TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH
BỘ KINH TẬP (425-847)

SỐ 765-KINH BẢN SỰ

Hán dịch: Đời Đường, Tam tạng Pháp sư Huyền Trang

MỤC LỤC

QUYỂN 1

Phẩm 1: MỘT PHÁP (PHẦN 1)

QUYỂN 2

Phẩm 1: MỘT PHÁP (PHẦN 2)

QUYỂN 3

Phẩm 2: HAI PHÁP (PHẦN 1)

QUYỂN 4

Phẩm 2: HAI PHÁP (PHẦN 2)

QUYỂN 5

Phẩm 2: HAI PHÁP (PHẦN 3)

QUYỂN 6

Phẩm 3: BA PHÁP (PHẦN 1)

QUYỂN 7

Phẩm 3: BA PHÁP (PHẦN 2)


QUYỂN 1

Phẩm 1: MỘT PHÁP (PHẦN 1)

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ta quán sát thế gian thấy không có một pháp riêng nào ngăn che quần sinh khiến giong ruổi, trôi lăn mãi trong vòng sinh tử như sự che phủ của vô minh. Vì sao? Vì quần sinh ở thế gian do sự che phủ của vô minh nên giong ruổi, trôi lăn mãi trong vòng sinh tử. Thế nên các vị nên học như vầy: Ta phải tu tập như thế nào để phát sinh trí tuệ sáng suốt, phá tan màn tối vô minh, ra khỏi lưới tham ái? Bí-sô các vị nên học như vậy. Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Không một pháp riêng nào
Như màn tối vô minh
Che ngăn các quần sinh
Trôi theo dòng sinh tử.
Vô minh tất ngu, ám
Do đấy trôi lăn mãi
Qua lại đây và kia
Lên xuống cõi cao, thấp.
Phá màn tối vô minh
Thoát khỏi lưới tham ái
Không ở dòng sinh tử
Đó không còn nhân kia.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ta quán xét thế gian, thấy không có một pháp riêng nào trói buộc nên khiến giong ruổi, trôi lăn mãi trong dòng sinh tử, như là tham ái nối kết. Vì sao? Vì quần sinh ở thế gian, do “tham ái nối kết” trói buộc nên giong ruổi, trôi lăn mãi trong dòng sinh tử. Thế nên các vị nên học như vầy: Ta phải tu tập như thế nào để đạt được trí tuệ sáng suốt, nhằm đoạn trừ tham ái kết, phá tan khối tối tăm lớn. Bí-sô các vị nên học như vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Không có một chút nào
Như tham ái nối kết
Trói buộc các quần sinh
Trôi theo dòng sinh tử.
Tham ái trói buộc mãi
Do đấy cứ trôi lăn
Qua lại đây và kia
Lên xuống cõi cao thấp.
Đoạn tham ái nối kết
Phá khối tối tăm lớn
Không ở dòng sinh tử
Do không còn nhân kia.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Nếu một hữu tình ở trong một kiếp, trôi lăn nơi sinh tử, thân xác của họ thọ nhận giả sử chất đống lại, không bị tiêu hoại thì đống xương đó cao rộng như núi Tỳ-bổ-la ở thành Vương xá, huống chi là hữu tình ấy từ vô thỉ đến giờ mãi lưu chuyển nơi sinh tử thì thân xác của họ thọ nhận làm sao có thể đo lường được? Vì sao? Bí-sô nên biết! Ta nói, đối với bốn Thánh đế, các hữu tình đó không hiểu biết, không soi thấy, không hiện quán, không thông đạt, không xét kỷ nên giong ruổi, trôi lăn mãi nơi dòng sinh tử, lãnh thọ các thân hình, vì thế các vị nên học như vầy: Ta phải tu tập như thế nào đối với bốn Thánh đế? Nghĩa là phải hiểu biết, soi thấy, hiện quán, thông đạt, xét kỷ một cách rốt ráo. Bí-sô các vị nên học như vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Hữu tình trong một kiếp
Thọ thân tướng, không tiêu
Đống xương đó cao rộng
Như núi Tỳ-bổ-la.
Huống vô thỉ đến nay
Trôi lăn mãi sinh tử
Thân xác đã thọ nhận
Số đó không thể lường.
Nhận khối khổ lớn ấy
Do không thấy Thánh đế
Cần phải tu diệu trí
Chánh quán bốn chân thật.
Nghĩa là Khổ thánh đế
Nhân khổ và Diệt khổ
Diệt khổ và Nhân khổ
Đường tám nhánh chân chánh.
Bổ-đặc-già-la này
Còn bảy lần lưu chuyển
Nhất định đoạn sạch kết
Dứt hết cảnh giới khổ.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ta dùng Phật nhãn quán sát khắp thế gian, thấy các nghiệp quả, đều duyên nơi tâm và ý. Có loại hữu tình do tâm ý sai khiến nên hành động như vậy, đi theo con đường như vậy, thân hoại mạng chung, như vứt bỏ gánh nặng, đọa vào các nẻo ác, sinh trong địa ngục. Vì sao? Vì các hữu tình đó tâm ý cấu uế, do nhân này nên khi thân hoại mạng chung bị đọa vào các nẻo ác, sinh trong địa ngục.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa và nói kệ:

Một loại các hữu tình
Tâm ý sinh cấu nhiễm
Ta nay vì các vị
Ghi rõ chốn nó sinh.
Thân hư hoại mạng chung
Như vứt bỏ gánh nặng
Nhất định đọa nẻo ác
Sinh trong chốn địa ngục.
Nên biết kẻ ác tuệ
Do tâm ý cấu nhiễm
Vì nhân cấu nhiễm ấy
Nên sinh trong địa ngục.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ta dùng Phật nhãn quán xét khắp thế gian, có các nghiệp quả, đều duyên nơi tâm ý. Có loại hữu tình do tâm ý sai khiến, nên hành động như vậy, đi theo con đường như vậy. Khi thân hoại mạng chung, như giảm bớt gánh nặng, thẳng đến các nẻo thiện, sinh trong cõi trời. Vì sao? Vì các hữu tình đó tâm ý thanh tịnh. Do nhân này, thân hoại mạng chung, thẳng đến các nẻo thiện, sinh trong cõi trời.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Một loại các hữu tình
Phát tâm ý thanh tịnh
Ta nay vì các vị
Ghi rõ chốn nó sinh.
Thân hư họai mạng chung
Như giảm bớt gánh nặng
Nhất định thẳng nẻo thiện
Sinh ngay trong cõi trời.
Nên biết người trí tuệ
Do tâm ý thanh tịnh
Vì nhân thanh tịnh ấy
Nên sinh trong cõi trời.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Tất cả hữu tình đều do nghiệp của chính mình tạo ra. Nghiệp là bạn bè, nghiệp là chỗ phát sinh, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là chỗ dựa nương hướng đến. Nghiệp có thể phân định tất cả hữu tình thành loại: thượng, trung, hạ. Thế nên các vị cần phải biết rõ: Tự tánh của các nghiệp, nhân duyên của các nghiệp, phẩm loại nơi các nghiệp, dị thục của các nghiệp, tập diệt của các nghiệp và những điều kiện, nhân duyên hướng đến con đường diệt trừ nghiệp.

Này các Bí-sô! Như ta đã giảng nói: Các vị nên nhận biết đúng đắn.

Thế nào là nên nhận biết về tự tánh của các nghiệp? Tự tánh của các nghiệp là hoặc suy xét về nghiệp, hoặc suy xét về nghiệp đã tạo. Như vậy là nên nhận biết về tự tánh của các nghiệp. Đã nhận biết đúng đắn về tự tánh của các nghiệp rồi, làm thế nào để biết về nhân duyên của các nghiệp? Nhân duyên của các nghiệp là các thứ tham ái. Như vậy là nhận biết về nhân duyên các nghiệp. Đã nhận biết đúng tự tánh của các nghiệp, nhân duyên của các nghiệp rồi, làm thế nào để nhận biết về phẩm loại của các nghiệp? Phẩm loại của các nghiệp là phẩm loại riêng nơi nghiệp. Có phẩm loại riêng nơi nghiệp hướng đến thân địa ngục. Có phẩm loại riêng nơi nghiệp hướng đến thân bàng sinh. Có phẩm loại riêng nơi nghiệp hướng đến thân ngạ quỷ. Có phẩm loại riêng nơi nghiệp hướng đến thân nơi cõi A-tu-la. Có phẩm loại riêng nơi nghiệp hướng đến thân nơi cõi người, cõi trời. Như vậy là nên nhận biết về phẩm loại của các nghiệp. Đã nhận biết đúng về tự tánh của các nghiệp, nhân duyên của các nghiệp, phẩm loại của các nghiệp rồi, làm thế nào để nhận biết về dị thục của các nghiệp? Dị thục (quả báo) của các nghiệp là các nghiệp đã tạo ra trong đời này, tức trong đời này có thể chiêu cảm nơi các cõi hoặc đã nhận hay chưa nhận. Như vậy là nên nhận biết về dị thục của các nghiệp. Đã nhận biết đúng về tự tánh của các nghiệp, nhân duyên của các nghiệp, phẩm loại của các nghiệp dị thục của các nghiệp rồi, làm thế nào để nhận biết về sự diệt tận của các nghiệp? Diệt tận của các nghiệp là diệt trừ ái nên các nghiệp đều diệt hết. Như vậy là nhận biết về sự diệt tận các nghiệp. Đã nhận biết đúng về tự tánh của các nghiệp, nhân duyên của các nghiệp, phẩm loại của các nghiệp, dị thục của các nghiệp, sự diệt tận các nghiệp rồi, làm thế nào để nhận biết về những điều kiện, nhân duyên hướng đến con đường diệt trừ nghiệp, những điều kiện, nhân duyên hướng đến con đường diệt trừ nghiệp là tám chi Thánh đạo, tức là: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định. Như vậy là nhận biết về những điều kiện, nhân duyên hướng đến con đường diệt trừ nghiệp.

Bí-sô nên biết! Các Sa-môn hay Bà-la-môn, ai nhận biết đúng đắn tự tánh của các nghiệp, nhân duyên của các nghiệp, phẩm loại nơi các nghiệp, dị thục của các nghiệp, sự diệt tận các nghiệp, cùng những điều kiện, nhân duyên hướng đến con đường diệt trừ nghiệp, thì có thể tin theo pháp, luật của ta. Ai có thể tin theo pháp, luật của ta thì có thể thâm nhập pháp, luật của ta. Ai có thể thâm nhập pháp, luật của ta thì có thể thông đạt pháp, luật của ta và tu hành phạm hạnh thì tức có thể đạt được cứu cánh là diệt hết tất cả các nghiệp? Vì sao? Vì các Sa-môn hay Bà-la-môn này đã nhận biết đúng đắn tự tánh của các nghiệp, nhân duyên các nghiệp, phẩm loại nơi các nghiệp, dị thục của các nghiệp, sự diệt tận các nghiệp, cùng những điều kiện, nhân duyên hướng đến con đường diệt trừ nghiệp, thì ngay nơi các nghiệp, có thể chán lìa và diệt hết, được giải thoát rốt ráo giải thoát hoàn toàn. Đã hoàn toàn giải thoát rồi thì có thể an lập, đã có thể an lập là khéo tu tập viên mãn. Đã khéo tu tập viên mãn, vị ấy khi bỏ thân này thì đúng như pháp không còn tạo nghiệp và không còn cảnh giới.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Thế gian các hữu tình
Ba đời: trước, giữa, sau
Thuộc nơi nghiệp của mình
Nghiệp là bè bạn họ.
Nghiệp là chỗ phát sinh
Nghiệp là quyến thuộc họ
Nghiệp là chốn dựa hướng
Nghiệp phân làm ba bậc.
Tùy nghiệp sinh khắp nơi
Luân chuyển không cố định
Hoặc ở trong trời, người
Hoặc nơi bốn nẻo ác.
Thế gian các hữu tình
Theo nghiệp lực xoay chuyển
Đất nước, của, vợ con
Không mang qua đời khác.
Người ấy khi mạng chung
Sở hữu đều bỏ hết
Riêng theo nghiệp mà đi
Do nghiệp của chính mình.
Các hữu tình đời sau
Dẫu thọ nghiệp như vậy
Nếu theo lời Phật dạy
Chánh tín và xuất gia.
Ở trong chốn ngu si
Không thầy dẫn đúng đường
Gọi siêng năng tu hành
Hiểu rõ được chánh pháp.
Thế nên các Bí sô
Tinh tấn chớ buông lung
Nên biết rõ của các nghiệp
Tiếp tục tu chân chánh.
Đoạn hết bản chất nghiệp
Và nhân duyên của nghiệp
Tu tám chi Thánh đạo
Mau đạt được viên mãn.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Thế gian có các pháp ác, bất thiện, ngay khi phát sinh các thứ bất thiện, các loại bất thiện ấy, tất cả đều do ý dẫn đầu. Vì sao? Vì ý phát sinh xong thì các pháp ác, bất thiện liền theo đó sinh ra.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Các pháp bất thiện sinh
Là nhân để chịu khổ
Do ý dẫn đường trước
Cùng phiền não đồng sinh.
Ý là pháp dẫn đầu
Ý chủ, ý sai khiến
Do ý, có cấu nhiễm
Nói năng và hành động
Khổ theo đấy sinh ra
Như vòng xoay, do tay.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Trong thế gian có những pháp thiện trắng sạch, khi chúng phát sinh, các phẩm thiện, loại thiện, tất cả đều do ý dẫn đầu. Vì sao? Vì ý phát sinh xong thì những pháp thiện trắng sạch liền sinh theo.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Pháp thiện tịnh phát sinh
Là nhân được quả vui
Do ý dẫn đường trước
Cùng pháp thiện đồng sinh.
Ý là pháp dẫn đầu
Ý chủ ý sai khiến
Do ý có thanh tịnh
Nói năng và hành động
Vui theo đấy sinh ra
Như bóng di theo hình.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Thế gian có một pháp, ngay khi phát sinh, giúp cho nhiều chúng sinh làm việc không lợi ích, làm việc không an vui, dẫn đến các đại chúng như chư Thiên, người thế gian làm việc không nghĩa lợi, nhận lấy quả khổ lớn.

Thế nào là một pháp?

Đó là phá Tăng.

Vì sao? Bí-sô nên biết! Vì Tăng nếu bị phá thì tất cả đại chúng sẽ cùng nhau phát sinh sự tranh cãi, trách cứ nhau, khinh miệt, nhục mạ, hủy báng, oán thù nhau, gây phiền não cho nhau, phản nghịch, chê bai và rời bỏ nhau. Ngay khi ấy, nơi tất cả thế gian, người chưa kính tin sẽ không kính tin, người đã kính tin, trở lại không kính tin nữa.

Bí-sô nên biết! Như vậy gọi là thế gian có một pháp, ngay khi phát sinh đã giúp cho nhiều chúng sinh làm việc không lợi ích, làm việc không an vui, dẫn đến các đại chúng như chư Thiên, người thế gian làm việc không nghĩa lợi, nhận lấy quả báo khổ.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Thế gian có một pháp
Tạo nên vô lượng ác
Đó là phá hoại Tăng
Người ngu si vui theo.
Phá hoại Tăng bị khổ
Phá hoại chúng cũng khổ
Tăng khiến hoại hòa hợp
Nhiều kiếp khổ không ngừng.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Thế gian có một pháp, ngay khi mới phát sinh, sẽ giúp cho nhiều chúng sinh làm việc nhiều lợi ích, làm việc nhiều an vui, đưa đến các đại chúng nơi thế gian và chư Thiên làm việc nghĩa lợi lớn, nhận lấy quả vui lớn.

Thế nào là một pháp?

Đó là Tăng hòa hợp. Vì sao? Bí-sô nên biết! Tăng nếu được hòa hợp thì tất cả đại chúng sẽ không tranh cãi nhau, không trách cứ, không khinh miệt, không nhục mạ, không chê bai, không oán thù, không gây phiền não cho nhau, không phản nghịch, không phỉ báng và không rời bỏ nhau. Ngay khi ấy tất cả thế gian, người chưa biết kính tin, liền sinh kính tin, người đã kính tin càng thêm kính tin hơn nữa.

Bí-sô nên biết! Như vậy gọi là thế gian khi có một pháp, khi phát sinh thì giúp cho nhiều chúng sinh được nhiều lợi ích, được nhiều an vui, đưa đến các đại chúng như chư Thiên và thế gian làm việc nghĩa lợi lớn, nhận lãnh quả vui lớn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Thế gian có một pháp
Phát sinh vô lượng phước
Gọi là Tăng hòa hợp
Người có trí vui theo.
Tăng hòa hợp an vui
Chúng hòa hợp cũng vui
Tăng bị phá khiến hòa
Luôn hưởng vui cõi trời.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Hữu tình ở thế gian, khi đoạn trừ một kết thì tất cả các kết khác cũng đều đoạn trừ theo.

Thế nào là một kết?

Đó là ngã mạn. Vì sao? Vì các kết hiện có, về bậc thô, bậc trung, bậc vi tế, tất cả đều lấy ngã mạn làm gốc, từ ngã mạn sinh ra, từ ngã mạn lớn lên, cho nên khi một kết ngã mạn đoạn trừ thì các kết khác đều đoạn theo. Ví như lầu đài trung tâm ở thế gian, đều là chỗ nương dựa của nhiều phần lầu đài khác. Trung tâm nếu bị sụp thì các bộ phận khác cũng sụp theo. Như vậy, ngã mạn là chỗ các kết nương tựa, ngã mạn nếu đoạn trừ thì các kết cũng theo đó đoạn hết. Nếu các Bí-sô đã đoạn trừ ngã mạn thì nên biết tức là đã đoạn hết các kết khác. Các Bí-sô nào đã đoạn các kết khác thì nên biết tức là đã đoạn hết cảnh giới khổ, đã tu chánh trí, tâm giải thoát hoàn toàn, tuệ giải thoát hoàn toàn, không còn thọ lại thân sau.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Như trung tâm lầu đài
Các bộ phận nương tựa
Trung tâm nếu sụp đổ
Các phần đều sụp theo.
Như vậy kết ngã mạn
Chỗ các kết nương tựa
Khi kết ngã mạn đoạn
Các kết đều diệt hết.
Bí-sô đoạn ngã mạn
Kết khác đều đoạn theo
Các kết đã đoạn xong
Dứt ngay cảnh giới khổ.
Đã dứt cảnh giới khổ
Là đã tu chánh trí
Tâm, tuệ đều giải thoát
Không thọ lại thân sau.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Thế gian có một pháp, nếu khéo tu tập hoàn tất, tu tập nhiều việc hoàn tất, thâu giữ hai lợi khiến đạt đến viên mãn. Nghĩa là đạt đến viên mãn pháp lợi ngay trong đời này và đạt đến viên mãn pháp lợi nơi đời sau. Có thể thành tựu pháp ngay trong đời này, được lợi ích an vui. Có thể thành tựu pháp nơi đời sau, được lợi ích an vui. Có thể thành tựu pháp ngay trong đời này và đời sau được lợi ích an vui.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là ở trong chỗ tu tập các pháp thiện, tu tập tinh tấn không buông lung. Vì sao? Vì nếu ở trong chỗ tu tập các pháp thiện không xao lãng thì có thể tu tập một việc hoàn tất, tu tập nhiều việc hoàn tất, có thể giữ gìn hai thứ nghĩa lợi, đưa đến viên mãn. Nói rộng ra, cho đến có thể thành tựu lợi ích an vui ngay nơi đời này và đời sau. Đó gọi là một pháp. Ai tu tập một việc hoàn tất, nhiều việc hoàn tất, thâu giữ hai lợi, nói rộng ra cho đến có thể thành tựu lợi ích an vui ngay nơi đời này và đời sau.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Những người có trí tuệ
Bỏ của cải địa vị
Siêng tu, không buông lung
Chứng Niết-bàn thường lạc.
Người trí không phóng dật
Thâu giữ cả hai lợi
Pháp đời nay đời sau
Đều đạt đến viên mãn.
Người thành tựu đầy đủ
Nay, sau đều lợi lạc
Chúng Hiền thánh trước sau
Khen họ là ngươi trí.

Kệ tóm tắt lại phần kinh Bản Sự ở trước:

Cái kết, cướp, hai tâm
Hai nghiệp, ý dẫn đầu
Phá Tăng và hòa Tăng
Đoạn mạn, không phóng dật.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Nếu các hữu tình nào đoạn trừ hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là xả bỏ Tham. Vì sao? Vì tất cả hữu tình do tham nhiễm nên thường qua lại, bị đọa trong các nẻo ác, chịu khổ nơi sinh tử. Ai có thể đoạn hẳn một pháp như vậy, ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn sinh trở lại nơi thế gian này. Thế nên Ta nói! Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do tham lam cấu nhiễm
Qua lại, đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ tham nhiễm ấy
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là xả bỏ Sân. Vì sao? Vì tất cả hữu tình do Sân cấu nhiễm nên thường qua lại, đọa trong các nẻo ác, chịu khổ nơi sinh tử. Ai có thể đoạn hẳn một pháp như vậy, ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn sinh trở lại nơi thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do Sân làm cấu nhiễm
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Sân ấy
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là xả bỏ Si. Vì sao? Vì tất cả hữu tình do Si cấu nhiễm thường qua lại đọa trong các đường ác, chịu khổ sinh tử. Ai có thể đoạn hẳn một pháp như vậy, ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn sinh trở lại nơi thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do Si làm cấu nhiễm
Qua lại đọa đường ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Si ấy
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là xả Phú che lấp. Vì sao? Vì tất cả hữu tình do Phú cấu nhiễm nên thường qua lại đọa trong các đường ác, chịu khổ sinh tử. Ai có thể đoạn hẳn một pháp như vậy, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn sinh trở lại nơi thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do Phú làm cấu nhiễm
Qua lại đọa cõi ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Phú ấy
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là xả bỏ Não. Vì sao? Vì tất cả hữu tình do Não cấu nhiễm nên thường qua lại đọa trong các đường ác, chịu khổ sinh tử. Ai có thể đoạn hẳn một pháp như vậy, ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn sinh trở lại nơi thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do Não làm cấu nhiễm
Qua lại đọa đường ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Não ấy
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là xả bỏ Phẫn. Vì sao? Vì tất cả hữu tình do Phẫn cấu nhiễm nên thường qua lại, đọa trong các đường ác, chịu khổ sinh tử. Ai có thể đoạn hẳn một pháp như vậy, ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn sinh trở lại trong thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do Phẫn làm cấu nhiễm
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Phẫn ấy
Nhất định được bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là xả bỏ Hận. Vì sao? Vì tất cả hữu tình do Hận cấu nhiễm nên thường qua lại, đọa trong các nẻo ác, chịu khổ sinh tử. Ai có thể đoạn hẳn một pháp như vậy, ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn sinh trở lại thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do Hận làm cấu nhiễm
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Hận ấy
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là xả bỏ Tật (ganh ghét). Vì sao? Vì tất cả hữu tình do Tật cấu nhiễm nên thường qua lại, đọa trong các nẻo ác, chịu khổ sinh tử. Ai có thể đoạn hẳn mọt pháp như vậy, ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn sinh trở lại nơi thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do Tật làm cấu nhiễm
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Tật này
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là xả bỏ Xan (keo kiệt). Vì sao? Vì tất cả hữu tình do Xan cấu nhiễm nên thường qua lại, đọa trong các nẻo ác, chịu khổ sinh tử. Ai có thể đoạn hẳn một pháp như vậy. ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn sinh trở lại nơi thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, Ta chứng nhận hữu tình đó được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do Xan làm cấu nhiễm
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Xan ấy
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là xả bỏ Đam (mê đắm). Vì sao? Vì tất cả hữu tình do Đam cấu nhiễm nên thường qua lại, đọa trong các nẻo ác, chịu khổ sinh tử. Ai có thể đoạn hẳn một pháp như vậy, ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn sinh trở lại nơi thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do Đam làm cấu nhiễm
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết chân chánh
Đoạn trừ hẳn Đam ấy
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là xả bỏ Mạn (kiêu mạn). Vì sao? Vì tất cả hữu tình do Mạn cấu nhiễm nên thường qua lại, đọa trong nẻo ác, chịu khổ sinh tử. Ai có thể đoạn hẳn một pháp như vậy, ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn sinh trở lại nơi thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do Mạn làm cấu nhiễm
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Mạn ấy
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là xả bỏ Hại. Vì sao? Vì tất cả hữu tình do Hại cấu nhiễm nên thường qua lại, đọa trong các nẻo ác, chịu khổ sinh tử. Ai có thể đoạn hẳn một pháp như vậy, ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn sinh trở lại nơi thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào đoạn hẳn một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do Hại làm cấu nhiễm
Qua lại, đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Hại ấy
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Bài kệ tóm tắt lại phần kinh Bản Sự ở trước:

Tham dục, Sân, Nhuế, Si
Phú tàng, Não và Phẫn
Oán hận, Tật cùng Xan
Đam mê, Mạn, cùng Hại.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là niệm Phật. Vì sao? Vì tất cả hữu tình do không niệm Phật nên thường qua lại đọa trong các đường ác, chịu khổ sinh tử. Ai thường niệm một pháp như vậy, ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn sinh trở lại thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do vì không niệm Phật
Qua lại, đọa đường ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Thường niệm đức của Phật
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là niệm Pháp. Vì sao? Vì tất cả hữu tình do không niệm Pháp nên thường qua lại, đọa trong các đường ác, chịu khổ sinh tử. Ai thường niệm một pháp như vậy, ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn sinh lại nơi thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do vì không niệm Pháp
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Thường niệm đến Chánh pháp
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là niệm Thánh chúng. Vì sao? Vì tất cả hữu tình do không niệm Thánh chúng nên thường qua lại đọa trong các nẻo ác, chịu khổ sinh tử. Ai thường niệm một pháp như vậy, ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn trở lại nơi thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do không niệm Thánh chúng
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Thường nhớ mãi Thánh chúng
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là niệm Giới. Vì sao? Vì tất cả hữu tình do không niệm giới nên thường qua lại, đọa trong các nẻo ác, chịu khổ sinh tử. Ai thường niệm một pháp như vậy, ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn sinh trở lại thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do vì không niệm Giới
Qua lại, đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Thường niệm luôn về Giới
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là niệm Thí. Vì sao? Vì tất cả hữu tình do không niệm Thí nên thường qua lại, đọa trong các nẻo ác, chịu khổ sinh tử. Ai thường niệm một pháp như vậy, ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn. Không còn sinh trở lại thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do vì không niệm Thí
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Thường niệm luôn về Thí
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là niệm Thiên. Vì sao? Vì tất cả hữu tình do không niệm Thiên nên thường qua lại, đọa trong các nẻo ác, chịu khổ sinh tử. Ai thường niệm một pháp như vậy, ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn. Không còn sinh trở lại nơi thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do vì không niệm Thiên
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Luôn luôn niệm về Thiên
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là niệm về sự dừng nghỉ. Vì sao? Vì tất cả hữu tình do không niệm về sự dừng nghỉ nên thường qua lại đọa trong nẻo ác, chịu khổ sinh tử. Ai thường niệm một pháp như vậy, ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn sinh trở lại thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do không niệm dừng nghỉ
Qua lại đọa đường ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Luôn niệm sự dừng nghỉ
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là quán hơi thở ra, hơi thở vào. Vì sao? Vì tất cả hữu tình do không quán hơi thở ra, hơi thở vào nên thường qua lại, đọa trong các nẻo ác, chịu khổ sinh tử. Ai thường niệm một pháp như vậy, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn sinh trở lại nơi thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do không quán hơi thở
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Thường quán về hơi thở
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là niệm Thân. Vì sao? Vì tất cả hữu tình do không niệm Thân nên thường qua lại đọa trong các nẻo ác, chịu khổ sinh tử. Ai thường niệm một pháp như vậy, ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn sinh trở lại nơi thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quán các hữu tình
Do không niệm về Thân
Qua lại, đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Luôn niệm đến thân thể
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Thế nào là một pháp?

Nghĩa là niệm Tử (chết). Vì sao? Vì tất cả hữu tình do không niệm Tử nên thường qua lại, đọa trong các nẻo ác, chịu khổ sinh tử. Ai thường niệm một pháp như vậy, ta chứng nhận người đó nhất định được quả Bất hoàn, không còn sinh trở lại nơi thế gian này. Thế nên ta nói: Các hữu tình nào thường niệm một pháp, ta chứng nhận hữu tình đó nhất định được quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta thấy các hữu tình
Do vì không niệm Tử
Qua lại, đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Luôn luôn niệm về Tử
Nhất định được Bất hoàn
Không sinh lại thế gian.

QUYỂN 2

Phẩm 1: MỘT PHÁP (PHẦN 2)

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ai đối với tham nhận biết đúng như thật, chưa nhận biết đúng khắp, chưa đoạn trừ hẳn, thì người đó ngay nơi tâm mình chưa lìa tham, nên không thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác không thể đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Ai đối với tham đã nhận biết đúng như thật, đã nhận biết đúng khắp, đã đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình đã lìa tham thì có thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Thế nên, các Bí-sô đối với tham nên nhận biết đúng như thật, nên nhận biết đúng khắp, nên tìm cách đoạn trừ hẳn, tức ở trong pháp Phật nên tu phạm hạnh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ai chưa biết rõ Tham
Họ cánh xa Niết-bàn
Ai đã biết rõ Tham
Cách Niết-bàn không xa.
Ta thấy các hữu tình
Do tham làm cấu nhiễm
Qua lại, đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn tham ấy
Được thượng quả Sa-môn
Không còn tái sinh nữa.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ai đối với Sân chưa nhận biết đúng như thật, chưa nhận biết đúng khắp, chưa đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình chưa lìa Sân, nên không thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Ai đối với Sân đã nhận biết đúng như thật, đã nhận biết đúng khắp, đã đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình đã lìa Sân, thì có thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Thế nên Bí-sô! Đối với Sân nên nhận biết đúng như thật tri, nên nhận biết đúng khắp, nên tìm cách đoạn trừ hẳn, tức ở trong Phật pháp nên tu hành phạm hạnh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ai chưa biết rõ Sân
Người đó xa Niết-bàn
Ai đã biết rõ Sân
Ta quán các hữu tình
Do Sân làm cấu nhiễm
Qua lại, đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Sân ấy
Được thượng quả Sa-môn
Không còn thọ sinh nữa.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ai đối với Si chưa nhận biết đúng như thật, chưa nhận biết đúng khắp, chưa đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình chưa lìa Si, nên không thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Ai đối với Si đã nhận biết đúng như thật, đã nhận biết đúng khắp, đã đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình đã lìa Si, thì có thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Thế nên Bí-sô! Đối với Si nên nhận biết đúng như thật, nên nhận biết đúng khắp, nên cầu mong đoạn trừ hẳn, tức ở trong pháp Phật nên tu hành phạm hạnh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ai chưa biết rõ Si
Người đó xa Niết-bàn
Ai đã biết rõ Si
Cách Niết-bàn không xa.
Ta thấy các hữu tình
Do Si làm cấu nhiễm
Qua lại, đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Si này
Được thượng quả Sa-môn
Không còn thọ sinh nữa.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ai đối với Phú chưa nhận biết đúng như thật, chưa nhận biết đúng khắp, chưa đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình chưa lìa Phú, thì không thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Ai đối với Phú đã nhận biết đúng như thật, đã nhận biết đúng khắp, đã đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình đã lìa Phú, nên có thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Thế nên Bí-sô! Đối với Phú nên nhận biết đúng như thật, nên nhận biết đúng khắp, nên tìm cách đoạn trừ hẳn, tức ở trong Phật pháp nên tu hành phạm hạnh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ai chưa biết rõ Phú
Người đó xa Niết-bàn
Ai đã biết rõ Phú
Ta thấy các hữu tình
Do Phú làm cấu nhiễm
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Phú ấy
Được thượng quả Sa-môn
Không còn thọ sinh nữa.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ai đối với Não chưa nhận biết đúng như thật, chưa nhận biết đúng khắp, chưa đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình chưa lìa Não, nên không thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Ai đối với Não đã nhận biết đúng như thật, đã nhận biết đúng khắp, đã đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình đã lìa Não, thì có thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Thế nên Bí-sô! Đối với Não nên nhận biết đúng như thật, nên nhận biết đúng khắp, nên tìm cách đoạn trừ hẳn, tức ở trong Phật pháp nên tu hành phạm hạnh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ai chưa biết rõ Não
Người đó xa Niết-bàn
Ai đã biết rõ Não
Cách Niết-bàn không xa.
Do Não làm cấu nhiễm
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Não ấy
Được thượng quả Sa-môn
Không còn thọ sinh nữa.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ai đối với Phẫn chưa nhận biết đúng như thật, chưa nhận biết đúng khắp, chưa đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình chưa lìa Phẫn, nên không thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Ai đối với Phẫn đã nhận biết đúng như thật, đã nhận biết đúng khắp, đã đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình đã lìa Phẫn thì có thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Thế nên Bí-sô! Đối với Phẫn nên nhận biết đúng như thật, nên nhận biết đúng khắp, nên tìm cách đoạn trừ hẳn, tức ở trong pháp Phật nên tu hành phạm hạnh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ai chưa biết rõ Phẫn
Người đó xa Niết-bàn
Ai đã biết rõ Phẫn
Do Phẫn làm cấu nhiễm
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Phẫn ấy
Được thượng quả Sa-môn
Không còn thọ sinh nữa.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ai đối với Hận chưa nhận biết đúng như thật, chưa nhận biết đúng khắp, chưa đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình chưa lìa Hận, nên không thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Ai đối với Hận đã nhận biết đúng như thật, đã nhận biết đúng khắp, đã đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình đã lìa Hận, thì có thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Thế nên Bí-sô! Đối với Hận phải nhận biết đúng như thật, nên nhận biết đúng khắp, nên cầu mong đoạn trừ hẳn, tức ở trong pháp Phật nên tu hành phạm hạnh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ai chưa biết rõ Hận
Người đó xa Niết-bàn
Ai đã biết rõ Hận
Do Hận làm cấu nhiễm
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Hận ấy
Được thượng quả Sa-môn
Không còn thọ sinh nữa.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ai đối với Tật chưa nhận biết đúng như thật, chưa nhận biết đúng khắp, chưa đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình chưa lìa Tật, nên không thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Ai đối với Tật đã nhận biết đúng như thật, đã nhận biết đúng khắp, đã đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình đã lìa Tật, thì có thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Thế nên Bí-sô! Đối với Tật phải nhận biết đúng như thật, nên nhận biết đúng khắp, nên tìm cách đoạn trừ hẳn, tức ở trong pháp Phật nên tu hành phạm hạnh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ai chưa biết rõ Tật
Người đó xa Niết-bàn
Ai đã biết rõ Tật
Do Tật làm cấu nhiễm
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Tật ấy
Được thượng quả Sa-môn
Không còn thọ sinh nữa.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ai đối với Xan chưa nhận biết đúng như thật, chưa nhận biết đúng khắp, chưa đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình chưa lìa Xan, nên không thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Ai đối với Xan đã nhận biết đúng như thật, đã nhận biết đúng khắp, đã đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình đã lìa Xan, thì có thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Thế nên Bí-sô! Đối với Xan phải nhận biết đúng như thật, nên nhận biết đúng khắp, nên tìm cách đoạn trừ hẳn, tức ở trong pháp Phật nên tu hành phạm hạnh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ai chưa biết rõ Xan
Người đó xa Niết-bàn
Ai đã biết rõ Xan
Ta quán các hữu tình
Do Xan làm cấu nhiễm
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Xan ấy
Được thượng quả Sa môn
Không còn thọ sinh nữa.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ai đối với Đam chưa nhận biết đúng như thật, chưa nhận biết đúng khắp, chưa đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình chưa lìa Đam, nên không thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Ai đối với Đam đã nhận biết đúng như thật, đã nhận biết đúng khắp, đã đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình đã lìa Đam, thì có thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Thế nên Bí-sô! Đối với Đam nên nhận biết đúng như thật, nên nhận biết đúng khắp, nên tìm cách đoạn trừ hẳn, tức ở trong pháp Phật nên tu hành phạm hạnh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ai chưa biết rõ Đam
Người đó xa Niết bàn
Ai đã biết rõ Đam
Cách Niết-bàn không xa.
Do Đam làm cấu nhiễm
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Đam ấy
Được thượng quả Sa-môn
Không còn thọ sinh nữa.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ai đối với Mạn chưa nhận biết đúng như thật, chưa nhận biết đúng khắp, chưa đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình chưa lìa Mạn, nên không thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Ai đối với Mạn đã nhận biết đúng như thật, đã nhận biết đúng khắp, đã đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình đã lìa Mạn, thì có thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Thế nên Bí-sô! Đối với Mạn phải nhận biết đúng như thật, nên nhận biết đúng khắp, nên tìm cách đoạn trừ hẳn, tức ở trong pháp Phật nên tu hành phạm hạnh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ai chưa biết rõ Mạn
Người đó xa Niết-bàn
Ai đã biết rõ Mạn
Do Mạn làm cấu nhiễm
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Mạn ấy
Được thượng quả Sa-môn
Không còn thọ sinh nữa.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ai đối với Hại chưa nhận biết đúng như thật, chưa nhận biết đúng khắp, chưa đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình chưa lìa Hại, nên không thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Ai đối với Hại đã nhận biết đúng như thật, đã nhận biết đúng khắp, đã đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình đã lìa Hại, thì có thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Thế nên Bí-sô! Đối với Hại nên nhận biết đúng như thật, nên nhận biết đúng khắp, nên tìm cách đoạn trừ hẳn, tức ở trong pháp Phật nên tu hành phạm hạnh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ai chưa biết rõ Hại
Người đó xa Niết-bàn
Ai đã biết rõ Hại
Do Hại làm cấu nhiễm
Qua lại đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.
Ai hiểu biết đúng đắn
Đoạn trừ hẳn Hại ấy
Được thượng quả Sa-môn
Không còn thọ sinh nữa.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ai đối với tất cả chưa nhận biết đúng như thật, chưa nhận biết đúng khắp, chưa đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình chưa lìa tất cả, nên không thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Ai đối với tất cả đã nhận biết đúng như thật, đã nhận biết đúng khắp, đã đoạn trừ hẳn, người đó ngay nơi tâm mình đã lìa tất cả, thì có thể thông đạt, biết khắp, đẳng giác, đạt đến Niết-bàn và chứng đắc an lạc vô thượng. Thế nên Bí-sô! Đối với tất cả phải nhận biết đúng như thật, nên nhận biết đúng khắp, nên tìm cách đoạn trừ hẳn, tức ở trong pháp Phật nên tu hành phạm hạnh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ai tất cả chưa rõ
Người đó xa Niết-bàn
Ai tất cả đã rõ
Do tất cả cấu nhiễm
Qua lại, đọa nẻo ác
Chịu sinh tử luân hồi.

Bài kệ tóm tắt phần kinh Bản Sự trước:

Tham, Nhuế và Ngu si
Phú tàng, Não, Phẫn, Hận
Tật, Xan cùng Đam mê
Mạn, Hại cùng tất cả.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ở trong Phước, Nghiệp, Sự của tất cả sự tu tập, thì tâm Từ giải thoát là đứng đầu. Vì sao? Vì tâm Từ giải thoát có oai đức rất mạnh mẽ. Ánh sáng của nó che lấp tất cả các Phước, Nghiệp, Sự khác, vì oai đức của các Phước, Nghiệp, Sự khác, so với oai đức nơi sự tu tập của tâm Từ giải thoát thì không bằng một phần mười sáu.

Bí-sô nên biết! Ví như trong tất cả các quốc vương lớn nhỏ, thì Chuyển luân thánh vương là đứng đầu. Vì sao? Vì Chuyển luân thánh vương có oai đức rất lớn. Oai đức của Chuyển luân thánh vương che lấp tất cả các vua lớn, nhỏ, vì oai của các vua lớn nhỏ, so với oai đức của Chuyển luân thánh vương thì không bằng một phần mười sáu. Các Phước, Nghiệp, Sự khác cũng lại như vậy, so với sự tu tập của tâm Từ giải thoát thì không bằng một phần mười sáu.

Lại như trong các ngôi sao lớn nhỏ, thì mặt trăng tròn đầy là đứng đầu. Vì sao? Vì mặt trăng tròn đầy có oai quang rực rỡ. Ánh sáng của nó che lấp tất cả các ngôi sao lớn nhỏ khác. Vì oai quang của các ngôi sao lớn nhỏ kia so với mặt trăng tròn đầy thì không bằng một phần mười sáu. Các Phước, Nghiệp, Sự khác cũng lại như vậy, so với oai đức của sự tu tập tâm Từ giải thoát thì cũng không bằng một phần mười sáu.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Hết thảy Phước, Nghiệp, Sự
So tâm Từ giải thoát
Thì trong mười sáu phần
Không bằng được một phần.
Đối với một hữu tình
Thường tu tâm Từ, Thiện
Phước đó còn vô biên
Huống gì với tất cả.
Có các đại quốc vương
Hàng phục khắp đại địa
Hội bố thí trong đời
Cho khắp không thiếu gì.
Phước bố thí cũng vậy
Không bằng tu tâm Từ
So trong mười sáu phần
Cũng không bằng một phần.
Như Chuyển luân thánh vương
Oai đức che các vua
Cũng như mặt trăng tròn
Ánh sáng che các sao.
Sự tu hành như vậy
Tất cả Phước, Nghiệp, Sự
Đều bị oai đức của
Tâm Từ, Thiện che lấp.
Tu tâm Từ giải thoát
Với người hay phi nhân
Tất cả các hữu tình
Đều không thể làm hại.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ta quan sát thế gian, không có một pháp nào làm ngoại duyên mạnh mẽ cho những bậc hữu học tâm chưa chứng đắc khi mong cầu quả an lạc vô thượng, như là Thiện tri thức. Vì sao? Vì các hữu tình kia nhờ nơi tri thức thiện mà đạt được sự mong cầu, nghĩa là đoạn trừ các điều ác, tu tập các việc lành, được thân thanh tịnh chân thật, không tạp nhiễm.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quan sát thế gian
Không có một pháp nào
Hữu học chưa đắc tâm
Khi cầu quả Vô thượng.
Làm ngoại duyên mạnh mẽ
Như là Thiện tri thức
Gần gũi Thiện tri thức
Mong cầu đều thành tựu.
Kính vâng lời dạy bảo
Phụng hành, không buông lung
Mau chứng đắc Niết-bàn
Lìa sợ thường an vui.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ta quan sát thế gian, không có một pháp nào làm nội duyên mạnh mẽ cho nhưng bậc hữu học chưa chứng đắc tâm, khi mong cầu quả an lạc vô thượng như là tác ý đúng. Vì sao? Vì các hữu tình kia nhờ tác ý đúng mà những điều mong cầu được thỏa mãn. Nghĩa là đoạn các điều ác, tu tập các điều lành, được thân trong sạch chân thật, không tạp nhiễm.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ta quan sát thế gian
Không có một pháp nào
Hữu học chưa chứng đắc
Khi cầu quả Vô thượng.
Làm nội duyên mạnh mẽ
Như là tác ý đúng
Tu tập tác ý đúng
Mong cầu được thành tựu.
Như lý quán sát kỹ
Tu hành không buông lung
Mau chứng đắc Niết-bàn
Lìa sợ, thường an vui.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào thường biết bố thí, giúp đỡ người khác, quả báo đạt được rõ ràng ngay trước mắt. Như ta biết, thì họ không bị sự keo kiệt trói buộc, cấu nhiễm tâm. Dẫu người đó chỉ có một miếng ăn, chắc chắn người đó cũng sẽ đem phân chia cho người khác, rồi sau mới ăn. Các hữu tình vì không biết bố thí, giúp đỡ, bị sự keo kiệt trói buộc, làm cấu nhiễm tâm, tuy họ có thức ăn uống và của nhiều vô lượng, nhưng họ không chia cho người khác, chỉ thọ dụng một mình. Vì sao? Vì ban bố giúp đỡ thì sẽ được quả báo sinh lên cõi trời và trong loài người, qua lại vô lượng lần để nhận các sự an vui.

Khi ấy Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Thế gian các hữu tình
Ai biết rõ huệ thí
Thường nhận quả báo lớn
Thấy rõ như Như lai.
Tâm họ không hề bị
Keo kiệt làm cấu nhiễm
Dù chỉ một miếng ăn
Họ cũng đều phân chia.
Không biết quả bố thí
Thấy rõ như Như Lai
Tuy có nhiều của cải
Họ keo kiệt không cho.
Ai nơi ruộng phàm, Thánh
Ba thời hoan hỷ cúng
Qua lại vô số lần
Nhận quả báo trời, người.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào nhận biết về phạm giới sẽ nhận quả báo rõ ràng, ngay trước mắt. Như ta đã biết: Đi, đứng, nằm, ngồi đều không được an ổn; nói, cười, ăn, uống đều không suy nghĩ, người đó trong lòng sợ hãi, cuồng loạn bức bách, thân hình khô héo như cỏ lau bị cắt. Do vì không biết nên họ an nhiên không sợ. Vì sao? Vì các tội do phạm giới thường đưa đến nẻo ác, phát triển rất dữ cho các quả báo khổ.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Thế gian các hữu tình
Ai biết rõ phạm giới
Thường chịu quả báo khổ
Thấy rõ như Như lai.
Bốn oai nghi không an
Nói, cười, ăn không nghĩ
Tâm sợ hãi, cuồng loạn
Héo như cỏ bị cắt.
Do không biết phạm giới
Thường nhận quả báo khổ
Thấy rõ như Như lai
An nhiên không khiếp sợ.
Những người phá hủy giới
Nhất định đọa nẻo ác
Lãnh chịu quả báo khổ
Càng thêm mạnh vô cùng.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào thường biết trì giới sẽ nhận quả báo rõ ràng ngay trước mắt. Như ta đã biết: Người đó đối với tự thân càng sinh nhàm chán thì an lạc tự đến, giữ vững giới cấm. Các hữu tình do không biết, ưa tham đắm thân mình, phá hủy giới cấm. Vì sao? Vì các phước về trì giới thường được nhận cảnh giới thiện, phát triển rất mạnh mẽ các quả báo vui.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Thế gian các hữu tình
Ai biết rõ trì giới
Thường được quả báo vui
Thấy rõ như Như lai.
Ngay nơi thân bất tịnh
Càng hay sinh nhàm chán
Cầu thắng quả vị lai
Giữ gìn giới trong sạch.
Do không biết trì giới
Thường được nẻo thiện vui
Thấy rõ như Như lai
Nên hủy phạm tịnh giới.
Những người hộ trì giới
Được sinh trong nẻo thiện
Nhận được cõi trời vui
Chứng Niết-bàn vô thượng.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào nhận biết, nhưng nói dối không xấu không hổ, không có tâm sửa đổi, ta nói các hữu tình đó đối với các nghiệp ác, bất thiện, không một việc gì mà họ không làm.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Biết nhưng cố nói dối
Không hổ thẹn, sửa đổi
Các hữu tình như vậy
Không ác nào không tạo.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các hữu tình nào nhận biết nhưng nói dối, càng sinh lòng hổ thẹn, dốc tâm sửa đổi, ta nói: Hữu tình đó đối với pháp thiện, trắng sạch không điều gì là họ không làm.

Khi ấy Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Biết nhưng cố nói dối
Có tâm hổ thẹn sửa
Các hữu tình như vậy
Không thiện nào không tạo.
Siêng năng, không buông lung
Vâng lời, tu chân chánh
Được Niết-bàn vô thượng
Lìa hẳn các sợ hãi.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có một vị tối thắng, vị đó nếu không xuất hiện ở thế gian thì vô lượng hữu tình sẽ thoái thất Thánh tuệ.

Vị ấy là ai? Đó là Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác không xuất hiện ở thế gian thì không thể nêu giảng về pháp tu Thánh tuệ, nên các hữu tình sẽ thoái thất Thánh tuệ.

Bí-sô nên biết! Các sự thoái thất về thân thuộc, bạn bè, của cải, địa vị, đó là thoái thất nhỏ. Thoái thất về Thánh tuệ là thoái thất lớn. Vì sao? Vì các hữu tình thoái thất Thánh tuệ là ngay nơi pháp hiện tại có nhiều sự lo buồn, sống không an lạc, có tai họa, phiền não, nhiễu loạn. Đời sau luôn luôn chịu khổ và nhiều tai hại nặng nề, bức bách, thường đi trong đường sinh tử, luôn bị đọa nơi địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh, A-tu-la, luôn chịu sinh tử, buồn khổ trong hàng trời, người. Vì sao? Vì do hữu tình kia đối với Thánh tuệ chưa hiểu biết, chưa thông đạt nên luôn sinh tử luân hồi trong sáu đường. Các hữu tình nào chứng được Thánh tuệ thì có thể ra khỏi, ngay khi đó dứt hết cảnh giới khổ. Thế nên các Bí-sô phải học như vầy: Ta phải làm sao để tu tập Thánh tuệ khiến cho không thoái thất. Ta phải làm sao đối với các Thánh tuệ phải hiểu biết, thông đạt. Bí-sô các vị nên học như vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Như Lai không xuất hiện
Thế gian các hữu tình
Không ai cứu, che chở
Sẽ thoái thất Thánh tuệ.
Mất bạn, tiền, địa vị
Gọi đó là mất nhỏ
Nếu mất chân Thánh tuệ
Đó gọi là mất lớn.
Ta quán sát thế gian
Mất Thánh tuệ vô thượng
Lưu chuyển trong sinh tử
Thọ những thân danh, sắc.
Ngay trong pháp hiện tại
Chịu khổ, không an vui
Trong vị lai luôn luôn
Bị sinh tử luân hồi.
Ai muốn cầu Thánh tuệ
Đoạn trừ cảnh giới khổ
Nên nguyện chư Như lai
Luôn xuất hiện ở đời.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có một vị Tối thắng, vị đó nếu xuất hiện ở thế gian thì vô lượng hữu tình sẽ tăng trưởng Thánh tuệ. Vị đó là ai? Đó là Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Vì sao? Vì nếu các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở thế gian thì có thể nêu giảng về pháp tu Thánh tuệ, làm cho các hữu tình tăng trưởng Thánh tuệ.

Bí-sô nên biết! Các hữu tình tăng trưởng về bà con, bạn bè, tiền của, địa vị, gọi đó là tăng trưởng nhỏ. Tăng trưởng về Thánh tuệ gọi là tăng trưởng lớn. Vì sao? Vì nếu các hữu tình tăng trưởng Thánh tuệ thì ngay trong pháp hiện tại được nhiều sự hỷ lạc, không sống buồn khổ, tai hoạn, phiền não, nhiễu hại, không ở đời sau luôn chịu khổ, chịu nhiều tai hại dữ dội, bức bách, không đi mãi nơi đường sinh tử, không bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la, không chịu sinh tử lo buồn trong hàng trời, người. Vì sao? Vì hữu tình kia ngay nơi Thánh tuệ đã hiểu biết, đã thông đạt, không còn sinh tử, luân hồi nơi sáu đường. Các hữu tình nào chưa tăng trưởng Thánh tuệ thì không thể xa lìa, đoạn trừ các cảnh giới khổ. Thế nên các Bí-sô phải học như vầy: Ta phải tu tập như thế nào để Thánh tuệ tăng trưởng. Ta phải làm sao để hiểu biết, thông đạt các Thánh tuệ? Bí-sô các vị nên học như vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Như Lai nếu xuất hiện
Thế gian các hữu tình
Có cứu giúp, nương tựa
Thánh tuệ càng tăng trưởng.
Thêm bạn, của, địa vị
Gọi đó là thêm nhỏ
Thêm được chân Thánh tuệ
Gọi đó là thêm lớn.
Ta quán sát thế gian
Được Thánh tuệ vô thượng
Không trôi lăn sinh tử
Nhất định được Niết-bàn.
Ngay trong pháp hiện tại
Lìa khổ thường an vui
Đời vị lai luôn luôn
Thoát sinh tử luân hồi.
Ai muốn tăng Thánh tuệ
Đoạn ngay cảnh giới khổ
Nên nguyện Phật Thế Tôn
Thường trụ mãi nơi đời.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Thế gian có một pháp, ngay khi sinh trưởng, làm cho các hữu tình ngu si điên đảo dày chắc, cấu uế theo đó tăng lên, nẻo ác thêm dẫy đầy, khiến nhiều chúng sinh tạo những điều không lợi ích, làm những điều không an vui, khiến các đại chúng trời, người nơi thế gian không được nghĩa lợi, tăng thêm buồn khổ.

Một pháp là gì? Đó là tà kiến. Vì sao? Vì do tà kiến nên làm cho các hữu tình ngu si càng tăng thêm điên đảo dày chắc, cấu uế theo đó tăng lên, nẻo ác dẫy đày, khiến nhiều chúng sinh tạo những điều không lợi ích, làm những điều không an vui, khiến các đại chúng trời, người nơi thế gian không được nghĩa lợi, tăng thêm buồn khổ. Như vậy gọi là thế gian có một pháp, ngay khi phát sinh, làm cho các hữu tình ngu si tăng thêm. Nói rộng ra, cho đến làm cho các đại chúng trời, người nơi thế gian không được nghĩa lợi, tăng thêm buồn khổ.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Khi tà kiến phát sinh
Ngu si càng tăng thêm
Và điên đảo dày chắc
Cấu uế theo đó tăng.
Các nẻo ác tràn đầy
Không được những lợi lạc
Tà khiến hại kẻ ngu
Như lửa đốt các vật.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Thế gian có một pháp, ngay khi phát sinh, làm cho các hữu tình tổn giảm ngu si, diệt trừ điên đảo, pháp tịnh theo đó tăng lên, thoát khỏi các nẻo ác, nẻo thiện tràn đầy, giúp cho nhiều chúng sinh tạo được nhiều lợi ích, tăng thêm sự an vui.

Thế nào là một pháp? Đó là chánh kiến. Vì sao?

Vì do Chánh kiến nên làm cho các hữu tình tổn giảm ngu si, diệt trừ điên đảo, pháp tịnh theo đó tăng lên, thoát khỏi các nẻo ác, nẻo thiện tràn đầy, giúp cho nhiều chúng sinh tạo được nhiều lợi ích, được nhiều an vui, khiến các đại chúng trời, người nơi thế gian được nhiều lợi ích, tăng thêm sự ưa thích. Như vậy gọi là thế gian có một pháp, ngay khi phát sinh, làm cho các hữu tình tổn giảm ngu si. Nói rộng ra cho đến làm cho các đại chúng trời, người nơi thế gian được lợi ích, tăng thêm an lạc.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Khi chánh kiến phát sinh
Ngu si bị tổn giảm
Và điên đảo trừ diệt
Các pháp tịnh tăng thêm.
Thoát ác, đầy nẻo thiện
Vì có những lợi lạc
Chánh kiến ngay hiện tiền
Mau được vui Niết-bàn.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ta quán sát thế gian, không có một pháp nào xoay chuyển mau chóng như tâm con người. Vì sao? Vì tâm con người đối với cảnh, xoay chuyển rất nhanh chóng. Thế gian, xuất thế gian, không gì có thể ví dụ. Các vị nên giữ tướng của tâm như vậy. Giữ được tướng ấy rồi nên khéo tư duy. Khéo tư duy rồi, nên khéo quán sát, quán sát rồi nên an trụ. An trụ rồi, nếu không biết rõ bên trong có tham dục ràng buộc, các vị lại phải quán sát thật kỹ: “Ta nay bị tham dục ràng buộc bên trong mà không biết ư?”; “Ta nay không bị tham dục ràng buộc bên trong mà không biết ư?” Quán sát thật kỹ rồi, lại nên tác ý tư duy theo một cảnh tướng đáng ưa thích. Tác ý như vậy, khi tư duy theo một cảnh tướng đáng ưa thích, tâm ai tùy thuận hướng đến sẽ ưa thích cảnh ấy. Nên biết tâm như vậy là tùy thuận theo các dục, trái hẳn với sự xuất ly. Các vị khi ấy nên tự biết rõ: “Ta nay còn có tham dục ràng buộc bên trong, nên không thể biết rõ chứ không phải là không có”; “Ta nay chưa đoạn năm thứ tham dục trói buộc, chỗ chứng ngộ so với trước kia chưa có sai khác!”; “Ta nay vẫn chưa chứng được quả đã tu”. Ví như có người chèo thuyền chở nặng đi ngược dòng nước, người ấy bấy giờ phải ra sức dụng công, nếu chỉ lơ là giây lát thì thuyền bè sẽ lập tức bị dòng nước cuốn trôi phăng xuống.

Như vậy, các vị khi tư duy theo một hướng đáng yêu thích. Nếu tâm tùy thuận hướng đến cảnh tướng hỷ lạc ấy, nên biết tâm này tùy thuận theo các dục, trái ngược với sự xuất ly. Khi ấy các vị nên tự biết rõ: “Ta nay còn có tham dục ràng buộc bên mà không thể biết, chứ không phải là không có. Ta nay chưa đoạn trừ năm thứ tham dục trói buộc, chỗ chứng ngộ so với trước kia chưa có sai khác. Ta nay vẫn chưa chứng được quả đã tu.” Các vị tác ý, khi tư duy theo một tướng đáng yêu thích, nếu tâm tùy thuận hướng đến hỷ lạc, là tướng xuất ly, nên biết tâm này tùy thuận xuất ly, trái với các dục. Các vị khi ấy nên tự biết rõ: “Ta nay không tham dục trói buộc bên trong, chứ không phải có mà không biết. Ta nay đã đoạn năm thứ dục tham trói buộc, chỗ chứng hiện nay cùng với trước kia có sai khác. Ta nay đã có thể chứng được quả đã tu”. Như đem cái lông chim quăng vào trong lửa, lông chim lập tức cháy queo, không có giãn bung ra.

Như vậy, các vị khi tư duy theo một tướng đáng yêu thích, nếu tâm tùy thuận hướng đến tướng hỷ lạc, xuất ly, nên biết tâm này tùy thuận xuất ly, trái ngược với các dục. Khi ấy các vị nên tự biết rõ: “Ta nay không có tham dục ràng buộc bên trong, chứ chẳng phải có mà không biết. Ta nay đã đoạn trừ năm thứ tham dục trói buộc, chỗ chứng hiện nay cùng với trước kia có sai khác. Ta nay đã có thể chứng được quả đã tu”. Thế nên các vị nên học như vầy: “Ta nay phải khéo chuyển tâm mình như thế nào khiến nó được điều phục, trái hẳn với các dục, tùy thuận xuất ly”. Bí-sô các vị nên học như vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Không có một pháp nào
Tánh luôn động như tâm
Khó điều ngự, khó ngăn
Thế Tôn đã dạy rõ.
Ví như người có trí
Đem lửa và dụng cụ
Uốn mũi tên cho thẳng
Làm bắn trúng nơi xa.
Như vậy các Bí-sô
Nên khéo học phương tiện
Điều phục tâm tánh mình
Khiến mau chứng Niết-bàn.

Bài kệ tóm tắt phần kinh Bản Sự trước:

Tu từ, tu hai duyên
Thí, phạm giới, trì giới
Hai vọng, hai Thánh tuệ
Tâm tà kiến, chánh kiến.

QUYỂN 3

Phẩm 2: HAI PHÁP (PHẦN 1)

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Bí-sô nào có đủ hai pháp thì ngay nơi pháp hiện tại bị nhiều sự buồn khổ, sống không hỷ lạc, có tai ương, hoạn nạn, phiền não nhiễu loạn, có tội đáng trách, bị các bạn đồng phạm hạnh chê bỏ, sau khi qua đời sinh vào các nẻo ác.

Hai pháp đó là:

1. Đối với các căn môn không thể giữ gìn.

2. Đối với việc ăn uống không biết đủ.

Các Bí-sô nào gây tạo hai phần này thì ngay nơi pháp hiện tại bị nhiều sự buồn khổ, sống không hỷ lạc, có tai ương, hoạn nạn, phiền não, nhiễu loạn, có tội đáng trách, bị các bạn đồng phạm hạnh chê bỏ, sau khi qua đời sinh trong các nẻo ác.

Khi ấy Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ai không thể giữ gìn
Sáu căn môn như mắt…
Ăn uống không biết đủ
Thành bất tín, biếng trễ,
Người ấy ngay hiện tại
Thân tâm chịu nhiều khổ
Tai ương và hoạn nạn
Phiền não cùng nhiễu loạn.
Đi, đứng và ngồi, nằm
Đang thức hay trong mộng
Do hai nhân duyên kia
Thường có tội bị trách.
Nơi xóm làng đồng trống
Trong chúng và chỗ vắng
Người trí thường chê bỏ
Sẽ sinh trong nẻo ác.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Bí-sô nào thành tựu hai phần thì ngay nơi pháp hiện tại được nhiều sự hỷ lạc, sống không lo buồn, không tai ương, hoạn nạn, không phiền não, nhiễu hại, không tội, không bị quở trách, được các bạn đồng phạm hạnh có trí khen ngợi, sau khi qua đời được sinh trong các nẻo thiện. Hai phần đó là:

1. Đối với các căn môn thường tự giữ gìn.

2. Đối với việc ăn uống tự biết đủ.

Các Bí-sô nào thành tựu hai phần này thì ngay nơi pháp hiện tại được nhiều sự hỷ lạc, sống không lo buồn, không tai ương, hoạn nạn, không phiền não, nhiễu hại, không tội không bị quở trách, được các bạn đồng phạm hạnh có trí khen ngợi. Sau khi qua đời được sinh trong các nẻo thiện.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ai luôn tự giữ gìn
Sáu căn môn như mắt…
Uống ăn thường biết đủ
Thành tựu tín tinh tấn.
Ngay trong pháp hiện tại
Thân tâm thường an vui
Không tai ương, hoạn nạn
Không phiền não, nhiễu hại.
Đứng, đi và ngồi, nằm
Đang thức hay trong mộng
Do hai nhân duyên kia
Không tội, không bị trách.
Nơi xóm làng đồng trống
Trong chúng hay chỗ vắng
Người trí thường khen ngợi
Sẽ sinh trong nẻo thiện.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có hai loại pháp hay sinh lo buồn. Hai pháp đó là: Có một hạng người chỉ tạo điều ác, chỉ làm việc hung dữ, chỉ phát sinh những tạp uế, không tu các điều lành, không học tập hòa thuận, không cứu giúp người sợ hãi. Trong thời gian sau, thân người đó mắc bệnh nặng pháp sinh cùng khắp cơ thể, đau đớn vô cùng, tổn hại sắp chết, không thể chữa trị. Khi chịu khổ như vậy nên họ rên rỉ, than oán: “Ta từ xưa đến nay chỉ tạo những điều ác, chỉ làm những việc hung dữ, chỉ phát sinh tạp uế, không tu những việc lành, không học tập hòa thuận, không cứu giúp người sợ hãi. Những người chỉ tạo các điều ác, chỉ làm những việc hung dữ, chỉ phát sinh tạp uế, không tu các điều lành, không học tập hòa thuận, không cứu giúp người sợ hãi thì chỗ người đó hướng tới, ta nhất định cũng sẽ đi đến”. Người kia do chỉ tạo các điều ác… nên tâm lo buồn, khổ não và do không tu các điều lành… nên tâm lo buồn khổ não. Như vậy gọi là có hai loại pháp hay phát sinh lo buồn khổ não.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Có hai pháp phát sinh
Người ngu luôn lo buồn
Do chỉ tạo nghiệp ác
Không tu nhân phước đức.
Về sau gặp bệnh khổ
Rên rỉ và than oán
Hối bị tội không phước
Tâm lo buồn ăn năn.
Người có tội không phước
Sẽ sinh các nẻo ác
Ta cũng sinh đến đó
Nhất định không nghi ngờ.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có hai loại pháp khiến tâm không lo buồn. Hai pháp đó là:

Có một hạng người chỉ lo tu các điều lành, chỉ học tập hòa thuận, chỉ cứu giúp người sợ hãi, không tạo các điều ác, không làm việc hung dữ, không phát sinh các tạp uế. Vị đó trong thời gian sau, thân mắc bệnh nặng phát sinh cùng khắp cơ thể, đau đớn mãnh liệt, tổn hại sắp chết, không thể chữa trị. Khi chịu khổ như vậy, vị này tuy có rên rỉ nhưng không than oán và nghĩ: “Ta từ xưa đến nay chỉ tu các điều lành, chỉ học tập hòa thuận, chỉ cứu giúp người sợ hãi, không tạo các việc ác, không làm các điều hung dữ, không phát sinh các tạp uế. Các hữu tình nào chỉ tu các điều lành, chỉ học tập hòa thuận, chỉ cứu giúp người sợ hãi, không tạo các việc ác, không làm điều hung dữ, không phát sinh các tạp uế thì chỗ người kia sinh đến, ta nhất định cũng sẽ sinh tới đó”. Người kia do chỉ tu các điều lành… nên tâm không lo buồn và do không tạo các điều ác… nên tâm không lo buồn. Như vậy gọi là có hai pháp tâm không lo buồn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Có hai pháp phát sinh
Người trí luôn hoan hỷ
Là chỉ tu phước đức
Và không tạo tội lỗi.
Về sau gặp bệnh khổ
Rên rỉ không than oán
Mừng có phước không tội
Không lo buồn ăn năn.
Người có phước không tội
Sinh trong các nẻo thiện
Ta cũng sinh đến đó
Nhất định không nghi ngờ.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ta vì các ông lược nêu hai hạnh mau chứng đắc. Hai hạnh đó là:

1. Hạnh lạc.

2. Hạnh khổ.

Nghĩa là do hạnh lạc mau chứng đắc và do hạnh khổ mau chứng đắc. Chỗ tu tập gia hạnh không bị trở ngại, các căn đều được lanh lợi, vì thế gọi đó là mau chứng đắc do hạnh lạc. Chỗ tu tập gia hạnh có trở ngại, nên các căn đều đạt được lanh lợi, nên gọi đó là mau chứng đắc do hạnh khổ. Đây gọi là lược nêu hai hạnh mau chứng đắc.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Vì các ông lược nêu
Hai hạnh mau chứng đắc
Là hạnh lạc, hạnh khổ
Do đó mau chứng đắc.
Gia hạnh không trở ngại
Các căn đều lanh lợi
Do đấy Đức Thế Tôn
Gọi lạc, mau chứng đắc.
Gia hạnh bị trở ngại
Các căn đều lanh lợi
Do đấy Đức Thế Tôn
Gọi khổ, mau chứng đắc.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ta vì các ông lược nêu hai hạnh lâu chứng đắc. Hai hạnh đó là:

1. Hạnh lạc.

2. Hạnh khổ.

Nghĩa là do hạnh lạc lâu chứng đắc và do hạnh khổ lâu chứng đắc. Chỗ tu tập gia hạnh không bị trở ngại, nên các căn đạt được đều chậm lụt, tức gọi đó là lâu chứng đắc do hạnh lạc. Chỗ tu tập gia hạnh bị trở ngại, nên các căn đạt được đều chậm lụt, tức gọi đó là lâu chứng đắc do hạnh khổ. Đây gọi là lược nêu hai hạnh lâu chứng đắc.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Vì các ông lược thuyết
Hai hạnh lâu chứng đắc
Là hạnh lạc, hạnh khổ
Do đấy lâu chứng đắc.
Gia hạnh không trở ngại
Các căn đều chậm lụt
Do đấy Đức Thế Tôn
Gọi lạc, lâu chứng đắc.
Gia hạnh có trở ngại
Các căn đều chậm lụt
Do đấy Đức Thế Tôn
Gọi khổ, lâu chứng đắc.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Người nào gây tạo hai pháp này thì không thể phát sinh pháp thiện trắng sạch. Giả sử đã phát sinh thì không thể bền chắc. Giả sử đã bền chắc thì không thể viên mãn. Người kia đối với pháp thiện trắng sạch như vậy thường bị trở ngại, thường bị suy tôn, thường sinh hối hận. Sau khi qua đời, như trút bỏ gánh nặng, đọa trong địa ngục, chịu các sự đau khổ dữ dội. Hai pháp đó là:

1. Giới ác.

2. Kiến ác.

Người nào gây tạo hai pháp như đã nói, người ấy nhất định không thể phát sinh pháp thiện trắng sạch. Giả sử đã phát sinh, không thể bền chắc. Nói rộng, cho đến sau khi qua đời như trút bỏ gánh nặng, đọa trong địa ngục, chịu các sự đau khổ dữ dội.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ai gây tạo hai pháp
Giới ác và kiến ác
Người đó không thể nào
Sinh pháp thiện trắng sạch.
Dẫu sinh nhưng không bền
Dẫu bền không viên mãn
Nơi pháp thiện trắng sạch
Bị suy tổn chướng ngại.
Người kia lúc lâm chung
Ăn năn và buồn khổ
Như trút bỏ gánh nặng
Nhất định sinh địa ngục.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Người nào thành tựu hai pháp này thì chắc chắn phát sinh pháp thiện trắng sạch; nếu trước đó phát sinh thì làm cho bền chắc; nếu đã bền chắc thì làm cho viên mãn. Người đó đối với pháp thiện trắng sạch không bị chướng ngại, không bị suy, không sinh lo buồn. Sau khi qua đời như trút bỏ gánh nặng, sinh lên cõi trời, nhận các sự an vui. Hai pháp đó là:

1. Giới thiện.

2. Kiến thiện.

Người nào thành tựu hai pháp như đã nói thì nhất định phát sinh pháp thiện trắng sạch, nếu trước đó phát sinh rồi thì làm cho bền chắc. Nói rộng cho đến sau khi qua đời trút bỏ gánh nặng, được sinh lên cõi trời, nhận các sự an vui.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ai thành tựu hai pháp
Giới thiện và kiến thiện
Người đó sẽ nhất định
Sinh pháp thiện trắng sạch.
Đã sinh sẽ bền chắc
Nhất định được viên mãn
Nơi pháp thiện trắng sạch
Không suy tổn chướng ngại.
Người kia khi lâm chung
Không lo buồn khổ não
Như vứt bỏ gánh nặng
Nhất định sinh cõi trời.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Người nào gây tạo hai pháp thì khi sắp lâm chung hay sinh lòng lo buồn, sau khi qua đời bị đọa nơi các nẻo ác, sinh trong địa ngục. Hai pháp đó là làm và không làm.

Thế nào là làm? Nghĩa là thân làm việc ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ điều ác. Đó là làm.

Thế nào là không làm? Nghĩa là thân không làm việc thiện, miệng không nói lời thiện, ý không nghĩ điều thiện. Đó gọi là không làm.

Người nào gây tạo hai pháp như đã nói thì khi lâm chung hay sinh lòng lo buồn, sau khi qua đời bị đọa nơi các nẻo ác, sinh trong địa ngục.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Có những người ngu si
Luôn tạo ba hạnh ác
Không tạo ba hạnh lành
Dẫn đến sinh nhiều lỗi.
Người kia khi lâm chung
Nhất định sẽ lo buồn
Chết đọa các nẻo ác
Sinh trong chốn địa ngục.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Người nào thành tựu hai pháp thì lúc lâm chung không sinh lo buồn, sau khi qua đời thẳng lên nẻo thiện, sinh lên cõi trời. Hai pháp đó là làm và không làm.

Thế nào là làm? Nghĩa là thân làm việc thiện, miệng nói lời thiện, ý nghĩ điều thiện. Đó là làm.

Thế nào là không làm? Nghĩa là thân không làm việc ác, miệng không nói lời ác, ý không nghĩ điều ác. Đó gọi là không làm.

Người nào thành tựu hai pháp như đã nói thì lúc lâm chung không sinh lòng lo buồn, sau khi qua đời thẳng lên nẻo thiện, sinh lên cõi trời.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Những người có trí tuệ
Thường làm ba hạnh thiện
Không tạo ba hạnh ác
Dẫn đến đức phát sinh.
Khi thọ mạng sắp hết
Nhất định không lo buồn
Qua đời, lên nẻo thiện
Sinh ngay trong cõi Trời.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có hai diệu trí nên tu tập và làm cho phát sinh, sẽ thường chứng đắc điều chưa chứng đắc, thông điều chưa thông, chứng điều chưa chứng, vượt khỏi ưu sầu, diệt hết khổ não, hội nhập chánh lý, đạt cam lồ, chứng đắc Niết-bàn. Hai pháp đó là:

1. Pháp trí.

2. Loại trí.

Khi Pháp trí phát sinh thì không còn điên đảo, biết khắp rõ các pháp hữu vi. Đối với pháp hữu vi đã biết rõ khắp rồi thì làm cho người kia đối với nhân của đời sau không thể phát sinh cùng tăng trưởng rộng lớn.

Khi Loại trí phát sinh thì có thể như đoạn diệt vô minh. Diệt vô minh nên không còn hý luận. Không còn hý luận nên không tầm, từ. Không tầm, từ nên không dục lạc. Không dục lạc nên không yêu ghét. Không yêu ghét nên không keo kiệt, ganh ghét. Không keo kiệt, ganh ghét nên không còn những việc cầm nắm dao gậy đánh đập, làm tổn hại và mắng nhiếc lẫn nhau. Không nói những lời không chân thật, những lời ly gián nhau, những lời nhơ nhớp cùng vô lượng pháp ác, bất thiện khác. Do không có những pháp ác, bất thiện khác nên nghiệp đưa đến đời sau không tăng trưởng. Khi nghiệp đưa đến đời sau không tăng trưởng thì các nghiệp diệt tận. Các khổ diệt tận nên chấm dứt đường sinh tử. Đường sinh tử đã chấm dứt thì tự thấu tỏ: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa. Như vậy gọi là có hai Diệu trí phải tu tập làm cho phát sinh, sẽ thường chứng đắc điều chưa chứng đắc, chứng điều chưa chứng, vượt khỏi ưu sầu, diệt hết khổ não, hội nhập chánh lý, đạt cam lồ, chứng đắc Niết-bàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Có hai loại Diệu trí
Tu tập cho phát sinh
Chứng được đều chưa chứng
Là Pháp trí, Loại trí.
Khi Pháp trí phát sinh
Biết khắp pháp hữu vi
Làm cho đời vị lai
Không tăng nhân tái sinh.
Khi Loại trí phát sinh
Vô minh liền đoạn diệt
Do đấy sẽ lần lượt
Dứt sinh tử luân hồi.
Tự biết sinh đã dứt
Và phạm hạnh đã lập
Việc đáng làm đã làm
Không còn tái sinh nữa.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có hai loại Diệu trí nên suy xét đúng đắn, nên lường tính kỹ, quán sát kỹ thì có thể đắc điều chưa đắc, thông điều chưa thông, chứng điều chưa chứng, vượt khỏi ưu sầu, diệt hết khổ não, hội nhập chánh, đạt cam lồ, chứng đắc Niếtbàn. Hai trí đó là Trí thế gian và Trí xuất thế gian.

Trí thế gian là đối với sắc uẩn có thể nhận biết đúng đắn đây là sắc uẩn. Đối với thọ, tưởng, hành, thức uẩn cũng như vậy. Đối với địa giới có thể nhận biết đúng đắn đây là địa giới. Đối với thủy, hỏa, phong và không, thức giới cũng như vậy. Đối với nhãn giới có thể nhận biết đúng đắn đây là nhãn giới. Đối với sắc giới và nhãn thức giới cũng vậy. Đối với nhĩ giới có thể nhận biết đúng đắn đây là nhĩ giới. Đối với thanh giới và nhĩ thức giới cũng như vậy. Đối với tỷ giới có thể nhận biết đúng đắn đây là tỷ giới. Đối với hương giới và tỷ thức giới cũng như vậy. Đối với thiệt giới có thể nhận biết đúng đắn đây là thiệt giới. Đối với vị giới và thiệt thức giới cũng như vậy. Đối với thân giới có thể nhận biết đúng đắn đây là thân giới. Đối với xúc giới và thân thức giới cũng như vậy. Đối với ý giới có thể nhận biết đúng đắn đây là ý giới. Đối với pháp giới và ý thức giới cũng như vậy. Trong các thế tục như vậy cũng nhận biết đúng như thật là như vậy, như vậy… Với trí kiến nơi thông tuệ hiện quán và giác ngộ, tất cả chiếu soi cùng khắp thì gọi đó là Trí thế gian. Các Thánh đệ tử đối với Trí thế gian đã nói này, nên suy xét đúng đắn, nên lường tính kỹ, quán sát kỹ Trí thế gian này ngay trong khi tu tập thí có thể làm cho hữu tình bị pháp sinh kia thoát hẳn sinh không? Có thể làm cho hữu tình bị pháp lão kia thoát hẳn lão không? Pháp bệnh, tử, ưu sầu, khổ não, không an ổn cũng như vậy? Sau khi xét kỹ rồi thì có thể nhận biết đúng đắn Trí thế gian này ngay khi tu tập có thể làm cho hữu tình bị pháp sinh kia thoát hẳn sinh, không thể làm cho hữu tình bị pháp lão kia thoát hẳn lão. Pháp bệnh, tử, sầu ưu, khổ não, không an ổn cũng như vậy. Vì sao? Vì Trí thế gian này không phải là pháp của Hiền thánh, không thể thoát khỏi hẳn, không thể hướng đến Niết-bàn, không thể nhàm chán hẳn, lìa bỏ hẳn, diệt trừ hẳn, không thể hoàn toàn vắng lặng, không thể thông tuệ đích thực, không phải Chánh đẳng giác, không thể chứng Niết-bàn. Vì đó là pháp đưa đến sinh, là pháp đưa đến lão, bệnh, tử, ưu sầu, khổ não không an ổn. Người kia đối với pháp như vậy nên suy xét, quán sát, lường tính kỹ, đối với pháp thế gian sinh ra tư tưởng sợ hãi. Đối với pháp xuất thế sinh ra tư tưởng an ổn. Do đối với pháp thế gian sinh tưởng sợ hãi nên hoàn toàn không chấp thọ. Do không chấp thọ nên không khát ái. Không khát ái nên tự chứng Niết-bàn cứu cánh tận cùng bên trong. Chứng Niết-bàn xong, tự nhận biết rõ: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa. Đó gọi là đối với Trí thế gian này nên suy xét đúng đắn, nên lường tính kỹ, quán sát kỹ.

Trí xuất thế gian nghĩa là đối với tất cả uẩn xứ giới có thể nhận biết đúng đắn các pháp này là tánh vô thường, tánh khổ, tánh bệnh, tánh ung nhọt, tánh như mũi tên, tánh phiền não, tánh độc hại, tánh sợ hãi, tánh nhiệt não, tánh phá hoại, tánh tiêu diệt, tánh tai nạn, tánh ngang ngạnh, tánh bệnh tật, tánh hư huyễn, tánh ngụy tạo, tánh trống rỗng, tánh hư vọng, tánh không có thật ngã, tánh khó tin tưởng. Đối với tánh các pháp như vậy cũng nhận biết đúng như thật là như vậy, như vậy. Với trí kiến, thông tuệ, hiện quán và giác ngộ, tất cả chiếu soi cùng khắp, thì gọi đó là Trí xuất thế. Các Thánh đệ tử đối với Trí xuất thế đã nói này, nên suy xét đúng đắn, nên lường tính kỹ, quán sát kỹ về Trí xuất thế này ngay trong khi tu tập thì có thể làm cho hữu tình bị pháp sinh kia có thể thoát hẳn sinh không? Có thể làm cho hữu tình bị pháp lão kia có thể thoát hẳn lão không? Pháp bệnh, tử, ưu sầu, khổ não, không yên ổn, cũng như vậy? Sau khi xét kỹ rồi thì có thể nhận biết đúng đắn Trí xuất thế này ngay trong khi tu tập, nhất định có thể làm cho hữu tình bị pháp sinh kia thoát hẳn sinh. Nhất định làm cho hữu tình bị pháp lão kia thoát hẳn lão, pháp bệnh, tử, ưu sầu, khổ não, không an ổn cũng như vậy. Vì sao? Vì Trí xuất thế này là pháp của Hiền thánh, là có thể ra khỏi hẳn, là thẳng đến Niết-bàn, là nhàm chán hẳn, xa lìa hẳn, diệt trừ hẳn, hoàn toàn vắng lặng, là thông tuệ đích thực, là Chánh đẳng giác, có thể chứng Niết-bàn, không phải là pháp đưa đến sinh, lão, bệnh, tử, ưu sầu, khổ não không an ổn. Người kia đối với pháp như vậy khi suy xét, lường tính quán sát kỹ, đối với pháp xuất thế sinh tưởng tôn quý, đối với pháp thế gian sinh tưởng thấp kém. Đối với pháp xuất thế sinh tưởng tôn quý nên sinh hoan hỷ. Do hoan hỷ nên tâm người đó an vui. Tâm an vui nên thân được nhẹ nhàng. Thân nhẹ nhàng nên cảm thọ sự hỷ lạc. Cảm thọ hỷ lạc nên tâm được tịch định. Tâm tịch định nên tri kiến đúng đắn. Tri kiến đúng đắn nên càng nhàm chán chối từ. Càng nhàm chán, chối từ nên ngay khi ấy lìa tham dục. Lìa tham dục nên được giải thoát. Được giải thoát nên tự nhận biết rõ: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không con tái sinh nữa. Đó gọi là đối với Trí xuất thế này nên suy nghĩ đúng đắn, nên lường tính kỹ, quán sát kỹ.

Như vậy gọi là có hai loại Diệu trí nên suy xét đúng đắn, nên lường tính kỹ, quán sát kỹ thì có thể đắc điều chưa đắc, thông điều chưa thông, chứng điều chưa chứng điều chưa chứng. Có thể vượt khỏi ưu sầu, diệt hết khổ não, hội nhập chánh lý, đạt cam lồ, chứng đắc Niết-bàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Có hai loại Diệu trí
Người trí nên suy xét
Là thế và xuất thế
Diệt trừ ngay các khổ.
Quán sát Trí thế gian
Phát sinh tưởng sợ hãi
Hoàn toàn không chấp giữ
Lần lượt chứng Niết-bàn.
Quán sát Trí xuất thế
Phát sinh tưởng tôn quý
Do đấy sinh hoan hỷ
Liền được thân khinh an.
Khinh an nên hỷ lạc
Hỷ lạc nên tâm định
Do tâm được tịch định
Liền phát sinh giác chi.
Giác chi quán Thánh đế
Lược nghi được trừ diệt
Không nghi, không chấp giữ
Thoát hẳn cảnh giới khổ.

Bài kệ tóm tắt phần kinh Bản Sự ở trước:

Hai căn, hai tiêu não
Hai hạnh, hai giới, kiến
Hai làm và chẳng làm
Hai trí có hai loại.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Bí-sô nào vì muốn dối gạt các chúng sinh vì cầu danh tiếng, phóng đại chỗ hiểu biết của mình, cầu lợi dưỡng và sự cung kính mà xuất gia thì Bí-sô ấy không được gọi là xuất gia chân thật, ở trong giáo pháp của Như Lai tu hành phạm hạnh. Bí-sô nào mà thông đạt, vì biết khắp mà xuất gia thì gọi đó là xuất gia chân thật, ở trong giáo pháp của Như Lai tu hành phạm hạnh. Vì sao? Vì các Bí-sô này do thông đạt, biết khắp nếu sau khi xuất gia tức có thể thông tỏ đúng như thật về chỗ thông đạt, nhận biết về chỗ biết khắp. Đã có thể thông tỏ đúng như thật về chỗ thông đạt, nhận biết về chỗ biết khắp thì có thể đoạn trừ đúng như thật về chỗ nên đoạn trừ, tu chỗ nên tu, chứng pháp nên chứng. Đã có thể đoạn, tu và chứng đúng như thật rồi thì tự thấu rõ: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa. Thế nên người nào đã thông đạt, biết khắp mà xuất gia chân thật, ở trong giáo pháp của Như Lai mà tu hành phạm hạnh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Vì danh tiếng dối gạt
Lợi dưỡng và cung kính
Chẳng phải chân phạm hạnh
Là xuất gia giả dối.
Vì thông đạt, biết khắp
Mau chứng đắc tối thượng
Tu phạm hạnh chân thật
Là xuất gia chân thật.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Bí-sô nào vì muốn dối gạt các chúng sinh, vì cầu danh tiếng, phóng đại chỗ hiểu biết của mình, vì cầu lợi dưỡng mà cung kính xuất gia, thì Bí-sô đó không được gọi là xuất gia chân thật, ở trong giáo pháp của Như Lai tu hanh phạm hạnh. Bí-sô nào vì luật nghi, vì chánh đoạn mà xuất gia, thì gọi đó là xuất gia chân thật, ở trong giáo pháp của Như Lai tu hành phạm hạnh. Vì sao? Vì các Bí-sô này do luật nghi, do chánh đoạn mà xuất gia, nên sau khi xuất gia xong, có thể giữ gìn đúng như thật về sáu căn, không phá hủy giới cấm mau chóng chứng đắc chánh đoạn tối thượng. Đã có thể giữ gìn đúng như thật về sáu căn, phá hủy giới cấm và mau chứng đắc chánh đoạn vô thượng thì lập tức có thể đoạn trừ đúng như thật điều nên đoạn trừ, tu điều nên tu, chứng điều nên chứng. Đã có thể đoạn, tu, chứng rồi thì tự thấu rõ: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa. Thế nên, Bí-sô nào vì luật nghi, vì chánh đoạn mà xuất gia thì gọi đó là xuất gia chân thật, ở trong giáo pháp của Như Lai tu hành phạm hạnh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và

Vì danh tiếng dối trá
Lợi dưỡng và cung kính
Chẳng phải chân phạm hạnh
Là xuất gia giả dối
Vì luật nghi, chánh đoạn
Mau chứng đắc tối thượng
Tu phạm hạnh chân thật
Là xuất gia chân thật.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Bí-sô vì muốn lừa gạt chúng sinh, vì cầu danh tiếng phóng đại chỗ hiểu biết của mình, vì cầu lợi dưỡng và sự cung kính mà xuất gia, thì Bí-sô ấy không được gọi là xuất gia chân thật, ở trong giáo pháp của Như Lai tu hành phạm hạnh. Bí-sô nào vì nhàm chán, vì lìa dục mà xuất gia thì gọi đó là xuất gia chân thật, ở trong giáo pháp Như Lai tu hành phạm hạnh. Vì sao? Vì các Bí-sô này, do nhàm chán, do lìa dục mà xuất gia nên sau khi xuất gia xong, có thể nhàm chán đúng như thật, ly dục. Ly dục xong, liền được giải thoát. Giải thoát xong, tự nhận biết sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa. Thế nên Bí-sô nào vì nhàm chán, vì ly dục mà xuất gia thì gọi đó là xuất gia chân thật, ở trong giáo pháp của Như Lai tu hành phạm hạnh.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và

Vì danh tiếng dối trá
Lợi dưỡng và cung kính
Chẳng phải chân phạm hạnh
Là xuất gia giả dối.
Là nhàm chán, ly dục
Mau chứng nghĩa tối thượng
Chân thật tu phạm hạnh
Là xuất gia chân thật.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Tất cả pháp môn do các Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác thuyết giảng, lược có hai loại. Đó là:

1. Đối với điều ác phải biết rõ, đúng.

2. Đối với điều ác càng phải nhàm chán.

Tất cả pháp môn do các Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác thuyết giảng lược có hai loại như vậy. Vì sao? Vì những người tu hành đối với các pháp ác phải nhận biết đúng đắn. Đối với các pháp ác đã nhận biết đúng đắn rồi thì nhàm chán, đã nhàm chán thì ly dục. Đã ly dục thì giải thoát. Đã giải thoát thì tự thấu rõ: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa. Người tu hành như vậy, đoạn hẳn các ái dục và các thứ trói buộc, hiện quán một cách đúng đắn, chấm dứt cảnh khổ.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và Nên biết chư Như Lai

Bậc Ứng Chánh Đẳng Giác
Thương xót khắp quần sinh
Thuyết giảng hai pháp môn.
Biết rõ các điều ác
Nhàm chán và ly dục
Được giải thoát tự tại
Chấm dứt cảnh giới khổ.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có hai loại pháp, ai tu tập, tu tập thường xuyên thì có thể đoạn trừ được hai pháp.

Hai pháp gì mà tu tập, tu tập thường xuyên thì có thể đoạn trừ hai pháp? Đó là quán Bất tịnh và quán Từ bi, có thể đoạn trừ tham dục và sân hận. Vì sao? Vì tất cả việc đã tham, đang tham, sẽ tham đều do tác y tư duy về tướng tịnh. Tất cả việc đã sân, đang sân, sẽ sân đều do tác ý tư duy về tướng oán. Tất cả tham dục hiện có đã đoạn, đang đoạn, sẽ đoạn đều do tác ý tu quán Bất tịnh. Tất cả sân hận hiện có, đã đoạn, đang đoạn, sẽ đoạn đều do tác ý tu Từ bi quán. Đối với quán Bất tịnh, ai tu tập, tu tập thường xuyên thì nhất định đoạn được tất cả tham dục. Đối với quán Từ bi, ai tu tập, tu tập thường xuyên thì nhất định đoạn được tất cả sân hận. Ai muốn quyết định đoạn trừ tham dục thì phải siêng năng tu tập quán Bất tịnh. Ai muốn quyết định đoạn trừ sân hận thì phải siêng năng tinh tấn tu quán Từ bi. Tu quán Bất tịnh thì không có tham dục nào là không thể đoạn được. Tu quán Từ bi thì không có sân hận nào là không thể đoạn được.

Như vậy gọi là có hai loại pháp, ai tu tập, tu tập thường xuyên thì có thể đoạn được hai pháp.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Tu tập, siêng tu tập
Hai pháp đoạn hai pháp
Bất tịnh đoạn tham dục
Từ bi đoạn sân hận.
Thế nên người có trí
Quán sát để tự lợi
Tu Bất tịnh, Từ bi
Đoạn tham dục, sân hận.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Cảnh giới Niết-bàn lược có hai loại, đó là:

1. Cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y.

2. Cảnh giới Niết-bàn Vô dư y.

Thế nào là cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y? Nghĩa là các Bí-sô đắc quả A-la-hán, các lậu đã sạch, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, đã xả bỏ gánh nặng, đã tự đạt mục đích, đã sạch các kết sử, đã nhận biết đúng đắn, tâm giải thoát hoàn toàn, đã được biết khắp. Do nghiệp đời trước làm duyên đưa đến các căn nên còn tiếp tục sống. Tuy các căn hoạt động đang tiếp xúc với vô số cảnh giới tốt, xấu nhưng luôn luôn nhàm chán, xả bỏ, không chấp trước gì cả, không bị sự trói buộc của yêu, ghét vì đã đoạn hẳn tất cả yêu, ghét… Cho nên người đó, đối với các sắc khi muốn thấy, tuy dùng sắc quán sát chúng nên không pháp sinh tham, sân, si… Tuy có mắt và có tốt xấu, nhưng không tham dục cũng không sân hận. Vì sao? Vì đã đoạn hẳn sự trói buộc của yêu, ghét. Người kia đối với các âm thanh khi muốn nghe, tuy dùng tai để nghe chúng nhưng không phát sinh tham, sân, si… Tuy có tai và âm thanh hay dở, nhưng không tham dục, cũng không sân hận. Vì sao? Vì đã đoạn trừ trói buộc của yêu ghét… Người kia đối với các hương không muốn ngửi, tuy dùng mũi ngửi chúng, nhưng không phát sinh tham, sân, si… Tuy có mũi và có hương thơm, mùi hôi, nhưng không tham dục, cũng không sân giận. Vì sao? Vì đã đoạn trừ hẳn sự trói buộc của yêu, ghét… Người kia đối với các vị khi muốn nếm, tuy dùng lưỡi để nếm chúng nhưng không sinh tham, sân, si… Tuy có lưỡi và vị ngon, dở, nhưng không tham dục, cũng không sân hận. Vì sao? Vì đã đoạn trừ hẳn sự trói buộc của yêu, ghét. Người kia đối với các xúc, khi muốn va chạm, tuy dùng thân để tiếp xúc chúng nhưng không phát sinh tham, sân, si… Tuy có thân và có xúc vừa ý, không vừa ý, nhưng không tham dục, cũng không sân hận. Vì sao? Vì đã đoạn trừ hẳn sự trói buộc của yêu, ghét. Người kia khi muốn đối với các pháp, khi muốn biết, tuy dùng ý để biết các pháp, nhưng không phát sinh tham, sân, si… Lìa các tham dục, chứng đắc Niết-bàn, hoàn toàn vắng lặng, nên nghĩ thế này: “Đức Thế Tôn vì những chúng sinh có sự sợ hãi kia, vì những người thường bị đoạn kiến trói buộc kia khiến họ nhận biết nghiệp quả không hư mất. Chánh pháp được thuyết giảng, giải thoát ngay nơi hiện tại, đúng lúc và có thể chứng đắc được, có lợi ích, người trí tự chứng, là pháp chân thật để đối trị với thế gian, có thể diệt trừ được tâm kiêu mạn, khát ái, tổn hại cho chúng sinh, chấm dứt các đường luân hồi, chứng tánh chân không, lìa các tham dục, chứng đắc Niết-bàn tịch diệt rốt ráo”. Như vậy gọi là người có Tuệ nhãn, có thể quán sát đúng đắn. Như vậy gọi là hai thứ trói buộc nên làm cho các hàng trời, người, một loại thì khiếp nhược, một loại lại dũng mãnh. Người có Tuệ nhãn có thể quán xét đúng đắn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Do hai thứ trói buộc
Khiến các chúng trời, người
Một loại sinh khiếp nhược
Một loại lại dũng mãnh.
Thanh văn có Tuệ nhãn
Luôn quán sát như thật
Chán lìa trừ được mạn
Chứng Niết-bàn viên mãn.
Lại nhận biết như thật
Chánh pháp Phật giảng dạy
Diệt đoạn kiến, thường kiến
Hai ái không còn gì.
Long vương có Tuệ nhãn
Rưới mưa pháp cùng khắp
Diệt các lửa phiền não
Được mát mẻ hoàn toàn.

Tuy có ý và pháp tốt xấu nhưng không tham dục, cũng không sân hận. Vì sao? Vì đã đoạn trừ hẳn sự trói buộc của ái, sân, cho đến người đó vẫn tiếp tục sống ở thế gian chưa Bát-niết-bàn, thường được hàng trời, người chiêm ngưỡng, lễ bái, cung kính, cúng dường. Đó gọi là cảnh giới Niết-bàn Hữu dư y.

Thế nào là cảnh giới Niết-bàn Vô dư y? Nghĩa là các Bí-sô đắc quả A-la-hán, các lậu đã sạch, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, đã trút bỏ gánh nặng, đã đạt đến mục đích, đã hết hữu kết, đã nhận biết đúng đắn, đã giải thoát hoàn toàn, đã được biết khắp. Người đó ngay khi ấy tất cả những gì đã cảm thọ không làm nhân để đưa đến ái, nên không còn mong cầu, diệt hẳn tất cả, nên hoàn toàn vắng lặng, hoàn toàn mát mẻ, nên ẩn mất không còn hiện nữa. Chỉ do thanh tịnh, thể của nó là không hý luận. Sự thanh tịnh này, thể của nó hoàn toàn vượt khỏi hý luận, nên không thể gọi đó là có, không thể gọi là không, không thể gọi là cũng vừa có, cũng vừa không, không thể gọi là cũng không có, cũng không không. Chỉ có thể nói rằng: Niết-bàn cứu cánh là không thể nêu bày. Đó gọi là cảnh giới Niết-bàn Vô dư y.

Bí-sô nên biết! Như vậy gọi là lược nêu về Niết-bàn có hai loại.

Khi ấy Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Lậu hết tâm giải thoát
Duy trì thân sau cùng
Gọi Niết-bàn hữu dư
Các hành còn tiếp nối.
Các thọ đã diệt xong
Như nước trong mát mẻ
Gọi Niết-bàn vô dư
Ở ngoài sự bàn luận.
Hai thứ Niết-bàn này
Tối thượng, không đâu bằng
Là pháp nay và sau
Vắng lặng thường an vui.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Do hai thứ trói buộc nên làm cho hàng trời, người một loại thì khiếp nhược, một loại lại dũng mãnh. Người có Tuệ nhãn nên quán sát đúng đắn.

Hai triền là gì? Đó là có kiến trói buộc và không có kiến trói buộc.

Thế nào là một hạng trời, người khiếp nhược?

Nghĩa là có hạng trời, người khát ái, yêu thích hữu, say đắm về hữu. Vì để diệt hữu nên khi nghe thuyết pháp không chịu cung kính lắng tai nghe nhận, cũng không chịu vâng theo lời dạy bảo, không chịu tùy thuận tu tập theo đúng chỗ thật, đúng, chỉ sinh khiếp nhược, sợ hãi thoái lui: “Bấy giờ chúng ta phải làm sao đối với hữu? Bấy giờ chúng ta phải như thế nào đối với hữu? Như vậy gọi là một hạng trời, người khiếp nhược.

Thế nào là một hạng trời, người dũng mãnh?

Nghĩa là có hạng trời, người sợ hữu, nhàm chán hữu, mong cầu không có hữu và vô số pháp khổ bức bách nên thâu nhận, chấp trước những việc như vậy. Đối với các ác kiến, họ nghĩ thế này: Ta nên đoạn trừ và làm cho chúng diệt mất, không còn xuất hiện nữa. Bấy giờ, mới gọi là tịch tĩnh vi diệu. Như vậy gọi là một hạng trời, người dũng mãnh.

Thế nào gọi là có Tuệ nhãn có thể quán sát đúng đắn?

Nghĩa là hàng Thánh Thanh văn quán sát đúng như thật, sau khi quán sát xong, không đối với việc như thật đó mà sinh lòng kiêu mạn, không nương vào việc như thật đó mà sinh lòng kiêu mạn, không nhận nơi việc như thật đó mà sinh lòng kiêu mạn, không ỷ vào việc như thật đó mà sinh lòng kiêu mạn. Sau khi thấy đúng như thật rồi liền sinh nhàm chán. Sau khi nhàm chán liền lìa dục, lìa dục xong, được giải thoát. Giải thoát xong tự thấu rõ: sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa và nghĩ thế này: “Đức Thế Tôn vì các hữu tình yêu thích hữu kia, vì các hữu tình thường bị thường kiến trói buộc kia khiến diệt trừ hữu, nên đã thuyết giảng chánh pháp vi diệu sâu xa, khó thấy, khó ngộ, tịch tĩnh thắng, không phải là các cảnh giới của suy nghĩ, tư duy, đó là chỗ chứng đắc chắc chắn của những bậc có trí tuệ. Vế pháp đối trị chân thật cho tất cả thế gian, nghĩa là có thể diệt trừ tâm kiêu mạn, khát ái, tổn hại cho chúng sinh, đoạn các đường luân hồi, chứng tánh chân không.

QUYỂN 4

Phẩm 2: HAI PHÁP (PHẦN 2)

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Bí-sô nào giảm bớt sự ngủ nghỉ, luôn chánh niêm, tỉnh giấc, thường sống trong sự thanh tịnh, hoan hỷ, đối với các pháp thiện quán sát đúng lúc, thích nghi để tu tập đúng đắn. Bí-sô nào giảm bớt sự ngủ nghỉ, luôn chánh niệm, tỉnh giác, thường sống trong sự thanh tịnh, hoan hỷ, đối với các pháp thiện quán sát đúng lúc, thích nghi để tu tập đúng đắn như vậy, thì ngay trong hai quả, tuy theo chứng được một quả, nghĩa là ngay trong đời này, chứng Niết-bàn Hữu dư y, hoặc quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Người nghe pháp giác ngộ
Tu hành được thắng quả
Người tham đắm ngủ nghỉ
Không thể nào chứng đắc.
Người ít sự ngủ nghỉ
Luôn chánh niệm, tỉnh giác
Giữ tâm được an trụ
Thường thanh tịnh hoan hỷ.
Đối với các pháp thiện
Biết thời nghi tu tập
Vượt qua được tất cả
Khổ, sinh, già, bệnh, chết.
Thế nên phải siêng tu
Giảm bớt sự ngủ nghỉ
Thường quán sát tịch tĩnh
Được hai quả vô ngại.
Hoặc đoạn kết hạ phần
Chứng được quả Bất hoàn
Hoặc đoạn kết thượng phần
Thoát sinh, già, bệnh, chết.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Bí-sô nào ở chỗ hoàn toàn thanh tịnh, thường ưa thiền tọa, nội tâm siêng năng tinh tấn, tu tập chỉ quán, không lìa tĩnh lự, thành tựu thiền quán thanh tịnh, sáng suốt, giữ gìn tâm mình không cho tán loạn, đối với các pháp thiện, tu tập không nhàm chán. Như vậy Bí-sô này ta nói rằng: vị ấy ngay trong hai quả, chắc chắn chứng được một quả. Nghĩa là ngay trong đời này chứng quả Niết-bàn Hữu dư y, hoặc quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ưa ngồi thiền chỗ vắng
Luôn chánh niệm tỉnh giác
Giữ tâm được an trụ
Lìa phân biệt hư vọng.
Khéo phòng hộ tâm mình
Mau đoạn trừ vô minh
Và các dục, phiền não
Chân thật không ưu sầu.
Tâm tư thường vắng lặng
Được chánh niệm hoàn toàn
Giải thoát không chấp trước
Đoạn trừ hẳn tham dục.
Thường lạc, không phóng dật
Sợ hãi việc buông lung
Đoạn trừ hẳn các kiến
Mau chứng Bát-niết-bàn.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Bí-sô nào không hổ, không thẹn, người đó nhất định không thể thông đạt, không thể biết khắp, không thể chứng Đẳng giác, Niết-bàn, không thể chứng đắc Vô thượng an lạc. Bí-sô nào có hổ, có thẹn, người đó nhất định thông đạt, biết khắp, chứng Đẳng giác Niết-bàn và chứng đắc Vô thượng an lạc rốt ráo.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Người không hổ, không thẹn
Biếng trễ, không tinh tấn
Luôn hôn trầm thùy miên
Thật khó bỏ sạch kết.
Người có hổ, có thẹn
Luôn luôn không phóng dật
Ưa thiền định vắng lặng
Cách Niết-bàn không xa.
Người đoạn trừ các kết
Cùng sinh, già, bệnh, chết
Mau chứng được Chánh giác
Được Vô thượng an lạc.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Những người xuất gia lược có hai loại, việc cần phải làm, đều có thể làm đúng đắn, tức đắc điều chưa đắc, thông điều chưa thông, chứng điều chưa chứng, vượt khỏi ưu sầu, diệt hết khổ não, hiểu biết chân chánh đạt cam lồ, chứng đắc Niết-bàn. Hai pháp đó là:

1. Tĩnh lự (Thiền định).

2. Nghe pháp.

Thế nào là Tĩnh lự? Nghĩa là các Bí-sô xa lìa các pháp dục, ác, bất thiện, có tầm có từ, đạt đến sinh ly hỷ lạc, an trụ đầy đủ là tĩnh lự thứ nhất. Không còn tầm từ, trong tâm hoàn toàn thanh tịnh, không tầm không từ, định sinh hỷ lạc, an trụ đầy đủ là tĩnh lự thứ hai. Ly hỷ, trụ xả, chánh niệm tỉnh giác, thân thọ diệu lạc như lời dạy của các bậc Thánh. Có xả, có niệm, an trụ nơi diệu lạc, an trụ đầy đủ là tĩnh lự thứ ba. Đoạn khổ, đoạn lạc, diệt ưu và khổ các thiền trước, không khổ không lạc, an trụ đầy đủ, xả niệm thanh tịnh, đó là tĩnh lự thứ tư. Thế nào là nghe pháp? Tức là các Bí-sô đối với lời Phật dạy, đầu, giữa, cuối hoàn toàn thiện, văn, nghĩa vi diệu hoàn toàn là pháp thanh bạch, phạm hạnh, đó là các pháp nơi Khế kinh, Ứng dụng, Ký biệt, Già-tha, Tự thuyết, Bản sinh, Bản sự, cùng với Phương quảng và Vị tằng hữu, đối với các pháp như vậy, thọ trì, đọc tụng, nghe giảng, tu tập thông suốt, giải thích rõ ràng. Đó gọi là nghe pháp.

Như vậy gọi là người xuất gia lược có hai việc phải làm. Ai làm đúng như vậy sẽ đắc điều chưa đắc, thông điều chưa thông, chứng điều chưa chứng, vượt khỏi ưu sầu, diệt hết khổ não, hiểu biết đúng đắn, đạt cam lồ, chứng đắc Niết-bàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Xuất gia có hai việc
Làm đúng việc phải làm
Tĩnh lự và nghe pháp
Mau chứng đắc Niết-bàn.
Tĩnh lự, nhân sinh tuệ
Đắc tuệ do tĩnh lự
Có thiền, có trí tuệ
Mau chứng đức Niết-bàn.
Trăm ngàn Tăng dê câm
Không tuệ, không tu thiền
Dầu trải trăm ngàn năm
Không ai chứng Niết-bàn.
Người siêng tu trí tuệ
Ưa nghe pháp, thuyết pháp
Giữ niệm trong giây lát
Mau chứng đắc Niết-bàn.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Tầm cầu có hai loại, hoàn toàn không có loại thứ ba. Thế nào là hai? Sự tầm cầu của bậc Thánh và sự tầm cầu của phi Thánh.

Thế nào là sự tầm cầu phi Thánh? Nghĩa là có hạng người đã có pháp lão, đã có pháp bệnh, tầm cầu pháp bệnh, đã có pháp tử, pháp sầu, pháp nhiễm, tầm cầu pháp tử, pháp sầu, pháp nhiễm.

Thế nào là pháp lão? Nghĩa là vợ con, nô tỳ, tôi tớ, voi ngựa, trâu dê, heo gà, vườn ruộng, vàng bạc, của cải, thóc lúa, đó là pháp lão. Pháp lão này là nguồn gốc sinh tử khổ nơi hữu tình. Phàm phu, ngu tối gìn giữ những thứ này, nhiễm ái, đắm chấp, do đấy không thể thoát khỏi sinh tử nên gọi là pháp lão.

Thế nào là pháp bệnh? Nghĩa là vợ con, nô tỳ, tôi tớ. Nói rộng ra cho đến… do đây không thể thoát khỏi sinh tử nên gọi là pháp bệnh.

Thế nào là pháp tử? Nghĩa là vợ con, nô tỳ, tôi tớ. Nói rộng ra cho đến… do đấy không thể thoát khỏi sinh tử nên gọi là pháp tử.

Thế nào là pháp sầu? Nghĩa là vợ con, nô tỳ, tôi tớ. Nói rộng ra cho đến… do đấy không thể thoát khỏi sinh tử nên gọi là pháp sầu.

Thế nào là pháp nhiễm? Nghĩa là vợ con, nô tỳ, tôi tớ, voi ngựa, trâu dê, heo gà, vườn ruộng, vàng bạc, của cải, thóc lúa, đó là pháp nhiễm. Pháp nhiễm này là nguồn gốc của sinh tử khổ nơi các hữu tình. Phàm phu ngu tối giữ gìn những thứ này, nhiễm ái đắm chấp, do đấy không thể thoát khỏi sinh tử, nên gọi là pháp nhiễm. Ai đối với những thứ này ưa thích, tầm cầu, nên biết đó là sự tầm cầu phi Thánh. Người tầm cầu như vậy, Như Lai hoàn toàn không khen ngợi, tán thán, chỉ khuyên bảo, dắt dìu, làm cho người đó biết để xả bỏ. Vì sao? Vì sự tầm câu phi Thánh như vậy, Như Lai hoàn toàn không khen ngợi, tán thán, chỉ khuyên nhủ, dắt dìu, làm cho biết để xả bỏ. Vì do việc tìm cầu ấy chẳng phải là pháp của Hiền thánh, không thể xuất ly, không thể hướng đến Niết-bàn, không nhàm lìa, không tịch diệt, không đắc thông tuệ, không thành tựu Chánh giác, không chứng Niết-bàn. Do việc tầm cầu này đưa đến tất cả các pháp sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ não, bức bách. Đó là sự tầm cầu phi Thánh, nên Đức Như Lai hoàn toàn không khen ngợi, tán thán, chỉ khuyên nhủ, dắt dìu làm cho hiểu biết để xả bỏ.

Thế nào là sự tầm cầu của bậc Thánh? Nghĩa là có hạng người đã có pháp lão, có thể tự thấu tỏ: Ta có pháp lão, có thể nhận biết đúng như thật về lỗi lầm của pháp lão, tìm cầu Niết-bàn an lạc vô thượng, hoàn toàn không có pháp lão. Hạng người đã có pháp bệnh, tự thấu tỏ: Ta có pháp bệnh, có thể nhận biết đúng như thật về lỗi lầm của pháp bệnh, tìm cầu Niết-bàn an lạc vô thượng, hoàn toàn không có pháp bệnh. Hạng người đã có pháp tử, tự thấu tỏ: Ta có pháp tử. Có thể nhận biết đúng như thật về lỗi lầm của pháp tử, tìm cầu Niết-bàn an lạc vô thượng, hoàn toàn không có pháp tử. Người đã có pháp sầu, tự thấu tỏ: Ta có pháp sầu. Có thể nhận biết đúng như thật về lỗi lầm của pháp sầu, tìm cầu Niết-bàn an lạc vô thượng, hoàn toàn không có pháp sầu. Người đã có pháp nhiễm, tự thấu tỏ: Ta có pháp nhiễm, có thể nhận biết đúng như thật về lỗi lầm của pháp nhiễm, tìm cầu Niếtbàn an lạc vô thượng, hoàn toàn không có pháp nhiễm.

Như vậy gọi là sự tầm cầu bậc Thánh. Sự tầm cầu như vậy được tất cả các Đức Như Lai khen, ngợi tán thán.

Vì duyên gì mà tìm cầu của bậc Thánh này được tất cả các Đức Như Lai khen ngợi, tán thán? Do việc tầm cầu ấy là pháp của Hiền thánh, có thể xuất ly hẳn, có thể hướng đến Niết-bàn, có thể chán lìa, tịch diệt, đắc thông tuệ, thành tựu Đẳng chánh giác, chứng Niết-bàn. Do việc tìm cầu này có thể vượt khỏi tất cả pháp sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ não thiêu đốt, vì thế gọi là tầm cầu của bậc

Thánh, được tất cả các Đức Như Lai khen ngợi, tán thán nên gọi là tầm cầu có hai cách, hoàn toàn không có cách thứ ba. Các ông nên học như vầy: Ta nên làm sao xa lìa sự tầm cầu phi Thánh như vậy. Ta nên làm sao để tu hành đúng như sự tầm cầu theo bậc Thánh như vậy. Bí-sô các ông nên học như thế.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Tất cả loài hữu tình
Có hai cách tầm cầu
Hoàn toàn không có ba
Là Thánh và phi Thánh.
Không biết lão, bệnh, tử
Pháp sầu, nhiễm, lỗi lầm
Càng mong cầu ái, chấp
Gọi tầm cầu phi Thánh.
Các khổ này tăng trưởng
Không có ngày ra khỏi
Từ sinh lại đến sinh
Nơi nẻo cao và thấp.
Biết rõ lão, bệnh, tử
Pháp sầu, nhiễm, lỗi lầm
Mong cầu Niết-bàn giới
Gọi tầm cầu chân Thánh.
Các khổ được giảm bớt
Mau chứng đắc Niết-bàn
Luôn an lạc mát mẻ
Thường vô lậu không sợ.
Kẻ tầm cầu phi Thánh
Chư Phật thường quở trách
Là cội gốc sinh tử
Người trí nên xa lìa.
Người tầm cầu chân Thánh
Chư Phật thường khen ngợi
Là đường đến Niết-bàn
Người có trí nên tu.

Tóm tắt nơi bài kệ phần kinh Bản Sự ở trước:

Vì thông đạt luật nghi
Chán tri cõi bất tịnh
Học kinh, giác tu thiền
Thẹn, hành động, tầm cầu.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Pháp thiện trắng sạch, lược có hai loại, có thể hộ trì thế gian. Hai pháp đó là hổ và thẹn. Nếu không có hai pháp thiện trắng sạch này thì tất cả hữu tình trong thế gian đều thành tạp loạn, giống như trâu, dê, heo, gà, chó… không biết cha mẹ, anh em, chị em, không biết thầy hướng dẫn, Bổn sư và các vị thầy khác. Do đó hai pháp thiện trắng sạch này mà hữu tình ở thế gian lìa các tạp uế, không giống như các loài súc sinh… Biết rõ cha mẹ, anh em, chị em. Biết rõ vị thầy hướng dẫn, Bổn sư và các vị thầy khác. Thế nên, các thầy nên học như vầy: “Ta phải làm sao để thành tựu hai loại pháp thiện bạch tịnh là hổ, thẹn tối thắng này?” Bísô các ông nên học như vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Hai pháp thiện trắng sạch
Hộ trì cho thế gian
Không mất nẻo trời, người
Đó là hổ và thẹn.
Không có hai pháp này
Không biết được tôn ty
Hỗn tạp giống trâu, dê
Cùng như gà, heo, chó.
Do đó hai pháp ấy
Phân biệt, biết tôn ty
Không phải như trâu, dê
Làm các việc uế tạp.
Những ngươi có trí tuệ
Thành tựu hai bạch pháp
Luôn giữ nẻo trời, người
Không đọa ba đường dữ.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ta là Bậc Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác, khi chưa thành Phật, còn ở quả vị Bồtát, phần nhiều an trụ nơi hai loại tầm, tư. Hai loại đó là:

1. Như Lai khi còn ở quả vị Bồ-tát, thường sống trong suy nghĩ bất hại, hoan hỷ vui vẻ như vậy, gọi đó là thường suy nghĩ, vui vẻ thứ nhất. Do sống trong sự tu tập đúng như vậy nên đối với các loại hữu tình, hoàn toàn không làm tổn hại. Do suy nghĩ này chứng được vô lượng Phạm trụ một cách viên mãn.

2. Như Lai khi còn ở quả vị Bồ-tát, thường sống trong suy nghĩ, đoạn trừ, vĩnh viễn hoan hỷ, vui vẻ. Sống trong suy nghĩ đoạn trừ, vĩnh viễn, hoan hỷ vui vẻ như vậy, gọi đó là thường suy nghĩ, vui vẻ thứ hai.

Sống trong sự tu tập đúng như vậy, nên đối với pháp bất thiện có thể đoạn trừ hẳn. Do suy nghĩ này nên chứng được đạo thù thắng, thiện căn viên mãn. Ta ngay khi ấy sống trong hai loại suy nghĩ này, nên tinh tấn dũng mãnh, cho đến tất cả máu thịt nơi thân đều khô diệt, thân thể chỉ còn gân da bọc xương, cũng không phóng dật. Cho đến phải thấy, phải biết, phải hiểu, phải đắc, phải chứng đối với pháp chưa biết, chưa thấy, chưa đắc, chưa hiểu, chưa chứng. Trong khoảng giữa thời gian đó, sống không phóng dật, tinh tấn, dũng mãnh, chưa từng từ bỏ. Do không có phóng dật, tinh tấn dũng mãnh không lìa bỏ nên mau chứng Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng, mau chứng Niết-bàn vô thượng mát mẻ, mau chứng Nhất thiết tri kiến vô thượng. Thế nên các ông nên học như vầy: Ta phẩi làm thế nào để thường sống trong suy nghĩ bất hại, hoan hỷ vui vẻ và làm thế nào để thường sống trong suy nghĩ đoạn trừ vĩnh viễn, hoan hỷ, vui vẻ. Bí-sô các ông nên học như vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Khi Phật làm Bồ-tát
Thường sống trong hai pháp
Là bất hại, vĩnh đoạn
Nghĩ hoan hỷ, vui vẻ.
Không hại các hữu tình
Tu Từ, Bi, Hỷ, Xả
Chứng vô lượng Phạm trụ
Viên mãn và thông suốt.
Vĩnh đoạn pháp bất thiện
Và các dây phiền não
Chứng đắc các căn lành
Viên mãn đạo thù thắng.
Thường dũng mãnh, tinh tấn
An trụ không phóng dật
Chứng Bồ-đề vô thượng
Cùng Niết-bàn an lạc.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các Bà-la-môn, Trưởng giả, Cư sĩ, Sát-đế-lợi… phần nhiều làm các việc bố thí cho các ông y phục, ẩm thực, ngọa cụ, y dược, phòng xá, đồ dùng đúng như pháp. Còn Bí-sô các ông có nhiều việc phải làm, đó là: Các ông giảng thuyết chánh pháp, đầu đuôi giữa đều thiện, văn nghĩa hoàn hảo, đầy đủ pháp phạm hạnh cho họ. Do đó, được giải thoát khỏi pháp sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ não, nóng bức. Bánh xe pháp của các ông và bánh xe tài của họ nương tựa nhau để vận chuyển, ở trong giáo pháp của Như Lai siêng tu phạm hạnh, mau đến thành Niết-bàn vô thượng. Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Xuất gia và tại gia
Nương tựa, hỗ trợ nhau
Hai bánh xe tài, pháp
Mau đến thành Niết-bàn.
Xuất gia nương tại gia
Được của cải như pháp
Tại gia nương xuất gia
Được chánh pháp vi diệu.
Hai chúng nương tựa nhau
Nhận an lạc trời, người
Vượt sinh, già, bệnh, chết
Đạt Niết-bàn thanh lương.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Nương vào giới luật, có thể tu hai pháp. Hai pháp đó là: Thiền chỉ là Thiền quán. Nghĩa là người tu hành nương vào giới luật để tu Thiền chỉ. Đã tu thiền chỉ rồi, làm cho tâm tu tập được viên mãn. Vì việc gì mà tu tập tâm ấy? Tu tập tâm ấy là để đoạn tham. Những người tu hành nương vào giới luật, tinh tấn tu tập Thiền quán rồi làm cho tu tuệ viên mãn. Tu tập tu tuệ ấy để làm gì? Người tu tập tuệ là để đoạn si. Tâm bị tham cấu nhiễm, khiến không được giải thoát. Tuệ bị si làm cấu nhiễm, khiến không được chiếu sáng. Ai xa lìa hẳn tham thì được tâm giải thoát hoàn toàn. Ai lìa hẳn si thì được tuệ giải thoát hoàn toàn. Ai đối với hai loại giải thoát này dùng chánh tri kiến để tự chứng đắc, ta nói người đó được tuệ giải thoát hoàn toàn, là bậc Trượng phu tối thượng, tự mình tu tập. Các Thánh đệ tử, ngay khi chứng đắc tâm giải thoát như vậy, nếu bị người khác mắng nhiếc, quở trách, khinh lờn, hủy nhục… họ không vì duyên này phát sinh vô số tâm bất nhẫn, bất tín, hại, hận...Vì sao? Vì do họ có thể soi thấy rõ những việc mắng nhiếc của người khác là người đó có tội, nơi họ không tổn hại.

Các Thánh đệ tử ngay khi chứng đắc tâm giải thoát như vậy, nếu được người khác khen ngợi, tán thán, cung kính lễ bái, cúng dường…, họ không duyên nơi việc này phát sinh vô số tâm hoan hỷ, vui thích, hớn hở... Vì sao? Vì họ có thể soi thấy rõ được những sự khen ngợi tốt đẹp… của người kia là người kia được phước, họ không có lợi. Ai có thể làm được như vậy, gọi đó là người đối với pháp thế gian được tâm bình đẳng, không buồn, không vui, an ổn, tự tại. Thế nên, các ông phải làm như vầy: “Ta nên nương vào giới luật tu Thiền chỉ, Thiền quán như thế nào?” Bí-sô các ông nên học như vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Nương vào giới thanh tịnh
Tu Chỉ, Quán, không tội
Giữ kín căn và ý
Chứng Niết-bàn cam lồ.
Tu Chỉ điều phục tâm
Điều tâm lìa tham dục
Lìa dục chứng giải thoát
Chứng giải thoát, tâm bình.
Tu Quán, trí tuệ sáng
Tuệ sáng diệt si ám
Diệt ám, chứng giải thoát
Chứng giải thoát, tâm bình.
Nên Bí-sô các ông
Tinh tấn, chớ buông lung
Luôn nương vào giới luật
Tu Chỉ, Quán không tội.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Người tu học thắng lợi, ở trong giáo pháp của Như Lai tu hành phạm hạnh thì trí tuệ là đứng đầu, chắc chắn được giải thoát, đạt được tối thượng về niệm. Người nào thành tựu việc tu học thắng lợi, ở trong giáo pháp của Như Lai tu hành phạm hạnh thì tuệ là đứng đầu, chắc chắn được giải thoát, đạt được tối thượng về niệm. Người ấy hoàn toàn không bị tham do vị ngọt của sắc trói buộc, quấy nhiễu tâm mình. Người cũng lại không bị sự tham đắm về vị ngọt của thanh, hương, vị, xúc, pháp trói buộc, quấy nhiễu tâm mình. Tâm người đó nhờ không bị tham trói buộc nên không chạy theo, tham đắm sự nhận thức đối với tướng mạo của sắc, không chạy theo vị ngọt do sự phân biệt tướng mạo của thanh, hương, vị, xúc, pháp, thì ngay trong hai sẽ chứng được một quả, nghĩa là ngay trong đời nay chứng được quả Niết-bàn Hữu dư y hoặc quả Bất hoàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Người tu học thù thắng
Nương Phật tu phạm hạnh
Trí tuệ đứng hàng đầu
Chắc chắn được giải thoát.
Niệm tôn quý hơn hết
Chứng một trong hai quả
Pháp Niết-bàn hiện tại
Và vĩnh viễn Bất hoàn.
Do tuệ đứng hàng đầu
Tham không quấy động tâm
Không duyên theo các sắc
Tướng mạo do thức sinh.
Viên mãn giới thù thắng
Sinh định tuệ, thắng thượng
Dứt cảnh sinh, lão, tử
Chứng Niết-bàn hữu dư.
Nên Bí-sô các ông
Siêng năng tu giới, định
Sinh thắng tuệ vi diệu
Dứt sinh, già, bệnh, chết.
Trong pháp luật của ta
Người không hề phóng dật
Định lực phá quân ma
Dứt hẳn cảnh giới khổ.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Tất cả các pháp ác, bất thiện ở thế gian đều do vô minh dẫn đầu nên sinh trưởng. Do không có hổ thẹn hỗ trợ ở sau nên không bị tổn giảm. Vì sao? Vì tất cả các nẻo sinh ra pháp sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ não, nóng bức… đều lấy vô minh làm gốc để sinh trưởng. Sinh trưởng xong lại nương vào đó phát sinh ra tất cả pháp ác bất thiện. Pháp ác bất thiện sinh ra là do không có sự hổ thẹn, không hối tiếc. Không hối tiếc nên không giảm bớt. Tất cả pháp thiện thanh tịnh ở thế gian đều do trí tuệ dẫn đầu nên sinh trưởng. Do hổ và thẹn hỗ trợ ở sau nên không tổn giảm. Vì sao? Vì trí tuệ đứng trước và hổ thẹn đứng sau nên có thể đoạn hết các nẻo phát sinh ra pháp sinh, già, bệnh, chết, có thể vượt tất cả pháp ưu sầu khổ não thiêu đốt. Có thể đạt hiểu biết đứng đắn, được cam lồ, chứng đắc Niết-bàn.

Thế nên các ông nên học như vầy: “Ta phải tu tập như thế nào để đoạn hẳn vô minh và phát sinh trí tuệ sáng suốt, đoạn hẳn tất cả các nẻo sinh ra pháp sinh, già, bệnh, chết, vượt khỏi tất cả pháp ưu sầu, khổ não… đạt hiểu biết đúng đắn, được cam lồ, chứng đắc Niết-bàn”. Bí-sô các ông nên học như vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Đời này và đời sau
Sinh, già cùng bệnh, chết
Tham ái, các phiền não
Do vô minh làm gốc.
Vô minh rất ưu tối
Khiến đọa mãi sinh tử
Đời này và đời sau
Luân hồi trong các nẻo.
Do vô minh đứng đầu
Không hổ thẹn ở sau
Sinh trưởng các pháp ác
Đọa nơi các nẻo ác.
Thế nên phải tinh tấn
Lìa tham ái, ngu si
Phát sinh trí tuệ sáng
Đoạn gốc khổ sinh tử.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! tất cả các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì thương xót thế gian nên xuất hiện ở đời. Các Đức Như Lai muốn đoạn trừ, xả bỏ hẳn hai pháp nên Chuyển pháp luân vô thượng của Thánh hiền. Tất cả các Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên, Ma, Phạm trong thế gian, chưa ai có khả năng chuyển được pháp luân này. Hai pháp đó là:

1. Vô minh.

2. Hữu ái.

Tất cả các Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời là vì thương xót thế gian, vì muốn đoạn trừ, xả bỏ hẳn hai pháp này, nên Chuyển pháp luân vô thượng của Hiền thánh. Nói rộng ra cho đến chưa ai có thể chuyển pháp luân như vậy. Ai có thể đoạn trừ, xả bỏ hẳn tất cả vô minh và các hữu ái đã có thì khiến cho người đó dứt hẳn hết không còn sót. Người đó có thể đoạn hẳn tất cả phiền não và các pháp tạp nhiễm, đó gọi là người ra khỏi các hầm hố, vượt các tường thành, phá sự đóng bít, bẻ gãy các pháp thuật của đám ngoại đạo, là Hiền thánh đích thực, là ngọn cờ của Chánh pháp, là đại Sa-môn, Bà-la-môn, là thông tuệ chân chánh, là sự thanh tịnh viên mãn, là chân trí tuệ, là sự điều thuận đúng đắn. Người đó là ruộng phước ở thế gian.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Vô Thượng Chánh Đẳng Giác
Bậc Thượng Thủ trong đời
Đại hùng, đại trượng phu
Bậc nhổ các tên độc.
Thương xót khắp thế gian
Vì đoạn trừ hai pháp
Vô minh và hữu ái
Chuyển pháp luân vô thượng.
Là khổ và nhân khổ
Diệt trừ hết các khổ
Tu tám chi Thánh đạo
Diệt khổ, đắc Niết-bàn.
Người trí nghe pháp này
Tin hiểu thật vững chắc
Đạt các pháp chân chánh
Đoạn vô minh, hữu ái.
Vô minh, hữu ái trừ
Các tạp nhiễm đều diệt
Bậc điều thuận chí thiện
Gọi ruộng phước ở đời.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có hai việc khổ rất khó chịu đựng:

1. Cạo bỏ râu tóc.

2. Thường đi khất thực.

Vì sao? Vì người đời thù oán nhau, nên tạo ra những chú thuật để trù yếm, mong cho những người kia nghèo cùng, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cũ rách, tay cầm bát đất, lang thang từ nhà này đến nhà khác xin ăn để sống.

Những thiện nam có lòng tin thanh tịnh, thọ trì pháp này mà xuất gia, không phải vì sự áp bức của nhà vua, giặc, chủ nợ. Cũng không phải vì sợ chết mà bỏ gia đình, mà chỉ muốn vượt khỏi pháp sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ não thiêu đốt.

Chỉ vì diệt trừ toàn bộ khối khổ lớn, các đệ tử của ta vì cầu đạt những việc như vậy mà chánh tín xuất gia, vì lợi mình, lợi người mà thọ trì pháp này. Hoặc giả có người xuất gia như vậy rồi, trải qua thời gian không bao lâu lại kiêu mạn, buông lung, biếng trễ, siêng làm việc hèn kém, quên mất chánh niệm, không có tỉnh giác, tâm loạn không định, các căn phóng túng, nhiều tham dục, đắm chấp, lòng đầy sân giận, ngu không hiểu biết, tham nhiễm các dục, tư duy hư vọng, hủy các giới cấm, chẳng phải thật Sa-môn, tự xưng là Sa-môn, chẳng phải thật phạm hạnh, tự xưng là phạm hạnh, bên trong thì hủ bại, nhưng biểu hiện ra bên ngoài thì tốt đẹp. Như con ốc sên hôi hám, hành động thì xấu xa nhưng giọng điệu lại dịu dàng, che đậy cái xấu, dối bày cái tốt, tạo thành vô số pháp ác bất thiện. Ví như người từ chỗ tối đi vào chỗ tối, từ hầm hố rơi vào hầm hố, từ oán đến oán. Ta nói: Người xuất gia ngu si như vậy cũng sẽ đi đến chỗ như thế. Lại như có khúc cây hai đầu bị cháy, khoảng giữa dính đầy phẩn uế. Cây đó hoặc bỏ ở xóm làng hay nơi đồng trống, không ai sử dụng. Ta nói người xuất gia ngu si như vậy, cũng sẽ như thế. Mất pháp của hàng tại gia, lại cũng chẳng phải là Sa-môn, ở thế gian và xuất thế gian đều không được phần thù thắng.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Xuất gia mà phá giới
Cả hai đều không thành
Mất phép tắc tại gia
Mất luôn pháp Sa-môn.
Thà nuốt hòn sắt nóng
Và uống nước đồng sôi
Không nhận của cúng dường
Mà phá hủy giới cấm.
Những người phá giới cấm
Không hổ thẹn, ăn năn
Nhận nhiều của tín thí
Nhất định đọa địa ngục.
Những người có trí tuệ
Nên giữ vững tịnh giới
Chớ nhận người cúng dường
Mà hủy phạm giới cấm.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ở đời, có hai hạng người bảo vệ, làm phát triển các nẻo địa ngục và pháp ác, bất thiện. Hai hạng đó là:

1. Có hạng người hủy phạm tịnh giới, chẳng phải thật Sa-môn, tự xưng là Sa-môn, chẳng phải là phạm hạnh, tự xưng là phạm hạnh, bên trong xấu xa hủ bại nhưng biểu hiện ra bên ngoài thì tốt đẹp. Như con ốc sên hôi hám, hành động thì xấu xa nhưng âm điệu lại dịu dàng, hay ho. Che đậy cái xấu, dối bày cái tốt, giống như chiếc cầu thang mục nát, không thể dùng, chỉ tăng thêm nẻo ác.

2. Có hạng người đối với giới pháp hoàn toàn thanh tịnh không hề hủy phạm, tinh tấn tu phạm hạnh, thanh bạch, chính thật là Bí-sô có đức nhưng lại dùng các pháp phi phạm hạnh, không căn cứ để hủy báng, mạ nhục, làm cho kẻ khác mất uy đức.

Hai hạng người như vậy là bảo vệ, làm phát triển các nẻo địa ngục và pháp ác, bất thiện.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Đời có hai hạng người
Sinh trưởng nghiệp cõi ác
Là hủy phạm tịnh giới
Và hủy báng hiền lương.
Hai hạng người như vậy
Đều gọi là hạ tiện
Hiện tại người khinh bỉ
Đời sau bị báo khổ.
Thế nên các Bí-sô
Phải luôn không phóng dật
Giữ gìn giới thanh tịnh
Chớ hủy báng người khác.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ở đời có hai hạng người khó đáp đền ân sâu của họ. Hai hạng đó là cha và mẹ.

Giả sử có người, một vai cõng cha, một vai cõng mẹ, suốt đời chưa từng tạm nghỉ, cung cấp cơm ăn, áo mặc, thuốc thang chữa bệnh và bao nhiêu thứ cần dùng, cũng chưa có thể đền đáp được ân sâu của cha mẹ. Vì sao? Vì công ơn của cha mẹ đối với con rất là sâu nặng. Đó là ơn sinh đẻ, lòng từ cho bú mớm, tắm rửa, giặc giũ, nuôi dưỡng khôn lớn, cung cấp bao nhiêu thứ đồ dùng, của cải, vốn liếng, ơn chỉ dạy về phép tắc ở đời. Lòng cha mẹ luôn muốn cho con lìa khổ được vui, chưa từng có lúc nào tạm ngưng, như bóng theo hình. Cha mẹ đối với con những công ơn sâu nặng như đã nói thì làm sao có thể đáp đền? Nếu cha mẹ của người kia đối với Phật, Pháp, Tăng không có lòng tin thanh tịnh, thì người con phải dùng phương tiện chỉ rõ, khuyên nhủ, dắt dìu, khen ngợi, khích lệ cho cha mẹ phát sinh tịnh, tín. Nếu cha mẹ của người kia không có giới thanh tịnh, thì người con nên theo phương tiện chỉ rõ, khuyên nhủ, dắt dìu, khen ngợi, khích lệ cho cha mẹ yên vui, làm cho cha mẹ thọ trì giới cấm thanh tịnh. Nếu cha mẹ của người kia không được học hỏi thì người con phải dùng phương tiện chỉ rõ, khuyên nhủ, dắt dìu, khen ngợi, khích lệ cho cha mẹ yên vui, làm cho cha mẹ được nghe chánh pháp của chư Phật. Nếu cha mẹ của người kia có tánh tham lam keo kiệt, không ưa bố thí thì người con phải tạo phương tiện chỉ rõ, khuyên nhủ, dắt dìu, khen ngợi, khích lệ cho cha mẹ được yên vui, khiến cha mẹ thực hành bố thí. Nếu cha mẹ của người kia tánh tình ám độn, không có thắng tuệ thì người con phải tạo phương tiện chỉ rõ, khuyên nhủ, dắt dìu, khen ngợi, khích lệ cho cha mẹ được yên vui, làm cho cha mẹ tu tập Thánh tuệ…

Người con nào làm được như vậy thì gọi đó là người con đáp đền ơn sâu của cha mẹ một cách chân thật.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Đời có hai hạng người
Ơn sâu khó đáp đền
Đó là cha và mẹ
Làm sinh trưởng thế gian.
Giả sử dùng hai vai
Công cha mẹ trọn đời
Luôn cung kính cúng dường
Cũng chưa báo được ơn.
Cha mẹ ở thế gian
Sinh đẻ và nuôi dạy
Lòng từ mong lợi lạc
Như bóng đi theo hình.
Cha mẹ ai vốn không
Tín, giới, văn, thí, tuệ
Khuyên cha mẹ tu hành
Gọi chân thật báo ân.
Cung kính dâng vật dùng
Chỉ an vui đời này
Khuyên tu tập tín, giới
Cuối cùng chứng Niết-bàn.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ở đời có hai loại pháp không lừa dối. Hai loại đó là nghiệp và trí.

Các nghiệp nào mà các hữu tình nơi quả dị thục của nó nếu chưa hiện tiền cũng chắc chắn không mất hết? Những trí tuệ nào hữu tình đã có, nơi tất cả phiền não nếu chưa đoạn hẳn, cũng chắc chắn mất hết?

Như vậy gọi là ở thế gian có hai loại pháp không lừa dối.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Hai loại pháp không dối
Chư Phật cùng đàm luận
Là các nghiệp, các trí
Đã làm và đã có.
Quả dị thục chưa sinh
Các nghiệp vẫn không mất
Phiền não tuy chưa dứt
Trí cũng không mất hết.
Nghiệp là nhân sinh tử
Trí là gốc diệt hoặc
Thế nên phải tu trí
Đoạn hẳn cảnh giới khổ.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ở đời có hai hạng người rất đáng tôn trọng lễ bái cúng dường và đem tâm kính yêu gần gũi một bên. Hai hạng người đó là cha và mẹ.

Các hữu tình nào hết sức tôn trọng lễ bái cúng dường, tôn trọng cha mẹ của mình, đem lòng kính yêu và ở gần một bên thì hữu tình đó sẽ được sinh vô lượng phước, được những người có trí cùng nhau khen ngợi, tiếng tốt đồn khắp, ở trong các chúng không sợ hãi, sau đấy không phiền não, ăn năn. Khi thân hoại mạng chung thẳng lên các nẻo thiện, sinh trong cõi trời.

Hữu tình vì lẽ gì đối với cha mẹ phải hết sức tôn trọng, lễ bái, cúng dường, đem lòng kính yêu và ở gần một bên? Vì cha mẹ đối với con có công rất sâu nặng. Đó là ơn sinh đẻ, lòng từ cho bú mớm, tắm rửa, giặc giũ, nuôi dưỡng cho khôn lớn, cung cấp bao nhiêu thứ đồ dùng, của cải, vốn liếng, ơn chỉ dạy về phép tắc ở đời, lòng cha mẹ luôn mong muốn cho con lìa khổ, được vui, chưa từng có lúc nào tạm ngưng, như bóng với hình. Thế nên, con đối với cha mẹ phải hết sức tôn trọng, lễ bái, cúng dường, đem lòng kính yêu và ở gần một bên.

Các hữu tình nào kính yêu cha mẹ và ở gần một bên thì cha mẹ đối với người con đó rất yêu thương, trừ bỏ những việc không lợi ích, dạy bảo cho những điều lợi ích, ngăn chặn các điều ác, khuyến tu các hạnh lành, cưới cho vợ đẹp, thê thất trinh thuận, giúp cho châu báu, bạc tiền, lúa thóc, hàng trời, người nơi thế gian cùng nhau khen ngợi, cung kính cúng dường, gần gũi gia hộ, làm cho người con đó không bị suy tổn.

Thế nên hữu tình đối với cha mẹ phải hết sức tôn trọng, lễ bái, cúng dường, đem lòng kính yêu và ở gần một bên.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Những người có phước đức
Nên tôn trọng cha mẹ
Lễ bái và cúng dường
Yêu thương và gần gũi.
Người thông minh ở đời
Rất cung kính cha mẹ
Luôn cung kính cúng dường
Thường có lòng hoan hỷ.
Cha mẹ ở thế gian
Ân sâu khó đáp đền
Ngăn ác trừ bất lợi
Dạy lợi, khuyên tu thiện.
Cưới vợ cho của cải
Lòng từ luôn che chở
Thế nên phải cúng dường
Sinh vô lượng phước đức.
Hiện đời được tiếng tốt
Được cung kính cúng dường
Qua đời sinh cõi trời
Hưởng sung sướng vô cùng.
Muốn được sinh trời, người
Hưởng diệu lạc năm dục
Giống như trời Đế Thích
Đã cúng dường cha mẹ.
Bài kệ tóm tắt kinh
phần Bản Sự ở trước:
Thiện, tầm, luân, giới học
Vô minh, tuệ đoạn trừ
Khổ, hủy báng báo ân
Không lừa dối cha mẹ.

QUYỂN 5

Phẩm 2: HAI PHÁP (PHẦN 3)

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có hai loại bố thí, đó là:

1. Tài thí.

2. Pháp thí.

Tài thí có hạng người hay bố thí vô số thức ăn uống ngon bổ, hương liệu, vòng hoa, y phục, xe cộ, phòng xá, đồ nằm, của cải, đèn đuốc, thuốc men chữa bệnh, xả hết tất cả những thứ như vậy để bố thí cho người khác. Gọi đó là bố thí tài vật.

Pháp thí có hạng người vì tất cả những người khác giảng thuyết chánh pháp đầu, giữa, cuối đều thiện, văn nghĩa hoàn hảo, đây đủ pháp thanh bạch, phạm hạnh, khiến các hữu tình nghe xong, thoát khỏi pháp sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ não, nóng bức. Đó gọi là pháp bố thí giáo pháp.

Đối với hai loại tài thí và pháp thí này là vi diệu tối thượng bậc nhất. Ví như ở thế gian, sữa từ bò mà ra, lạc từ sữa mà ra, sinh tô từ lạc mà ra. Từ sinh tô cho ra thục tô, từ thục tô cho ra đề hồ và đối với tất cả các vị sữa bò này thì đề hồ là tối thượng thắng diệu hơn hết.

Cũng vậy, trong hai loại tài thí và pháp thí là tối thượng thắng diệu bậc nhất. Đối với pháp thí, ai là người thực hành pháp thí đúng đắn? Chỉ có Đức Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật, Bạc-già-phạm.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Trong hai loại bố thí
Pháp thí đứng hàng đầu
Người thực hành Pháp thí
Thiện Thệ là trên hết.
Trong ruộng thọ tài thí
Như Lai đứng hàng đầu
Thí tài không bền chắc
Chúng sinh nhận pháp thí.
Tài thí giúp chúng sinh
Được đời sống an lạc
Pháp thí khiến người nhận
Cuối cùng đạt Niết-bàn.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có hai loại cúng tế, hai loại đó là:

1. Cúng tế tài vật.

2. Cúng tế pháp.

Cúng tế tài vật đó là có hạng người cúng tế vô số thức ăn uống ngon bổ, hương liệu, vòng hoa, y phục, xe cộ, phòng xá, đồ nằm, của cải, đèn đuốc… cúng tế những loại như vậy gọi là cúng tế tài vật.

Cúng tế pháp là có người cúng tế pháp nơi Khế kinh, Ứng tụng, Ký biệt, Già-tha, Tự thuyết, Bản sinh, Phương quảng, Vị tằng hữu, dùng vô lượng pháp môn, đúng như lý tuyên thuyết, trình bày, xây dựng, phân tích, chỉ dạy, đó gọi là pháp. Đối với hai loại cúng tế tài vật và cúng tế pháp này, thì cúng tế pháp là tối thượng thắng diệu bậc nhất. Ví như ở thế gian, sữa từ bò mà ra, lạc từ sữa ra, sinh tô từ lạc mà ra. Từ sinh tô cho ra thục tô, từ thục tô cho đề hồ là đối với tất cả các vị nơi sữa bò này thì đề hồ; và tối thượng thắng diệu hơn hết. Cũng vậy, trong hai loại cúng tế tài vật và cúng tế pháp, thì cúng tế pháp là tối thượng thắng diệu bậc nhất.

Trong việc cúng tế pháp, ai là người thực hành cúng tế pháp một cách đứng đắn? Chỉ có Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Bạc-già-phạm.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Trong hai loại cúng tế
Cúng tế pháp đứng đầu
Người hành cúng tế pháp
Thiện Thệ là trên hết.
Trong ruộng cúng tế tài
Như Lai đứng hàng đầu
Cúng tài không bền chắc
Chúng sinh cúng tế pháp.
Chúng sinh cúng tài vật
Được đời sống an lạc
Người cúng tế chánh pháp
Cuối cùng đạt Niết-bàn.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

Bí-sô nên biết! Những người tu hành khi tập hợp nhau có hai việc làm:

1. Nói đúng pháp.

2. Im lặng.

Do nói đúng pháp nên xét biết người đó có đức, xét biết người đó có đức nên càng kính tin, càng kính tin nên đi đến chỗ của người đó để gần gũi, hầu hạ, cầu nghe chánh pháp. Cầu nghe chánh pháp nên chăm chú nghe không tán loạn. Chăm nghe không tán loạn nên nghe pháp được thông suốt và ghi nhớ, thọ trì pháp, quán sát mục đích ý nghĩa của pháp. Khi quán sát mục đích ý nghĩa của pháp nên có thể chấp nhận pháp. Suy nghĩ chấp nhận pháp. Khi suy nghĩ kỹ, sinh ưa thích. Sinh ưa thích xong, có được năng lực. Có được năng lực xong, có thể cân nhắc, đo lường. Do cân nhắc, đo lường nên lựa chọn. Do lựa chọn nên giác ngộ ngay sự thật, liền tự thấu rõ: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã xong, không còn tái sinh nữa.

Do im lặng nên tâm được yên tịnh. Thanh tịnh trong sáng, không có tỳ vết, lìa tùy phiền não, chánh biết khắp, có thể luyện cho thân tâm an trụ bất động, có thể phát sinh, khai triển. Phát sinh khai triển nên nhận biết đúng như thật. Nhận biết đúng như thật nên nhàm chán, chối từ. Nhàm chán, chối từ nên lìa dục. Lìa dục xong liền được giải thoát. Giải thoát xong tự thấu rõ: Ta đã giải thoát, sự sinh đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, còn tái sinh nữa.

Bí-sô các ông nên giảng nói rõ pháp như trên, nên nhận biết rõ pháp như trên. Ai có thể làm được như vậy thì mới gọi là đích thật nhận lấy ngọn cờ của chư Phật. Ngược lại, không phải là mọi người tập họp lại để cùng nói năng, hý luận, mới có thể nhận biết đúng đắn về thật tướng của các pháp, có thể đoạn trừ các lậu, chứng đắc Niết-bàn. Ta thường nêu bày biết rõ các pháp như trên, nên được gọi là người đứng đầu, nhận lấy ngọn cờ của chư Phật.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Hành giả khi tập họp
Cần phải làm hai việc
Là im lặng yên tịnh
Và nói đúng chánh pháp.
Do nói đúng chánh pháp
Và yên lặng thanh tịnh
Biết thật tướng các pháp
Cuối cùng chứng Niết-bàn.
Nên Bí-sô các ông
Ai nói rõ pháp trên
Mới là người chân thật
Nhận ngọn cờ của Phật.
Ta thường ở trong chúng
Giảng thuyết pháp rõ ràng
Thế nên gọi bậc nhất
Gương cao ngọn cờ Phật.
Ai nương cờ chánh pháp
Giảng thuyết và tu hành
Mau thoát sinh tử Đạt
Niết-bàn cứu cánh.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Khi nói năng những Bí-sô nào suy nghĩ trái với giáo pháp, theo ý tưởng tham dục, sân giận, tàn hại, Bí-sô như vậy gọi là người ác, người thực hành sơ suất, cẩu thả, người có những hành động tương ứng với nhiều ác làm phương tiện, nên đối với sự đoạn trừ, với sự lìa bỏ, không còn được thiện hữu gần gũi bảo hộ. Phóng dật, biếng trễ, tinh tấn thấp kém, quên mất chánh niệm, tỉnh giác, tâm loạn không định, buông thả các căn, không có nhận thức xuất ly, không biết xuất ly, không có chánh tuệ như thật. Là người đến ma ác, pháp ác, bất thiện, bị hàng phục do ma ác, pháp ác, bất thiện, làm tăng trưởng tất cả các pháp ác, bất thiện.

Khi im lặng các Bí-sô nào suy nghĩ, trái với giáo pháp, nói rộng ra cho đến làm tăng trưởng tất cả pháp ác, bất thiện, Bí-sô như vậy các người đồng phạm hạnh có ý chê bai, quở trách. Đối với người đó ta cũng không khen ngợi. Bí-sô như vậy tuy được xuất gia thọ giới cụ túc, nhưng gọi đó là người ngu si, có ác tuệ, ưa thích nơi Hữu. Thế nên các ông phải học như vầy: Ta phải dùng phương tiện gì để đoạn trừ suy nghĩ trái với giáo pháp và dùng phương tiện gì để tu tập suy nghĩ đúng với giáo pháp. Bí-sô các ông nên học như vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Khi nói năng, im lặng
Căn buông lung, tạo ác
Không vâng lời ta dạy
Là người si tối tăm.
Nên Bí-sô các ông
Siêng tu, không phóng dật
Lìa suy nghĩ trái pháp
Nên tư duy đúng pháp.
Các ông ai siêng năng
Nói, im, không phóng dật
Không lâu vượt sinh tử
Chứng Niết-bàn vô thượng.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Khi nói năng, các Bí-sô nào suy nghĩ đúng với giáo pháp, với ý tưởng xuất ly, không sân hận, không tàn hại. Bí-sô như vậy gọi là người nhiều thiện, người không thực hành sơ suất, cẩu thả. Người có những hành động tương ứng nhiều với thiện làm phương tiện, nên đối với sự đoạn trừ, lìa bỏ, luôn luôn được thiện hữu thân cận, bảo hộ bằng pháp thiện, phóng dật, tinh tấn dũng mãnh, chánh niệm, tỉnh giác, tâm định không loạn, giữ kín các căn, có nhận thức xuất ly, hiểu biết xuất ly, đạt chánh tuệ như thật, là người xả bỏ pháp ác, bất thiện của ma ác, hàng phục pháp ác, bất thiện của ma ác, làm tổn hại tất cả pháp ác, bất thiện.

Khi im lặng, các Bí-sô nào suy nghĩ đúng với giáo pháp, nói rộng ra cho đến làm tổn giảm tất cả các pháp ác, bất thiện, Bí-sô như vậy được các đồng phạm có trí khen ngợi. Bí-sô như vậy gọi là người xuất gia chân thật, thọ giới Cụ túc, người có nhiều trí tuệ, người không ưa các hữu. Gọi là người không si. Thế nên các ông nên học như vậy: “Ta phải tu tập theo phương tiện nào để đoạn trừ suy nghĩ trái với giáo pháp.” Bí-sô các ông nên học như vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Khi nói năng, im lặng
Các căn không tạo ác
Vâng theo lời ta dạy
Là người trí thông tuệ.
Tư duy tu xuất ly
Và không giận, không hại
Có chánh kiến xuất ly
Hiểu biết đúng như thật.
Hàng phục các ma ác
Và pháp ác, bất thiện
Đoạn hẳn các phiền não
Chứng cứu cánh Niết-bàn.
Nên Bí-sô các ông
Siêng tu, không buông lung
Nên tư duy đúng pháp
Tránh suy nghĩ trái pháp.
Các ông ai siêng tu
Nói, im, không phóng dật
Mau vượt khỏi sinh tử
Chứng Niết-bàn Vô thượng.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Bí-sô hữu học có hai loại năng lực. Hai loại đó là:

1. Năng lực lựa chọn.

2. Năng lực tu tập.

Thế nào là Bí-sô có năng lực lựa chọn? Nghĩa là có hạng Bí-sô hữu học, khi thọ dụng các thứ y phục, ẩm thực, phòng xá, đồ nằm, thuốc men chữa bệnh, của cải… đều lựa chọn một cách rõ ràng, không phải không chọn lựa mà liền thọ dụng. Đối với y phục, ẩm thực, phòng xá, đồ nằm, thuốc men chữa bệnh và của cải chưa có được thì không quá mong cầu. Đối với y phục, ẩm thực, phòng xá, thuốc men chữa bệnh và của cải đã được rồi thì không quá đắm chấp. Chấp nhận, chịu đựng những sự đói khát, lạnh nóng, muỗi mòng, rắn rít… xúc phạm chịu đựng những lời hủy báng, mắng nhiếc của người khác. Cố gắng chịu đựng những sự đau đớn, cay đắng dữ dội, khó chịu đựng từ trong cơ thể phát sinh ra cướp đoạt mạng sống, chịu đau khổ khó chữa trị. Nhẫn nhục chịu đựng tất cả những việc rất khó nhẫn ở thế gian. Lựa chọn rõ ràng ba loại hành ác thuộc thân, ngữ, ý để quán chiếu về quả khổ dị thục không thể ưa thích của pháp quá khứ, hiện tại, vị lai, cho nên suy nghĩ thế này: “Ta nay quyết định phải đoạn trừ ba loại ác hạnh thuộc thân, ngữ, ý. Ta nay quyết định phải tu ba loại thiện hạnh thuộc thân, ngữ, ý. Có thể nhận biết đúng đắn về lỗi lầm có ba loại ác hạnh. Lại nhận biết đúng đắn về công đức của ba loại thiện hạnh. Đã nhận biết đúng đắn rồi thì siêng đoạn ác hạnh, siêng tu thiện hạnh để sửa đổi bản thân, làm cho bản thân được thanh tịnh, lìa các tội lỗi. Đó gọi là năng lực lựa chọn ban đầu của Bí-sô hữu học.

Thế nào là Bí-sô có năng lực tu tập? Nghĩa là có hạng Bí-sô hữu học, những điều đã ghi nhớ, tất cả đều thuận với Giác chi không trái. Những Trạch pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định, Xả đã được, tất cả đều thuận với giác chi không trái. Tu niệm Giác chi điều y chỉ nơi sự chán bỏ, xa lìa y chỉ nơi diệt trừ và hồi hướng về xả. Tu tập Trạch pháp, Tinh tấn, Hỷ, Khinh an, Định, Xả giác chi đều y chỉ nơi sự chán bỏ, xa lìa y chỉ diệt trừ và hồi hướng nơi xả. Như vậy gọi là năng lực tu tập của loại Bí-sô hữu học. Đó gọi là hai năng lực của Bísô hữu học.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Các Bí-sô hữu học
Lược có ba năng lực
Lựa chọn và tu tập
Dẹp trừ quân ma ác.
Thấy lỗi xấu nên đoạn
Biết diệu đức nên tu
Nhẫn nhục và tư duy
Gọi năng lực lựa chọn.
Y chỉ, chán, lìa, diệt
Và hồi hướng về xả
Để tu bảy Giác chi
Gọi năng lực tu tập.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Do hai loại pháp diệt hết, nên chết. Hai pháp đó là:

1. Nghiệp hiện tại.

2. Tuổi thọ.

Do nghiệp hiện tại chấm dứt và do tuổi thọ chấm dứt nên quyết định chết.

Khi nào nghiệp hiện tại còn, khi ấy tuổi thọ còn. Khi nào tuổi thọ còn, khi ấy nghiệp còn. Vì sao? Vì hai pháp này luôn luôn hòa hợp nhau, không lúc nào là không hòa hợp. Hai pháp này không thể sắp đặt, phân tích, tách rời cho rằng: Hiện tại có nghiệp, lúc khác có thọ, hiện tại có thọ, lúc khác có nghiệp. Nếu nghiệp thì có thọ, nếu thọ thì có nghiệp. Nếu không có nghiệp thì không có thọ, nếu không có thọ thì không có nghiệp. Giống như đốt đèn thì có ngọn lửa và phát ra ánh sáng. Nếu có ngọn lửa thì có ánh sáng, nếu có ánh sáng thì có ngọn lửa. Nếu không có ngọn lửa thì không có ánh sáng, nếu không có ánh sáng thì không có ngọn lửa. Nghiệp và thọ cũng như vậy, nếu có tuổi thọ thì có nghiệp. Nếu không có nghiệp thì không có tuổi thọ. Nếu không có tuổi thọ thì không có nghiệp. Hai pháp này diệt hết thì liền chết.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Hai phát thường theo nhau
Là nghiệp cùng với thọ
Nghiệp có, thọ cũng có
Nghiệp không thọ cũng không.
Nghiệp thọ chưa tiêu mất
Hữu tình chưa thể chết
Nghiệp, thọ nếu diệt tận
Hàm thức sẽ chết ngay.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

Bí-sô nên biết! Có hai loại hành, chúng sinh ở thế gian cùng nhau tạo tác. Hai hành đó là:

1. Hành đưa đến chết yểu.

2. Hành đưa đến trường thọ.

Thế nào là hành đưa đến chết yểu? Nghĩa là có hạng người vì tánh hung bạo, thường ưa sát sinh, sát hại mạng sống các loài vật, thường làm việc sát hại các chúng sinh, không xót thương, hổ thẹn, thường làm việc giết hại các chúng sinh, cho đến giẫm đạp, sát hại các loài trùng kiến. Đó gọi là hành đưa đến chết yểu.

Thế nào là hành đưa đến trường thọ? Nghĩa là có hạng người xa lìa việc sát sinh, vứt bỏ dụng cụ sát sinh, thương xót, hổ thẹn, thường làm việc giết hại chúng sinh, cho đến giẫm đạp, sát hại các loài trùng kiến. Đó gọi là hành đưa đến trường thọ.

Như vậy gọi là có hai loại hành chúng sinh trong thế gian cùng nhau tạo tác.

Khi ấy Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Hữu tình trong thế gian
Lược có hai loại hành
Do hai hành sai biệt
Mạng sống có dài ngắn.
Thường ưa việc sát sinh
Hung bạo tay vấy máu
Không xót thương, hổ thẹn
Chắc chắn bị chết yểu.
Thường ưa lìa sát sinh
Vứt bỏ các sát cụ
Hổ thẹn và thương xót
Nhất định được trường thọ.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Do hai hành tướng, nên tâm mới chấp giữ tướng. Hai hành tướng đó là:

1. Hành tướng của đối tượng được duyên.

2. Hành tướng tác ý.

Tất cả những tướng gì mà tâm đã chấp thủ, đang chấp thủ, sẽ chấp thủ, đều do hai loại hành tướng này.

Bí-sô các ông do hai hành tướng này nên cần phải chánh tinh tấn để nắm rõ được hoàn toàn tướng của tâm. Nắm rõ được hoàn toàn tướng của tâm rồi, nên tác ý đúng tướng của tâm. Tác ý đúng tướng của tâm rồi nên quán sát trọn vẹn. Quán sát trọn vẹn rồi nên an trụ hoàn toàn. An trụ hoàn toàn rồi nên giống như địa giới, chánh tinh tấn tu tập cùng khắp, không thiếu xót. Nên giống như thủy giới, hỏa giới, phong giới, chánh tinh tấn tu tập cùng khắp, không thiếu sót.

Bí-sô nên biết! Ví như địa giới, nếu trong đó vứt bỏ đầy các loại phẩn uế, mũi dãi, máu mủ. Các vậy tịnh và bất tịnh tuy vứt đầy trong đó như vậy, nhưng địa giới chưa từng tỏ ra vui buồn, thuận nghịch, cao hay thấp. Nên giống như địa giới an tâm như vậy, chánh tinh tấn tu tập cùng khắp, không thiếu sót. Đã giống như địa giới chánh tinh tấn tu tập cùng khắp, không thiếu sót, tuy gặp vô số các duyên thuận nghịch nhưng tâm không phân biệt, tính toán, so đo. Hoàn toàn không do nhân duyên sai biệt ấy mà tâm thành cao hay thấp.

Lại như thủy giới, hỏa giới, phong giới nếu trong đó vứt bỏ đầy các loại phẩn uế, mũi dãi, máu mủ, các vậy tịnh và bất tịnh tuy vứt đầy trong đó như vậy nhưng thủy giới, hỏa giới, phong giới chưa từng tỏ ra vui buồn, thuận nghịch cao hay thấp. An tâm như thì đồng như nơi thủy giới, hỏa giới, phong giới, chánh tinh tấn tu tập cùng khắp không thiếu sót, tuy gặp vô số các duyên thuận nghịch nhưng tâm hoàn toàn không phân biệt, tính toán, so đo. Tâm hoàn toàn không do nhân duyên sai biệt này mà trở thành cao hay thấp. Do định này mà đối với thân thể có nhận thức này và trong tất cả những tướng của đối tượng được duyên bên ngoài chấp lấy ngã, ngã sở. Kiến chấp về mạn, phiền não, được điều phục và trừ diệt hoàn toàn. Đối với hai loại kia, tâm vượt khỏi hẳn, lìa tất cả tướng tịch tĩnh, an ổn, hoàn toàn giải thoát. Đối với sở đắc, danh vang, tiếng khen, sự vui thích, tâm không vui mừng hơn.

Đối với cái khổ bị suy kém, hủy nhục, chê bai, tâm người đó cũng không buồn rầu. Đó gọi là vượt qua tám pháp của thế gian. Tâm người đó bình đẳng, giống như đất, nước, lửa, gió ở thế gian, tám pháp thế gian không thể làm cho cấu nhiễm.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Tâm thô động khó điều
Mau lẹ không gì bằng
Chánh tinh tấn, giữ tướng
Là sáng suốt ở đời.
Khéo giữ tướng tâm rồi
Lại tác ý quán sát
Chánh niệm, trụ nơi tâm
Siêng tu, đồng bốn giới.
An trụ đúng như vậy
Vứt bỏ hết các dục
Đối tám pháp thế gian
Hoàn toàn không cấu nhiễm.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có hai loại pháp, tuy chống trái nhau, chưa từng hòa hợp, nhưng trong đó không hề thiếu sót, gián đoạn. Hai pháp đó là sinh và tử.

Ví như bóng tối và ánh sáng ở thế gian, tuy trái ngược nhau, chưa từng hòa hợp, nhưng ngay trong đó không thiếu, không gián đoạn. Khi ánh sáng phát sinh thì bóng tối ẩn mất. Khi bóng tối xuất hiện thì ánh sáng liền lui. Sinh và tử cũng như vậy, chúng thường trái chống nhau chưa từng hòa hợp, nhưng ngay trong đó không thiếu sót, gián đoạn. Khi pháp sinh xuất hiện thì pháp tử ẩn mất. Khi pháp tử xuất hiện thì pháp sinh ẩn mất.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Như ánh sáng, bóng tối
Luôn luôn trái nghịch nhau
Nhưng giữa hai pháp ấy
Chưa từng có gián đoạn.
Sinh tử cũng như vậy
Tuy thường cùng trái nhau
Nhưng giữa hai pháp ấy
Chưa từng có gián đoạn.
Sinh tử gốc vô minh
Thấm ướt do nước ái
Nên sinh tử tiếp nối
Không lúc nào gián đoạn.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có hai trường hợp chết. Đó là:

1. Chết không điều phục.

2. Chết có điều phục.

Thế nào là chết không điều phục? Nghĩa là các hạng phàm phu ngu tối, không hiểu biết, chưa được gần gũi các bậc Thiện sĩ chánh kiến, chưa nhận biết rõ pháp của các bậc Thiện sĩ, đối với pháp ấy chưa tự điều thuận. Người đó tùy theo nhận thức, cho rằng: Sắc tức là ngã, sắc thuộc về ngã, sắc ở trong ngã, ngã ở trong sắc. Người đó tùy theo nhận thức, cho rằng: Thọ tức là ngã, thọ thuộc về ngã, thọ ở trong ngã, ngã ở trong thọ. Người đó tùy theo nhận thức, cho rằng: Tưởng tức là ngã, tưởng thuộc về ngã, tưởng ở trong ngã, ngã ở trong tưởng. Người đó tùy theo nhận thức, cho rằng: Hành tức là ngã, hành thuộc về ngã, hành ở trong ngã, ngã ở trong hành. Người đó tùy theo nhận thức, cho rằng: Thức tức là ngã, thức thuộc về ngã, thức ở trong ngã, ngã ở trong thức. Mắt thấy sắc xong, chấp thủ tướng đó, chấp thủ theo cái đẹp, do nhân duyên ấy, ngay nơi nhãn căn của người đó không thể chánh niệm, phòng giữ, tự chủ được, nên khởi lên sự tham ưu, nên có vô lượng pháp ác bất thiện theo tâm tuôn ra, không thể ngăn chận. Ngay nơi nhãn căn của người đó không thể phòng giữ, buông thả nhãn căn đi đến các cảnh giới. Tham đắm vị ngọt của sắc, tâm họ bị trói buộc quấy nhiễu. Vì sự tham đắm này nên họ chịu khổ lâu dài, chịu khổ mãnh liệt, chịu khổ vô bờ bến, tăng thêm nhiều thân bị đâm chảy máu, tăng thêm nẻo đường mênh mông, quạnh quẽ, qua lại vô lượng lần trong các nẻo địa ngục, bàng sinh, ngạ quỷ, trong các nẻo Trời, Người, A-tu-la, chịu khổ dữ dội, đều do nhãn căn không được điều phục. Hoặc khi tai nghe tiếng xong, mũi ngửi hương xong, lưỡi nếm vị xong, thân xúc giác xong, ý biết pháp xong, chấp giữ nơi tướng đó, chấp giữ cái đẹp; do nhân này, ý căn của người đó không thể chánh niệm, phòng hộ, tự chủ, nên phát sinh tham ưu, liền có vô lượng pháp ác bất thiện theo tâm tuôn ra không thể ngăn chận. Ngay nơi ý căn của người đó không thể phòng giữ, buông thả ý căn đến các cảnh giới. Tham đắm vị ngọt của pháp, tâm người đó bị trói buộc quấy nhiễu. Do tham này nên chịu khổ lâu dài, chịu khổ mãnh liệt, chịu khổ vô bờ, tăng thêm nhiều thân bị đâm chảy máu, tăng thêm nẻo đường mênh mông hiu quạnh. Qua lại vô lượng lần sinh trong cõi địa ngục, bàng sinh, ngạ quỷ, trong các nẻo Trời, Người, A-tu-la, chịu các khổ kịch liệt… đều do ý căn không được điều phục, nên gọi đó là cái chết chưa được điều phục. Thế nào là cái chết đã được điều phục? Nghĩa là các đệ tử đa văn của Hiền thánh đã gần gũi các bậc Thiện sĩ chánh kiến, đã nhận biết pháp của bậc Thiện sĩ, đối với pháp của bậc ấy đã tự điều thuận, không tùy thuận theo nhận thức: Sắc tức là ngã, sắc thuộc về ngã, sắc ở trong ngã, ngã ở trong sắc. Không tùy thuận theo nhận thức: Thọ tức là ngã, thọ thuộc về ngã, thọ ở trong ngã, ngã ở trong thọ. Không tùy thuận theo nhận thức: Tưởng tức là ngã, tưởng thuộc về ngã, tưởng ở trong ngã, ngã ở trong tưởng. Không tùy thuận theo nhận thức: Hành tức là ngã, hành thuộc về ngã, hành ở trong ngã, ngã ở trong hành. Không tùy thuận theo nhận thức: Thức tức là ngã, thức thuộc về ngã, thức ở trong ngã, ngã ở trong thức. Mắt thấy sắc xong, không chắp giữ tướng đó, không chạy theo cái đẹp, do nhân duyên ấy, ngay nơi nhãn căn của người đó chánh niệm hoàn toàn, phòng hộ tự chủ nên không sinh tham ưu Vô lượng các pháp ác, bất thiện theo tâm tuôn chảy đều có thể ngăn chận không cho theo tâm hiện bày. Nhãn căn của người đó được phòng giữ hoàn toàn, không buông thả đi đến các cảnh giới, không tham vị ngọt của sắc trói buộc, quấy nhiễu tâm. Không do sự tham này mà chịu khổ lâu dài, chịu khổ mãnh liệt, chịu khổ vô bờ, tăng thêm thân bị đâm chảy máu, tăng thêm nẻo đường mênh mông, hiu quạnh, không còn qua lại sinh trong cõi địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh, trong các nẻo Trời, Người, A-tu-la, chịu khổ kịch liệt… đều do nhãn căn đã được điều phục hoàn toàn. Lúc như vậy, tai nghe tiếng xong, mũi ngửi hương xong, lưỡi nếm vị xong, thân xúc chạm xong, ý biết pháp xong, không chấp chặt tướng đó, không chạy theo cái đẹp đó. Do nhân duyên này, ngay nơi ý căn của người đó, chánh niệm hoàn toàn, phòng hộ tự chủ, nên không sinh tham ưu. Có vô lượng pháp ác, bất thiện theo tâm chảy ra đều bị ngăn chận, ngay nơi ý căn của người đó chánh niệm được phòng giữ hoàn toàn, không buông thả ý căn đi đến các cảnh giới, không tham vị ngọt của pháp, trói buộc, quấy nhiễu tâm họ, không do việc tham này mà chịu khổ lâu dài, chịu khổ mãnh liệt, chịu khổ vô bờ, tăng thêm thân bị đâm chảy máu, tăng thêm nẻo đường mênh mông quạnh quẽ, không còn qua lại sinh trong cõi địa ngục, ngạ quỷ, bàng sinh, trong các nẻo Trời, Người, A-tu-la, chịu các khổ kịch liệt… đều do ý căn được điều phục hoàn toàn. Như vậy gọi là cái chết có điều phục.

Bí-sô nên biết! Người chết không được điều phục, chìm đắm trong vô lượng biển khổ sinh tử. Còn người chết có điều phục sẽ vượt qua vô lượng biển khổ sinh tử. Đó gọi là hai cái chết.

Khi ấy, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa này và nói kệ:

Lược nêu các hữu tình
Có hai loại pháp chết
Điều phục, không điều phục
Hoàn toàn không có ba.
Chết mà không điều phục
Quyết định vào các nẻo
Chịu các khổ luân hồi
Qua lại vô lượng lần.
Người chết đã điều phục
Không đọa trong nẻo ác
Ngay trong cõi trời, người
Dứt sạch hết các khổ.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Tất cả các pháp lược có hai loại. Đó là:

1. Tạp nhiễm.

2. Thanh tịnh.

Nên quán sát đúng đắn chỉ do một pháp sinh ra. Vì sao? Vì ai ngay nơi một pháp có thể giữ gìn hoàn toàn thì đối với tất cả pháp có thể giữ gìn hoàn toàn. Ai đối với một pháp không thể giữ gìn hoàn toàn thì đối với tất cả pháp không thể giữ gìn hoàn toàn.

Một pháp là gì? Đó là tâm của chúng sinh. Ai đối với tâm không thể giữ gìn thì không thể giữ gìn thân, ngữ, ý nghiệp. Ai không thể giữ gìn thân, ngữ, ý nghiệp, thì người như vậy tức là người thân, ngữ, ý nghiệp đều bị bại hoại. Thân, ngữ, ý nghiệp đều bại hoại nên tâm của người đó có sự vẩn đục, cấu uế. Người có tâm vẩn đục, cấu uế mà có thể nhận biết đúng đắn việc lợi lạc cho mình, việc lợi lạc cho người, việc lợi lạc cho cả hai, thì không có lẽ đó. Có thể nhận biết đúng đắn ý nghĩa của lời nói tốt, ý nghĩa của lời nói ác thì không có lẽ đó. Có thể chứng được tất cả pháp của bậc Thượng nhân thù thắng, trí, kiến của bậc Thánh đích thực thì không thể có lẽ đó. Vì sao? Vì tâm của người đó vẩn đục, cấu uế. Ví như các tòa lâu đài hiện có ở thế gian, nếu ngay nơi trung tâm không được che lợp thật kín thì xà, vách, đòn tay đều bị thấm ước. Do xà, vách, đòn tay bị thấm ướt nên tất cả đều bị hư hại hết. Lại như các ao hồ nơi thế gian do gần xóm làng, thôn ấp nên bị vẩn đục, nhơ nhớp. Người có mắt sáng đứng trên bờ ao chú ý quán sát các loại cá, rùa, bò, hến, đá, sỏi hiện có trong ao, dù đã đi đứng quanh khắp bờ ao, nhưng rất khó có thể thấy rõ được. Vì sao? Vì nước trong ao hồ bị vẩn đục, nhơ nhớp. Cũng vậy, ai đối với tâm không thể giữ gìn thì không thể giữ gìn thân, ngữ, ý nghiệp. Ai không thể giữ gìn thân, ngữ, ý nghiệp thì thân, ngữ, ý nghiệp của người đó đều bị bại hoại. Thân, ngữ, ý nghiệp bại hoại nên tâm người đó có sự vẩn đục, cấu uế. Tâm người đó có sự vẩn đục, cấu uế mà có thể nhận biết đúng đắn việc lợi lạc cho mình, việc lợi lạc cho người, việc lợi lạc cho cả hai, thì không có việc ấy; có thể nhận biết đúng đắn nghĩa của lời nói tốt, nghĩa của lời nói ác, thì không có lẽ đó. Có thể chứng được tất cả pháp của bậc Thượng nhân thù thắng, trí, kiến của bậc Thánh đích thực thì không có lẽ đó. Vì sao? Vì tâm người đó có sự vẩn đục, cấu uế.

Ai có thể khéo giữ gìn được tâm thì có thể khéo giữ gìn thân, ngữ, ý nghiệp. Ai có thể giữ gìn hoàn toàn thân, ngữ, ý nghiệp thì có như vậy tức là người thân, ngữ, ý nghiệp hoàn toàn không bại hoại. Thân, ngữ, ý nghiệp không bại hoại nên tâm người đó không vẩn đục, cấu uế. Người tâm không vẩn đục, cấu uế thì có thể nhận biết đúng đắn việc lợi lạc cho mình, việc lợi lạc cho người, việc lợi lạc cho cả hai, điều đó có thể được. Có thể nhận biết đúng đắn nghĩa của lời nói tốt, nghĩa của lời nói ác, điều đó có thể được. Có thể chứng được tất cả pháp bậc Thượng nhân thù thắng, trí, kiến của bậc Thánh đích thực, điều có thể được. Vì sao? Vì tâm người đó không bị vẩn đục, cấu uế. Ví như các tòa lâu đài hiện có ở thế gian, nếu như ở ngay nơi trung tâm được che lợp kín đáo đầy đủ thì xà, vách, đòn tay hoàn toàn không bị thấm ướt. Do xà vách và đòn tay không bị thấm ướt nên tất cả không bị hư hoại. Lại như ao, hồ nơi thế gian đều cách xa xóm làng, thôn ấp đều không vẩn đục, nhơ nhớp. Người có mắt sáng đứng trên bờ chú ý quán sát các loại cá, rùa, sò, hến, sỏi, đá hiện có trong ao do đi đứng quanh khắp bờ ao nên rất dễ nhìn thấy. Vì sao? Vì nước trong ao không bị vẩn đục, nhơ nhớp. Cũng vậy, chúng sinh ai giữ gìn được tâm thì có thể giữ gìn hoàn toàn thân, ngữ, ý nghiệp. Ai có thể giữ gìn hoàn toàn thân, ngữ, ý nghiệp thì người như vậy tức là có thân, ngữ, ý nghiệp hoàn toàn không bại hoại. Thân, ngữ, ý nghiệp không bại hoại nên tâm người đó không vẩn đục, cấu uế. Người tâm không vẩn đục, cấu uế thì có thể nhận biết đúng đắn việc lợi lạc cho mình, việc lợi lạc cho người, việc lợi lạc cho cả hai, điều đó có thể được. Có thể nhận biết đúng đắn nghĩa của lời nói tốt, nghĩa của lời nói ác, điều đó có thể được. Có thể chứng được tất cả pháp bậc Thượng nhân thù thắng, trí, kiến của bậc Thánh đích thực chân chánh, điều đó có thể được. Vì sao? Vì tâm người đó không bị vẩn đục, cấu uế.

Bí-sô nên biết! Tâm tạp nhiễm nên hữu tình tạp nhiễm. Tâm thanh tịnh nên hữu tình thanh tịnh. Thế nên hai pháp thanh tịnh và tạp nhiễm đều nương tựa nơi tâm, từ tâm sinh ra.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ai không giữ gìn tâm
Tùy thuận theo các dục
Thường giong ruổi, phóng dật
Không việc gì không làm.
Ai khéo giữ gìn tâm
Không tùy thuận các dục
Không giong ruổi, phóng dật
Phòng hộ được tất cả.
Người thông minh ở đời
Phòng hộ thân, ngữ, ý
Không tạo các điều ác
Gọi Trượng phu trí dũng.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có hai loại tri kiến làm cho các hữu tình lần lượt gây oán hại, chống trái nhau. Hai loại đó là hữu kiến và vô kiến.

Có những Sa-môn hay Bà-la-môn chấp nhận hữu kiến, thường làm theo hữu kiến, đam mê hữu kiến thì cùng với những người yêu thích vô hữu kiến trái chống, oán hại nhau, đề cao hữu kiến, cho là hơn hết.

Có những Sa-môn hay Bà-la-môn chấp nhận vô hữu kiến, làm theo vô hữu kiến, đắm chấp vô hữu kiến, cùng với những người ưa thích hữu kiến lần lượt trái chống, oán hại nhau, đề cao vô hữu kiến, cho là bậc nhất.

Nếu có những Sa-môn hay Bà-la-môn đối với sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự lỗi lầm nguy hiểm, sự xuất ly của hai kiến này, mà không dùng trí tuệ chân chánh để nhận biết đúng như thật. Ta nói người ấy là hạnh không có trí, kiến, là người có tham, sân, si, có sai trái, có hại, không có tuệ, không sáng suốt, không thể thoát khỏi pháp sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu khổ não thiêu đốt, không thể giải thoát khỏi các khổ nơi sinh tử.

Nếu có Sa-môn hay Bà-la-môn nào, đối với sự tập khởi, sự đoạn diệt, vị ngọt, sự lỗi lầm nguy hiểm, sự xuất ly của hai thứ kiến chấp này, có thể dùng trí tuệ chân chánh để nhận biết đúng như thật, ta nói người ấy là hạng người có trí, kiến, là người không tham, sân, si, không sai trái, không hại, có tuệ, có sáng suốt, quyết định có thể thoát khỏi các pháp sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ não thiêu đốt, quyết định có thể giải thoát khỏi khổ lớn nơi sinh tử.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Thế gian do hai kiến
Lần lượt chống trái nhau
Đây kia gây oán thù
Hữu kiến, vô hữu kiến.
Đối với các kiến này
Ưa thích không thể lìa
Đó là kẻ ngu si
Luôn khen mình, chê người.
Ai không biết tập, diệt
Vị, hoạn, xuất, kiến này
Bị thương tên độc kiến
Bị vô minh che lấp.
Đầy đủ tham, sân, si
Không trí tuệ soi sáng
Quyết không thể giải thoát
Khổ sinh, già, bệnh, chết.
Ai thấy tập, diệt, vị
Hoạn, xuất của kiến này
Tên độc kiến không hại được
Phá vô minh đen tối.
Xa lìa tham, sân, si
Đầy đủ trí tuệ sáng
Quyết định được giải thoát
Hết sinh, già, bệnh, chết.

Lại nữa, tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có hai chánh kiến, nên suy xét, lường tính quán sát kỹ càng. Ai lường tính quán sát kỹ thì có thể đắc điều chưa đắc, thông điều chưa thông, chứng điều chưa chứng, vượt khỏi ưu sầu, diệt hết khổ não, hội nhập chánh lý, đạt cam lồ, chứng Niết-bàn. Thế nào là hai? Nghĩa là tất cả chánh kiến ở thế gian này và chánh kiến xuất thế gian.

Thế nào là chánh kiến thế gian? Nghĩa là có một hạng người phát sinh nhận thức như vậy, lập luận như vậy, quyết định có bố thí, có lãnh thọ, có cúng tế, có nghiệp thiện ác, có quả dị thục, có thế gian ở đây, có thế gian ở kia, có cha, có mẹ, có các chủng loại hữu tình hóa sinh ở nơi thế gian. Có các hàng Sa-môn, Bà-la-môn… chánh chí, chánh hạnh nơi thế gian này và thế gian kia, tự nhiên thông đạt, tác chứng lãnh thọ. Như vậy gọi là chánh kiến thế gian. Các Thánh đệ tử đối với chánh kiến thế gian đã nói này nên suy xét, lường tính quán sát nương vào chánh kiến thế gian đã nói ấy để có thể làm cho chúng sinh giải thoát hoàn toàn những pháp sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu, khổ não thiêu đốt không? Quán sát kỹ xong, liền nhận biết đúng đắn, nương vào chánh kiến thế gian đã nói ấy không làm cho chúng sinh được giải thoát hoàn toàn khỏi các pháp sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu khổ não thiêu đốt. Vì sao? Vì chánh kiến thế gian đã nói ấy không phải là chánh kiến của bậc chân Thánh, không phải là chánh kiến xuất ly, không phải là chánh kiến đưa đến cứu cánh là chứng đắc Niết-bàn, không đưa đến nhàm chán, không đưa đến từ bỏ, không đưa đến an tịnh, không đưa đến tịch diệt, không chứng thông tuệ, không thành tựu Đẳng giác, không đạt tới Niết-bàn, mà còn đưa đến các pháp sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu khổ não thiêu đốt. Biết như vậy rồi, đối với pháp thế gian sinh tưởng sợ hãi, đối với pháp xuất thế, sinh tưởng an tĩnh. Do đối với pháp thế gian sinh tưởng sợ hãi nên hoàn toàn không chấp thủ. Do không chấp thủ nên không mong cầu, không mong cầu nên bên trong chứng được cứu cánh Niết-bàn. Chứng như vậy xong, liền tự thấu tỏ: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa. Cũng vậy, các ông đối với chánh kiến thế gian đã nói ấy nên suy xét kỹ, lường tính kỹ, quán sát kỹ.

Thế nào là chánh kiến xuất thế gian? Nghĩa là trí nhận biết khổ, trí nhận biết nguyên nhân của khổ, trí nhận biết khổ diệt, trí nhận biết con đường có thể hướng đến diệt khổ. Như vậy gọi là chánh kiến xuất thế gian. Các Thánh đệ tử đối với chánh kiến xuất thế gian đã nói này nên suy nghĩ kỹ, lường tính kỹ, quán sát kỹ, nương vào chánh kiến xuất thế đã nói ấy để có thể làm cho chúng sinh hoàn toàn thoát khỏi những pháp sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu khổ não thiêu đốt không? Quán sát kỹ xong, liền nhận biết đúng đắn, nương vào chánh kiến xuất thế đã nói ấy, có thể làm cho chúng sinh hoàn toàn thoát khỏi những pháp sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu khổ não thiêu đốt không? Quán sát kỹ xong, liền nhận biết đúng đắn, nương vào chánh kiến xuất thế đã nói ấy, có thể làm cho chúng sinh hoàn toàn thoát khỏi những pháp sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu khổ não thiêu đốt. Vì sao? Vì như chánh kiến xuất thế đã nói, là chánh kiến của bậc chân Thánh, là chánh kiến xuất ly, là chánh kiến đưa đến cứu cánh là chứng Niết-bàn, đưa đến nhàm chán, đưa đến từ bỏ, đưa đến an tĩnh, đưa đến tịch diệt, chứng thông tuệ, thành tựu Đẳng giác, đắc Niết-bàn, vượt qua tất cả những pháp sinh, già, bệnh, chết, ưu sầu khổ não thiêu đốt. Biết như vậy rồi, đối với pháp xuất thế gian sinh tưởng tôn quý, đối với pháp thế gian sinh tưởng thấp kém. Đối với pháp xuất thế sinh tưởng tôn quý nên liền sinh hoan hỷ. Do sinh hoan hỷ nên tâm an vui. Tâm an vui nên tâm được khinh an. Thân khinh an nên cảm thọ sự hỷ lạc, cảm thọ sự hỷ lạc nên tâm được tịch định. Tâm được tịch định nên tri kiến đúng đắn. Tri kiến đúng như thật nên nhàm chán, từ bỏ. Càng nhàm chán từ bỏ nên ngay khi ấy lìa tham dục, lìa tham dục nên được giải thoát, được giải thoát nên tự thấu tỏ: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa. Cũng vậy, các ông đối với chánh kiến xuất thế gian đã nói ấy nên suy xét đúng đắn, nên lường tính kỹ, quán sát kỹ.

Như vậy gọi là hai loại chánh kiến nên suy xét đúng đắn, nên lường tính kỹ, quán sát kỹ, thì có thể đắc điều chưa đắc, thông điều chưa thông, chứng điều chưa chứng, có thể vượt khỏi ưu sầu, diệt hết khổ não, hội nhập chánh lý, đạt cam lồ, chứng đắc Niết-bàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Có hai loại chánh kiến
Thế và xuất thế gian
Người trí suy xét đúng
Có thể dứt các khổ.
Suy xét kỹ thế gian
Liền sinh tưởng tôn quý
Tâm hoan hỷ an vui
Do đây được khinh an.
Khinh an nên an lạc
An lạc tâm tịch định
Tâm định sinh giác chi
Tri kiến bốn lẽ thật.
Thấy thật, đoạn các nghi
Hết nghi, không chấp thủ
Thoát khỏi tất cả khổ
Chứng Niết-bàn vô thượng.

Bài kệ tóm tắt kinh phần Bản Sự ở trước:

Thí, Từ cùng tập hội
Như, bất như, học chung
Hành tướng tương vi, tử
Nhiễm, tịnh, cùng hai kiến.

QUYỂN 6

Phẩm 3: BA PHÁP (PHẦN 1)

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Cảnh giới của các loài hữu tình thân cận với nhau, không chống trái nhau. Những loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém thân cận nhau, ảnh hưởng, hỗ trợ nhau. Các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng thân cận nhau, ảnh hưởng, hỗ trợ nhau.

Cảnh giới của các loài hữu tình nơi đời quá khứ đã thân ái nhau, không chống trái nhau. Các loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém đã thân cận nhau, ảnh hưởng, hỗ trợ nhau. Các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng thân cận nhau, ảnh hưởng, hỗ trợ nhau.

Cảnh giới của các loài hữu tình nơi đời vị lai sẽ thân ái nhau, không chống trái nhau. Các loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém đã thân cận nhau, ảnh hưởng hỗ trợ nhau. Các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng thân cận nhau, ảnh hưởng, hỗ trợ nhau.

Các loài hữu tình ngay đời hiện tại đang thân ái nhau, không chống trái nhau. Các loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém đã thân cận nhau, ảnh hưởng, hỗ trợ nhau. Các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng thân cận nhau, ảnh hưởng, hỗ trợ nhau.

Thế nên Tôn giả Giải Kiều-trần-như cùng với đồng bạn của mình gồm sáu mươi người, thường nhóm họp, cùng tu phạm hạnh A-lan-nhã.

Tôn giả Ma-ha Ca-diếp cùng với đồng bạn của mình gồm vô lượng người, thường cùng nhóm họp, tu tập diệu hạnh Đầu-đà.

Tôn giả Xá-lợi-phất cũng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường cùng nhóm họp tu tập hạnh Đại trí tuệ.

Tôn giả Đại Mục-kiền-liên cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường cùng nhóm họp đồng tu tập hạnh Đại thần thông.

Tôn giả Câu-sắc-chỉ-la cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tạp hạnh Vô ngại giải.

Tôn giả Mãn Từ Tử cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tập hạnh Giảng thuyết chánh pháp.

Tôn giả Ca-đa-diễn-na cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tập hạnh Giải thích kinh điển.

Tôn giả Thiện Hiện cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tập phạm hạnh Trụ vô tránh.

Tôn giả Hiệt-lệ-phạt-đa cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu các hạnh Tĩnh lự.

Tôn giả Ưu-ba-ly cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu hạnh Trì luật.

Tôn giả Vật Lực Sĩ Tử cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu hạnh Trải tọa cụ… cho chúng Tăng.

Tôn giả Bất Diệt cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tập hạnh Thiên nhãn thanh tịnh.

Tôn giả A-nan cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tập hạnh Ưa chuộng đa văn.

Tôn giả La-hỗ-la cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tập hạnh Vui thích trì giới.

Đồng tử Ca-diếp cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tập hạnh Giỏi biện thuyết.

Tôn giả Kiếp-tỷ-noa cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tập hạnh giáo giới giáo thọ đại Bí-sô.

Tôn giả Nan-đà cùng với đồng bạn với mình có vô lượng người, thường nhóm hợp đồng tu tập hạnh Giáo giới giáo thọ Bí-sô-ni.

Tôn giả Ưu-ba-tây-na cùng với đồng bạn của mình có vô lượng người, thường nhóm họp, đồng tu tập hạnh Đầy đủ oai nghi.

Tôn giả Nghiên-mỹ-nan-đà cùng với đồng bạn của mình gồm sáu mươi người, thường nhóm họp, đồng tu tập hạnh Đoan nghiêm.

Kẻ ngu si Thiện Thọ cùng với đồng bạn của mình gồm sáu mươi người, thường nhóm họp, đồng thực hành hạnh bạo ngược, ác độc.

Vì thế, nên biết các loài hữu tình thân cận với nhau, không chống trái nhau. Các loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thấp kém đã thân cận nhau, ảnh hưởng, hỗ trợ nhau. Các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng cùng với các loài hữu tình có sự hiểu biết thù thắng thân cận nhau, ảnh hưởng, hỗ trợ nhau.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Như cỏ cây rừng rậm
Cũng như gió và lửa
Mỗi vật do nhóm loại
Loài hữu tình cũng vậy.
Người ngu quen với ngu
Người trí thân với trí
Bạn bè riêng nhóm loại
Nên gần người có trí.
Gần gũi người biếng nhác
Nhất định mất trí tuệ
Như phá rách phao nổi
Nhất định chìm biển sâu.
Nên phải lìa biếng nhác
Ưa ở chỗ vắng vẻ
Gần gũi người có trí
Có thể mau hết khổ.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Do ba nhân, ba duyên có thể đưa đến đời sau. Ba nhân duyên đó là vô minh chưa vĩnh viễn đoạn trừ, ái chưa trừ bỏ và nghiệp chưa dứt trừ. Do những nhân duyên này nên đưa đến đời sau. Vì sao? Vì nghiệp là ruộng tốt, thức là hạt giống, ái là nước tưới, được bảo vệ do vô minh, vô trí, không thấu tỏ, không nhận biết, thức liền an trụ. Đối với ba cõi Dục, Sắc, Vô sắc, thì cõi Dục là thấp nhất. Cõi Sắc ở bậc trung. Cõi Vô sắc là hơn hết.

Thuận theo nghiệp của Dục giới, đưa đến quả dị thục, không hiện tiền, không thể nêu bày được kết quả, đây là cõi Dục. Do nghiệp nơi cõi Dục đưa đến quả Dị thục, chính thức hiện tiền nên hiện bày được kết quả, đây là cõi Dục. Nên ngay khi ấy, nghiệp là ruộng tốt, thức là hạt giống, ái là nước tưới, được bảo vệ do vô minh, vô trí, không thấu tỏ, không nhận biết, nên thức liền an trụ, đưa xuống chốn thấp kém của Dục giới.

Thuận theo nghiệp của Sắc giới, đưa đến quả dị thục, nếu nghiệp không hiện tiền thì không thể nêu bày được kết quả; đây là cõi Sắc. Do nghiệp nơi cõi Sắc, đưa đến quả dị thục, chính thức hiện tiền nên nêu bày được kết quả đây là cõi Sắc. Nên ngay khi ấy, nghiệp là ruộng tốt, thức là hạt giống, ái là nước tưới, được bảo vệ do vô minh, vô trí, không thấu tỏ, không nhận biết, thức liền an trụ, đưa đến chốn bậc trung của cõi Sắc.

Thuận theo nghiệp của cõi Vô sắc, đưa đến quả dị thục, không hiện tiền, không thể nêu bày được kết quả, đây là cõi Vô sắc. Do nghiệp của cõi Vô sắc, đưa đến quả dị thục, chính thức hiện tiền, nên có thể nêu bày được kết quả, đây là cõi Vô sắc. Nên ngay khi ấy, nghiệp là ruộng tốt, thức là hạt giống, ái là nước tưới, được bảo vệ do vô minh, vô trí, không thấu tỏ, không nhận biết, thức liền an trụ vào cõi Vô sắc tốt đẹp.

Bí-sô nên biết! Do xa lìa nên xuất ly cõi Dục.

Do Vô sắc nên xuất ly cõi Sắc. Do diệt trừ hẳn nên xuất ly tất cả. Tư lự làm duyên nên phát sinh các hữu.

Bí-sô các ông nên dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật, xuất ly khỏi cõi Dục, nên dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật để xuất ly cõi Sắc và cõi Vô sắc.

Thế nào là các ông nên dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật quán sát, xuất ly cõi Dục? Nghĩa là lìa các pháp ác, bất thiện nơi cõi Dục, có tầm, có từ, ly sinh hỷ lạc, an trụ hoàn toàn vào tĩnh lự thứ nhất. Dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật trong đó có sắc, thọ, tưởng, hành, thức, tánh của pháp này đều là vô thường, đều là khổ, như bệnh, như ung nhọt, như trúng tên độc, có phiền não, có độc hại, có sợ hãi, nghi ngờ, có hiềm oán, có thù địch, mau chóng hư hoại, nhiều các tật dịch, nhiều các tai ương, hư giả không thật, ly tán, không có ngã, không thể tin tưởng. Vậy nên các ông phải dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật để xuất ly cõi Dục.

Thế nào là các ông nên dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật để xuất ly cõi Sắc? Nghĩa là chính thức vượt qua tất cả tưởng về sắc, diệt tưởng hữu đối, không còn tư duy vào tưởng gì khác nữa. Hoàn toàn an trụ nơi hư không vô biên, xứ không vô biên. Dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật về thọ, tưởng, hành, thức, trong đó tánh của pháp này đều là vô thường, đều là khổ, như bệnh, như ung nhọt, như trúng tên độc, có phiền não, có độc hại, có sợ hãi, có nghi ngờ, có oán hận, có thù địch, nhiều các tật dịch, nhanh chóng hư hoại, nhiều các tai ương, hư giả không thật, ly tán, không có ngã, không thể tin tưởng. Thế nên các ông phải dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật để xuất ly cõi Sắc. Các ông vì sao nên dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật để xuất ly cõi Vô sắc? Nghĩa là nhận biết đúng đắn đây là tịch tĩnh, đây là vi diệu, nghĩa là lìa kiêu mạn, dứt các thứ khát ái, diệt các A-lạida, đoạn trừ các con đường lưu chuyển tắt, hoàn toàn không sở đắc, dứt ái, ly dục, Niết-bàn tịch diệt. Vậy nên các ông phải dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật để xuất ly cõi Vô sắc. Ai làm được như vậy, nghĩa là dùng chánh tuệ quán sát đúng như thật để ra khỏi ba cõi, ngay nơi ba cõi Dục, Sắc và Vô sắc càng thêm nhàm chán, từ bỏ. Càng nhàm chán, từ bỏ nên chinh thức lìa dục. Chinh thức lìa dục nên được giải thoát. Được giải thoát xong tự thấu tỏ: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Dùng chánh tuệ quán sát
Tướng xuất ly ba cõi
Chấm dứt hết các hành
Đắc Niết-bàn tối thượng.
Đã thoát khỏi các lậu
Khéo tu tập Du-già
Ngay nơi thân tối hậu
Hàng phục hết các ma.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có ba nhân ba duyên làm cho các hữu tình mong cầu lợi dưỡng, sinh nhiều lỗi lầm. Ba nhân duyên đó là:

1. Tham dục làm nhân làm duyên, khiến các hữu tình mong cầu lợi dưỡng, sinh các lỗi lầm.

2. Sự đắm chấp làm nhân làm duyên, khiến các hữu tình mong cầu lợi dưỡng, sinh các lỗi lầm.

3. Thọ dụng không thấy lỗi lầm làm nhân làm duyên, khiến các hữu tình mong cầu lợi dưỡng, sinh nhiều lỗi lầm.

Bí-sô các ông không nên phát sinh ba nhân ba duyên cầu lợi dưỡng, sinh nhiều lỗi lầm này.

Bí-sô nào đầy đủ ba nhân ba duyên như đã nói này, đi đến nhà thí chủ cầu xin lợi dưỡng tốt. Hoặc giả, gặp lúc nhà đó bỗng nhiên bị sa sút, khi thấy Bí-sô đến sinh lòng buồn rầu, lo lắng, lặng thinh không cung kính chào hỏi, không đứng dậy tiếp rước, không nhắc ghế mời ngồi, không nói chuyện. Bí-sô thấy tướng ấy liền nghĩ: “Nhà thí chủ này thường cung kính tiếp đãi. Ai đã gièm siểm đến nỗi như vậy?” Do nhân duyên này làm cho Bí-sô không vui vẻ, không nhẫn nhục, lòng sân giận, độc hại phát sinh, hoặc phát sinh nghiệp ác bất thiện thuộc thân, ngữ. Do đây, bị đọa trong các nẻo ác, chịu quả báo không ưa thích.

Bí-sô nên biết! Ta quán xét các loại hữu tình khắp thế gian do lợi dưỡng quấy nhiễu tâm họ, sau khi qua đời bị đọa trong các nẻo ác, sinh nơi địa ngục, chịu qua báo không ưa thích. Ta quán sát các loại hữu tình khắp thế gian do suy tổn làm rối loạn tâm họ, sau khi qua đời bị đọa trong các nẻo ác, sinh nơi địa ngục, chịu qua báo không ưa thích. Ta quán sát các loại hữu tình khắp thế gian do lợi dưỡng và suy tổn làm rối loạn tâm, sau khi qua đời bị đọa trong các nẻo ác, sinh nơi địa ngục, chịu qua báo không ưa thích. Vì sao? Vì phàm phu ngu si bị các lợi dưỡng trước hết phá hết lớp màng mỏng của họ. Phá lớp màng mỏng xong, phá đến da. Phá da xong, phá đến thịt. Phá thịt xong lại cắt đứt gân mạch. Cắt đứt gân mạch xong lại phá xương cốt. Phá xương cốt xong, lại tổn thương tủy não, sau đó mới dừng, thế nên các ông phải học như vầy: “Ta phải tu tập như thế nào để không bị lợi dưỡng quấy nhiễu tâm? Ta phải tu tập như thế nào để không bị suy tổn quấy nhiễu tâm? Ta phải tu tập như thế nào để không bị lợi dưỡng và suy tổn quấy nhiễu tâm? Một mình ở chỗ vắng vẻ, siêng tu tập hạnh Thánh, mau chứng Niết-bàn thường lạc vô thượng.” Bí-sô các ông nên học như vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Do ba loại nhân duyên
Mong cầu các lợi dưỡng
Phá vô số công đức
Và thối thất nhân thiên.
Những người có trí tuệ
Được chút ít lợi dưỡng
Tâm họ khéo an định
Bất định như núi lớn.
Thường tĩnh lự an nhiên
Quán đúng nghĩa các pháp
Tu tri kiến sâu xa
Chứng Niết-bàn thường lạc.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Sinh vào chỗ tốt đẹp trong Dục giới lược có ba loại; ở đó, tuy họ được nhiều phước lớn nhưng phải chịu luân hồi sinh tử theo các Dục, không thể xuất ly. Vì sao? Vì cõi sống tốt đẹp ấy cũng thuộc về cảnh giới hoạt động của Dục. Thế nào là ba?

1. Chỗ sinh thù thắng là cõi trời Dục trụ nơi Dục giới.

2. Chỗ sinh thù thắng là cõi trời Lạc hóa nơi Dục giới.

3. Chỗ sinh thù thắng là cõi trời Tha hóa nơi Dục giới.

Đó là ba chỗ sinh thù thắng nơi cõi Dục. Đối với người đó tuy được phước rất lớn nhưng vẫn chịu luân hồi sinh tử trong các Dục, không thể xuất ly. Vì sao? Vì chốn sinh thù thắng ấy cũng đều thuộc về cảnh giới hoạt động của Dục. Thánh đệ tử của ta, đối với ba chỗ sinh thù thắng nơi cõi Dục ấy quán sát đúng như thật có các hoạn nạn, nên đối với cõi Dục này càng sinh nhàm chán, từ bỏ. Sinh nhàm chán, từ bỏ nên có thể chinh thức lìa dục. Chinh thức lìa dục nên đắc giải thoát. Đắc giải thoát xong, liền tự thấu tỏ: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ba thắng sinh cõi Dục
Thường nhận các dục lạc
Là Dục trụ, Lạc hóa
Tha hóa tự tại thiên.
Sinh ba chỗ như vậy
Tuy thọ hưởng phước lớn
Nhưng luân hồi sinh tử
Không thể sinh cõi trên.
Ngay trong các Dục này
Ai biết được lỗi lầm
Bỏ các nẻo trời, người
Chứng Niết-bàn vô thượng.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ở thế gian có một loại các Bísô ác, tạo tác ba pháp, nhưng giống như con lừa chỉ biết kêu. Ba pháp đó là: Có một loại các Bí-sô ác không cung kính, không vâng lời; không hổ, không thẹn, biếng nhác, quên chánh niệm. Một loại các Bí-sô ác như vậy, tạo tác đầy đủ ba pháp như vậy, nhưng giống như con lừa chỉ biết kêu. Nghĩa là thật có đức, nhưng đi theo chúng Tăng nói thế này: “Cụ thọ biết cho, tôi cũng là Sa-môn Thích tử chân chánh.”

Nhưng một loại các Bí-sô ác này không có giới, định, tuệ, học tăng thượng như các Bí-sô tăng chân thật, thanh tịnh khác, mà theo tăng chúng nói thế này: “Cụ thọ biết cho, tôi cũng là Sa-môn Thích tử chân chánh.”

Như ở thế gian có bầy lừa đi theo sau bầy bò, lớn tiếng nói: “Tôi cũng là bò đích thực, nên đoái tưởng, tiếp đãi nhau”, nhưng thân lừa đầu, tai, móng, mõm, màu lông, tiếng kêu đều khác hẳn với bò mà cứ đi theo sau, lớn tiếng bảo: “Tôi cũng là bò đích thực, nên đoái tưởng, tiếp đãi nhau.”

Một loại các Bí-sô ác như vậy, thật không có đức nhưng đi theo tăng chúng xướng lên thế này: “Cụ thọ biết cho, tôi cũng là Sa-môn Thích tử chân chánh.”

Nhưng một loại các Bí-sô ác này nương vào xóm làng, thôn ấp để ở. Vào buổi sáng, sửa soạn y phục, đắp y, mang bình bát đi vào những nơi kia để khất thực. Không thể hộ trì, thân, ngữ, ý nghiệp, không trụ chánh niệm, không giữ gìn các căn, đi đến nhà thí chủ có tâm tịnh tín. Vì lợi dưỡng nên ngồi ở chỗ thấp thuyết pháp, cho bạch y ngồi chỗ cao nghe. Ta bảo các loại Bí-sô ác này có giảng nói điều gì đều giống như lừa chỉ biết kêu.

Khi ấy Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Cạo tóc, mặc áo nhuộm
Tay nắm cầm bình bát
Thật không giới, định, tuệ
Nhưng tự xưng Sa-môn.
Như lừa ở thế gian
Hình tướng khác với bò
Nhưng theo sau bầy bò
Tự xưng chính là bò.
Bí-sô ác như vậy
Thành các pháp không kính
Tuy xen chúng thanh tịnh
Nhưng không chứng Bồ-đề.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có ba loại học, ai ở trong đó lìa các phóng dật, ngày đêm siêng năng, dứt các sự duyên, một mình ở chỗ vắng vẻ, không tu học điên đảo thì các lậu chưa sinh, làm cho vĩnh viễn không sinh, các lậu đã sinh làm cho dứt sạch hẳn. Ba pháp đó là:

1. Giới học tăng thượng.

2. Tâm học tăng thượng.

3. Tuệ học tăng thượng.

Thế nào là Giới học tăng thượng? Nghĩa là các Bí-sô đầy đủ giới thanh tịnh, an trụ, giữ gìn giới biệt giải thoát, thực hành theo phép tắc hoàn toàn viên mãn. Đối với tội nhỏ, vi tế, thấy rất sợ hãi. Có thể học tập tất cả điều đáng học tập. Thành tựu hai nghiệp thân, ngữ thanh tịnh. Thành tựu mạng thanh tịnh. Thành tựu kiến thanh tịnh. Như vậy gọi là Giới học tăng thượng.

Tâm học tăng thượng là gì? Nghĩa là các Bí-sô có thể chinh thức lìa pháp dục ác, bất thiện, có tầm, có từ, ly sinh hỷ lạc, an trụ hoàn toàn vào Tĩnh lự thứ nhất. Nói rộng ra cho đến an trụ hoàn toàn nơi Tĩnh lự thứ tư. Như vậy gọi là Tâm học tăng thượng.

Tuệ học tăng thượng là thế nào? Nghĩa là các Bí-sô nhận biết đúng như thật: Đây là Thánh đế về khổ, Thánh đế về nguyên nhân của khổ, Thánh đế về sự diệt trừ khổ và Thánh đế về con đường tu tập để diệt trừ khổ. Như vậy gọi là Tuệ học tăng thượng.

Ba pháp học này, ai ngay trong đó lìa các phóng dật, ngày đêm siêng năng, dứt hẳn các sự duyên, mình ở chỗ vắng vẻ, không tu học điên đảo thì các lậu sinh làm cho vĩnh viễn không sinh, các lậu đã sinh làm cho diệt trừ hẳn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Giới, tâm, tuệ ba học
Người trí nên tu tập
Tinh tấn thường an ổn
Giữ các căn nghiêm mật.
Thường ở chỗ vắng vẻ
Dứt các duyên ở đời
Siêng tu giới, tâm, tuệ
Như cứu lửa cháy đầu.
Là học Thánh học xứ
Học đạt đến tận cùng
Thoát, chốn thoát trọn vẹn
Thành tựu trí thanh tịnh.
Được giải thoát bất động
Đoạn hẳn các lậu xong
Dứt nẻo khổ sinh tử
Không còn tái sinh nữa.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có ba pháp học, người nào siêng tu tập, chắc chắn được kết quả, đến cứu cánh, được cam lồ chứng đắc Niết-bàn, ba pháp học đó là:

1. Giới học tăng thượng.

2. Tâm học tăng thượng.

3. Tuệ học tăng thượng.

Thế nào là Giới học tăng thượng? Nghĩa là các Bí-sô tôn trọng giới Thi-la làm tăng thượng, không tôn trọng định Đẳng trì chẳng tăng thượng, không tôn trọn tuệ Bát-nhã chẳng tăng thượng. Vị ấy đối với những giới nhỏ nhặt đã học, hộ trì hoàn toàn, không cho hủy phạm. Vì sao? Ta nói vị đó hoàn toàn không hủy phạm học xứ đã chế, không bị hổ thẹn, nhất định tùy thuận phạm hạnh thanh tịnh, nhất định thành tựu đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh. Đối với các học xứ, có thể trụ vào Thi-la, có thể trụ vào chỗ đã học, vị đó nhất định dứt hẳn ba kết, chứng quả Dự lưu, đắc pháp không đọa, nhất định hướng đến Bồ-đề, cùng lắm là bảy lần qua lại trong cõi trời, người, dứt các cảnh giới khổ. Như vậy gọi là Giới học tăng thượng.

Thế nào là Tâm học tăng thượng? Nghĩa là các Bí-sô tôn trọng giới Thi-la làm tăng thượng, tôn trọng định Đẳng trì làm tăng thượng, không tôn trọng tuệ Bát-nhã chẳng tăng thượng. Vị ấy đối với những giới nhỏ nhặt đã học, hộ trì hoàn toàn không cho hủy phạm. Vì sao? Ta nói vị đó hoàn toàn không hủy phạm học xứ đã chế, không bị hổ thẹn, nhất định tùy thuận phạm hạnh thanh tịnh, nhất định thành tựu đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh. Đối với các học xứ, có thể trụ vào Đẳng trì, có thể trụ vào chỗ đã học. Vị ấy nhất định dứt năm kết hạ phần, chứng quả Bất hoàn, đắc pháp Bất hoàn, sẽ nhận hóa sinh vào nơi thế gian khác và sẽ Bát-niếtbàn. Như vậy gọi là Tâm học tăng thượng.

Thế nào là Tuệ học tăng thượng? Nghĩa là các Bí-sô tôn trọng giới Thi-la làm tăng thượng, tôn trọng định Đẳng trì làm tăng thượng, tôn trọng tuệ Bát-nhã làm tăng thượng. Vị ấy đối với những giới nhỏ nhặt đã học, hộ trì hoàn toàn, không cho hủy phạm. Vì sao? Ta nói người đó hoàn toàn không hủy phạm học xứ đã chế, không bị hổ thẹn, nhất định tùy thuận phạm hạnh thanh tịnh, nhất định thành tựu đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh. Đối với các học xứ, có thể trụ nơi Bát-nhã, có thể trụ vào chỗ đã học. Vị ấy nhất định dứt hẳn các lậu, đắc chân vô lậu. Tâm giải thoát hoàn toàn, tuệ giải thoát hoàn toàn. Hiện tại an trụ hoàn toàn. Tự chứng thông tuệ, tự nhận biết rõ: Sự sinh của ta đã dứt phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa. Như vậy gọi là Tuệ học tăng thượng.

Ai đối với ba pháp học đã nói trên đây, siêng năng tu tập ta nói người đó nhất định không có quả nào là không chứng. Chắc chắn đạt đến cứu cánh, có thể được pháp cam lồ, chứng đắc Niết-bàn. Như vậy gọi là có ba loại học. Ai siêng năng tu tập, không có quả nào là không chứng nhất định đạt đến cứu cánh, có thể được pháp cam lồ, chứng đắc Niết-bàn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Siêng tu Giới tăng thượng
Trụ giới, trụ sở học
Dứt sạch hết ba kết
Quyết chứng quả Dự lưu.
Siêng tu Tâm tăng thượng
Trụ định, trụ sở học
Dứt năm kết hạ phần
Quyết chứng quả Bất hoàn.
Siêng tu Tuệ tăng thượng
Trụ tuệ, trụ sở học
Dứt hết tất cả kết
Quyết chứng quả vô sinh.
Tam học không bỏ phế
Quyết chứng quả tối thượng
Nên tôn trọng Tam học
Quyết định học pháp tánh.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có ba loại học, ai tu tập phần nhỏ được quả phần nhỏ. Ai tu tập viên mãn được quả viên mãn. Ba loại đó là:

1. Giới học tăng thượng.

2. Tâm học tăng thượng.

3. Tuệ học tăng thượng.

Giới học tăng thượng là sao? Nghĩa là các Bísô tôn trọng giới Thi-la làm tăng thượng, không tôn trọng định Đẳng trì chẳng tăng thượng, không tôn trọng Bát-nhã-tuệ chẳng tăng thượng, vị ấy đối với những giới nhỏ nhặt đã học, hộ trì hoàn toàn, không cho hủy phạm, có trái phạm liền từ bỏ ngay. Vì sao? Ta nói người đó hoàn toàn không hủy phạm học xứ đã chế, không bị hổ thẹn, nhất định tùy thuận phạm hạnh thanh tịnh, nhất định thành tựu đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh. Đối với các học xứ đã chế, có thể trụ nơi Thi-la, có thể trụ vào chỗ đã học. Vị ấy nhất định dứt sạch ba kết, chứng quả Dự lưu, đắc pháp không đọa, nhất định hướng đến Bồ-đề, cùng lắm là bảy lần qua lại trong cõi trời, người, dứt hết cảnh giới khổ. Hoặc lại có người có thể làm cho tham, sân, si cõi Dục mỏng bớt, chứng quả Nhất lai, còn trở lại thế gian này một lần nữa, sẽ dứt hết cảnh giới khổ. Như vậy gọi là Giới học tăng thượng.

Thế nào là Tâm học tăng thượng? Nghĩa là các Bí-sô tôn trọng giới Thi-la làm tăng thượng, tôn trọng định Đẳng trì làm tăng thượng, không tôn trọng tuệ Bát-nhã chẳng tăng thượng. Vị ấy đối với những giới nhỏ nhặt đã học, hộ trì hoàn toàn không cho hủy phạm. Có trái phạm liền từ bỏ ngay. Vì sao? Ta nói người đó hoàn toàn không phá hủy học xứ đã chế, không bị hổ thẹn, nhất định tùy thuận phạm hạnh thanh tịnh, nhất định thành tựu đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh. Đối với các học xứ, có thể trụ định Đẳng trì, có thể trụ vào chỗ đã học. Người đó nhất định dứt hết năm kết hạ phần, chứng quả Bất hoàn, đắc pháp Bất hoàn, sẽ nhận hóa sinh nơi cõi khác, sẽ Bát-niết-bàn. Như vậy gọi là Tâm học tăng thượng.

Thế nào là Tuệ học tăng thượng? Nghĩa là các Bí-sô tôn trọng giới Thi-la làm tăng thượng, tôn trọng định Đẳng trì làm tăng thượng, tôn trọng tuệ Bát-nhã làm tăng thượng. Vị ấy đối với những giới nhỏ nhặt đã học, hộ trì hoàn toàn không cho hủy phạm. Có trái phạm, liền từ bỏ ngay. Vì sao? Ta nói người đó hoàn toàn không hủy phạm học xứ đã chế, không bị hổ thẹn, nhất định tùy thuận phạm hạnh thanh tịnh, nhất định thành tựu đầy đủ phạm hạnh thanh tịnh. Đối với các học xứ, có thể trụ nơi Bát-nhã, có thể trụ vào chỗ đã học, người đó nhất định dứt sạch các lậu, đắc nhân vô lậu. Tâm giải thoát hoàn toàn, tuệ giải thoát hoàn toàn. Ngay nơi pháp hiện tại này, an trụ hoàn toàn, tự chứng thông tuệ. Có thể tự thấu tỏ: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa. Như vậy gọi là Tuệ học tăng thượng.

Như vậy, gọi là có ba loại học. Nếu ai tu tập chút ít phần, được quả chút ít phần. Nếu ai tu tập viên mãn sẽ được quả viên mãn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Luôn trụ tôn trọng Giới
Là tu tập thiểu phần
Thường tinh tấn mạnh mẽ
Liền được quả thiểu phần.
Luôn trụ tôn trọng Định
Gọi tu tập thiểu phần
Thường tinh tấn mạnh mẽ
Cũng được quả thiểu phần.
Luôn trụ tôn trọng Tuệ
Gọi tu tập mãn phần
Thường tinh tấn mạnh mẽ
Luôn được quả viên mãn.
Tu ít và viên mãn
Đều được quả theo loại
Biết hơn kém như vậy
Nên bỏ ít tu nhiều.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có ba loại học. Ai tu tập đúng đắn, làm cho các hữu tình thành Hiền thánh, bậc thượng, trung, hạ sai biệt. Ba loại đó là:

1. Giới học tăng thượng.

2. Tâm học tăng thượng.

3. Tuệ học tăng thượng.

Thế nào là giới học tăng thượng? Nghĩa là các Bí-sô tôn trọng giới Thi-la làm tăng thượng, không tôn trọng định Đẳng trì chẳng tăng thượng, không tôn trọng Bát-nhã chẳng tăng thượng. Vị ấy đối với những giới nhỏ nhặt đã học, hộ trì hoàn toàn, không cho hủy phạm. Có trái phạm giới nhỏ, liền từ bỏ ngay. Vì sao? Ta nói vị đó hoàn toàn không hủy phạm học xứ đã chế, không bị hổ thẹn, nhất định tùy thuận phạm hạnh thanh tịnh, nhất định thành tựu phạm hạnh thanh tịnh. Đối với các học xứ có thể trụ vào Thi-la, có thể trụ vào chỗ đã học. Người đó nhất định dứt hết ba kết, chứng quả Dự lưu, đắc pháp không đọa, nhất định hướng đến Bồđề, cùng lắm là bảy lần qua lại trong cõi trời, người, hoặc thành bậc Gia gia, hoặc quả Nhất lai, hoặc thành bậc Nhất giác. Như vậy gọi là Giới học tăng thượng.

Thế nào là Tâm học tăng thượng? Nghĩa là Bísô tôn trọng giới Thi-la làm tăng thượng, tôn trọng định Đẳng trì làm tăng thượng, không tôn trọng tuệ Bát-nhã chẳng tăng thượng. Người kia đối với những giới nhỏ nhặt đã học, hộ trì hoàn toàn không cho hủy phạm. Có trái phạm liền từ bỏ ngay. Vì sao? Ta nói người đó hoàn toàn không hủy phạm học xứ đã chế, không bị hổ thẹn, nhất định tùy thuận phạm hạnh thanh tịnh, nhất định thành tựu phạm hạnh thanh tịnh. Đối với các học xứ, có thể trụ nơi Đẳng trì, có thể trụ vào chỗ đã học. Vị ấy nhất định dứt năm kết hạ phần, chứng quả Bất hoàn, đắc pháp Bất hoàn, sẽ được hóa sinh ở cảnh giới khác, rồi sẽ Bát-niết-bàn. Hoặc thành bậc Trung ban, hoặc thành bậc Sinh ban, hoặc thành bậc Hữu hành ban, hoặc bậc Vô hành ban, hoặc thành bậc Thượng lưu, hướng đến Sắc cứu cánh, hoặc thẳng đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ để Bátniết-bàn. Như vậy gọi là Tâm học tăng thượng.

Thế nào là Tuệ học tăng thượng? Nghĩa là Bísô tôn trọng giới Thi-la làm tăng thượng, tôn trọng định Đẳng trì làm tăng thượng, tôn trọng tuệ Bátnhã làm tăng thượng. Người kia đối với những giới nhỏ nhặt đã học, hộ trì hoàn toàn, không cho hủy phạm. Có trái phạm liền từ bỏ ngay. Vì sao? Ta nói người đó hoàn toàn không hủy phạm học xứ đã chế, không bị hổ thẹn, nhất định tùy thuận phạm hạnh thanh tịnh, nhất định thành tựu phạm hạnh thanh tịnh, ngay nơi các học xứ, có thể trụ vào Bátnhã, có thể trụ vào chỗ đã học. Vị ấy nhất định dứt hẳn các lậu, đắc chân vô lậu. Tâm giải thoát hoàn toàn, tuệ giải thoát hoàn toàn, ngay trong pháp hiện tại an trụ đầy đủ, tự chứng thông tuệ. Có thể tự thấu tỏ: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa. Như vậy gọi là Tuệ học tăng thượng.

Như vậy gọi là có ba loại học, nếu tu tập đúng đắn làm cho các hữu tình thành Thánh hiền, bậc thượng, bậc trung, bậc hạ sai biệt.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Do năng lực tu tập
Thường tinh tấn mạnh mẽ
Tu bậc thượng, trung, hạ
Đạt được quả sai biệt.
Tu tinh tấn bậc hạ
Thành tựu quả bậc hạ
Tu trung đắc quả trung
Tu thượng đắc quả thượng.
Đã biết tu ba phẩm
Đạt được quả sai biệt
Nên phải xả hạ, trung
Tu học theo thượng phẩm.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các Bí-sô nào đầy đủ giới hoàn toàn, đầy đủ tuệ hoàn toàn, vị ấy ngay trong pháp luật của ta đã tu hành đầy đủ, gọi là Tối thượng sĩ.

Này các Bí-sô! Thế nào là đầy đủ Giới hoàn toàn? Nghĩa là các Bí-sô đầy đủ Thi-la, an trụ, giữ gìn giới Biệt giải thoát, tu hành mẫu mực, không giới nào là không viên mãn, thấy rất sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt. Chấp nhận học tập điều đáng học tập, thành tựu hai nghiệp thân, ngữ thanh tịnh, thành tựu mạng thanh tịnh, thành tựu kiến thanh tịnh. Như vậy gọi là Bí-sô đầy đủ Giới hoàn toàn. Đầy đủ như thế chính là Giới hoàn toàn.

Này các Bí-sô! Thế nào là đầy đủ Pháp hoàn toàn? Nghĩa là Bí-sô siêng tu bảy pháp Bồ-đề phần, an trụ hoàn toàn. Đó gọi là Bí-sô đầy đủ Pháp hoàn toàn. Đầy đủ như thế chính là Giới hoàn toàn, Pháp hoàn toàn.

Này các Bí-sô! Thế nào là đầy đủ Tuệ hoàn toàn? Nghĩa là các Bí-sô dứt hẳn các lậu, đắc chân vô lậu, tâm giải thoát hoàn toàn, tuệ giải thoát hoàn toàn. Ngay trong hiện tại an trụ hoàn toàn, tự chứng thông tuệ, tự biết rõ: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa. Như vậy gọi là Bí-sô đầy đủ Tuệ hoàn toàn.

Như vậy gọi là nếu có Bí-sô nào đầy đủ Giới hoàn toàn, đầy đủ Pháp hoàn toàn, đầy đủ Tuệ hoàn toàn, vị ấy ngay trong pháp luật của ta, đã tu hành đầy đủ, gọi là Tối thượng sĩ.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Ai thân, ngữ, ý nghĩ
Lìa các ác, bất thiện
Gọi đủ Giới hoàn toàn
Là Bí-sô hổ thẹn.
Ai tu hành đầy đủ
Bảy pháp Bồ-đề phần
Gọi đủ Pháp hoàn toàn
Bí-sô có diệu định.
Ai nhận biết đúng đắn
Dứt trừ hết các lậu
Gọi đủ Tuệ hoàn toàn
Chân vô lậu Bí-sô.
Ai đầy đủ hoàn toàn
Uy đức khó nghĩ nghì
Ai tu hành đầy đủ
Là thông minh tối thượng.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các Bí-sô nào thành tựu ba phần, nên biết người như vậy đối với tịnh Thi-la đã được viên mãn, đối với quả vị cứu cánh đã được viên mãn, đối với việc tu phạm hạnh đã được viên mãn, đạt đến nơi tận cùng của phạm hạnh. Ba pháp đó là: Có Bí-sô nào thành tựu giới uẩn, định uẩn, tuệ uẩn, đó gọi là Bí-sô thành tựu ba uẩn vô học. Nên biết, người này đối với tịnh Thi-la đã được viên mãn, đối với quả vị cứu cánh đã được viên mãn, đối với việc tu phạm hạnh đã được viên mãn, đạt đến nơi tận cùng của phạm hạnh. Các Bí-sô nào đối với tịnh Thi-la đã được viên mãn, đối với quả vị cứu cánh đã được viên mãn, đối với việc tu phạm hạnh đã được viên mãn, đạt đến nơi tận cùng của phạm hạnh, nên biết người này chắc chắn không thích ở xóm làng, thành ấp, phòng xá, đồ nằm; cũng không thích cùng với các chúng Bí-sô, chúng Bí-sô ni, Ô-ba-sách-ca, Ô-ba-tư-ca, Cần sách nam… đồng ở chung một trú xứ ồn ào. Nên biết người này thành tựu pháp tâm tịch tĩnh bậc nhất, riêng ở chốn vắng vẻ, nương vào pháp tứ y mà sống, lìa các cấu uế, bên trong giữ gìn chân thật, vứt bỏ chỗ mong cầu, không nhiễm theo phân biệt, không bị pháp thế gian làm cho cấu nhiễm. Ví như hoa sen xanh, vàng, đỏ, trắng ở thế gian đều nương vào nước mà sinh, nương vào nước mà lớn lên. Tuy từ nước sinh ra nhưng không bị nước làm ô nhiễm.

Người này cũng vậy, nương vào thế gian mà sinh, nương vào thế gian mà trưởng thành, tuy ở ngay trong thế gian, nhưng không bị các pháp thế gian làm cấu nhiễm.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Thành ba phần vô học
Quả vị giới cứu cánh
Tu phạm hạnh viên mãn
Đến tận cùng phạm hạnh.
Chúng Bí-sô như vậy
Đắc Du-già tối thượng
Dứt hết cảnh giới khổ
Chứng Vô thượng an lạc.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ai mong cầu ba việc vui nên đối với tịnh giới không khuyết, không hỏng, không uế, không tạp. Đối với tịnh giới nên hướng đến chỗ cao thượng, siêng năng tinh tấn, hoàn toàn không lười bỏ. Ba pháp đó là:

1. Mong cầu việc vui của danh dự, nên đối với tịnh giới không khuyết, không hỏng, không tạp, không uế. Đối với tịnh Thi-la nên hướng thượng. Tinh tấn hoàn toàn, không lười bỏ.

2. Mong cầu việc vui của lợi dưỡng đối với tịnh giới nên không khuyết, không hỏng, không tạp, không uế. Đối với tịnh giới nên hướng thượng.

Tinh tấn hoàn toàn không lười bỏ.

3. Mong cầu việc vui sinh Thiên, nên đối với tịnh giới không khuyết, không hỏng, không tạp, không uế. Đối với tịnh giới nên hướng thượng. Tinh tấn hoàn toàn không lười bỏ.

Đó gọi là mong cầu ba loại việc vui, nên đối với tịnh giới không khuyết, không hỏng, không tạp, không uế. Đối với tịnh Thi-la nên hướng thượng. Tinh tấn hoàn toàn không lười bỏ.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Vì cầu ba việc vui
Người trí giữ gìn Giới
Vì đời chuộng danh dự
Ưa lợi dưỡng sinh Thiên.
Quán thắng lạc như vậy
Người trí giữ gìn Giới
Nên xa ác, gần trí
Như tránh con đường hiểm.
Tuy không tạo tội ác
Nhưng gần gũi người ác
Như dùng cỏ cát tường
Nhúng vào cá thịt hôi.
Thân chỗ không nên thân
Quen chỗ không nên quen
Như đem vật trong sạch
Quăng hầm phẩn uế sâu.
Người ưa sạch trong đời
Luôn sợ vấy nhơ nhớp
Người có trí cũng vậy
Rất sợ gần bạn ác.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có ba loại hương thơm chỉ bay thuận chiều gió, không thể bay ngược chiều gió.

Ba loại đó là:

1. Hương thơm của gốc rễ.

2. Hương thơm của cành lá.

3. Hương thơm của hoa.

Ba loại hương thơm này chỉ bay thuận theo chiều gió, không thể bay ngược chiều gió.

Bí-sô các ông nghĩ rằng, ngoài ba loại hương này ra, không còn loại hương nào bay thuận gió, bay ngược gió, hay cả thuận nghịch gió, đều bay tỏa hương thơm cùng khắp cùng khắp. Vì sao? Vì trong Phật pháp của ta, có một loại hương thơm vi diệu có thể bay tỏa thuận gió, nghịch gió, thuận nghịch gió, trên trời, trong nhân gian đều do hương thơm ngào ngạt, Hiền thánh ở thế gian đều rất tôn quý, yêu mến.

Thế nào là trong Phật pháp của ta có một loại diệu hương có thể bay thuận gió, nghịch gió, thuận nghịch gió, trên trời, trong nhân gian đều do hương thơm ngào ngạt, Hiền thánh ở thế gian đều yêu mến? Đó là hương thơm giữ giới. Hương thơm do giữ giới này có thể bay thuận gió, nghịch gió, thuận nghịch gió, trên trời, trong nhân gian đều nghe, nhận sự ngào ngạt, Hiền thánh ở thế gian đều rất trân quý, yêu mến. Như vậy gọi là trong nghịch gió, thuận nghịch gió, trên trời, trong nhân gian đều rất yêu mến.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Thế gian có các thứ
Hương của gốc, cành hoa
Không bay ngược chiều gió
Do uy lực nó yếu.
Trong Phật pháp của ta
Có một loại diệu hương
Nghịch, thuận gió đều bay
Lan tỏa khắp các nơi.
Trên trời và cõi người
Hiền thánh ở thế gian
Tất cả đều yêu mến
Đó là hương giới tịnh.
Ai đối với hương này
An trụ, không phóng dật
Sinh định, tuệ vững vàng
Dứt hẳn các cảnh khổ.

Tóm tắt nơi bài kệ kinh phần Bản Sự ở trước:

Đồng giới cảm hậu hữu
Cầu lợi và dục sinh
Ác thuyết giống lừa kêu
Bốn học cùng bốn giới.

QUYỂN 7

Phẩm 3: BA PHÁP (PHẦN 2)

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ở thế gian này có ba hạng con.

Đó là:

1. Hạng con ngang bằng.

2. Hạng con trội hơn.

3. Hạng con kém thua.

Thế nào là hạng con ngang bằng? Nghĩa là có một hạng cha mẹ đầy đủ giới, sống theo pháp thiện, không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, không sống chỗ phóng dật. Người con cũng đầy đủ giới, sống với pháp thiện, không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, không sống chỗ phóng dật. Đó là người con ngang bằng.

Thế nào là hạng con trội hơn? Nghĩa là có một hạng cha mẹ phạm giới, sống theo các pháp ác, ưa sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, sống chỗ phóng dật. Nhưng người con thì trì giới, sống theo pháp thiện, không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, không sống chỗ phóng dật. Đó gọi là hạng con trội hơn.

Thế nào là hạng con thua kém? Nghĩa là có một hạng cha mẹ đầy đủ giới, sống theo pháp thiện, không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu, không sống chỗ phóng dật. Nhưng người con thì phạm giới, sống theo các pháp ác, sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu, sống chỗ phóng dật. Đó gọi là hạng con thấp kém.

Như vậy, ở thế gian này có ba hạng con.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Người thông minh ở đời
Ưa thích con bằng, hơn
Không ưa thích con kém
Chỗ tổn hại gia môn.
Nên biết ba loại con
Một kém, hai là hơn
Phật Chánh giác thuyết ra
Các Hiền thánh cũng vậy.
Hai đều tin Thi-la
Thông tuệ, không keo kiệt
Như trăng tròn đêm tạnh
Ánh sáng chiếu khắp nơi.
Nên thân cận cúng dường
Được chư Phật xưng dương
Xa lìa các trần cấu
Việc làm không sợ hãi.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Bí-sô nào tôn trọng chánh pháp, yêu mến chánh pháp, ưa thích pháp lạc, tinh thần tu hành, ưa thích thực hành pháp, Bí-sô như vậy, tùy niệm chánh pháp thường ưa thích đoạn trừ hẳn căn bất thiện về tham, làm cho thiện căn không tham viên mãn. thường ưa thích đoạn trừ hẳn căn bất thiện về sân, làm cho thiện căn không sân viên mãn. thường ưa thích đoạn trừ hẳn căn bất thiện về si, làm cho thiện căn không si viên mãn. Tu ba Thiện căn được viên mãn rồi, tu bốn Niệm trụ làm cho viên mãn. Tu bốn Niệm trụ được viên mãn rồi, tu bốn Chánh đoạn làm cho viên mãn. Tu bốn Chánh đoạn được viên mãn rồi, tu bốn Thần túc làm cho viên mãn. Tu bốn Thần túc được viên mãn rồi, tu tập năm Căn làm cho viên mãn. Tu tập năm Căn được viên mãn rồi, tu tập năm Lực làm cho viên mãn. Tu tập năm Lực được viên mãn rồi, tu bảy Giác chi làm cho viên mãn. Tu bảy Giác chi được viên mãn rồi, tu tám chi Thánh đạo làm cho viên mãn. Tu tám chi Thánh đạo được viên mãn rồi, minh và giải thoát đều được viên mãn.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Người ưa pháp trọng pháp
Thích pháp, ưa hành pháp
Thường buộc niệm nơi pháp
Tinh tấn theo chánh pháp.
Niệm pháp tu nghiệp thiện
Không niệm, hành hạnh ác
Hành pháp quyết đạt được
Vui đời này, đời khác.
Người hành pháp, hộ pháp
Như dù lớn che mưa
Hành pháp được pháp lợi
Quyết không đọa ba đường.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! thế gian lược có ba loại suy nghĩ, Bí-sô hữu học chưa đắc tâm định, khi thích cầu pháp an lạc vô thượng có thể khiến bị thoái thất. Ba loại đó là:

1. Suy nghĩ tương ưng theo chỗ thân cận.

2. Suy nghĩ tương ưng theo lợi dưỡng. 3. Suy nghĩ tương ưng theo ganh ghét.

Đó là lược nêu ba loại suy nghĩ, Bí-sô hữu học chưa đắc tâm định, khi thích cầu pháp an lạc vô thượng có thể khiến bị thoái thất. Thế nên các ông nên học như vầy: “Ta phải làm như thế nào để không khởi lên suy nghĩ tương ứng với chỗ thân cận, không khởi lên suy nghĩ tương ứng với lợi dưỡng, không khởi lên suy nghĩ tương ứng với ganh ghét.”

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Nương suy nghĩ đắm chấp
Lược ra có ba loại
Hữu học cầu vui lớn
Chắc chắn bị chướng ngại.
Tương ứng với thân cận
Lợi dưỡng và đối kỵ
Bỏ vui lớn, tịnh lớn
Dứt hết thật là xa.
Bỏ suy nghĩ thân cận
Lợi dưỡng và ganh ghét
Nhiếp chỉ, quán siêng tu
Mau dứt hết các khổ.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Lược có ba loại pháp, Bí-sô hữu học chưa đắc tâm định, khi thích cầu pháp an lạc vô thượng có thể khiến bị thoái thất. Ba pháp đó là:

1. Bí-sô ưa thích thế sự, tham ái thế sự, say mê thế sự.

2. Bí-sô ưa thích nói chuyện, tham ái nói chuyện, say mê nói chuyện.

3. Bí-sô ưa thích ngủ nghỉ, tham ái ngủ nghỉ, say mê ngủ nghỉ.

Với ba pháp này, Bí-sô hữu học chưa đắc tâm, khi ưa cầu pháp an lạc vô thượng làm cho thoái thất. Thế nên các ông nên học như vầy: “Ta phải làm thế nào để không ưa thích thế sự, không yêu mến thế sự, không say đắm thế sự. Ta phải làm thế nào để không ưa thích nói chuyện, không yêu mến nói chuyện, không say đắm nói chuyện. Ta phải làm thế nào để không ưa thích ngủ nghỉ, không yêu mến ngủ nghỉ, không say đắm ngủ nghỉ.” Bí-sô các ông nên học như vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Khi cầu quả Vô thượng
Có ba pháp làm lui
Ưa thích, đắm thế sự
Nói chuyện và ngủ nghỉ.
Các Bí-sô hữu học
Ai đủ ba pháp này
Hoàn toàn không chứng đắc
Tam-bồ-đề tối thắng.
Ai muốn cầu mau chứng
Tam Bồ-đề tối thắng
Nên ít việc nói, ngủ
Siêng năng tu Chỉ, Quán.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có ba loại pháp hiện tiền hòa hợp làm cho các thiện nam tịnh tín sinh vô lượng phước. Ba pháp đó là:

1. Tịnh tín, hiện tiền hòa hợp, có thể khiến cho thiện nam tịnh tín sinh vô lượng phước.

2. Bố thí vật dụng, hiện tiền hòa hợp, có thể khiến cho thiện nam tịnh tín sinh vô lượng phước.

3. Phước điền, hiện tiền hòa hợp, có thể khiến cho thiện nam tịnh tín sinh vô lượng phước.

Đó là ba pháp hiện tiền hòa hợp, làm cho thiện nam tịnh tín sinh vô lượng phước.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Hiện tiền hòa hợp ba pháp
Sinh trưởng vô lượng phước
Là tịnh tín, thí vật
Và phước điền chân tịnh.
Đủ tuệ, đủ Thi la
Khéo điều phục ba độc
Tu phạm hạnh Sa môn
Gọi phước điền chân tịnh.
Đủ tuệ đủ tịnh tín
Cầu tài sản như pháp
Dâng cúng dường điền tốt
Nhất định được quả lớn.
Bốn oai nghi trong thân
Đối Tam bảo, Tứ đế
Tùy thuận, không khiếm khuyết
Gọi là tâm tịnh tín.
Đối với các tuệ thí
Pháp thí là hơn hết
Tâm tịnh diễn chánh pháp
Chư Phật đã khen ngợi.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Những người có trí nên đem ba loại pháp không bền đổi lấy ba loại bền. Ba loại đó là:

1. Nên dùng của cải không bền chắc đổi lấy của cải bền chắc.

2. Nên đem thân không bền chắc đổi lấy thân bền chắc.

3. Nên đem mạng không bền chắc đổi lấy mạng bền chắc.

Thế nào là đem của cải không bền đổi lấy của cải bền? Nghĩa là có các thiện nam, thiện nữ tịnh tín siêng năng như pháp, lao động bằng tay chân, đổ mồ hôi kiệt lực, thu được của cải châu báu, tự cung cấp cho bản thân, dâng lên cha mẹ, cung cấp cho vợ con, nô tỳ, tôi tớ, bạn bè, quyến thuộc, nhóm họp ngày đêm vui chơi, thọ lạc và gặp Samôn, hoặc Bà-la-môn đầy đủ giới, sống theo pháp thành tựu, siêng năng phạm hạnh, trừ bỏ kiêu mạn, phóng dật, nhu hòa nhẫn nhục, noi theo con đường chánh pháp, bỏ các đường tà, hướng đến thành Niết-bàn. Với tâm tịnh tín, hoan hỷ cung kính, đúng thời, đúng lúc đem bố thí, xa thì cầu Niết-bàn vô thượng, gần thì cầu quả vui nơi cõi trời, người vào đời sau. Đó gọi là nên đem của cải không bền chắc, đổi lấy của cải bền chắc.

Thế nào là đem thân không bền chắc, đổi thân bền chắc? Nghĩa là có các thiện nam, thiện nữ tịnh tín chánh kiến thành tựu, lìa sát sinh, thanh tịnh không phạm, hoàn toàn viên mãn, lìa trộm cắp, thanh tịnh, không phạm, hoàn toàn viên mãn. Lìa tà dục, thanh tịnh không phạm, hoàn toàn viên mãn. Lìa nói dối, thanh tịnh không phạm, hoàn toàn viên mãn. Lìa uống rượu, không phóng dật, thanh tịnh không phạm, hoàn toàn viên mãn. Các loại như vậy gọi là dùng thân không bền chắc.

Thế nào là dùng mạng không bền chắc đổi mạng bền chắc? Nghĩa là các Thánh đệ tử trong chánh pháp của ta, nhận biết đúng như thật: Đây là sự thật về Khổ, đây là sự thật về Nguyên nhân của khổ, đây là sự thật về Diệt khổ đế, đây là sự thật về Con đường tu tập đưa đến diệt khổ. Đấy gọi là nên dùng mạng không bền chắc đổi mạng bền chắc.

Như vậy gọi là những người có trí nên dùng ba loại pháp không bền chắc đổi ba loại pháp bền chắc.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Như người trí ở đời
Dùng hèn để mua quý
Người chánh kiến cũng vậy
Dùng không bền đổi bền.
Biết của, thân mạng này
Bất tịnh không bền chắc
Cầu thanh tịnh kiên cố
An vui thế, xuất thế.
Tài, thân mạng cõi Trời
Là thế tịnh bền chắc
Chứng Niết-bàn thường lạc
Là pháp chân tịnh, bền.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có ba loại căn, tánh của nó rất sâu xa, tận cùng sâu xa, tánh của nó rất khó thấy, khó thấy được rõ ràng. Ba loại đó là:

1. Căn chưa biết được biết.

2. Căn chưa biết.

3. Căn nhận biết đầy đủ.

Thế nào là Căn chưa biết được biết? Nghĩa là các Thánh đệ tử trong pháp của ta, chưa thấy biết các Thánh đế về Khổ, giờ được thấy được biết nên phát sinh ưa muốn, siêng năng, tinh tấn, thâu giữ tâm. Đối với Thánh đế về Nguyên nhân của khổ chưa thấy, chưa biết, nay được thấy, được biết nên phát sinh ưa muốn, siêng năng, tinh tấn thâu giữ tâm. Đối với Thánh đế về diệt trừ khổ chưa thấy, chưa biết, nay được thấy, được biết nên phát sinh ưa muốn, siêng năng, tinh tấn thâu giữ tâm. Đối với Thánh đế về Con đường tu tập chân chánh để diệt trừ khổ chưa thấy, chưa biết, nay được thấy, được biết, phát sinh ưa muốn, siêng năng, tinh tấn thâu giữ tâm. Đây gọi là Căn chưa biết được biết.

Thế nào là Căn nhận biết? Nghĩa là các Thánh đệ tử trong pháp của ta nhận biết đúng như thật: Đây là Thánh đế về Khổ, Thánh đế về Tập, Thánh đế về Diệt và Thánh đế về Đạo. Đó gọi là Căn nhận biết.

Thế nào gọi là Căn nhận biết đầy đủ? Nghĩa là các Thánh đệ tử trong pháp của ta các lậu đã diệt hết, đắc chân vô lậu, tâm giải thoát hoàn toàn, tuệ giải thoát hoàn toàn, nhận biết đúng đắn: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa. Đó gọi là Căn nhận biết đầy đủ.

Như vậy gọi là có ba loại căn, tánh của nó sâu xa, tận cùng sâu xa, tánh của nó rất khó thấy, khó thấy rõ ràng.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Thánh đệ tử hữu học
Trong chánh pháp của ta
Tu thuận theo chánh đạo
Gọi là căn thứ nhất.
Biết đúng Thánh đế khổ
Và khổ tập, khổ diệt
Hướng đến đường khổ diệt
Gọi là căn thứ hai.
Nên biết căn thứ ba
Các lậu đều diệt hết
Chứng đắc chân vô lậu
Tâm, tuệ đều giải thoát.
Biết ta sinh đã dứt
Và phạm hạnh đã lập
Việc đáng, đã làm xong
Không còn tái sinh nữa.
Thân tâm thường vắng lặng
Khéo thâu giữ các căn
Ngay nơi thân tối hậu
Hàng phục hết các ma.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Lược có ba hạng người, vì lợi ích nên phải thân cận. Ba hạng đó là:

1. Có một hạng người, thành tựu giới, định, tuệ kém cỏi.

2. Có một hạng người, thành tựu giới, định, tuệ trung bình.

3. Có một hạng người, thành tựu giới, định, tuệ trội hơn.

Hạng người thành tựu giới, định, tuệ kém cỏi, vì lợi ích gì mà thân cận họ? Nghĩa là đối với hạng người này không mong cầu, chỉ rất thương xót, khuyên giúp cho họ tinh tấn hơn. Vì lợi ích này nên phải gần gũi.

Hạng người thành tựu giới, định, tuệ trung bình, vì lợi ích gì mà thân cận họ? Nghĩa là đối với hạng người này, nên suy nghĩ: “Người ấy sẽ thuyết giới cho ta, ta cũng sẽ thuyết giới cho người ấy, cùng nhau nghe, khiến được tiếp nối liên tục.” Có làm việc gì cũng nên suy nghĩ: “Người kia thuyết định cho ta, ta cũng thuyết định cho người kia, cùng nhau nghe, khiến được tiếp nối.” Ra làm việc gì cũng nên suy nghĩ: “Người kia thuyết tuệ cho ta, ta cũng sẽ thuyết tuệ cho người kia, cùng nhau nghe, khiến được tiếp nối, làm được nhiều việc.” Vì sự lợi ích này nên sẽ thân cận.

Có một hạng người thành tựu giới, định, tuệ trội hơn, vì lợi ích gì nên phải thân cận họ? Nghĩa là đối với hạng người này, nên suy nghĩ: “Ta sẽ nương vào giới uẩn của người kia, nếu chưa viên mãn, tu tập làm cho viên mãn. Nếu đã viên mãn, thâu giữ chánh niệm, bên trong duy trì vững chắc.” Suy nghĩ: “Ta sẽ nương vào định uẩn của người kia, nếu chưa viên mãn, tu tập làm cho viên mãn. Nếu đã viên mãn, thâu giữ chánh niệm bên trong, duy trì vững chắc.” Suy nghĩ: “Ta sẽ nương vào tuệ uẩn người kia, nếu chưa viên mãn, tu tập làm cho viên mãn. Nếu đã viên mãn, thâu nhiếp chánh niệm bên trong, duy trì vững chắc.” Vì sự lợi ích này nên sẽ thân cận.

Như vậy, gọi là lược có ba hạng người nên thân cận.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Từ bi gần kẻ kém
Lợi ích cho kẻ vừa
Vì đức gần người hơn
Kiên trì hay viên mãn.
Gần hạ sĩ đức kém
Gần trung sĩ đức trung
Gần thượng sĩ đức trội
Nên phải gần thượng sĩ.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Phải quán bất tịnh đối với thân này, nên niệm hơi thở đối với hơi thở, nên quán vô thường, khổ, vô ngã đối với các hành. Ai tu quán bất tịnh trên thân này thì sẽ đoạn trừ tham dục đối với cảnh giới sạch đẹp. Ai niệm hơi thở trên hơi thở, đoạn những chướng ngại do tầm tư theo ngoài. Ai quán vô thường, quán khổ, vô ngã trên các hành, đối với các hữu đoạn được hữu ái, đoạn hữu ái nên ngay nơi thế gian không chấp thọ, không chấp thọ nên không sợ hãi, nên bên trong tự chứng Niết-bàn cứu cánh. Chứng Niết-bàn rồi, tự thấu tỏ: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa. Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Quán bất tịnh nơi thân
Theo niệm trụ hơi thở
Quán các hành vô thường
Cùng với khổ, vô ngã.
Hiểu các hành tánh không
Được tịch tĩnh tối thắng
Ái dứt, không chấp thọ
Chứng Niết-bàn cứu cánh.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Thân của các loài hữu tình thường bị ba thứ oán tặc mạnh mẽ đuổi theo làm hại. Ba loại đó là:

1. Oán tặc mạnh mẽ: Già yếu.

2. Oán tặc mạnh mẽ: Bệnh tật.

3. Oán tặc mạnh mẽ: Vô thường.

Ba loại oán tặc mạnh mẽ này thường theo làm hại thân của các hữu tình. Trong thân các hữu tình lược có ba pháp:

1. Tuổi thọ.

2. Hơi nóng.

3. Tâm thức.

Ba pháp này khi xa lìa thân gọi là chết. Thi hài hôi hám vứt tại gò mả, thật vô dụng. Vì sao? Vì thân này hư giả, do các pháp hiện thành, phần tốt nhất trong đó là tuổi thọ, hơi ấm và thần thức. Nhưng các pháp này nương vào nhân duyên mà sinh ra, vô thường không vững, không bền, không có khả năng, hư diệt nhanh chóng, giặc già, bệnh, chết luôn theo sát không rời. Nhưng các ngu phu bị vô minh che lấp nên tham ái, đắm chấp, không có tâm nhàm chán xả bỏ. Thánh đệ tử của ta, đối với thân giả hợp thành này luôn nhận biết đúng như thật: Nhiều các lỗi lầm, đối với tất cả phần nội, ngoại trong thân càng nhàm chán, từ bỏ.” Càng nhàm chán, từ bỏ, nên lìa tham dục, lìa tham dục nên đắc giải thoát, đắc giải thoát nên liền tự thấu tỏ: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Thân tất cả hữu tình
Ba giặc oán theo hại
Đó là già, bệnh, chết
Chưa có lúc nào rời.
Các pháp hợp thành thân
Hư ngụy không chắc thật
Xả thọ, thức, hơi ấm
Vứt ở ngoài gò mả.
Người ngu không hiểu biết
Thường tham ái đắm chấp
Hiền thánh có trí kiến
Ghét hơn là hầm phẩn.
Tu Thánh đạo vô lậu
Đoạn nhân duyên ba giặc
Chứng Niết-bàn thường lạc
Thoát hẳn ba loại giặc.
Người có trí ở đời
Càng nhàm chán thân mình
Cầu Niết-bàn thường lạc
Siêng năng chớ phóng dật.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Các sự phước nghiệp, lược có ba loại nên tu tập, nên tu tập nhiều. Ba loại đó là:

1. Thí.

2. Giới.

3. Tu.

Thế nào là sự phước nghiệp về Thí? Nghĩa là có các thiện nam, thiện nữ, với tịnh tín thường bố thí các loại thức ăn ngon bổ, hương liệu, y phục, xe cộ, đồ nằm, nhà cửa, phòng ốc, đèn lớn… tức các thứ cần thiết trong đời sống. Như vậy gọi là sự phước nghiệp về Thí.

Thế nào là sự phước nghiệp về Giới? Nghĩa là có các thiện nam, thiện nữ với tịnh tín không sát sinh, thanh tịnh không phạm, hoàn toàn viên mãn. Không trộm cắp, thanh tịnh không phạm, hoàn toàn viên mãn. Không tà hạnh, thanh tịnh không phạm, hoàn toàn viên mãn. Không nói dối, thanh tịnh không phạm, hoàn toàn viên mãn. Không uống rượu, không sống chỗ phóng dật, thanh tịnh không phạm, hoàn toàn viên mãn. Như vậy gọi là sự phước nghiệp về Giới.

Thế nào là sự phước nghiệp về Tu? Nghĩa là có các thiện nam, thiện nữ tịnh tín, tu đủ tâm Từ khắp một phương, an trụ hoàn toàn nơi hai phương, ba phương, bốn phương, cho đến phương trên, phương dưới bốn hướng, tất cả thế giới đều được đủ khắp, an trụ trọn vẹn, làm cho tâm Từ quảng đại vô lượng, không oán, không hại, an trụ trọn vẹn.

Tu đủ tâm Bi khắp cả một phương, an trụ hoàn toàn nơi hai phương, ba phương, bốn phương cho đến phương trên, phương dưới bốn hướng, tất cả thế giới đều được đủ khắp, an trụ trọn vẹn, làm cho tâm Bi quảng đại vô lượng, không oán, không hại, an trụ trọn vẹn. Tu đủ tâm Hỷ khắp cả một phương, an trụ hoàn toàn hai phương, ba phương, bốn phương, trên dưới, bốn hướng, tất cả thế giới đều được đủ khắp, an trụ trọn vẹn, làm cho tâm Hỷ quảng đại vô lượng, không oán, không hại, an trụ trọn vẹn. Tu đủ tâm Xả khắp cả một phương, an trụ hoàn toàn nơi hai phương, ba phương, bốn phương, trên dưới, bốn hướng, tất cả thế giới đều được đủ khắp, an trụ trọn vẹn, làm cho tâm Xả quảng đại vô lượng, không oán, không hại, an trụ viên mãn. Như vậy gọi là sự phước nghiệp Tu.

Đối với ba sự phước nghiệp này nên tu, nên tập, nên tu tập nhiều.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Có ba pháp nên tu
Tu tập, tu tập nhiều
Đạt được ba pháp vui
Đó là Thí, Giới, Tu.
Tu phước được nhiều của
Tu giới được trường thọ
Tu Từ, Bi, Hỷ, Xả
Sẽ sinh Trời thanh tịnh.
Người có trí ở đời
Muốn cầu vui thù thắng
Nên tu ba phước này
Quyết chắc sẽ đạt được.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Ở đời lược có ba hạng tối thắng. Ba hạng đó là:

1. Đối với tất cả các hữu tình không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, có sắc, không sắc, có tưởng, không tưởng và phi tưởng phi phi tưởng thì Phật là tối thắng. Đó là Bậc Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật Bạc-già-phạm. Ai đối với Phật phát tâm tịnh tín là tối thắng đối với các tín. Tịnh tín như vậy, nhận được quả báo trong cõi trời, người là tối thắng.

2. Đối với tất cả pháp môn đã có: Thế gian, xuất thế gian, hữu vi, vô vi… trong các pháp môn Niếtbàn là tối thắng, nghĩa là lìa kiêu mạn, dứt khát ái, diệt A-lại-da, đoạn các con đường luân hồi, dứt ái, ly dục đạt Niết-bàn tịch tĩnh. Ai đối với pháp Niếtbàn như vậy phát tâm tịnh tín là tối thắng đối với các tín. Tịnh tín như vậy nhận được quả báo trong cõi trời, người là tối thắng.

3. Đối với tất cả đồ chúng, bạn bè ở trong ấp, trong các hội chúng, thì Thánh đệ tử của Phật tức Tăng là tối thắng. Đó là bốn hướng, bốn quả, tám Bổ-đặc-già-la, ở trong các hữu tình là chân, là diệu, là tối thắng, nên cung kính mời thỉnh, cung kính cúng dường, khen ngợi, tán thán không tiếc thân mạng, tài sản là phước điền vô thượng của chúng trời, người trong thế gian. Ai đối với Hiền thánh tăng như vậy, phát tâm tịnh tín, đối với các sự tịnh tín đây là tối thắng. Tịnh tín như vậy, nhận được quả báo ở trong cõi trời, người là tối thắng.

Như vậy gọi là ba hạng tối thắng.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Có ba hạng tối thắng
Đó là Phật, Pháp, Tăng
Tâm tịnh tín quy y
Thấy được pháp tối thắng.
Nương Phật sinh tịnh tín
Biết Lưỡng Túc Trung Tôn
Chứng Bồ-đề vô thượng
Trời, người đồng cúng dường.
Nương pháp sinh tịnh tín
Biết Ly Dục Trung Tôn
Chứng Niết-bàn vô thượng
Tịch tĩnh thường an lạc.
Nương Tăng sinh tịnh tín
Biết các Chúng Trung Tôn
Chứng Phước điền vô thượng
Trời, người đồng cúng dường.
Gieo ruộng tốt tối thắng
Sinh công đức tối thắng
Được an lạc tối thắng
Trong nhân gian, thiên thượng.
Thí Tam bảo phước điền
Gọi là Thí tối thắng
Hiện tại thường an lạc
Đời sau chứng Niết-bàn.

Tóm tắt lại nơi bài kệ phần kinh Bản Sự ở trước:

Tử, Tôn, Trọng, nhị học
Phước, kiến, văn, Bổn la
Bất tịnh đẳng cấp oán
Phước nghiệp, sự tối thắng.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có ba bậc Đại sư xuất hiện ở thế gian, làm lợi ích, an lạc cho vô lượng chúng sinh, thương xót đại chúng trời, người nơi thế gian làm cho họ được lợi ích an lạc vô lượng. Ba bậc Đại sư đó là:

1. Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Viên Mãn, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Trượng Phu, Điều Ngự Sĩ, Thiên Nhân Sư, Phật Bạc-già-phạm, xuất hiện nơi thế gian, vì các chúng sinh mà mở bày, xiển dương chánh pháp đầu, giữa, cuối đều thiện, văn nghĩa hoàn hảo, chỉ dạy phạm hạnh thuần nhất viên mãn. Nghĩa là: Đây là sự thật về Khổ, sự thật về Nguyên nhân của khổ, sự thật về Diệt trừ khổ và sự thật về Con đường tu tập để diệt khổ. Đó gọi là bậc Đại sư thứ nhất, xuất hiện ở thế gian, tạo lợi ích, an lạc cho vô lượng chúng sinh, thương xót đại chúng trời, người nơi thế gian làm cho họ được lợi ích, an lạc vô lượng.

2. Lại có đệ tử Vô học của Bậc Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác, là A-la-hán các lậu đã hết, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, đã vứt bỏ gánh nặng, tự đạt lợi ích, dứt các hữu kết, đã chân chánh phụng hành Thánh giáo của Như Lai, đã được giải thoát, đã chứng biết khắp, xuất hiện ở thế gian, vì các chúng sinh giảng dạy chánh pháp đầu, giữa, cuối đều thiện, văn nghĩa hoàn hảo, chỉ dạy phạm hạnh thuần nhất viên mãn. Nghĩa là: Đây là sự thật về Khổ, sự thật về Nguyên nhân của khổ, sự thật về diệt trừ Khổ và sự thật về con đường tu tập để diệt Khổ. Như vậy gọi là bậc Đại sư thứ hai xuất hiện ở thế gian, tạo lợi ích an lạc cho vô lượng chúng sinh, thương xót đại chúng trời, người ở thế gian làm cho họ được lợi ích, an lạc vô lượng. 3. Lại có bậc đệ tử Hữu học của Như Lai Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác, tu phạm hạnh đầy đủ, được học tập chân chánh đầy đủ; nghĩa là được học chân chánh về Khế kinh, Ứng tụng, Ký biệt, Giàtha, Vô vấn tự thuyết, Bản sự, Bản sinh, Phương quảng, Hy pháp, hiểu rõ về ý nghĩa, xuất hiện ở đời vì các chúng sinh chỉ dạy chánh pháp đầu, giữa, cuối đều thiện, văn nghĩa hoàn hảo, chỉ dạy phạm hạnh thuần nhất, viên mãn. Nghĩa là: Đây là sự thật về Khổ, sự thật về Nguyên nhân của khổ, sự thật về Diệt trừ khổ và sự thật về Con đường tu tập để diệt khổ. Như vậy gọi là bậc Đại sư thứ ba xuất hiện ở thế gian, tạo lợi ích an lạc cho chúng sinh, thương xót đại chúng trời, người ở thế gian làm cho họ được lợi ích, an lạc vô lượng.

Như vậy gọi là có ba bậc Đại sư xuất hiện ở thế gian tạo lợi ích an lạc cho chúng sinh, thương xót đại chúng trời, người ở thế gian làm cho họ được lợi ích, an lạc vô lượng.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Có ba bậc Đại sư
Nếu xuất hiện ở đời
Làm lợi ích an vui
Trời, người khắp thế gian.
Một là Bậc Như Lai
Hai, đệ tử Vô học
Ba, đệ tử Hữu học
Đủ tịnh giới đa văn.
Ba bậc Đại sư này
Trời, người đều cúng dường
Giảng thuyết pháp chân chánh
Rộng mở cửa cam lồ.
Làm vô lượng chúng sinh
Dứt hẳn các hữu kết
Thoát khỏi khổ sinh tử
Chứng Niết-bàn thường lạc.
Ví như Đạo sư giỏi
Chỉ đường tốt cho người
Người chân chánh đi theo
Chắc chắn được an vui.
Ba Đại sư như vậy
Dạy chúng sinh bốn Đế
Tu hành không phóng dật
Quyết vượt cảnh sinh tử.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Có chư Thiên nhóm họp trong ba thời, hoan hỷ bàn luận rõ ràng, khuyến khích nhau đi đến nhân gian. Thế nào là ba? Đó là:

1. Đệ tử của ta, hoặc ít của cải, ít quyến thuộc, nhiều quyến thuộc, dòng họ tôn quý, hoặc dòng họ thấp kém, mới phát tâm tịnh tín, nhàm chán pháp tại gia, ưa thích pháp xuất gia, khi ấy chư Thiên hoan hỷ nhóm họp cùng bàn với nhau: “Thiên tiên nên biết! Nay đệ tử của Phật, cùng quân ma ác sắp chiến đấu, chúng ta phải thống suất chúng chư Thiên đi đến nhân gian, âm thầm gia hộ, hỗ trợ thêm tín tâm cho người kia, làm cho chư vị không bị chướng nạn.” Nghĩ xong, đi đến nhân gian làm việc nên làm. Như vậy gọi là chư Thiên nhóm họp, trong lần thứ nhất, hoan hỷ bàn luận, cùng khuyến khích nhau đi đến nhân gian.

2. Đệ tử của ta, khi cạo bỏ râu tóc đắp mặc casa với tâm chánh tín, từ bỏ pháp tại gia, hướng đến chỗ không nhà, cùng các Bí-sô đồng tu hòa kính, an trụ giữ gìn giới Biệt giải thoát, tu hành mẫu mực, đều được viên mãn, đối với lỗi nhỏ cũng thấy rất sợ hãi. Học tập tất cả học xứ, thành tựu thân, ngữ, ý nghiệp thanh tịnh, thành tựu mạng thanh tịnh, thành tựu kiến thanh tịnh. Bấy giờ chư Thiên hoan hỷ nhóm họp, cùng bảo với nhau: “Thiên tiên nên biết! Nay đệ tử của Phật, cùng quân ma ác đang chiến đấu, chúng ta phải thống suất chúng chư Thiên đi đến nhân gian, âm thầm gia hộ, hỗ trợ thêm oai lực cho người kia, làm cho chư vị thắng quân ma.” Nghĩ như vậy, đi đến nhân gian làm điều nên làm. Như vậy gọi là chư Thiên nhóm họp trong lần thứ hai hoan hỷ bàn luận, khuyến khích nhau đi đến nhân gian.

3. Đệ tử của ta, các lậu đã dứt, chứng nhân vô lậu, tâm giải thoát hoàn toàn, tuệ giải thoát hoàn toàn, ngay nơi hiện tại tự chứng thông tuệ, hoàn toàn an trụ, tự biết rõ: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa. Khi ấy chư Thiên hoan hỷ, nhóm họp cùng bàn với nhau: “Thiên tiên nên biết! Nay đệ tử của Phật, cùng quân ma ác đã chiến đấu xong rồi, đã diệt trừ quân ma, đã đập tan quân ma, tự nói: Sự sinh của ta đã dứt, phạm hạnh đã lập, việc đáng làm đã làm xong, không còn tái sinh nữa”. Chúng ta phải nên thống suất chúng chư Thiên, cầm hương hoa đẹp đi đến nhân gian lễ bái cúng dường, khen ngợi tán thán, thỉnh thuyết giảng chánh pháp độ thoát sinh, già, bệnh, chết của mình.” Nói như vậy xong, đi đến nhân gian, làm việc nên làm. Như vậy gọi là chư Thiên nhóm họp trong lần thứ ba hoan hỷ bàn luận, khuyến khích nhau đi đến nhân gian.

Bí-sô nên biết! Nếu có quốc độ, thành ấp, xóm làng có người có tâm tịnh, tín cầu xuất gia, có người đang cạo bỏ râu tóc xuất gia, có người xuất gia rồi, các lậu đã dứt, thì ngay trong quốc độ, thành ấp đó, các đại Thiên tiên và các Thiện thần đều đi đến, siêng năng gia trì bảo vệ, làm cho nơi đó vui vẻ, được mùa, mưa thuận gió hòa, không có các bệnh tật, chúng sinh trong đó, tâm Từ hướng đến với nhau đồng tu nghiệp thiện, đời này đời sau, ngày đêm an ổn, mau chứng Niết-bàn thường lạc vô thượng. Như vậy gọi là trong ba lần chư Thiên nhóm họp, hoan hỷ luận bàn, khuyến khích nhau đi đến nhân gian.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Chư Thiên trong ba đời
Hoan hỷ cùng nhóm họp
Bàn luận khuyên xuất binh
Đi đem cõi nhân gian.
Lần đầu cầu xuất gia
Thứ hai cạo râu tóc
Thứ ba lậu đã dứt
Hàng phục các quân ma.
Chư Thiên thấy xuất gia
Dứt sạch hẳn các lậu
Cùng cung kính cúng dường
Như vậy khen ngợi rằng.
Quy mạng bậc Thù thắng
Quy mạng Tối thượng sĩ
Quy mạng dẹp chúng ma
Nhận được tiếng khen lớn.
Chư Thiên tâm hoan hỷ
Thầm giúp ta cúng dường
Cầu mong cạo râu tóc
Dứt lậu, chứng vô sinh.
Thế nên, phải siêng năng
Hệ niệm ưa tĩnh lự
Dũng mãnh, không phóng dật
Hàng phục các ma quân.
Ngay trong pháp luật Phật
Người chánh tín xuất gia
Giải thoát được các lậu
Dứt hẳn mọi cảnh khổ.

Tôi từng nghe Đức Thế Tôn bảo:

–Bí-sô nên biết! Trời hơn người lược có ba việc. Đó là:

1. Sống lâu.

2. Xinh đẹp.

3. Hoan lạc.

Như vậy gọi là ba việc trời hơn người gấp trăm ngàn vạn lần không thể tính kể. Vì sao? Vì cứ năm mươi năm ở cõi nhân gian thì bằng một ngày một đêm ở cõi trời Tứ thiên vương. Một ngày một đêm cho đến ba mươi ngày đêm như vậy là một tháng, mười hai tháng là một năm. Thọ mạng nơi cõi trời Tứ thiên vương là năm trăm năm. Với số năm ấy sẽ bằng chín trăm vạn năm ở nhân gian. Một trăm năm ở nhân gian sẽ bằng một ngày ở cõi trời Tam thập tam. Một ngày một đêm cho đến ba mươi ngày đêm như vậy là một tháng, mười hai tháng là một năm. Thọ mạng nơi cõi trời Tam thập tam là một ngàn năm, với số năm ấy sẽ bằng ba ngàn sáu trăm vạn năm ở nhân gian. Hai trăm năm ở nhân gian sẽ bằng một ngày một đêm ở cõi trời Dạ-ma. Một ngày một đêm cho đến ba mươi ngày đêm là một tháng, mười hai tháng là một năm. Trời Dạma thọ mạng là hai ngàn năm, với số năm ấy sẽ bằng một ức bốn ngàn bốn trăm vạn năm ở gian. Bốn trăm vạn năm ở nhân gian sẽ bằng một ngày một đêm ở cõi trời Đổ-sử-đa. Một ngày một đêm cho đến ba mươi ngày đêm như vậy là một tháng, mười hai tháng là một năm. Trời Đổ-sử-đa thọ mạng là bốn ngàn năm, với số năm ấy sẽ bằng năm ức bảy ngàn sáu trăm vạn năm ở nhân gian. Tám trăm năm ở nhân gian sẽ bằng một ngày một đêm ở cõi trời Lạc biến hóa. Một ngày một đêm cho đến ba mươi ngày đêm như vậy là một tháng, mười hai tháng là một năm. Trời Lạc biến hóa thọ mạng là tám ngàn năm, với số năm ấy sẽ bằng hai mươi ba ức bốn trăm vạn ở nhân gian. Một ngàn sáu trăm năm ở nhân gian sẽ bằng một ngày một đêm ở cõi trời Tha hóa tự tại. Một ngày một đêm cho đến ba mươi ngày đêm như vậy là một tháng, mười hai tháng là một năm. Trời Tha hóa tự tại thọ mạng là một vạn sáu ngàn năm, với số năm ấy sẽ bằng chín mươi hai ức một ngàn sáu trăm vạn năm ở nhân gian.

Ở cách tính này thì vạn vạn là ức. Như vậy gọi là tuổi lâu dài của chư Thiên. Xinh đẹp của chư Thiên, hoan lạc của chư Thiên, tất cả những gì ở thế gian đều không thể thí dụ. Như vậy gọi là chư Thiên có ba việc thù thắng.

Nhưng tất cả đều là vô thường không bền chắc, không bảo đảm, là pháp biến đổi, hư hoại, bị sức mạnh của thần chết thâu nuốt, hệ thuộc vào sự chết. Chúng chư Thiên kia khi lâm chung thì có chúng chư Thiên khác đến chỗ của họ nêu truyền chỉ dẫn: –Các Thiên tiên xin nguyện cho các ông sinh đến nẻo thiện. Sinh nẻo thiện rồi, đạt lợi ích tốt. Được lợi ích tốt có sự hoàn thành.

Chư Thiên ấy đi đến nẻo thiện nào? Được lợi ích gì? Thành tựu việc gì? Nghĩa là chư Thiên kia sau khi qua đời, sinh vào cõi người, được làm người, gọi là đi đến nẻo lành. Đến nẻo người xong, đối với pháp luật của Phật đã thuyết giảng có được chánh tín, nên gọi là đạt lợi ích tốt. Chánh tín như vậy được tăng trưởng rộng lớn, vững chắc, sâu xa. Sa-môn và Bà-la-môn, chư Thiên, Ma, Phạm ở thế gian không pháp nào có thể làm cho thoái chuyển, nên gọi là thành tựu đầy đủ. Do thành tựu hoàn toàn nên đối với Phật pháp làm được nhiều việc, nghĩa là phát tâm tịnh tín, xuất gia, thọ giới tu Thiền chỉ, Thiền quán, quán xét bốn Thánh đế, đoạn hẳn các lậu, chứng đắc Niết-bàn, dứt hết cảnh khổ.

Khi ấy, Đức Thế Tôn tóm tắt lại nghĩa này và nói kệ:

Trời có ba việc hơn
Sống lâu, vui xinh đẹp
Đem so với người đời
Tính toán rất khó kịp.
Ba việc hơn như vậy
Không thường, không bền chắc
Pháp biến hoại khó giữ
Bị ma chết trói buộc.
Trời khi sắp ra đời
Trời khác đến một bên
Khéo nêu trao chỉ dẫn
Khiến sinh tâm hoan hỷ.
Xin nguyện cho Thiên tiên
Vãng sinh đến nẻo thiện
Được sinh làm loài người
Sinh giữa nước, thông minh.
Ở trong pháp luật Phật
Đạt được tâm chánh tín
Tăng trưởng tâm kiên cố
Tà giáo không thể chuyển.
Dùng phương tiện xả bỏ
Hạnh ác thân, ngữ, ý
Những lỗi lầm đã sinh
Cũng phương tiện trừ diệt.
Thân, ngữ, ý thường tu
Ba nghiệp là thù thắng
Như lý, chánh tư duy
Làm rộng lớn vô lượng.
Tu các sự phước nghiệp
Là thí, giới, đa văn
Ngay trong chánh pháp Phật
Xuất gia tu phạm hạnh.
Chánh tín tu phạm hạnh
Thường nhẫn nhục, nhu hòa
Hoặc sinh trong trời, người
Hoặc chứng Niết-bàn lạc.
Như vậy các Thiên tiên
Đến nêu truyền, chỉ dẫn
Chư Thiên khi lâm chung
Như mẹ thương xót con.
Chư Thiên thường phát nguyện
Được tăng ích cõi thiện
Làm cho chúng Tu-la
Tan rã, không tăng trưởng.


[Đầu trang]


[Mục lục bộ Kinh tập][426][427][428][429][430][431][432][433][434][435][436][437][438][439][440][441][442][443][444][445][446][447][448][449][450][451][452][453][454][455][456][457][458][459][460][461][462][463][464][465][466][467][468][469][470][471][472][473][474][475][476][477][478][479][480][481][482][483][484][485][486][487][488][489][490][491][492A][492B][493][494][495][496][497][498][499][500][501][502][503][504][505][506][507][508][509][510][511][512][513][514][515][516][517][518][519][520][521][522][523][524][525][526][527][528][529][530][531][532][533][534][535][536][537][538][539][540][541][542][543][544][545][546][547][548][549][550][551][552][553][554][555][556][557][558][559][560][561][562][563][564][565][566][567][568][569][570][571][572][573][574][575][603][604][605][606][607][608][609][610][611][612][613][614][615][616][617][618][619][620][621][622][623][624][625][626][627][628][629][630][631][632][633][634][635][636][637][638][639][639][640][641][642][643][644][645][646][647][648][649][650][651][652][653][654][655][656][657][658][659][660][661][662][663][664][665][666][667][668][669][670][671][672][673][674][675][676][677][678][679][680][681][682][683][684][685][686][687][688][718][719][720][721][721][722][723][724][725][726][727][728][729][730][731][732][733][734][735][736][737][738][739][740][741][742][743][744][745][746][747A][747B][748][749][750][751][752][753][754][755][756][757][758][759][760][761][762][763][764][765][766][767][768][769][770][771][772][773][774][775][776][777][778][779][780][781][782][783][784][785][786][787][788][789][790][791][792][793][794A][794B][795][796][797A][797B][798][799][800][801][802][803][804][805][806][807][808][809][810][811][812][813][814][815][816][817][818][819][820][821][822][823][824][825][826][827][828][829][830][831][832][833][834][835][836][837][838][839][840][841][842][843][844][845][846][847]


[Mục lục tổng quát]