh cho sứ thần đựng đầy dầu trong bát, khiến ông ta bưng từ cửa phía Bắc đi về cửa phía Nam, cách thành hai mươi dặm, có khu vườn tên là Điều hý, bưng qua nơi ấy. Nếu người bưng dầu mà làm rơi một giọt thì chém đầu, khỏi cần tâu hỏi.

Bài tụng rằng:

Giả sử người ấy đến vườn Hý
Theo lời ta dặn chẳng đổ dầu
Nên kính người ấy như thân ta
Giữa đường đổ dầu thì chém đầu.

Lúc này, quần thần nhận lệnh nghiêm trọng của vua, đổ đầy dầu vào bát, giao cho người kia, người kia hai tay bưng bát dầu mà lòng vô cùng lo lắng, tự nghĩ: “Dầu đầy bát, mà thành ấp lại đông người qua lại, xe, ngựa, người xem đầy đường. Ví như nước lặng yên mà có gió thổi thì nước nổi sóng.” Người cũng như vậy, tâm chẳng an ổn. Rồi lại tự nghĩ: “Không một ai khuyên ta cố gắng và bảo ta đừng sợ hãi! Dầu trong bát ấy, chỉ bưng đi bảy bước thôi, còn chẳng thể tới được, huống là khoảng đường như thế.” Người này lo lắng, chẳng biết trông cậy vào đâu, ôm lòng sợ hãi.

Bài tụng rằng:

Thấy người voi, ngựa và xe cộ
Gió lớn thổi nước, tâm như thế
Lòng ôm sợ hãi chẳng đến được
Đâu thể làm xong sự việc này.

Người ấy lại nghĩ: “Nay ta chắc chết, chẳng còn nghi ngờ gì nữa! Nhưng nếu có thể bưng bát, khiến dầu không đổ, đến được vườn kia thì bấy giờ mới thoát chết.” Phải thực hiện cách này: “Nếu thấy điều phải, điều quấy mà tâm chẳng động, chỉ nghĩ đến bát dầu, ý chí chẳng duyên vào việc gì khác, nhiên hậu mới đến đích.” Khi ấy, người kia bình tĩnh từ từ bước đi. Lúc đó, quần thần, quân lính và người xem vô số trăm ngàn đi theo xem, như mây vần vũ bao quanh Thái sơn.

Bài tụng rằng:

Người kia ôm bát tâm cương quyết
Dọc đường thấy biết bao người xem
Dân chúng vây quanh kéo đi theo
Ví như sông biển nổi mây lớn.

Khi người ấy đang bưng bát, tiếng đồn vang xa đâu cũng nghe, vô số người tập trung đến, họ đều nói: “Nhìn y phục, hình thể, cử động của người này nhất định phải là tử tù.” Tin tức về người này truyền đến gia đình, cha mẹ, họ hàng đều nghe, tất cả cùng chạy tới, đến chỗ người con kia, kêu gào, khóc la bi thảm. Nhưng người ấy chú tâm, chẳng ngoái nhìn cha mẹ, anh em, vợ con và thân quyến, tâm chỉ gắn vào bát dầu, không móng khởi ý niệm nào khác.

Bài tụng rằng:

Con cái gào khóc lệ như suối
Kể lể lắm điều gọi kêu cha
Tâm ôm sợ sệt chẳng biết ai
Chuyên tinh, giữ ý mà bưng bát.

Đám đông bàn tán, bảo nhau réo gọi, ba lần như thế. Khi ấy, người trong cả nước đều tập trung đến, người xem quấy nhiễu kêu réo chấn động, đuổi chạy theo nhau, giẫm đất bụi nổi, san sát nối tiếp, không có khoảng hở. Người ấy chú tâm, chẳng nhìn nơi đám đông.

Bài tụng rằng:

Mọi người kêu réo mãi không thôi
Trước sau nối tiếp không khoảng hở
Nhưng người bưng dầu chẳng nhìn thấy
Như sấm trời mưa, không hại gì.

Người xem lại nói: “Có người con gái đi đến, đoan trang, sắc diện rạng rỡ, cả nước không ai bằng, như mặt trăng tròn đầy độc sáng giữa các vì sao, tươi tắn như hoa sen, đang đi trên đường lớn. Vóc dáng cao sang, phong thái hơn người, giống như ngọc nữ, lại tợ như hoàng hậu của vua trời Đao-lợi, tự là Hộ Lợi, đoan trang hết mực, chư Thiên và loài người ai cũng kính trọng. Nay ở đây, người con gái này cũng rực rỡ như vậy, có khả năng biểu diễn tám loại vũ khúc, âm thanh trong trẻo êm ái, người nghe đều hoan hỷ.”

Bài tụng rằng:

Cử chỉ thì thong dong
Ca múa chẳng lỗi nhịp
Tâm luôn luôn vui vẻ
Làm cảm động mọi người.
Xướng ca tiếng thương cảm
Thân hình thì uyển chuyển
Chẳng mau cũng chẳng chậm
Y phục luôn tề chỉnh.
Bảy loại âm vi diệu
Thuật lại có năm mươi
Ba nghiệp đều thanh tịnh
Tiết cung, thương hòa hợp.
Thân từ đầu đến chân
Trang nghiêm anh lạc báu
Nói năng thì êm dịu
Giống như cam lồ rơi.

Bấy giờ, người ấy nhất tâm bưng bát, chí chẳng lay động, cũng chẳng nhìn ai. Người xem đều nói: “Thà hôm nay được nhìn dung nhan người con gái kia thì chết đi cũng chẳng ân hận, hơn là sống lâu mà chẳng được thấy.” Người ấy tuy nghe lời này nhưng vẫn chuyên chú bưng bát, chẳng để ý đến.

Bài tụng rằng:

Khéo léo và thong dong
Nhảy múa rất tuyệt vời
Tất cả người ham thích
Ví như vợ của ma.
Làm động người lìa dục
Huống gì kẻ phàm phu
Đi đến bên người ấy
Bưng bát tâm chẳng chuyển.

Ngay lúc ấy, có con voi say to lớn chạy xông vào đường lớn. Mọi người bảo nhau: “Voi say đến, nó giày đạp chúng ta chết tức khắc. Đây là loài yêu mị hóa làm hình voi gây nhiều nguy hại, chẳng chừa một ai”, thân hình nó lở loét, da dẻ sần sùi, từ đùi vế to lớn, chất độc chảy xuống, lưỡi đỏ như máu, bụng sệ sát đất, miệng môi trệ xếch, bước đi nghinh ngang, không gì câu thúc, thân dính máu người, ngang nhiên tự tác, không gì trở ngại, giống như nhà vua; nhìn xa như quả núi, tiếng gầm rền vang như tiếng sấm cất cao vòi lên một cách giận dữ.

Bài tụng rằng:

Voi lớn sức mạnh thật khó đương
Thân có máu chảy như suối nguồn
Giày đất bụi tung, vòi giơ cao
Như muốn làm hại hết mọi người.

Như vậy, voi ấy khủng bố những người xem, khiến họ chạy tứ tán, phá tan binh lính, các voi khác chạy hết. Tất cả người trông thấy đều muốn hại cho nó chết nên chặt cây to giăng ra, tuy bị đụng cây đau đớn nhưng nó chẳng sợ gì.

Bài tụng rằng:

Phá người và đàn voi
Làm người sợ hoặc chết
Phá hại các nhà cửa
Bươn chạy chẳng sợ gì.
Tiếng đồn lan xa gần
Tính khí rất hung hăng
Ngang tàng không kiềm thúc
Chẳng mong gì cao xa.

Bấy giờ, các nhà buôn bán, quán xá ở ngã tư đường, chợ búa, xóm làng đều sợ hãi thu dọn hàng hóa đậy cất, đóng cửa; sợ nhà cửa bị đập phá sập, mọi người đều chạy tránh. Lại có thợ giết voi, nhưng cũng không có ai chế ngự được, nó lại càng nổi sân giẫm đạp các loài voi, ngựa, trâu, dê, heo, bò, xéo nát các cổ xe, vung vãi tứ tung.

Bài tụng rằng:

Các nơi quán xá đều đậy cất
Hại người, súc vật, giẫm nát xe
Thấy việc như vậy đóng nhà cửa
Tan hoang như cướp phá bản doanh.

Hoặc có người chứng kiến, chấn động sợ hãi chẳng dám rục rịch. Hoặc có người kêu oán than thở, khóc lóc. Lại có kẻ hôn mê chẳng biết. Có người chưa kịp mặc áo, bỏ chạy. Có kẻ mê lầm chẳng biết đông tây. Lại có kẻ chạy nhanh như gió thổi mây chẳng biết đến đâu. Trong đó có kẻ sợ quá nằm áp bụng sát đất. Lại có kẻ cùng quẫn lắp tên vào cung toan bắn, hoặc cầm đao nhọn muốn đâm, trong đó có người thất sắc, hoảng hốt, nói xàm. Hoặc có kẻ giận dữ mắt đỏ kè. Lại có người đứng chỗ vắng, từ xa nhìn lại vui vẻ. Tuy có người cầm binh trượng nhưng chẳng thể thi thố gì được.

Bài tụng rằng:

Với việc này mê sợ
Cũng có kẻ thương khóc
Kinh hãi, chẳng gì ngăn
Lại có người cầm gậy.
Kẻ sợ sệt nằm xuống
Người xa chẳng tự biết
Kẻ gặp vậy chẳng yên
Đều do thấy voi say.

Khi ấy, có người biết chú thuật thuần hóa voi, tâm tự nghĩ: ta đã tự học phương pháp điều khiển voi, cách thức hay, dở gồm có tám trăm thứ, ta xem voi này hầu như không có cách nào trong ấy. Ta nay phải quán sát kỹ xem nó phát xuất từ chủng loại nào? Loại thượng có bốn, hay là loại trung, loại hạ? Do quán sát mà biết được, liền cất cao giọng trì tụng thần chú.

Bài tụng rằng:

Thiên vương trao kim cương
Ta có lời vi diệu
Trừ được mọi cao ngạo
Ốm yếu khiến khỏe mạnh.

Ngay lúc đó, người kia cất tiếng nói: “Các người sáng suốt, không có tự tại, cũng không nổi nóng, trừ bỏ ân ái, vâng làm theo pháp, tu hành thành tín, đạt đến mục đích. Hãy bỏ mọi cao ngạo, để tâm an ổn.” Rồi nói hai bài kệ này của Tiên thánh xưa.

Dâm dật và nộ si
Ba thứ phá đời này
Thành đạo, hết các cấu
Nhiệt não được tiêu trừ
Dùng pháp chí thành kia.
Tu hành cũng như thế
Cốt là xin Tượng vương
Trừ hoặc bỏ cuồng ngông.

Voi nghe lời giáo huấn chính đáng này liền bỏ tự tại, tự hàng phục tâm, thuận theo lẽ phải, đi trở về chuồng, chẳng còn nhiễu hại, phạm đến mọi người. Người bưng bát kia chẳng hay voi đến cũng chẳng biết voi đi. Vì sao? Vì chú tâm, sợ chết, nên không còn nghĩ gì khác.

Bài tụng rằng:

Thấy voi như mưa dữ
Nhưng tâm chưa từng loạn
Mưa ấy tuy đã dứt
Bầu trời vẫn chẳng sáng.
Người ấy cũng như vậy
Chẳng biết voi đến, về
Trụ tâm, bưng bát dầu
Như cất báu chẳng quên.

Lúc ấy, người xem, vì bị quấy nhiễu chạy tứ tản khắp nơi, nên trong thành phát hỏa thiêu đốt các cung điện và nhiều nhà báu, lầu gác, đài cao, hiện ra ánh sáng rực rỡ kỳ lạ, lần lượt tiếp nối giống như ngọn núi lớn, không có gì là chẳng thấy, khói tỏa cùng khắp, lửa vẫn bừng cháy.

Bài tụng rằng:

Thành ấy giàu sang, rất đẹp đẽ
Cung điện, nhà cửa thật nguy nga
Nhưng khói xông tỏa khắp mọi nơi
Lửa cháy như người muốn tự đốt.

Khi lửa cháy thành thì các loài ong đều phóng ra nọc độc chích người. Người xem bị đau nhức, kinh hãi bỏ chạy, trai gái già trẻ, sắc diện biến thành xấu xí, đầu rối, mình trần, đồ trang sức quý giá rơi mất, bị khói xông nên chảy nước mắt; thấy ánh lửa từ xa, trong lòng sợ sệt, chẳng biết chạy đến đâu, kêu nhau ơi ới; cha con, anh em, vợ chồng, nô tỳ dặn nhau tránh lửa, tránh nước, chớ rơi xuống bùn, mới được an ổn.

Bài tụng rằng:

Trong lòng lo rầu, chẳng tự biết
Nhà cửa, thân tộc và nô tỳ
Cỡi các voi ngựa, buồn rầu chạy
Nói có lửa lớn, nên tránh đi.

Bấy giờ, quan binh đến dập lửa. Người ấy chuyên chú nhất tâm bưng bát, không rơi một giọt, chẳng biết khi lửa bốc cháy và tàn lụi. Vì sao? Vì giữ tâm chuyên ý, không nghĩ gì khác.

Bài tụng rằng:

Có số đông mê hoặc
Như chim gặp lửa bay
Lửa ấy đốt điện nhà
Khói xông như mây cuộn.
Đầu rối và kinh sợ
Bỏ chạy tránh khỏi lửa
Chú tâm vào bát dầu
Chẳng hay lửa cháy tàn.

Cùng lúc, năm sắc mây nổi lên, trời sấm chớp lớn.

Bài tụng rằng:

Đã nổi mù lớn, mưa trái thời
Gió dậy thổi mây khiến mù mịt
Không trung khắp chỗ trời tăm tối
Giống bầy voi dữ, mây cũng vậy.

Rồi cuồng phong nổi dậy, thổi đất tung bụi, cát sỏi ngói đá chận ngăn khắp nẻo đi, cây ngã, cành gãy hoa quả rơi rụng.

Bài tụng rằng:

Gió nổi dậy, tung bụi khắp nơi
Mây đen ùn kéo giăng cùng khắp
Gió mạnh sập tối, chẳng thấy nhau
Sấm chớp giáng xuống, ai cũng kinh.

Lúc này, mây lớn tóe sáng, sấm sét giáng xuống. Loài khổng tước đều kêu, trời liền trút mưa đá. Tuy có biến động này nhưng người kia cũng chẳng nghe. Vì sao? Vì chỉ nghĩ đến bát dầu.

Bài tụng rằng:

Khi voi ấy bươn chạy
Giống như mây lớn nổi
Mưa đá tắt gió lớn
Trốc cây làm hư nhà.
Người ấy đều chẳng thấy
Lành, dữ nào có hay
Chẳng biết gió, mây khởi
Chỉ quán chén dầu đầy.

Bấy giờ, người ấy bưng bát dầu đầy đến khu vườn kia, không rơi một giọt. Binh lính, sứ thần đều trở về cung vua, tâu bày đầy đủ với vua về các tai nạn, và người bưng bát chuyên tâm không động, đã về đến khu vườn, không rơi một giọt. Vua nghe tâu khen rằng: “Người này khó sánh kịp, là người hùng trong loài người, chẳng ngoái nhìn thân thuộc và ngọc nữ, chẳng nao núng trước họa hoạn, voi dữ, nước lửa, điện chớp, sấm sét. Ta đây nghe tiếng sấm còn kinh ngạc, sợ hãi, tuy có người tâu trình nhưng chẳng tỉnh. Hoặc có người bị phân tán tâm thần mà chết. Hoặc có người nữ đang khỏe mà bị hư thai, người này là chỗ dựa của muôn dân nhưng chẳng ai biết, tuy là gặp các nạn, nhưng tâm chẳng động, con người như vậy, không có việc gì là chẳng làm được. Tâm vững chắc như thế, không bao giờ sợ nạn. Vua địa ngục tra khảo có thể ăn kim cương.” Nhà vua hoan hỷ, lập làm đại thần.

Bài tụng rằng:

Thấy thân tộc khóc lóc
Và voi say quậy phá
Tuy gặp các nạn sợ
Nhưng tâm chẳng lay động.
Vua thấy người kiên định
Không lay chuyển như thế
Nên thân ái, kính trọng
Lập lên làm đại thần.

Do tâm của vị chánh sĩ ấy kiên cố, dù gặp các việc tốt xấu và các tai nạn khủng khiếp, tâm chỉ chẳng chuyển di, nên được thoát tội chết, lại được giàu sang, trường thọ. Người tu hành chế ngự tâm cũng như vậy, tuy có các họa hoạn và dâm, nộ, si đến nhiễu loạn các căn nhưng luôn giữ tâm chẳng theo, nhiếp ý làm đầu, quán sát trong thân thể mình và bên ngoài thân thể người, pháp của tâm thọ cũng lại như vậy.

Bài tụng rằng:

Như người bưng bát mật
Chẳng động không rơi đổ
Tuệ mầu ý như biển
Chuyên tâm bưng bát dầu.
Nếu người muốn học đạo
Phải giữ tâm như thế
Tâm chứa các đức sáng
Trừ hết tất cả tội.
Sắc dục có bao nhiêu
Tái khởi ở nộ si
Có chí, chẳng phóng dật
Tĩnh lặng để tự chế.
Thân người có bệnh tật
Dùng thuốc để chữa lành
Tâm bệnh cũng như thế
Bốn Ý chỉ nhằm trừ.

Người tâm kiên cường, năng lực ý chí như vậy, thì dùng móng tay phá được núi tuyết, dùng cọng hoa sen đâm thủng núi vàng, dùng cưa sắt cưa đứt núi báu Tu-di. Còn người không có lòng tin thì không thể hăng hái tiến lên được; ôm lòng dua nịnh, phóng túng thất niệm thì tuy sống lâu trên đời, nhưng chẳng bao giờ có thể đoạn trừ được cấu bẩn dâm, nộ, si! Người có tín, tinh tấn, chất trực, trí tuệ thì tâm họ kiên cường, cũng có khả năng thổi núi lay động, huống gì là trừ được dâm, nộ, si. Cho nên người tu hành muốn hoàn thành đạo đức thì dùng tín, tinh tấn, trí tuệ, chất trực điều phục tâm mình một cách chuyên nhất, ngay trong lúc tu hành.

Bài tụng rằng:

Chất trực tín, tinh tấn
Trí tuệ, không dua nịnh
Là năm căn trừ tội
Lìa vô số tâm uế.
Hiểu rõ vô lượng kinh
Tự biết là Phật dạy
Chỉ lấy lời cốt yếu
Phân biệt nghĩa vô lượng.

Phẩm 10: LÌA ĐIÊN ĐẢO

Công đức Đấng Giác Ngộ cao vời
Giống như học thuật ở chỗ vắng
Dòng trí tuệ trong thân lành báu
Xin cúi đầu lạy Đại sơn vương.
Từ trời cao giáng xuống
Biết hướng, không mê lầm
Phật chẳng từ thai sinh
Chẳng vào cũng chẳng ra.
Chẳng bị các khổ não
Chẳng đắm, chẳng điên đảo
Đức trọng, không đắm vướng
Quy mạng, vượt sinh tử.

Người tu hành, có kẻ luôn luôn biếng nhác, nên đối với pháp vi diệu khó hiểu, khó thấu chẳng phân biệt, nên biết rõ nguồn gốc các khổ, đoạn trừ các tập, chứng đắc nẻo diệt và tu niệm về đạo. Ví như có người lấy một sợi tóc chia tách làm trăm phần, rồi nối lại như cũ, không để suy suyễn, việc này rất khó phải không?

Đáp:

–Rất khó! Rất khó! Có thể dùng các loại thuốc huyễn hóa, thần chú mới nối tóc lại như cũ. Đạo Nê-hoàn chẳng dùng phương cách này để thành lập. Tuy chúng ta chưa có khả năng đạt đạo, nhưng người chứng ngộ sẽ có phương tiện.

Bài tụng rằng:

Thường mạnh tiến hướng cửa giải thoát
Muốn rõ việc này khó thật khó
Nỗ lực khuyến tu không thoái chuyển
Như khoan sâu đất, được nước suối.

Thường khởi quán thế này: Mau chóng thành tựu không gì bằng Nê-hoàn, chẳng cầu từ đâu khác, từ do tâm địa đến. Do từ người khác mà được mới là khó, chứ do sự chuyên cần của ta mà đạt được thì có khó gì đâu. Lại nên khởi nghĩ thế này: Chỉ dùng để quán để dụ tâm thăng tiến, như dụ đứa bé, gọi nó đi tới trước, đến để lấy vật trong tay mà ăn. Đứa bé đến nơi, mở hai tay ra chẳng có gì hết. Cái thấy điên đảo của thế nhân cũng như thế, vô thường cho là thường, khổ bảo là vui, vô ngã cho là hữu ngã thân, không bảo là thật. Bỏ bốn điên đảo, khởi quán “Vốn không”. Như vậy mới gọi là thuận theo lời giáo huấn của Đức Phật.

Bài tụng rằng:

Người chẳng hiểu “vốn không”
Thường nghĩ vui là tịnh
Ví như lấy nắm tay
Dùng để dụ trẻ thơ
Người điên đảo cũng thế
Cứ tưởng là có ta
Vì họ rọi ánh sáng
Như trong tối thắp đèn.

Đầu tóc mà ta có chẳng thể tồn tại lâu dài, cũng chẳng phải là sạch sẽ, chẳng an ổn, là vô ngã. Dùng phép quán ấy quán tất cả đều như thế, khuyên phát tâm quán chiếu ấy, như người sáng mắt cầm đuốc đi vào nhà trống, xem không thấy người, cũng không thấy gì khác. Người quán xét kỹ cũng giống như thế. Quán sát bản chất của sắc thấy là vô thường, khổ, vô ngã chẳng phải thân. Kẻ có kiến chấp hư vọng thì trở lại tự ràng buộc mình. Người quán rõ về không thì đâu có gì ngăn ngại. Hiện có thể thấy nghe đạt được Đạo tích, rồi Vãng hoàn, Bất hoàn cùng Vô sở trước, đạt được bình đẳng giác. Họ là người, ta cũng là người, họ thành đạo thì vì lý do gì mà chỉ riêng ta chẳng đạt được. Người tu hành tự khuyến khích tâm như thế, xả bốn điên đảo, chuyên tâm tu hành.

Bài tụng rằng:

Tóc, lông, móng, xương, thịt
Và các hình sắc khác
Đến mê hoặc tâm pháp
Làm rối loạn năm ấm.
Vô thường, khổ, bất an
Vô ngã và bất tịnh
Thân như nhà gò trống
Người sáng suốt quán vậy.

Phẩm 11: HIỂU RÕ THỨC ĂN

Phật ở rừng Ba chất
Thiên đế dâng trăm vị
Lại ở thành Xá-vệ
Ba-tư-nặc cúng dường.
Tỳ-lan-nhã thiết trai
Cơm tuy có vị ngon
Thọ với tâm bình đẳng
Kính lễ Đấng Vô Trước.
Tuy dùng cơm này rồi
Chẳng đắm, chẳng vì sắc
Cũng chẳng tạo kiêu mạn
Trừ bỏ mọi cao ngạo.
Thọ cúng dường nơi ấy
Như vượt đại lộ vắng
Chẳng vì cầu ngon ngọt
Vì vậy xin đảnh lễ.

Bấy giờ, người tu hành nên quán về thức ăn: “Dù cho món ăn có trăm vị hay món ăn dở, thì khi vào trong bụng như nhau, không có gì khác. Đưa thức ăn vào miệng nhai, cùng hòa với nước miếng và thứ nôn ra giống nhau. Nếu vào sinh tạng thì thân hỏa nung nấu, nước trong thân làm tan ra, gió thổi xoay vần, dần dần tiêu hóa, đưa vào thục tạng, chất cứng là phân, chất nước là nước tiểu, bọt là nước mũi, nước miếng. Trong tạng, chất cần thiết thấm vào thành cơ thể, những chất cần thiết này chảy vào khắp các mạch, để rồi nuôi dưỡng tóc, lông, móng, răng, xương, tủy, máu, thịt, mỡ, tinh khí, đầu não.” Đó là bốn đại bên ngoài nuôi dưỡng năm căn bên trong; các căn đắc lực nuôi lớn tâm pháp, khởi dâm, nộ, si. Muốn biết điều ấy thì phải suy gẫm về gốc rễ của sự ăn uống, do đó mà phát khởi.

Bài tụng rằng:

Đồ ngon, kể ra nhiều vô số
Vào trong bụng rồi khác gì đâu
Ở đó biến thành đồ bất tịnh
Cho nên người tu chẳng tham ăn.

Tuy cần ăn uống, nhưng chẳng cầu to béo, cốt là nuôi thân. Ví như viên quan lớn bắt các con chim, cắt hết cánh rồi nhốt vào lồng. Hằng ngày chọn con mập để cấp cho quan đầu bếp. Khi ấy các con chim ngày càng giảm dần. Trong đó có một con nghĩ rằng: “Con mập chết trước, nếu ta mập thì cũng chết như con trước, còn nếu không ăn thì sẽ chết đói. Nay nên tiết chế ăn uống để cho thân không mập, cũng đừng khiến quá ốm, khiến thân thể nhẹ nhàng, ra vào không ngại, chẳng bị viên quan thấy làm hại; lông cánh có thể dần dần sinh trưởng. Nếu thoát ra lồng thì bay đi đến đâu tùy thích.”

Người tu hành cũng nghĩ như thế: “Ăn uống là cốt để an thân, khiến thân thể không nặng nề, ăn uống vừa phải, dễ tiêu, ngủ ít; ngồi đứng kinh hành, thở ra vào đều an ổn, ít đại tiểu tiện; đối với thân thì làm cạn mỏng dâm, nộ, si.”

Người tu hành nên quán như thế này: Ta chẳng tham đắm thân, trừ bỏ các tình dục, thân này chẳng quan trọng, xương cốt dính liền chống đỡ nhau. Nay trong thân ấy chỉ chứa đồ bất tịnh, không có gì là kiên cố, ví như oan gia không bị giam hãm, thường mang giặc oan đến làm thương tổn thân hữu; nên vận dụng nó mà cúng dường phụng sự. Ví như nhà vua, nên sử dụng thân như thế nào? Tuân theo lời Phật dạy ngồi, đứng, kinh hành, khiến không có tai hoạn; thường quán thức ăn như đồ uống tồi, biết đầy đủ các chất dơ bẩn trong đó, đem nuôi thân mạng, cốt để được hành đạo, như có thân thuộc chẳng thể vứt bỏ. Thân cũng như vậy, tắm rửa, ăn uống, y phục che thân. Như thương yêu một đứa con, thường chăm sóc chẳng khiến nó khổ vì lạnh, nóng, đói khát, chẳng bị muỗi mòng, rận rệp đốt cắn.

Như có nghịch tặc bị bắt giam vào ngục, ngục tốt tra khảo trừng trị, biết bao cách trước, sau ăn cướp vật của ai? Nhà ở đâu? Ăn cướp rồi giấu ở đâu? Đồng bọn gồm có ai? Thủ lãnh của cả bọn là ai? Dùng năm loại độc để trừng trị; chết đi sống lại, liền tự nghĩ: “Dùng cách nào để thoát khỏi sự đánh đập?” Tâm liền khai mở, nói với người giữ ngục: “Từ xa, ở nước nọ có một người con của đại trưởng giả, tên là Cấm Giới; đồ ăn trộm được, xưa nay tôi đều gởi nơi đó. Ở tại nhà đó, chúng tôi cùng đi ăn trộm, nó là bạn tôi.”

Chủ ngục nghe lời, bắt con của trưởng giả nhốt cùng với tên ăn trộm kia, trong một nhà lao, cột với nhau bằng dây sắt. Khi ấy, người nhà của con trưởng giả có đem thức ăn đến, liền ăn một mình, chẳng chia cho tên ăn trộm, tên ăn trộm rất tức giận, trợn mắt nghiến răng, toát mồ hôi, than thở, muốn khởi ý ác, khiến con của trưởng giả chẳng tự che chở thân mạng mình, huống là ăn một mình. Con của trưởng giả muốn đi tiểu tiện, chẳng thể ráng chịu trong khoảnh khắc, chẳng đi đây đó, chỉ muốn đến nhà sau, liền nói với tên ăn trộm: “Cùng lên nhà xí với tôi.”

Tên ăn trộm đáp: “Chỗ mà anh đến, tôi không thể đến.”

Con trưởng giả bị bức bách cùng cực, bảo tên ăn trộm: “Tôi không có lỗi với anh, anh đưa tôi vào vòng lao lý. Nay tôi muốn đi tiểu, anh lại chẳng cùng đi với tôi. Nếu chẳng bị trói chung với anh, tôi chẳng bao giờ báo anh. Nếu tôi có điều gì xúc phạm anh thì cứ nói để cho tôi biết lỗi mà xin tạ lỗi.”

Tên ăn trộm đáp: “Anh thật chẳng có lỗi gì, nhưng tôi đưa anh vào đây vì anh có bà con đông, tôi thì muốn tự thoát khỏi tội, chẳng muốn bị khảo tra, mong được ăn uống, cho nên mới nói dối. Anh có người mang thức ăn, lại ăn một mình, chẳng chịu cho tôi, nên tôi không đi theo anh.”

Con của trưởng giả đáp: “Biết mối hận của anh rồi, từ nay về sau không bao giờ thất lễ nữa. Nếu có người mang thức ăn đến, tôi sẽ mời anh xơi trước, sau đó tôi mới ăn, để duy trì mạng sống thôi. Xin anh cùng đến nhà sau, khiến thân tôi được thư thái.”

Tên ăn trộm mới đi theo. Ngày hôm sau, cơm mang đến, liền sai nô tỳ: “Hãy đưa cơm đến mời người bên cạnh trước, cơm còn dư lại mới đem cho ta.”

Nô tỳ vâng lệnh làm theo lời người chủ. Khi về đến nhà, nô tỳ thưa lại đầy đủ với trưởng giả. Trưởng giả nghe nói, lòng nổi sân giận. Ngày hôm sau, đi đến ngục, gọi đứa con bảo: “Ngươi sinh vào dòng dõi giàu sang mà lại theo làm việc với bọn nghịch tặc, ác nhân, rồi cùng thân mật, gần gũi mà hoàn toàn chẳng hay biết. Điều ấy đã đưa ngươi vào vòng lao ngục.”

Đứa con đáp: “Lời cha dạy rất đúng! Con chẳng kính người này, cho là thân quen. Con biết rõ nó là tên trộm. Con muốn đi tiểu tiện, ép nó chẳng đi theo. Thân nặng, bụng trướng, mắt trợn, tai ù, đầu nhức, lưng mỏi, xương sườn, ngực, như muốn bật ra, lồng ngực đầy hơi, hơi thở muốn đứt, tâm ý phiền loạn, mê man chẳng biết, chân tay rã rời, xương cốt đau nhức, mạng sống gần tàn. Đối với tình trạng tồi tệ như trên, mồ hôi toát ra, hơi thở đứt đoạn, kẻ trộm cướp nói với con: ‘Ngươi phải theo ta như người bệnh theo thầy thuốc, như vậy mới được. Trước hết cho ta ăn, rồi sau mới ăn, ta sẽ theo ngươi’. Vì tham sống cho nên mới gần gũi.”

Như con của trưởng giả, biết rõ kẻ trộm cướp này là oan gia, nhưng vì quá cùng quẫn nên bên ngoài tỏ vẻ như là thân mật, nhưng bên trong lại lạnh nhạt. Biết bốn đại là vật nương gởi, chẳng phải thường còn, bốn đại tăng, giảm, luôn chẳng an ổn, như rắn độc, như ảo ảnh dợn nắng, bóng trăng dưới nước, tiếng vang trong núi. Hiểu thân như thế, người hành đạo cũng vậy, hiểu biết năm ấm toàn là oán tặc, dùng cơm áo là cốt để nuôi thân thể ấy, khiến chẳng nguy hại. Sớm tối chuyên cần tinh tấn như cứu lửa cháy đầu, chẳng phải do lười biếng bỏ bê mà được thành đạo, đạt đến vô vi, vượt khỏi họa hoạn đầu cuối của ba cõi.

Phẩm 12: PHỤC THẮNG CÁC CĂN

Người tu hành mà dâm, nộ, si cạn mỏng, nếu chẳng tập theo trần thì không gì quấy hại. Còn chưa thành tựu đạo đức, chẳng phải thấy Thánh đế mà tự cho đó là đã đạt, thì người tu hành như thế phải tự răn giữ tâm ý buông thả theo ý nghĩ về sự êm ái của sắc, thanh, hương, vị sa đắm vào năm ấm, việc làm chưa xong.

Nếu người, tâm chẳng chạy theo năm thứ che ngăn gây chướng ngại, thì biết là đắc đạo. Còn nếu tâm loạn động, chạy theo dục tình thì tức thời phải lo sợ mà tinh tấn lên. Như người chăn trâu giữ trâu ở trong đầm. Nếu trâu buông chạy giẫm đạp lúa người, người chăn trâu sợ chủ biết được, dắt trâu về nhà dùng gậy đánh đập. Sáng hôm sau lại thả ra chăn tại chỗ cũ giả vờ như chẳng thấy biết việc phạm vào lúa má của người. Nếu không làm vậy thì con trâu sẽ nghĩ là người chăn chẳng thấy, rồi lại ăn lúa của người, sẽ bị chủ thấy đánh đập. Con trâu về sau sợ hãi không dám ăn nữa.

Người tu hành tự ngăn giữ năm căn cũng như vậy, chẳng chạy theo tình dục thì biết đạo sẽ thành. Nếu theo sáu suy thì tức thời phải tự chế, quán về nạn khổ sinh tử của ba đường, ngày đêm tinh cần hơn trước vạn lần. Điều chưa đạt được nên nỗ lực thành tựu, đã thành tựu rồi, khiến đừng buông bỏ.

Phẩm 13: NHẪN NHỤC

Giả sử có người đánh đập, mắng nhiếc người tu hành thì bấy giờ người tu hành nên quán như thế này: Cái có thể mắng chửi chỉ có âm thanh. Suy xét cho kỹ đều là rỗng không, vừa khởi liền diệt.

Ví như văn tự, mỗi chữ đều khác nhau, cứ kể riêng từng chữ một thì không có tiếng mắng chửi.

Ví như một người mù không thấy gì thì dù cho một trăm người mù cũng chẳng thấy gì. Mắng chửi cũng như thế, một chữ đã chẳng thành thì dù cho trăm ngàn chữ cũng đều là rỗng không.

Giả sử cha mẹ, vợ con, thân thuộc cùng khen ngợi ta cũng đều là rỗng không. Nếu quán thế này:

Cũng như người mọi rợ khác tiếng đến mắng chửi ta, giống như tiếng gió thoảng, tiếng ấy là rỗng không.

Phẩm 14: KHÔNG ĐÁP TRẢ ĐIỀU ÁC

Giả sử người tu hành ngồi thiền định chỗ vắng vẻ, có người đến đánh đập, dùng dao, gậy, ngói, đá đánh ném vào mình, nên quán thế này: Danh sắc đều rỗng không, bị đánh và đánh đều không có sở hữu, vốn từ đâu sinh? Ai là người sân giận? Giận người nào? Đời trước ta chẳng tạo thiện nên đến nỗi phải bị nạn thế này. Nếu không có danh sắc thì không có duyên để gặp nạn. Nếu ta nổi sân lên để trả đũa người ấy thì các oán càng nhiều, chẳng thể trả hết. Ví như rắn độc và loài trăm chân: bọ chét, chí rận, muỗi mòng sâu bọ là những loài quấy nhiễu người không có sự báo trả. Giả sử như có thể loại trừ những nổi lo lắng bên ngoài nhưng đâu có thể trừ bỏ chúng trong nội thân, bốn trăm lẻ bốn bệnh, tám mươi loài trùng. Vì vậy phải chế phục nội tâm, diệt các cấu uế, lắng định tâm chí, cho nên gọi là tu hành.

Phẩm 15: THIÊN NHÃN THẤY THỦY CHUNG

Người tu hành, giả sử bị buồn ngủ thì nên nghĩ về vô thường, chẳng bao lâu sự chết sẽ đến, tưởng nghĩ các khổ não nơi sinh tử. Rửa tay, lau mặt, nhìn ngó bốn phương, nhìn sao trời nếu là ban đêm, để tự chế ngự tâm, vứt bỏ biếng lười, đừng nghĩ đến việc nằm ngủ. Nếu cứ buồn ngủ thì nên đứng dậy kinh hành. Giả sử không định được thì nên dời chỗ ngồi, tưởng muốn thấy ánh sáng, mặc dầu trong tâm tối. Tư duy đến ba thứ ánh sáng, khiến trong ngoài đều sáng.

Bài tụng rằng:

Nên nghĩ khổ sinh tử
Xem tội thấy khắp nơi
Tỉnh nhìn ánh sáng ngoài
Cầu chiếu sáng trong tâm.
Diệt bỏ tối thùy miên
Như mặt trời trừ tối
Như vậy tuy nhắm mắt
Thấy rõ hơn người mở.

Người tu hành thường nghĩ thấy ánh sáng, ngày đêm không khác, phân biệt chỗ hướng đến nhỏ hay lớn, phải hay trái, đi xa, học khắp, không gì mà chẳng thông. Tư duy như vậy thì được đạo nhãn, chỗ thấy bình đẳng, không có chỗ biên địa và cõi trời Tịnh cư.

Bài tụng rằng:

Tuy là nhắm mắt, thường như mở
Chỗ thấy thiền định hơn Thiên nhãn
Thấy khắp loài chúng sinh thế gian
Thấu suốt trên trời, đâu cũng thấy.

Người tu hành đã thành tựu đạo nhãn, thấy hết ba chốn ác trong các phương. Ví như sau cơn mưa lớn, vào buổi sớm tạnh ráo, có một người mắt sáng đứng trên đỉnh núi xem thành quách, đất nước, huyện ấp, xóm làng, nhân dân, rừng cây, hoa quả, dòng sông, suối nguồn. Sư tử, hổ sói, voi, ngựa, dê, nai và các thú rừng, đến đi lui tới đều thấy hết.

Bài tụng rằng:

Ví như gương sáng và hư không
Mưa lớn vừa xong, trời sáng trong
Người có mắt sáng đứng núi cao
Từ trên nhìn xuống đều thấy hết.
Lại xem thành quách và quốc ấp
Người tu hành cũng lại như vậy
Nhìn thấy thế gian và cầm thú
Chốn địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

Người tu hành nhìn tam thiên đại thiên thế giới cũng như vậy, thấy con người hướng đến chỗ thiện ác, sinh tử. Điều ấy gọi là đã đạt được thần thông.

Bài tụng rằng:

Tuy có vị cam lồ vô thượng
Thấy cõi ba ngàn đức hơn kia
Người tu hành, theo lời Phật dạy
Mau đắc thần thông, không ngăn ngại.
Phật đều thấy khắp tất cả tịnh
Thương xót chúng sinh, nói điều ấy
Rõ căn sau trước, khiến mau độ
Dùng nghĩa vô cùng mà phân biệt.

Phẩm 16: THIÊN NHĨ

Thức tuệ là động tĩnh ứng duyên
Không gì ngăn ngại, thuận chánh đạo
Có người vận chuyển pháp luân này
Cúi đầu vận chuyển dòng Đại Thánh
Thức tỉnh bao nhiêu món kỹ nhạc.
Dẫu có thương yêu, tâm bình đẳng
Nghe tiếng trời người và địa ngục
Chắp tay cúi người Đấng Tánh Tịnh.

Người tu hành vừa thành tựu Thiên nhĩ, liền được nghe khắp, cũng không lo phiền. Ví như có người đào đất tìm kiếm kho tàng, vốn chỉ tìm một, nhưng được các kho tàng khác. Người tu hành cũng như thế, vốn cầu Thiên nhĩ, sự nghe khắp ứng theo, nghe hết tiếng nơi cõi trời, tiếng thế gian.

Bài tụng rằng:

Nghĩ người tu hành kia
Khởi pháp dùng phương tiện
Siêng năng, được Thiên nhãn
Thấy trời và thế gian.
Tự nhiên sinh nghe khắp
Cái nghe cũng vô hạn
Như người đào tìm của
Tự nhiên được báu khác.

Ví như nửa đêm, mọi người thường ngủ mê, chỉ có một người thức leo lên tầng lầu bảy. Trong lúc vắng lặng ấy, lắng nghe các âm thanh: Kỹ nhạc, ca múa, khóc lóc, bi thương, đánh trống... Những điều người tu hành thấy, cũng giống như thế, tâm vốn tĩnh lặng xa nghe các âm thanh kêu khóc, khổ đau nơi chốn địa ngục, thấy nghe tiếng ngạ quỷ và súc sinh, trời, thế gian, kỹ nhạc. Đó chính là chứng thần thông Thiên nhĩ.

Bài tụng rằng:

Như đêm mọi người đều say ngủ
Một người tỉnh dậy lên lầu bảy
Lắng lòng mà nghe tất cả người
Âm thanh, kỹ nhạc và ca múa.
Người tu đạo cũng lại như vậy
Thiên nhĩ nghe khắp các âm thanh
Với các hình sắc ở ba cõi
Biết rõ tất cả các ngôn ngữ.
Từ vô số nghĩa lớn của kinh
Ta nghe như được uống cam lồ
Ví như người bệnh uống thuốc hay
Diễn lời Thiên nhãn của Phật dạy.

Phẩm 17: NGHĨ VỀ ĐỜI TRƯỚC

Trí tuệ là gốc lành của thân
Kinh pháp là hoa, đức là quả
Giải thoát thị hiện đứng bất động
Nay con quy mạng đại thọ Phật.
Từ trăm ức đời trồng căn lành
Trải vô lượng kiếp tu phạm hạnh
Biết trăm ngàn ức đời sống xưa
Phật giác ý mạnh, quy tâm định.

Giả sử người tu hành tâm tự nghĩ: “Ta từ đâu đến mà được thân người?” Dùng Thiên nhãn xem rõ, tâm thấy hết vốn sinh làm người, hoặc ở phi nhân.

Ví như có một người từ một huyện này đến một huyện khác, biết nơi qua lại, ngồi đứng trước kia. Người tu hành cũng vậy, tự nghĩ nhớ về những thọ thân đã từng trải qua; tên họ, đẹp xấu, thọ mạng dài ngắn, ăn uống, y phục đều hiểu biết, chết nơi kia sinh nơi này, chết nơi này sinh nơi kia. Nhớ nghĩ như thế, biết vô số sự sinh tử đã qua, như vậy gọi là thần thông biết những đời sống trước (Túc mạng thông).

Bài tụng rằng:

Người tu hành dùng Thiên nhãn thấy
Biết vô số kiếp đã trải qua
Đều thấy thọ thân trong quá khứ
Ví như đi thuyền tự soi mặt.
Chỗ sinh của Phật đều nghĩ biết
Ta xem các kinh mà chép ra
Như vậy gọi là xưa đã từng
Dùng tâm trí tuệ chọn cốt yếu.

Phẩm 18: BIẾT TÂM NIỆM NGƯỜI

Thở than chẳng kể xiết
Biết ý nghĩ chúng sinh
Tự thấy tâm nghĩ gì
Phải, quấy, định, buông thả.
Điều ý chí mong cầu
Trí vô lượng hiểu rõ
Diệt trừ các tội lỗi
Quay về Đấng Tối Thắng.

Người tu hành dùng Thiên nhãn nhìn thấy điều phải quấy, thiện ác, tốt đẹp, xấu xa của loài người, và chẳng phải người thấy rõ sự tối tăm sâu thẳm hay sự trong sáng của tâm hành. Kẻ ưa sân giận thì tâm họ như thế, người ý chí hòa nhã, vui vẻ thì sẽ như thế.

Bài tụng rằng:

Dùng Thiên nhãn nhìn khắp
Thấy người chẳng phải người
Xem xét sắc diện chúng
Cũng thấy tâm niệm họ.
Biết cội gốc ý nghĩ
Vì sao có hạnh này
Người tu đạo biết hết
Sân giận và vui hòa.

Ví như người ngồi bên bờ sông thấy các loài vật trong nước như cá, ba ba, giải, cá sấu và một số loài thủy tộc khác. Người tu hành cũng vậy, thấy tâm của chúng sinh nghĩ điều thiện, ác rõ ràng không ngại. Đó gọi là thần thông biết tâm niệm thiện ác của kẻ khác.

Bài tụng rằng:

Giác nhãn thấy rõ tâm thanh tịnh
Do tu đạo hạnh nên được vậy
Biết tâm niệm người nghĩ điều gì
Giống như thấy thân cây cành lá.

Cũng như khách buôn muốn có được ngọc thủy tinh phải vào sông biển mới được vật báu này và được các thứ như: trân châu, kim cương, san hô, xa cừ, mã não. Người tu hành cũng vậy, bỏ ngủ nghỉ chuyên tâm vào ánh sáng thì được Thiên nhãn và đạt được Thiên nhĩ, Thần túc. Tự biết mình từ đâu đến, thấy gốc gác của người khác. Vì vậy người tu hành nên tập tỉnh giác.

Bài tụng rằng:

Giống như một việc vào sông biển
Mà được vô số châu báu lớn
Tu hành trừ ngủ nghỉ cũng vậy
Dùng Thiên nhãn nghe, biết ngọn ngành.
Nếu vậy, tu hành chí tịch tĩnh
Nay điều ta nói y lời Phật
Thấy vô lượng sắc hơn Thiên nhãn
Biết tâm thị phi của chúng sinh.
Sức nhẫn nhục kia hơn đại địa
Mềm mại, an hòa hơn cả nước
Giữ chí vững chắc như Tu-di
Bỏ qua người thường, vượt hư không.
Trí tuệ sâu hơn sông
Như biển, không sân hận
Đức ấy không sánh kịp
Kính lễ Đấng Tối Thắng.
Trong lòng ôm giữ đạo
Chư Thiên đều ngợi khen
Giữ tâm mà vững chắc
Chẳng móng khởi vui thích.
Điều hòa các ý tưởng
Chẳng cho chúng tăng giảm
Đức sáng không gì bằng
Con cúi đầu đảnh lễ.

Giả sử người tu hành mà tâm có sự khinh suất thì nên tư duy điều lo buồn: Rốt cuộc sẽ trở về với cái chết, chưa được độ thoát. Còn bị vô thường, chẳng phải là lúc hoan hỷ, dù có thương yêu rồi cũng sẽ có ly biệt.

Bài tụng rằng:

Vô số các dòng sông
Đầy ắp nước bùn nhơ
Chưa vượt sông sinh tử
Loạn động lại hoan hỷ.
Dù thương yêu vô cùng
Chẳng lâu sẽ ly biệt
Chạm mặt với vô thường
Đều tùy theo tội phước.

Người tu hành, tâm tự nghĩ: Giá như ta mạng chung, thì chẳng thành đạo đức, cũng chưa hướng tới đạo, hoặc bị phạm nghịch, chẳng theo giáo pháp, rơi vào ba đường, chẳng thể thoát khỏi họa hoạn vô cùng, theo các thứ tà kiến cho là không mê lầm, rồi lại vào bào thai luân hồi sinh tử, xương cốt không thể chứa cao như Thái sơn; hoặc bị chặt đầu, máu như sông biển, hoặc gặp người khóc lóc lệ như năm sông, cùng với cha mẹ, vợ con, anh em sinh ly tử biệt vô thường, sầu đau vô lượng.

Bài tụng rằng:

Khi còn chưa đắc đạo
Luôn luôn sợ sinh tử
Sẽ bị trăm ngàn nạn
Rồi vào lại bào thai.
Chưa trừ gốc sầu lo
Gặp vô lượng phiền não
Chẳng được về Thánh đạo
Mở cửa ba đường dữ.

Người tu hành tự nghĩ: Nhiều đêm sợ hãi. Giả hoặc bị đọa vào chốn cầm thú là nơi chốn phi pháp, thường ôm lòng hại, giết chóc lẫn nhau, giết chóc lẫn nhau, không có xấu hổ, từ chỗ tối vào chỗ tối. Đã bị đọa vào chốn họa hoạn này, thì khó trở lại thân người. Một đồng tiền rơi xuống biển còn có thể tìm được, chứ đã mất thân người rồi, khó mà được lại.

Bài tụng rằng:

Tham dâm che khuất, giận si mê
Cầm gậy đuổi xua, không xấu hổ
Vì chốn mây mù của súc sinh
Đọa khổ ấy trở lại người khó.

Người tu hành tự nghĩ, thân ta sẽ bị đọa vào ngạ quỷ. Đã từng nghe người chốn ấy cầm đồ đựng bằng sành, đựng những thứ nước mũi, nước miếng, mủ, máu và đồ mửa dơ uế của người để làm thức ăn, phải đi khắp mà xin.

Bài tụng rằng:

Dùng đồ chứa bất tịnh
Bằng sành nhưng chẳng lành
Chứa mủ máu mũi dãi
Uống vào như uống nước.
Tham ăn, thường tranh chấp
Chỗ đến của tội lỗi
Kẻ hành động như vậy
Đọa vào đường ngạ quỷ.

Phẩm 19: ĐỊA NGỤC

Người tu hành tự nghĩ: Thân ta sẽ không bị đọa địa ngục. Từng nghe, tội nhân vừa trông thấy nhau thì ôm lòng sân giận lại muốn hại nhau. Móng tay nhọn sắc như dao bén, các loại binh khí, mâu kích, cung tên, ngói gạch tự nhiên hiện ra khi hướng vào nhau thì tiếng đao kích như tiếng đập đồng, binh trượng hư hoại rồi thì đao mâu giao nhau như là màn lưới. Tội nhân thấy hiện tượng này ôm lòng sầu lo.

Bài tụng rằng:

Các thứ tội nhân ấy
Ở địa ngục hại nhau
Ý muốn được binh trượng
Nên tâm đều có đủ.
Cầm đao gây hại nhau
Như lưới làm động nước
Như nóng giữa trưa hè
Đao nhọn nóng cũng thế.

Hoặc có kẻ khủng bố mà chẳng tự hay biết, lại có người kêu oan mà tâm sâu độc muốn hại mạng nhau, cho đó là vui, liền phát khởi tranh giành, đánh đấm, làm tổn thương nhau. Tay chân đứt lìa, đầu cổ rời xa; hoặc đâm vào thân máu chảy như suối, đao nhọn đâm vào thân đau không thể nói, chỗ bị đâm lửa trong đó từ từ vọt ra. Hoặc thân bị xô ngã, như cuồng phong thổi rụng lá cây. Có người nằm trên đất, thân nát như bụi, trong khoảnh khắc thân trở lại như cũ.

Bài tụng rằng:

Kéo tóc lại đấm đá
Lần lượt lôi kéo nhau
Tội nhân cùng xúm đánh
Khổ não không kể hết.
Lại gia tăng khủng bố
Bấy giờ lại đánh lớn
Ví như nhổ cây rừng
Xô nhau ngã cũng thế.

Bấy giờ, chỉ trong khoảnh khắc, tội nhân bình phục, gió mát bốn phía thổi tới, khiến trở lại như cũ. Quỷ giữ ngục rưới nước lên người, đã sống lại nhưng tội ác chưa hết nên khiến chẳng hết, nghe tiếng của quỷ ngục liền khởi động như trước.

Bài tụng rằng:

Lấy nước rưới trên thân
Gió mát lại thổi đến
Bấy giờ các tội nhân
Lại nghe tiếng quỷ ngục.
Tội nhân thân tan rã
Liền sống lại như cũ
Tội nghiệp tạo chưa hết
Nếu lại chịu khảo tra.

Lúc này, tội nhân trải qua sự chuyển biến ấy lại thấy nhau, liền nổi sân giận, môi miệng run lên, mắt đỏ như máu, đánh nhau như trước, ruột bao tử đều tuột ra ngoài; kết oán đến giờ, ngày tháng quá lâu, thân thể rách nát, ngã xuống máu chảy, giống như suối bẩn, thân thể bình phục, lại từ dưới đất đứng lên, hại nhau như trước.

Bài tụng rằng:

Đọa vào trong địa ngục
Khổ não chẳng thể nói
Hại nhau tạo sợ hãi
Kết quả của tội xưa.
Luôn luôn thấy là hại
Rồi sống lại như trước
Ý ác hướng đến nhau
Gây tội không dừng nghỉ.
Với người thế gian này
Ưa tạo nghiệp sát hại
Ở tại địa ngục tưởng
Thọ tội như trước gây.
Vì thế người cùng gây
Ở địa ngục lâu dài
Cùng giết nhau triền miên
Chết, sống lại như cũ.
Người ở đời phạm tội
Đọa vào địa ngục tưởng
Ví như loài cây chuối
Vừa tàn, sinh trở lại.

Nếu tội nhân đọa vào địa ngục Hắc thằng thì khi ấy quỷ ngục bắt các tội nhân đặt trên nền sắt nóng, lại cầm dây sắt và cưa sắt, lửa tự nhiên phát ra áp ngay vào thân thể tội nhân, dùng cưa cưa từ đầu đến chân ra thành trăm ngàn khúc, cũng như thợ mộc cưa các tấm ván.

Bài tụng rằng:

Quỷ giữ ngục nhận lệnh của vua
Dây sắt trói thân, dùng cưa cắt
Cưa ấy, lửa đỏ cả trên dưới
Xô người ngã xuống cưa từng khúc

Quỷ giữ ngục lại dùng búa chẻ thân, rìu đục đều dùng cả. Ví như thợ mộc đẵn gỗ, hoặc làm cho bốn phía, có tám góc. Trị thân tội nhân cũng như thế.

Bài tụng rằng:

Giữ ngục, tội nhân ác gặp nhau
Búa, đục, rìu, cưa cùng dây sắt
Phanh bổ tội nhân cũng giống như
Thợ mộc khởi công dựng nhà mới.

Khi ấy, quỷ giữ ngục đốt dây sắt áp thẳng vào thân, cắt da thịt, phá thân thể, thấu đến xương tủy, xương sườn, xương sống, đùi vế, ống chân, đầu cổ, tay, chân, mỗi thứ mỗi nơi.

Bài tụng rằng:

Khảo tra trăm đau đớn
Ở tại ngục Hắc thằng
Bóc da dùng búa cắt
Bị đẽo như dựng nhà.
Các chi rời khỏi thân
Máu chảy như dòng suối
Xương thịt chia lìa nhau
Đau đớn đâu nói hết.
Quỷ ngục của diêm vương
Phá thân họ như thế
Tội lỗi nếu chưa hết
Mủ máu chảy dường ấy.

Có người bị đọa vào địa ngục Hợp hội, tội ác nặng đến nỗi, khiến tội nhân ngồi trên định sắt, đóng đinh vào đầu gối, tiếp theo đóng đinh khắp cùng thân thể, thân thể tan nát, xương thịt đều cháy, các bộ phận rã rời mỗi thứ một nơi. Mạng sống suýt dứt, đau chẳng thể nói. Tự nhiên có luồng gió thổi nhổ đinh ra, tội nhân bình phục như cũ, rồi lại dùng đinh đóng vào thân. Khổ não như vậy trải qua trăm ngàn vạn năm, chẳng thể kể xiết.

Bài tụng rằng:

Dùng vô số trăm ngàn đinh sắt
Từ không trung rải xuống như mưa
Làm nát thân người như mài mì
Tội xưa đến nỗi gặp ách ấy.

Kế đến mưa sắt dội xuống, và rồi chày sắt, voi đen, núi lớn đè trên thân như ép mía, như chà nho, tủy, não, mỡ, máu thịt, đồ bất tịnh đều chảy ra.

Bài tụng rằng:

Voi đen, chày sắt, núi đá lớn
Đè bẹp, dùng xe sắt cán thân
Thấy quỷ địa ngục đều khiếp sợ
Phá nát thân mình giống như mía.

Dùng bánh xe sắt ép thân hình như ép dầu mè, bỏ vào trong cối dùng chày giã.

Bài tụng rằng:

Quỷ ngục không nhân từ
Dùng xe sắt chày cối
Làm khốn khổ tội nhân
Như người ép dầu mè.

Lúc ấy, tội nhân từ xa thấy núi lớn, thấy rồi sợ hãi chạy vào trong hang rộng, hy vọng tự cứu nhưng chẳng thoát được, vừa vào hang ấy liền bảo nhau: “Núi này nhiều cây, nên dừng ở đây.” Khi đó, ai nấy đều sợ hãi, phân tán vào khoảng giữa các cây, núi tự nhiên kẹp lại mà nát thân hình.

Bài tụng rằng:

Vì chứa các tội lỗi
Vốn do mình gây ra
Khi ấy các tội nhân
Đều vào trong hang núi.
Vừa vào hang núi xong
Núi kia tự kẹp lại
Khi nát thân tội nhân
Tiếng kêu rất đau đớn.
Hại trâu, dê, nai, chim chóc
Đã không xót thương, lại giết người
Tại ngục Hợp hội khổ vô cùng
Gây hại thân người, gặt khổ thôi.

Lại từ xa thấy lửa cháy, tội nhân bảo rằng: “Đất này bằng phẳng rộng rãi, cỏ cây xanh tươi, giống như lưu ly, nên đi đến đó, mới được an ổn.” Liền đi ngược về hướng lửa, ngồi ở khoảng giữa các cây, bốn phía tức thì lửa nổi dậy vây quanh, thiêu đốt họ, đau đớn kêu khóc thảm thiết, chạy về các hướng Đông, Tây, Nam, Bắc để tránh lửa, nhưng ở đâu cũng gặp lửa, chẳng thể tự cứu.

Bài tụng rằng:

Móng tóc tự nhiên dài
Sắc biến đốt đau đớn
Gió thổi thân, lưỡi khô
Thấy ngục sứ, sợ hãi.
Vô số các tội nhân
Đã bị lửa thiêu đốt
Khói xông lửa hướng họ
Như phù du vào đèn.

Lại từ xa thấy rừng cây lá sắt, bảo nhau rằng: “Rừng cây kia rất tốt, cỏ xanh, suối chảy, hãy cùng đến đó.” Vô số trăm ngàn các tội nhân đều vào trong rừng. Có người ngồi bên gốc cây, có người đứng nghỉ, có người nằm ngủ. Gió nóng bốn phía thổi đến, rừng cây lay động, lá kiếm lao xuống trên thân họ, xẻ da cắt thịt, phá xương thấu tủy, làm bị thương hông, ngực, lưng, cắt cổ chẻ đầu.

Bài tụng rằng:

Phần nhiều lầm tin, hại chúng sinh
Địa vào địa ngục tên Hữu hoạt
Gió nóng nổi quanh rơi lá sắt
Giống như nhập trận, đánh bị thương.

Bấy giờ, trong rừng cây sắt, liền tự nhiên có chim ô thước, điêu, thứu; miệng chúng như sắt, dùng máu thịt làm thức ăn, đậu trên đầu tội nhân, mổ mắt mà ăn, đập đầu hút não.

Bài tụng rằng:

Người kia ở đời trước
Lầm tin hại chúng sinh
Vì sắt rơi trên thân
Nên đứt ra từng đoạn.
Quạ, diều rất dễ sợ
Bốn phía đến mổ người
Đậu trên đầu mổ mắt
Phá não ra mà ăn.

Khi ấy, trong đại địa ngục Thiết diệp, tự nhiên sinh ra loại chó, có con đen thui, hoặc có con trắng, chạy đến muốn cắn tội nhân, tội nhân khóc la thảm thiết, lánh đi để trốn. Hoặc có kẻ chạy tứ tản, hoặc quá sợ đứng khựng, chó đuổi kịp liền bắt tội nhân cắn đứt đầu uống máu, kế đến ăn thịt hút tủy.

Bài tụng rằng:

Há mồm, răng trắng hếu
Sủa, kêu tiếng dễ sợ
Thè lưỡi và liếm môi
Cưỡng bức làm hại người.
Dùng dao cắt thân hình
Thức ăn của chim thú
Khổ độc thấy thảm não
Mãi lầm tin giết hại.

Tội nhân bị chó cắn, bị chim, quạ hại, sợ hãi vội vàng bỏ chạy. Lại thấy con đường lớn rẻ ra tám ngã, đều là đao bén, trong lòng tự nhủ: “Cỏ xanh tươi tốt, có biết bao cây cối, nên chạy đến đó, rồi chạy trên đao bén bị cắt đứt bàn chân, máu chảy ròng ròng.”

Bài tụng rằng:

Người ấy thọ kinh luật
Phá hư cầu chánh pháp
Thấy có kẻ theo giới
Lại cưỡng dạy phạm giới.
Xua người vào đường dài
Đao nhọn cắt chân họ
Dưới chân đều bị thương
Đau đớn chẳng tự tại.

Bấy giờ, xa thấy những cây gai nhọn, cao bốn mươi dặm, mũi nhọn dài thước sáu, đầu mũi nhọn ấy tự nhiên phát hỏa, tội nhân nghĩ: “Kia là những cây đẹp, đủ các loại hoa quả.” Rồi cùng đi đến khoảng giữa các cây sắt.

Bài tụng rằng:

Xa thấy cây là sắt
Cành nhánh rất là cao
Đầu bén nhọn như cưa
Chĩa lên hoặc đâm xuống.
Những tội nhân vừa thấy
Cho đó là trái cây
Kết quả tội đời trước
Tai ương phải gánh chịu

Lúc này, có La-sát, tướng mạo đáng sợ, móng tóc đều dài, y phục dơ dáy, trên đầu lửa bốc, cầm binh trượng đến đánh tội nhân, sai khiến tội nhân trên cây, họ sợ hãi, lệ tuôn ràn rụa, đều tuân phục theo lời sai khiến. Những mũi nhọn đâm xuống đều xuyên suốt thân họ, gây thương tích nơi thân thể, máu chảy ròng ròng.

Bài tụng rằng:

Hình lớn sắt như tro
Hung tợn mắt trợn trừng
Chủ ngục sai cầm gậy
Đánh đập những người này.
Đời trước chứa tội ác
Mê đắm thói tà dâm
Tự nói nghiệp của ta
Đấm vào thân, chảy máu.

Khi đó, tội nhân bị quỷ giữ ngục bắn tên đến như mưa, gào khóc thảm thiết, kêu vang xin xuống, mũi nhọn lại đâm ngược lên, xuyên suốt thân thể như nướng thịt, lại kêu xin trở lên, tội nhân chắp tay cùng van xin tha thiết, kính lễ quỷ ác, xin xét tha tội.

Bài tụng rằng:

Từ trên cây nhọn rơi xuống rồi
Ngục vương, quỷ ngục đâm ngược lên
Bị tên bắn trúng, nên chắp tay
Cầu xin thương xót, mong tha tội.

Quỷ giữ ngục nghe thấy cầu xin càng thêm sân giận, lại đánh đâm nữa, làm cho khắp thân thể tội nhân đều bị thương, khóc lóc kêu la như trước.

Bài tụng rằng:

Ngục vương, quỷ ngục lại đánh, đâm
Cầu xin muốn thoát, quỷ thêm giận
Khi ấy mũi nhọn đâm cùng khắp
Ra lệnh trở lên, lại như cũ.

Ở bên cây sắt kia có hai cái nồi rất lớn, giống như núi lớn. Quỷ giữ ngục liền bắt người phạm tội bỏ vào trong nồi, nước sôi đảo lên xuống, ví như trong nồi lớn có ở thế gian, đun loại đậu nhỏ, nước sôi đảo lên xuống. Người ở trong vạc nước sôi như trải qua ngàn vạn ức năm bị khảo đánh đau đớn.

Bài tụng rằng:

Dù được làm quốc trưởng
Điều khiển cả vạn dân
Nhưng đến cõi địa ngục
Bị khảo trăm ức năm.
Đọa vào vạc nước sôi
Ở trong nồi bị nấu
Dùng lửa thiêu, nấu đốt
Ví như nấu đậu vậy.

Từ trong nồi sắt thoát ra, từ xa thấy dòng sông, truyền miệng nhau rằng: “Sông kia mênh mông nhưng có oai thần, sóng nước nổi dậy, các loại hoa trôi xuôi dòng, hai bên bờ mọc cây, lá cây xanh tươi, bóng rợp dòng sông, lòng sông toàn cát, nước sông trong mát hãy đến uống nước, tắm rửa giải lao.” Hai bên sông mọc gai góc nhưng tội nhân chẳng nhìn kỹ nhảy vào dòng sông kia đều là tro sôi.

Bài tụng rằng:

Kẻ kia đời trước hại thủy trùng
Máu thịt đều rơi, còn xương não
Vốn tưởng nước mát, lại tro sôi
Từ sâu, nước sôi vọt trào lên.

Tội nhân đọa ở địa ngục Tro sôi, tóc, lông, móng, răng, xương, thịt đều trôi giạt đi nơi khác; xương mình gân buộc theo dòng trôi lên hoặc xuống. Vừa muốn cầu ra khỏi, quỷ giữ ngục liền móc nằm xuống nền đất nóng. Gió nổi lên thổi, thân thể lại như cũ. Quỷ ngục hỏi: “Các ngươi từ đâu đến và muốn đi đâu? Tội nhân đáp: “Chẳng rõ chỗ đi và đến. Kể từ bao nhiêu trăm ngàn ức năm, đói chẳng được ăn, vì vậy rất đói khát.” Quỷ giữ ngục, lấy móc sắt móc miệng há ra, dùng viên sắt đỏ và dùng nước đồng sôi rót vào trong miệng, thiêu đốt yết hầu tội nhân, năm tạng trong bụng đều cháy, ruột bao tử liền tuột xuống, quá đau đớn chẳng thể nói. Tội ác quá khứ chưa hết, cho nên chẳng chết. Cách sông chẳng xa, có hai địa ngục, một tên là Khiếu hoán, hai tên là Đại khiếu hoán, dùng sắt làm thành, lầu gác trăm thước, bờ tường kiên cố, dùng toàn dây sắt rào bên trên. Tội nhân bảo nhau: “Thành này lớn, đẹp, hãy cùng đến xem.” Vừa vào bên trong, tâm tự nghĩ: “Đã thoát tai nạn khủng khiếp, không còn bị não hại, vui vẻ mừng rỡ, hoan hô!” Hoặc có người áp mặt xuống đất, có người nằm ngửa, có người phành bụng ngủ nghỉ, gương mặt âu lo. Từ ngoài bốn bức tường, tự nhiên có lửa, đốt các lầu gác, bờ tường, dây sắt và cửa đều bùng cháy. Trong thành ngập lửa, thiêu thân tội nhân, lần lượt đều bị. Cũng như mồi đuốc, giống như điện chớp, cũng như lửa lan, đốt thân đau đớn. Ví như tên lửa bắn voi, kêu gào khổ đau không thể nói, lâu hàng trăm năm cửa Đông mới mở. Vô số trăm ngàn tội nhân đều chạy đến cửa đó, vừa đến nơi thì cửa liền đóng, xô nhau ngã xuống đất như cây lớn ngã, đè bẹp lên nhau giống như đống củi. Tội ác quá khứ chưa hết nên chưa chết được.

Bài tụng rằng:

Đến địa ngục sợ hãi kêu gào
Cầu cứu hộ cho nên đến đó
Như đống củi lớn dùng lửa đốt
Tội nhân dồn đống thiêu cũng vậy.
Thiêu đau đớn như thế
Kêu gào chạy tứ tản
Luôn sợ quỷ giữ ngục
Khủng bố nên sợ sệt.
Nếu nghe lệnh truyền đạt
Kháng cự chẳng chịu theo
Nhốt ở ngục Khiếu hoán
Tội ác chịu đớn đau.
Chịu vô số khổ đau khốc liệt
Bị lửa thiêu đốt rất nguy khốn
Vô lượng khổ não chẳng thể nói
Tội nhân kêu la rồi gào thét.

Tội nhân thoát khỏi ngục Khiếu hoán, tiếp vào đại địa ngục A-tỳ. Quỷ giữ ngục ngay tức khắc bắt lấy các tội nhân, dùng năm loại hình độc để trị. Căng thân thể như là căng da trâu, dùng đinh sắt lớn đóng vào tay, chân và đóng vào tim, lôi lưỡi ra dùng trăm cây đinh đóng vào. Lại lóc da từ chân đến đầu.

Bài tụng rằng:

Căng thân như da trâu
Dùng đinh sắt đóng vào
Kết quả tội lưỡng thiệt
Đinh sắt hủy hoại lưỡi.
Lóc da kéo trên đất
Giống như đuôi sư tử
Như thế mà thọ khổ
Tính đếm chẳng thể lường.

Khi ấy quỷ giữ ngục bắt lấy tội nhân buộc vào xe sắt. Quỷ giữ ngục cỡi xe, dùng dàm cáng miệng, tay trái điều khiển xe, tay phải cầm gậy đánh vào tội nhân, khiến chạy khắp Đông, Tây, Nam, Bắc. Tội nhân kéo xe mệt nhừ thè lưỡi, bị gậy đánh thân, phá hủy chi thể, bị mửa ra máu, lê lết bị thương nơi ngực.

Bài tụng rằng:

Tội nhân bị buộc vào xe sắt
Quỷ ngục đuổi đi chạy khắp nơi
Bị đánh vào thân mửa ra máu
Như ngựa chiến đấu bị mâu đâm.
Không có lòng tin, khinh người hiền
Như phạm tội ác là đúng lẽ
Tội nặng dẫn vào ngục A-tỳ
Nhận chịu vô số các khổ độc.

Tại địa ngục A-tỳ, tự nhiên lửa than ngập tới đầu gối tội nhân, lửa ấy lan rộng không có giới hạn. Bấy giờ, tội nhân khởi tà niệm: “Trở lại con đường ngoằn ngoèo gọi là chỗ tốt.” Liền vào trong lửa bị thiêu đốt thịt da và gân, huyết, mạch.

Vừa giở chân trở lại, bình phục như cũ.

Bài tụng rằng:

Khi lửa than cháy đến đầu gối
Đã lan rộng rồi gió lại thổi
Tội nhân đi đứng thiêu đốt da
Bỏ chánh theo tà tội như thế.

Được rời khỏi ngục này, đi chẳng bao xa có địa ngục phân sôi, rộng dài vô cùng, đáy nó rất sâu, tội nhân thấy nó bảo là ao tắm, truyền miệng nói với nhau: “Kia có ao tắm, trong ao có hoa sen xanh năm sắc. Nên cùng nhau đến đó tắm rửa, uống nước giải khát.” Tất cả đều nhảy vào ao, chìm lỉm đến đáy. Nơi ấy có các loài trùng, miệng như kim sắt, dùng thịt làm thức ăn, đục khoét thân tội nhân, phá hoại da thịt, từ chân đục thủng đến đỉnh đầu; mắt, tai, mũi, miệng đều có trùng bò ra.

Vì tội xưa chưa hết, nên chẳng chết.

Bài tụng rằng:

Quả tội đã đến chịu đau đớn
Bấy giờ tội nhân ngục A-tỳ
Đau khổ kêu gào lòng ảo não
Nọc thẳng thân ra, đinh đóng vào.
Phân sôi mùi bất tịnh
Dài rộng không bờ bến
Xương sâu ở trong đó
Đáy của nó rất sâu.
Phạm toàn là tội ác
Đọa ngục Diêm vương này
Các bọn tội nhân ấy
Trùng miệng nhọn gặm thân.
Ở ngục than đỏ và A-tỳ
Cùng tất cả tội trong phân sôi
Rơi vào dòng sông tội phát khởi
Tội xưa đã đến nên chẳng chết.

Nơi ấy, có hai ngục tên là Thiêu chích và Bổ chử. Lúc đó, quỷ giữ ngục bắt các tội nhân chặt ra từng khúc bỏ trên lò sấy dùng lửa mà rang, lại úp trên sàng sắt rồi dùng lửa nướng.

Bài tụng rằng:

Đã đến chốn đại khổ
Nơi thiêu nướng, đốt, chưng
Trong tội lỗi, tai ương
Mới biết hành ác xưa.
Dùng dao cắt từng khúc
Hủy hoại thành vô số
Dùng sàng sắt thiêu nướng
Bỏ chảo sấy, sấy khô.
Nơi Thiêu chích, Bổ chử
Hành tội thật đáng sợ
Vô số người bị hại
Như đầu bếp bằm thịt.
Nếu hãm hại người hiền
Đâm đầu vào lửa dữ
Kẻ phạm giới, hủy pháp
Voi lớn thấy giẫm đạp.
Làm người tánh hung hãn
Thường ưa hại chúng sinh
Ăn uống không chọn lựa
Sinh làm quỷ giữ ngục.

Người tu hành tâm tự nghĩ: Thân ta sẽ không giống như thế. Đọa vào ngục tám tội và mười sáu bộ. Lại vô số đời trước của ta đến nay đã từng ở cõi ác này. Giả sử chẳng thể đạt Thánh đạo rốt ráo thì sẽ trở lại vào trong ấy. Ví như có người phạm tội phản nghịch, nhà vua sai cận thần vào buổi sáng sớm dùng mâu đâm một trăm mũi, buổi trưa đâm một trăm mũi, gần tối đâm một trăm mũi. Người kia trong một ngày bị ba trăm mũi, thân thể đều bị thương tích, không còn chỗ nào lành lặn. Cơ thể đau nhức, khổ não thật chẳng kể xiết. Tuy có sự đau đớn này nhưng so với nỗi khổ của địa ngục, gấp trăm ngàn vạn ức số lần, chẳng thể ví dụ được. Nỗi đau đớn của địa ngục, hết sức khổ não như vậy.

Bài tụng rằng:

Tự phạm các ác dẫn đến đây
Bị khảo đớn đau mà chán ghét
Thấy khổ não này nên nghĩ kỹ
Thường siêng tinh tấn, mau thành đạo.

Người tu hành lập chí tu học như vậy, nên trừ cái tâm bám vào sự vui thích. Nếu ý chí lơi lỏng thì phải tự kiềm chế. Cũng như người cỡi xe điều khiển xe chạy.

Bài tụng rằng:

Giống như đốt lửa than
Chưa từng có dừng nghỉ
Thường gặp khổ thống ấy
Ngày đêm hại vô lượng.
Dùng các mâu kích nhọn
Bị đâm đau trăm lần
So các não hại này
Khổ ngục triệu lần hơn.

Người tu hành tâm tự nghĩ: Thân ta nay chưa thoát khỏi họa hoạn này, chẳng nên vui thích. Tự chế như vậy, chẳng thể vui đùa nữa. Nếu người lập chí như thế, thì có thể tinh chuyên tu hành, thâm nhập pháp thiện. Hành giả bấy giờ mới run sợ, sớm tối chẳng trái pháp ấy.

Bài tụng rằng:

Thấy suy hao như thế
Như trái cây tự hư
Quán xét tội trần lao
Dồn chứa như Thái sơn.
Bị khổ trược uế ấy
Người phạm đọa cõi ác
Chuyên tịnh việc tu hành
Bỏ vui chơi đùa giỡn.
Quán cõi ác tối tăm khổ não
Pháp kinh Phật sáng như mặt trời
Vì chán các hoạn nên mới giảng
Chép sao kinh điển trừ khinh mạn.

QUYỂN 4

Phẩm 20: KHUYẾN DUYỆT

Dùng trí tuệ độ chúng
Thành đạo dòng sông trong
Người trí thường uống nước
Là nước pháp cam lồ.
Nước sông ấy vô tận
Vẫn chảy mãi không ngừng
Nguyện quay về giống tuệ
Đạo đức sẽ đầy đủ.
Nếu là người yếu đuối
Nhờ học, ý tự đạt
Tạo định ý độ thoát
Lập chí Thiền tư pháp.
Phật Đấng Thiên Trung Thiên
Khéo hành quyền phương tiện
Hiện vô lượng trí tuệ
Thân tâm quy mạng lễ.

Giả sử người tu hành khởi tâm mềm yếu thì tự nghĩ: Ta được thuận lợi, đã thoát khỏi tám nạn, được sống nhàn nhã tự tại. Ta đã gặp được Bậc Thầy Nhất Thiết Trí, được quay về với giáo pháp của Ngài và chúng Tăng, thành tựu đầy đủ pháp vô dục. Ta đã gieo mầm phạm hạnh, có cái đã thành, hoặc có cái đang hướng đến đạo. Nhiều người rơi vào đường tà, ta thuận theo chánh đạo, người khác làm trái, ta làm phải.

Nay đây, chẳng bao lâu nữa, ta là con của Đấng Pháp vương. Cõi trời và nhân gian đều khen ngợi hương giới đức, chẳng giấu công đức ấy, chẳng còn buồn phiền. Bấy giờ, mới an ổn nếm vị giải thoát, ngày càng no đủ, được cứu độ an ổn, vượt qua đường ác, không còn sợ hãi, nương vào tịch quán, vào tám đạo hạnh, thẳng đến thành Niết-bàn, không còn hoạn nạn sợ hãi. Vì vậy tự khuyến khích mình tuân phụng tinh tấn, siêng năng.

Bài tụng rằng:

Tu hành, dù gầy yếu
Thường mong gặp pháp lợi
Ta được nương Thế Tôn
Chánh pháp và chúng Tăng.
Phương tiện làm tâm vui
Khuyên người chí bạc nhược
Thường chuyên tâm tuân phụng
Thế gọi là tu hành.
Sơ học và thành đạo
Phức tạp như rừng cây
Vì rời bỏ đường tà
Nên tạo lập chánh lộ.
Dùng giới đức làm hương
Ví như xông cây rừng
Hốt nhiên được giải thoát
Đắc đạo hiện khắp nơi.
Do từ Phật sinh cây kinh pháp
Chỉ chép điều chính như chọn hoa
Với pháp, có người toan biếng nhác
Muốn khiến tự gắng nên giảng nói.

Phẩm 21: HÀNH KHÔNG

Người vật đều có tên
Biết hết tên gốc chúng
Hiểu khổ cho chúng sinh
Như tơ của cọng sen.
Do quán xét kỹ lưỡng
Không còn có ngã tưởng
Người chẳng nghĩ đến thân
Xin lạy Đấng Vô Trước.
Hào quang chiếu thế gian
Như đuốc vào nhà tối
Tâm ngài đã soi thấy
Tất cả không vững bền.
Con theo Đấng Giác Ngộ
Tâm Ngài hành bình đẳng
Quán sát người và trời
Thấy khắp là rỗng không.

Nếu người tu hành có tưởng về chấp ta đây, chẳng thể nhập vào lý không thì phải tự khắc trách: “Ta đã suy thoái không lợi dụng tâm vướng mắc, chẳng thuận với không tuệ, ưa tưởng chấp ta đây”, thì nên lo lắng tự gắng lên, đưa tâm về không, hoặc tự răn ý chí hướng về định ý. Do đạt bốn không, ba cõi đều là không, vạn vật vô thường. Có người nghĩ vậy tự khuyến khích tâm mình tiến lên, khiến chẳng phóng dật.

Bài tụng rằng:

Người chẳng hiểu không, có tưởng ngã
Thì chí lay động như cây lay
Khuyến dụ tâm ấy hướng về không
Chẳng bao lâu sẽ đạt tịch tĩnh.

Ví như nhà vua có một đứa bé hát tuồng. Mẹ đứa bé chết, nó về nhà lo tang chế. Nhà vua muốn nghe hát, sai người gọi nó rằng vua muốn gặp, thằng bé tự nghĩ: “Ta có mẹ già, vừa thấy lại bỏ đi. Nay lệnh vua rất gấp, nếu không đi thì sẽ mất mạng, hoặc bị trụ phạt. Mẹ tuy qua đời nhưng không có cơ nghiệp gì khác. Ta phải đi thôi, đừng trái lệnh vua. Giả vờ diễn trò cho vua được vui.” Gắng gượng dằn lòng, nén nỗi bi thương, chẳng nghĩ đến mẹ, liền tự trang điểm, vui vẻ phục sức đến trình diện vua. Giả vờ diễn trò để khiến vua vui vẻ. Bỗng tự nghĩ lại đang chịu tang mẹ, trong lòng buồn đau như cỏ bị đốt “Ôi đau đớn thay, sao nỡ cười đùa!” Vừa buồn tang mẹ, nhưng quá sợ nhà vua, nên tức thời nén nỗi thương tâm, như lửa bị nước tưới, lại tiếp diễn trò, tạm quên đau buồn.

Cười giỡn càng nhiều khiến nhà vua càng thích thú.

Người tu hành cũng nên như vậy, dẫn tâm tiến đạo khiến cho trống rỗng, diệt tưởng vô ngã. Nhân đó tu tập để chứng nhập chân không.

Bài tụng rằng:

Như vua có thằng hề
Bị trọng tang lo buồn
Vờ cười trừ sầu khổ
Lòng vui vẻ hân hoan.
Tu hành cũng như thế
Dụ dẫn tâm hướng không
Chiếu sáng gần tuệ sáng
Định ý không động chuyển.

Vì vậy, người tu hành nên theo giáo pháp “Không”. Nếu răn nhắc tâm mình trong khi loạn tưởng, hoặc móng khởi ngã tưởng, thì tự tư duy: Ví như có người tập trung cây cối, để kết thành bè, muốn qua sông lớn, nhưng nước sông quá mạnh làm trôi và phá tan bè. Ta khuyến dụ tâm tinh tấn đến nay đã lâu ngày, siêng năng chịu khổ chẳng nói hết, bỗng chốc loạn ý khởi lên, phát sinh tưởng chấp ngã, chống trái sự tinh chuyên.

Bài tụng rằng:

Ví như dồn cây để làm bè
Nước sông chảy mạnh làm tan rã
Dòng sông ái dục mạnh như thế
Muốn ý tịch tĩnh phải hướng không.

Ví như vào tháng hạ, cỏ cây khô cháy, khi được cơn mưa rào liền nẩy chồi lại, ngũ cốc dồi dào. Ta tư duy “không” thì không còn chấp ngã. Nếu chẳng tư duy liền khởi tâm tưởng.

Bài tụng rằng:

Ví như nắng hạn gặp mưa rào
Cỏ cây khô cháy đều đâm chồi
Nếu người tu hành tư duy “không”
Dứt bỏ tưởng niệm, không chấp ngã.

Người tu hành tự nghĩ: Ta sở dĩ thiền tọa là muốn cầu diệt độ, nhưng thật sự thì đâu có cầu. Nếu có cái ngã có thể cầu thì cái ngã vốn là không, không có cái ngã của ta. Vậy ngã là cái gì? Thật có thân chăng?

Bài tụng rằng:

Ai cho “ngã tưởng” ấy là giác
Thì thường quán kỹ có vốn không
Nếu để theo tục chẳng tự biết
Giống như trong tối tìm người mù.

Người tu hành dừng lại tư duy: Có thân mới thành ngã, áo cơm thường dùng, có dư mới cho người khác, đó là cái ngã của ta, nghĩ rằng hết thảy vốn là không. Giả sử có nạn thì trước hết tự bảo hộ, sau mới cứu người khác. Nếu xả thân rồi, lại có hoạn nạn nữa thì sẽ theo đuổi giúp đỡ. Tất cả sự tham lam của con người đều do thân mà phát khởi, chứ không do người khác tính toán. Vì vậy nên biết thân là ngã của ta.

Bài tụng rằng:

Tham tài tham sắc đều do thân
Nếu có nạn dữ trước tự hộ
Chẳng ngó đến ai, chỉ lo mình
Người tục cho là ngã của ta.

Người tu hành tự nghĩ: Nên quán về nguồn gốc của thân do sáu yếu tố hợp thành: Một là đất, hai là nước, ba là lửa, bốn là gió, năm là không, sáu là thần (thức). Cái gì gọi là đất? Đó có hai thứ: Đất ở trong và đất ở ngoài.

Bài tụng rằng:

Đất, nước, gió, lửa, không
Hồn thần nữa là sáu
Trong sáu ngoài cũng sáu
Phật dùng Thánh trí giảng.

Cái gì là đất trong thân? Trong thân, chất cứng như là tóc, lông, móng, răng, cấu bẩn, xương thịt, da gân liền nhau, ngũ tạng, ruột, bao tử, phân uế, bất tịnh. Các chất gì cứng gọi là đất trong thân.

Bài tụng rằng:

Thân người chứa biết bao nhiêu thứ
Tóc, lông, răng, móng, xương, da, thịt...
Và các chất cứng trong cơ thể
Gọi đó là đất ở trong thân.

Người tu hành lại tự suy nghĩ: “Ta xem đất trong thân là thân ta chăng? Thần thức gá vào, cùng với đất ở trong hợp thành chăng? Sự kết hợp của thân đã khác thì cái ngã của ta cũng riêng biệt?” Hãy quán sát về việc cạo tóc: Khi râu tóc rơi xuống trước mắt, mỗi sợi tóc rời ta, dụng tâm quán sát cả trăm lần, cái ngã của ở chỗ nào? Nếu chỉ một sợi là ngã, còn những sợi khác thì sao? Nếu tất cả sợi đều là ngã thì điều này cũng chẳng đúng, vì có biết bao nhiêu là ngã. Lại tóc, râu cạo xuống từ ngắn đến dài cũng khó đếm xuể, nếu khi đem bỏ vào lửa đốt thì thân sẽ chết? Tóc do bốn điều kiện phát sinh: Một là do nhân duyên; hai là trần lao; ba là ái dục; bốn là ăn uống. Nếu chẳng phải là thân thì không có ngã của ta, râu tóc các duyên hợp lại, ngã mới có. Một sợi tóc rơi xuống đất, hoặc bỏ vào lửa, hoặc rụng ở nhà xí, dùng chân giẫm lên, thì đối với thân không có đau đớn gì. Ở tại trên đầu cũng không có ích gì. Vì vậy quán xét ở trên đầu, tại dưới đất giống nhau không khác.

Bài tụng rằng:

Trên đầu tuy nhiều tóc
Thêm bớt cũng không khác
Dù cạo hay là còn
Cũng chẳng lấy làm lo.
Quán sát kỹ như vậy
Không có ngã của ta
Vậy nên phân biệt rõ
Tất cả không có thân.

Giả sử tóc kia là cái ngã của ta thì ta giống như rau hành cắt rồi, sau sẽ mọc lại. Lấy đó suy ra, sẽ có thêm ngã nữa. Vì sao? Vì thứ rau hành ấy tự hủy, tự sinh. Tất cả đều là không, chẳng phải ta, không có ngã. Giả sử râu, tóc, cùng với thần thức hòa hợp như nước và sữa hòa hợp thì vẫn còn có thể tách ra được. Giả sử râu tóc có ngã của ta thì lúc ban đầu ở trong bào thai bẩm thụ hình, thức, hoàn toàn không có râu tóc, lúc ấy cái ngã của ta là cái gì? Sau đó do nhân duyên sinh. Vì vậy biết rằng, râu tóc không có cái ngã của ta, dù râu tóc có sinh hay là không sinh, hoặc cạo hoặc chừa cũng không có thân. Do đó quán xét, cỏ cây và râu tóc giống nhau không khác.

Bài tụng rằng:

Nếu râu, tóc là ngã của ta
Thì cũng giống như thứ rau hành
Thân như rau cỏ cắt rồi sinh
Xem thân cùng cỏ chẳng khác gì.

Người tu hành tự nghĩ thế này: Vốn không có ta, nay chẳng thấy ngã. Hiểu rõ như thế, chẳng còn hồ nghi, như tóc không có ngã, tất cả cũng thế. Tóc, lông, móng, răng, xương, thịt, da đều không thuộc về đâu. Quán kỹ như thế thì đất không có ngã của ta, ngã không ở trong đất.

Bài tụng rằng:

Tóc, râu... không có ngã của ta
Cắt xẻ thân ra trăm ngàn mảng
Trong ấy tìm cầu, không có thân
Ví như vào nước mà tìm lửa.

Người tu hành tự nghĩ: Ta tìm nơi đất trong thân, hoàn toàn không có ngã của ta. Nên quán sát đất bên ngoài thử xem có cái ngã của ta nương gá vào đất bên ngoài chăng? Sao gọi là đất bên ngoài cùng với thân chẳng liên quan? Thô cứng chắc chắn ngoài thân người, đó là hình dáng của đất đai, núi non, các đá, ngói, gạch, cây gỗ, đồng sắt, chì, thiếc, vàng bạc, thâu thạch, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não, lưu ly, thủy tinh, cây cối, thảo mộc, lúa thóc, vật thực có mặt khắp nơi.

Bài tụng rằng:

Núi non, đá ngói đất cỏ cây
Và các loại hình hiện có khác
Chúng đang phát sinh ngoài thân ta
Đó gọi là thứ đất ngoài thân.

Người tu hành quán sát đất bên ngoài thì biết đất bên trong không có ngã của ta. Vì sao? Vì đất trong thân tăng giảm thì có sự khổ đau hãy còn không có thân, huống gì là đất ngoài thân mà có thân sao? Dù có phá hoại, cắt đứt, thiêu rụi, đào xới, xé chẻ cũng chẳng đau đớn, thì đâu có thể gọi là ngã của ta? Cho nên đất ở trong và ngoài đều không thuộc về đâu, như nhau không khác.

Bài tụng rằng:

Như đất trong thân đã vô ngã
Huống là có, ở đất bên ngoài
Do quán vô ngã đều không khác
Bừng tỉnh cùng không, chẳng khác gì.

Cái gì gọi là nước? Nước ở trong ta, ta ở trong nước. Nước có hai thứ: Nước ở trong và nước ở ngoài. Cái gì gọi là nước ở trong? Ở trong thân, những chất thuộc về loại mềm, ẩm ướt như các loại mỡ, huyết mạch, tủy não, nước mũi, nước mắt, nước dãi, nước đờm, gan, mật, nước tiểu... Các chất ẩm ướt trong thân, gọi đó là nước ở trong.

Bài tụng rằng:

Các chất như gan, mật
Huyết mạch, mồ hôi, mỡ
Đờm, dãi và tiểu tiện
Là chất ướt trong thân.
Xẻ thân thấy chất mềm
Chẳng tưởng quan thần thức
Lưu thông khắp trong thân
Đó là nước ở trong.

Người tu hành hỉ, khạc ra trước mặt và quán sát kỹ lưỡng, dùng que vạch ra xem ngã có ở đấy không? Giả sử ngã nương nơi đó ngày ngày chảy ra, thì bị vứt bỏ tiêu mất, đã theo ra ngoài rồi thì chẳng cho là ngã, cũng chẳng nên gìn giữ. Giả sử dùng que vạch ra mà có cái ngã của ta, đựng đầy trong bát thì gọi là gì? Quán sát như vậy, biết chắc là không có ngã. Vì sao? Vì xét về hình thể thì không có gì hết. Lấy đó mà so thì loại nước rất nhiều. Nước đã không có ngã, thì trong hay ngoài cũng vậy.

Bài tụng rằng:

Giả sử ngã như nước
Nước tiêu ngã cũng tiêu
Nước trong thân vơi đầy
Đáng lẽ ngã cũng vậy.
Như bỏ nước trong thân
Chẳng nghĩ đó là thân
Người quán kỹ như thế
Không chấp ngã của ta.

Người tu hành đã thức tỉnh quán sát thấy nước ở trong thân không có ngã của ta rồi, thì nên quán sát nước ở bên ngoài, có ngã chăng? Ngã nương vào nước chăng? Cái gì là nước ở ngoài chẳng có trong thân mình? Mùi vị của rễ, thân, cành, lá, hoa, quả, đề hồ, dầu mè, rượu, tương, sương móc, nước tắm, nước ao, giếng, suối, ngòi, rãnh, kênh, sóng, sông, biển, nước ngầm, gọi là nước ở ngoài.

Bài tụng rằng:

Các thứ gọi là nước trên đất
Và các mùi của thuốc rễ, thân
Cùng thân riêng biệt chăng liên quan
Gọi đó là nước ở bên ngoài.

Người tu hành quán kỹ nước ở bên ngoài, phân biệt thế này: nước trong thân còn không có ngã của ta, nhưng khi có sự tăng giảm, còn khiến thân đau đớn, huống gì là nước bên ngoài còn có thân? Dù có người lấy, đối với mình cũng không tổn hại. Nếu có người cho, đối với thân cũng không có ích. Lấy đó mà quán thì nước ở trong hay ngoài này như nhau, không khác. Vì sao? Vì đều không có sở hữu.

Bài tụng rằng:

Nước ở trong thân không có ngã
Dù có khổ vui và tăng giảm
Vậy nước ở ngoài đâu có thân
Khổ vui, tăng giảm đều vô hại.

Nay nên quán sát các thứ lửa. Lửa có ngã chăng? Ngã ở trong lửa chăng? Cái gì gọi là lửa? Lửa có hai thứ: Lửa ở trong và lửa ở ngoài. Cái gì gọi là lửa ở trong? Hơi ấm áp, sức nóng bức khắp cùng trong thân, nó duy trì mạng sống và thiêu hóa thức ăn. Các sức nóng trong thân ấy là lửa ở trong.

Bài tụng rằng:

Sức nóng trong thân tiêu thức ăn
Hơi ấm ôn hòa giữ mạng sống
Như vậy thể phần và sức nóng
Gọi đó là lửa ở trong thân.

Người tu hành nên khởi các quán về các hơi ấm ở trong thân: Hoặc hơi nóng trên đầu, hoặc ở trong tay, chân, xương sống, hông, bụng, lưng. Quán chiếu như thế, mỗi bộ phận đều có sự sai khác. Suy ra thân người là một, đúng là không có ngã. Quán kỹ như thế, thì không thuộc về đâu, đó là lửa ở trong.

Bài tụng rằng:

Phân biệt kỹ thân người
Biết lửa không có ngã
Ở khắp các bộ phận
Đâu cũng chẳng thấy ngã.

Người tu hành lại tự tư duy: Ta tìm cầu lửa ở bên trong đã không có thân, thì quán sát lửa bên ngoài có ngã chăng? Ngã nương vào lửa chăng? Cái gì gọi là lửa bên ngoài chẳng liên quan đến thân? Đó là lửa và các thứ thuộc về ấm, nóng. Ánh sáng do mặt trời, mặt trăng tinh tú phát ra, lửa ở cung điện các Thiên thần, ở bờ đất núi cao, do đục đá, y phục, châu báu, vàng bạc, đồng, sắt, châu ngọc, anh lạc và các loại ngũ cốc, cây cối, dược thảo, đề hồ, dầu mè, các loại có sức nóng đều là lửa bên ngoài.

Bài tụng rằng:

Lửa nóng, nhật nguyệt và tinh tú
Các loại đá, sáng nóng dưới đất
Và tất cả thứ nóng ấm khác
Gọi đó là lửa ở bên ngoài.

Người tu hành tư duy lửa ở ngoài đã thấy như thế, thì biết lửa ở ngoài chẳng thể kể xiết. Lửa có hai việc, đó là đốt và nấu. Lửa ở trong cây cỏ thì chẳng đốt cây cỏ. Công dụng mỗi thứ khác nhau. Nếu ở trong lửa bên ngoài có cái ngã của ta thì chúng chẳng khác biệt. Vì vậy biết rằng lửa ở ngoài không có thân, thân cũng chẳng ở trong lửa. Lửa ở trong và lửa bên ngoài đều giống nhau. Vì sao? Vì đều trở về không.

Bài tụng rằng:

Sở dĩ có lửa này
Để thiêu đốt, nấu chín
Núi cao các thứ đá
Chỗ tích tụ lửa ấy.
Ở các chỗ khác nhau
Đốt cháy không cùng lúc
Lửa ngoài không như thế
Nên biết là vô ngã.

Nay nên quán sát các thứ gió có ngã chăng? Ngã ở trong gió chăng? Cái gì gọi là gió?

Gió có hai thứ: Gió ở trong và gió ở ngoài. Cái gì là gió ở trong? Hơi mà thân lãnh nạp ra vào, lên xuống, gió khởi ngang hông, xương sườn, lưng, gió thông cả trăm mạch, xương cốt, gió có sức kéo co rút gân lại, các gió nhanh, độc thổi lên hoành hành làm chết người. Đây gọi là gió bên trong.

Bài tụng rằng:

Gió mang trong thân như cơ quan
Các thứ gió chấm dứt mạng người
Hen suyễn rung động co rút chân
Đó gọi là gió ở bên trong.

Người tu hành nên khởi quán như thế này: Các thứ gió bên trong đều do ăn uống không đúng thời tiết mà phát sinh, do các nhân duyên khác mà gió chẳng thông. Gió có nhiều thứ, trong mỗi bước chân, đủ thứ khởi, diệt. Đối với chúng, tìm cầu ngã nhưng chẳng thể nắm bắt được. Vì vậy nói rằng tìm cầu gió ở bên trong nhưng không có ngã của ta.

Bài tụng rằng:

Gió động gió trụ tại thân người
Biết bao nhiêu thứ từ duyên khởi
Chúng đều khác nhau chẳng có ngã
Nên gió ở trong không có thân.

Người tu hành tâm tự nghĩ: Nay tìm cầu gió ở bên trong đã không có ngã, thì nên quán sát gió ở bên ngoài. Cái gì gọi là gió bên ngoài chẳng tương quan đến thân? Gió mạnh cuồng loạn ở Đông, Tây, Nam, Bắc, gió nhẹ, gió lạnh, nóng, nhiều ít, hiu hiu, gió nổi mây, gió xoáy, gió động, gió hình thành, phá hủy đất trời và gió giữ nước, đó gọi là gió ở ngoài.

Bài tụng rằng:

Các thứ gió bốn phương lạnh, nóng
Gió xoáy, gió hình thành, diệt vong
Gió tan mây, trong sáng nhẹ nhàng
Đó gọi là gió ở bên ngoài.

Người tu hành mà quán sát gió như thế, thì tự nghĩ, gió bên ngoài chẳng đồng, hoặc lớn hoặc nhỏ, hoặc có khi trung bình, hoặc như lúc quá nóng cầm quạt tự quạt, hoặc như có bụi đất phủi đi. Gió thổi nhanh mạnh thì nhấc người lên; gió xoáy ở trên hư không, khi đất trời hoại thì thổi tróc núi Tudi, hai bên cọ xát nhau khiến tan nát hết, nhấc dưới lên trên, thổi bay lên cao, rồi để rớt xuống va chạm nhau, nát bấy như bụi. Thân chỉ có một, không có to, nhỏ. Gió bên ngoài đã nhiều lại có to, nhỏ. Quán sát gió bên trong bên ngoài đều như nhau không sai khác. Vì sao? Vì đều chẳng thuộc về đâu.

Bài tụng rằng:

Giống như cầm quạt trừ nóng bức
Gió mát thân người và gió xoáy
Gió trong hư không cũng vô ngã
Đó gọi là gió ở bên ngoài.

Người tu hành đều có khả năng phân biệt, hiểu rõ bốn đại ấy. Tuy vậy, chưa xả được vì chẳng biết thân là không. Những việc làm hiện tại gắn liền với ý nghĩa là có thân, cũng gọi là có ta. Để quán chiếu nó vốn không, nghĩa bốn đại chủng bên trong và vốn đại chủng bên ngoài đều như nhau, không khác. Vì sao? Vì tâm, ý, thức chẳng ở trong thống, tưởng, hành, thức cũng chẳng liên quan đến bốn đại của thân.

Bài tụng rằng:

Nên quán sát bốn đại chủng này
Kẻ không trí tuệ thường hoài nghi
Sắc, thống, tưởng, hành, thức chẳng dính trong
Thì đâu tương quan bốn đại ngoài.

Người tu hành giả sử hồ nghi thì nên quán sát nguồn gốc để có thể hiểu rõ tướng trạng của nó, biết nó như thế nào. Ví như trồng cây phát sinh ra quả, chẳng phải là do hạt giống, chủng chẳng phải là lìa hạt giống. Tất cả như thế, do nhân kết hợp bốn đại. Như có năm ấm thì tại bào thai thành tâm tinh thần và hình trạng như váng sữa đục, rồi phát triển như cục thịt, dần dần thành thân tiểu nhi. Từ thân bé tí đến trung niên vốn là do bao nhiêu thứ từ bào thai sinh khởi. Thân đã thành tựu rồi, thì chẳng phải là cái thân kết hợp lúc ban đầu mà cũng chẳng lìa nó. Mới bắt đầu, từ bào thai, tinh thần dần dần thành hình, đến lúc trung niên, tinh thần vẫn hiện hữu, do sự biến đổi của bốn đại chủng dần dần ngày càng trưởng thành. Do quán “vốn không” nên không có ngã, cũng giống như bốn đại chủng, không sai khác. Tinh thần hiện hữu, dần dần trưởng thành theo thân thể nhưng chúng không có tinh thần, cũng dần dần to lớn.

Bài tụng rằng:

Tâm do bên trong sinh
Như cây từ hạt mọc
Tâm như cây do quả
Đại chủng ngoài cũng vậy.
Thân pháp cũng như thế
Do tâm và các tưởng
Đại chủng ngoài không ý
Đâu có thể có tưởng.

Ví như các đại chủng bên ngoài, có thứ hiện thành vàng, về sau có thợ. Hoặc sản xuất ra đồng, sắt, hoặc sản xuất chì, thiếc, hoặc sản xuất bạc, hoặc sản xuất các loại báu như sản xuất thâu thạch, xa cừ, mã não, lưu ly, thủy tinh, san hô, hổ phách, bích ngọc, kim cương, vàng ròng. Các loại đại chủng bên ngoài, sản xuất các loại châu báu quý lạ như thế. Còn kể về đại chủng bên thân thì trong bào thai bắt đầu sinh hai cục thịt gọi là hình dạng mắt, cái có ánh sáng trong mắt để nhìn thấy gọi là tinh thể. Con ngươi đen trong mắt vin vào tinh thể bên trong mà thấy được hình ảnh bên ngoài, trong ngoài tiếp xúc nhau rồi mới sinh thức. Thức cùng với thống, tưởng, hành phát sinh chỗ nào? Nếu như từ mắt sinh thống, tưởng, hành thì tai, mũi, miệng, ý cũng như thế, các đại chủng trong và ngoài cũng không sai khác. Các đại chủng từ bên trong như tâm, thống, tưởng, hành vốn là từ trong phát khởi, chẳng do bên ngoài.

Bài tụng rằng:

Có đại chủng bên ngoài
Dùng làm ra vàng bạc
Đại chủng trong cũng thế
Hai cục thịt thành mắt.
Từ nhãn căn thấy sắc
Dựa sắc mà thành thức
Do tâm khởi các tưởng
Thức tự tại bên trong.

Người tu hành hoặc có kẻ nghi ngờ thế này: “Cái gọi là đại chủng bên trong, ít có kẻ vượt qua được, đó là cái “trong” trong cái trong.” Hoặc tự cho mình biết và nói người ngu muội chẳng nghe, chẳng biết, tâm họ trở lại tà vạy, rơi vào cao ngạo, cái mà thân thấy đó cho là ngã sở. Ngã thì có hình dáng, ngã ở bên trong. Quán thân người khác cũng như thế. Thấy biết như vậy, thì không thể thoát được. Phật giảng giải thân người thuộc về bốn đại, năm ấm và các suy nhập, dựa vào đó gọi là thân, tha nhân là ngã sở, nghĩa là nội ngoại chủng này, phàm nhân nói vậy, nên như người tục đã nói, ta nói theo họ, nếu không theo thì sẽ bị người tranh cãi. Người học đạo chưa từng nghĩ đến thân.

Bài tụng rằng:

Ngã đâu có cái hơn
Có thể vượt nội ngã?
Ngu si cũng như vậy
Vô tuệ theo tà kiến.
Lời nói có tăng giảm
Phàm tục đã nói vậy
Người trí ngoài việc ấy
Phân biệt không sai khác.

Người tu hành thấy biết rốt ráo thành trí tuệ thanh tịnh. Giả sử đại chủng bên trong là ngã sở thì thường được tự tại nên chế phục nó, tiến thoái là do mình, cho nên biết được thì cái vô ngã tại sao chẳng được tự tại? Lo lắng và già nua, tóc râu tự bạc, móng dài, răng rụng, mặt nhăn, da dùn, diện mạo xấu xí, gân mạch rã rời, thịt đau, xương nhức, phong hàn nhiệt đến chống nhau chẳng hòa, máu huyết nhớp nhúa hỗn loạn; bốn đại bên ngoài cũng vậy, hoặc có đất bị đào xới, núi lở, hang sụp; đất nước, gió, lửa hoặc tăng, hoặc tổn, thật chẳng tự tại, cho nên không có thân. Do đó biết rằng, các đại chủng trong ngoài không có ta, chẳng có ngã.

Bài tụng rằng:

Sinh, già, bệnh, chết đến
Còn chẳng tự tại được
Địa chủng ngoài cũng thế
Băng hoại thường tăng giảm.
Các duyên trong thành thân
Đại chủng ngoài cũng vậy
Như thật quán sát kỹ
Thì biết không có ngã.

Người tu hành tự nghĩ tâm ta thế nào? Từ lâu xa đến nay bốn đại đều không, mà ngược lại cho là ngã sở. Ví như mùa hạ nóng bức, trong sáng không mây, đi trên đồng vắng, xa thấy bóng nắng. Khi ấy sức nóng của đất như rải than đỏ, vì không có nước, cỏ cây đều khô, giống như đất cát vào giữa trưa cực nóng. Hoặc có khách buôn thất lạc đồng bọn, đi sau một mình, đầu không đội nón, chân chẳng đi giày. Thân thể, mặt mũi, mồ hôi nhễ nhại, môi miệng khô rát, thân như thiêu đốt, miệng há, lưỡi thè, cực kỳ khát nước. Nhìn trông bốn phía, tâm thần mê hoặc, xa thấy bóng nắng tưởng đó là nước, cho là dòng nước chẳng còn bao xa, bên cạnh có cây cùng bao loài chim le le, nhạn, uyên ương tung tăng trong ấy. Ta nên đến đó tự trầm mình xuống, để hết nóng bức cùng mọi thứ dơ bẩn nơi thân, giải trừ được cái khát kịch liệt và sự mệt nhọc.

Bấy giờ, người ấy sau khi nghĩ như vậy rồi ra sức chạy nhanh đến chỗ bóng nắng, thân thể rũ liệt lại càng thêm khát, lâm cảnh khốn đốn, hơi thở hụt hẫng, tâm thần bấn loạn, liền nghĩ: Ta tưởng nước gần chạy đi cả mấy dặm mà chẳng đến chỗ nước, vậy đó là cái gì? Cái mà ta đã thấy đúng là nước sông hay là ta lầm chăng? Rồi tiếp tục tiến bước, ngày càng ngã về chiều, khi ấy trời mát dần chẳng thấy bóng nắng, chẳng còn có loại nước kia, tâm liền tự biết đó là do sức nóng chói chang tạo nên.

Vì ta quá khát xa thấy bóng nắng lại cho là nước.

Bài tụng rằng:

Xa thấy ánh sáng chói
Cho đó là dòng nước
Khốn đốn vì quá khát
Nên gọi đó là sông.
Về chiều trời mát dần
Nhìn kỹ hiện tượng ấy
Mới biết là bóng nắng
Ta lầm cho là nước.

Người tu hành tự nghĩ: Ta vốn cũng vậy, vì khát tình dục, truy tìm chẳng nghĩ, chấp đắm vào tình yêu chung thủy, trở lại tự thiêu đốt, mê chấp tưởng nghi, lưới si, bị kiến chấp sai lầm, huyễn hóa che khuất. Ta từ lâu xa lầm là có tâm ấy, tham lam chấp ngã, cho đó là của ta. Nay đã biết rồi, xét kỹ cái thấy, thì cái thấy tưởng có thân từ đây đã dứt trừ. Nay thấy sáu phần không có cái ngã của ta; quán sát một sợi lông, sợi tóc hoàn toàn không thấy có, huống gì trong sợi lông của cơ thể thấy được các vật? Phân tích một sợi lông trên thân đã có biết bao nhiêu là chuyện để nói, huống là giảng luận cả đại địa?

Bài tụng rằng:

Tự xem thân mình là có ngã
Như người ngu khát nước thấy nắng
Biết sáu phần chẳng phải ngã sở
Người có tâm ấy hợp với đạo.

Người tu hành lại nên tư duy: Người ngu chẳng biết nên khởi tâm sinh tưởng ngã ấy là của ta. Ý niệm ấy là các tưởng tà hạnh. Lúc mới khởi gọi là niệm, sau khi khởi gọi là hành. Suy nghĩ rồi tâm mới động, khiến miệng phát ra lời. Dựa vào thân bốn đại cho là ta có ngã, nhưng việc ấy đều là không, không có ta, không có ngã, chỉ là ấm khởi, nguồn gốc của các nhập, do vậy mới có thân, nhân đó gọi tên là người. Người trượng phu xem hạt thì biết là mầm; loài có răng thì ý chí phát động từ bên trong, do gió có tiếng khiến lưỡi phát ngôn. Ví như dòng nước lớn từ núi cao chảy xuống, vang động êm ả. Hành giả nghe cũng như tiếng vang trong núi sâu kêu lên vọng lại. Lưỡi của người có lời nói vốn là từ tâm phát khởi cũng giống như vậy.

Bài tụng rằng:

Nương vào các chủng, tưởng các pháp
Vốn do nghĩ tà khởi ý niệm
Do thân trưởng thành có ngôn thuyết
Phát ra nhiều nghĩa như suối nguồn.

Người tu hành lại nên tự nghĩ: Thân tứ đại ấy vốn không có ta, không có ngã, trở lại làm hại nhau. Ví như người giàu có vô số của cải nhưng có bốn oan gia. Bốn oan gia nghĩ rằng: “Người này rất giàu, của cải chẳng ít; đất đai, nhà cửa, đồ vật vô lượng; nô tỳ, người ở không thiếu gì; bà con, bằng hữu cũng đều giàu có. Chúng ta đã nghèo, lại không có thế lực, chúng ta chẳng thể báo oán người này được. Phải dùng phương tiện lòn cúi người này. Nên lấy lý do gì để thành đạt phương kế? Thường gần gũi hắn mới có thể báo oán được?”

Bấy giờ, bốn oan gia giả đến quy thuận, người nào cũng nói: chúng tôi vì Nhân giả mà tận lực phục dịch, xin làm nô tỳ, muốn làm việc gì, xin sự sai bảo. Người nhà giàu ấy liền thâu nhận, xem họ như kẻ thân tín, khiến ở bên mình. Bốn người kia, kính cẩn, tối ngủ sáng dậy đều sợ sệt khép nép vòng tay; các việc làm nặng nhọc đều làm trước hết, không né tránh khó khăn. Người giàu ấy thấy bốn người kia cung kính tuân phục, trung thực, hòa nhã, mới đem lòng thương yêu hết mực, cho bốn người ấy là bạn thân của mình, không ai hơn được. Ngồi tại chỗ ngồi trên chiếu, khen ngợi rằng họ là bạn thân của ta, cũng như anh em, con cháu không khác, họ có thể làm việc cho ta hoàn toàn không trái ý. Đã có lời khen ngợi như thế rồi, ăn uống cùng chén bát, ra vào cùng xe.

Bài tụng rằng:

Bằng nhiều cách gần gũi
Dẹp kiêu mạn, chẳng nghịch
Lòn cúi như gia nô
Phục tùng, khiến hoan hỷ.
Oán đâu thể làm vậy
Đều là do thù xưa
Đời này gây hiềm khích
Đeo theo như bạn thân.

Bấy giờ, người giàu kia gần gũi với bốn kẻ oán, lòng chưa từng tẻ nhạt. Về sau, có việc cùng với bốn người này, từ thành đang ở muốn đi đến huyện khác, bọn họ cùng lén bàn luận: người này từ lâu là kẻ thù của ta. Nay nó đã nằm trong tay ta. Giờ thì tại nơi đồng vắng không có người, ở khoảng này trước sau bị hại chẳng phải là một. Nay, con đường cách xa thành ấp, cách xa huyện, trước sau không ai, hai bên cũng không kẻ canh gác, không có mục đồng, không người lấy củi, không kẻ đi săn. Vào lúc đứng bóng như vầy, mãnh thú còn nghỉ ngơi huống là người đi đường lo ngại về nguy hiểm. Khi ấy, bốn kẻ oan gia nắm tóc người giàu nọ vật nằm xuống đất, đè lên ngực vạch rõ tội xưa. Người thứ nhất nói: Vào thời gian nọ, mày giết cha ta.

Người thứ hai nói: Mày đã giết anh ta. Người thứ ba nói: Mày đã giết con ta.

Người thứ tư nói: Mày đã giết cháu ta.

Nay đã bắt được mày rồi phải chặt ra từng khúc, cắt đầu bổ ra từng mảnh, mày hãy tự soát xét bản tâm đã từng làm điều gì đều phải suy nghĩ lại. Nay mày mất mạng, đến ngục của Diêm-la. Bấy giờ, người giàu mới biết, những người này là oan gia của mình mà mình lại cho là bạn thân. Lúc đầu đến phụ giúp, mình tin tưởng thương yêu họ, cho ăn uống vui chơi không tiếc, xem họ như con, mong ước là tất cả đều được vinh hiển trong tương lai. Nhưng từ lâu, chúng đã rắp tâm muốn hại nhưng mình chẳng hay biết. Nay nắm đầu vật xuống đất, kể bao nhiêu tội lỗi cũ, xẻo tai, mũi và chặt tay chân, lóc da, cắt lưỡi, mới biết rõ các kẻ kia là oán thù của mình.

Bài tụng rằng:

Con người đến với nhau
Oan gia giống bạn lành
Miệng hòa, tâm ôm độc
Như tro phủ than đỏ.
Quá tin không đề phòng
Lóc da như giết dê
Người ấy tâm mới biết
Là oán chẳng phải thân.

Người tu hành cứ như thế mà quán nghĩa này: Ta vốn tự cho bốn đại địa, thủy, hỏa, phong thuộc về ta. Nay quán xét kỹ chúng, mới biết rõ đó là oan gia nối kết với nhau bằng dây xích xương. Vì sao? Vì nước trong thân tăng hoặc giảm, khiến sinh bệnh rét, có một trăm lẻ một thứ khổ, vốn từ thân phát ra rồi trở lại tự hại thân. Nếu làm cho lửa trong thân có sự chuyển biến thì sinh bệnh sốt, chịu một trăm lẻ một nỗi đau, vốn từ thân phát ra rồi trở lại tự hại thân. Nếu gió phát khởi thì bị bệnh phong, chịu một trăm lẻ một thứ đau nhức. Nếu đất biến động thì nhiều bệnh phát sinh, đó là bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh cùng phát. Bốn đại của thân như thế đều là oán thù, đều chẳng phải ngã, quả thật đáng nhàm chán. Người sáng suốt nên vứt bỏ, chưa hề ham muốn.

Bài tụng rằng:

Lửa có sẵn trong cây
Cọ nhau lại tự cháy
Bốn đại chủng cũng vậy
Chẳng hòa nguy đến thân.
Người sáng suốt quán kỹ
Biết rõ nguồn gốc chúng
Bốn đại trong là không
Là oán, vui nỗi gì.

Người tu hành tự tư duy: Ta quán bốn đại chủng thật chẳng phải là ngã sở. Nên quán đại chủng “không” gồm có những loại nào? Không có ở thân, thân có ở không. Những gì gọi là đại chủng không? Không có hai thứ: không bên trong và không bên ngoài. Những gì gọi là không bên trong? Ở trong thân, các chỗ thuộc khoảng trống của mắt, tai, mũi, miệng, thân, tim, ngực, bụng ruột bao tử, các lỗ xú uế, các khoảng trống trong xương, các mạch, bắp thịt co giật, những nơi ấy gọi không bên trong.

Bài tụng rằng:

Các lỗ nơi hoa sen
Không trong thân cũng vậy
Xương, thịt, da, nơi giật
Không khác không trong thân.

Người tu hành nên khởi quán thế này. Các khoảng trống trong thân đều gọi là không. Ý niệm chẳng khởi từ không ấy, chẳng cùng kết hợp. Vì sao? Vì ý từ tâm khởi, ý này nối tiếp ý khác không dứt, vốn do sự tiếp xúc phát sinh. Do cái “ý pháp” ấy sẽ tự quán tâm, quán tâm người khác, tâm cũng không có không, không có chỗ nương tựa. Dùng trí “ba đạt” quán sát quá khứ, vị lai, hiện tại đều không sở hữu. Với bao nhiêu phương tiện quán sát cái không bên trong vĩnh viễn chẳng thấy thân. Vì vậy, cái thân bên trong không có cái ngã của ta.

Bài tụng rằng:

Quán không bên trong ở chỗ nào
Chẳng tìm thấy ngã như mảy trần
Vì vậy trong thân tâm ý thức
Ví như bóng tối, chỉ có danh.

Người tu hành nên quán thế này: Đã thấy cái không bên trong hoàn toàn không có sở hữu, lại nên quán cái không bên ngoài là những loại nào, có ngã, ngã có nương vào chúng chăng? Cái gì gọi là cái không bên ngoài không liên quan đến thân? Cái không có hình sắc, không thể nhìn thấy, cũng chẳng thể nắm bắt, không có thân hình chẳng dẫn dắt kiềm chế, chẳng bị bốn đại chủng che phủ. Do hư không ấy mà phân biệt bốn đại; y vào đó mà qua lại, ra vào, tới lui, lên xuống, đi đến, co duỗi, cử động, xuống sâu, lên cao, gió xoay vần được, lửa đỏ, núi đổ; nhật nguyệt tinh tú quây quần chung quanh, nương vào đó mà vận hành được. Đó là cái không bên ngoài.

Bài tụng rằng:

Chẳng thấy được hình sắc
Dung hết không trở ngại
Nương đó người qua lại
Cúi duỗi và cử động.
Sông ngòi lưu thông được
Nhật nguyệt gió xoay vần
Núi đổ và lửa cháy
Đó là “không” bên ngoài.

Người tu hành quán sát kỹ như thế về cái không bên trong thân còn chẳng phải là ngã sở huống là cái không bên ngoài mà gọi là ngã? Hãy giữ tâm chuyên chú vào không bên trong và ngoài như nhau, không sai khác. Vì sao? Vì không có khổ, lạc. Chẳng thể nắm bắt, không có tưởng nghĩ. Đã không nghĩ tưởng thì không có khổ lạc, sẽ chẳng nghĩ về ngã.

Bài tụng rằng:

Cái không ở trong thân
Xét thân rõ vô ngã
Huống là không ở ngoài
Lại cho là có ư?
Quán không ở trong ngoài
Đều như nhau không khác
Vì chẳng khởi khổ vui
Xa lìa các niệm tưởng.

Nay nên quán sát đại chủng tâm thần: Tâm thần có ngã, ngã nương vào tâm thần chăng? Cái gì gọi là tâm thần? Tâm thần ở trong chẳng ở ngoài. Tâm nương vào đại chủng bên trong thấy được đại chủng bên ngoài mà khởi nhân duyên. Tâm thần có sáu lãnh vực nhận thức: Mắt, tai, mũi, miệng, thân, tâm. Người tu hành nên quán xét như thế này: Mắt duyên sắc mà biết rõ, còn không thì theo tâm, vì vậy cho nên mới có nhãn thức.

Bài tụng rằng:

Nhờ đại chủng bên trong
Và bốn đại bên ngoài
Như hai cây cọ nhau
Ra lửa, thức cũng vậy.
Tai, mũi, thân, miệng, ý
Phân biệt, thành sáu thứ
Sắc làm chủ tội phước
Gọi đó là các thức.

Nhãn thức ấy chẳng ở trong con mắt, chẳng ở ngoài sắc, chẳng hợp cùng với sắc, cũng chẳng lìa mắt từ ngoài duyên sắc. Ở trong ứng với duyên thì gọi là thức.

Bài tụng rằng:

Ví như đồ cọ lửa
Chẻ ra làm trăm phần
Hoàn toàn chẳng thấy lửa
Quán lửa chẳng lìa cây.
Xem xét các loại thức
Cũng như vậy mà thôi
Do sáu tình có thức
Quán xét bất khả phân.

Ví như có nhà vua ngự trên lầu cao cùng với bá quan quần thần hội họp. Khi chưa làm vua, ông vốn là vị Tiên nhân ở trên núi, quần thần rước về lập làm vua, chưa từng nghe nhạc, nghe âm thanh của trống đàn không hầu, cầm sắt. Âm thanh của chúng rất cảm thương, hòa nhã êm dịu cho là chưa từng có, xoay hỏi quần thần, đó là tiếng của loại gì mà âm thanh hay quá vậy.

Bài tụng rằng:

Như vua người tiên ở nơi vắng
Đến nơi nhân gian nghe tiếng đàn
Nhà vua khi ấy hỏi quần thần
Âm thanh gì mà hay quá vậy.

Quần thần tâu vua:

–Đại vương chưa từng nghe âm thanh này ư?

Bài tụng rằng:

Quần thần tâu vua rằng
Vua chưa từng nghe ư
Như vua muốn xem thử
Thần chẳng nói sai lời.

Nhà vua bảo quần thân:

–Ta vốn từ lâu học đạo trên Tuyết sơn, là người tiên ở chỗ vắng vẻ, vì thế đối với những tiếng khác lạ này chưa nghe.

Bài tụng rằng:

Vua đem nguồn gốc nói bề tôi
Ở chỗ thanh vắng pháp làm vui
Đi ở một mình nên chẳng biết
Chẳng thể phân biệt âm thanh này.

Cận thần tâu vua:

–Đại vương muốn biết, đó gọi là cây đàn.

Bài tụng rằng:

Vua chưa nghe tiếng này
Chẳng hiểu chỗ âm phát
Thần tâu bậc tôn quý
Thứ ấy gọi là đàn.

Vua bảo cận thần:

–Đem đàn đến ta xem là loại gì.

Cận thần liền vâng lệnh mang cây đàn đến.

Vua bảo:

–Ta chẳng dùng thứ ấy, hãy lấy âm thanh của nó đến.

Cận thần tâu:

–Đây là cây đàn, cần phải dùng phương cách, động tác, công phu mới phát ra tiếng. Vậy làm sao lấy tiếng ra để mà trình cho vua được.

Bài tụng rằng:

Nhà vua có điều hỏi
Quần thần đều tâu rằng
Âm thanh chẳng thể lấy
Không có âm tự nhiên.

Nhà vua hỏi quần thần:

–Dùng công phu gì mà khiến có tiếng?

Quần thần tâu:

–Đây là cây đàn, do thợ đã dùng gỗ khô làm thành, rồi dùng dây buộc vào mới hoàn tất. Lại thử âm thanh của nó khiến chẳng lớn, chẳng nhỏ, điều chỉnh cho thích hợp.

Bài tụng rằng:

Đẽo gọt gỗ khô làm đàn này
Làm cho ngoài mỏng và trong rỗng
Lại mắc dây tốt, điều chỉnh âm
Nhiên hậu tiếng nó mới êm dịu.

Quần thần tâu vua:

–Trống, đàn phải khéo tay thì âm tiết mới hòa nhau, chẳng gấp, chẳng hoãn, chẳng chậm, chẳng nhanh. Khi biết âm thì rõ tiết tấu, tiếng thô tế, cao thấp mới đúng chỗ. Lại đã hiểu tiếng ngâm vịnh thi phú thì lời ca chẳng lạc tiết tấu, nhịp nhàng với âm trống, tám âm chín khúc, mười tám bậc, cung bậc có điệu khác nhau, sự biến đổi của dây có ba mười chín.

Bài tụng rằng:

Âm nó mà hòa dịu
Phát tiếng rất thánh thoát
Bốn bộ tiếng êm ái
Có thể ca thông suốt.
Hiểu rõ ngâm thơ phú
Như kỹ nhạc của trời
Người nào đạt như thế
Trống, đàn mới hòa trong.

Quần thần tâu vua:

–Như thế, nhạc sư điều chỉnh âm thanh của dây đàn, lúc đó mới êm ái. Như âm thanh nhà vua đã nghe đã mất rồi chẳng thể tìm lại được. Dù người bốn phương đuổi theo âm thanh ấy tìm nó ở chỗ nào cũng chẳng thể được.

Vua phán bảo quần thần:

–Cái gọi là đàn ấy không ích cho đời, không có thiết yếu, cái đàn ấy khiến cho vô số người phóng dật, chẳng thuần lương, vì khi nghe thấy nó thì lòng người bị mê hoặc. Hãy lấy đàn ấy đi, đập thành trăm mảnh, vứt bỏ ngoài đồng.

Bài tụng rằng:

Biết bao công phu mới thành âm
Chỉ vì hư vọng mê hoặc đời
Nếu không có trống, đâu phát tiếng
Phiền não rất nhiều do đó ra.

Người tu hành nghĩ thế này: Ví như chiếc đàn kia tốn biết bao nhiêu công mới thành tiếng. Mắt cũng như thế, không bị phong, hàn, nhiệt thì tinh thể của nó trong suốt, tâm chẳng nghĩ gì khác, bên trong và ngoài mắt đều sáng, sắc đã thấy không có xa gần, sắc không nhỏ nhiệm, cũng chẳng che khuất. Thức chẳng phải là một thứ, vì nhân đó mà duyên nên nhãn thức.

Bài tụng rằng:

Do biết bao công, mới thành đàn
Từ tai nghe tiếng, tâm ưa thích
Không có các bệnh, mắt sáng trong
Nếu không nghĩ khác, gọi nhãn thức.

Nhãn thức đã do nhân duyên sinh khởi thì nhân duyên kết hợp ấy là vật vô thường, khổ, không, vô ngã. Do từ nhãn thức mà dẫn đến họa hoạn này. Dù có người nói có sinh mạng thường, lạc thì cái ngã sở ấy cũng chẳng thể nắm bắt được. Đây là lời nói hư dối, đâu có thể tự cho rằng nhãn thức là ngã sở. Vì vậy biết rằng, thân không có nhãn thức, nhãn thức vô thường, các tưởng của tâm cũng giống như thế. Người quán sâu xét kỹ thì biết nguồn gốc của nó; tất cả các pháp đều chẳng phải là ngã sở. Ví như lấy tàu lá chuối cho đó là vật cứng nhưng đang ở trên tay đã rách vụn; lần lượt chọn mãi cho đến gốc của nó không có một cái gì cứng chắc, cũng chẳng có cái lõi, thì đâu có thể cứng được. Người tu hành cũng thế, từ khi nơi phát tâm, quán lông tóc là của mình hay của người? Quán kỹ thế này: quán sát tóc trên đầu của mình, tất cả đại chủng địa, thủy, hỏa, phong, không và tinh thần thấy là không có thân. Như ta từng nghe: Mặt trời đã lặn, trời tối không có ánh trăng, có một người độc hành, vào nửa đêm trông thấy cái cây từ xa cho là giặc cướp, như đang giơ đao, trương cung, cầm kích muốn hại mình, không còn hồ nghi gì nữa, trong lòng sợ sệt, không dám bước tới. Cất bước di động lòng rất lo âu, sợ sệt quá đỗi. Trời dần về sáng, tinh tú lặn mất, mặt trời sắp mọc, lúc ấy mới rõ chẳng phải là kẻ cướp mà là cái cây. Người tu hành nên quán như thế này: Ta từ lâu đời ngu si che lấp, cho là có thân cùng đầu, tay, chân, hông, sườn, ngực, bụng, các chỗ chất chứa, bước đi, đến dừng, ngồi đứng, nói năng, việc có thể làm dần dần tự đạt, học hỏi hiểu lẽ là trí tuệ thông minh, mờ mịt ngu si tức là nông cạn. Bây giờ mới rõ, không có cái ngã của ta, xương cốt nói nhau, da dẻ bọc ngoài, do tâm ý, gió, bước đi, tới, dừng, nằm, đứng, nói năng, có các động tác.

Bài tụng rằng:

Có người đêm đi đường
Thấy cây tưởng là cướp
Người ngu cũng như thế
Thấy thân nghĩ có ngã.
Rõ không có ngã, nhân
Chứa các duyên thành thân
Xương cốt các lỗ thông
Do tâm thần, gió động.

Ta từng nghe rằng, xưa tại một nước nọ, các đám thiếu niên chơi ở bên sông, cùng nhau vui đùa, dùng cát xây thành hoặc làm nhà cửa, cho là sở hữu của mình, ai nấy tự giữ, phân biệt việc làm khiến không sai sót. Làm nhà xong rồi trong đó có một đứa dùng chân đụng, phá thành đứa khác; chủ thành quá giận nắm tóc đứa kia dùng tay thoi đấm, cất tiếng kêu lớn: Có người phá thành của tôi, xin quý vị đến đây giúp tôi trị tội. Đám trẻ đáp lời đều đến trợ giúp, đánh đập đứa kia, chân đạp lên thân hỏi: Vì cớ gì ngươi phá hoại thành của người khác? Và đám đó nói: Ngươi phá thành người khác thì phải làm lại. Rồi cùng bảo nhau: Có thấy người này phá hoại thành của người khác không? Nếu có ai bắt chước thì trị tội như thế. Ấy nấy ở tại thành của mình mà vui đùa cười giỡn, chớ phạm đến nhau nữa.

Bài tụng rằng:

Trẻ con xây thành cát
Chạm vào đầu tan rã
Chơi giỡn mà làm nên
Cho đó là của ta.
Ai nấy tự yên trí
Là nhà, thành của mình
Mà vui chơi trong đó
Như vua ở trong cung.

Bấy giờ, lũ nhỏ vui chơi với thành cát, cho là của ta, nên giữ gìn ưa thích, chẳng ai đụng đến. Ngày đã sắp tối, chúng muốn trở về, tâm chẳng luyến tiếc, chẳng đoái hoài thành cát, dùng tay chân đạp phá bỏ đi, rồi trở về nhà.

Bài tụng rằng:

Trẻ con dồn cát để làm thành
Ở trong chơi giỡn đến hoàng hôn
Trời vừa chạng vạng không luyến tiếc
Liền bỏ thành ấy, trở về nhà.

Người tu hành nên quán thế này: Ta chưa hiểu đạo, nghĩ nó là của ta, đắm vào ân ái, giữ sắc của thân. Già bệnh dẫn đến đối mặt vô thường, bỗng tiêu diệt hết. Nay vừa bỏ sắc, tâm không còn ưa, dùng pháp trí tuệ, phân tích chia chẻ, bốn đại năm ấm, nay đã hiểu rõ sắc, thống, tưởng, hành, thức, trần của các nhập, chẳng phải là của ta. Như năm ấm này chẳng phải là sở hữu của thân; quá khứ, vị lai, hiện tại cũng vậy. Ai muốn quán xét sinh tử, dùng phép quán như thế thì có đủ khả năng đến được cửa giải thoát. Nếu người muốn cầu “không” thì làm theo như thế.

Bài tụng rằng:

Có người quen với dục
Chẳng bỏ, đắm ân ái
Mãi tự giữ lấy thân
Như phụng kính người thân.
Nếu xa lìa tình dục
Như trăng bị che khuất
Biết thân như thành cát
Chẳng nghĩ ngã của ta.

Người tu hành thấy ba cõi là không, thì chẳng còn ưa thích sinh tới đó nữa. Thế nào gọi là vô nguyện, hướng đến cửa giải thoát? Có cảnh giới dâm, nộ, si, cấu, giả sử khởi tưởng thì chế ngự không theo, đó gọi là vô nguyện, hướng đến cửa giải thoát. Người không khởi tưởng như vậy tức ra khỏi ba cửa giải thoát. Vô tướng cũng như thế. Đã hiểu rõ điều ấy thì gọi là ba cửa giải thoát. Người tu hành, vì vậy chuyên tinh, chỉ muốn hiểu “không”.

Bài tụng rằng:

Ba cõi, chẳng thấy ngã
Chỗ thấy, đều là không
Đâu thể cầu sinh lại
Hoàn toàn chẳng trở lui.
Tâm luôn luôn nghĩ đến
Vô tướng, Vô nguyện, Không
Như ở trong trận chiến
Hàng phục trừ giặc oán.
Quán năm ấm vốn không
Nương gá trong thân người
Quá khứ và vị lai
Hiện tại cũng như vậy.
Chứa nhóm thân khổ nhọc
Tất cả đều rã tan
Người sáng quán năm ấm
Giống như bọt của nước.
Đạt Vô tướng, Vô nguyện
Thấy ba cõi đều Không
Ba giải thoát an ổn
Đều vượt các khổ não.
Thấy cát tường chẳng xa
Như xem chỉ bàn tay
Thế gọi là Sa-môn
Thủy chung không có hoạn.
Tỉnh giác xem kinh pháp của Phật
Vì cầu giải thoát thường an ổn
Nghĩ sâu nói rộng chỉ vì thương
Để hành giả hiểu giảng Không nhiều.

QUYỂN 5

Phẩm 22: THẦN TÚC

Tâm trong sạch như thể dòng suối
Hòa với Tỳ-kheo như ánh sáng
Khỏi khổ, tuệ an như gió mát
Nuôi lớn giống Phật xin cúi đầu.
Ngay khi được tịch định
Như núi chẳng thể động
Quán rõ như cân đo
Trừ tội khiến hết uế.
Dùng nghĩa kinh tịch quán
Chiếu sáng khắp thế gian
Nhiếp tâm xin quy mạng
Đảnh lễ Tam Giới Tôn.

Người tu hành, hoặc trước hết đắc tịch tĩnh, rồi sau mới nhập quán, hoặc trước hết đắc quán, rồi sau mới nhập tịch tĩnh. Thực hành tịch tĩnh vừa đạt đến quán thì được giải thoát. Nếu trước hết nhập quán mà đạt đến tịch tĩnh cũng được giải thoát. Thế nào gọi là tịch tĩnh? Tâm đứng vững, chẳng động, chẳng loạn và chẳng buông thả, đó là tướng của tịch tĩnh. Suy tầm nguyên nhân của hành động, tâm quán chánh pháp, tỉnh táo xem xét việc làm để thấy được cội nguồn, dựa vào hình tướng đó gọi là quán. Ví như việc bán vàng, có người mua vàng sau khi xem vàng không nói là tốt hay xấu, đó gọi là tịch quán. Xem vàng, phân biệt, biết vàng sản xuất từ đâu, có xen lẫn bạc đồng, biết nó là thật hay giả, đá đỏ hay vàng ròng đó gọi là quán. Như người cắt cỏ, tay trái nắm cỏ, tay phải cầm liềm cắt. Chỗ tịch nhiên ấy giống như tay nắm cỏ, pháp quán ấy thì giống như cái liềm cắt cỏ.

Bài tụng rằng:

Tâm không một vết nhơ
Không động gọi là tịch
Nếu người tâm luôn tỉnh
Thế gọi là quán pháp.
Tay nắm cỏ là tịch
Liềm cắt cỏ là quán
Vì vậy nên tịch nhiên
Nhiệm mầu để giải thoát.

Người tu hành quán hài cốt con người, ở trước, ở sau như nhau không khác, mở mắt hay nhắm mắt, quán cũng như nhau, đó gọi là tịch. Tìm tòi suy nghĩ: đầu cổ khác, tay chân khác, đốt xương tách rời ra, mỗi thứ một nơi, đó gọi là quán. Xương này kết nối thân lại, dựa vào bốn đại mà lớn, nhờ các duyên ăn uống, yêu thương ngủ nghỉ, tội phước mà sống, chung quy đều là vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh, suy thoái, hoàn toàn không sở hữu, đó gọi là quán. Nói tóm lại thấy mà không quán sát thì gọi là tịch, phân biệt nguồn gốc của nó thì gọi là quán.

Bài tụng rằng:

Thấy xương cốt dính liền chẳng quán
Tâm chẳng dấy động gọi là tịch
Phân biệt đầu, tay, chân, thân thể
Khởi ý muốn xét gọi là quán.

Người tu hành bằng cách nào gọi là tinh chuyên cầu nhập tịch tĩnh? Có vô số phương tiện để đạt đến tịch tĩnh. Nay đây tóm lược để giải nói thì có hai cách để đạt đến.

1. Quán Bất tịnh.

2. Quán Sổ tức theo dõi hơi thở ra vào. Thế nào gọi là quán Bất tịnh?

Trước hết phát khởi lòng Từ, nghĩ đến tất cả, đều được an ổn. Phát tâm như vậy rồi, liền đến bãi tha ma, ngồi quán về người chết. Kể từ một ngày cho đến bảy ngày, hoặc thân thể phình trướng, màu sắc xanh đen, rữa nát hôi thối, côn trùng rúc rỉa, không còn da thịt, máu mủ nhày nhụa. Nhìn các cốt xương, gân buộc với nhau, xương trắng phô bày, thật là nhờm tởm. Hoặc thấy xương cốt qua biết bao năm tháng lâu xa, nát vụn nằm trên đất, màu như ngọc xám. Chú tâm nghĩ kỹ, bám theo chỗ diệu quán, bước đi, tới dừng, nằm đứng, kinh hành, nhớ mãi không quên. Hoặc đến chỗ thanh vắng, không có người ở, tréo chân ngồi thẳng, nghĩ về hình dạng tử thi đã thấy trong bãi tha ma, nhất tâm tư duy.

Bài tụng rằng:

Đến bãi tha ma quán bất tịnh
Và đến đó rồi quán tử thi
Ở nơi vắng vẻ, không tiếng người
Tự quán thân mình như thây kia.

Người tu hành, nên hành trì pháp quán này phải đến xem lại, rồi trở về chỗ cũ mà khởi quán vô thường, ra vào, tới, lui không hề lìa bỏ, sớm tối chẳng lười, suốt một tháng, một năm, hay hơn số ấy nữa, tinh chuyên chẳng bỏ, kinh hành, ngồi đứng, ngủ thức, dừng nghỉ, hoặc một mình. Hoặc với số đông thường chẳng lìa tâm tật bệnh hay khỏe mạnh, phải giữ ý chỉ, chẳng những chỉ dùng cái vô thường, khổ, không, chẳng phải thân này làm đề mục thiền định mà còn dùng đối tượng quán đúng thực tế, chẳng do từ hư vọng.

Bài tụng rằng:

Khi quán nếu quên nhân duyên quán
Đến bãi tha ma để nhìn lại
Chẳng phải chỉ quán vô thường, khổ
Nếu chẳng chuyển tâm quán như thấy.

Đúng như hình trạng của tử thi đã thấy ở bãi tha ma, nhất tâm tưởng nghĩ như lúc đầu chẳng bỏ quên, quán tâm mình cũng vậy. Quán hình trạng người chết và thân thể của ta như nhau, không sai khác. Nếu thấy tha nhân, hoặc nam, hoặc nữ, lớn nhỏ, đẹp đẽ, xấu xí, trần truồng, mặc y phục, trang sức anh lạc, hoặc không trang sức, nhất tâm quán sát khẳng khác tử thi: Dùng quán bất tịnh, đạt được tịch tĩnh. Bấy giờ người tu hành thường quán các thứ bất tịnh hiển bày giống như các dòng sông đều chảy về biển cả.

Bài tụng rằng:

Thân ta, tử thi, thân lớn nhỏ
Đều là bất tịnh, chẳng khác gì
Tâm luôn tinh chuyên chưa hề bỏ
Ví như các sông vào biển cả.

Người tu hành, tâm tự nghĩ: Đã được tự tại rồi thì tâm chẳng chống trái ta, chẳng còn bị mê hoặc. Tức thời hoan hỷ vì đã có thể hưởng được niềm an lạc kỳ diệu, tâm chí vững chải chẳng còn theo dục. Nếu như thấy nữ nhân cho là bộ xương, chẳng phải là bóng hình đẹp đẽ, quán biết chắc thật cái dục tạp nhiễm căn bản kia chỉ là ô uế tội lỗi, xa lìa tình sắc, chẳng tạo các ác, đó là bậc Thiền thứ nhất, vứt bỏ năm cái, đầy đủ năm đức, lìa các suy tưởng, xa các pháp dục bất thiện, tâm chuyên nghĩ tưởng tịch tĩnh một cách kiên quyết để vui vẻ, an ổn thực hành bậc Thiền thứ nhất. Đó gọi là pháp tịch nhiên. Cầu mà được như vậy là do quán bất tịnh.

Bài tụng rằng:

Chí tự tại như cung
Tâm niệm dẫn dắt nhau
Quán da xương nữ nhân
Kiềm ý chẳng theo dục.
Lìa tội, tâm thanh tịnh
Thân thoát khỏi các ác
Ở đời được tự tại
Hoan hỷ được thiền định.

Bậc Thiền thứ nhất ấy còn tiếp tục vượt qua các lậu, vì lậu chưa hết. Hành giả trụ Thiền thứ nhất như thế nên còn là phàm phu. Là đệ tử của Phật nên đứng ngoài loại thiền ấy. Chưa hết lậu thì nên nhập thất. Như Tiên nhân vĩnh viễn xa lìa dục, trước sau không gián đoạn. Chẳng phải đệ tử Phật còn tu hành như vậy để cầu bậc Thiền thứ nhất, cũng rất khó đạt. Còn ba bậc thiền nữa chỉ xê xích chút ít với bậc thiền trước. Ví như học bắn, đứng xa đích lớn, tập lâu mới trúng, tập mãi không dừng nghỉ, thành xạ thủ bắn chẻ sợi lông. Ban đầu học về bậc Thiền thứ nhất, tinh cần cho đến đạt được, thì ba bậc thiền còn lại học rất dễ.

Bài tụng rằng:

Học bậc Thiền thứ nhất
Tinh cần rất khó đạt
Ba bậc thiền còn lại
Thì đạt cũng dễ thôi.
Ví như học cách bắn
Mới đầu rất khó trúng
Đã trúng được đích lớn
Nhắm ắt bắn chẻ lông.
Nếu đạt tịch nhiên đệ nhất thiền
Chỉ là phàm phu, nên răn trách
Ngoài cảnh, chẳng phải đệ tử Phật
Đã lìa ái dục, giống Tiên nhân.

Người tu hành đã đạt được tự tại, thành tựu bốn Thiền rồi, muốn chứng đắc thần túc thì quán xét tất cả là không, xét từng bộ phận, mắt, tai, mũi, lưỡi, miệng, đầu, cổ, hông, xương sống, tay, chân, ngực, bụng và các lỗ chân lông giống như hư không. Khởi quán như vậy rồi tự thấy thân mình, từng bộ phận liên kết như gốc hoa sen, giống các lỗ của củ, quán như hư không. Sau đó, thấy thân giống như cái đẫy da; dần dần quán sát như thế, liền xa lìa tướng về hình thể, chỉ còn tưởng không. Đã đắc tưởng không rồi, lại không còn tưởng về sắc, hoặc tu tập tưởng không liên tục thì thấy thân thể không phải là đối tượng để tham đắm. Muốn thấy thân thì tự thấy, muốn chẳng thấy thì cũng chẳng thấy. Muốn thấy hư không thì thấy, muốn chẳng thấy thì cũng chẳng thấy. Thân tâm như nhau, ý ở bên trong như sữa hòa với nước, tâm chẳng lìa thân, thân chẳng lìa tâm. Giữ vững ý chí dùng tâm cử thân, khiến rời khỏi chỗ ngồi, chuyên tâm nơi không, như người cầm cân để cân sắt... cân đúng phân lạng. Sau khi cân ngang bằng rồi, tay giơ lên treo cân. Tu hành cũng thế, tự nâng thân lên, chuyên tâm niệm không.

Bài tụng rằng:

Có người tu hành đắc
Thần túc bay lên trời
Quán xương đốt của thân
Lỗ chân lông đều không.
Lìa bỏ chẳng nghĩ ta
Chuyên ưa niệm tưởng không
Như cân lớn cân vật
Cử thân cũng như vậy.

Người tu hành tập làm như vậy sẽ được thành tựu. Lúc đầu mới cử thân cách đất bằng con rận con, rồi chuyển tăng như hạt mè. Dần dần bằng hạt đậu lớn, rồi lại bằng cây táo. Tập cử thân như thế cho đến Phạm thiên, rồi đến cung của chư Thiên cõi Tịnh cư, xuyên suốt núi Tu-di, không có gì ngăn cản. Vào đất không nứt, ra khỏi đất không có lỗ, dạo chơi trong hư không, ngồi nằm, đi đứng, phần trên thân phóng lửa, phần dưới thân phun nước; phần trên thân phun nước, phần dưới thân phun lửa; từ các lỗ chân lông phóng ra biết bao nhiêu luồng ánh sáng, tỏa chiếu năm màu như mặt trời chiếu sáng; có thể biến một thân thành vô số, biến làm trâu, ngựa, rồng, voi, lừa, la, lạc đà, hổ lang, sư tử... không có loại nào mà chẳng hiện được. Trong khoảng khởi ý dạo khắp cõi Phật và trở về. Cảnh giới thần túc ấy biến hóa thông đạt, thần túc ấy do bốn loại thiền đạt được, mà bốn loại thiền đó do quán bất tịnh, sổ tức đạt được. Vì vậy người tu hành nên quán niệm Bất tịnh và Sổ tức.

Bài tụng rằng:

Do học tập cử nhẹ
Như gió không vướng mắc
Thân vọt lên Phạm thiên
Xem khắp cung chư Thiên.
Phi hành trong hư không
Như mây không bị cản
Vào đất như vào nước
Trên không như dưới đất.
Từ thân tự phát lửa
Giống như ánh mặt trời
Dưới thân phun ra nước
Như đêm tỏa sương mù.
Tinh chuyên đắc thần túc
Tự tại không trở ngại
Muốn tiếp xúc Phạm thiên
Tự do, huống gì khác.
Muốn đến phương cõi khác
Khinh thân liền đến được
Vứt ném kim cang nhanh
Đến về cũng như vậy.
Tự tại như biến hóa
Hiện được vô số hình
Như ưa thích trò huyễn
Ưa thần túc cũng vậy.
Dạo khắp ao cam lồ kinh Phật
Cũng như voi lớn và suối hoa
Tóm nói ý nghĩa đúng lời dạy
Nên ca ngợi thần túc như vậy.

Phẩm 23: SỔ TỨC

Oai thần chói lọi như mặt trời
Đức sáng rực rỡ hơn Thiên đế
Sắc diện đẹp đẽ như trăng đầy
Phá tan bóng tối, trừ cấu bẩn.
Miệng nói lời pháp, như cam lồ
Phát lời êm dịu, khen mười thiện
Dốc hết lòng tin quy Thế Tôn
Xin đảnh lễ Phật, Đấng Cao Tột.
Xem chọn các kinh như vào biển
Chọn được Thiền định không rơi rớt
Mới dám xưng là đệ tử Phật
Vì vậy đảnh lễ Đấng Tối Thắng.

Người tu hành tự nghĩ: Thế nào gọi là đạt đến bậc Thiền thứ nhất vô lậu? Thế nào gọi là đệ tử của Thế Tôn?

Nếu người tu hành ở tại bậc thiền còn bị thoái đọa thì thường khởi ý nghĩ: Ta đắc bậc Thiền thứ nhất nên còn bị thoái đọa. Vì còn bị thoái đọa nên thực hành bậc thứ nhất được sinh làm Phạm thiên. Ở đó phước mỏng, khi thọ mạng hết thì sẽ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh và tại nhân gian. Nghĩ rằng hạng người này, tuy ở cõi Phạm nhưng xét kỹ, dù là Tỳ-kheo nhưng chẳng thoát khỏi loại phàm phu, cõi ác. Vì sao? Vì chưa giải thoát.

Bài tụng rằng:

Giả sử mới học được lậu thiền
Người tu ấy lọt như lổ thủng
Tuy sinh Phạm thiên rồi đọa lại
Mưa trên áo tơ biến đổi màu.

Ví như nhà vua có một vị đại thần phạm trọng tội, ra lệnh: Trước hết tra khảo, chịu đủ năm loại cực hình, sau đó mới trói lại bỏ vào ngục, cho mặc áo rách, cho ăn cơm thô, rơm cỏ làm giường không cho người nhà vào thăm, nhốt tại phòng gần nhà xí, nơi xú uế. Thuộc hạ nhận lệnh rồi, liền theo lời vua, tra khảo như pháp. Ngày trước, người này có chút công giúp vua, nên vua nghĩ đến và sai bảo quan cai ngục thả người ấy được tự do bốn tháng, vui chơi thoải mái, cùng với bà con an ủi chúc tụng. Xong bốn tháng rồi trở vào trong ngục.

Bài tụng rằng:

Như có bầy tôi phạm phép vua
Vua nghĩ ân xưa, cho ra ngục
Tự do vui chơi theo ý muốn
Rồi sau nhốt lại vào trong ngục.

Quan coi ngục nhận lệnh, làm như lệnh vua bảo. Người ấy được thả ra, tắm rửa, phục sắc cùng các tùy tùng ra đi du ngoạn, tự do hưởng năm dục. Tuy cùng hưởng dục lạc nhưng lòng lại lo nghĩ:

Nay cùng tùy tùng tự do hưởng năm dục lạc, nhưng tại sao thả rồi lại bắt vào ngục? Ba thời than thở: Lại sẽ bị khảo tra, mặc áo rách, ăn cơm thô, nằm rơm cỏ, cùng ở một chỗ với bọn tiểu nhân, có gì đau đớn bằng. Còn sẽ bị bọ chét, rận rệp, ruồi nhặng, muỗi mòng chích đốt, ở trong ấy thật ghê tởm. Mùa hạ thì quá nóng, mùa đông thì quá lạnh, chuột ban đêm kêu chạy trong bóng tối từng đàn, đồ dơ bẩn bất tịnh, máu chảy tràn lan mặt đất, đầu tóc rối bù, khảo tra đủ thứ. Hoặc có kẻ bị xẻo tai, cắt mũi; hoặc bị chặt đứt tay chân, ô uế bất tịnh, giống như là ở bãi tha ma, khổ đau không kể xiết, sẽ cùng với bọn tội lỗi này ở một chỗ.

Bài tụng rằng:

Quan ấy lo nghĩ sau bốn tháng
Cùng bà con thân ái vui chơi
Sẽ trở lại ngục bị tra khảo
Gặp nguy, đau khổ chẳng thể lường.

Lại sẽ chứng kiến các tội nhân bị cột nhốt. Chúng phạm tội ác, làm các việc trái đạo như dâm đãng, trộm cắp, cướp đoạt con cái người, thiêu đốt nhà người và nhà chứa ngũ cốc; dùng độc hại người, ưa khinh mạn; hoặc giết nam nữ, mổ giết trâu bò; cướp phá các làng xóm, huyện ấp, thành quách, nghĩ điều hại nước. Lại sẽ chứng kiến năm loại cực hình, đánh đập bàn tay, bàn chân, tai, mũi bê bết máu; hoặc thấy chém vào đầu, vết thương lở loét, mủ máu rịn ra; hoặc bị đánh nặng, thân thể sưng phù, vô số ruồi nhặng bu bám nơi thân, nằm ở trên đất giống như con heo; hoặc người mới vào ngục mặt, mắt, tay chân đều bị lở lói, phù thủng bong lên như bị phỏng, sầu khổ không kể xiết, đứng yên chẳng dám động, hoặc gầy ốm như bộ xương đứng, nhan sắc xấu xí giống như quỷ đói; hoặc ở lâu trong ngục vì hơi phù thủng, đầu rối móng dài; hoặc có người trong đó hằng ngày trông mong ra khỏi; hoặc có kẻ tự nghĩ: Ta ở trong ngục, không có kỳ hạn ra khỏi nên chẳng áy náy. Những kẻ mới vào, chứng kiến cảnh thắt cổ chết, hoặc khảo tra, hoặc đâm chém, hoặc miệng nhận tội, hoặc dùng dây trói thân, hoặc cùng người chết nằm chung giường chiếu, hoặc dẫn ra nằm trên cầu xí. Nếu thực hiện con đường tu hành thì hoàn toàn chẳng bị khảo tra.

Bài tụng rằng:

Người ác thật quá nhiều
Tội lỗi thật đáng ghét
Cùng ở với người ngu
Giống như ở với heo.
Khóc than rơi nước mắt
Khổ như quỷ cùng nhà
Đại thần ấy sầu lo
Sao chịu vào lại ngục?

Những tội nhân này ở trong ngục hình, ai cũng bàn luận về việc vua chúa, đạo tặc hoặc nói về gạo thóc, ăn uống, hoa hương, kỹ nhạc, nam nữ hoặc nói chuyện lên núi, xuống biển xa xưa. Hoặc nói chuyện đánh nhau của nước khác. Hoặc ta thán về việc làm đã qua của vua. Hoặc nói vua ác, trị nước không đúng chính sách, nếu giặc đến công phá thì sẽ mất nước. Hoặc nói vua băng hà sẽ có tân vương lên thay, rồi ban lệnh đại xá, hay là hoàng hậu mang thai đến ngày sinh nở thì tù nhân được phóng thích. Hoặc trong thành phát lửa, nhiều chỗ bị thiêu cháy, cửa ngục được mở, chúng ta thoát ra. Hoặc họ cùng bàn luận: Nếu thấy điềm lạ như có chim thứu đến kêu, đậu trên cổng ngục, hay đậu trên cửa ngục kêu lên, mộng thấy lên nhà trên, hoặc lên núi cao, lại vào long cung, rơi vào ao sen, đi thuyền qua biển, thì tự biết là chẳng bao lâu sẽ thoát được cảnh khổ.

Bài tụng rằng:

Các người phạm pháp vua
Bàn luận, tự khích lệ
Tụ họp, tâm hoan hỷ
Hy vọng được giải thoát.
Như bầy trâu sụp hầm
Rơi giếng hiểm như thế
Khi đại thần nghĩ vậy
Người vô phước rất lo.

Khi đại thần suy nghĩ: Ta nên làm thế nào để nghe lại lời bàn luận của bọn đạo tặc ấy, thì có kẻ bảo nhau: “Nếu quan coi ngục có hỏi thì sẽ trả lời thế này: Dùng cực hình khảo tra thì chẳng qua khỏi mười bốn ngày thân thể đã quen, chẳng còn đau đớn. Giả sử đem thân xẻ ra từng khúc, thì dù dao để trên đỉnh đầu cũng chẳng thốt ra lời dối trá là tôi phạm tội này. Chớ nói cái gian nhà nơi tàng giấu của ở chỗ nào. Chớ dẫn chỉ người nào là đồng đảng, hoặc có dụ hỏi thì đừng tin. Ngục tốt khủng bố thì các ngươi phải thận trọng không khuất phục.

Nếu bị khảo tra cũng không được sợ hãi.”

Bài tụng rằng:

Lần lượt khuyến khích nhau
Bảo nhau cách từ chối
Suy nghĩ đáp thế nào
Khi quan ngục hỏi đến.
Đại thần và quyến thuộc
Lại nghĩ khổ trong ngục
Đã quen với năm dục
Nên lòng ôm sầu não.

Tù nhân bảo nhau: Các ngươi không thấy người ta bỏ cha mẹ, anh em, thân thuộc, chẳng tiếc thân mạng, xa lìa quê hương, băng trên gai gốc, tre cây, rừng rậm, núi đồi hoang vu hiểm trở, chẳng đoái hoài đến thân, vào biển tìm cầu của cải. Chúng ta chẳng trải qua gian khổ mà đạt được vật báu. Vì vậy nên phải chịu đựng khảo đánh, để khỏi mất của cải, lọt vào tay người.

Bài tụng rằng:

Giặc cướp của người khác
Của chẳng phải tự có
Nghĩ vậy, chẳng tiếc thân
Mất của lại gặp nguy.

Đại thần ấy tự nghĩ, sao ta chịu chứng kiến ngục tốt đứng trước kêu gọi người rồi nói: Ta và chức nữ tam tinh là chỗ thâm giao, đời trước trực thuộc vua địa ngục, sinh vào lúc nửa đêm ngày hai mươi chín. Các ngươi chẳng nghe khi ta mới vừa tới ngục, đất nước có các họa hoạn, nhiễu động bất an, phát sinh nhiều điều quái lạ sao? Không có tiếng núi lở mà đất bị chấn động, bốn phương trông thấy đỏ rực, rồi bỗng dưng tối sầm. Chim điêu thứu, quạ, thước, chồn, sói, thú hoang, chim chí, chim kiêu sinh ở bãi tha ma, ăn thịt người, quỷ thần, yêu quái, tu hú, quỷ cây nêu, quỷ chuồng xí, nữ thần phản túc đều vui mừng: “Ngục tốt này được sinh ra chính là cho chúng ta. Nếu khi lớn lên hại nhiều người vất tại bãi tha ma, chúng ta sẽ có được máu thịt và mỡ, tủy não của người chết để làm thức ăn. Vì vậy nên chúng ta phải bảo hộ người ấy để thọ mạng được lâu dài.” Khi mới sinh ra, ta vì có sự cứu hộ ấy nên chẳng sợ ai.

Bài tụng rằng:

Không có xót thương, nói bạo ác
Người ấy vô cớ ôm oán kết
Nghĩ lời ngục tốt, quan buồn rầu
Tuy thích vui chơi nhưng lo sầu.

Ngục tốt nói: Ta có đôi tay thuận tiện, không có gì là chẳng nắm bắt được, không có gì sánh bằng, đâu có gì hơn nổi? Trước sau ta dùng đôi tay thuận tiện này giết vô số người. Lại cắt tay, chân, tai, mũi và đầu, dùng tay móc mắt khỏi dùng đao nhọn, bắt tù nhân đứng thẳng nhấc lên đánh thọt lét, cọ xát vào bờ nhám, cột đầu dùng kẹp tre kẹp ở giường, dùng năm cực hình trị tội, cột vải trên ngón tay, tẩm dầu dùng lửa đốt; chế mỡ trên tóc, chích lửa đốt; bó cỏ khô trên thân dùng lửa đốt; cắt thân thể nát như thịt vằm để lấy lời khai; cạy miệng, cắt môi, lóc da mặt miệng nhai ngón tay như nhai rau. Nếu đánh người bằng roi thì dùng gậy trúc, roi da. Ngục tốt ưa thích dùng kim đâm vào ngón tay; dùng dây cột ngang bụng, treo đầu trên ngọn cây.

Bài tụng rằng:

Đại thần chẳng vui sợ về ngục
Khảo tra như vậy rất đáng sợ
Ngục tốt luôn đến nói tội hình
Có nỗi lo này chẳng được yên.

Ngục tốt lại nói, ta không ghét, yêu; chẳng ưa dạo xem, nghe tiếng ca hát. Nếu có tử tội, đã niêm yết, đánh trống, binh lính vây quanh dẫn đến đô thị, thì ta phải chặt đầu. Tuy có tướng cầm đầu quân trận dũng mãnh, bậc giàu sang cao cả, nhưng cũng sợ bàn tay thuận lợi như bóp nát ngà voi của ta; bọn nghịch tặc cang cường, kẻ thiện nhân khinh mạn, ta đều treo cổ; cha mẹ, anh em, thân thuộc khóc lóc van xin một tí thôi, ta cũng chẳng nghe. Lại cha, con kêu la nhảy dựng như là hổ kêu, thì ta vặn họng khiến không có tiếng.

Bài tụng rằng:

Đại thần, bà con cùng vui chơi
Nghĩ đến ngục tốt nói ngục hình
Ví như người đang uống rượu ngon
Có kẻ say sưa giỡn ồn ào.

Ngục tốt lại nói: “Ta có hơi độc; hơi độc trong mắt phát ra, hễ mở mắt nhìn người thì ngực bị xé ra, đầu bể ra giống như rạch nước. Nam, nữ thấy ta không ai mà chẳng sợ, tuy có hình người nhưng làm hạnh của quỷ mị.” Ở nơi cửa ngục, nói như vậy rồi, liền bỏ đi, thì vừa lúc họa hoạn đau khổ ập đến. Tuy ở tại cung điện, tự vui với năm dục, nhưng đâu có cho là vui.

Bài tụng rằng:

Có nỗi khổ như vậy
Do tội lỗi bất tịnh
Ai cho là vui thích
An ổn không lo buồn?
Như tù nhân đến chết
Tìm hoa đội trên đầu
Do vua được tạm tha
Sẽ trở lại thọ hình.

Người tu hành tự suy nghĩ: Dù Phạm thiên cũng sẽ trở lại cõi ác; ở trong bào thai nằm trên thục tạng, dưới sinh tạng, dơ bẩn bất tịnh, năm hệ buộc ràng.

Bài tụng rằng:

Tu hành đắc Thiền lậu
Được vậy nửa vời thôi
Sinh tại cõi trời Phạm
Chẳng thể mãi an ổn.
Trong tâm nghĩ như vậy
Mạng dứt rơi cõi ác
Như người tạm ra ngục
Hạn hết lại bị khảo.

Ví như đứa bé bắt được một con chim sẻ, nắm giữ sinh phiền bực, mới dùng sợi dây cột chân mà thả bay đi. Chim cho là đã được thoát chẳng gặp nguy hiểm nữa, muốn bay đến cây có quả, ao nước mát mẻ để ăn uống tự do, an ổn, không lo, nhưng sợi dây đã hết mức, lôi nó trở lại, tiếp tục bị bắt, buồn rầu như xưa không khác. Người tu hành cũng vậy, tự suy nghĩ: Tuy đến Phạm thiên cũng sẽ trở lại Dục giới, chịu khổ như thế.

Bài tụng rằng:

Ví như có chim bị cột chân
Vừa bay, hết dây, kéo trở lại
Tu hành cũng thế, lên cõi Phạm
Trở lại cõi Dục, chẳng lìa khổ.

Người tu hành tự nghĩ: Thân ta nếu đắc Thiền vô lậu thì bấy giờ mới thoát chốn khổ đau sợ hãi, xứng danh Phật tử, chẳng bị sự ăn uống làm mê vọng, để thoát khỏi do dự, đối với chánh đạo, đạt bậc Thiền thứ nhất, phải trải qua, nương tựa và thâm nhập chánh kiến.

Bài tụng rằng:

Để đắc Đệ nhất thiền
Hạnh vô cấu thênh thang
Như trước sau khó thoát
Tinh tấn đạt dễ dàng.

Người tu hành tự nghĩ: Quán chiếu các việc thiện, ác cho đến bậc Thiền thứ nhất, vốn do bộ xương này mà đạt được thôi. Hình hài vô thường, khổ, không, vô ngã ấy do bốn đại hình thành.

Bài tụng rằng:

Bậc Thiền thứ nhất do thân đạt
Do bốn đại thành, nhất tâm hành
Vô thường, khổ, không, thoát chấp ngã
Quán chiếu như vậy, thường tinh tấn.

Cái tâm vận dụng tư duy quán sát của người tu hành vốn cũng lại là vô thường, khổ, không, vô ngã, do bốn đại tạo thành, đều từ nhân duyên chuyển biến dắt dẫn nhau rồi do tâm tưởng họa phúc nương gá vào hình hài trở về vô thường, khổ, không, vô ngã, do bốn đại hợp thành. Như ta nhận chịu cái thân năm ấm này là rỗng không, không sở hữu; do mười hai nhân duyên nối kết quá khứ, vị lai, hiện tại, cũng giống như vậy. Tưởng các ấm của Dục giới, ấm của Sắc giới, ấm của Vô sắc giới giống như thế đều là mong manh. Thấy ba cõi là rỗng không, gốc rễ của nó sâu xa, và là tà chớ không chánh, làm chấn động, đốt thiêu, và thấy cái không nơi ấm cũng đều là tịch tĩnh, chí chăm chăm hướng đến vô vi, không có niệm nào khác, y vào Nê-hoàn. Bấy giờ, tâm thành nhuần nhuyễn chẳng trái sự tu hành; khi ấy dùng cái thấy để thẩm xét về đế lý, mới thành Ana-hàm, chẳng còn trở lại nữa, hoàn toàn giải thoát cái khổ của Dục giới.

Bài tụng rằng:

Tâm tư duy kia đều nhuần nhuyễn
Ý chí nương tựa vào thân ấy
Hiểu rõ năm ấm cả ba đời
Đều thấy rỗng không, gọi Thánh hiền.

Người tu hành tự nghĩ: Thân ta mãi bị năm ấm ngăn che, là nơi xú uế bất tịnh, đã bị đánh lừa. Ví như đám côn đồ hung nghịch lấy cái bình đẹp đựng đầy đồ bất tịnh, rồi dán miệng lại, dùng hoa rải trên xe, dùng hương xông vào, đem cho người nhà quê và nói: “Ngươi cầm bình này đến nơi công viên nọ, đứng đợi bọn ta. Trong bình đựng đầy rượu và đường rất ngon. Bọn ta trở về nhà làm xong công việc rồi cùng tới đó ăn uống. Giữ kỹ chớ để mất, sẽ nghĩ đến công lao của ngươi.

Người nhà quê tin lời vui vẻ ôm bình, tâm tự nghĩ: Nay sẽ được tự do ăn uống vui chơi. Khi đến công viên ấy rồi, chẳng cho ruồi bu đậu trên ấy, đợi mãi cho đến quá trưa, bụng lại đói khát mà bọn ấy không đến, lo rầu than thở. Ngày đã về chiều, leo lên cây nhìn bốn phía, chẳng thấy ai đến, tuột xuống lại đợi bọn họ cho đến hoàng hôn, tâm tự nghĩ: “Quá giờ đóng cửa thành rồi mà bọn họ vẫn chưa đến, nay bình đường và rượu ngon đã thuộc về ta, ta sẽ đem bán nó có thể trở nên giàu có. Trước tiên nên thưởng thức xem sao.” Liền rửa tay sạch sẽ, mở bình ra thì thấy trong bình chứa đầy đồ bất tịnh, bấy giờ mới biết bọn côn đồ kia đã lừa dối mình.

Người tu hành cũng vậy, khi đã thấy Thánh đế rồi thì biết từ lâu xa đến nay đã bị năm ấm lừa dối.

Bài tụng rằng:

Thọ thân trước khi chết
Năm ấm đã dối lừa
Lại thường trải khổ, vui
Gọi thọ mạng ta người.
Năm dục lừa người tu
Về sau mới tự thấy
Như người được bình đẹp
Mở ra biết bất tịnh.

Ví như vị đạo sư có nhiều của báu cưới cho con một người vợ đoan trang, đẹp đẽ không chê vào đâu, người con rất thương yêu, chẳng làm phật ý, xa nhau trong khoảnh khắc coi như đã chết.

Bấy giờ trong nước, giao thông bị cắt đứt tới mười hai năm, không có người đến. Về sau, người khách buôn từ phương xa tới, dừng chân tại nước láng giềng, nghỉ ngơi chưa đi tiếp. Vị Đạo sư nói với con:

–Con đi đến đó mua sắm rồi trở về.

Người con nghe bảo, lo rầu chẳng vui, như mũi tên bắn vào tim, nói với bạn bè:

–Các ngươi không biết ta thương vợ lắm sao. Nay cha ta bảo ta lìa bỏ nàng mà đi buôn bán. Vừa nghe lệnh ấy lòng ta tan nát, nay ta sẽ phải chết thôi, tự nhảy xuống nước, hay là từ trên núi cao rơi xuống hang sâu.

Bài tụng rằng:

Tuổi trẻ thương yêu vợ
Ái dục rất mạnh mẽ
Nghĩ đến lời cha dặn
Trí những mãi lo sầu.
Lòng buồn rầu muốn chết
Cớ sao lìa vợ yêu
Đứa con rất đau buồn
Như voi núi bị cột.

Bạn bè nghe vậy liền đáp:

–Sở dĩ sinh con là để coi trông coi gia môn, đi bốn phương tìm của về để cung cấp cho cha mẹ. Giả sử không lao động thì lấy gì sinh sống? Dù ở trên trời còn chẳng an nhàn huống gì ở chốn nhân gian.

Đã nghe lệnh của cha và được bè bạn khuyên can, người con xót xa rơi lệ, hai tay đấm ngực chuẩn bị ra đi.

Bài tụng rằng:

Bạn bè, trí thức cùng khuyên can
Nghe lời cha dạy mới lên đàng
Cảm thương vì dục như tên trúng
Lòng thương nhớ vợ thật mênh mang.

Lòng luôn tưởng nhớ vợ chưa từng gián đoạn, đi đến nơi ấy mua sắm rồi liền trở về nước. Trên đường về, vui mừng nghĩ: “Như thế là chẳng bao lâu nữa ta sẽ gặp nàng.” Sớm tối nghĩ nhớ vợ vừa về tới nhà đã hỏi vợ ở đâu.

Bài tụng rằng:

Mua sắm xong xuôi lại trở về
Luôn luôn tưởng nhớ vị hiền thê
Khi về tới cửa thăm hỏi trước
Vợ đâu, cho biết ta đã về.

Người vợ ấy nghĩ nhớ chồng lòng buồn sầu muộn. Do đời trước phước mỏng nên vừa bị lâm bệnh, tuy mạng sống vẫn còn mà thân thể đã sinh bao thứ ghẻ lở, máu mủ ràn rụa, bị bệnh hàn nhiệt, lại bị chứng điên, nước trong bụng khô kiệt, hơi bốc lên, thân thể nóng bức, mặt tay chân phù thủng, vô số ruồi nhặng bu khắp thân, đầu tóc. Ốm như ngạ quỷ, nằm trên đệm cỏ y phục rách nát.

Bài tụng rằng:

Chồng nàng hết mực thương yêu
Kiếp xưa phước mỏng nên nhiều tai ương
Bị vô số bệnh liệt giường
Bỏ rơi tòa đẹp lại nương đất nằm.

Khi ấy, người chồng vào nhà hỏi gia nhân:

–Vợ ta đâu rồi?

Nô tỳ e ngại, rơi lệ khóc lóc thảm thiết, thưa:

–Dạ vợ của hiền lang ở trên gác kia.

Người chồng tự lên gác tìm, thấy vậy biến sắc vì chưa từng gặp một dung mạo như thế. Xấu xí chẳng dám nhìn. Bao nhiêu ý niệm yêu thương, ân tình, vĩnh viễn tan biến hết, không còn mảy may ưa thích, nhàm chán tất cả, chẳng muốn thấy nữa.

Bài tụng rằng:

Quán sát nhan sắc chẳng ham thích
Giống như thây chết ở tha ma
Ốm như bộ xương không da thịt
Như cát chìm nước mất dạng tăm.

Người tu hành cũng giống như vậy, nhàm chán ái dục, khởi quán bất tịnh cầu đạt tịch tĩnh.

Bài tụng rằng:

Là người tu hành đã lìa dục
Nhàm chán năm dục cũng như vậy
Như người thấy vợ bị ghẻ lở
Lại thêm nhiều bệnh nằm liệt giường.

Thế nào là tu hành quán Sổ tức giữ tâm ý để cầu tịch tĩnh?

Nay sẽ giảng nói phương pháp sổ tức. Thế nào là sổ tức? Thế nào là An? Thế nào là Ban?

Hơi thở ra là An; hơi thở vào là Ban. Theo dõi hơi thở ra vào không nghĩ một điều gì khác, thì gọi đó là đếm hơi thở ra vào. Thế nào gọi là tu hành đếm hơi thở, để giữ ý, đạt tịch tĩnh? Đếm hơi thở để giữ ý, có bốn việc. Thực hiện hai điều không lỗi và mười sáu điều đặc thù.

Bài tụng rằng:

Người tu hành muốn cầu tịch tĩnh
Nên biết hơi thở ra và vào
Không có hai lỗi hiểu bốn việc
Phải có mười sáu điều đặc thù.

Những gì là bốn việc?

1. Sổ tức.

2. Tương tùy.

3. Chỉ quán.

4. Hoàn tịnh.

Bài tụng rằng:

Nên dùng Sổ tức và Tương tùy
Quán sát vạn vật trong thế gian
Thực hành Hoàn, Tịnh để chế tâm
Dùng bốn việc này mà định ý.

Những gì là hai lỗi? Hơi thở quá dài hoặc quá ngắn, đó là hai lỗi, phải loại trừ hai lỗi ấy.

Bài tụng rằng:

Hơi thở dù ngắn dài
Lộn xộn không thứ lớp
Để An ban-Thủ ý
Loại trừ hai lỗi ấy.

Mười sáu điều đặc thù là những gì? Hơi thở dài thì biết, hơi thở ngắn cũng biết, hơi thở làm động thân thì biết, hơi thở êm dịu liền biết, gặp vui thì biết, được an lạc liền biết, tâm hướng đến đâu thì liền biết, tâm nhu thuận thì biết, điều phục tâm thì biết, tâm hoan hỷ thì biết, tâm chế phục liền biết, tâm giải thoát liền biết, thấy vô thường thì biết, vô dục thì biết, quán tịch tĩnh liền biết, thấy đường hướng về đạo liền biết. Đó là mười sáu điều đặc biệt thù thắng của Sổ tức.

Bài tụng rằng:

Riêng biết hơi thở dài hay ngắn
Khi rõ hơi thở làm động thân
Điều hòa ra vào thân được định
Vui mừng như vậy được an lạc.
Biết an ổn là sáu
Chí hành đó là bảy
Để khiến tâm tâm nhu hòa
Thân hành kể là tám.
Đã biết rõ tâm ý
Nhân đó được hoan hỷ
Chế phục tâm được định
Tự tại khiến thuận hành.
Vô thường các dục diệt
Nên quán ba việc ấy
Và biết chỗ hướng đến
Là mười sáu đặc, thắng.
Thế nào gọi là Sổ tức?

Nếu người tu hành ngồi nơi vắng vẻ không có người, giữ chí không loạn động đếm hơi thở ra vào cho đến mười. Bắt đầu từ một đến hai, nếu tâm loạn động thì đếm lại một, hai cho đến chín, nếu tâm còn loạn động thì phải đếm lại, đó gọi là sổ tức. Cứ như thế, hành giả ngày đêm tập hơi thở một tháng, hoặc một năm, cho đến khi được mười hơi thở mà tâm không loạn động.

Bài tụng rằng:

Tự tại bất động giống như núi
Đếm thở ra vào cho được mười
Ngày, đêm, tháng, năm chẳng dừng nghỉ
Tu hành như vậy giữ hơi thở.

Sổ tức đã định thì nên hành Tương tùy. Ví như có người đi trước, có cái bóng đi theo, tu hành cũng vậy, theo dõi hơi thở ra vào, không có một niệm nào khác.

Bài tụng rằng:

Sổ tức tâm tịch được tự tại
Đếm hơi ra vào là tu hành
Tâm mà theo dõi không loạn động
Sổ tức chế tâm gọi Tương tùy.

Người tu hành đã được Tương tùy rồi thì bấy giờ nên quán. Như người chăn trâu đứng bên trâu trông coi nó ăn. Như vậy là hành giả từ khi bắt đầu đếm hơi thở, theo dõi hơi thở chậm, nhanh mà quán sát, xem hơi thở đến đâu, biết giới hạn hơi thở ra vào, đó là hơi thở dài. Đếm hơi thở ngắn cũng giống như vậy.

Bài tụng rằng:

Hơi thở dài thì biết
Thở lại cũng như thế
Nếu theo dõi như vậy
Biết hơi thở dài ngắn.

Thế nào là đếm hơi thở mà động thân thì biết? Quán hết các hơi thở nặng nhọc ở trong thân, hơi thở vào ra cũng như vậy.

Thế nào là đếm hơi thở làm thân thoải mái liền biết? Khi vừa khởi hơi thở, nếu thân lười mệt và buồn ngủ, thân thể nặng nề thì trừ bỏ đi, nhất tâm đếm hơi thở, đếm hơi thở trở vào cũng như thế.

Thế nào là đếm hơi thở được vui liền biết? Là khi mới đếm hơi thở mà có sự hoan hỷ. Hơi thở vào cũng vậy.

Thế nào là đếm hơi thở được an lạc liền biết? Khi bắt đầu quán hơi thở thì được an ổn; hơi thở vào cũng vậy.

Thế nào là đếm hơi thở mà tâm hướng về đâu liền biết? Khởi đếm hơi thở, theo dõi quán chiếu các hiện tượng; hơi thở vào cũng vậy.

Thế nào là đếm hơi thở, tâm nhu thuận liền biết? Mới bắt đầu đếm hơi thở, các niệm tưởng phân biệt thuận theo hơi thở; hơi thở vào cũng vậy. Thế nào là đếm hơi thở mà điều phục tâm liền biết? Lúc mới phát khởi hơi thở, thức tưởng biết các quán mà đếm hơi thở; hơi thở vào cũng vậy.

Thế nào là đếm hơi thở mà tâm vui mừng liền biết? Khi mới bắt đầu đếm hơi thở, nếu tâm chẳng vui thì khuyến khích khiến vui để thuận với hơi thở ra; hơi thở vào cũng vậy.

Thế nào là tâm chế phục, hơi thở ra liền biết? Nếu tâm chẳng định cưỡng chế khiến tịch lặng để đếm hơi thở; hơi thở vào cũng vậy.

Thế nào là đếm hơi thở tâm giải thoát liền biết? Nếu điều khiển hơi thở ra mà ý chẳng thật cởi mở thì chế phục khiến vượt qua, rồi đếm hơi thở ra, hơi thở vào cũng vậy.

Thế nào là đếm hơi thở thấy vô thường liền biết? Thấy các hơi thở nặng nề đều là vô thường, đó là hơi thở ra, hơi thở vào cũng vậy.

Thế nào là đếm hơi thở ra thấy vô dục liền biết? Thấy sự khởi diệt của hơi thở, như vậy là lìa dục, đó là quán hơi thở ra lìa dục liền biết, hơi thở vào cũng vậy.

Thế nào là đếm hơi thở, quán tịch tĩnh liền biết? Khi hơi thở phát ra quán thấy diệt tận, đó lá quán tịch diệt nơi hơi thở liền biết, hơi thở vào cũng vậy.

Thế nào là đếm hơi thở hướng về đạo liền tự biết? Thấy hơi thở ra tịch diệt. Thấy như vậy rồi về sau tâm liền lìa mọi khách trần, vì xa lìa vô dục, bỏ tam giới ý liền giải thoát. Giữ gìn được ý này đó là đếm hơi thở ra và hơi thở vào. Đó là đã nói mười sáu điều đặc biệt thù thắng. Sở dĩ hành giả quán hơi thở ra vào cốt là cầu tịch tĩnh cho nên khiến tâm an định. Từ sự tịch tĩnh đó mà có hai hạng: một là phàm phu, hai là đệ tử Phật.

Thế nào là phàm phu mà cầu tịch tĩnh? Nếu muốn tâm dừng lại thì trừ diệt năm ấm cái. Vì sao muốn diệt trừ các họa hoạn của ấm cái? Vì muốn đạt Đệ nhất thiền. Vì sao muốn cầu bậc Thiền thứ nhất? Vì muốn chứng đắc ngũ thông. Thế nào là đệ tử Phật muốn cầu tĩnh lặng? Sở dĩ cầu là muốn được ôn hòa. Vì sao cầu ôn hòa? Muốn đạt đến pháp Đảnh. Thấy năm ấm là không, tất cả đều chẳng phải ngã sở, đó gọi là pháp Đảnh. Vì sao cầu pháp Đảnh? Vì thấy bốn Đế thuận với pháp Nhẫn. Vì sao theo cầu pháp Nhẫn? Vì muốn được pháp tối thượng của thế gian? Vì sao cầu pháp tối thượng của thế gian? Vì muốn biết biết các pháp đều là khổ, nhân đó đạt được phân biệt ba mươi bảy pháp đạo phẩm. Vì sao muốn biết cái khổ của các pháp? Vì muốn được Địa thứ tám. Vì sao? Vì ý chí của người ở Địa thứ tám là muốn đạt đến Đạo tích.

Thế nào là phàm phu do đếm hơi thở mà đạt đến tĩnh lặng? Vì tâm gắn liền với hơi thở chú ý không loạn động, không có ý niệm khác. Do đó từ sự đếm hơi thở mà đạt được tĩnh lặng, và do phương tiện ấy mà năm ấm cái đều bị tiêu diệt. Bấy giờ, hơi thở dù điều khiển ra vào, thường cùng với tâm duyên với niệm tưởng, hơi thở vào cũng vậy. Nếu quán sát chỗ đến của hơi thở ra vào thì đó gọi là hành, trong tâm hoan hỷ thì gọi đó là vui vẻ, cái vừa ý thì gọi đó là an; tâm tôn quý đệ nhất mà được tự tại thì gọi đó là định ý, bắt đầu trừ năm ấm cái trong tâm thuận chiều giải thoát từ đó lìa chấp trước. Thế nào là lìa chấp trước? Là xa lìa các tưởng về ái dục, các pháp hành bất thiện. Như vậy, niệm tưởng được hoan hỷ, an ổn, tâm đắc đệ nhất định, dứt trừ năm phẩm, đầy đủ năm phẩm nhờ vào pháp đếm hơi thở ấy. Do đạt năm đức, đắc bậc Thiền thứ nhất, đã đắc bậc Thiền thứ nhất tập mãi không bỏ. Bậc Thiền thứ nhất vừa an định, vững chắc không động, muốn cầu thần thông, chí được thần túc, Thiên nhãn thấy khắp, Thiên nhĩ nghe hết, biết từ đâu sinh đến, biết tâm niệm người, pháp ý tự tại. Ví như thợ vàng dùng đủ màu vàng tự do làm ra các loại anh lạc, nhẫn, xuyến, ngọc dao như ý muốn đều thành. Khi đã đắc bậc Thiền thứ tư thì cũng tự tại như thế, đấy là năm thông.

Thế nào là đệ tử Phật đếm hơi thở ra vào mà được tĩnh lặng? Người tu hành ngồi nơi vắng vẻ không người, thu nhiếp tâm ý chẳng cho giong ruổi, tinh chuyên, quán hơi thở ra vào. Hơi thở từ mũi chuyển đến yết hầu, rồi đến giữa rốn, từ rốn trở lại mũi, phải tỉnh táo quán sát. Hơi thở ra có khác, hơi thở vào chẳng giống, điều ý theo dõi hơi thở ra vào, khiến tâm bất loạn. Do đếm hơi thở ấy mà tâm chí định được tĩnh lặng, vĩnh viễn không có niệm tưởng nào khác xen vào, chỉ nghĩ về đức tánh của Phật, Pháp và Thánh chúng, thông suốt nghĩa của bốn đế Khổ, Tập, Tận, Đạo liền được vui thích, đó gọi là ôn hòa. Như người thổi lửa, sức nóng đến nơi mặt chớ lửa chẳng chạm mặt, chỉ có hơi nóng thôi. Sức nóng của lửa ấy chẳng phải do thổi mà có, nên biết như thế. Ôn hòa cũng như vậy.

Thế nào là pháp Ôn noãn? Chưa đầy đủ văn bản thiện, gồm có chín việc: Có vị nhu hòa, hạ nhu hòa, thắng nhu hòa. Có hạ trung, có trung trung, có thắng trung. Có thượng nhu hòa, có trung thượng nhu hòa, có thượng thượng nhu hòa. Biết vi nhu hòa và hạ nhu hòa ấy, gọi là căn bản thiện an hòa. Hạ trung, trung trung, và thượng trung ấy gọi là căn bản thiện pháp Đảnh. Hạ thượng, trung thượng và thượng thượng nhu hòa ấy, gọi là pháp Nhẫn nhu hòa chân thật. Cái thượng ở trong cái thượng, đó là pháp tôn quý của thế gian, là ý nghĩa căn bản thiện của chín việc. Vì vậy các lậu thế gian chưa hết, nếu người tu hành đắc hạnh ôn hòa, gắn chặt tư tưởng vào pháp đếm hơi thở, nhân đó chuyên nghĩ tưởng hơi thở, nếu thở trở lại thì ý cũng theo dõi hơi thở không có niệm nào khác. Nếu hơi thở phát ra thì biết hơi thở trở lại, tâm thể nhập Phật, Pháp và Thánh chúng, Khổ, Tập, Tận, Đạo như ở trong sự ôn hòa, tâm trở nên thăng tiến, đó gọi là pháp Đảnh. Giống như có người đứng trên núi cao quán sát bốn phương, hoặc có kẻ leo lên núi: Hoặc có kẻ leo xuống, hoặc có người vào đường Thánh, hoặc vào chốn phàm phu. Người tu hành đã đạt được pháp Đảnh mà nhập vào chốn phàm phu, thật đáng buồn. Ví như nước ở trên núi chảy xuống rất nhanh, tạo thành dòng xoáy. Có người muốn vượt qua, lội vào dòng nước, bơi qua bờ bên kia, bị dòng nước xoáy lôi lại, bị khốn giữa dòng, đã mệt mỏi, hết sức liền bị dòng nước nhận chìm xuống đáy, người ấy nghĩ chắc chắn là chết chẳng còn nghi ngờ gì nữa. Người đứng bên bờ, buồn cho người ấy. Tu hành cũng vậy, đã gặp được minh sư sớm tối thức tỉnh, ngồi theo lối kiết già, áo thô cơm đạm, ngồi trên mền cỏ, khốn khổ xác thân, tạo hạnh như thế, nhưng bị dòng xoáy sinh tự ngăn cản, đắm vào ân tình, chẳng thể chuyên nhất, hoàn toàn chìm vào ao nước các tưởng thì đâu được ánh sáng của đạo, vì vậy người tu hành lo rầu cho họ. Ví như người lái buôn có nhiều của báu đi ngang qua con đường nơi đồng vắng hiểm trở, về gần tới nhà, bỗng nhiên gặp bọn giặc cướp, cướp mất hết tiền của, mọi người áy náy cho ông, cũng sẽ vì người tu hành mà lo lắng như vậy. Ví như nông gia cày gieo ngũ cốc, hạt chắc tươi tốt đến khi sắp gặt hái thì bỗng dưng có trận mưa đá làm dập nát trái hạt, chỉ còn cỏ rác, người ấy buồn rầu. Tu hành cũng vậy, đã được pháp Đảnh mà sa vào chốn phàm phu, nên bị áy náy lo âu. Đã được pháp Đảnh rồi mà lại bị thoái đọa. Hoặc gặp bạn ác nghĩ đến ái dục, bất tịnh cho là tịnh, tịnh cho là bất tịnh, ưa du hành xa, chẳng được tinh chuyên. Hoặc bị bệnh kinh niên, hoặc gặp mất mùa, đói khát, khốn khó, chẳng có gì ăn đỡ đói. Hoặc nghĩ việc nhà, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thuộc. Hoặc ngồi chẳng đúng chỗ, nơi ồn ào náo nhiệt. Đã đắc pháp Đảnh mà chưa thành đạo quả, già nua kéo đến, tâm liền mê hoặc, bỗng lâm bệnh khốn, mạng sống sắp dứt. Niềm tin đối với Phật, Pháp, Thánh chúng và sự chấm dứt Khổ, Tập,

Tận, Đạo đã có thì vĩnh viễn không còn tin nữa. Thiền định đang tập, thì xả bỏ; cái nên quán thì không quán nữa; Tinh tấn thì trở thành bê trễ. Cái pháp vốn đã suy nghĩ vĩnh viễn không khởi lại.

Vì vậy, nên từ pháp Đảnh ấy mà bị thoái đọa.

Thế nào là pháp Đảnh chẳng thoái lui?

Như đã tin thì càng ngày niềm tin ấy càng tăng lớn. Như định tâm vốn có khiến chẳng lay động, đối tượng quán chiếu chẳng mất, luôn luôn quán sát, tinh cần càng gia tăng, pháp đã suy nghĩ tinh chuyên chẳng bỏ. Vì vậy cho nên chẳng mất pháp Đảnh. Tu hành như vậy, do sự tinh chuyên mà tâm định tĩnh, luôn luôn tư duy pháp cứu cánh, vì ngay từ đầu chưa từng lay động, chẳng nghĩ gì thêm. Như thế liền biết hơi thở ra có khác, hơi thở vào chẳng giống, khiến sinh tâm phân biệt: hơi thở ra vào có khác nhau. Thấy biết như vậy, không có nghĩ gì khác. Đó gọi là bậc thượng trong bậc trung mà đắc pháp Nhẫn. Tâm không nghĩ tưởng gì khác mà khởi quán như thế, niệm trước, niệm sau chưa từng lẫn lộn, phân biệt quán sát tâm qua lại. Thế nào thì gọi đó là pháp Nhẫn nhu hòa, thấp nhất trong bậc thượng trung? Nếu khiến tâm ưa thích chuyên nghĩ, ý chí chẳng dời đổi, lăng xăng, thì gọi đó là pháp nhu hòa bậc thượng trung.

Nhẫn ấy thuận hướng đến chỗ nào?

Thuận hướng đến bốn Đế, thẩm xét đúng như thật, nhờ vậy tâm đạt đến thanh tịnh, đó gọi là Tín. Tuy nhiên, đạt đến điều đó là chưa thành Tín căn. Vì được lòng tin như vậy, thân, khẩu, ý kiên quyết thì gọi đó là tinh tấn, còn chưa thể thành Tinh tấn căn. Chí hướng đến các pháp đó gọi là hữu tâm chưa thành Niệm căn. Vì tâm chuyên nhất, gọi đó là định ý, chưa thành Định căn. Cái mà quán các pháp phân biệt nghĩa, gọi là trí tuệ chưa thành Tuệ căn. Nghĩ năm pháp ấy, hướng đến các căn chưa thành đạo căn. Có niệm có tưởng, còn có sự hiện hữu và thấy có sự nhiễu động thì chưa thành định, ý đó gọi là đạt cái cao nhất trong bậc thượng, là pháp tôn quý của thế tục. Người tu hành cần hiểu rõ điều này, nơi sắc khởi, diệt, thống ý pháp, quán nguồn gốc của sự khởi diệt, xem xét nhân duyên của nó ở quá khứ, vị lai, thực hành định vô nguyện, theo vào cửa giải thoát, quán xét khổ nơi sinh tử. Nghĩ rằng năm ấm này chính là nỗi ưu lo, họa hoạn, không còn hồ nghi nữa. Bấy giờ mới đạt được pháp Nhẫn thoát khổ. Đã thấy nguồn gốc khổ rồi liền thấy tuệ nhẫn, trừ diệt mười kết. Đó là: Một là tham thân, hai là kiến thân, ba là tà kiến, bốn là do dự, năm là mất giới, sáu là hồ nghi, bảy là ái dục, tám là sân hận, chín là cao ngạo, mười là ngu si.

Trừ bỏ mười kết ấy, đã đạt được tâm này thì mới hướng đến vô lậu nhập vào chánh kiến, vượt qua phần vị phàm phu, trụ ở Thánh đạo, chẳng phạm tội lỗi về địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chẳng bị chết oan, thành tựu Đạo tích, thực hành thiền định, chẳng quản ba thời, đã hướng đến cửa giải thoát, chưa khởi pháp ác thì chẳng sinh lại, các ác tự hết. Pháp thiện chưa khởi sẽ khiến hưng phát, pháp thiện đã hưng khiến thành đầy đủ, tâm đã như vậy, thì tùy theo sở thích, đó gọi là Tam-muội tự ý khiến chí chuyên nhất, gọi là định ý tự tại. Từ đó, lần lượt tin tưởng, tinh tấn quán sát, giữ gìn thân mạng gọi đó là tín. Tư duy hạnh ấy gọi là Tammuội tự ý, chuyên tinh tu đạo đạt được thần túc. Giả sử tu hành thân, khẩu, ý kiên quyết thì gọi đó là pháp định ý tinh tấn. Ý chí chuyên vào tâm thức thì gọi là định ý. Muốn vào nghĩa đạo thì gọi là định ý sát giới. Do nhân duyên ấy đạt được bốn Thần túc. Đã đạt được thần túc rồi thì gọi là Tín căn; thân tâm kiên cố thì gọi là Tinh tấn căn; pháp có thể tư duy thì gọi là Ý căn; tâm chuyên nhất thì gọi là Định căn; có khả năng phân biệt pháp và biết chỗ hướng đến, đó gọi là Trí tuệ căn. Như vậy là đầy đủ năm Căn. Lòng tin mà ôn hòa thì gọi là Tín lực, Tinh tấn lực, Ý lực, Tịch ý lực, Trí tuệ lực cũng giống như thế. Thành tựu năm Lực luôn luôn theo dõi các pháp, tâm tỉnh thức, phân biệt các pháp thì gọi là tinh cầu các pháp giác ý, thân tâm kiên cố thì gọi là Tinh tấn giác ý, tâm luôn vui vẻ phấn khởi được như ý muốn thì gọi là Hân duyệt giác ý, thân ý nương nhau, tin tưởng nhu hòa chẳng loạn động thì gọi là Tín giác ý, tâm chuyên nhất tịch tĩnh thì gọi là Định giác ý, tâm đã diệt các cấu dâm, nộ, si chí đạt sở nguyện là Hộ giác ý. Vậy là bảy Giác ý thành tựu. Nếu quán riêng ý nghĩa các pháp thì gọi là chánh kiến, các điều tư duy không có ước muốn tà vạy thì đó là chánh niệm. Thân ý kiên cố là chánh phương tiện, tâm hướng về nghĩa kinh là chánh ý, tâm chuyên nhất là chánh định, thân ý và sự tạo nghiệp cả ba đều thanh tịnh. Lúc đó mới đắc thành tám hạnh Chánh đạo. Trong tám Chánh đạo này chánh kiến, chánh niệm, chánh phương tiện đó là ba việc thuộc về thân; chánh ý, chánh định là hai việc thuộc về tịch tĩnh; hai quán tịch tĩnh này như hai con ngựa đóng vào một chiếc xe để chở đi.

Nếu tâm vô lậu không chuyên nhất về một pháp mà biến nhập vào ba mươi bảy pháp phẩm và vì thế đầy đủ ba mươi bảy pháp này, thì hiểu biết khổ. Nếu thường xuyên như vậy thì liền đắc tâm vô lậu thứ hai.

Bấy giờ tư duy: Như nay năm ấm của Dục giới có khổ thì Sắc giới và Vô sắc giới cũng vậy không khác. Đó gọi là thành tựu trí tuệ tùy nhẫn tri khổ, đạt được tâm vô lậu thứ ba.

Đã đắc hạnh ấy vì thấy khổ cho nên trừ được mười tám kết: siêu vượt Sắc giới, Vô sắc giới, thuận chiều trí tuệ, liền đắc tâm vô lậu thứ tư.

Đã đạt được bốn tâm vô lậu rồi, vượt qua tội lỗi khổ đau của ba cõi liền tự biết: “Ta đã vượt qua họa hoạn, không có các phiền não vượt qua các khổ.” Rồi tự tư duy: Khổ vốn do đâu? Vốn do ân ái mà sinh mê đắm ràng buộc. Từ lâu xa đến nay tập quen với ân ái này nên bị họa hoạn. Nay vĩnh viễn nhổ gốc ân ái thì không còn các khổ não. Biết cái nạn ân ái dễ ưa thích từ đâu mà có thì gọi là hiểu rõ tập đoạn trừ pháp nhẫn, đó là tâm vô lậu thứ năm.

Trừ diệt các tập nhiễm của Dục giới thì dứt được bảy kết, biết nhổ các họa hoạn của Dục giới gọi đó là tâm vô lậu thứ sáu.

Người tu hành tự nghĩ: Gốc của Sắc giới vốn do đâu mà phát khởi? Quán chiếu kỹ nguồn gốc của nó là từ dục mà khởi, ưa phát sinh ân ái dễ ưa thích, đó là tâm vô lậu thứ bảy.

Vì có hạnh này nên vượt qua Sắc giới còn mười hai kết của Vô sắc giới, tâm theo nếp sống của tuệ, đó là tâm vô lậu thứ tám. Đó gọi là tám nghĩa hạt giống đầu tiên của sự giác ngộ.

Bấy giờ, tâm nghĩ: “Ta thấy ba cõi vì trừ khổ tập đối với dục không ưa thích” đó gọi là an ổn, chỉ ưa vắng lặng êm ái dễ chịu đó là nhẫn pháp tuệ diệt tận. Đây là tâm vô lậu thứ chín.

Đã được nghĩa này thắng diệt hết gốc đối với Dục giới, trừ sự ràng buộc của bảy kết, đó là tâm vô lậu thứ mười.

Rồi tự nghĩ: Nếu chẳng tham đắm chấp trước nơi cõi Sắc và Vô sắc thì gọi là tịch tĩnh, đó gọi là tâm vô lậu thứ mười một, rồi trừ mười hai nghi kết, đã vượt qua họa hoạn này liền đắc tuệ diệt tận, đó là tâm vô lậu thứ mười hai.

Bấy giờ, tự nghĩ: Được điều chưa từng có đúng như Đức Phật Thế Tôn giảng giải pháp. Nhờ đạo nghĩa ấy, biết khổ của Dục giới nên vứt bỏ đi. Biết là do từ tập mà phát sinh nên xa lìa tập, đạt được tận diệt nhân đấy được nhập vào pháp tuệ đạo nhẫn, đó là tâm vô lậu thứ mười ba.

Bấy giờ, dùng đạo lực thấy cõi Dục, bỏ tám kiết, bỏ vậy rồi, nhiên hậu mới đạt được pháp tuệ hưng long ấy, đó là tâm vô lậu thứ mười bốn.

Ngay khi đó, tâm nghĩ, được điều chưa từng có. Do đạo hạnh ấy biết nỗi khổ của Sắc giới, Vô sắc giới mà trừ diệt các tập, chứng đắc tận diệt, đó là tâm vô lậu thứ mười lăm.

Tùy theo ý mình trừ diệt mười hai kết ở cõi Sắc và Vô sắc, trừ kiết ấy rồi thì phát khởi đạo tuệ đó là tâm vô lậu thứ mười sáu.

Ngay khi trừ hết tám mươi tám kết, thì nên bỏ mười kết tưởng. Vì sao? Vì lấy một giọt nước từ sông Hằng thì rốt cuộc cái tính chất cũng như nước sông Hằng. Những cái mà chưa trừ diệt như một giọt nước liền thành Đạo tích, đạt đến Thánh hiền, bảy lần sinh lên trời, bảy lần trở lại nhân gian, vĩnh viễn dứt hết gốc khổ. Người tu hành lấy đó noi theo, nhổ gốc rễ các khổ não, dứt dòng sinh tử thì tâm mừng vui, đã vượt ba đường, chẳng phạm ngũ nghịch, lìa các tà đạo, vượt qua tri kiến, chẳng theo ngoại đạo mong cầu vinh hiện, các đức hỗ trợ thỉ chung chẳng đối, họa hoạn bảy phen chưa từng phạm giới, thấy vô số quang minh, ngày đêm hoan hỷ. Ví như có người tránh nơi đói khát đến nước nhiều của cải, thoát hiểm được an như bị nhốt ngục được thả ra, như bệnh được lành, tâm luôn phấn khởi. Tu hành như thế do An ban Thủ ý mà được tịch tĩnh. Muốn cầu tịch tĩnh phải tu tập như thế.

Bài tụng rằng:

Biết rõ ngủ nghỉ thêm biếng lười
Phân biệt hơi thở từ thân ra
Tu hạnh thở vào nhớ là vào
Gọi là hành trì quán hơi thở.

QUYỂN 6

Phẩm 24: QUÁN

Tướng lông trắng giữa mày
Sáng hơn mặt trời sáng
Như chim hộc trên không
Xa gần đều nhìn thấy.
Thân Ngài như sư tử
Vượt hẳn thân vua trời
Mi và ngực rộng đẹp
Xin đảnh lễ Thế Tôn.
Cánh tay đều đặn và tròn trịa
Rốn của Thế Tôn như nước xoáy
Đùi vế ống chân như trụ vàng
Quay về nương tựa xin đảnh lễ.
Mắt Ngài lóng lánh tựa hoa sen
Lông tóc trên thân như Khổng tước
Tâm luôn an trụ trong vắng lặng
Con xin quy mạng Đấng hơn Tiên.

Với người tu hành, thế nào gọi là quán?

Đến chỗ thanh vắng, ở một mình bên gốc cây, quán sát nguồn gốc của năm ấm, thấy đúng như sự xem xét một cách chắc chắn là khổ, không, vô thường, vô ngã; cái thân sắc, thống, tưởng, hành, thức vốn là không thân có năm mươi lăm tính chất không nên tham đắm cũng không có nơi chốn.

Bài tụng rằng:

Do hành nhẫn nhục được pháp quán
Quán sát năm ấm vốn từ đâu
Thấy quá khứ, vị lai, hiện tại
Phân biệt nói năm mươi lăm dụ.

Những gì là năm mươi lăm tính chất?

Đó là:

1. Thân như bọt nước chẳng thể nắm bắt được.

2. Thân như biển cả chẳng chán năm dục.

3. Thân sẽ già chết như sông chảy về biển cả.

4. Thân như phân uế, kẻ trí vứt bỏ.

5. Thân như thành cát chóng bị tan hoại.

6. Thân như biên địa gặp nhiều oán tặc.

7. Thân như nước quỷ không có giữ gìn.

8. Thân như đống xương thịt dính máu.

9. Thân như tủy gân bó lại mà đứng.

10. Thân như đất chứa dâm, nộ, si.

11. Thân như đồng trống người ngu bị mê hoặc.

12. Thân như đường hiểm thường mất pháp lành.

13. Thân như mộ gạch nung do bao điều yêu thương dựng nên.

14. Thân như đồ nứt bể thường bị rỉ chảy.

15. Thân như bình đẹp chứa đầy đồ bất tịnh.

16. Thân như nhà xí chín lỗ thường chảy.

17. Thân như cống rãnh toàn là dơ bẩn.

18. Thân như huyễn hóa dùng hoặc bịp người chẳng biết sự thật.

19. Thân như gai gốc đâm chích thân tâm.

20. Thân như nhà mục, đồ ăn hư thối.

21. Thân như nhà lớn chứa nhiều loài trùng.

22. Thân như lỗ trống dơ sạch ra vào.

23. Thân như hoa héo, mau đến tàn tạ.

24. Thân như cỗ xe đồng hành cùng vô thường.

25. Thân như sương mù chẳng dừng lâu được.

26. Thân như mụt ghẻ bất tịnh chảy ra.

27. Thân như người mù chẳng thấy sắc màu.

28. Thân như ngôi nhà chỗ chứa bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh.

29. Thân như ống cống các loại dơ uế đều dồn vào đó.

30. Thân như cái sọt chỗ chứa của rắn độc.

31. Thân như nắm tay không, để lừa con nít.

32. Thân như tha ma, người thấy đều sợ.

33. Thân như con rắn, lửa sân thường đốt.

34. Thân như nước loạn, đầu mối của mười tám kết.

35. Thân như hồn tàn tạ, khi chết quỷ dẫn đi.

36. Thân như tiền đồng, bên ngoài mạ vàng.

37. Thân như khối rỗng, chỗ ở của sáu tình.

38. Thân như ngạ quỷ, thường cầu ăn uống.

39. Thân như voi đồng hoang, ôm già bệnh chết.

40. Thân như chó chết thường được phủ che.

41. Thân như tâm kẻ địch thường ôm oán thù.

42. Thân như cây chuối, chẳng được bền chắc.

43. Thân như thuyền hư, bị sáu mươi hai kiến chấp mê hoặc.

44. Thân như nhà dâm, chẳng chọn thiện ác.

45. Thân như gác mục, xiêu đổ niệm lành.

46. Thân như cổ họng bị nghẹt, uế trược ở trong.

47. Thân không có ích, trong ngoài có hoạn.

48. Thân như nhà hoang, bị dâm, nộ, si làm hại.

49. Thân không cứu hộ, thường gặp tai nạn.

50. Thân không gìn giữ, các bệnh xâm nhập.

51. Thân không chỗ về, sự chết bức bách.

52. Thân như đàn cầm do dây có tiếng.

53. Thân như cái trống da, cây bao bọc nó vốn là không.

54. Thân như cái chén, không có bền chắc.

55. Thân như thành tro, gió mưa tan hoại, rồi già bệnh chết.

Do năm mươi lăm tính chất ấy, quán thân là dơ uế, thân là giả dối, mãi không trở lại chớ tin mà gần gũi xót thương, hãy xả bỏ, không có thân sơ. Ví như mộng, như huyễn, như bóng, như vang, như ánh nước bỗng nhiên hóa hiện. Nó giống như là oan gia mà thường cung kính, phụng sự cung cấp để cầu vừa ý, tắm rửa, chải chuốt, ăn uống, y phục, giường chõng, ngọa cụ theo đúng nhu cầu, dẫn dắt con người đến cái họa hoạn cuối cùng là già, bệnh, chết.

Bài tụng rằng:

Cho thân này ăn uống
Tự tại hưởng năm dục
Cầu bình an như bạn
Xét kỹ là oán thù.
Không cứu không giữ gìn
Mãi mãi không trở lại
Dẫn người đến họa hại
Vào sinh, già, bệnh, chết.

Con người sau khi chết đều sẽ rã tan, làm thức ăn cho chó thú. Hoặc có thây bị thiêu đốt, xương cốt vung vãi trên đất. Dựa vào vô số phương cách quán thân này: Ví như ung nhọt, giống như mũi tên ghim vào thân chẳng nhổ ra giống như tử tội ở chốn đông người. Quán sát các khổ não của thân thể phát sinh khi chết thì không có niệm tham đắm gọi là sắc. Quán thân là yếu đuối tiếp giáp với an nguy thì gọi là thống. Có sự hiểu biết thì gọi là tưởng. Tâm niệm là hành. Phân biệt các loại thì gọi là thức.

Bài tụng rằng:

Biết rằng nhãn thủ sắc sở quán
Thân ấy có được vốn nhờ duyên
Các thứ mềm dịu để thành hành
Dùng tâm vô sắc quán các đức.

Ví như bên dòng sông có một cái ao, bầy voi vào ao tắm, uống nước, ăn hoa sen xanh, thân cây phù dung rồi ra đi. Khi ấy dấu chân to, nhỏ lớn, dài hiện lên trên cát bùn. Có người thọ săn, kẻ chăn trâu, dê, lượm củi quơ rác, người đi đường nhìn thấy dấu chân ấy nói: “Có bầy voi lớn đi ngang qua đây!” “Tuy chẳng thấy voi nhưng thấy dấu chân chúng thì nhận biết là có bầy voi đi ngang qua đây.” Không có ấm của thọ, tưởng, hành, thức cũng vậy, sự biến đổi các ấm không tướng: thống, tưởng, hành, thức là nhỏ nhiệm.

Bài tụng rằng:

Như ao ở bên sông
Trong cát có chân đi
Vì thấy dấu chân voi
Biết có bầy voi qua.
Như thế suy nghĩ kỹ
Đến được pháp thức niệm
Nhiều chỗ đều hiện rõ
Nhân duyên của khởi diệt.

Như vậy, các niệm tưởng vô sắc đều nương vào sắc, nhiên hậu mới có sắc pháp. Ví như hai cây lau dựa vào nhau mà đứng.

Bài tụng rằng:

Vô sắc nhiều chỗ nương
Hữu sắc nương vô sắc
Như cành dính liền cây
Danh sắc cũng như thế.

Pháp vô sắc ấy dựa vào hữu sắc mà phân biệt, còn hữu sắc thì cũng chẳng nương vào sự đắm chấp của vô sắc. Như trước hết có trống, nhiên hậu mới phát ra tiếng, tiếng đó và trống khác nhau, chẳng đồng, trống chẳng ở trong tiếng, tiếng chẳng ở trong trống. Danh và sắc cũng như thế đều khác nhau chẳng hợp, đắp đỗi nương nhau mới thành. Ấm vô sắc ấy chẳng được tự tại, chẳng phải tự lực mà phát khởi được.

Ví như có hai người, một người mù từ lúc sinh ra, một người bị què muốn đi đến nước khác. Người mù con mắt tối tăm vĩnh viễn chẳng thấy gì hết, chẳng biết hướng đi; còn người què thì không có hai chân chẳng thể đi được. Người mù gọi người què bảo: “Ta bị mù có chân đi được nhưng mắt mịt mờ không biết phương hướng. Còn ngươi thì què chẳng thể đi được nhưng lại có mắt sáng thấy đường lui tới. Nay hai chúng ta cùng nương nhờ vào nhau mà đi đến nước kia.” Người què ngồi trên vai người mù mà đi được, chẳng phải do oai lực của người què cũng chẳng phải phước đức của người mù. Sắc pháp cũng thế chẳng phải đứng riêng lẻ được, vô sắc cũng thế đắp đổi nương nhau.

Bài tụng rằng:

Tư duy các pháp chẳng riêng thành
Sắc pháp, vô sắc cũng vậy thôi
Tại thế gian, nương nhau đắp đổi
Ví như què, mù cõng nhau đi.

Danh sắc ấy đắp đổi nương nhau. Ví như trống và tiếng, như cung và tên nương nhờ nhau, hỗ trợ nhau chẳng hợp chẳng rời. Vạn vật cũng thế từ nhân duyên mà thành, không có uy lực, chẳng được tự tại, đều từ duyên mà hiện khởi sự vật mới phát sinh. Tu hành cũng như thế, quán sát các pháp vốn là như vậy có sự sinh khởi, hoại diệt, vốn không sở hữu, bỗng tự nhiên hiện rồi lại diệt mất, vô sinh mà sinh, vô khởi mà khởi, chung quy đều là vô thường.

Bài tụng rằng:

Năm ấm vốn thuộc không
Nương tựa hành mỏng manh
Do nhân duyên hợp thành
Đắp đổi hỗ trợ nhau.
Khởi, diệt, không có thường
Hưng suy như phù vân
Thân, tâm tưởng, niệm pháp
Đều hoại diệt như thế.

Người tu hành thường lấy bốn việc để quán vô thường.

Tất cả vạn vật đã sinh ra chung quy đều vô thường.

Sự hưng khởi ấy không có tăng giảm.

Vạn vật diệt hết cũng chẳng hao giảm.

Người vật chung quy đều tan rã, cũng chẳng diệt hết.

Vì vậy cho nên cái bất sinh sinh ra, cái bất tận hết đi. Thấy vạn vật tiên khởi sự quán sát về sự khởi diệt tồn vong như thế. Người quán như vậy không có gì mà chẳng biết, có khả năng thấy tất cả, chẳng có gì mà chẳng thấu suốt.

Bài tụng rằng:

Người vật tuy có sinh
Chẳng tăng giảm, chẳng diệt
Cũng chẳng bỏ hình thể
Tuy mất nhưng chẳng diệt.
Tuy hết, nhưng tương tục
Đều từ bốn nhân duyên
Quán vạn vật như thế
Siêu vượt cả thỉ chung.

Giả sử người tu hành tự nghĩ: Vạn vật hiện hữu ở khắp nơi chung quy đều vô thường, nhiễu động bất an, vừa khởi liền diệt đều trở về không. Từ khi mới sinh ra đến lúc vô thường là họa hoạn già bệnh chết luôn theo bám sát thân thì người quán như vậy, chẳng đắm vào ba xứ, chẳng ưa bốn loài, không trụ năm thức, tâm ấy chẳng nhập vào chín chỗ của chúng sinh ở. Dù có sinh lại cũng trừ ba kết: Một là tham dâm, hai là phạm giới, ba là hồ nghi để thành Đạo tích, đạt đến vô vi. Ví như dòng sông chảy về biển cả.

Bài tụng rằng:

Quán vạn vật biến chuyển
Nghĩ tất cả sẽ qua
Và ái dục buộc ràng
Tất cả đều vô thường.
Muốn được thoát thế gian
Phải bỏ mê đắm dục
Đó gọi là Đạo tích
Dẫn đến cõi vô vi.

Người tu hành nào mà quán như thế thì tự xem thân mình như là rắn độc. Ví như thành phát cháy trong đó có người nhà giàu thấy nhà cửa bị thiêu rụi rất đau buồn, tự nghĩ: “Làm thế nào để đem những của cải quý giá ra? Liền nhớ lại: “Ta có một cái rương, trong có các vật báu giấu tại ngôi nhà kia nào là ngọc sáng đẹp, vật quý báu hạng nhất đều chứa đầy nơi ấy giá trị vô cùng không thể kể xiết.” Trong lòng sợ hãi vừa muốn bước đi sợ bị lửa đốt nhưng vì tham lam vật báu chẳng kể thân mạng liền xông vào lửa, đến chỗ rương báu, bên cạnh đó có rương rắn hổ mang.

Bấy giờ người nhà giàu kia đã sợ ngọn lửa mạnh, lại bị khói xông vào mắt, trong lòng nôn nao sợ hãi chẳng còn bình tĩnh để xem xét kỹ, lấy lầm rương rắn kẹp nách bươn chạy. Bọn cướp đuổi theo sau muốn đoạt rương. Vừa thấy cướp đuổi liền phóng thật nhanh. Cướp đuổi chẳng kịp từ xa réo gọi: “Nếu như đuổi kịp ngươi thì ta sẽ đâm chết! Nếu bỏ rương lại mới mong thoát chết. Nhưng nếu không bỏ thì mạng sống chẳng còn.”

Người nhà giàu thấy cướp đuổi sắp kịp, nghĩ: “Đã mất của báu lại chẳng tự cứu được mạng.” Liền nghĩ lại: “Ta hãy mở rương ra lấy của quý nhất mang trong mình, bỏ đồ còn lại mà đi khi đó mới an ổn được.” Liền mở rương ra chỉ thấy rắn độc mới biết chẳng phải là vật báu mà là rắn độc.

Tu hành cũng vậy, đã đạt Đạo đế rồi thì thấy tất cả hình thể đều như rắn độc. Do vậy, người muốn đạt đến quán này thì cần phải suy xét cho tinh tường.

Bài tụng rằng:

Ví như lửa bốc cháy
Người vội lấy của báu
Lại cầm nhầm rương rắn
Cho là những châu báu.
Mở ra thấy ghê sợ
Bên trong đầy rắn độc
Khi ấy liền bỏ ngay
Biết là chẳng phải báu.
Tu hành cũng như vậy
Quán kỹ vốn là không
Khi rõ được bốn Đế
Thấy thân như bốn rắn.
Biết vậy tu bốn Đế
Thường tư duy đạo đức
Để đạt được vô vi
Trừ khổ mới được an.
Để vào cửa giải thoát
Khỏi các tội lỗi khác
Vì vậy phân biệt nói
Quán sát pháp vô thường.

Phẩm 25: HỌC ĐỊA

Sức dũng mãnh hoàn hảo
Mặt sáng như hoa vàng
Thần túc nhanh hơn gió
Tự tại dạo khắp nơi.
Đức lớn không thể lường
Điều thuận, năng nhẫn nhục
Phật an trụ giới định
Xin nương về kính lễ.
Bước đi thanh thản chẳng nhiễm trần
Đức Ngài vô lượng sở nguyện an
Chẳng ai sánh bằng không chấp trước
Không thể ví dụ, xin quy y.
Phật dùng phương tiện pháp làm cung
Hàng phục tà ma oán, quân địch
Trừ hết trần lao, các cấu uế
Nguyện quy mạng Phật nhất tâm lễ.

Người tu hành đã đắc Đạo tích, thấy năm dục lạc chung quy đều là vô thường nhưng chẳng thể đoạn hết. Vì sao? Vì vẫn thấy còn niệm vi tế về sắc, thanh, hương, vị.

Bài tụng rằng:

Đã thành tựu được đạo tích rồi
Trí tuệ hiểu rõ năm dục không
Thấy ai cõi Dục như ngựa nhác
Tâm chẳng đắm sắc vẫn chưa đoạn.

Ví như gã thiếu niên Phạm chí nọ, ưa sạch sẽ, đi ra phía sau nhà làm bẩn ngón tay, đi đến nói với thợ vàng là ngón tay bị bẩn chẳng sạch, dùng lửa đốt giùm. Thợ vàng can: “Chớ nghĩ như vậy, có cách khác trừ được dơ bẩn này, đó là dùng tro chà xát, dùng nước rửa đi. Nếu ta đốt thì ngươi không thể chịu nổi. Sự đau đớn do lửa chạm vào thân lại càng đau hơn là chà rửa.” Gã thiếu niên Phạm chí nghe nói, liền nổi giận mắng chửi thợ vàng: Đừng lấy lòng mình mà suy lường kẻ khác. Tự mình chẳng thể chịu đựng lại bảo người khác chẳng chịu nổi. Ta không muốn gì hết chỉ vì tay ta bị bẩn nên chẳng dám đi đường, sợ gặp người ta hoặc ta gần người. Thân ta có học căn bản ba kinh và biết sáu nghề, học luận thuyết hiểu rõ điều thích ứng, có khả năng xem vạn vật, phân biệt ý nghĩa của chúng theo thứ tự chương cú; biết ba thứ ánh sáng nơi thiên văn, địa lý; học sáu mươi bốn tướng; biết mạng lộc của người là phú quý hay bần tiện; làm cho ruộng vườn nhà cửa yên ổn; hiểu tiếng của một trăm loài chim; biết trước tai biến; thấy quốc gia kia có nhiều oán tặc muốn làm hại nước này. Ngay khi có tai họa của mặt trời, gió mưa không đúng thời tiết, có sao xấu xuất hiện; người đẹp màu xanh, màu đỏ; phân biệt tướng đàn ông, đàn bà, trâu, ngựa, gà, dê. Biết trước là ngũ cốc bị hạn hán hay lụt lội, tốt hay xấu. Biết sự dời đổi xê dịch của tinh tú; biết sự suy hao nhiều hay ít của hạn hán và lụt lội ấy. Bói xem có lụt lớn cũng như sự phá hoại của nó. Thấy sự biến đổi ra vào của nhật thực và nguyệt thực. Nếu có người mang thai thì phân biệt nam hay nữ; hiểu biết các việc quân pháp chiến đấu; biết suốt cổ kim; thấy rõ vị trí của năm ngôi sao, Hỏa tinh trong mười hai thời, một trăm thời khắc của ngày đêm; có khả năng hiểu rõ y thuật, biết dùng thuốc để trị lành các bệnh phong, hàn, nhiệt, ghẻ lở nhỏ nhặt; biết quỹ đạo mặt trời, mặt trăng, phát xuất từ đâu và sự biến đổi màu sắc của nó thích hợp với điểm gì như là núi lở, động đất hay sao rơi, và biết các sao sở thuộc để phụng sự Thiên thần. Học thuật của cổ nhân đều có khả năng phân biệt, không có môn nào là không thông. Bói xem sao chổi xuất hiện sẽ có điềm gì. Vì vậy đồ dơ bẩn dính trên tay ta không để lâu, phải theo lời ta mà trừ bỏ ngón tay dơ uế ấy.

Thợ vàng nghe xong, nướng kiềm thật đỏ kẹp ngón tay kia, thiếu niên bị nóng đau chẳng thể chịu nổi, đưa ngón tay lên miệng ngậm. Thợ vàng cười lớn bảo thiếu niên: “Ngươi tự khoe khoang mình là thông minh, bác học, quán cổ thông kim, không có gì mà chẳng thông hiểu. Thanh tịnh không lỗi lầm nhưng nay tại sao lại đưa ngón tay dơ bẩn vào miệng ngậm.” Người thiếu niên đáp: “Khi chưa bị đau thì ngón tay dơ bẩn, nhưng vừa chạm đến lửa quá đau, liền quên ngón tay bẩn.” Đạo tích cũng thế, vốn trong đêm dài tập nhiễm vết nhơ ái dục, trong khoảnh khắc muốn xa lìa tình dục. Nhưng vừa thấy sắc đẹp, ý dâm móng khởi. Vì sao? Vì các căn chế ngự còn lỏng lẻo, chưa đắc Định diệt tận.

Bài tụng rằng:

Đã thấy thói quen của sắc dục
Tuy rõ tính chất đạt Đạo tích
Tâm còn tưởng đẹp vẫn nghe hương
Như sông về biển, dục cũng vậy.

Khi đắc Đạo tích, tự nghĩ: Thân ta chẳng nên tập thói dâm dục, như những phàm phu khác. Nên cho tình dục là ô uế, ưa thích vô dục, dập tắt sự bừng cháy của dục, tập quán bất tịnh, ngày đêm không bỏ. Người tập như thế dâm, nộ, si giảm dần được đến với đạo, một lần trở lại nhân gian dứt trừ gốc khổ, khi đã được trở lại thì đối với các ái dục không còn móng khởi được thanh tịnh, dâm, nộ, si mỏng nhưng tâm vẫn được đoạn hẳn, nên có sự buồn khổ.

Ví như gã đàn ông có người vợ đẹp, khuôn mặt mịn màng dùng các thứ anh lạc trang điểm thân thể, gã rất yêu thương. Tuy có sắc đẹp như thế nhưng là quỷ dâm chứ chẳng phải là người, chỉ dùng máu thịt người làm thức ăn. Có người mách với người chồng:

–Vợ ngươi là La-sát, ăn thịt uống máu.

Người chồng chẳng tin nhưng người ta nói mãi chuyện ấy nên trong lòng khởi nghi ngờ muốn tìm hiểu. Ban đêm giả vờ nằm ngáy ra tiếng như là ngủ say. Người vợ tưởng là đã ngủ, lén ngồi dậy ra khỏi thành đến bãi tha ma. Người chồng theo dõi đằng sau thấy vợ cởi y phục và đồ trang sức qua một bên. Sắc mặt biến thành xấu xí, miệng hiện răng dài, trên đầu bốc cháy, mắt đỏ như lửa, trông rất dễ sợ đến gần xác người, tay bốc thịt miệng nhai nuốt. Người chồng thấy vậy mới biết vợ mình chẳng phải là người mà là quỷ, liền trở về nhà nằm lại trên giường. Người vợ trở về đến giường chồng nằm, nằm lại như cũ. Người chồng thấy vợ trang nghiêm anh lạc, sắc diện đẹp đẽ, khi ấy lại gần gũi. Giả sử nhớ lại nàng khi ở bãi tha ma ăn nuốt thịt tử thi, tâm liền kinh tởm lòng luôn sợ sệt thì đắc quả Vãng hoàn. Nếu thấy ngoại hình đoan trang đẹp đẽ thì dâm ý móng khởi. Nếu nói là bất tịnh tội lỗi, thì các thứ bất tịnh dâm, nộ, si diệt.

Bài tụng rằng:

Biến hóa thân người như cởi giáp
Làm hình quỷ dâm đến tha ma
Ngốn nuốt thây chết như ăn cơm
Khi ấy chồng biết là La-sát.

Người đắc quả Vãng hoàn tâm tự nghĩ: Ta ở trong cõi Dục ba kết đã mỏng, còn lại rất ít mong đạt Thánh đế, thấy vết nhơ ái dục biết khổ, ít vui, chẳng nên theo dục như hàng phàm phu đặt nặng tình dục. Giống như lằn xanh bu vào tử thi. Ta dùng phương cách gì để trừ dâm, nộ, si khiến diệt hết không còn, đắc thiền dứt hết lậu, nhiên hậu được an ổn như trời Tịnh cư.

Bài tụng rằng:

Khi đắc quả Vãng hoàn
Tu hành một đời thôi
Thì thấy dục “bất khả”
Tập tánh chưa đoạn hẳn.
Tuy lửa dâm dục cháy
Nhưng chẳng thể hại tâm
Vì khởi quán bất tịnh
Ghét dục như La-sát.

Ví như có người ở nơi nóng bức chẳng thể chịu nỗi tìm quạt để quạt, tìm nước để tắm. Đắc quả Vãng hoàn cũng như vậy, thấy dâm, nộ, si cho là nóng bức, nghĩ cầu đạo Bất hoàn.

Bài tụng rằng:

Thành hai nẻo kiết tường
Đi đến trừ hẳn dục
Vì đạt thiền vô lậu
Hành động với Phạm thiên.
Thân có các nóng bức
Dùng nước mát để trừ
Đến cầu đạo Bất hoàn
Đạt được thanh lương ấy.

Bấy giờ, người tu hành khởi quán bất tịnh vĩnh viễn thoát khỏi sắc dục và các dâm, nộ, si, thấy rõ đầu mối khởi diệt của năm ấm diệt tận là định, tri kiến như thế liền dứt năm kiết, không còn ngăn che đắc đạo Bất hoàn, chẳng lại nhân gian vì thoát ái dục, không có các hoạn của quỷ dâm ngăn ngại.

Bài tụng rằng:

Để thoát khốn đốn bệnh ái dục
Thường quán bất tịnh, trừ các ám
Vĩnh viễn lìa sợ, khổ được an
Thành đạo Bất hoàn, quả thứ ba.

Liền đạt sự thanh lương không có nhiệt não. Nếu nhìn sắc dục luôn thấy bất tịnh thì biết là tội lỗi dơ bẩn. Ví như có những khách buôn từ tối đang quá mệt mỏi, đến vào lúc nửa đêm ngày hai mươi chín, tối mù, không có ánh trăng, cửa thành đã đóng vòng quanh bờ tường phía Nam, ở dưới có một vũng nước do trời mưa đọng lại, khách cởi bỏ hành trang dừng bên ao. Thây người chết, gà, chó, voi, thú, các loại rắn trùng... đều có trong nước hoặc chìm hoặc nổi trăm ngàn loài trùng lúc nhút trong thân, lông tóc bồng bềnh bao nhiêu thứ rác rưởi, nước dơ ở trong thành đều dồn về đây.

Bài tụng rằng:

Ví như bên thành có ao lớn
Dơ chẳng dám nhìn, huống là uống
Khách xa đi đến thành đã đóng
Cùng nhau dừng lại bên ao này.

Khi ấy, mọi người vì là khách xa chưa từng đến xứ này, nên chẳng biết ất giáp gì và vì quá mệt mỏi, quá khát nên cởi bỏ y phục nhảy vào tắm rửa, uống nước thỏa thích, no nê mới ra khỏi ao.

Bài tụng rằng:

Đám người kia mới đến chốn này
Nhảy vào nước tắm trừ nóng bức
Cúng vái thủy thần, uống giải khát
Vì quá mệt nhọc ngủ thiếp đi.

Sáng dậy sớm, trời gần sáng, hết mệt, tỉnh táo, mới thấy đồ ô uế bất tịnh trong nước. Có kẻ bỏ chạy, nhắm mắt chẳng dám nhìn, có kẻ lại bịt mũi muốn ói mửa. Bấy giờ mới biết nước dơ bẩn chẳng sạch.

Bài tụng rằng:

Đã đắc quả thứ ba
Thấy dục lạc chẳng an
Nhập thiền định, vô hạn
Thấy dục như nước dơ.

Bấy giờ, người tu hành ưa thiền định, thức tỉnh đối với ái dục, như đám khách buôn kia nhờm tởm nước bất tịnh. Ví như hài nhi tự bốc phân chơi, tuổi tác lớn dần bỏ trò chơi cũ, lại ưa thứ khác; tuổi gần về già bỏ các thú vui, dùng pháp tự vui. Tu hành đã đắc đạo quả Bất hoàn, cũng giống như thế, thấy các thú vui trong năm đường sinh tử như trò đùa trẻ con, lại càng tinh tấn, muốn thoát luân hồi, chẳng mong sinh lại.

Bài tụng rằng:

Ví như có hài nhi
Ngồi đất vọc phân chơi
Tuổi dần dần lớn lên
Bỏ nó chơi trò khác.
Tu hành cũng như vậy
Cần vượt khỏi ba cõi
Bấy giờ bèn tinh tấn
Thành tựu đủ bốn quả.

Ví như ở nước xa xôi nọ, có đám khách buôn, từ phương Đông đến, dừng chân tại một khu vườn ngoài thành. Khi ấy, ở trong thành kia có một người siểm nịnh, nhiều mánh lới, không ai tin, dối làm món ăn uống, hoa hương y phục khác lạ, đến trước người dẫn đường, thăm hỏi sự sinh hoạt ăn ở, nói là chở nhiều, từ xa đến, không còn đường nào khác, đói khát lâu ngày nay mới gặp mặt, xin biếu một ít thức ăn, xin đoái tưởng nhận cho. Vị dẫn đường liền nhận.

Người ấy lại thưa thêm: “Nên vào thành, tôi có ngôi nhà lớn, trong có cung điện đẹp, đầy đủ tiện nghi. Nhà có giếng nước, cầu xí riêng biệt, cây cối thẳng hàng đồ dùng có đủ. Cúi xin Nhân giả chiếu cố vào thành.” Nói những lời dối trá như vậy rồi, liền bỏ đi.

Bài tụng rằng:

Có người lòng dối trá
Thấy khách buôn xa đến
Nghênh tiếp vị dẫn đường
Mời ăn rồi nói rằng.
Tôi có một cung điện
Cao lớn rất nguy nga
Người ấy không thành tín
Nói dối rồi bỏ đi.

Bấy giờ, trong có một vị đại trưởng giả nghe hết những điều người kia nói dối với vị dẫn đường, liền đích thân đi ra nghênh đón, bảo với vị dẫn đường ấy rằng:

–Chớ tin lời người kia mà ở lại nhà ấy, có ao nước dơ bẩn nơi sau nhà, phẩn uế dơ dáy chảy ra phía trước, vì vậy cho nên không thể nghỉ chân tại đó.

Vị dẫn đường nghe xong đáp:

–Nhà tuy có xú uế nhưng đã có cách trừ như đốt hương, rải hoa.

Bài tụng rằng:

Trưởng giả lòng thân thiện
Nói với vị dẫn đường
Rằng ở cạnh nhà ấy
Có xú uế bất tịnh.
Vị dẫn đường nghe nói
Liền đáp lại thế này
Tuy hôi, nhưng có cách
Đốt hương, rải các hoa.

Bấy giờ trưởng giả bảo với vị dẫn đường:

–Lại sẽ gặp tai nạn, các loài trùng độc đều ở trong đó, chúng ăn thịt và uống máu. Nếu chúng đói sẽ chui vào trong bao đựng đồ của các ngươi, cắn nát hành trang.

Vị dẫn đường đáp:

–Ta sẽ cho chúng thức ăn mà chúng thích, để khỏi chui vào đồ vật.

Bài tụng rằng:

Có nhiều trùng độc ở trong nhà
Chỉ có ăn thịt uống máu thôi
Người dẫn đường đáp lời trưởng giả
Ta sẽ cho những gì chúng thiếu.

Trưởng giả nói với người dẫn đường:

–Ở bốn góc nhà ấy có bốn con rắn độc, dữ tợn, nguy hại, ưa tranh giành nhau, chẳng thể ở gần, vậy dùng cách gì mà làm yên những con rắn này?

Người dẫn đường đáp:

–Ta biết cách. Rải thuốc, đọc thần chú, khiến chúng không xâm phạm.

Bài tụng rằng:

Có bốn rắn độc ở trong nhà
Ôm lòng độc ác muốn hại nhau
Dùng rất nhiều thuốc và thần chú
Trừ được rắn độc quấn bên trong

Khi ấy, trưởng giả lại bảo người dẫn đường:

–Lại có nạn lớn, vì tường cũ, nền móng sẽ đổ, bờ tường nghiêng ngã, chẳng thể dựa nương.

Người dẫn đường đáp:

–Nếu có nạn này, ta chẳng thể ở, cũng không có cách khiến tường khỏi đổ. Vì sao? Vì nếu có đổ thì sẽ mất mạng.

Bài tụng rằng:

Vì nhà cũ rồi sắp ngã đổ
Nếu như sập xuống, chẳng thể giữ
Người dẫn đường nói với trưởng giả
Có nạn kinh khủng ta chẳng ở.

Người dẫn đường nghe nói đủ các tai nạn của căn nhà, lại chính mắt chứng kiến, tâm sinh chán nản, chẳng dám ở đó. Vị Bất hoàn cũng như thế, nghe Thế Tôn dạy, biết rõ Thánh đế, chẳng ưa họa hoạn nơi sinh tử xoay vần.

Bài tụng rằng:

Đã đắc Bất hoàn lìa các khổ
Tu hành cầu vô lượng an ổn
Chẳng một mảy may ưa sinh tử
Như người dẫn đường chẳng trú ngụ.

Giải thích ví dụ: Ngôi nhà là thân người; nước dơ bẩn, là chín lỗ thường tống ra đồ bất tịnh; nước đầy trùng là trong thân có tám mươi loài trùng thường ăn thịt xương máu, tủy trong thân; đất bằng để xây tường là đồ cúng dường, cung cấp cho thân để ăn uống; bốn con rắn độc là bốn đại: Địa, thủy, hỏa, phong trong thân; ngôi nhà hư cũ ngày đêm sắp sụp là già, bệnh, chết mà người tu hành ngày đêm nhờ vào phương tiện muốn thoát khỏi các nạn; người dẫn đường là quả Bất hoàn; người tu hành tinh chuyên nghe Thế Tôn dạy, xem ba cõi đều thấy rực cháy; những hình tướng mà mắt quán sát, chung quy đều là vô thường chẳng tránh khỏi rã tan. Ví như người dẫn đường thấy sự nguy hiểm của ngôi nhà lớn.

Bài tụng rằng:

Loài rắn sẵn chất độc
Ghê sợ chẳng thể gần
Bốn con ở bốn góc
Là bốn đại của thân.
Hư mục muốn ngã đổ
Khi thân có tăng giảm
Thường gặp các khổ não
Già, bệnh, chết đường cùng.
Người dua nịnh trong thành
Dụ cho thiền hữu lậu
Người đắm vào tham dục
Ân ái làm chướng ngại.
Trưởng giả-người giữ giới
Bậc thầy không bị lụy
Cứu độ người tu hành
Vượt qua các khổ nạn.
Ví như đoàn khách buôn
Trong có người dẫn đường
Phật tử uống cam lồ
Để đắc đạo Vô trước.
Bậc thầy hành giả giảng
Thân khổ, không, vô thường
Quán xét kỹ tam giới
Nhiễu động, chẳng an ổn.

Phải cầu nhất tâm để đạt đến quả vị vô học, kiến đế, không chấp trước.

Bài tụng rằng:

Phật thương chúng sinh nói
Năng cứu tất cả khổ
Tôi xem các kinh Phật
Thích nói Vô học địa.

Phẩm 26: BẬC VÔ HỌC

Vua nọ thả voi say
Hung hãn, ngà rất bén
Các rồng mang hơi độc
Cảm hóa khiến điều phục.
Cứu hộ các khủng nạn
Luôn luôn được tự tại
Mười lực Phật vô tận
Con và đệ tử lễ.
Chư Thiên, long, thần, phụng
Đại thánh Muôn dân an
ổn đều quy y Thảy
nhờ cung kính được độ
thoát Dòng dõi Thánh chúng,
xin cúi đầu.

Người tu hành đã ở học địa, chẳng ưa luân hồi; đã không ưa thích gì thì chẳng tham đắm ba cõi, vượt qua cõi Sắc và Vô sắc, dứt tất cả kiết, ý nghĩ về căn lực và các giác ý, thấy diệt là tịch, như vậy gọi là định vĩnh viễn. Quán thấy như vậy, lìa sắc, vô sắc; xa hý luận, tự đại.

Bài tụng rằng:

Tâm đã trụ học địa
Hiểu rõ các giác ý
Chế cái sợ sinh tử
Diệt cái lo không vui.
Hết các hoạn chẳng còn
Cái thấy đúng như thật
Trừ hý luận, tự đại
Diệt si cũng như thế.

Người tu hành tự nghĩ: Nên biết, nay đây đã thành A-la-hán, đắc Vô sở trước, các lậu hằng dứt tận, tu phạm hạnh trong sạch, việc làm đã xong, vứt bỏ gánh nặng, đã được lợi mình, sinh tử đã dứt, đạt tuệ bình đẳng, vượt qua hào bẩn, cày bỏ cỏ dơ, không có rỉ chảy, thành dòng Hiền thánh, đã qua bỉ, thử.

Bài tụng rằng:

Tu hành trụ học địa
Bất động, thành Thánh đạo
Đã vừa được lợi mình
Qua khổ, thường được an.
Núi nóng hực, nguồn khô
Hết hẳn không nước chảy
Phụng kính lìa hý luận
Gọi là Vô sở trước.

Đã đoạn trừ năm phẩm rồi, là bậc cao trong loài người.

Bài tụng rằng:

Đã đoạn trừ năm phẩm
Thành tựu đủ sáu thông
Dứt bỏ các trần lao
Như nước giặt áo bẩn.
Xa lìa họa sinh tử
Nhờ độ được an ổn
Đó gọi là Chánh sĩ
Cao tột, hết trần si.

Đây là A-la-hán đạt Vô sở trước, xứng đáng mặc Thiên y, ở tại cung thần, dạo chơi điện tía, ăn uống tự nhiên, trăm loại âm nhạc, thường để hiện bày diệu dụng, an vui hết mực, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, miệng nói. Nay đây, thân ta là thân mười lực; được thân này thì cõi trời và nhân gian, tất cả đều trợ giúp; người kính phụng thì tăng thêm dòng dõi chư Thiên và làm tổn giảm hàng A-tu-luân.

Bài tụng rằng:

Vòi vọi bốn đức, thành sáu thông
Trí tuệ, nhẫn nhục, cầu cao tột
Thuận theo lời Phật, đạt cứu cánh
Cho nên thuyết giảng bậc Vô học.

Phẩm 27: VÔ HỌC

Phương tiện thắng các khổ
Vĩnh viễn thoát ái ân
Đã lìa khổ sinh tử
Diệt hết các bụi trần.
Như mặt trời xua mây
Tan bóng tối ân ái
Quy mạng Phật, Thánh đạo
Hết khổ thường an ổn.
Đã vượt các nhập, giới
Như người thoát lao ngục
Ví như loài vàng ròng
Trong lửa không hư hao.
Định Nê-hoàn tịch tĩnh
Chưa từng ái thân mạng
Phật kịp dùng cam lồ
Con xin cúi đầu lạy.

Người tu hành trụ ở cảnh giới hữu dư Nê-hoàn, vì rốt ráo nên chẳng tạo tác, chẳng thọ thân nữa, tâm chuyên nhất chưa từng buông thả, đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, lìa tất cả sự đắm chấp, lại không thủ, xả, dứt tận gốc khổ.

Bài tụng rằng:

Đã đạt được vô vi
Vĩnh viễn không mong cầu
Trụ quả vị Hữu dư
Rốt ráo, chẳng tạo tác.
Chẳng đắm sắc, thanh, hương
Dứt trừ vị, cùng lúc
Ví như loài bông sen
Chẳng bị dính nước bùn.
Các căn đã định rồi
Chẳng nhập theo các hoặc
Như vàng không lộn sắc
Vĩnh viễn rời sinh tử.
Không có đắm nhân duyên
Vậy mới an ổn mãi
Gọi là hạnh an tĩnh
Diệt hết gốc khổ não.

Ví như đốt sắt đến độ đỏ rực, dùng búa đập lên, cấu bẩn trên đó rơi ra, dần dần nguội lại, chẳng biết sức nóng của lửa ấy chạm đến. Tu hành cũng vậy, nếu đạt đến cảnh giới Nê-hoàn vô dư thì người diệt độ dần dần thoát khổ. Vì vậy, kinh này gọi là Tu hành.

Bài tụng rằng:

Giống như dùng búa đập sắt nung
Đốm lửa tốc lên rồi lại tắt
Pháp người tu hành cũng như vậy
Đã được diệt độ, vô tăm tích.
Ví như trời mưa có bọt nước
Bọt ấy vừa tan, biết về đâu
Nếu có hành giả được diệt độ
Vĩnh viễn chẳng thể trụ chỗ nào.
Chư Thiên, Thần, Tiên, Rồng và Người
Chẳng thấy vị ấy đến nơi đâu
Người tu hành pháp vô thường, không...
Thông minh trí tuệ được diệt độ.
Nếu như hành giả đạt điều này
Kể cả cam lồ chẳng sánh được
Bấy giờ ngộ rồi, luôn an ổn
Đã được diệt độ đạt vô dư.
Đức Phật Thế Tôn nói dụ này:
Như búa đập sắt, lửa tóe ra
Dần dần hướng đến sự diệt độ
Vĩnh viễn không biết thần thức đâu,
Đã đắc đạo diệt độ Bình đẳng
hiểu như thế Phật, bậc trí tuệ
sáng Thần thức an, chẳng động. Đã
vượt các tội lỗi Lìa sinh tử,
tự đại Đạt đến vô dục kia
Thanh tịnh như vực sâu.

Ai làm theo lời dạy rong kinh Con Đường Tu Hành này, dần dần được giải thoát, đạt đến vô vi.

Bài tụng rằng:

Nếu cầu vô vi, muốn diệt độ
Lìa hẳn trược, loạn, được cam lồ
Nên thuyết giảng kinh tu hành này
Theo lời Phật như tối được sáng.
Nếu có thuyết kinh này
Giả sử có người nghe
Phật sẽ chỉ con đường
An ổn không cùng tận.

Người học như vậy sẽ đạt đến cứu cánh, tu hành theo kinh này, tâm như không, năm thông tự có, chẳng sợ sống, chết, vĩnh viễn như đèn hết dầu thì tắt.

QUYỂN 7

Phẩm 28: TU HÀNH CỦA BA BẬC ĐỆ TỬ

Phật đức cao vời vợi
Oai thần chẳng thể lường
Tùy thời dạy đạo pháp
Độ thoát khắp mười phương.
Thấy sinh tử nhơ bẩn
Bắt nhịp cầu chánh pháp
Chê trách khổ-luân hồi
Ngợi ca cảnh Nê-hoàn.
Giảng giải đệ tử thích
Làm theo hạnh Ngài dạy
Từ từ Ngài dẫn dắt
Cho đến đại an ổn.

Nếu có tu hành thì thấy cái họa hoạn tử sinh, cái đau khổ tột bậc của địa ngục, cái não hại của súc sinh, cái đói khổ của ngạ quỷ, cái sầu lo của con người, cái vô thường của cõi trời chẳng thể chịu nỗi, lần lượt xoay vần như bánh xe. Sinh, già, bệnh, chết, đói, khát, lạnh, nóng, ân ái, xa lìa, oán thù gặp gỡ, nỗi thống khổ buồn vui đâu thể nói hết. Từ nhiều kiếp đến nay ngỗ nghịch với cha mẹ, chia lìa anh em, bất hòa với vợ con, khóc lóc lệ trào nhiều hơn bốn biển, bú sữa mẹ nhiều hơn năm nước sông bốn ngòi, hoặc cha mẹ khóc con, con khóc cha mẹ, hoặc anh khóc em, em khóc anh, hoặc chồng khóc vợ, vợ khóc chồng, ngổn ngang trăm bề kể sao cho xiết. Trồng gốc nhọc khổ, gieo mầm ngu si. Tu hành thấy vậy đều nhờm tởm hết, chỉ muốn thoát khỏi bệnh sinh tử này. Ngày đêm tinh tấn chẳng thể bỏ đạo nghĩa, cầu đạt vô vi tự thấy đời trước từ vô lượng kiếp qua lại tử sinh. Nếu dồn xương cốt hơn núi Tu-di; tủy trây trên đất khắp cả thiên hạ, thây chết cùng khắp thế giới ba ngàn, máu huyết chảy ra nhiều hơn lượng mưa khắp các cõi xưa nay, tu hành tự quán khổ ách như thế, dù cho ngàn vạn kiếp nói còn không hết. Cho nên xả ly gia đình, cạo bỏ râu tóc, tinh chuyên cầu đạo chẳng ham vinh hiển ở đời giống như kẻ sáng chẳng ưa thây chết.

Bài tụng rằng:

Tu hành thấy sinh tử
Khổ não của địa ngục
Ách ngạ quỷ súc sinh
Ly biệt của thế gian.
Xoay vần của sinh tử
Giống như bánh xe quay
Cha, con, anh, em cách
Vợ con sầu biệt ly.
Khóc lóc, lệ trào tuôn
Nhiều hơn nước bốn biển
Uống dòng sữa của mẹ
Nhiều hơn nước năm sông.
Nên người tu bỏ nhà
Tinh chuyên vì đạo pháp
Chẳng ham vinh thế tục
Như người sáng bỏ độc.

Người tu hành tự nghĩ: Sự mê hoặc của thân ta đến nay chẳng thể kể xiết, chẳng tự hay biết, hội hợp rồi chia ly, thống khổ buồn đau giống như quá say chẳng thể rõ biết, nói bậy cho là nói đúng, tự cho là suy xét kỹ, mê đắm ân ái giống như keo sơn, chẳng thể tự cứu. Thì nên thực hành tinh tấn, xa tục gần đạo.

Ví như có người đi xa đến nước khác mua bán kiếm lời, đến nơi chưa bao lâu thì phát bệnh nặng, người chết rất nhiều, mười người chẳng chừa một thây chết la liệt, mùi hôi thối không tả xiết; đã không có lương y lại không thuốc hay để có thể chữa khỏi bệnh này. Người ấy rất sợ sệt hối hận là đã đến nước đó, nếu không đến thì đâu có gặp nạn này, sớm tối bồn chồn buồn rầu khôn xiết: “Nếu ta lành bệnh nhất định về nước, không khi nào trở lại.” Người ấy vừa gặp thầy thuốc giỏi cho uống thuốc, châm cứu tật bệnh dần dần thuyên giảm, khí lực cường kiện liền trở về nước gặp gỡ người nhà, kể chuyên nguy khốn không thể nói hết ấy và tự nhủ từ nay về sau chẳng bao giờ dám đến nơi kia nữa. Miếng cơm manh áo, tìm ở nơi nào khác, chỉ muốn an thân, đâu biết người nào. Về sau chỉ nghe đến tên của nước ấy run rẩy, kinh hoàng, chẳng muốn ra khỏi nhà chỉ giữ lấy thân. Đệ tử cũng vậy thấy bệnh dâm, nộ, si khổ và sinh tử không dừng trong năm đường, sớm tối tinh chuyên tọa thiền niệm đạo, thấu đạt giáo pháp Thế Tôn, ca ngợi Nêhoàn, chê trách sinh tử, đó là lương y. Vị thuốc hay uống vào tật bệnh tiêu trừ đó là kinh pháp của Phật trừ khử ba độc. Thây chết nằm la liệt đó là năm ấm, sáu suy. Việc hối hận đến nước ấy đó là tư duy rằng từ nhiều kiếp đến nay xoay vần theo sinh tử. Việc mê đắm ân lại dụ cho tâm lăn xăn không thấy bốn đế: Khổ, Tập, Tận, Đạo. Đã chứng đắc đạo rồi thì sợ khổ nhàm thân, sớm nhập Nê-hoàn, chẳng thể trở lại giáo hóa, cố bám nơi sự tịch diệt nên sự chỉ bày của Đức Phật Thế Tôn vốn không chỉ một, mà phải tiến tới đắc bất thoái chuyển, lui tới tự tại.

Bài tụng rằng:

Như có người đi xa buôn bán
Đến nước kia mắc phải bệnh tình
Chúng dân chết hết chẳng còn ai
Thây chết la liệt không người chôn.
Tâm tự hối hận đến nước ấy
Nếu không thì đâu gặp nạn này
Rồi gặp lương y trị lành bệnh
Liền trở về nước không đi nữa.
Sợ hoạn sinh tử cũng như vậy
Thấy ở năm đường xoay vần khổ
Tự trách lỗi xưa chẳng hiểu đạo
Tử sinh tân khổ rất sầu lo.
Nhất tâm tinh tấn cầu Nê-hoàn
Muốn độ nỗi sợ của thế gian
Ghét sinh tử như chán tử thi
Chuyên chí hướng đến thành vô vi.

Người tu hành lo sợ thân mạng sẽ chết đi mà chẳng được độ thoát, quay trở lại ba đường khó được ra khỏi, chẳng nên lười biếng, chấp có ngã của ta như người phàm tục ở đời chống trái Tam bảo mờ mờ mịt mịt. Ví như ngày xưa, có đám người buôn bán đi xa kiếm sống, băng qua đồng trống không có người ở. Vì đi đường mệt nhọc bèn dừng lại nằm ngủ, cũng chẳng kể giờ giấc, chẳng chuẩn bị binh trượng. Lũ giặc cướp bỗng ùa đến, chẳng ai hay biết, chẳng chuẩn bị cung tên, bị giặc làm hại, trong số này, có khách buôn nhờ khỏe mạnh liền chạy thoát được, chịu đói khát về nhà. Lại lập kế tìm những người bạn khỏe mạnh, theo đường cũ đi buôn bán kiếm sống, mỗi đêm ngủ nghỉ luôn đúng giờ, đi ban đêm trang bị cung tên, giặc thấy như thế chẳng dám chận đường vì biết là khó đối đầu nên tự rút lui. Sự mù mịt ấy là lưới si, nhân si dẫn đến hành, rồi sinh thức, tham đắm danh sắc, lục nhập, lại thích thống ưa thọ mới có sinh, lão, bệnh tử, sầu, lo, gào khóc khổ đau những điều chẳng vừa ý. Việc kiếm sống là sự tu hành. Sự mệt nhọc nằm ngủ là sự chẳng hiểu biết về vô thường, khổ, không, phi thân. Không đi vào ban đêm là chẳng tư duy sâu sắc về nghĩa kinh. Việc không trang bị binh trượng là chẳng tuân theo trí đại Từ, đại Bi chỉ muốn tự cứu chẳng nghĩ đến chúng sinh. Việc giặc đến bị nguy khốn là ngồi thiền chẳng nhập vào không tịch, trái lại bị năm ấm, sáu suy làm mê hoặc, rơi vào bốn điên đảo, vô thường cho là thường, khổ cho là vui. Chẳng phải thân cho là có thân, không có thật cho là có. Khi mạng chung được sinh Thiên, phước hết thì trở lại cõi đời, chẳng lìa ba đường. Việc người khỏe mạnh chạy thoát về nhà là đắc quả A-la-hán. Việc tìm bạn khỏe mạnh trở lại kiếm sống là đi đến Nê-hoàn. Biết La-hán giới hạn chẳng đạt được cứu cánh, gặp Phật thọ giáo lại phát ý lớn là Bồ-tát. Việc dùng số đông là bạn cùng đi là sáu Độ vô cực và các hạnh khác... Việc trang bị binh trượng, giữ đúng giờ giấc, đi vào ban đêm là đại Từ, đại Bi, phân biệt hành không, chẳng vướng mắc chẳng dứt bỏ. Việc giặc rút lui là trí tuệ vô quái ngại, là pháp Nhẫn bất khởi, thấy ba cõi là không, chẳng sợ sinh tử, tất cả bốn ma đều bị hàng phục.

Bài tụng rằng:

Tu hành sợ mạng chung
Rơi vào ba đường ác
Chẳng chấp ngã của ta
Quy mạng về Tam bảo.
Như xưa có người ngu
Đi xa cầu tài lợi
Buồn ngủ nên nằm ngủ
Bị ác tặc làm hại.
Trong đó có người khỏe
Hết sức chạy thoát được
Về nhà kể gặp nạn
Nay mới được an ổn.
Đã đắc đạo La-hán
Mới tự biết có hạn
Chẳng thể vào sinh tử
Vì Nê-hoàn làm ngại.
Lại hợp cùng bạn mạnh
Trang bị rồi đi đêm
Giặc thấy chẳng dám chận
Trở về lại sào huyệt.
Ở cảnh giới vô vi
Biết Nê-hoàn có hạn
Nên phát tâm Bồ-đề
Hành đại Từ, đại Bi.
Phân biệt sâu sắc không
Không vướng không cắt đứt
Lần lượt vượt sinh tử
Không có nạn ba cõi.

Người tu hành phụng trì giáo pháp, nhập bốn tâm bình đẳng tâm nhưng không có đại Từ bi. Ví như rồng nhỏ chỉ có khả năng mưa một huyện mà không cùng khắp. Tuy dân chúng được thấm nhuần nhưng chẳng đáng kể. La-hán hành đạo nơi bốn Đẳng tâm cũng vậy, giống như rồng biến mưa khắp thiên hạ, không chỗ nào là không thấm nhuần, bậc Bồ-tát đại nhân đại Từ, đại Bi cứu độ khắp tất cả chúng sinh. Phật, Đấng Thiên Trung Thiên thấy tâm của Bồ-tát như thế, phương tiện thị hiện có giới hạn, chẳng vượt Nê-hoàn dần dần tiến tới đại đạo, biết cội gốc của mê hoặc.

Ví như người kia có ba đứa con, người cha khi trẻ nuôi dưỡng con cho đến khôn lớn, áo cơm, thuốc thang chưa từng thiếu hụt. Người cha khi tuổi lớn khí lực suy kiệt, gọi các con lại bảo:

–Các ngươi là lũ bất hiếu, ta sinh đẻ nuôi dưỡng các ngươi nên người. Nay ta tuổi đã già mà các ngươi chẳng phụng dưỡng báo đáp ân nuôi nấng, trái lại bức ép ta tìm của cải, áo cơm, tại sao như vậy? Ta sẽ cáo với quan nhà nước trị tội, giết chết các ngươi.

Các người con nghe cha rầy la, ôm lòng sợ sệt liền phủ phục bên cha:

–Anh em chúng con ngu si đến nỗi chẳng biết nghĩ lý, chẳng đoái hoài đến ân đức nuôi dưỡng của cha mẹ đã từng thương yêu hết mực, kỳ vọng sâu xa, nhưng chúng con chẳng tự xét lỗi mình. Nay nghe cha dạy nên liền vâng lệnh làm theo đạo hiếu, vượt kẻ tầm thường, sớm tối chẳng biếng lười, không thẹn với tổ tiên.

Khi ấy, các người con ai cũng làm ăn sinh sống. Vào biển tìm châu báu được các thứ bảy báu, cung cấp cho cha mẹ. Lòng chí hiếu cao vời, chỉ nghĩ đến cha mẹ, chẳng hề quan tâm tới thân mình. Tìm được viên minh châu sáng lớn, tên là Chiếu minh liền đem về dâng cha. Cha thấy minh châu thì đầu bạc đen lại, răng rụng mọc lại thành đại trưởng giả, xa gần đều quy ngưỡng. Đó gọi là phụ từ thì tử hiếu.

Vì sao đệ tử tu hành thì không có đại Từ? Cha có ba con dụ cho tâm, ý, thức. Cơm ăn, áo mặc dụ cho trói buộc của năm ấm, sáu suy, mười hai nhân duyên. Con lớn lên tiếp nói tìm cầu cung dưỡng, dụ cho các tình dục chẳng biết chán, chẳng biết đủ. Cha lo sợ, muốn đi cáo quan dụ cho sự hiểu rõ về vô thường, muốn đoạn sáu nhập. Con nhận lời giáo huấn làm theo lời cha dụ cho sự quy mạng Phật. Ba con lại hiếu thuận dụ cho sự khởi đầu của bố thí, phụng giới, trí tuệ. Vào biển được bảy báu dụ cho đạt đến bảy Giác ý thành tựu đạo A-la-hán. Trở thành chí hiếu dụ cho biết được đệ tử bị giới hạn trong cảnh giới Nê-hoàn, lại phát đại tâm làm Đại Bồ-tát. Được châu chiếu minh làm cha trẻ lại dụ cho định ý hiện tại, thấy mười phương Phật không có chướng ngại.

Bài tụng rằng:

Xưa kia có một người
Sinh được ba đứa con
Nuôi nấng đến lớn khôn
Ăn mặc vẫn nhờ cha.
Cha bảo với ba con
Ta nay tuổi đã cao
Các con phải nuôi cha
Sức ta đã tiêu mòn.
Cáo các ngươi đến quan
Năm cực hình đánh đập
Con nghe lời cha dạy
Liền làm theo hiếu đạo.
Vào biển tìm bảy báu
Cung phụng cho cha già
Lại được ngọc Chiếu minh
Cha liền trẻ trở lại.
Ba con tâm, ý, thức
Tình dục chẳng biết đủ
Cha trách, lại hiếu thuận
Đó là giới trí tuệ.
Làm theo bảy Giác ý
Thành Nê-hoàn, La-hán
Thọ nhận lời Phật dạy
Lại phát tâm Bồ-tát.
Đạo đức rất cao vời
Thấy được mười phương Phật
Thân bốn đại chẳng ngại
Như hư không, không vướng.

Ví như ngày xưa có một con ba ba rời biển bơi vào bờ, có một con chồn lớn đuổi bắt, sắp nguy đến tánh mạng. Ba ba biết chồn đến, thụt đầu vào, bốn chân giấu dưới mai. Chồn đứng đợi nếu thò đầu chân ra liền sẽ bắt ăn thịt. Ba ba chẳng động đậy, chồn mệt mỏi bỏ đi. Ba ba trở về chỗ Long vương Đại thần trình bày đầu đuôi và xin làm thân rồng mới không còn sợ hãi, dụ cho có khả năng chế ngự năm ấm chẳng bị ma quấy nhiễu, đắc đạo Nê-hoàn. Được làm rồng dụ cho vào đạo Bồ-tát, chẳng sợ bốn ma, cứu độ chúng sinh.

Bài tụng rằng:

Ba ba thun đầu, chân
Như La-hán bất úy
Làm thần rồng bay được
Bồ-tát cũng như vậy.

Ví như có người đi xa cầu tìm của cải, dãi dầu mưa nắng mới kiếm được nhiều lời. Hoặc ở nơi gặp giặc cướp mất hết tài sản. Lại có người thông minh, ở nơi xứ sở mình tự tạo phương tiện làm ăn, tiền vô như nước, cung cấp bốn phương tích lũy công đức nghĩ đến vô thường, khổ, không, phi thân, quán sự thành bại của vạn vật bên ngoài, hoặc đắc thiền định, thành La-hán đạo, lại từ đó phát ý cầu làm Bồ-tát. Hoặc có người đạt ngộ biết bốn đại là không, không có ở trong ngoài, hành đại Từ bi thương xót chúng sinh nơi mười phương, tuy có chỗ hóa độ nhưng xem như không có, đạo không xa gần, trí tuệ là cao tột, chứng đắc bình đẳng giác, không có quá khứ, vị lai, hiện tại giống như hư không.

Bài tụng rằng:

Như người buôn bán xa
Đệ tử cũng như vậy
Chứa công quán bất tịnh
Quán vạn vật vô thường.
Bồ-tát như người trí
Cầu lợi chẳng đi xa
Hết sinh tử, Nê-hoàn
Đắc giác ngộ bình đẳng.

Người tu hành sợ hãi sinh tử, ghét nạn ba cõi, sợ khổ chán thân, không hiểu rõ nó vốn là không, chỉ muốn vượt thoát họa hoạn, chẳng nghĩ đến chúng sinh. Ví như đội quân tan rã, những người ốm yếu chỉ muốn tự cứu, chẳng cứu giúp sự nguy khốn cho ai. Người có tâm này, Phật vì họ dạy trừ diệt phiền não ba độc, Nê-hoàn là hạnh phúc, lìa tối đến sáng.

Ví như người dẫn đường dẫn người buôn bán lớn đi đến con đường xa xôi, ở một cánh đồng lớn không có nước cỏ, khách buôn kêu than cho là đường sá xa xôi đâu thể đến nơi, vĩnh viễn cùng đường rồi. Khi ấy người dẫn đường kia là người thông minh hiểu biết rộng, cũng có pháp thuật, biết được ý nghĩ của khách buôn chán nản đường sá xa xôi, liền hóa thành một quốc gia ở giữa đường, có thành ấp, dân chúng, đất đai trù phú, ngũ cốc thừa thải, khách buôn vô cùng mừng rỡ, cùng nhau bàn tán có gì sung sướng bằng, tưởng rằng lâu lắm mới thoát nạn đến được nhân gian. Vừa có ý nghĩ như vậy liền đến thành này còn sợ gì nữa. Khi ấy, đám khách buôn liền dừng lại nơi này, cùng nhau vui vẻ uống ăn thỏa thích, tự do nghỉ ngơi, đến khi sắp chán thành quách biến mất chẳng thấy đất nước. Khách buôn lấy làm lạ hỏi vì sao như vậy? Người dẫn đường đáp: Các ngươi mệt mỏi chán nản, cho là đường sá vời vợi, vĩnh viễn không đi đến, cho nên ta đã hóa hiện thành quách cõi nước, dân chúng để được nghỉ ngơi, thấy các ngươi chán rồi cho nên biến mất.

Phật dạy: “Như vậy, đệ tử tu hành sợ khổ sinh tử, gọi là phiền não sinh tử, sợ họa hoạn của ba cõi, sớm muốn diệt độ.” Cho nên vì đó chỉ cho quả Lahán để đắc, dụ cho tiến tới trước vượt qua sinh tử, trừ hết ba cấu, đắc đạo vô vi tự cho là thành đạt đầy đủ. Khi sắp diệt độ Đức Phật đứng trước chỉ cho đại đạo. Vì vị ấy chưa tạo sự thông tỏ, phát huy đạo Chân chánh vô thượng, đắc pháp Nhẫn vô sở tùng sinh, đạt trí Nhất thiết mới là đạt đạo. Ví như có nước nọ gặp ba ách nạn: Một là giặc cướp, hai là đói khát, ba là tật bệnh. Dân chúng phân tán chạy đến nước khác. Về sau, đất nước yên ổn, hoặc có người trở về, hoặc có người kinh sợ họa hoạn của ba nạn vĩnh viễn chẳng trở lại.

Phật dạy: Đất nước là ba cõi, gặp ba nạn là độc, người bỏ đến nước khác là La-hán, người trở về khi nước an ổn là Bồ-tát đã chứng đắc tất cả trí tuệ sâu xa của pháp Nhẫn vô sở tùng sinh, trở lại ba cõi để hóa độ tất cả. Người gặp ba nạn mà không trở về là La-hán đã đắc vô vi, sợ chỗ ba nạn, chẳng có khả năng trở lại độ thoát chúng sinh.

Bài tụng rằng:

Ví như đám khách buôn
Đi qua cánh đồng hoang
Mệt nhọc sợ chẳng đến
Người dẫn hóa thành quách.
Mọi người dừng, nghỉ ngơi
Ở yên một ngày đêm
Biết tâm họ đã chán
Biến mất chẳng hiện lại.
Phật-Thế Tôn như thế
Thấy sợ nạn sinh tử
Liền thị hiện vô vi
Để độ khổ ba cõi.
Khi sắp nhập Nê-hoàn
Hóa hiện chỉ đại đạo
Khiến đạt vô sở sinh
Rộng cứu độ tất cả.
Lại ví như nước lớn
Bỗng gặp ba tai nạn
Phân tán đến nước khác
Nước yên rồi chẳng về.
Kinh sợ nạn sinh tử
Đó gọi là đệ tử
Về nước chẳng kinh sợ
Bồ-tát độ mười phương.
Quyền tuệ phương tiện hóa
Đều đạt được kết quả
Ví như lái thuyền giỏi
Qua lại chẳng nghỉ ngơi.
Phật-Thế Tôn như vậy
Pháp thân không qua lại
Khắp cùng ở mọi nơi
Như mặt trời chiếu khắp.

Phẩm 29: DUYÊN GIÁC

Người theo Duyên giác mà chẳng tự biết, đã phát đạo chân chánh vô thượng, chẳng thọ chân pháp với thiện hữu, tự chuyên làm ngược lại. Giả sử phụng trì giáo pháp sáu Độ vô cực mà lại có tưởng, muốn được tôn hiệu ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, oai thần đáng tôn trọng, mà chẳng biết dùng quyền xảo khéo léo. Phật hiện sắc thân mà trái lại bảo là có thân, liền rơi vào Duyên giác.

Như có người muốn thấy biển lớn lại đi đến ao hồ, sông ngòi, ở đó tìm của báu chỉ lượm được thủy tinh, ngọc minh nguyệt nhỏ, tự cho là đã lấy được kim cương sáng chói. Từ tâm Bồ-tát mà trở lại thối tâm, chẳng hiểu pháp không xuất nhập của Như Lai, không mà vô hình, đạo không có ba đời quá khứ, vị lai, hiện tại, nhưng gọi kiến giả về không là định, mà không hiểu biết vừa hành không, vừa cứu độ ba cõi, chẳng có khả năng tiến bộ. Trên thì không bằng Phật lại vượt hàng đệ tử, dừng ở giữa chừng. Như có người muốn thấy Thiên đế nhưng thấy vua biên cương thì cho là Thiên đế, muốn học Chánh giác mà tâm có giới hạn, chẳng hiểu tuệ sâu xa, trở lại rơi vào Duyên giác, cũng giống như thế. Nếu có tâm này, Phật bèn chỉ bày dẫn dắt pháp Duyên giác.

Ví như có trưởng giả, tuổi đã già nua, con cái lại đông, có ngôi nhà to lớn, cột trụ lâu ngày bị mục, trong nhà lại phát hỏa. Các đứa con buông lung đam mê theo năm dục, chẳng hay biết tai họa này. Khi ấy người cha nghĩ: “Ngôi nhà này quá cũ lại bị lửa đốt, e sợ cột ngã, ngôi nhà sập xuống, nên tính sao đây.” Người cha muốn bày phương tiện khuyến dụ các người con thoát ra khỏi nạn lửa. Người cha ở ngoài trong trổi nhạc hay, bảo người kêu các con:

–Sẽ cho các con voi, ngựa, xe cộ, ngọc ma-ni.

Các con từ xa nghe tiếng nhạc lại được lệnh cha đều chạy ra khỏi nhà đi đến chỗ cha. Cha liền cho các con các xe cộ báu tốt... mà không thiên vị. Các con thưa:

–Thưa cha tôn kính! Cha kêu chúng con ra hứa cho đồ châu báu, nay đây tại sao chỉ một loại như nhau?

Trưởng giả đáp:

–Ngôi nhà chúng ta đã cũ, cột cái mục hư mà trong nhà lại phát hỏa. Cha sợ cột ngã đè chết các con, cho nên trổi nhạc kêu các con ra lòng cha mới an. Các con đều là con của cha, cha thương như nhau nên đều cho xe cộ quý báu.

Phật dạy: “Ngôi nhà cũ ấy là ba cõi, cột mục nát muốn ngã là họa hoạn ba độc xoay vần nơi sinh tử, cột bên trong cháy là các niệm tưởng. Trưởng giả là Như Lai, các con phóng dật là đam mê dục nơi ba cõi, trổi kỹ nhạc là Phật thuyết giảng về tội phước, kêu các con ra hứa cho đồ vật là hiện bày giáo pháp ba thừa các con đều ra, cha cho của báu như nhau là Đại thừa, không có ba thừa. Khi sắp diệt độ, mới biết rõ.”

Bài tụng rằng:

Ví như có trưởng giả
Có rất nhiều con cái
Tự mê năm dục lạc
Ở trong ngôi nhà cũ.
Cột mục như muốn ngã
Trong nhà lại phát hỏa
Cha sợ nhà sập đổ
Đè chết các con mình.
Nên trổi các nhạc hay
Con ra cho như nhau
Phật-Thế Tôn cũng thế
Do tâm Duyên giác thành.
Đến khi sắp diệt độ
Đức Phật đến đứng trước
Chỉ bày một giáo pháp
Là Đại thừa mà thôi.

Người tu hành khởi ý muốn cầu Đại đạo, chẳng biết vốn là không, chấp trước ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của sắc thân Phật, Đấng tôn quý trong loài người.

Ví như có người nghe tên vua Chuyển luân vương ở bốn phương, làm chủ bốn châu thiên hạ, có bảy báu, có cả ngàn người con sức khỏe đều dũng mãnh, thành rộng và dài, Đông Tây dài bốn trăm tám mươi dặm, Nam Bắc hai trăm tám mươi dặm, ở giữa có điện lớn vuông vắn bốn mươi dặm, giường tòa bằng bốn báu; dân chúng đông đúc, ngũ cốc dồi dào, sung sướng vô cùng; âm thanh kỹ nhạc có mười hai bộ; phu nhân, thể nữ có tám vạn bốn ngàn; các nước vua cai trị tới tám vạn bốn ngàn; voi ngựa, xe cộ số lượng cũng vậy.

Vua có bốn đức: Trưởng giả, Phạm chí, dân thường, dân nơi nước nhỏ đều tôn kính Thánh đế, như con phụng sự cha. Vua luôn nghĩ thương họ như mẹ thương con, điều vua dạy bảo đều thọ nhận làm theo, xa gần quy phục, như thờ người kính trời nương đất mà sống được.

Lại có bốn đức không lạnh, không nóng, mới sinh không đói khát, suốt đời chưa từng bệnh, Thần linh hết lòng phù hộ. Người nghe việc ấy muốn đến yết kiến vua, tín mộ Thánh giáo, liền khởi hành. Dọc đường mệt mỏi, thấy một con đường khác, thuận chân rẽ vào thấy một thành lớn, dân chúng đông đúc, rừng cây, sông ngòi, vui không kể xiết cho đó là thành quách, là cảnh giới của Thánh vương bèn dừng lại nơi ấy. Nhưng nơi này tuy vui vẻ mà lại là chốn của quỷ thần, người ấy chẳng biết.

Khi đó, có Thiên vương tên là Hưu Tức liền gặp người ấy giải thích cho biết chỗ này chẳng phải là nơi của Thánh vương mà là của quỷ thần. Chuyển luân thánh vương oai đức cao vời; bấy giờ, người kia mới vui mừng gần gũi theo phụng sự.

Nếu có người phát tâm học đạo Bồ-tát mà chẳng hiểu rõ nghĩa sâu, chẳng phân biệt không, gặp đời không có Phật, ra vào chốn vắng lặng, ở bên gốc cây, quán sát vạn vật là vô thường, khổ, không, thân chẳng tồn tại dài lâu mà chẳng rõ vốn là không; mới đắc Duyên giác tự cho là thành; khi sắp Nê-hoàn Phật hiện ra trước, chỉ bày đại pháp giáo nghĩa thâm diệu, mười hai nhân duyên vốn không có cội gốc, hiểu rõ gốc ngọn đều không, không có quá khứ, vị lai, hiện tại. Đại Từ, đại Bi thì không thấy ba cõi, không có tưởng Nê-hoàn, mới thành chánh chân, độ thoát tất cả.

Bài tụng rằng:

Ví như có người cầu Thánh vương
Lại thấy một thành cho là cõi
Của các tiểu vương nhớ Chuyển luân
Trong đó vui chơi cho là sướng.
Thiên vương Hưu Tức tới gặp gỡ
Cho biết rằng đây là nước quỷ
Chẳng phải là đại đế chuyển luân
Khi ấy mới kinh hoàng tự biết.
Liền khởi hành đến cõi Đại vương
Thấy oai thần đức độ cao vời
Con từ lâu mê mờ chẳng rõ
Nay thường theo hầu phụng Thánh vương.
Muốn học đạo cả mà chẳng hiểu
Rơi vào Duyên giác cũng như vậy
Sau nhận hạnh nhiệm mầu của Phật
Mới đạt được chân đạo Vô thượng.
Oai đức Phật sáng rỡ
Đức ấy cứu chúng sinh
Tâm bình đẳng độ hết
Trừ diệt danh ba độc.
Thoát hẳn khổ sinh tử
Đạo do trí tuệ thành
Thanh tịnh như mặt trời
Phá bóng tối ba cõi.

Phẩm 30: BỒ-TÁT

Người tu hành tu hành tự tư duy: Con người ở trong sinh tử, giống như bánh xe quay lộn lên xuống mà không rời mặt đất; trước sau như vậy, họa hoạn qua lại chẳng lìa ba cõi, đều là do ngu si chẳng biết vốn là không, cho là có bốn đại thật, nương vào đó là vững chắc. Lại như có người thấy huyễn thuật biến hóa hình người mà cho là người thật, chẳng biết là do biến hóa thành. Người ngu cũng vậy, tham đắm “ngã của ta” cho là thân mạng, chẳng hiểu thể của nó là địa, thủy, hỏa, phong.

Ví như có bọn người đi xa, muốn đến chơi ở nước khác, từ lâu nghe có tai nạn dọc đường nên thường lo lắng sợ có giặc cướp, nhìn quanh bốn phía, xa thấy những ngọn núi có các tảng đá, và cây cối cho là có giặc cướp, cỡi ngựa, số cả trăm, ngàn, tự nhủ, biết tính sao đây? Rồi mạnh ai nấy chạy, tán loạn, chẳng biết trốn đâu. Trong đó có người dẫn đường, kêu nói với mọi người:

–Chớ nên bỏ chạy đến chỗ nạn lớn, không có nước nôi! Hoặc gặp khốn cùng, chẳng cứu được mạng; hoặc khốn khó túng quẩn, mới trở về lại, tới lùi đã lâu, lại thêm khổ nhọc; của cải mất sạch, nương tựa vào đâu; rách rưới đói lạnh, lại phải nhờ vả, đem thân mình nương gởi nhà giàu. Hãy tự an tâm cùng nhau khuyến hóa, sai người thám thính, nếu không có giặc thì nên đi tới. Giả sử có giặc đến thì quyết chí cùng đánh, khiến giặc tan chạy. Vì sao? Vì một người liều chết, mười người chẳng đương; mười người liều chết, trăm người chẳng đương; trăm người liều chết thì ngàn người chẳng đương; ngàn người liều chết thì vạn người chẳng đương; vạn người liều chết thì tung hoành thiên hạ. Mọi người nghe theo, không còn chạy nữa, đều đứng yên lại, đợi sai người thám thính. Chỉ thấy các loại cây cỏ ngói đá, hoàn toàn không có giặc cướp. Mọi người đều vui mừng. Bấy giờ mới tiếp tục đi, cho người dẫn đường là vô song, trí tuệ thông suốt, thật hiếm có trong đời; cử động tới dừng đều tuân theo lệnh của người ấy; không dám chống lại.

Bồ-tát đại nhân tu hành cũng vậy, vì tất cả mà hướng dẫn, giảng giải ba cõi là không, tất cả như biến hóa, năm ấm như huyễn; chẳng chán sinh tử mà diệt thân, hóa độ khắp mười phương, chỉ bày con đường chân chánh, ngợi khen Bồ-tát lâu xa không bạn; lăn lộn trong ba cõi độ thoát sinh tử; đệ tử chí nhỏ thường ôm lòng sợ sệt, chỉ muốn diệt thân chẳng màng tất cả; chẳng được cứu cánh nên lại thoái lui. Từ khi mới phát ý người thông minh nhân đây nghe lời giáo huấn của Bồ-tát đều phát tâm cầu đạo Vô thượng chân chánh.

Bài tụng rằng:

Bồ-tát vì người tu giảng giải
Tất cả là không thân như huyễn
Nhân duyên hợp thành có thân này
Tâm luôn bất chánh chạy theo tà.
Ví như người buôn, buôn bán xa
Xa thấy cây rừng cho là giặc
Ai cũng sợ hãi đều chạy lánh
Đạo sư giảng giải tâm mới an.
Bồ-tát cũng vậy, giảng nghĩa không
Vì tất cả người rộng nói pháp
Chỉ cho đệ tử đạo sâu xa
Như mặt trời mọc xua mây mờ.

Bồ-tát học đạo dần dần tiến tới đạt trí tuệ cao tột. Dựa vào sáu Độ cao xa, phân biệt nghĩa không, tích lũy công đức trải qua vô kiếp mới đắc quả Phật. Ví như có người tuổi trẻ ra làm quan, mới đầu thì nghèo khổ sau chuyển thành giàu to, cầu làm Thừa ủy, rồi thành Lệnh trưởng, tấn hai ngàn thạch sau thăng Châu mục, Tứ chinh, Công khanh đại thần; rồi dần đến Đế vương, Chuyển luân thánh vương, Thiên đế phạm tôn. Hành đạo Bồ-tát học theo thứ lớp cũng y như vậy, dần dần phát ý Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ, kiềm chế sáu tình, trừ khử ba độc, sự che khuất của ấm, suy, hướng đến pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, đạt tới nẻo Bất thoái chuyển, gần hoàn thành đầy đủ mọi việc, ở quả vị Nhất sinh bổ xứ. Giống như mài gương, tẩy, dập, sửa bằng phẳng miếng thiếc, dần dần làm cho trơn láng mới phát ánh sáng; dần dần tập hành sáu pháp Ba-la-mật, tích công lũy đức, kiếp số chẳng thể tính đếm, tự chứng đắc quả vị Phật, khai độ mười phương.

Bài tụng rằng:

Như người trẻ làm quan
Thừa ủy rồi Lệnh trưởng
Hai ngàn thạch Châu mục
Tứ chinh đến Công khanh.
Đại vương rồi Chuyển luân
Nhật nguyệt, Thiên đế Thích
Bồ-tát cũng như vậy
Tích công đức dần dần.
Hành sáu Ba-la-mật
Tu cho đắc Phật quả
Giáo hóa mười phương chúng
Đều khiến được an lạc.

Bồ-tát học định tinh chuyên nhất tâm, dần bỏ các cấu, tâm chí biến hóa. Ví như có người muốn đi vào biển, ngày lại tháng qua cứ vẫn tiến hành, chẳng hề thoái lui. Tuy bị đói rét, chưa từng lay chuyển, chẳng kể khổ nhọc, mệt mỏi, xa gần, đi chẳng nghỉ ngơi, mới tới bờ biển, cùng mọi người lên thuyền, vào biển tìm kiếm châu báu. Tuy biết có ba nạn nhưng chẳng lấy làm run sợ, đến cung điện, chỗ ở của vua Đại Long vương, theo cầu xin ngọc báu Như ý tuyệt diệu để chu cấp cho kẻ cùng khốn. Long vương cấp cho, bảo là bố thí tất cả chớ đừng nuối tiếc. Mọi người đều nhờ vào ánh sáng của viên ngọc, nhưng ngọc chẳng hao giảm. Người ấy được ngọc, tạ ân và vội vã trở về, khắp cả nước đều được an ổn.

Bồ-tát cũng vậy, hành đạo với tâm bình đẳng, muốn cứu chúng sinh phải Từ bi hoan hỷ, hộ trì, nhất tâm nghĩ đến Phật dù bất kỳ ở đâu cũng tinh chuyên hướng về, chưa từng bê trễ, bảy ngày, mười ngày, ba tháng một năm chẳng khởi tưởng dục, nhất tâm hướng Phật và hóa độ chúng sinh, nương vào giáo pháp sâu rộng của Đại thừa, thấy mười phương Phật, thọ giáo đắc định, vì tất cả giảng thuyết Tam-muội bất động. Ví như từ Long vương được ngọc Như ý, ban cho khắp mọi người. Ví như có người nghe trên cõi trời có ngọc nữ, đoan chánh, đẹp đẽ, ý muốn đến xem mà không có thần túc, sớm tối tơ tưởng nằm ngồi chẳng quên. Trải qua bao nhiêu năm chưa từng xao lãng, nên ở trong mộng thấy được ngọc nữ ngồi đứng tới lui. Bồ-tát cũng vậy, nhất tâm tư duy đến bất cứ Phật ở phương nào, lâu năm chẳng dứt thì chứng đắc Tam-muội, kiên quyết hành trì chẳng lười mỏi, nhiều kiếp chẳng nản thì đạt đến quả Phật. Bồ-tát hành đạo đại Từ, đại Bi xót thương tất cả.

Xưa có một người mù chẳng thấy ánh sáng mặt trời, trong lòng lo buồn áy náy: “Tuy có ánh sáng mặt trời mà mắt ta đui mù chẳng thấy, phải làm sao đây?” Tìm được thần sư cho uống cam lồ, nội bệnh tiêu trừ mắt được sáng tỏ, thấy được ánh sáng mặt trời, quan sát tám phương trên dưới và muôn dân.

Lúc mới phát đại tâm, sáu nhập, năm ấm, ba độc chưa trừ thì chẳng thể thấy được chư Phật mười phương. Từ khi thành tựu thọ pháp Bồ-tát, thâm nhập giáo lý hành bốn Đẳng tâm, rõ ba cõi là không liền đắc Tam-muội thấy mười phương Phật. Từ định ý đứng dậy cứu giúp chúng sinh. Ví như châu báu đặt trên thủy tinh, như dùng đồ vật gì đó đựng lưu ly thì màu sắc của lưu ly khiến cho đồ vật đó có cùng hình tượng. Bồ-tát cũng thế, nhất tâm nghĩ đến Phật, không có niệm khác, liền đắc định ý thấy mười phương Phật. Do oai thần của Phật đạt được bốn đức thấy Phật Thế Tôn.

Bài tụng rằng:

Ví như có người đi vào biển
Chưa từng biếng trễ, đến mới thôi
Cùng người lên thuyền đến Long vương
Xin ngọc Như ý-châu báu lớn.
Cho khắp tất cả đâu cũng nhờ
Bồ-tát cũng vậy, hành bốn ân
Đại Từ, đại Bi, hành đại đạo
Nhất tâm tinh tấn pháp Tam-muội.
Như người nghe trời có ngọc nữ
Sớm tối tơ tưởng mộng được thấy
Bồ-tát cũng thế, luôn tinh tấn
Thấy mười phương Phật khắp mọi nơi.
Lại như người mù nghĩ mặt trời
Lương y trị khỏi, mắt liền sáng
Bồ-tát cũng vậy, chuyên hướng Phật
Chưa từng dừng nghỉ, chẳng thoái chuyển.
Như châu báu đặt trên thủy tinh
Lần lượt ánh sáng chiếu khắp nơi
Định Tam-muội Bồ-tát cũng vậy
Từ Phật thọ giáo, hóa độ khắp.

Bồ-tát tích lũy công đức, muốn độ tất cả thị hiện như cha, thị hiện như mẹ, thị hiện như con, thị hiện như thân... Bình đẳng không sai khác, vì năm đường chúng sinh chịu cực khổ vô cùng mà chẳng cho là khổ. Tuy trải qua họa hoạn sinh tử trong năm đường, cái khổ của địa ngục, cái căm giận của ngạ quỷ, cái não hại của súc sinh, cái tai ách theo sinh tử của cõi trời, cõi người mà tâm chẳng khuynh động, hành đại Từ bi đối với bốn ân không nản, cứu giúp mười phương khỏi các niệm tưởng.

Ví như ánh trăng kia khi mới mọc thì nhỏ như sừng dê. Lần lớn lên cho đến tròn đầy, ánh sáng chiếu khắp độc sáng giữa các sao; thứ lớp học đạo, hành pháp Bồ-tát: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Nhất tâm, Trí tuệ, trải qua vô số kiếp siêng năng khổ hạnh, thân tâm tương ưng, ngôn hành hợp nhất, nghĩ mười phương chúng sinh như cha mẹ, không có thân, sơ.

Ví như trồng cây, ban đầu nảy mầm, sau mọc thành, thân, cành nhánh, lá, hoa, quả, dần dần nên hình. Tu hành cũng như thế, khi mới phát ý, hoan hỷ hướng Phật; dùng tâm hoan hỷ đạt được sự chấm dứt cõi ác, thành tựu sáu pháp Ba-la-mật, nhập vào phương tiện khéo léo, đạt pháp Nhẫn bất khởi, nhất thiết Phật tuệ, mà chuyển pháp luân, thị hiện diệt độ, phân bố đại pháp, đời sau nhờ ân.

Giống như có người muốn xây nhà lớn, trước san bằng mặt đất, kế đến đắp nền, dần dần xây tường, mới thành cao lớn; dùng loại gỗ tốt quý làm rường cột vững chắc, dùng ngói lợp lên, bùn đất bôi trét; làm xong xuôi rồi, sáng sủa khoáng đãng; tường trắng, cột đỏ, nghiêm trang đẹp đẽ. Sau đó, mời bà con thân tộc, bạn bè, hàng xóm... khắp cả, ăn uống, trổi nhạc rất vui vẻ.

Bồ-tát cũng thế, chứa hạnh vô lượng, chẳng vì khổ nhọc mà lười biếng chán nản; thấy chúng sinh kia, xoay vần nơi năm đường, tử sinh lăn lộn như đá mài bất định nên phát đại Từ bi, trí tuệ không bị che khuất, muốn cứu độ tất cả, giống như hư không, bao trùm tất cả, đạo đức đã thành, hiện cả ba cõi, biểu thị sắc, thân ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, chúng sinh thấy đều vui mừng; vì mười phương chúng sinh mà gầm tiếng gầm của sư tử, tất cả nghe tiếng, thảy đều quy phục, theo bốn tâm mình, thành hạnh ba thừa.

Khi ấy, tụng rằng:

Bồ-tát mới phát tâm
Thương yêu khắp mười phương
Như cha, mẹ, con, thân
Bình đẳng, chẳng mong cầu.
Dần dần phát thành tích
Như cây mọc mầm, thân
Đến cành lá hoa quả
Công người trồng chẳng phí.
Bồ-tát cũng như thế
Phụng hành đạo, dần dần
Công đức sẽ tròn đầy
Bình đẳng, rất an lành.
Giống như xây nhà lớn
San đất xây nền, tường
Dần dần thành cao lớn
Che lợp, rất hoàn chỉnh.
Mời bà con, làng xóm
Ăn uống, ca nhạc vui
Bồ-tát cứu chúng sinh
Độ thoát, ban ánh đạo.

Thế nào gọi là vượt sự tu hành, vừa phát đạo ý đã đạt Bất thoái chuyển, không do đâu phát sinh mà thành tựu đầy đủ A-duy-nhan? Do nhân duyên đặc biệt nào mà đầy đủ hạnh Bồ-tát như vậy?

Hiểu rõ ba cõi là không, năm ấm không có chỗ nương, bốn Đế không có cội gốc, duyên tưởng mà sinh; mười hai nhân duyên si là đầu mối, quán sát đầu mối của si không có nơi chốn; có đắm vào mong cầu thì gọi là si; người trí hiểu rõ là không có.

Ví như nhà ảo thuật trở lại xem người hóa hiện ra, chẳng thấy có người. Bồ-tát cũng thế, thức tỉnh ba cõi là không, giống như bóng nước, như mộng huyễn, như cây chuối, như tiếng vang trong núi sâu, chỉ có tiếng vang mà không có thật. Xưa có người nằm mộng, thấy có một nước dân chúng đông đúc, vua rất nghiêm khắc, quần thần phụng sự, chẳng dám trái ý, ngũ cốc dồi dào, y phục sặc sỡ, xướng ca vui vẻ. Người ấy thấy rồi vui mừng ngắm xem, đi đến yết kiến quốc vương, nhà vua liền lập làm đại thần, ban cho quan chức, nô bộc, tùy tùng, ruộng nhà, bảy báu, vui mừng không xiết. Lại thấy mình bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, hóa thân lừa, ở trong bầy cất tiếng kêu. Bỗng nhiên lên cõi trời, cung điện bằng bảy báu, cùng vui vầy với ngọc nữ. Từ mộng tỉnh dậy chẳng thấy gì hết, tự hiểu rõ năm đường như mộng, tất cả vốn không chẳng nắm bắt được. Phân biệt tuệ này thì chẳng thoái chuyển, đạt chỗ vô cùng, quyền tuệ đầy đủ, thông suốt đại đạo, quán tâm như huyễn, năm ấm, sáu nhập thì giống như quần thần; pháp sắc, thanh, hương, vị, xúc, ở trong năm đường đều giống như người kia tỉnh mộng, thấy không có cái thấy, cũng không có mộng tưởng. Đó gọi là siêu việt, đạt đến Trí tuệ ba-la-mật mà chẳng dựa vào thứ lớp.

Bài tụng rằng:

Thân người và năm ấm
Quán chúng không chỗ nương
Bốn Đế, mười hai duyên
Tất cả đều như huyễn.
Như ban đêm mộng thấy
Một nước rất an vui
Vua lập làm đại thần
Ca nhạc và giàu có.
Vào địa ngục, ngạ quỷ
Làm lừa cất tiếng kêu
Lên trời điện bảy báu
Tỉnh dậy, chẳng thấy gì.
Người trí quán ba cõi
Năm ấm đều như mộng
Vì rõ không nơi chốn
Mới đắc Nhẫn bất khởi.
Đạo pháp chẳng xa gần
Như không, không sở xứ
Tâm không, rõ vốn không
Bỗng như ánh mặt trời.
Trí tuệ ngay lúc ấy
Không được cũng không mất
Đạo không có ba đời
Ngộ rồi vốn như như.

Sao gọi là vượt qua sự tu hành?

Con người vốn là một, do chẳng hiểu biết nên khởi chấp cái ngã của ta, vừa đắm chấp liền bị ràng buộc, mà cầu giải thoát; chẳng đắm chấp thì không bị ràng buộc, cần gì cầu giải thoát. Ví như có năm hiện tượng ở trong hư không là mây, mù, bụi, khói, tro chẳng thể làm dơ bẩn hư không kia. Tâm vốn như hư không, cái độc của năm ấm giống như năm hiện tượng nọ, chẳng che lấp được. Hiểu rõ tâm vốn vô hình, trí tuệ không ngăn ngại, vào sâu pháp nhẫn chẳng theo thứ lớp.

Ví như có người từng là thường dân, nhà rất túng thiếu, đi đến chỗ Phật, theo đàn-việt xin ăn, phát khởi hảo tâm:

–Thân con do tội lỗi từ đời trước chẳng thể bố thí, nay bị nghèo khó, áo chẳng che thân, cơm chẳng no miệng lại chẳng làm phước, ăn nhờ cơm Phật. Nếu con có của cải sẽ cúng dường Phật và Thánh chúng, chu cấp đầy đủ cho người thiếu thốn nghèo cùng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn và Thánh chúng đều tự lui ra. Người ăn xin tự trách: “Ta vốn bạc phước, chẳng thể làm việc phước đức, chịu cảnh thiếu thốn.” Nghĩ vậy rồi, nằm dưới bóng cây, khi mặt trời chiếu xiên, các bóng cây khác đều di chuyển, nhưng bóng dưới cây chỗ người ấy nằm không di chuyển, bụi bặm trên thân thể đều được trừ sạch, tự nhiên có oai đức. Khi ấy, quốc vương băng hà, đang cần hiền nhân để nối ngôi, chiêu mộ khắp nơi trong cả nước chỉ thấy người ăn xin có oai đức khác thường, bóng cây phủ che như tàng lọng, sứ giả đến thưa với quần thần, ca ngợi oai đức của người ấy, dân chúng đều vui mừng chuẩn bị xa giá để nghênh đón, lập làm quốc vương. Lên ngôi hoàng đế rồi, chấn hưng đức hóa khắp cả nước, cúng Phật và Thánh chúng. Người ở trong cái khổ sinh tử của năm đường, năm ấm, sáu nhập, mười hai nhân duyên, nghe giáo pháp sâu xa của Phật, bản thân không có trí tuệ nhưng tâm đại Từ, đại Bi trội hơn tất cả. Tuy muốn độ người mà chẳng thấy có người độ và không có đối tượng được độ, chẳng thấy có ngã của ta, ba cõi như tiếng vang, tất cả đều vô ngã. Giống như hư không, siêu nhập trí tuệ, pháp Bất thoái chuyển được Nhất sinh bổ xứ. Không từ đâu sinh gọi đó hữu đức mà không có sở đắc. Ví như mặt trời mọc thì bóng tối tiêu tan trở thành bình đẳng, không có thân sơ, chẳng thấy có ràng buộc cũng không có giải thoát. Cũng như núi vàng không do tạo tác, người tìm vàng hiểu biết tự do đến đó mà lấy, chẳng hề thấy khó nhọc. Con người vốn thanh tịnh không cấu uế, hiểu rõ tuệ này liền vào cửa đạo không có chướng ngại giống như hư không tự trong sạch, chứ không có ai làm trong sạch.

Bài tụng rằng:

Như người từ lâu nghèo
Theo Thánh chúng xin ăn
Trở lại tự trách mình
Xưa ta chứa tội lỗi.
Liền phát tâm cung kính
Nghĩ thương khắp chúng sinh
Nếu được làm đế vương
Chẩn phát cho muôn dân.
Rồi nằm dưới bóng cây
Bóng cây che thân hình
Sứ giả thưa quần thần
Đến nơi để nghênh đón.
Lập lên làm quốc vương
Phụng Phật và Thánh chúng
Bồ-tát cũng như thế
Siêu vượt, hiểu vốn tịnh
Phước đức cao vời vợi
Độ thoát chư quần sinh
Hư không chẳng bị nhớp
Tâm tịnh như hoa núi
Cứu giúp khổ năm đường
Khiến trừ sợ sinh tử
Như trăng sáng ngày rằm
Riêng tỏa giữa các sao.

Xưa có một người muốn đến xem Phật là người như thế nào, thân hình ra sao, mục đích của giáo lý là gì?

Tôn giả A-nan trông thấy từ xa, đến trước Phật, bạch:

–Người từ xa đi đến là người nào?

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Là người chưa từng có.

Người ấy đến trước Đức Phật, muốn được nhìn Phật, nhưng chẳng thấy Ngài, thân Phật bỗng nhiên biến khỏi tòa ngồi. Người ấy tự nghĩ: “Cố đến xem Phật mà không thấy Ngài.” Quán sát suy nghĩ tại sao vậy. Liền tự hiểu rõ Pháp thân của Thế Tôn vốn không có hình tướng, nhưng vì cái ngã nhân của ta mà hiện ra thân này. Ví như trong núi sâu, người kêu lên thì có tiếng vang, do dội lại mà có tiếng. Pháp thân không có nơi chốn thì vì sao muốn thấy? Vừa tư duy như thế rồi liền đạt được Nhất sinh bổ xứ, không từ đâu sinh, trong ngoài bình đẳng như hư không, siêu nhập Chánh giác.

Bài tụng rằng:

Xưa có người khởi ý
Muốn gặp Phật Thế Tôn
Để biết ngài ra sao
Lời dạy như thế nào.
A-nan hỏi người ấy
Phật dạy chưa từng có
Thân Ngài chợt biến mất
Quái lạ nương vào đâu.
Tự phát tuệ hiểu rõ
Thân Phật không đi đâu
Tuệ an trụ thể không
Thị hiện ra cùng khắp.
Đạo pháp như tiếng vang
Tâm bình đẳng không oán
Người hiểu nghĩa như thế
Như hư không trùm khắp.

Bồ-tát phát tâm muốn cứu tất cả, quán thân bốn đại do nhân duyên hợp thành, giống như huyễn hóa, cũng như vật giả chẳng phải sở hữu của ta, chẳng phải của người khác. Giống như ghép gỗ thành người gỗ do vận hành mới cử động, người ngu thấy vậy cho là người thật, người trí tuệ biết rõ đó là gỗ ghép lại, không có người. Tất cả ba cõi đều không, như sắc, thống, tưởng, hành, thức, mười hai nhân duyên vốn không có sự qua lại, như bóng dưới nước không có hình tướng hành giả như vậy, siêu nhập thành trì Chánh pháp.

Bài tụng rằng:

Bồ-tát mới phát tâm
Hiểu bốn đại vốn không
Xem sinh tử Nê-hoàn
Tất cả đều giống nhau.
Ví như mượn vật người
Thường trả lại chỗ cũ
Chẳng nghĩ về nhân ngã
Trừ bỏ các tối tăm.
Chẳng thấy tâm ý thức
Đạo sáng vượt biển sông
Tam giới như huyễn hóa
Bồ-tát thọ phúng tụng.
Năm đường như dợn nắng
Các ác là giống Phật
Khuyến hóa kẻ chưa hiểu
Pháp thân chẳng chuyển động.

Hoặc người trí tuệ tự nhiên phát ý: Sự tu hành của Như Lai không do lời nói mà đạt đến chánh giác, như ánh mặt trời đồng thời chiếu khắp. Người hiểu nghĩa không thì không có quan niệm đạo tục, bình đẳng như hư không, vĩnh viễn vắng lặng chẳng thể gọi tên. Ví như trong ao bùn giữa đồng trống, không có gieo trồng tự nhiên mọc lên cây hoa sen xanh, hoa phù dung. Bồ-tát cũng vậy ở trong ân ái, hoạn nạn của ba cõi bỗng nhiên phát tuệ, chẳng thấy sinh tử, chẳng trụ Nê-hoàn, giáo hóa tất cả khiến đến an lạc.

Bài tụng rằng:

Ngay khi phát tâm làm Bồ-tát
Phân biệt nghĩa không hiểu ngọn ngành
Vì nhập đạo pháp không gì thiếu
Đầy đủ trí tuệ đạt thần thông.
Giống như hoa sen xanh tại bùn
Như Lai phát ý thành Bồ-đề
Giáo hóa tất cả loài chúng sinh
Đều trụ pháp môn thành Chánh giác.
Hoa xanh trong bùn sạch tốt tươi
Bốn loại màu dụ cho bốn đảnh
Nhất sinh bổ xứ vượt thứ lớp
Sức mạnh hơn định Thủ-lăng-nghiêm.

Bồ-tát tu đạo giống như chim bay trong hư không không gì vướng mắc, vì lấy hư không làm chỗ nương nên chẳng sợ hư không. Bồ-tát cũng vậy, trong khoảnh khắc phát ý liền nhập đạo tuệ, đầy đủ phương tiện quyền xảo, tâm bình đẳng như hư không, không dừng ở nơi đâu, chẳng lìa sinh tử, không ưa Nê-hoàn đều chẳng tăng giảm.

Ví như năm loại màu sắc sặc sỡ khác nhau đều sinh từ thảo mộc; rễ của thảo mộc đều phát sinh từ đất, dưới đất có nước, dưới nước có gió, gió do không mà có. Như vậy tìm căn nguyên đều không sở hữu. Giống như mây nổi bỗng có hơi đến, không biết đến đâu. Bồ-tát cũng thế, hiểu rõ ba cõi là không giống như gió thổi không thể dừng lại, hễ chấp có ngã của ta liền có ba cõi, chẳng thấy có ngã, đâu chấp có bỉ, chẳng rõ vô minh, vô tịnh, bất tịnh. Liền nhập bổn vô cũng không xuất nhập.

Ví như xưa có con trùng nhỏ, trong ruột có kim cương, ở bên bờ biển. Đại thọ Diêm-phù cao bốn ngàn dặm, cây bị chấn động, không thể đứng yên, thần cây hỏi:

–Vì sao ngươi bị chấn động, chẳng yên?

Cây đáp:

–Có trùng nhỏ ở trên thân ta nên chẳng yên.

Thần lại hỏi:

–Chim lớn cánh vàng đậu trên mình ngươi, tại sao không động, mà con trùng nhỏ ở trên lại sợ hãi? Cây đáp:

–Trùng này tuy nhỏ nhưng bụng chứa kim cương, ta không thể thắng được vì vậy lay động.

Con trùng nhỏ ấy là Bồ-tát phát tâm, cây đại thọ ấy là ba cõi. Cây động chẳng yên là Bồ-tát phát tâm vượt đến trí tuệ sâu xa, đạt Nhất sinh bổ xứ, đạt tam thiên đại thiên thế giới, chấn động sáu cách. Chim cánh vàng đậu trên cây không động là các đệ tử tuy đã thành tựu bốn đạo nhưng không có khả năng cảm hóa.

Bài tụng rằng:

Ví như trùng nhỏ ở trên cây
Run sợ chẳng an cành lá rụng
Bồ-tát, Đại sĩ, cũng như vậy
Siêu thoát thành tựu động ba ngàn.
Tâm ngài kiên cố như kim cương
Độ thoát tất cả họa sinh tử
Đệ tử giống như chim cánh vàng
Ở trong ba cõi chẳng độ ai.

Bồ-tát rõ tuệ thâm nhập vi diệu, không theo thứ lớp. Ví như có người từ dân được lập làm vua, kẻ phàm phu hiểu rõ về bổn vô, tâm ngang bằng hư không, không có nơi chốn, đạt Nhất sinh bổ xứ. Xưa trong hư không, bỗng có cây thuốc cành lá phủ khắp bốn phía, dưới trên, hơi nó tỏa xuống, ố khí của các cây cỏ độc đều tiêu, nuôi lớn thiên hạ, những con người tốt, lớn nhỏ đều bình an, đất cao làm cho bằng, chỗ thấp thì nâng lên cao thiên hạ thái bình, không có khe hang và các gò núi, bảy báu tự nhiên mưa bằng cam lồ, dân chúng lớn nhỏ ai nấy đều vui mừng cho là ta, vốn có phước, xa lìa các hoạn, ra vào đi lại không sợ nạn gì, không có nỗi khổ do thú dữ, đạo tặc, nhờ cây thuốc tự nhiên mà được bình an mưa thuận gió hòa, ngũ cốc dồi dào, sắc mặt hòa vui, áo cơm tự có, không hề lo phiền.

Giống như đại thọ hốt nhiên sinh nơi hư không, che khắp thiên hạ, nếu có phàm phu ở trong sinh tử bỗng hiểu trí tuệ sâu xa đạt được bổn vô không còn vướng mắc, chiếu khắp thiên hạ thì gọi người ấy là Bồ-tát, phóng ra ánh sáng lớn để thành Phật, trừ tất cả cấu bẩn nơi dâm, nộ, si của con người. Nuôi lớn khiến được an lạc làm cho bốn chúng phụng hành đạo nghĩa. Khiến chỗ cao thấp bằng nhau là làm cho năm đường chúng sinh đạt được tuệ bình đẳng. Bảy báu tự nhiên là bảy Giác ý. Mưa cam lồ là giảng pháp Bồ-tát. Dân chúng an ổn, ngũ cốc dồi dào là sinh tử chấm dứt, đạt năm thần thông, liền đạt nghĩa lớn, đạt Nhất sinh bổ xứ.

Bài tụng rằng:

Như người dân được lập làm vua
Bồ-tát Đại sĩ cũng như vậy
Hiểu rõ tuệ sâu đến cùng tột
Chứng đắc quả Phật độ mười phương.
Giống như hư không sinh đại thọ
Cây to cành lá phân bốn phía
Tỏa khắp tám hướng trên và dưới
Đất đai bằng phẳng ngũ cốc nhiều.
Thân người phàm phu trong sinh tử
Bỗng hiểu pháp sâu: tuệ hiện khắp
Độ mười phương cõi thoát ba đường
Với tâm bình đẳng mưa cam lồ.


[Đầu trang]


[Mục lục bộ Kinh tập][426][427][428][429][430][431][432][433][434][435][436][437][438][439][440][441][442][443][444][445][446][447][448][449][450][451][452][453][454][455][456][457][458][459][460][461][462][463][464][465][466][467][468][469][470][471][472][473][474][475][476][477][478][479][480][481][482][483][484][485][486][487][488][489][490][491][492A][492B][493][494][495][496][497][498][499][500][501][502][503][504][505][506][507][508][509][510][511][512][513][514][515][516][517][518][519][520][521][522][523][524][525][526][527][528][529][530][531][532][533][534][535][536][537][538][539][540][541][542][543][544][545][546][547][548][549][550][551][552][553][554][555][556][557][558][559][560][561][562][563][564][565][566][567][568][569][570][571][572][573][574][575][603][604][605][606][607][608][609][610][611][612][613][614][615][616][617][618][619][620][621][622][623][624][625][626][627][628][629][630][631][632][633][634][635][636][637][638][639][639][640][641][642][643][644][645][646][647][648][649][650][651][652][653][654][655][656][657][658][659][660][661][662][663][664][665][666][667][668][669][670][671][672][673][674][675][676][677][678][679][680][681][682][683][684][685][686][687][688][718][719][720][721][721][722][723][724][725][726][727][728][729][730][731][732][733][734][735][736][737][738][739][740][741][742][743][744][745][746][747A][747B][748][749][750][751][752][753][754][755][756][757][758][759][760][761][762][763][764][765][766][767][768][769][770][771][772][773][774][775][776][777][778][779][780][781][782][783][784][785][786][787][788][789][790][791][792][793][794A][794B][795][796][797A][797B][798][799][800][801][802][803][804][805][806][807][808][809][810][811][812][813][814][815][816][817][818][819][820][821][822][823][824][825][826][827][828][829][830][831][832][833][834][835][836][837][838][839][840][841][842][843][844][845][846][847]


[Mục lục tổng quát]