TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH
BỘ KINH TẬP (425-847)

SỐ 821-KINH ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG NHƯ LAI BÍ MẬT TẠNG

Hán dịch: Mất tên người dịch.

MỤC LỤC

QUYỂN THƯỢNG

QUYỂN HẠ


QUYỂN THƯỢNG

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật cùng với tám ngàn đại Tỳkheo và ba vạn hai ngàn Đại Bồ-tát, ở tại núi Kỳxà-quật, thuộc thành Vương xá.

Các vị đều là bậc có tiếng tăm được nhiều người biết, đều đã đạt Đà-la-ni, biện tài vô ngại; đã chứng được pháp Vô sinh nhẫn; chiến thắng ma oán, sướng tự tại trong tất cả pháp; thông suốt tất cả mọi thần thông biến hóa; tất cả thiền định Tammuội đều hoàn hảo, ra vào tự do. Vì các chúng sinh, hành động không cần cầu thỉnh xa lìa mọi phiền não, khéo hiểu rõ cái gốc của chúng sinh. Khéo biết nương tựa nơi pháp liễu nghĩa. Trong sáng tu tập sáu pháp Ba-la-mật để đến bờ bên kia. Dạo chơi trong năm đường, giáo hóa chúng sinh, tâm không chán mỏi. Trải qua vô lượng, vô biên trăm ngàn vạn ức na-do-tha kiếp, tu tập các hạnh, đã từng cúng dường vô lượng chư Phật. Được sự hộ trì của chư Phật, giữ vững thành Chánh pháp, không để đứt mất hạt giống giác ngộ. Thường dùng tất cả Đức thánh sướng vui, chuyển bánh xe pháp tốt đẹp. Qua lại dễ dàng vô biên, hầu hạ, cúng dường chư Phật. Rống tiếng sư tử lớn, lèo lái con thuyền pháp lớn, đánh trống pháp lớn, thổi kèn pháp lớn. Khéo tập hợp tất cả phước đức trang nghiêm, tướng tốt trang nghiêm thân; định niệm trí tuệ, sáng suốt tiến tới vững chắc, biết rõ sự hổ thẹn. Tự vui với pháp lành, thành tựu đầy đủ đại Từ, đại Bi. Ánh sáng của các vị ấy, che lấp ánh sáng của mặt trời, mặt trăng. Không bị ô nhiễm bởi tám pháp ở thế gian là: Yếu, phá bỏ, khen, quở trách, ca ngợi, khổ, vui. Không cao, không thấp, khéo dứt sạch yêu ghét, thường dùng phương tiện tương ưng với trí tuệ. Tùy theo căn tánh chúng sinh, mà khéo léo giáo hóa, cứu độ nhưng không thấy có người để cứu độ. Có làm điều gì, đều xem xét kỹ lưỡng. Không bị các khổ hoạn về nghiệp của thân, khẩu, ý. Tu tập định tuệ hoàn hảo trang nghiêm.

Tâm của các vị ấy đều nhu hòa, dịu dàng, giống như rồng lớn, như sư tử lớn, chiến thắng được ngoại đạo. Tinh tấn hướng đến bậc đại trượng phu, xa lìa các sợ hãi. Giỏi về sự quyết cắt đứt những nghi lầm của chúng sinh. Khéo léo khuyến thỉnh vô lượng chư Phật, chuyển xe pháp. An ổn trụ trong nguyện lớn, vĩnh viễn xa lìa nhị kiến. Luôn luôn chuyên cần độ thoát cho tất cả chúng sinh.

Biết rõ nhân duyên phát khởi sự trong sạch hay nhơ bẩn. Tu tập sự nhớ nghĩ chân chánh, không khởi sinh nhớ nghĩ về Thanh văn, Duyên giác. Trong tâm không hề xả bỏ trí tuệ quý báu. Tâm ấy thanh tịnh giống như hư không. Thân ấy dịu dàng. Tâm không nhiễm ô, ý không hư hoại. Dù đến chỗ nào, tâm cũng không bị dính mắc. Âm thanh phát ra dịu dàng hòa nhã. Nói ra điều gì đều trình bày rõ ràng, dễ hiểu, lời nói trong sạch, không nói pháp ô nhiễm dù chỉ một câu! Luôn luôn quan sát ân đức người khác, dũng mãnh không bạn, ý chí muốn đến đạo tràng.

Danh hiệu của các vị đó là: Bồ-tát Sơn Cang, Bồ-tát Đại Sơn, Bồ-tát Trì Sơn Nham, Bồ-tát Sơn Tích Vương, Bồ-tát Thạch Sơn Vương, Bồ-tát Đại Tấn, Bồ-tát Tín Tấn, Bồ-tát Cực Tấn, Bồ-tát Hỷ Thủ, Bồ-tát Bảo Ấn Thủ, Bồ-tát Bảo Thủ, Bồ-tát Đức Thủ, Bồ-tát Đăng Thủ, Bồ-tát Thường Cử Thủ, Bồ-tát Thường Hạ Thủ, Bồ-tát Thường Hỷ Căn, Bồ-tát Thường Tư Niệm, Bồ-tát Thường Cần, Bồ-tát Thường Quán, Bồ-tát Pháp Dũng Vương, Bồ-tát Tịnh Bảo Quang Minh Oai Đức Vương, Bồtát Ma-ni Quang Vương, Bồ-tát Quá Chư Cái, Bồtát Tổng Trì Tự Tại Vương, Bồ-tát Phát Tâm Chuyển Pháp Luân, Bồ-tát Pháp Dũng, Bồ-tát Tịnh Chúng Sinh Bảo Dũng, Bồ-tát Đạo Phân Vị, Bồtát Thiệp Biện, Bồ-tát Vô Ngại Biện, Bồ-tát Bất Động Túc Tấn, Bồ-tát Kim Cang Túc Tấn, Bồ-tát Kim Cang Chí, Bồ-tát Hư Không Tạng, Bồ-tát Tướng Hảo Tích Nghiêm, Bồ-tát Hoại Quỷ Võng, Bồ-tát Thắng Chí, Bồ-tát Đạo Sư, Bồ-tát Hỷ Kiến, Hiền Hộ mười sáu vị Đại sĩ, Di-lặc Bồ-tát Hiền kiếp ở cung trời Đâu-suất-đà Mạn-đà-la hoa hương làm thượng thủ. Ba vạn hai ngàn vị ở Tha hóa tự tại Thiên vương. Các Thiên tử như vậy và những vị khác, đều hướng đến Đại thừa. Chư Thiên ở cõi Dục, cõi Sắc, ở trời Tịnh cư, Thích, Phạm, hộ đời ở tam thiên đại thiên thế giới, tất cả đều tập hợp đông đủ cung kính, cúng dường, lễ bái Như Lai.

Khi Thế Tôn thuyết pháp cho vô lượng trăm ngàn đại chúng đang cung kính vây quanh, thì ở phương Đông, cách cõi Phật này bảy mươi hai ức, có cõi Phật, tên là Thường xuất đại pháp chi âm. Cõi đó có Đức Phật, hiệu là Bảo Trượng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Giác, đang còn ở tại đó. Nước đó thường phát ra pháp âm rộng lớn. Tất cả nước ở sông ngòi, ao, suối, tất cả rừng cây, tất cả hoa, tất cả lá, tất cả quả, tất cả lâu đài, thường phát ra pháp âm của pháp bảo vô thượng. Chúng sinh cõi đó, thường nghe pháp âm thù thắng vi diệu.

Nước của Phật Bảo Trượng, thường phát ra pháp âm rộng lớn. Trong nước có vị Bồ-tát, tên là Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương. Bồ-tát này chiêm ngưỡng Phật Bảo Trượng, rồi nhanh như thời gian tráng sĩ duỗi cánh tay, trong chốc lát, ẩn mất trong nước. Thường xuất Đại Pháp Âm ấy. Và chỉ trong một niệm, đã đến thế giới Ta-bà này.

Bấy giờ, Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương, hóa ra tám vạn bốn ngàn đài báu, làm bằng các loại châu báu xinh đẹp. Bốn phương có bốn trụ, ngang rộng bằng nhau, vô cùng trang nghiêm đẹp đẽ. Mỗi một đài hoa báu, hóa thành tám vạn bốn ngàn cây báu với hoa và trái sum suê. Dưới mỗi một cây đều hóa thành tòa Sư tử báu, phủ lấp bằng các vật báu và được trải bằng trăm ngàn tấm vải mềm mại. Trên các tòa này, đều có Phật ngồi, hình sắc, tướng mạo giống như Đức Thích-ca Mâu-ni.

Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương, hóa hiện như vậy rồi, lại biến ra nhiều lọng báu, khắp trong hư không; khắp cả trăm ngàn do-tuần những tấm lụa vuông vức rủ xuống, trang trí bằng lưới đẹp có gắn các chuông nhỏ. Gió thổi các chuông nhỏ phát ra âm thanh nhu hòa, nhẹ nhàng, đáng yêu. Âm thanh đó vang khắp tam thiên đại thiên thế giới chư Phật.

Tam thiên đại thiên thế giới lúc này, bằng phẳng như lòng bàn tay, sinh ra nhiều hoa sen báu, cúng dường Như Lai. Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương, dùng tám vạn bốn ngàn đài báu, đến nhiễu quanh chỗ Phật.

Bấy giờ, đại chúng thấy việc biến hóa này là chưa từng có, nên nói rằng: “Theo sự thấy biết như vầy, thì Đại sĩ này đến để trang nghiêm tướng sư, chắc chắn sẽ nói pháp lớn và làm các việc để trang nghiêm tam thiên đại thiên thế giới. Lại có lọng báu lơ lửng giữa hư không che trên Đức Như Lai, làm cho tất cả cung điện trời đều bị che lấp”.

Khi đó, Đại đức Ma-ha Ca-diếp nương oai lực Phật, từ chỗ ngồi, đứng dậy, sửa sang y phục, bày vai áo bên phải, gối phải sát đất, chắp tay hướng về phía Đức Phật, nói kệ:

Ánh sáng sạch trong từ hư không
Che lấp ánh sáng trời Thích, Phạm
Cả mặt trời, mặt trăng hỏa châu
Cúi xin Nhân Tôn giảng tướng này.
Trên không trung hiện lọng báu đẹp
Phủ khắp cả trăm ngàn do-tuần
Trang nghiêm bằng cờ phướn lưới chuông
Nay Thế Tôn rưới trận mưa pháp.
Lưới chuông phát âm thanh vi diệu
Âm đó vang khắp cõi Phật này
Nghe âm thanh ấy, phiền não dứt
Vì lợi ích gì, nói điều này.
Ba ngàn thế giới phẳng như tay
Trăm ngàn hoa sen mọc từ đất
Hương hoa làm sảng khoái thân tâm
Oai đức này là thế nào đây!
Ở phương Đông phóng ánh sắc vàng
Tám vạn bốn ngàn lọng báu đẹp
Tòa Sư tử trong đài cây báu
Thấy như Đạo sư Thích Sư Tử.
Đạo Sư, việc này lợi ích gì?
Ai thấy điều này có ích chi?
Phải chăng trí Phật lại xuất hiện
Đầy đủ vô lượng các thần biến.

Bấy giờ, Phật dạy Đại Ca-diếp:

–Cách đây bảy mươi hai ức cõi Phật, ở phương Đông, có nước tên Thường xuất đại pháp âm. Trong nước đó, có Phật hiệu là Bảo Trượng, hiện đang còn ở đó. Trong nước đó, có Bồ-tát tên là Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương đi đến cõi này, thấy ta, nên lễ bái, thăm hỏi, nghe pháp, vì các Bồtát mà sinh đại pháp dục, sinh đại pháp lực, tập đại pháp trí. Muốn hiện ra công đức của nước Thường xuất đại pháp âm và công đức của Phật Bảo Trượng. Vì nhân duyên này, nên Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương, đến thế giới Ta-bà này và làm lợi ích cho chúng sinh chỉ một ngày một đêm, mà hơn cả các pháp đại Thanh văn ở khắp tam thiên đại thiên thế giới làm lợi ích chúng sinh. Giả sử số lượng của quý vị, giống như lúa mè, tre, lau, mía, rừng rậm đều làm lợi ích cho chúng sinh suốt một kiếp, cũng bằng như trên, không khác.

Đại đức Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Người ở Diêm-phù-đề nếu được nghe danh hiệu Đại Trượng Phu này mà được lợi ích như trên, huống chi là có lòng tin lắng nghe giảng pháp.

Khi ấy, Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương và các đài báu đến đứng trước Như Lai và đảnh lễ sát chân Phật. Lúc đang lễ Phật, tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách. Trăm ngàn loại âm nhạc, không đánh tự kêu. Tất cả đại chúng đều đảnh lễ sát chân Như Lai. Bấy giờ, Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương nhiễu quanh Phật ba vòng, tám vạn bốn ngàn đài báu cũng nhiễu quanh Phật ba vòng. Nhiễu ba vòng rồi, chắp tay hướng Phật, nói kệ ca ngợi:

Khéo nói lời tốt đẹp trang nhã
Không lẫn, không tạp, sạch không nhơ
Đáng bậc oai đức tuệ thù thắng
Nay con đảnh lễ Đấng cao cả.
Đủ cả trăm ngàn ức công đức
Cho sự an vui diệt các khổ
Từ, Bi, Hỷ, Xả khắp ba cõi
Thuyết pháp đoạn trừ nhơ bụi trần.
Chư Phật mười phương khen Thế Tôn
Phật đắc Bồ-đề đời xấu ác
Cứu độ chúng sinh không mỏi mệt
Độ một chúng sinh đã là khó.
Tất cả chư Phật đều bình đẳng
Trí tuệ thần thông, hiệu Nhân Tôn
Phật pháp sáng trong không gì bằng
Thuận chúng sinh hiện ra thấp hèn.
Nếu cần hiện ra cảnh giới Phật
Tất cả chúng sinh tâm mê loạn
Đại Bi, lợi ích đều như nhau
Tùy theo đối tượng mà thuyết pháp.
Trí lớn Thế Tôn, chúng đều thích
Nhan sắc hiền hòa lời êm diệu
Xét ra đức trời, người không bằng
Cho nên vui vẻ đảnh lễ Phật.
Nhất thiết trí cùng các chúng sinh
Đến tận các pháp, thắng ngoại đạo
Tất cả thấy biết hàng ma oán
Đảnh lễ mười phương, vượt các lực.
Niềm vui chân thật lời chắc thật
Khéo biết như nói như làm
Khổ vui không động như núi, chúa
Con lạy Phật ban vui cho đời.

Bấy giờ, Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương nói kệ ca ngợi Phật xong, rồi thưa với Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đức Bảo Trượng Như Lai thăm hỏi Thế Tôn có ít bệnh, ít phiền não, đi đứng có nhẹ nhàng, hành đạo có được lợi ích an vui không?

Bạch Thế Tôn! Con muốn hỏi Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Giác. Xin Thế Tôn cho phép, con mới dám hỏi.

Phật bảo Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương:

–Này thiện nam! Như Lai đang nghe. Nghi ngờ gì cứ hỏi. Ta sẽ theo lời hỏi của ông mà trả lời để tâm ông được cởi mở.

Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Trước kia, con nghe Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Giác có pháp gọi là Như Lai bí mật tạng. Nếu có Bồ-tát nào, trụ được ở Bí mật tạng này, thì sẽ chứng đắc pháp vô tận, chứng đắc biện tài vô tận, thấy Phật vô tận, có thể khéo léo chứng đắc thần thông vô tận. Vì các chúng sinh làm chỗ nương dựa chân thật. Lành thay, bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn vì con diễn thuyết pháp Như Lai bí mật tạng.

Phật bảo Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương:

–Lành thay, lành thay! Thiện nam! Có thể hỏi Phật về pháp như vậy. Thiện nam! Ông đã từng ở hằng hà sa chỗ Phật, gieo trồng các căn lành, thưa hỏi, thọ thỉnh. Thiện nam! Nay ông lắng nghe và khéo suy nghĩ. Ta sẽ thuyết pháp Như Lai bí mật tạng.

Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con xin lắng nghe thọ giáo.

Phật nói:

–Thiện nam! Pháp Như Lai mật tạng, gọi là tâm Nhất thiết trí, đã phát tâm này thì phải giữ gìn vững chắc, không thoái lui, không xả bỏ, không rối loạn, nhớ nghĩ phải hoàn hảo, chỉ đường khuyến hóa mạnh mẽ. Sự dạy dỗ, lấy căn lành làm then chốt, giữ gìn sự an vui, luôn luôn vững chắc, làm những việc đáng làm là Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Phương tiện. Lấy tâm làm trụ, không nhiếp, không nhược, không yếu, không hoại, không biếng nhác, không bỏ, không lấy. Thuận theo tâm ấy thì được giác ngộ. Lấy nghiệp lành làm căn bản. Ngay thẳng chất phát không quanh co, đứng thẳng vững vàng, không giả, không dối, làm rồi không nghi, việc chưa làm thì làm. Việc đáng làm là nên siêng năng tu hành, bỏ hạnh bất chánh, cần tu chánh hạnh. Thiện nam! Đấy gọi là nhập vào pháp môn Như Lai bí mật tạng, là giữ vững tâm Nhất thiết trí, phải kiên trì giữ gìn, không xả bỏ.

Này thiện nam! Những gì là tâm Nhất thiết trí vững chắc? Thiện nam, tâm Nhất thiết trí kiên cố có bốn, đó là:

1. Không nhớ nghĩ đến thừa nào khác.

2. Không kính lễ chư Thiên khác.

3. Không phát tâm khác.

4. Ý chí không chuyển.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Không nhớ nghĩ thừa khác
Lễ Phật, không lễ trời
Không sinh tâm muốn khác
Không lễ bái phàm phu.
Khi tu hành pháp này
Tâm Nhất thiết trí vững
Ma quân và ngoại đạo
Chẳng đụng được lông tóc.

Này thiện nam! Lại có bốn pháp bảo vệ tâm

Nhất thiết trí, đó là:

1. Không say đắm sắc đẹp.

2. Không lệ thuộc tiền tài.

3. Không lệ thuộc quyến thuộc.

4. Không say đắm quyền lực.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Chẳng đắm say tài sắc
Quyến thuộc và quyền lực
Ngăn tài sắc, quyền lực
Quyến thuộc không buông lung.
Quán các pháp hữu vi
Tất cả đều vô thường
Không buông thả kiêu mạn
Giữ vững tâm Bồ-đề
Thực hành pháp công đức
Không thoái hướng Bồ-đề.

Này thiện nam! Lại có bốn pháp không lui tâm Bồ-đề:

1. Tu tập các Ba-la-mật.

2. Thân cận Bồ-tát chân thật.

3. Tu tập tâm đại Bi.

4. Dùng bốn Nhiếp pháp để thâu tóm chúng sinh.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Thường tu sáu Độ, không ngừng nghỉ
Lắng nghe, nghe rồi tâm hiền hòa
Tuy sống cõi dục, lìa bạn xấu
Thân cận bạn lành, tùy sở thích.
Thường tu thắng đạo, gần hướng thượng
Luôn tập tâm Bi trụ bốn Nhiếp
Ưa thích ở yên tâm Bồ-đề
Tạo công đức Phật đâu còn khó.

Này thiện nam! Bồ-tát đầy đủ bốn pháp, không bỏ tâm Nhất thiết trí, đó là:

1. Tin công đức Phật.

2. Tu tập trí Phật.

3. Biết thần thông Phật.

4. Không mất hạt giống Phật.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Tin hiểu công đức Phật
Siêng tu tập trí Phật
Biết được thần thông Phật
Luôn giữ giống Bồ-đề.
Hành trì pháp như vậy
Không bỏ tâm Bồ-đề
Tùy chỗ thấy chư Phật
Càng sinh sức tinh tấn.

Này thiện nam! Bồ-tát đầy đủ bốn pháp, trọn đời tâm Bồ-đề không bị rối loạn:

1. Luôn luôn thân cận gần gũi bên Phật.

2. Từ đó được nghe pháp của Như Lai.

3. Thường ca ngợi công đức Phật.

4. Nương dựa vào sự vắng lặng, nhân đó mà luôn nghĩ đến Phật.

Đây là bốn, Đức Phật nói kệ:

Hầu hạ nơi Như Lai
Tôn trọng và cung kính
Nếu có được nghe pháp
Nghe rồi, thực hành theo.
Thường ca ngợi Như Lai
Tin tưởng và yêu thích
Đã được nghe pháp rồi
Người trí nương vào nghĩa.
Ca tụng công đức Phật
Điều ngự cả thế gian
Cần nương tựa vào đó
Nghĩ đúng nơi chư Phật.
Công đức Phật vô số
Luôn xem hành động mình
Thường thích chỗ thanh vắng
Nhớ nghĩ Đức Như Lai.
Khéo giữ pháp như vậy
Tu hành, tâm bất loạn
Người ấy được Tam-muội
Không mất tâm Bồ-đề.

Này thiện nam! Bồ-tát đầy đủ bốn pháp, không quên tâm Bồ-đề, bốn pháp đó là:

1. Tôi cần phải vì tất cả chúng sinh, làm ruộng phước tốt.

2. Tôi phải thuyết đạo pháp.

3. Tôi phải tùy theo chỗ đến của Như Lai mà đến.

4. Tôi phải thật sự biết các hành của chúng sinh.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Ta làm ruộng phước tốt thế gian
Người theo tà đạo, chỉ đường chánh
Phật đi đến đâu, con đến đó
Thường xuyên biết hành của chúng sinh.
Đại sĩ Bồ-tát nhớ đức này
Tâm nhớ Bồ-đề và đạo cả
Mau chóng thành tựu đạo Pháp vương
Đắc trí thần thông, vượt thế gian.

Này thiện nam! Bồ-tát đầy đủ bốn pháp nhớ nghĩ tâm Nhất thiết trí, đó là:

1. Dốc lòng nhớ nghĩ cái gốc của các pháp.

2. Nên nhớ pháp căn bản.

3. Phát tâm Nhất thiết trí là tháp báu ở đời.

4. Nên nhớ tưởng bảo tháp.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Nên dốc lòng hết ý
Nhớ nghĩ điều tốt đẹp
Đó là các pháp gốc
Tất cả tháp thế gian.
Thường nhớ tâm Bồ-đề
Ý trụ, tốt khéo trụ
Đó là mười Lực gốc
Làm tháp cho trời, người.

Này thiện nam! Bồ-tát có đầy đủ bốn pháp, sẽ có tâm Nhất thiết trí, đó là:

1. Dùng sức thần thông tu tập, không để mất bản hạnh.

2. Năm Căn, năm Lực tròn đầy.

3. Thân tâm tinh tấn nhưng không có ngã.

4. Siêng năng thực hành tinh tấn, vì lợi ích người khác.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Được diễn nói bốn pháp
Phát khởi tâm Bồ-đề
Nếu trí tuệ tăng trưởng
Ngăn chặn các phiền não.
Tuệ lực và thông đạt
Siêng năng tinh tấn vậy
Là đã an trụ rồi
Trang nghiêm không biếng nhác.
Không quên lời đã nguyện
Khéo an trụ Căn, Lực
Thân tâm không mệt mỏi
Siêng cầu thân chân thật.
Phát khởi được như vậy
Tâm Bồ-đề lớn mạnh
Trí tuệ được như vậy
Như trời trăng tăng trưởng.

Này thiện nam! Bồ-tát có bốn pháp, khuyến khích phát tâm Bồ-đề:

1. Ở giữa đại chúng khen ngợi, ca tụng tâm Bồđề.

2. Làm cho họ hiểu rõ sự phát triển tâm Bồ-đề.

3. Khéo dạy dỗ họ thuận theo sư trưởng, để phát tâm trong sạch.

4. Tất cả phiền não, không còn quấy nhiễu.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Hướng dẫn về tâm đạo
Trước tiên trụ gốc này
Sẽ được Nhất thiết trí
Gọi là biết nguyên nhân.
Là tâm Nhất thiết trí
Luôn trong sạch chiếu sáng
Thường trụ ở trong đó
Nơi thế gian đảnh lễ.
Luôn nói lời hòa nhã
Mau chóng vâng lời dạy
Hỏi các bậc Sư trưởng
Được tâm Nhất thiết trí.
Bản tánh luôn trong sạch
Giữ gìn tâm Bồ-đề
Lìa phiền não sáng trong
Hơn hết không chống trái.

Này thiện nam! Bồ-tát có bốn pháp, rõ bày tâm Bồ-đề, đó là:

1. Đây là chỗ ta trụ.

2. Trụ chỗ này rồi, thì mở bày giảng nói.

3. Biết trong tâm này, có vô lượng công đức.

4. Vì người khác mà thuyết các điều như vậy.

Rồi Phật nói kệ:

Khéo trụ đúng chỗ trụ
Bồ-tát trụ đây rồi
Ca ngợi pháp như vầy:
Tâm tốt của Bồ-đề.
Vô lượng đạo tâm đức
Phát khởi và ca tụng
Khen ngợi rồi làm theo
Chứng đắc theo lời khen.

Thiện nam! Bồ-tát có bốn pháp, để dạy dỗ, tu tập tâm Bồ-đề, đó là:

1. Không sỗ sàng.

2. Lời nói dịu dàng.

3. Không thô bạo.

4. Sắc mặt vui vẻ.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Giảng nói nghĩa dịu dàng
Không được có sỗ sàng
Sắc vui trụ pháp này
Dạy người phát Bồ-đề.

Này thiện nam, Bồ-tát có bốn pháp, lấy căn lành làm đầu, để xây dựng tâm Bồ-đề, đó là:

1. Thành tựu đầy đủ tướng tốt, mở cửa làm việc ban cho lớn.

2. Tu hành thanh tịnh cõi Phật, thực hành đủ các loại ban phát.

3. Trí tuệ trong sáng, điều phục lòng cao ngạo.

4. Đầy đủ trí tuệ, tu tập sự học rộng.

Rồi Phật nói kệ:

Thường mở cửa đại thí
Tới được bờ tướng tốt
Khéo làm việc ban cho
Được đến cõi Tịnh độ.
Không bao giờ cao ngạo
Mãi cầu trí tuệ Phật
Tập nghe không đầy đủ
Có lợi cho trí tuệ.
Được diệu tướng như vậy
Là cách khởi đạo căn
Tâm khéo tùy chỗ chuyển
Tu tập công đức trước.

Này thiện nam! Bồ-tát có bốn pháp luôn được mừng vui:

1. Vui mừng khi thấy Phật.

2. Thấy các Bồ-tát khác thắng tinh tấn, trong lòng mừng vui.

3. Nói như vầy: “Đến bao giờ, ta mới được thọ ký đạo Vô thượng Bồ-đề! Đến bao giờ ta mới làm

Phật sự cho chúng sinh đây!”

4. Sinh mừng vui đối với trí tuệ Phật.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Biết đến bao giờ, ta gặp Phật
Sinh lòng mừng vui muốn thấy Phật
Thấy Bồ-tát thắng tinh tấn khác
Sinh vui ưa tu tinh tấn này.
Đến bao giờ ta mới đủ đức
Để được thọ ký, chứng Bồ-đề
Thắng trí phương nào làm Pháp vương
Bồ-tát thường sinh sướng vui này.
Đến bao giờ làm được việc Phật
Được trí thần thông, đến bờ kia
Tiếng khen vang khắp mười phương cõi
Bồ-tát thường sinh sướng vui này.

Này thiện nam! Bồ-tát có bốn điều không vui lòng, đó là:

1. Không vui, khi được khen ngợi về những công đức không có thật mà được lợi dưỡng.

2. Không vui, khi được hưởng niềm vui sang giàu của Thích, Phạm, Hộ thế và Trời, Người.

3. Không vui, với tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác.

4. Không vui, khi được cúng dường hơn cả ngoại đạo.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Danh dự, lợi dưỡng đều không mừng
Thân mạng, tài sản cũng như vậy
Không vui Thích, Phạm và hộ đời
Các cõi tà này, đều vô thường.
Không vui Duyên giác và Thanh văn
Chỉ một lòng hướng đến Tối thắng
Không thích ngoại đạo, thiền thế gian
Không ưa thân kiến và biên kiến.

Này thiện nam! Bồ-tát có bốn pháp ủng hộ tâm Nhất thiết trí:

1. Giảng giải phải nói đúng như pháp, trụ đúng như pháp, làm đúng như pháp.

2. Đối với các chúng sinh, tâm phải luôn bình đẳng.

3. Sinh tâm rất ham muốn.

4. Bảo vệ pháp lành.

Rồi Phật nói kệ:

Nói, làm, ngừng, nghỉ, đều như pháp
Chúng sinh cầu đạo, tâm bình đẳng
Bốn thắng pháp này, khéo an trụ
Đem lòng giữ đạo, không để mất.

Này thiện nam! Bồ-tát có bốn pháp, rất nên làm:

1. Tu tập việc nghe rộng.

2. Nhớ nghĩ điều nghe rộng.

3. Nói về điều được nghe.

4. Không thoái lui sự vắng lặng.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Luôn cần tu tập điều chưa nghe
Luôn luôn nhớ nghĩ điều nghe rộng.
Đối với nghe rộng thường xuyên nói
Siêng năng tu tập sẽ được thiền.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai pháp để định tâm Nhất thiết trí mà thực hành việc bố thí, đó là:

1. Chuyên tâm nhớ nghĩ về thiền định.

2. Xả bỏ, không mong cầu quả báo.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Đem tâm vui vẻ mà ban cho
Không mong quả báo khi đã cho
Tất cả đều bỏ, hướng Bồ-đề
Cho rồi, tâm định, chứng Bồ-đề.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai pháp, lấy Nhất thiết trí làm đầu, để tu trì Tịnh giới, đó là:

1. Đối với tất cả chúng sinh không có tâm làm tổn hại.

2. Sinh tâm đại Bi đối với người phá giới.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Không sinh tâm hại phá
Trên, dưới, giữa: Bình đẳng
Sinh nhiều lòng thương lớn
Với chúng sinh nghịch ác.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai pháp, lấy Nhất thiết trí làm đầu, để tu hạnh Nhẫn nhục, đó là:

1. Tự bỏ cái vui của mình.

2. Đem niềm vui cho người.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Không cầu vui cho mình
Vì lợi ích người khác
Nhẫn nhục được như vậy
Bồ-đề Phật, làm đầu.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai pháp, lấy Nhất thiết trí làm đầu, để tu hạnh Tinh tấn, đó là:

1. Tâm Bồ-đề làm đầu.

2. Không bỏ các chúng sinh.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Tất cả hạnh trong sạch
Lấy đạo tâm làm đầu
Không thấy ta, chúng sinh
Tinh tấn không hủy diệt.

Này thiện nam! Bồ-tát thành tựu hai pháp, lấy Nhất thiết trí làm đầu, để tu hành Thiền định, đó là:

1. Nhập định theo phương tiện.

2. Xuất thiền theo sức của bản nguyện.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Người dũng mãnh luôn khởi
Người trí hành thiền định
Chiến thắng các phiền não
Mãi luôn được thiền định.
Xuất thiền theo sức nguyện
Đáng là bậc Đạo sư
Người có đức như vậy
Chứng đắc nơi thiền định.

Này thiện nam! Bồ-tát thành tựu hai pháp, lấy Nhất thiết trí làm đầu, trí tuệ sẽ có:

1. Tự xa lìa các kiến.

2. Đoạn trừ tất cả kiến chấp của chúng sinh để tu hành trí tuệ.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Xa lìa các kiến chấp
Tu vì lợi chúng sinh
Thắng trí được hiện tiền
Trí an ổn hành đạo.

Này thiện nam! Bồ-tát thành tựu bốn pháp, Phương tiện sẽ có:

1. Đem lòng lành thương xót chúng sinh, làm việc để cứu độ.

2. Tấm lòng thương xót chân thật, không mỏi mệt.

3. Ưa thích đối với pháp, mà sinh lòng vui vẻ.

4. Xa lìa các phiền não, để không có khiếp nhược.

Đây là bốn.

Phật nói kệ:

Lòng từ không sân tức
Lòng bi không mệt mỏi
Dùng pháp sinh vui vẻ
Bỏ phiền não, không sợ.

Này thiện nam! Bồ-tát có bốn pháp không nhàm chán, đó là:

1. Nghe nhiều không nhàm chán.

2. Tu tập công đức mãi, vẫn không thỏa mãn điều cầu mong.

3. Ở chốn vắng lặng nhưng cũng chưa thỏa mãn điều cầu mong.

4. Hồi hướng cũng chưa đủ sự thỏa mãn mong cầu.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Tạo đức, nghe nhiều, chưa thỏa mãn
Ở chốn vắng lặng chưa thỏa mãn
Hồi hướng phước đức chưa thỏa mãn
Đó là Bồ-tát bốn không chán.

Này thiện nam! Bồ-tát có bốn pháp không đủ:

1. Bồ-tát nhớ nghĩ đến Phật ở thời quá khứ, mà suy nghĩ như vầy: “Chư Phật đều tu tập Bồ-đề tối thắng. Sao mình lại không tu tập?”

2. Nhớ nghĩ đến chư Phật ở đời vị lai, biết mình cũng có ở trong số đó.

3. Nhớ nghĩ Phật ở hiện tại.

4. Khi nhớ nghĩ Phật nên khởi lên suy nghĩ: “Chư vị Phật đã hiểu rất rõ tất cả các pháp, nên trong lúc nhớ nghĩ không có khiếp nhược”.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Nhớ nghĩ Phật quá khứ
Tâm trí không khiếp nhược
Phật kia đắc đạo quả
Sao mình lại không được.
Nghĩ đến Phật vị lai
Mình cũng trong số đó
Tinh tấn không dao động
Quyết định ở số này.
Hiện tại nhớ Đạo sư
Khi hành Bồ-tát đạo
Mình sẽ trừ phiền não
Chứng Bồ-đề vắng lặng.
Hiểu rõ tất cả pháp
Chỗ trụ như chỗ muốn
Không sinh tâm khiếp sợ
Tinh tấn sinh bội lần.

Này thiện nam! Bồ-tát có bốn pháp không thoái lui, đối với Đại thừa, đó là:

1. Tâm ấy như đất.

2. Tâm ấy như nước.

3. Tâm ấy như lửa. 4. Tâm ấy như gió.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Tâm giống như đất, nước
Tâm cũng như gió, lửa
Làm không làm như nhau
Không đắc đạo, không lui.

Này thiện nam! Bồ-tát có bốn pháp hiểu rõ vô ngã:

1. Bồ-tát suy nghĩ thế này: “Ta phải biết tất cả tư tưởng, hành động trong cảnh giới của các chúng sinh. Ta phải biết các căn trong cảnh giới của các chúng sinh, để vì họ mà nói pháp. Ta phải đoạn trừ tất cả phiền não trong cảnh giới của các chúng sinh, để vì họ mà thuyết pháp.

2. Trí Phật vô lượng, chúng ta cần phải hiểu rõ.

3. Thật chẳng phải thân ta cũng chẳng phải tâm ta, là có thể hiểu rõ được pháp này, các pháp lành của ta, mới có thể hiểu rõ pháp này.

4. Không có ngã, thì gọi là Bồ-tát.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Tâm, hành của chúng sinh
Là không thể nghĩ bàn được
Phiền não vọng phân biệt
Vọng tưởng sinh phải trái.
Trí Phật cũng như vậy
Vô lượng, không nghĩ bàn
Sức của Ta chẳng thể
Hiểu rõ nơi trí Phật
Phiền não khiến ngược lại
Không sắc, không thể thấy
Ta nên đoạn trừ hết
Rõ bày đạo giải thoát.

Này thiện nam! Bồ-tát có bốn pháp không có khiếp nhược:

1. Nguyện làm các căn lành.

2. Tu tập trí tuệ phương tiện.

3. Tu tập tín, tấn, niệm, lực.

4. Tin tưởng nơi đạo Vô thượng.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Khéo vui vẻ, thấm nhuần
Các hương, phương tiện tuệ
Tín, tấn, niệm và lực
Đạt được đạo giải thoát.
Bốn pháp trí tuệ này
Trì pháp không nhàm chán
Không mệt mỏi xa lìa
Cứu giúp cho thế gian.

QUYỂN HẠ

Này thiện nam! Có bốn pháp chướng ngại, Bồtát phải nên biết rõ, đó là:

1. Chê bai chánh pháp.

2. Bỏn sẻn với giáo pháp.

3. Ôm lòng tăng thượng mạn.

4. Tu định Vô sắc.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Có bốn điều chướng ngại
Tổn hại tâm Bồ-đề
Bồ-tát cần phải biết
Nên mau mau xa lìa.
Với chánh pháp: Chê bai
Học rộng mà bỏn sẻn
Tăng thượng mạn, cống cao
Nhập thiền định không tốt.
Nên hộ trì chánh pháp
Học rồi phải truyền dạy
Bỏ kiêu mạn, cao ngạo
Thiền định, xa lìa không.

Này thiện nam! Bồ-tát có bốn pháp cần phải mau chóng hành động, đó là:

1. Phải dùng sự hiểu biết để hành động, không dùng tâm cao ngạo.

2. Có căn lành thì đem hồi hướng đạo Bồ-đề, không nên hướng đến hạ thừa.

3. Đối với các cõi, không sinh tâm dính mắc. Nếu đã có dính mắc vào thì phải một lòng vì chúng sinh ở đó mà hóa độ.

4. Ngày đêm ba thời luôn luôn tu ba phần. Diệt trừ tội lỗi, để không tạo ác nghiệp ở đời sau.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Dùng trí hành động, không dùng mạn
Hồi hướng vô thượng, không hạ thừa
Người trí không tin, nơi các hữu
Phát tâm lợi ích cho chúng sinh.
Ngày đêm ba thời cũng như vậy
Ba phần hối lỗi, trước diệt ác
Không làm điều ác, tập việc lành
Người trí nên tu nghiệp lành này.

Này thiện nam! Bồ-tát có bốn pháp để được hoàn hảo, đó là:

1. Không tự khen mình.

2. Không coi thường người.

3. Xa lìa điều ác.

4. Trừ bỏ các tánh cao ngạo.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Không tự khen mình, chẳng khinh người
Điều ác đã làm nguyện sám hối.
Không cho mình cao rồi ngạo người
Giữ tâm ngay thẳng, tu hạnh lành.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai pháp mau chóng làm cho ngay thẳng chân chánh, đó là:

1. Nếu có ai hỏi điều gì, thì cứ như thật mà đáp.

2. Trước đã thấy điều gì, thì không nên che giấu.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Trả lời theo câu hỏi
Không giấu điều đã thấy
Thà xả bỏ thân mạng
Quyết không hề nói dối.
Ngay thẳng đối với pháp
Đấy là gốc hiền thiện
Người ấy được chân chất
Mau hiểu đạo Bồ-đề.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai pháp không có nịnh hót, dối trá, đó là:

1. Tuy được nhiều lợi dưỡng nhưng không muốn ca ngợi phước đức của mình.

2. Không được lợi dưỡng cũng không nên tự đề cao mình.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Tuy được nhiều lợi dưỡng
Không tự khen đức mình
Người trí không ham muốn
Không nịnh hót, để được.
Giả sử không lợi dưỡng
Là nghiệp mình vốn vậy
Không muốn hơn người khác
Để nghiệp kia thuần thục.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai pháp, không mong cầu người khác đền đáp, đó là:

1. Ta phải vì lợi ích cho chúng sinh chứ không bao giờ để cho chúng sinh làm lợi ích cho mình.

2. Ta cần phải hiểu biết, chỉ vì để giác ngộ.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Ta vì lợi chúng sinh
Gánh vác cho mọi người
Ta cầu đạo Vô vi
Không mong người trả báo.
Ta không cầu hữu vi
Chỉ cầu đạo Vô vi
Ta bảo vệ thế gian
Chẳng mong được đền đáp.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai pháp, việc không nên làm cần phải làm, đó là:

1. Đối với người không biết ân nghĩa nhưng vẫn thường giúp đỡ.

2. Đối với người biết ân nghĩa, càng phải gánh vác trọng trách.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Chúng sinh không biết ân
Không mong cầu đền đáp
Các ấm, giới và nhập
Đều làm vì Bồ-đề.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai pháp, nên đến những chỗ này, đó là:

1. Thường gặp chư Phật.

2. Thường gặp gỡ đãi ngộ các vị hàng Bồ-tát.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Hai chỗ thường nên gặp
Là nơi tăng chủng tánh
Thường gặp chư Như Lai
Bậc Bồ-tát, hiểu biết.

Này thiện nam! Bồ-tát có hai pháp, không nên tu, đó là:

1. Không cùng người tu hạnh Thanh văn ở chung.

2. Không sợ hãi những chỗ vắng vẻ, tăm tối.

Rồi Đức Phật nói kệ:

Không cùng ở chung với
Người tu hạnh Thanh văn
Không sợ hãi các nẻo
Nương nơi chỗ vắng lặng.

Này thiện nam! Đó gọi là mới nhập vào pháp căn bản Như Lai mật tạng. Bồ-tát nào, nếu nhập vào pháp căn bản ban đầu này, thì Bồ-tát đó có thể thành tựu được pháp Như Lai bí mật tạng.

Khi Thế Tôn thuyết pháp ban đầu nhập Như

Lai mật tạng này, có sáu vạn chúng sinh trời, người đều phát tâm Vô thượng chánh chân, có mười ngàn Bồ-tát đạt được Vô sinh pháp nhẫn. Có năm trăm Tỳ-kheo không nhiễm thọ các pháp, vĩnh viễn dứt trừ các nhơ bẩn, tâm được giải thoát. Khi ấy, tam thiên đại thiên thế giới, chấn động sáu cách, hào quang lớn chiếu khắp nơi âm nhạc trời, người không đánh tự kêu. Trời, Người, A-tu-la… đồng thanh xướng lên ba lần như vầy: “Chúng sinh nào được nghe pháp Như Lai Mật Tạng, chắc chắn được lợi ích an lành. Nếu có ai viết chép, thọ trì, đọc tụng, tu hành đúng như lời thuyết, thì các chúng sinh này, sẽ không mất pháp Như Lai bí mật tạng”.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương, nghe pháp Như Lai mật tạng này rồi, bèn suy nghĩ: “Ta nên dùng pháp gì, để cúng dường Đấng Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri”. Rồi lại nghĩ tiếp: “Vật ở ngoài dễ bỏ, vật bên trong khó bỏ. Ta nay nên dùng thân để cúng dường Như Lai, Thế Tôn”. Nghĩ rồi, liền bay lên hư không, nói kệ:

Con xin dùng thân này
Cúng dường Chánh Biến Tri
Dùng pháp Xả vô thượng
Nguyện như Bậc Đạo Sư.
Cúng dường Lưỡng Túc Tôn
Việc này không là khó
Cũng chẳng là hiếm có
Đó là thân cúng dường.
Con cúng Bậc Vô Đẳng
Dâng thân, Bậc Từ Nhãn
Vì trời, người cúng dường
Như sư tử trí lớn.

Bấy giờ, Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương liền phóng thân đến chỗ Như Lai. Trong lúc đang đi đến chỗ Như Lai nhờ thần lực của Phật nên có nhiều hoa kỳ lạ, với màu sắc đặc biệt khác lạ, chưa từng thấy rất là đẹp, rực rỡ, trang nghiêm, sạch trong rải trên Như Lai. Còn thân Bồ-tát này không rơi xuống đất, cũng không hiện ở hư không. Vì các loại hoa này, bay đến trên thân Phật, tức khắc trở về trụ trong hư không, biến thành tràng hoa lớn, phủ khắp bốn thiên hạ. Trong tràng hoa này, có loại hoa treo lủng lẳng, có hoa xâu thành dây, tất cả đều phát ra ánh sáng lớn. Trong hào quang này, lại hiện ra hoa sen tươi đẹp. Trên hoa sen, có các Bồ-tát ngồi, giống như Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương. Các Bồ-tát này từ trên hoa bước xuống, đảnh lễ sát chân Phật, đồng thanh cất lời thỉnh cầu: “Cúi xin Đức Thế Tôn, nói pháp Như Lai bí mật tạng, để cho chánh pháp không bị cắt đứt và để cho quyến thuộc bảo vệ Như Lai mật tạng”.

Bấy giờ, Đại đức Ca-diếp sinh tâm vui vẻ, ca ngợi điều chưa từng có và bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương, dùng thân trang nghiêm cúng dường Như Lai. Đã dùng thân cúng dường Như Lai rồi, Bồ-tát lại hiện ra các điều trang nghiêm. Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn, làm cho tất cả chúng sinh, cũng được thân trang nghiêm như vậy. Nguyện cầu Như Lai thường trụ ở đời. Bạch Thế Tôn! Chúng con hôm nay rất sung sướng, được lợi ích lớn, mới thấy Đại Trượng Phu và được nghe thuyết pháp.

Phật bảo Đại Ca-diếp:

–Ông thấy Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương không?

–Bạch Thế Tôn! Con đã thấy!

Phật nói:

–Ca-diếp! Thiện nam này đã ở hằng hà sa số chỗ của chư Phật, thường xuyên hỏi đáp luận bàn pháp Như Lai bí mật tạng; ở chỗ chư Phật trong hiền kiếp, cũng sẽ thưa hỏi pháp Như Lai bí mật tạng như vậy.

Đại Ca-diếp lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Lành thay! Cúi xin Thế Tôn trình bày, diễn nói pháp Như Lai bí mật tạng, như Bồ-tát này đã thưa hỏi vậy.

Phật bảo Đại Ca-diếp:

–Ông hãy chú ý lắng nghe, một ít phần giáo pháp Như Lai mật tạng. Vì sao? Vì nếu ở trong một kiếp, mà nói hết pháp này, thì không thể hết được.

Ca-diếp bạch:

–Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy.

Ca-diếp và đại chúng đều chuẩn bị lắng nghe lãnh nhận lời Đức Phật dạy:

–Này Ca-diếp! Ý ông thế nào? Ông cho rằng, khi ta hành đạo Bồ-tát, xả bỏ tay, chân, đầu, mắt, mũi, lưỡi, da, thịt, xương, tủy, máu mủ, vợ con; tóm lại là xả bỏ đến tất cả tài sản. Nơi nào, chốn nào, Bồ-tát cũng bị phiền não thúc ép. Các chúng sinh này, không đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ và các đường ác. Vì sao? Vì chí nguyện của Bồ-tát vốn trong sạch, đại thệ nguyện cũng trong sạch và có đầy đủ giới, nên đối với chúng sinh này chỉ thuần nhất với lòng thương xót lớn và lòng kiên nhẫn. Vì dùng lòng lành lớn, dùng pháp công đức lớn, kiên cường, tinh tấn, nhất định hướng đến Đại thừa, tự tâm trong sạch phát, nguyện lớn rộng rãi, không chỉ tự vui. Các chúng sinh nào, có quấy nhiễu xúc phạm, đánh chửi Bồ-tát, thì nhờ ân đức của Bồ-tát, vẫn không đọa vào đường ác.

Ca-diếp! Ta dẫn một ví dụ để ông hiểu rõ nghĩa này. Ví như có người bị bệnh, đến lương y cho thuốc nhưng người bệnh này lại chê bai cả thuốc và vị lương y. Trước thì chê bai thuốc, nhưng sau lại dùng thuốc. Ca-diếp! Ý ông thế nào? Thuốc bị chê bai, nên không là thuốc chăng? Bệnh không chữa được chăng?

–Bạch Thế Tôn! Không phải! Tuy bị chê bai nhưng dược tánh của thuốc không mất, nên có thể chữa lành bệnh được.

–Đúng vậy, Ca-diếp! Bồ-tát cũng giống như thuốc và vị lương y kia. Tuy không được cung kính và bị các phiền não bức bách nhưng Bồ-tát này vẫn thuần trong sạch, ý chí không bị khuyết giảm; giống như châu báu được thành tựu, là do tánh chất của nó đã được gạn lọc trong sạch, không có vết bẩn. Nên có trời, người chê bai không cung kính châu báu. Ca-diếp! Ý ông thế nào? Châu báu này bị chê bai có mất năng lực quý báu không?

–Bạch Thế Tôn! Không.

Phật nói:

–Ca-diếp! Châu báu trong sạch này giống như ý chí trong sạch của Bồ-tát kia vậy. Tất cả chúng sinh tuy không cung kính, nhưng công đức không bị tổn giảm. Giống như đèn dầu lớn, nếu có hàng trời, người phá hoại, nó có bị tối đen đi không?

–Bạch Thế Tôn! Không!

–Ca-diếp! Ý chí thuần sạch của Bồ-tát cũng như vậy. Tuy bị các não bức bách, nhưng không mất đặc tánh ấy. Ca-diếp! Do điều này, nên biết chúng sinh tuy có quấy nhiễu Bồ-tát nhưng không bị rơi vào đường ác. Vì sao? Vì do bản nguyện của Bồ-tát là trong sáng nên chỗ nguyện đó được thành tựu.

–Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu ý nghĩa lời Phật dạy, là nếu ai khởi lên nghiệp không tốt đối với Như Lai, thì chúng sinh đó cũng không sợ rơi vào đường ác.

–Đúng vậy, Ca-diếp! Nếu có chúng sinh nào, đối với lòng thương rộng lớn của Như Lai, mà sinh lòng tin tưởng, cung kính, tinh tấn thâm nhập, nếu Phật ở hiện tại hay sau khi Phật diệt độ, hoặc có cúng dường Như Lai và tháp; hoặc đem cờ đèn, tràng hoa, hương thơm để đốt để thoa; hoặc vật báu, y phục và thức ăn uống, tùy theo vật dụng ở mỗi nơi, hoặc lấy, hoặc ăn, hoặc tự mình lấy hay bảo người lấy. Ca-diếp! Ta vẫn nói người này, không có phạm tội. Ca-diếp! Bần cùng là điều khổ nhất. Vì không biết cung kính, nên làm việc cướp đoạt, không biết sợ hãi. Không tin tưởng cung kính nên không hiểu gì về nghiệp, không lo sợ quả báo. Vì lòng tham cầu nên khó điều phục. Nhiều tham, sân, si, không biết hổ thẹn, hung dữ, ngang tàn, ác độc; không suy nghĩ Như Lai có lòng đại Từ bi; không tin Như Lai làm nhiều lợi ích cho chúng sinh; nên lấy vật trong tháp Như Lai, cho đến dùng đủ mánh khóe hoặc tự mình lấy hoặc bảo người lấy. Ta nói người này, không phạm tội nhỏ nào. Ta nói người kia, không rơi vào đường ác. Ca-diếp! Nếu chúng sinh nào, đối với vật của Như Lai và vật cúng tháp Phật, mà tự lấy hay bảo người lấy.

Như Lai ắt biết người ấy, thấy được người ấy sẽ rơi vào nẻo ác. Lại dùng lý do này để cắt đứt các phiền não. Vì sao? Vì tâm hành của người này là muốn ủng hộ Phật. Ca-diếp! Nếu đối với Như Lai hoặc tháp của Như Lai, có lý do sinh tâm nhớ nghĩ cho đến khởi lên một chút lòng hối cải. Ca-diếp! Tâm chúng sinh này, sẽ tự hối cải. Vì duyên sinh tâm sám hối đối với Như Lai, nên họ lìa khỏi tất cả tội lỗi sinh tử, phiền não được bào mòn. Ca-diếp! Ví như có người rớt xuống mặt đất. Rớt xuống đất rồi, lại dựa vào đất mà đứng dậy được. Cũng vậy, Cadiếp! Chúng sinh nào đối với Như Lai sinh tâm không tốt rơi ngay vào đường ác. Đã rớt xuống đường ác rồi, nhờ có nhân duyên với Như Lai mà mau chóng được thoát khỏi tai nạn ấy. Vì sao gọi là nhờ có duyên với Như Lai. Vì họ đã có ân nặng đối với Như Lai.

Bấy giờ, Đại Ca-diếp bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Người này đã dùng tâm xấu ác như vậy, mà có thể sinh tâm nhớ nghĩ đến Như Lai để được lợi ích lớn, huống chi người có tâm trong sạch.

Phật bảo:

–Ca-diếp! Đúng như lời ông nói, nếu có chúng sinh nào, phát khởi một niệm với Như Lai, nhớ nghĩ đến Như Lai, quán tưởng Như Lai, thì tất cả đều sẽ chứng quả Niết-bàn.

–Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu lời Phật dạy là thà khởi nghiệp không tốt đối với Như Lai, còn hơn làm việc cúng dường, ban phát cho tà kiến, ngoại đạo. Vì sao? Vì nếu khởi nghiệp không tốt với Như Lai, còn có thể sám hối, cuối cùng chắc chắn đến Niết-bàn. Còn theo tà kiến, ngoại đạo, thì sẽ đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

–Này Ca-diếp! Đúng như lời ông nói, giả sử có hàng trời, người mạ nhục, muốn trừ khử hương chiên-đàn, nên dùng tay cao đánh, cho nó rớt xuống đất. Ca-diếp! Ý ông thế nào? Người như vậy, còn có hương gì không?

–Bạch Thế Tôn! Người đó vẫn còn hương chiên-đàn.

–Đúng vậy, Ca-diếp! Nếu có chúng sinh nào, dùng mắt thấy, tai nghe và miệng ca ngợi Như Lai. Nên biết, người này có hương giải thoát. Ca-diếp! Nếu có người cầm nắm phân ô uế, rồi dùng các loại ca nhạc, hương hoa, cúng dường Như Lai. Người như vậy có loại hương gì?

–Bạch Thế Tôn! Người này chỉ có mùi phân ô uế hôi thối.

–Đúng vậy, Ca-diếp! Người nào thân cận, cung kính, cúng dường các ngoại đạo; nên biết người đó cũng như vậy, mọi cái thấy đều sợ hãi, sợ ở địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Nếu thiện nam, thiện nữ nào, tin tưởng Như Lai có tấm lòng Từ bi rộng lớn, ân cần, tôn trọng, tin tưởng, cung kính, trừ diệt tâm cao ngạo, không có tham, sân và ngu si, ý chí quyết định, hiểu rõ nghiệp báo, chân thật không giả dối lừa gạt; có lòng tin đối với những cái có được trong sạch của Như Lai. Các căn không tham không dối trá quanh co; ý chí không hư hoại; thành tựu lòng tin trong sạch; tin Phật có lòng đại Bi, đem lợi ích lớn cho chúng sinh; tin bản hạnh Phật; tin tưởng nơi Như Lai, không bỏ tất cả chúng sinh; những người có tâm như vậy, có ý như vậy; giả sử còn thiếu các vật cần dùng như cơm, nước, thuốc men, nên chưa đắc đạo quả, chưa nhập chánh vị. Nếu được các vật cần dùng mà đắc đạo quả, nhập chánh vị. Hoặc có người đói khát, gầy ốm không thể tu thiện, không đắc đạo quả. Tất cả những người này, nếu lấy những vật cần dùng của Đức Phật như y phục, cơm nước, thuốc men để ăn mặc. Này Ca-diếp! Ta nói những người này, không bị quả ác. Ca-diếp! Đó gọi là pháp Bí mật tạng của Như Lai. Nên biết, để khéo léo bí mật thọ lãnh, giữ gìn, không nên trình bày trước những kẻ bị nhiễm vào chấp kiến, sẽ làm cho họ tăng nặng tà kiến.

Ca-diếp! Sao gọi là hiểu? Nghĩa là hiểu rõ tất cả pháp của Như Lai nói. Sao gọi là trói buộc? Cadiếp! Trói buộc là do tham đắm. Sao gọi là giải mở? Nghĩa là không tham đắm, không phân biệt có hai. Ca-diếp! Ta nay không nói điều vô trước này gọi là phạm. Vì sao? Ca-diếp! Vì phiền não yếu kém từ hư không sinh ra. Ca-diếp! Nếu điều đó không thật, không bị sinh thì gọi là thật. Ca-diếp! Ta đưa ra ví dụ, để trình bày điều không thật, việc vọng tưởng. Ca-diếp! Ví như có người, đem đốm lửa nhỏ như hạt cải, thổi cho nó lớn ra dần dần, thiêu đốt cả đồ vật, thành đống lửa lớn. Cũng vậy, Ca-diếp, người phàm phu ngu si, chỉ khởi một tí suy nghĩ giả dối bất chánh, chìm đắm, cố chấp, tùy theo sự vọng tưởng tùy vào các nơi, do đó mà tăng trưởng sự ràng buộc của phiền não. Ca-diếp! Nếu có lửa lớn như núi Tu-di, nhưng không dựa vào đâu cả. Ca-diếp! Ý ông thế nào? Lửa như vậy thì lan tràn hay tiêu diệt?

–Bạch Thế Tôn! Lửa này sẽ bị tắt, không có lan tràn.

–Ca-diếp! Các phiền não là ý tưởng giả dối, không thật. Nếu đã không khởi, không dính mắc, không vọng tưởng, không ưa thích, không phân biệt, sẽ dần dần tiêu diệt, không thể tăng trưởng. Ca-diếp! Do việc này, nên biết rõ phiền não là vọng tưởng, yếu kém, không thật, là không chân thật.

Ca-diếp! Ví như có người đến căn nhà có nhiều chất độc hại, dù không bị ngộ độc nhưng vì sợ hãi, ôm nỗi thống khổ, kêu lớn: “Tôi bị ngộ độc rồi, tôi bị ngộ độc rồi”. Các vị lương y giỏi đem thuốc không thật đến cho người bệnh này, để trị bệnh không thật, nên người này thoát khỏi các khổ. Cadiếp! Ý ông thế nào? Nếu vị lương y đó đem thuốc thật đến cho người này, thì người ấy có còn sống không?

–Bạch Thế Tôn! Không. Vì người này thật sự không ăn trúng độc, chỉ sinh tư tưởng ngộ độc, nên chỉ cần thuốc không thật để trị bệnh.

–Đúng vậy, Ca-diếp! Các hàng phàm phu bị khổ não vì phiền não không thật, cho nên Như Lai thuyết pháp không thật.

–Bạch Thế Tôn! Như Lai thuyết pháp không chân thật sao?

–Ca-diếp! Theo chỗ ông hiểu thì sự chân thật này là không chân thật sao?

–Bạch Thế Tôn! Theo con hiểu là không có chân thật. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì dùng không sạch để chống lại ham muốn. Từ Bi chống lại tức giận, nhân duyên chống lại ngu si. Bạch Thế Tôn! Nếu cái không sạch là thật thì không thể trừ cái ham muốn không thật; cũng chẳng phải ham muốn sinh cái thấy không sạch. Nếu ngu si là thật, khởi tâm ngu si rồi, thì chẳng phải nhân duyên chống lại được, cũng chẳng phải nhân duyên là có thể diệt trừ ngu si. Bạch Thế Tôn! Thế nên, tất cả trói buộc phiền não và pháp đoạn trừ phiền não, cả hai đều không thật, không vật, không định, không có thành tựu. Cho nên các phiền não đều không thật. Đến gần với không thật liền bị trừ bỏ. Bạch Thế Tôn!

Phiền não không đi. Vì sao? Vì nếu có trừ bỏ thì là có đi. Nếu đã có đi, liền có đến. Thế nên, bạch Thế Tôn! Tất cả những trói buộc của phiền não là không đi không đến. Vì vậy, nên biết tất cả pháp hữu vi là không đến, không đi, gọi đó là lìa phiền não.

–Ca-diếp! Như Lai mật tạng này nói tất cả pháp, tánh vốn trong sạch.

–Bạch Thế Tôn! Theo lời Như Lai nói, thì mười đường ác, tánh nó không nhơ, bản tánh nó sạch sao?

–Đúng vậy, đúng vậy! Ca-diếp. Vì sao? Vì không có quyền lực mà phạm tội sát sinh; không phải thân tín mà phạm tội trộm cướp; người có chủ, có bảo hộ mà phạm tội tà dâm; chẳng phải vì bảo vệ người khác mà phạm tội nói dối, chẳng phải vì điều phục mà phạm tội nói ác; chẳng phải vì sự phá hoại cao ngạo, khủng bố của tà kiến, ngoại đạo, mà phạm tội hai lưỡi; không vì thức ăn mà phạm tội nói thêu dệt; không dạy điều dối trá, xấu xa mà phạm tội tức giận, không có mong cầu tăng trưởng căn lành mà gọi là tham lam, không có gần gũi người có quyền lực, ý ít nói lời bất chánh mà phạm tội tà kiến. Ca-diếp! Mười đường ác này, nếu không chấp chặt, ta nói người kia không có lỗi. Cadiếp! Mười đường ác này, nếu không chấp chặt, gọi là không phạm. Như vậy, Ca-diếp, tất cả phiền não nếu không chấp chặt, ta nói không phạm. Cadiếp! Người không có sự dính mắc gọi là lìa kiến chấp.

–Bạch Thế Tôn! Trong mười nghiệp ác, thì cái nào là nặng nhất?

–Ca-diếp! Trong mười nghiệp ác này, sát sinh và tà kiến là nặng nhất. Ca-diếp! Các điều ác không tốt nó ở bất cứ nơi đâu. Nếu không trụ vững, không giữ vững, không nắm vững, thì tất cả ta đều nói là không phạm. Này Ca-diếp! Nếu có một ít nghiệp ác không tốt lành, mà trụ vững, giữ vững, nắm vững, ta gọi tất cả đó là phạm tội. Ca-diếp! Năm tội về vô gián, nếu không cố trụ vững, cố giữ vững, cố nắm vững, sinh tâm trụ nơi kiến, ta nói người kia phạm tội. Huống chi chỉ trừ ít nghiệp ác không tốt lành. Ca-diếp! Ta không dùng pháp không tốt lành, mà được Bồ-đề, cũng không dùng pháp lành mà được Bồ-đề. Ca-diếp! Nếu dùng pháp không tốt lành, mà được Bồ-đề thì các phàm phu cũng được Bồ-đề; còn nếu dùng pháp lành mà được Bồ-đề, thì tất cả cỏ, cây, rừng, đều bị thiêu đốt, sẽ được sinh trưởng trở lại. Ca-diếp! Ta hỏi ông, vì sao Như Lai chứng đắc Bồ-đề?

–Bạch Thế Tôn! Phật là pháp căn bản, Thế Tôn là mắt. Thế Tôn là chỗ dựa. Theo lời Thế Tôn mà cùng nhau thờ phụng tu hành.

Phật bảo:

–Ca-diếp! Hiểu rõ phiền não từ nhân duyên sinh gọi là đắc Bồ-đề. Ca-diếp! Sao gọi là hiểu rõ phiền não từ nhân duyên sinh? Hiểu rõ pháp khởi không tự tánh này, là pháp vô sinh. Hiểu như vậy, thì gọi là đắc Bồ-đề. Ca-diếp! Chỉ ví dụ danh từ, gọi là được Bồ-đề, chứ Bồ-đề này, không dùng văn tự, ngôn ngữ nói mà chứng đắc. Nếu không văn tự, không ngôn ngữ, không thuyết giảng, thì không đắc Bồ-đề. Đây là nghĩa thứ nhất. Ca-diếp! Theo lời ông hỏi, trong mười ác nghiệp, điều gì là nặng nhất. Ca-diếp! Ví như người có cha đắc đạo Duyên giác, người con giết cha, gọi là tội nặng trong giới sát sinh. Cướp đoạt vật của Tam bảo, gọi là tội nặng trong giới trộm cướp. Nếu lại có người mẹ xuất gia, đắc đạo La-hán, mà làm điều không trong sáng, đây là tội nặng trong giới dâm dục. Nếu dùng điều không thật chê bai Như Lai, gọi là tội nặng trong giới nói dối. Nếu nói hai lưỡi, làm tổn hại đến Hiền thánh Tăng, đấy là tội nặng trong giới nói hai lời. Nếu mạ nhục Thánh nhân là tội nặng trong giới nói lời ác. Nói lời xấu làm loạn người cầu pháp là tội nặng trong giới nói thêu dệt. Nếu mới phạm năm nghịch tội, là tội nặng của lòng sân tức. Nếu muốn cướp đoạt vật của người giữ giới trong sạch là tội nặng của lòng tham lam. Biên kiến là tội nặng của tà kiến.

Ca-diếp! Mười đường ác đạo này là nặng nhất. Ca-diếp! Như Lai biết mười ác nghiệp này là nặng nhất. Ca-diếp! Nếu có một người phạm đủ mười ác nghiệp này, mà nếu chúng sinh ác này, hiểu rõ pháp nhân duyên Như Lai đã nói, trong đó, không có thọ, mạng, chúng sinh, không nhân, không trượng phu, không ngã, không tuổi nhỏ, không người tạo nghiệp, không người thọ, người khởi, không người biết, không người thấy, không Phúcgià-la, không sinh, không diệt, không hành; đây là tận pháp, không nhiễm, không đắm, không tốt xấu, bản tánh trong sạch. Tất cả các pháp, bản tánh luôn trong sạch, phải hiểu rõ, tin tưởng, thâm nhập. Cadiếp! Ta không thuyết nẻo đến ác đạo, không thuyết quả ác đạo. Vì sao? Ca-diếp! Vì pháp không tích tụ, pháp không tập hợp, không não loạn. Cadiếp! Tất cả các pháp sinh diệt đều không trụ, chỉ do nhân duyên hòa hợp mà sinh khởi, khởi rồi lại diệt. Nếu tâm sinh diệt, thì tất cả ràng buộc của phiền não cũng sinh rồi diệt. Nếu hiểu như vậy thì không có phạm và chỗ để phạm. Nếu phạm mà có trụ, thì không có điều này. Ca-diếp! Ví như có cái nhà rất tối, đã trăm ngàn năm không thắp đèn, căn nhà tối tăm này, không có cửa ra vào hay cửa sổ, cho đến không có một lỗ nhỏ bằng cây kim, không có một ánh sáng nhỏ nào, của mặt trời mặt trăng, có thể lọt vào. Ca-diếp! Nếu trong căn nhà tối tăm đó, được đốt lên bởi ánh sáng của đèn, của lửa, thì bóng tối đó, có thể nói: “Ta ở đây đã trăm ngàn năm rồi, nay không bỏ đi nữa”.

–Bạch Thế Tôn! Không thể được. Vì khi thắp đèn lên, đương nhiên bóng tối sẽ tan mất.

–Đúng vậy! Ca-diếp! Đã tạo nghiệp chướng ở trong trăm ngàn vạn kiếp, nếu tin tưởng lời Như Lai, hiểu rõ pháp nhân duyên, tu hạnh quán sát, chuyên tu định tuệ, xem xét kỹ về không ta, không mạng, không người, không trượng phu… Ta nói người này không phạm, không chỗ phạm, không tập. Ca-diếp! Do đây nên biết, các phiền não rất là yếu kém, dùng trí tuệ đốt sáng, nó không thể tồn tại được.

Ca-diếp! Như Lai giảng nói Mật tạng trụ xứ vô thượng này, là rống to tiếng sư tử, chuyển bánh xe pháp trong sáng mà Trời, Người, Ma, Phạm không thể chuyển được. Nếu có chúng sinh nào, tin pháp Như Lai Bí Mật Tạng này, lãnh nhận giữ gìn như vậy, xem xét như vậy, thì người ấy cũng sẽ rống tiếng sư tử như vậy.

Khi ấy, Đại đức A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương này đã tự dùng thân mình cúng dường Như Lai, thì sẽ dùng thân nào để giác ngộ đạo Bồ-đề?

Bấy giờ, các Bồ-tát trong các đài hoa hỏi Anan:

–Ý ông thế nào? Có thể dùng thân để giác ngộ Bồ-đề sao? Này A-nan! Chớ nên nhận xét như vậy, phải dùng thân tâm để giác ngộ Bồ-đề.

A-nan hỏi:

–Các bậc Trượng phu nếu chẳng phải thân tâm giác ngộ Bồ-đề, thì nên dùng cái gì để giác ngộ Bồđề?

Các Bồ-tát đáp:

–Đại đức A-nan! Thật tánh của thân, là thật tánh Bồ-đề. Thật tánh Bồ-đề là thật tánh của tâm. Thật tánh tâm, tức là thật tánh tất cả pháp, hiểu rõ tất cả các thật tánh này, gọi là giác ngộ Bồ-đề.

Khi ấy, các vị Bồ-tát đang ở trên các đài hoa, đều đảnh lễ sát chân Đức Phật và bạch:

–Bạch Thế Tôn! Khi chúng con đến cõi đất này, thì Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương, mới đắc đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Các vị Bồ-tát ở trên các đài hoa đến cõi này, đã bao lâu rồi?

Phật bảo A-nan:

–Các vị Bồ-tát này đã đến chỗ chư Phật Như Lai ở phương dưới thế giới và hằng hà sa thế giới, thỉnh vấn pháp Như Lai bí mật tạng này đã nghe rồi hiểu nghĩa.

A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương, thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đã bao lâu?

Phật nói:

–A-nan! Ngàn Đức Phật đã xuất hiện, sẽ xuất hiện, trong hiền kiếp này. A-nan, Đức Như Lai cuối cùng, hiệu là Lô-chí. A-nan! Lô-chí Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Giác, chúng Thanh văn có rất nhiều. Chúng Thanh văn này tăng nhiều hơn chúng Thanh văn của chư Phật trước đó. Đức Lôchí Như Lai này thọ ký cho Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương, thành đạo Vô thượng. Bồtát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương, trải qua chín mươi tám kiếp sẽ được thành Phật, hiệu là Trang Nghiêm Vương, cũng ở trong cõi này, chứng đắc đạo Vô thượng. Khi Đức Như Lai Trang Nghiêm Vương ngồi ở cõi này, thì các vị Bồ-tát ở trong các đài hoa mới đến cõi này, mới được nghe pháp Như Lai mật tạng này.

A-nan! Khi ấy, thế giới của Như Lai Trang Nghiêm Vương gọi là Vô lượng công đức trang nghiêm. A-nan! Tất cả cung điện các trời đều ở cõi Dục, trong cõi Phật Trang Nghiêm Vương có một đài báu, là thế giới Ta-bà, bấy giờ gọi là cõi Diệu hảo sắc. A-nan! Thọ mạng của Như Lai

Trang Nghiêm Vương là một trăm kiếp. Sau khi Phật diệt độ, chánh pháp trụ đời đủ mười kiếp, chỉ thuần là Bồ-tát tăng.

Khi nói lời thọ ký Như Lai Trang Nghiêm Vương rồi, lọng hoa phía trên Phật, liền biến mất. Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương hiện ra đứng phía trước Đức Phật.

Bấy giờ, A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Bảo vệ và giữ gìn pháp này thế nào, để cho pháp được trụ lâu dài ở cõi Diêmphù-đề, lớn mạnh và lưu truyền cùng khắp, làm cho các bậc Trượng phu, có thể giữ gìn pháp Như Lai mật tạng, thành tựu các công đức mà chứng được pháp này.

Khi ấy, Thế Tôn bảo A-nan:

–Giả sử, tánh bốn đại đều biến đổi, tất cả không phải là trương phu, không nghe pháp này, mà cả đời ôm lấy, cũng chẳng ích gì. A-nan, nếu người viết chép, lãnh giữ, đọc tụng thì nên biết, người này đã thọ trì pháp của Như Lai. A-nan! Nếu có người, dùng tay phải cầm bảy báu có đầy khắp hằng hà sa cõi Phật; tay trái cũng cầm bảy báu có đầy khắp hằng hà sa cõi Phật; suốt ngày ba lần, đêm ba lần, đem nó ra ban phát. Người này không lúc nào ngừng nghỉ, trải qua hằng hà sa kiếp. A-nan! Công đức ban phát của người này rất lớn, nhưng nếu có người nào, viết chép, lãnh giữ, đọc tụng kinh điển này, thì công đức tạo ra sẽ hơn người ở trên rất nhiều. Cho nên, A-nan! Các ông nên thọ trì, đọc tụng kinh này, làm cho nó trở thành Pháp khí được khắp nơi nghe biết. Những vị này mới đúng là thọ trì pháp Như Lai bí mật tạng.

Phật nói kinh này rồi, Bồ-tát Vô Lượng Chí Trang Nghiêm Vương, Đại đức A-nan, Đại đức Ca-diếp, tất cả đại chúng, Trời, Người, A-tu-la… nghe Phật nói vậy, đều rất vui mừng.


[Đầu trang]


[Mục lục bộ Kinh tập][426][427][428][429][430][431][432][433][434][435][436][437][438][439][440][441][442][443][444][445][446][447][448][449][450][451][452][453][454][455][456][457][458][459][460][461][462][463][464][465][466][467][468][469][470][471][472][473][474][475][476][477][478][479][480][481][482][483][484][485][486][487][488][489][490][491][492A][492B][493][494][495][496][497][498][499][500][501][502][503][504][505][506][507][508][509][510][511][512][513][514][515][516][517][518][519][520][521][522][523][524][525][526][527][528][529][530][531][532][533][534][535][536][537][538][539][540][541][542][543][544][545][546][547][548][549][550][551][552][553][554][555][556][557][558][559][560][561][562][563][564][565][566][567][568][569][570][571][572][573][574][575][603][604][605][606][607][608][609][610][611][612][613][614][615][616][617][618][619][620][621][622][623][624][625][626][627][628][629][630][631][632][633][634][635][636][637][638][639][639][640][641][642][643][644][645][646][647][648][649][650][651][652][653][654][655][656][657][658][659][660][661][662][663][664][665][666][667][668][669][670][671][672][673][674][675][676][677][678][679][680][681][682][683][684][685][686][687][688][718][719][720][721][721][722][723][724][725][726][727][728][729][730][731][732][733][734][735][736][737][738][739][740][741][742][743][744][745][746][747A][747B][748][749][750][751][752][753][754][755][756][757][758][759][760][761][762][763][764][765][766][767][768][769][770][771][772][773][774][775][776][777][778][779][780][781][782][783][784][785][786][787][788][789][790][791][792][793][794A][794B][795][796][797A][797B][798][799][800][801][802][803][804][805][806][807][808][809][810][811][812][813][814][815][816][817][818][819][820][821][822][823][824][825][826][827][828][829][830][831][832][833][834][835][836][837][838][839][840][841][842][843][844][845][846][847]


[Mục lục tổng quát]