TẠNG KINH
BỘ KINH TẬP (425-847)
SỐ 658-KINH BẢO VÂN
Hán dịch: Đời Lương, Tam tạng Mạn-đà-la Tiên, người Phù Nam.
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật ở trên đỉnh núi Già-da cùng với bảy vạn vị đại Tỳ-kheo Tăng hội đủ. Những vị ấy việc cần làm đã làm xong, bỏ các gánh nặng, thân tâm tự tại, dứt các ràng buộc, chánh kiến giải thoát, như Đại long hiểu rành pháp giới, là con của Pháp vương, xả bỏ lợi dưỡng, hoàn thiện hạnh xuất gia, khéo thọ trì giới Cụ túc, những thứ mong muốn đều được viên mãn, trụ đạo Niết-bàn; chỉ trừ Tôn giả A-nan là còn ở bậc Hữu học.
Lại còn có tám vạn bốn ngàn Đại Bồ-tát đều là những vị Nhất sinh bổ xứ hướng đến Nhất thiết trí, không còn thoái chuyển, chí cầu Phật địa gần đến bờ kia, đạt được các pháp Đà-la-ni nhiều như atăng-kỳ, sớm chứng đắc các thiền, Tam-muội Thủlăng-nghiêm, thần thông diệu dụng, tâm đại Từ bi rộng lớn biến khắp mười phương, cho đến thực hành cảnh giới “không” ở vô lượng, vô biên cõi Phật, dứt trừ những sự ngăn che, dứt gốc rễ ba độc, dạo chơi nhà vô tướng, hằng muốn cứu giúp tất cả chúng sinh biết rõ thế giới của chư Phật, được trí vô ngại, tâm như hư không, rộng sâu như biển, giống như núi Tu-di, tám thứ gió thổi chẳng động, tâm như hoa sen chẳng dính bụi nước, ý như châu báu trong ngoài sáng rỡ, như vàng ròng không còn tạp chất.
Những vị ấy tên là Bồ-tát Bảo Quang, Bồ-tát Bảo Chưởng, Bồ-tát Bảo Ấn Thủ, Bồ-tát Bảo Thiên Quan, Bồ-tát Bảo Man, Bồ-tát Bảo Tích, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Bảo Sơn Đảnh, Bồ-tát Bảo Tràng, Bồ-tát Kim Cang Thai, Bồ-tát Kim Thai, Bồ-tát Bảo Thai, Bồ-tát Công Đức Thai, Bồtát Tịnh Vô Cấu Thai, Bồ-tát Như Lai Thai, Bồ-tát Trí Thai, Bồ-tát Nhật Thai, Bồ-tát Tam-muội Thai, Bồ-tát Liên Hoa Thai, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt, Bồ-tát Phổ Nguyệt, Bồ-tát Quan Thế Âm, Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Phổ Nhãn, Bồ-tát Liên Hoa Nhãn, Bồ-tát Đại Nhãn, Bồ-tát Phổ Oai Nghi, Bồtát Phổ Đoan Nghiêm, Bồ-tát Phổ Hạnh, Bồ-tát Tri Định Ý, Bồ-tát Pháp Ý, Bồ-tát Thắng Ý, Bồ-tát Tăng Trưởng Ý, Bồ-tát Kim Cang Ý, Bồ-tát Sư Tử Thần Thông, Bồ-tát Đại Âm Thanh Vương, Bồ-tát Sư Tử Hống Ý, Bồ-tát Thâm Âm Thanh, Bồ-tát Vô Nhiễm Ô, Bồ-tát Ly Nhất Thiết Cấu, Bồ-tát Nguyệt Quang, Bồ-tát Nhật Quang, Bồ-tát Trí Quang, Bồ-tát Trí Công Đức, Bồ-tát Nguyệt Công Đức, Bồ-tát Liên Hoa Công Đức, Bồ-tát Bảo Công Đức, Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi, cùng mười sáu vị Hiền sĩ như Đại sĩ Bà-đà-bà-la…
Trong hiền kiếp, Bồ-tát Di-lặc là Thượng thủ nơi một ngàn Đại Bồ-tát. Chư Thiên ở cõi Tứ Thiên vương, Tứ Thiên vương là thượng thủ. Chư Thiên ở cõi Đao-lợi, Đế Thích là thượng thủ. Cõi trời Diệm-ma, Diệm-ma là thượng thủ. Trời Đâusuất-đà, Thiên vương Đâu-suất-đà là thượng thủ. Chư Thiên cõi Hóa lạc, Thiên vương Hóa lạc là thượng thủ. Chư Thiên cõi Tha hóa tự tại, Thiên vương Tha hóa tự tại là thượng thủ. Chư Thiên cõi Thiện đảng, Tát-đà là thượng thủ. Trong tất cả các Phạm thiên, Đại phạm vương là thượng thủ. Chư Thiên cõi Thủ đà hội, Ma-hê-thủ-la là thượng thủ. Cùng với A-tu-la vương Tỳ-ma-chất-đa, A-tula vương Bà-trĩ, A-tu-la vương La-hầu… vô lượng trăm ngàn ức A-tu-la vương; Long vương A-na-bàđạt-đa, Long vương Ma-na-tư, Long vương Bàgià-la, Long vương Nan-đà, Long vương Hòa-tucát, Long vương Đức-xoa-ca cùng trăm ngàn ức rồng, các rồng con, các rồng thể nữ… như vậy có đến trăm ngàn vạn ức chúng.
Tám bộ chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thátbà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân và phi nhân… trăm ngàn vạn ức chúng đều đến tập hội.
Bấy giờ, trên đỉnh núi Già-da vuông vức bốn do-tuần, người người đông đúc chen chúc, từ mặt đất lên hư không, đại chúng nhiều như vi trần. Chính giữa đỉnh núi là tòa Sư tử cao một do-tuần, rộng nửa do-tuần, được phủ che do tám ngàn Thiên y, trang nghiêm, sáng rực, lộng lẫy bậc nhất. Mặt đất bằng phẳng biến thành kim cương, được rưới lên một loại nước thơm tinh khiết, bên trên được trang hoàng các tua cờ, lụa, vô lượng hoa trời rơi đầy trên ấy.
Hai bên tòa Sư tử mọc các hoa sen lớn như bánh xe gồm trăm ngàn vạn cánh, cọng làm bằng chân kim, lưu ly xanh biếc làm đài, nhân đà ni làm nhụy, thơm sạch, hợp ý, rất thích thú khi chạm vào. Những bông hoa tuyệt diệu như vậy dùng để cúng dường Phật. Ở bốn góc tòa Sư tử đều mọc cây báu cao mười lăm lý, tàng cây che phủ nửa do-tuần.
Tòa Sư tử được trang nghiêm như vậy, Đức Phật an tọa trên đó, tâm ý thanh tịnh, khéo chuyển bánh xe pháp, hàng phục ma oán, không bị tám pháp làm nhiễm ô, đạt Vô sở úy, trí biện tài thông suốt, tâm chẳng khiếp nhược giống như sư tử, ý hành thanh tịnh như ao sâu trong mát, rộng lớn như biển hay sinh ra các thứ báu, như núi Tu-di nổi bật nơi biển cả, như mặt trời chiếu sáng rực rỡ khắp nơi, như trăng tròn làm mát mẻ tất cả, mưa pháp lớn như Long vương làm mưa, như Đại Phạm thiên hiển hiện giữa chúng.
Vô lượng đệ tử đều đã điều thuận, vô lượng Thích, Phạm, Tứ Thiên vương… chiêm ngưỡng Đức Thế Tôn tâm không dao động.
Đức Thế Tôn như mặt trời trang nghiêm với các thứ báu, có khả năng chiếu sáng làm cho đại chúng ấm áp. Khi ấy, sắc thân an hòa của Đức Thế Tôn sáng dịu ấm áp lan tỏa khắp cả đại chúng, như vật báu trang nghiêm. Từ đinh đầu, Đức Thế Tôn phóng ra luồng hào quang gọi là Châu biến, tỏa khắp trăm ngàn thế giới với vô lượng ánh sáng làm quyến thuộc. Ánh sáng ấy chiếu soi tận mười phương, xoay quanh Phật ba vòng rồi nhập vào kim khẩu, nhưng tất cả vẫn không thay đổi. Ví như trăng sáng chiếu khắp hư không mà hư không vẫn bình thường, ánh sáng vào từ miệng Thế Tôn cũng lại như vậy. Ví như đổ dầu lên đống cát vẫn không thấy tăng giảm, ánh sáng vào kim khẩu của Phật cũng lại như vậy.
Bấy giờ, cách cõi này vô lượng hằng hà sa thế giới về phương Đông có quốc độ tên là Liên hoa tự tại, Đức Phật ở thế giới ấy tên là Liên Hoa Nhãn gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn đang vì các Bồ-tát giảng nói pháp Nhất thừa.
Cõi đó không có danh hiệu Thanh văn, Bíchchi-phật. Các chúng sinh nơi ấy đều hướng đến đạo quả Bồ-đề vô thượng, tâm không còn thoái chuyển, không dùng đoàn thực mà chỉ dùng pháp hỷ thực, thiền duyệt thực…
Cõi ấy tuy có mặt trời, mặt trăng, tinh tú nhưng không lấy đó làm ánh sáng mà chỉ dùng hào quang tỏa ra của Đức Phật.
Cõi ấy đất bằng phẳng như bàn tay, không có núi rừng, gai góc hiểm trở.
Cõi ấy có Đại Bồ-tát tên là Trừ Nhất Thiết Cái Chướng, nếu ai nghe được danh hiệu của Bồ-tát này thì tất cả tội chướng đều dứt sạch.
Khi được ánh sáng kia chạm vào thân, Đại Bồtát Trừ Nhất Thiết Cái Chướng lập tức đến chỗ Phật Liên Hoa Nhãn, đảnh lễ đầu mặt chạm đất, rồi lui ra một bên ngồi trên hoa sen. Lại có vô lượng Bồ-tát cũng chạm được ánh sáng kia, đều đi đến chỗ Phật, đảnh lễ đầu mặt sát đất xong lui ra ngồi một bên.
Bồ-tát Trừ Nhất Thiết Cái Chướng từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, trịch bày vai phải, gối phải quỳ chấm đất, chắp tay hướng về Đức Phật, bạch:
–Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì có ánh sáng này? Người gặp ánh sáng này tâm ý đều được diệu lạc, ánh sáng như vậy từ đâu chiếu đến?
Phật Liên Hoa Nhãn đáp:
–Này thiện nam! Ở phương Tây có thế giới tên là Ta-bà, Đức Phật tên là Thích-ca Mâu-ni gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Ai nghe danh hiệu của Đức Phật ấy cũng đều đạt được không thoái chuyển. Ánh sáng như vậy từ chỗ Đức Phật ấy chiếu đến.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà nghe danh hiệu của Đức Phật ấy đều đạt được bất thoái chuyển, hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?
Đức Phật Liên Hoa Nhãn lại bảo Bồ-tát Trừ Cái Chướng:
–Đức Phật ấy khi hành đạo Bồ-tát, phát thệ nguyện: “Nếu ta thành Phật, ai nghe được danh hiệu của ta thì đều phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đạt được bất thoái chuyển.”
Bồ-tát Trừ Cái Chướng lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu ai nghe danh hiệu của Đức Phật ấy cũng đều phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đạt được bất thoái chuyển như vậy, chắc chúng sinh nơi cõi ấy đều đã đạt được hết rồi chăng?
Đức Phật Liên Hoa Nhãn đáp:
–Này thiện nam! Có người đạt được và cũng có người không đạt được.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng lại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Do chúng sinh nơi cõi ấy không nghe được danh hiệu của Phật kia chăng?
Đức Phật Liên Hoa Nhãn đáp:
–Này thiện nam! Tất cả đều nghe được.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chúng sinh nơi cõi ấy đều được nghe danh hiệu của Phật tại sao có người đạt được, có người không đạt được không thoái chuyển?
Đức Phật Liên Hoa Nhãn đáp:
–Này thiện nam! Chúng sinh nơi cõi ấy đều là Bất thoái chuyển, cũng chẳng phải là Bất thoái chuyển.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Vì sao đều là Bất thoái chuyển, cũng chẳng phải là Bất thoái chuyển?
Đức Phật Liên Hoa Nhãn đáp:
–Này thiện nam! Người nghe danh hiệu của Đức Phật ấy tuy được chủng tử Bất thoái chuyển, nhưng vì nhân duyên chưa đầy đủ, hành chưa đầy đủ nên không được thọ ký. Này thiện nam! Vì ông, ta nói ví dụ: Ví như trồng cây, hạt giống ấy không bị hư lép, đầy đủ nhân duyên để nảy mầm. Vậy nên nói là mọc hay không mọc?
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nên nói là mọc.
Đức Phật Liên Hoa Nhãn dạy:
–Này thiện nam! Người nghe danh hiệu Đức Phật ấy được chủng tử Bất thoái chuyển, nếu nhân duyên đầy đủ liền được thọ ký.
Đại Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn đến thế giới Ta-bà để cung kính, lễ bái Đức Phật Thích-ca Mâuni.
Đức Phật Liên Hoa Nhãn liền dạy:
–Này thiện nam! Nay thật đúng lúc, ông nên đến đó lễ bái, cúng dường.
Các Bồ-tát có mặt ở đấy cũng bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Chúng con cũng muốn theo Bồ-tát Trừ Cái Chướng đến thế giới Ta-bà để lễ bái, cung kính, tôn trọng, tán thán Đức Phật Thích-ca Mâu-ni.
Đức Phật Liên Hoa Nhãn bảo các Bồ-tát:
–Nay thật đúng lúc, các ông nên đến đó, chớ sinh tâm thấp kém buông lung. Vì sao? Vì chúng sinh ở cõi ấy rất nhiều tham dục, sân hận, ngu si, không cung kính Sa-môn, Bà-la-môn, ưa làm việc phi pháp, tâm ý thô lỗ, dối trá, ác khẩu, rất cứng cỏi, khó điều phục. Lại tham lam keo kiệt, ganh ghét, lười nhác, buông lung, phá giới, bị vô lượng phiền não trói buộc. Ở trong cõi xấu ác như vậy,
Đức Phật Thích-ca đã vì họ thuyết giảng chánh pháp.
Các Bồ-tát bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Đức Phật Thích-ca Mâuni thật là hiếm có, trong thế giới chúng sinh xấu ác như vậy mà Đức Phật luôn vì họ thuyết giảng chánh pháp.
Đức Phật Liên Hoa Nhãn bảo:
–Này thiện nam! Đúng như lời các ông nói, hiếm có ai như thế, Đức Phật Thế Tôn ấy thường ở chỗ chúng sinh ác mà giảng nói chánh pháp cho họ. Ở thế giới ác đục đó, ai có thể khởi lên một niệm thiện cũng khó. Vì sao? Vì chúng sinh ở cõi thanh tịnh giữ lòng tin, tu thiện chẳng khó. Còn ở thế giới ác, trong khoảng thời gian khảy móng tay ai có thể phát sinh lòng tin, quy y Phật, Pháp, Tăng, khéo tu trì giới, khởi tâm lìa dục, sinh lòng từ bi, phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng
Chánh giác, thật là rất khó.
Các Bồ-tát bạch Phật:
–Thật là hy hữu, bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu, bạch Thiện Thệ!
Trong các Bồ-tát này thì Đại Bồ-tát Trừ Cái Chướng là thượng thủ. Đại Bồ-tát Trừ Cái Chướng cùng các Bồ-tát ghi nhận lời Phật dạy, vui mừng vô hạn, đảnh lễ dưới chân Phật rồi tất cả trở về chỗ cũ.
Các vị Bồ-tát ấy mang theo đầy đủ cây, hoa, quả báu để dâng cúng: Có vị mang cây bằng lưu ly, có vị mang cây bằng pha lê, có vị mang cây bằng vàng, có vị mang các cây báu, có vị mang cây hoa, có vị mang cây quả, có vị mang y báu, có vị mang vòng xuyến anh lạc, có vị mang mây thơm, có vị mang mây tràng hoa, có vị mang mây lọng báu, có vị mang mây cờ phướn báu, có vị mang mây âm nhạc… Tất cả Bồ-tát đều tập hợp lại, cùng Đại Bồ-tát Trừ Cái Chướng đi đến thế giới Ta-bà.
Đại Bồ-tát Trừ Cái Chướng bảo các Bồ-tát:
–Chúng sinh ở thế giới Ta-bà kia chịu nhiều khổ não. Các ông nên hiện bày diệu lực thần thông khiến cho họ đạt được an lạc.
Các Bồ-tát nói:
–Thưa vâng.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Trừ Cái Chướng dùng diệu lực thần thông, từ thân phát ra ánh sáng thanh tịnh vô cấu chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới cùng với cõi Ta-bà, soi tỏa đến các chốn địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, Diêm-la vương. Những chúng sinh khổ não ở các nơi ấy nhờ ánh sáng chạm vào thân nên đều được an lạc, tham dục, sân hận được dứt sạch, vì tâm Từ của Đại Bồ-tát thương xót chúng sinh như cha mẹ thương con. Những nơi tối tăm nhất trong tam thiên đại thiên thế giới, ánh sáng của mặt trời, mặt trăng không thể chiếu đến, nhờ ánh sáng của Bồ-tát nên chúng sinh ở các chốn ấy được thấy nhau. Các chốn u tối nơi núi Thiết vi, núi Đại thiết vi, núi Mục-chân-lân-đà, núi Đại mục-chân-lân-đà cùng những chỗ tăm tối nơi các núi khác trong tam thiên đại thiên thế giới cũng được ánh sáng của Bồ-tát Trừ Cái Chướng soi chiếu tới, trên lên đến tận cõi Phạm thiên, dưới thấu tận địa ngục A-tỳ. Ánh sáng của Bồ-tát tỏa khắp khoảng không như vậy, cùng với ánh sáng từ thân các Bồ-tát kia phóng ra, nhờ đấy, người đói được ăn, người khát được uống, người không có áo được áo, người nghèo được của, người mù được thấy, người điếc được nghe, người câm được nói, người què được đi, người điên được tỉnh, người khổ được vui, những người mang thai sinh sản được an ổn…
Đang lúc các đau khổ được tiêu trừ thì chư Bồtát thuộc thế giới Liên hoa tự tại cũng vừa đến đỉnh núi Già-da. Lưới báu che khắp tam thiên đại thiên thế giới. Nơi hư không mây hoa sen, mưa hoa sen; mây diệu quả, mưa trái đẹp; mây vòng hoa, mưa vòng hoa; mây hương, mưa hương; mây hương bột, mưa hương bột; mây vải lụa lạ, mưa vải lụa lạ; mây hương xoa, mưa hương xoa; mây y phục, mưa y phục; mây lọng báu, mưa lọng báu; mây cờ báu, mưa cờ báu; mây phướn báu, mưa phướn báu… Tùy theo các loại mây như vậy mà mưa xuống. Khi giọt mưa chạm vào thân ai thì người đó cảm thấy mát dịu an lạc.
Lúc này, mọi hầm hố, gò đất nổi trên núi Giàda tự nhiên bằng phẳng. Các cây cối trên núi biến thành rừng cây quý như chiên-đàn, trầm thủy, các cây có mùi thơm trang nghiêm khắp nơi. Trăm ngàn nhạc trời ở giữa hư không chẳng đánh mà tự tấu lên, các âm thanh ấy hòa quyện vào nhau phát ra kệ:
Sinh nơi Lâm-tì-la
Chẳng do nghiệp trói buộc
Đặc biệt chẳng ai bằng
Nay con đảnh lễ Ngài.
Tâm bình như hư không
Đến nơi núi Già-da
Con quy y Tối Tôn
Đấng Giác Ngộ vô thượng.
Ngồi nơi cội Bồ-đề
Khi mới thành Chánh giác
Chỉ đất để làm chứng
Ma oán đều lui tan.
Nay con đến Già-da
Đảnh lễ Đấng Vô Cấu
Thế gian đều huyễn hóa
Như bọt nước, đóm lửa.
Như ánh trăng trong nước
Pháp tướng cũng như vậy
Nay con đến nơi này
Kính lễ cây chánh trí.
Giống như người thợ giỏi
Khéo hiện các quyền biến
Các pháp nhiều vô số
Giống như ngựa trời hồng.
Cung kính lễ bất động
Kho công đức sâu kín
Con nay từ đó lại
Kính lễ Đấng Vô Thượng.
Khởi hết lòng đại Bi
Vô lượng trăm ngàn kiếp
Tu tập giới, định, tuệ,
Tích tụ các nghiệp thiện.
Nay con từ đó lại
Lễ đấng Mặt trăng tịnh
Trăm ngàn ức Bồ-tát
Vô lượng chúng chư Thiên.
Đều từ đó đến đây
Vì lễ đấng trừ ám
Đạt được pháp thục tạng
Từ bi vì chúng nói.
Đấng hay làm lợi ích
Cao quý không ai bằng
Từ kia con đến đây
Kính lễ Bậc Chánh Giác.
Từ bi cứu chúng sinh
Vắng lặng mà trong sáng
Như sen chẳng vướng nước
Tâm chẳng nhiễm phiền não
Nay con đến quy mạng
Kính lễ Đức Tối Thắng.
Thân thanh tịnh vô cấu
Hình tướng như hoa nở
Tám mươi đẹp làm quả
Thế gian được nương nhờ.
Nay con từ đó lại
Kính lễ đấng cây báu
Đủ vô lượng cành lá
Chúng con đều cúng dường.
Bấy giờ, Tôn giả Mục-liên từ chỗ ngồi đứng dậy, bày vai phải, quỳ gối chắp tay, bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Nay con nghe âm thanh của kệ tụng vi diệu mà chẳng thấy hình bóng người nói đâu cả!
Đức Phật bảo Tôn giả Mục-liên:
–Về phương Đông, cách đây vô lượng hằng hà sa cõi Phật có thế giới Liên hoa, Đức Phật ở cõi ấy hiệu là Liên Hoa Nhãn đang vì đại chúng thuyết pháp. Cõi đó có Đại Bồ-tát tên là Trừ Cái Chướng cùng với vô lượng trăm ngàn ức Bồ-tát cùng đi tới thế giới Ta-bà. Vì muốn đến cung kính, lễ bái ta và chí tâm nghe pháp nên các Bồ-tát nói ra kệ tụng này.
Phật vừa nói xong thì các Bồ-tát đến trước Phật. Trong các vị Bồ-tát đó thì Đại Bồ-tát Trừ Cái Chướng là thượng thủ, tất cả đều đầu mặt đảnh lễ sát chân Phật, rồi lui ra đứng qua một bên, chắp tay hướng về Đức Phật Thích-ca dùng kệ tán thán:
Kính lễ đại danh xưng
Đấng đầy đủ trí tuệ
Kính lễ đại tinh tấn
Mâu-ni Tôn tối thắng.
Hay cứu giúp ba cõi
Vượt qua bờ phiền não
Thần quang chiếu thế gian
Kính lễ đấng cao tột.
Bốn phương mong soi sáng
Chiếu khắp đều giải thoát
Kính lễ đấng Vô thượng
Bất động như sơn vương.
Rộng sâu như biển lớn
Trí tuệ không thể lường
Tất cả các ngoại đạo
Không thể nhiễu loạn được.
Nay con cúi đầu lễ
Kính lễ đấng Pháp vương
Đạo tịch diệt bậc nhất
Không sinh cũng không diệt.
Thể tướng như Niết-bàn
Kính lễ thuyết Pháp vương
Đấng hay chuyển pháp luân
Hiện bày đạo chân chánh.
An trụ nơi chân đế
Khai diễn đạo Niết-bàn
Và thọ ký Bồ-đề
Khéo biết tướng các pháp.
Cùng các tánh phiền não
Tu hành như lời nói
Với luật nghi quan sát
Các tham dục, sân hận.
Vô lượng tâm cấu uế
Tất cả các chướng ngại
Ở nơi cội Bồ-đề
Dùng lửa trí thiêu tận.
Hóa độ các chúng sinh
Tự độ mình, độ người
Giữa đồng trống sinh tử
Dốc sức cứu chúng sinh.
Mê ngủ hôn ám nặng
Quay cuồng trong ba cõi
Khuyên bảo sớm giác ngộ
Hướng đến chỗ quy y.
Sẽ được làm thân hữu
Hoàn toàn không phóng dật
Theo nhau đến chỗ Ngài
Đều trụ vào giác ngộ
Vì muốn nghe chánh pháp
Nguyện sớm được giải thoát.
Sau khi Đại Bồ-tát Trừ Cái Chướng dùng kệ khen ngợi Đức Phật, Phật bảo các Bồ-tát trở về chỗ cũ. Đại Bồ-tát Trừ Cái Chướng cùng chư Bồ-tát đều ngồi lên đài hoa sen.
Bấy giờ, Đại Bồ-tát Trừ Cái Chướng từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa lại y phục, bày vai phải, quỳ gối phải, chắp tay hướng về Đức Phật, thưa:
–Bạch Thế Tôn! Con có điều muốn hỏi, cúi xin Thế Tôn cho phép.
Đức Phật liền nói:
–Nếu có điều gì nghi ngờ thì các ông cứ hỏi.
Như Lai sẽ vì các ông phân biệt giải đáp.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Kính thưa Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ sự bố thí, đầy đủ giới, đầy đủ nhẫn, đầy đủ tinh tấn, đầy đủ thiền định, đầy đủ trí tuệ, đầy đủ phương tiện, đầy đủ nguyện, đầy đủ lực, đầy đủ trí?
Thế nào là Bồ-tát như đất?
Thế nào là Bồ-tát như nước?
Thế nào là Bồ-tát như lửa?
Thế nào là Bồ-tát như hư không? Thế nào là Bồ-tát như mặt trăng?
Thế nào là Bồ-tát như mặt trời?
Thế nào là Bồ-tát như sư tử?
Thế nào là Bồ-tát khéo điều phục?
Thế nào là Bồ-tát khéo chế ngự?
Thế nào là Bồ-tát như hoa sen?
Thế nào là Bồ-tát được ý nguyện lớn?
Thế nào là Bồ-tát được tịnh ý?
Thế nào là Bồ-tát được lưới tâm vô nghi?
Thế nào là Bồ-tát rộng sâu như biển lớn?
Thế nào là Bồ-tát được trí vi tế?
Thế nào là Bồ-tát được biện tài tùy thuận?
Thế nào là Bồ-tát được biện tài vô tận?
Thế nào là Bồ-tát được biện tài thanh tịnh?
Thế nào là Bồ-tát có khả năng làm cho chúng sinh được thiểu dục, tri túc?
Thế nào là Bồ-tát được biện tài tùy ứng?
Thế nào là Bồ-tát làm Pháp sư?
Thế nào là Bồ-tát được pháp tùy thuận?
Thế nào là Bồ-tát giỏi thông đạt pháp giới?
Thế nào là Bồ-tát hành cảnh giới không?
Thế nào là Bồ-tát hành cảnh giới vô tướng?
Thế nào là Bồ-tát hành cảnh giới vô nguyện?
Thế nào là Bồ-tát hành Từ?
Thế nào là Bồ-tát hành Bi?
Thế nào là Bồ-tát hành Hỷ?
Thế nào là Bồ-tát hành Xả?
Thế nào là Bồ-tát chứng đắc thần thông diệu dụng?
Thế nào là Bồ-tát lìa được tám nạn xứ?
Thế nào là Bồ-tát không quên tâm Bồ-đề?
Thế nào là Bồ-tát đắc Trí mạng túc?
Thế nào là Bồ-tát chẳng lìa tri thức thiện?
Thế nào là Bồ-tát lìa tri thức ác?
Thế nào là Bồ-tát chứng đắc thân Phật thanh tịnh?
Thế nào là Bồ-tát chứng đắc thân Kim cang?
Thế nào là Bồ-tát đạt được đại thương chủ?
Thế nào là Bồ-tát giỏi biết các đạo?
Thế nào là Bồ-tát chỉ rõ đạo không điên đảo?
Thế nào là Bồ-tát thường được tâm định?
Thế nào là Bồ-tát đạt được y phấn tảo?
Thế nào là Bồ-tát đạt được ba y?
Thế nào là Bồ-tát đạt được chiên y?
Thế nào là Bồ-tát đắc pháp khất thực?
Thế nào là Bồ-tát đắc pháp nhất tọa thực?
Thế nào là Bồ-tát đắc pháp nhất thọ thực?
Thế nào là Bồ-tát đắc phi thực, hậu thực?
Thế nào là Bồ-tát hạnh A-lan-nhã?
Thế nào là Bồ-tát đắc thọ hạ tọa?
Thế nào là Bồ-tát đắc lộ địa tọa?
Thế nào là Bồ-tát ở nghĩa địa?
Thế nào là Bồ-tát thường ngồi không nằm?
Thế nào là Bồ-tát có khả năng tùy phu tọa?
Thế nào là Bồ-tát khéo biết chỉ dạy thiền pháp?
Thế nào là Bồ-tát hay trì kinh?
Thế nào là Bồ-tát hay trì tạng luật?
Thế nào là Bồ-tát hay trì oai nghi?
Thế nào là Bồ-tát giỏi biết hành xứ?
Thế nào là Bồ-tát giỏi biết tu pháp hành?
Thế nào là Bồ-tát trừ bỏ tham lam, ganh ghét?
Thế nào là Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh hay khởi tâm bình đẳng?
Thế nào là Bồ-tát khéo biết cúng dường Như Lai?
Thế nào là Bồ-tát loại trừ kiêu mạn?
Thế nào là Bồ-tát khéo đắc tâm kính tín?
Thế nào là Bồ-tát thông đạt Đệ nhất nghĩa đế?
Thế nào là Bồ-tát giỏi biết mười hai Nhân duyên?
Thế nào là Bồ-tát giỏi biết thể tướng của mình?
Thế nào là Bồ-tát giỏi biết tướng thế gian?
Thế nào là Bồ-tát sinh ở cõi Phật thanh tịnh?
Thế nào là Bồ-tát ở trong thai không bị ô uế?
Thế nào là Bồ-tát bỏ nhà xuất gia?
Thế nào là Bồ-tát đắc mạng thanh tịnh?
Thế nào là Bồ-tát tâm không sầu não?
Thế nào là Bồ-tát thuận theo lời dạy của Phật?
Thế nào là Bồ-tát thường nói lời dịu dàng, hòa nhã?
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ đa văn?
Thế nào là Bồ-tát khéo giữ chánh pháp?
Thế nào là Bồ-tát làm Pháp vương tử?
Thế nào là Bồ-tát được các hàng Tứ Thiên vương, Đế Thích, Phạm thiên cúng dường?
Thế nào là Bồ-tát biết thể tướng người khác?
Thế nào là Bồ-tát khéo làm thành thục các chúng sinh?
Thế nào là Bồ-tát khéo tu hạnh nhu hòa?
Thế nào là Bồ-tát sống chung an lạc?
Thế nào là Bồ-tát giỏi tu bốn Nhiếp pháp?
Thế nào là Bồ-tát được oai nghi đoan nghiêm?
Thế nào là Bồ-tát khéo vì chúng sinh làm chỗ nương tựa?
Thế nào là Bồ-tát ví như cây thuốc?
Thế nào là Bồ-tát thường tu các điều thiện?
Thế nào là Bồ-tát giỏi biến hóa?
Thế nào là Bồ-tát sớm thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề?
Phật bảo Đại Bồ-tát Trừ Cái Chướng:
–Hay thay! Hay thay! Này thiện nam! Ông vì lợi ích của hàng trời, người, vì muốn cứu độ tất cả chúng sinh nên mới hỏi như vậy. Nay Như Lai sẽ giải đáp cho ông.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Cao cả thay Đức Thế Tôn! Xin Thế Tôn diễn nói.
Phật liền bảo:
–Này thiện nam! Các ông hãy lắng nghe! Nay ta sẽ nói. Bồ-tát phải thành tựu mười pháp thí.
Những gì là mười?
1. Đầy đủ pháp thí.
2. Đầy đủ thí vô úy.
3. Đầy đủ bố thí tài vật.
4. Đầy đủ bố thí không mong cầu đền đáp.
5. Đầy đủ bố thí tình thương.
6. Đầy đủ bố thí tâm không khinh.
7. Đầy đủ bố thí tôn trọng.
8. Đầy đủ bố thí cung kính thừa sự.
9. Đầy đủ bố thí chẳng cầu quả báo.
10. Đầy đủ bố thí thanh tịnh.
Này thiện nam! Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ pháp thí?
Bồ-tát tự thọ trì pháp, vì người diễn nói, tâm không ước muốn, không mong cầu lợi dưỡng, không vì danh tiếng, chỉ vì trừ tội ác cho tất cả chúng sinh. Bồ-tát thuyết pháp với tâm bình đẳng không cao thấp. Như đối với vua, quần thần, hoặc hàng Chiên-đà-la… Bồ-tát đều thuyết giảng pháp bình đẳng không phân biệt. Không vì bố thí như vậy mà Bồ-tát cao ngạo, kiêu mạn. Nếu hay làm như vậy, gọi là Bồ-tát đầy đủ pháp thí.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ thí vô úy?
Bồ-tát tự lìa bỏ dao, gậy, cũng dạy người lìa bỏ dao, gậy. Đối với tất cả chúng sinh, Bồ-tát đều khởi tưởng như cha mẹ, con cái, thân hữu. Vì sao? Vì Phật dạy: “Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay không có một ai không là cha mẹ, anh em của ta.” Bồ-tát thường ở trong các loài vi tế mà xả thân bố thí, huống nữa là đối với chúng sinh lớn khác. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ thí vô úy.
Thế nào gọi là Bồ-tát bố thí tài vật đầy đủ?
Thấy chúng sinh gây nhiều tội ác, Bồ-tát liền tập trung của cải, vật báu bố thí cho họ, khiến họ xa lìa nghiệp ác, ở chỗ an lành. Bồ-tát lại nghe Phật Thế Tôn nói: “Bố thí là Bồ-tát trừ được cấu bẩn của ganh ghét, tham lận”, theo như lời Phật dạy, Bồ-tát tu tập bố thí. Không vì bố thí như vậy mà Bồ-tát sinh tâm tự cao. Đó gọi là Bồ-tát bố thí tài vật đầy đủ.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ bố thí hoàn toàn không mong cầu quả báo?
Khi bố thí, Bồ-tát nghĩ như vầy: “Không vì được quyến thuộc mà bố thí, không vì được thân hữu mà bố thí, không vì sở thích mà bố thí.” Bồtát giữ tịnh giới là pháp thường hành, đây là nhân duyên. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ bố thí không mong cầu quả báo.
Thế nào gọi là Bồ-tát thành tựu đầy đủ bố thí tình thương?
Thấy chúng sinh thọ khổ, đói khát, rách rưới, áo quần không đủ mặc, không chỗ cậy nhờ, không nơi nương tựa, không chốn hướng về, không nhà trú thân, không có một chút phước nghiệp; thấy vậy Bồ-tát sinh tâm thương xót cứu giúp: Nay ta vì chúng sinh khổ mà phát tâm Vô thượng Bồ-đề, vì chúng sinh luân hồi thọ khổ, đói khát, không có đủ y phục, không chỗ cậy nhờ, không nơi nương tựa, không chốn hướng về, lạnh đói cơ cực, nên ta lúc nào cũng vì các chúng sinh ấy mà tạo ra y phục, thức ăn uống cho đến nhà cửa, chỗ nương tựa, hiện có tài vật đều đem cho hết. Bồ-tát tuy bố thí như vậy mà không khởi niệm tưởng có ta, có người, có tài vật… Bố thí như vậy gọi là Bồ-tát đầy đủ bố thí tình thương.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ bố thí tâm không khinh?
Bồ-tát bố thí không hề phân biệt, bố thí với tâm đại Bi bình đẳng, bố thí tâm không khinh, bố thí tâm không keo bẩn, bố thí tâm không sân hận, bố thí không kiêu căng, bố thí không vì được danh tiếng, không vì ta đa văn mà bố thí. Bố thí như vậy gọi là chuyên tâm bố thí, tôn trọng bố thí, cung kính bố thí, tự tay bố thí. Bố thí bình đẳng như vậy gọi là Bồ-tát đầy đủ bố thí tâm không khinh.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ bố thí thừa sự?
Như đồng phạm hạnh, hoặc các vị Hòa thượng, A-xà-lê… những bậc tôn kính, những bậc như vậy ân đức sâu nặng, ta nên nghênh tiếp, chắp tay chiêm ngưỡng, cung kính; hoặc có việc cần làm ta phải tự thân thay thế, phụ giúp các vị. Người bố thí như vậy gọi là Bồ-tát bố thí thừa sự đầy đủ.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ bố thí cung kính?
Đó là cúng dường Phật, cúng dường Pháp, cúng dường Tăng.
Cung kính Phật là Bồ-tát cúng dường hương hoa, kỹ nhạc, nhiều tháp Như Lai, quét dọn đất Phật. Nếu các tháp miếu hư hoại, gãy đổ thì Bồ-tát phải tu sữa, tôn tạo. Như vậy gọi là Bồ-tát cung kính Phật.
Cung kính Pháp là Bồ-tát nghe pháp, thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải nói, tư duy về ý nghĩa, tu hành như pháp, không chấp giữ theo nghĩa điên đảo. Như vậy gọi là Bồ-tát cung kính Pháp.
Cung kính Tăng là Bồ-tát dâng cúng y phục, đồ ăn uống, giường ghế, thuốc thang, các loại tạp vật; cung cấp các vật mà Tăng cần dùng. Thậm chí có lúc Bồ-tát không có vật cúng thì dùng nước trong thành tâm dâng cúng. Thí như vậy gọi là Bồ-tát cung kính cúng dường Tăng.
Nếu hay cúng dường Tam bảo như vậy thì gọi là Bồ-tát bố thí cung kính đầy đủ.
Thế nào gọi là Bồ-tát bố thí đầy đủ không mong cầu đền đáp
Khi bố thí, Bồ-tát chẳng khởi ý niệm: Ta sẽ sinh Thiên. Cũng chẳng khởi ý niệm: Ta sẽ làm vua, làm đại thần, dòng quan… Đó gọi là Bồ-tát bố thí đầy đủ chẳng mong cầu.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ bố thí thanh tịnh? Bồ-tát quán như thật việc bố thí này là không cấu, không uế, không tạp. Thí như vậy gọi là Bồtát bố thí thanh tịnh đầy đủ.
Này thiện nam! Làm đầy đủ mười việc này gọi là Bồ-tát hành thí đầy đủ.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là thành tựu tịnh giới. Những gì là mười?
1. Khéo học giới Ba-la-đề-mộc-xoa.
2. Khéo trì giới tinh tế của Bồ-tát.
3. Diệt trừ các phiền não.
4. Trừ các bất thiện.
5. Kinh sợ nghiệp ác.
6. Đối với tội nhỏ hết lòng sinh lo sợ.
7. Tâm thường kinh sợ.
8. Thọ trì pháp Đầu-đà kiên cố, không thiếu sót.
9. Trì giới chẳng cầu tạo nghiệp.
10. Giới ba nghiệp thanh tịnh.
Thế nào gọi là Bồ-tát khéo học giới Ba-la-đềmộc-xoa?
Bồ-tát đối với giới luật, kinh điển Phật chế đều chuyên tâm thọ trì, chẳng vì chủng tộc mà trì giới, chẳng vì ngã kiến mà trì giới, chẳng vì thâu phục đồ chúng mà trì giới, chẳng vì thấy người khác giới sút kém mà khinh hủy giới. Đó gọi là Bồ-tát khéo thọ trì giới Ba-la-đề-mộc-xoa.
Thế nào gọi là Bồ-tát khéo trì giới tinh tế?
Bồ-tát nghĩ thế này: “Không những giới Ba-lađề-mộc-xoa có thể làm cho ta thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề, mà các oai nghi giới hạnh khác của Bồ-tát ta cũng phải nên học, tu hành đúng như pháp.”
Thế nào gọi là giới tinh tế của Bồ-tát?
Bồ-tát trọn đời không nên vãng lai ở những chỗ không nên đến, chẳng phải thời thì không nói, khéo biết thời, khéo biết phong tục tập quán thuận hợp lòng người, chẳng làm cho chúng sinh khởi tâm nghi kỵ, ngờ vực, khéo giúp đỡ làm cho chúng sinh đạt đến Bồ-đề, tự mình cũng đầy đủ oai nghi của Bồ-tát; ngôn từ hiền hòa, ít nói, chẳng thích thân cận các hàng đại thần, quan quyền, luôn luôn tu hạnh A-lan-nhã, vui vẻ hòa thuận, có thể hành đầy đủ giới oai nghi của Bồ-tát như vậy. Ngoài ra phải tu hành đầy đủ giới Bồ-tát như trong các kinh khác đã nêu. Đó gọi là giới tinh tế của Bồ-tát.
Thế nào gọi là Bồ-tát diệt?
Nghĩa là tất cả các kết sử đều bị tiêu diệt. Tham dục, sân hận, ngu si và các chướng ngại khác ràng buộc tất cả chúng sinh cũng đều bị thiêu cháy. Đối với nơi chốn tham dục nên khởi pháp đối trị, nếu có dấy dục thì nên đoạn trừ.
Thế nào là nơi chốn tham dục?
Là đối với sắc đẹp hay khởi nhân duyên của dục.
Thế nào là tưởng bất tịnh?
Như quán thân mình với các thứ: Tóc, lông, móng, răng, da, máu, thịt, gân, mạch, xương, tủy, mồ hôi, nước mắt, nước mũi, nước bọt, mỡ sa, não, màng, yết hầu, tim, mật, gan, phổi, lá lách, thận, ruột, dạ dày dung chứa trăm loại thực phẩm sống chín, nước tiểu, phân, mủ, nước nhờn… Bồ-tát thường quán ba mươi sáu vật này thì chẳng sinh tâm tham. Như đứa bé ngu si, điên cuồng, tâm loạn, thấy ba mươi sáu vật này hãy còn chẳng khởi tưởng dục, huống là bậc trí. Các vị Bồ-tát phải thường quán bất tịnh như vậy.
Tại sao tưởng dục lại khởi?
Vì Đại Bồ-tát khi thấy sắc đẹp thích ý, tâm nhiễm liền sinh tham đắm. Do vậy, khi mới thấy sắc Bồ-tát liền tự nhớ lời Phật dạy: “Sắc như mộng huyễn, như âm vang, không thật có.” Biết nó là mộng, người trí lẽ nào lại sinh tưởng dục? Cho nên Bồ-tát đều phải xa lìa nơi chốn có thể làm phát sinh dục.
Thế nào là Bồ-tát dùng pháp đối trị sân hận, xa lìa được sân hận và nhân duyên của sân hận?
Đối với các chúng sinh, Bồ-tát thường khởi tâm Từ, vì nhân duyên này nên sân hận liền diệt trừ. Nếu lúc sân hận não hại khởi lên thì Bồ-tát phải luôn buộc niệm một cách sâu, chặt để đối trị. Đây gọi là phương tiện trừ sân hận của Bồ-tát.
Thế nào là phương tiện trừ si của Bồ-tát?
Bồ-tát nên nghĩ: Tâm si chẳng biết thiện ác. Người giữ lòng si ám sau phải chịu quả khổ. Ngu si tự che đậy gây não hại kẻ khác còn ít, không bằng tham sân não hại còn nhiều hơn. Khi quán như vậy thì tâm si tiêu trừ. Đây gọi là Bồ-tát thiêu cháy phiền não.
Thế nào gọi là Bồ-tát trừ giác bất thiện?
Bồ-tát ở chỗ A-lan-nhã thanh vắng nghĩ như vầy: “Nay ta xa lìa các chốn ồn ào, thực hành giáo pháp của Phật tại nơi yên tĩnh; còn các Sa-môn, Bà-la-môn khác sống nơi thị tứ bị các sự ồn ào nhiễu loạn, khiến xa lìa giáo pháp của Phật. Đây gọi là Bồ-tát trừ giác bất thiện.
Thế nào gọi là Bồ-tát sợ tạo nghiệp ác?
Bồ-tát từng nghe Phật dạy, quan sát kỹ lưỡng, chuyên tâm tu phước, kiên trì giới tịnh, khéo học trí tuệ. Nhờ nhân duyên như vậy nên được thắng báo cao tột, đầy đủ nghiệp phước đức, xa lìa các ác. Đây gọi là Bồ-tát sợ tạo nghiệp ác.
Thế nào gọi là Bồ-tát sợ điều ác nhỏ?
Đối với tội nhỏ, Bồ-tát thường hết lòng lo sợ, trọn đời chẳng dám khinh thường điều ác nhỏ. Vì sao? Vì Bồ-tát từng nghe Phật dạy: “Độc ít còn giết người, huống nữa là độc nhiều.” Điều ác cực nhỏ còn dẫn người vào ba đường ác, huống nữa là điều ác lớn. Vậy mà tâm không lo sợ sao! Đây gọi là Bồ-tát sợ điều ác nhỏ.
Thế nào gọi là Bồ-tát tâm thường lo sợ?
Có những người thâm tín như Bà-la-môn, Sát-lợi, Cư sĩ… vì lòng tin nên đem các loại châu báu, vàng bạc ký gởi cho Bồ-tát mà không cần làm giấy tờ chứng cứ. Bồ-tát trọn đời chẳng sinh tâm đem vật ấy ẩn trốn, cho đến những vật của Phật, vật của Pháp, vật của chúng Tăng, cùng vật của tứ phương Tăng, Bồ-tát thà tự ăn thịt mình chứ chẳng bao giờ xâm phạm vào vật của người khác. Trong nhu cầu cung cấp cho thân như ăn, uống… Bồ-tát hãy còn chẳng dám phí phạm. Đây gọi là Bồ-tát tâm thường lo sợ.
Thế nào gọi là Bồ-tát thọ trì pháp đầu đà kiên cố, không lay động?
Nếu quyến thuộc của ma và chư Thiên… dùng tiền tài, sắc đẹp đến quấy nhiễu Bồ-tát mà tâm trí Bồ-tát kiên cố không dao động. Đó gọi là Bồ-tát thọ trì pháp đầu đà kiên cố, không lay động.
Thế nào gọi là Bồ-tát trì giới không mong cầu tạo nghiệp?
Bồ-tát trì giới không mong cầu quả báo thế gian, chỉ vì muốn hành trì đầy đủ hết thảy pháp thiện chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đó gọi là Bồ-tát trì giới không mong cầu tạo nghiệp.
Thế nào gọi là Bồ-tát với ba nghiệp thanh tịnh? Thế nào là thân nghiệp thanh tịnh?
Lìa bỏ sát sinh, trộm cắp, dâm dục. Đây gọi là thân nghiệp thanh tịnh.
Thế nào là khẩu nghiệp thanh tịnh?
Lìa bỏ lời nói độc ác, hư dối, đâm thọc, thêu dệt. Đây gọi là khẩu nghiệp thanh tịnh.
Thế nào là ý nghiệp thanh tịnh?
Dứt trừ tham, sân, si, tà kiến. Đây gọi là ý nghiệp thanh tịnh. Thân, khẩu, ý của Bồ-tát luôn như vậy, gọi là ba nghiệp thanh tịnh.
Này thiện nam! Đầy đủ mười việc này gọi là Bồ-tát thành tựu tịnh giới.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có mười pháp có thể làm cho nhẫn được thanh tịnh. Những gì là mười pháp?
Đó là:
1. Nội nhẫn.
2. Ngoại nhẫn.
3. Pháp nhẫn.
4. Tùy Phật giáo nhẫn.
5. Vô phương sở nhẫn.
6. Tu xứ xứ nhẫn.
7. Phi sở vị nhẫn.
8. Nhẫn chẳng bức não.
9. Bi tâm nhẫn.
10. Thệ nguyện nhẫn.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành nội nhẫn?
Sống trong cảnh đói, khát, lạnh, nóng, sầu bi, thân tâm bị đau đớn thống khổ mà Bồ-tát tự có khả năng nhẫn chịu, không cho là khổ não. Đó gọi là Bồ-tát hành nội nhẫn.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành ngoại nhẫn?
Bồ-tát bị người mắng nhiếc, hủy nhục, phỉ báng bằng những lời độc ác; hoặc nghe những lời hủy nhục đối với cha mẹ, anh em, chị em, quyến thuộc, Hòa thượng, A-xà-lê, thầy bạn đồng tu học…; hoặc nghe những lời phỉ báng đối với Phật, Pháp, Tăng, nghe những lời mạ nhục như vậy mà Bồ-tát nhẫn chịu, không sinh tâm oán hận. Đó gọi là Bồ-tát hành ngoại nhẫn.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành pháp nhẫn?
Những nghĩa vi diệu trong các kinh do Phật giảng nói: “Các pháp tịch tĩnh, các pháp tịch diệt, tướng Niết-bàn như vậy chẳng kinh, chẳng sợ.” Bồ-tát suy nghĩ: “Nếu ta không hiểu rõ về ý nghĩa của kinh này, không biết pháp ấy thì rốt cuộc không thể chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng.” Vì vậy Bồ-tát chuyên cần đọc tụng, tìm cầu, tham vấn học hỏi. Đó gọi là Bồ-tát hành trì pháp nhẫn.
Thế nào gọi là Bồ-tát nhẫn theo giáo pháp của Phật? (Tùy Phật giáo nhẫn)
Khi những tâm sân hận, phiền não, độc hại khởi lên, Bồ-tát suy nghĩ: “Thân này từ đâu sinh, từ đâu diệt? Nếu từ ngã sinh thì ngã là cái gì? Nếu từ bỉ sinh thì bỉ là cái gì? Pháp tướng như vậy từ nhân duyên gì khởi?” Trong lúc tư duy như thế, Bồ-tát thấy chẳng có chỗ sinh, chẳng có chỗ duyên khởi, chẳng từ ngã sinh, chẳng từ bỉ khởi, cũng chẳng từ nhân duyên sinh. Tư duy như vậy thì tâm sân hận, phiền não, độc hại, cuồng nộ… liền đó đều không còn. Đó gọi là Bồ-tát nhẫn theo giáo pháp của Phật. Thế nào gọi là Bồ-tát hành nhẫn trong mọi thời gian, không gian? (Vô phương sở nhẫn)
Như có người ban đêm thì nhẫn, ban ngày không nhẫn. Hoặc có người ban ngày nhẫn, ban đêm không nhẫn. Hoặc có người ở chỗ kia thì nhẫn, ở chỗ này thì không nhẫn. Hoặc có người ở chỗ này thì nhẫn, ở chỗ kia thì không nhẫn. Hoặc có người hiểu biết sự việc thì nhẫn, không hiểu biết sự việc thì không nhẫn. Hoặc có người không hiểu biết sự việc thì nhẫn, hiểu biết sự việc thì không nhẫn. Bồ-tát không như vậy. Trong mọi thời gian, mọi nơi chốn, Bồ-tát luôn sinh tâm nhẫn. Đấy gọi là Bồ-tát hành nhẫn trong mọi thời gian, không gian.
Thế nào gọi là Bồ-tát tu nhẫn không phân biệt? (Tu xứ xứ nhẫn)
Đối với cha mẹ, sư trưởng, vợ chồng, nam nữ lớn nhỏ trong dòng tộc nội ngoại, người ta có thể nhẫn chịu được, nhưng đối với người ngoài thì họ không thể nhẫn. Bồ-tát tu nhẫn thì không như vậy, nhẫn nhịn đối với các bậc cha mẹ cũng như nhẫn chịu đối với hàng Chiên-đà-la. Đó gọi là Bồ-tát tu nhẫn không phân biệt.
Thế nào gọi là Bồ-tát tu nhẫn không vì duyên sự? (Phi sở vị nhẫn)
Bồ-tát không vì sự biến mà sinh nhẫn, không vì lợi mà sinh nhẫn, không vì sợ sệt mà sinh nhẫn, không vì thọ ân người mà sinh nhẫn, không vì bạn bè thân quen mà sinh nhẫn, không vì hổ thẹn mà sinh nhẫn. Bồ-tát thường luôn tu nhẫn. Đó gọi là Bồ-tát tu nhẫn không vì duyên sự.
Thế nào gọi là Bồ-tát tu nhẫn chẳng bức não?
Nếu chưa gặp cảnh sân hận, phiền não quấy nhiễu thì không gọi là nhẫn. Nếu khi gặp cảnh bị người giận dữ cầm dao, gậy, đánh đấm, chân đá, miệng mắng chửi lời ác… đối trước hoàn cảnh như vậy mà tâm không động mới gọi là nhẫn. Nếu có người khởi tâm sân hận làm hại Bồ-tát, Bồ-tát nhẫn chịu, cũng như họ đến với tâm không sân hận, não hại mà Bồ-tát cũng nhẫn. Đó gọi là Bồ-tát tu nhẫn chẳng bức não.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành nhẫn với tâm Bi? (Bi tâm nhẫn)
Có lúc Bồ-tát làm vua hoặc làm chủ những công việc lớn là vì những chúng sinh khổ mà làm. Vậy mà lắm khi những chúng sinh này lại kéo đến mạ nhục, xúc não Bồ-tát. Bồ-tát nghĩ: “Không vì ta làm chủ họ mà sinh lòng sân hận. Những chúng sinh như vậy ta phải thường cứu giúp, bảo hộ, lẽ nào ta lại khởi tâm não hại họ! Vì vậy, nay ta phải thể hiện lòng thương xót, không sinh lòng oán hận mà hại họ.” Đó gọi là Bồ-tát hành nhẫn với tâm Bi. Thế nào gọi là Bồ-tát hành nhẫn theo thệ nguyện? (Thệ nguyện nhẫn)
Bồ-tát nghĩ nhớ: Xưa kia ở trước Đức Phật, ta từng phát thệ nguyện với âm vang như sư tử gầm: “Ta sẽ thành Phật, cứu vớt hết thảy chúng sinh khổ trong bùn nhơ sinh tử.” Ta nay muốn cứu họ thì không nên khởi tâm sân hận não hại. Nếu ta không nhẫn thì còn không thể tự độ, huống nữa là đem lại lợi ích cho chúng sinh.
Này thiện nam! Ví như lương y giỏi trị bệnh mắt, thấy các chúng sinh có nhiều bệnh mắt, như: người mắt có màng, mắt bị hư võng mạc.. Bệnh mắt nhiều loại, chẳng thể tính đếm, vậy mà lương y này nói: “Tôi muốn trị bệnh mắt cho chúng sinh”, nhưng khi đó mắt của lương y thì mù tối.
Phật hỏi:
–Lương y này có khả năng trị bệnh mắt chăng?
Đại Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch:
–Không, thưa Đức Thế Tôn!
Phật dạy Đại Bồ-tát Trừ Cái Chướng:
–Muốn trừ hết thảy vô minh tối tăm của chúng sinh thì trước hết phải tự trừ ám chướng của mình, sau đó mới có thể trừ cho chúng sinh. Nếu người không có trí tuệ mà trị bệnh cho kẻ khác thì điều này không thể có. Vì nhân duyên ấy nên luôn tu nhẫn mà không sân hận. Đó gọi là Bồ-tát hành nhẫn theo đại thệ nguyện.
Này thiện nam! Đầy đủ mười việc này gọi là Bồ-tát có khả năng làm nhẫn được thanh tịnh.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là tinh tấn đầy đủ: Tinh tấn như kim cương, tinh tấn không ai bằng, tinh tấn đúng mức, tinh tấn hiển thắng, tinh tấn mạnh mẽ, tinh tấn liên tục, tinh tấn thanh tịnh, tinh tấn không cùng hàng nhị thừa, tinh tấn không khinh tiện, tinh tấn không thoái chuyển. Thế nào là Bồ-tát hành tinh tấn vững chắc như kim cang?
Người chưa hiểu làm cho hiểu, người chưa Niết-bàn làm cho được Niết-bàn, người chưa an làm cho được an, người chưa độ làm cho được độ, người chưa đắc Bồ-đề vô thượng thì làm cho đắc Bồ-đề vô thượng. Nếu trong lúc tinh tấn tu hành như vậy, thiên ma Ba-tuần đến nói với Bồ-tát: “Nay ông cớ gì tu tinh tấn như vậy? Trọn đời ông siêng năng cực nhọc cũng chẳng thu được gì. Vì sao? Vì tôi cũng từng tu tinh tấn như thế: Người chưa hiểu làm cho hiểu, người chưa Niết-bàn làm cho được Niết-bàn, người chưa an làm cho được an, người chưa độ làm cho được độ, người chưa đắc Bồ-đề vô thượng thì làm cho đắc Bồ-đề vô thượng. Những việc như vậy đều là hư vọng, là lừa dối kẻ phàm phu, không có chân thật. Tôi chưa từng thấy ai tinh tấn như thế mà chứng được đạo quả Bồ-đề vô thượng.”
“Này anh, tôi từng thấy vô lượng chúng sinh tu tập tinh tấn như vậy, có người đắc Niết-bàn của Ala-hán, có người đắc Niết-bàn của Bích-chi-phật.”
Ma vương lại hỏi: “Này anh, tuy anh tu tinh tấn nhưng chẳng chứng được Bồ-đề vô thượng, vậy nay nên suy nghĩ mà sớm xả bỏ tâm ấy, không thì chẳng được ích gì, chỉ tự chuốc lấy đau khổ. Anh nên gấp gáp cầu quả Nhị thừa, có thể sớm được thoát ly sinh tử.”
Bồ-tát liền nghĩ: “Đây là lời nói của ma muốn phá hoại tâm ta. Ngươi chỉ thích việc nhỏ, hãy tự lo cho mình đi, chớ đa sự lo cho ta. Tùy theo nghiệp tạo tác mà thọ báo tương ứng, y nơi nghiệp, nghiệp là thân hữu. Ngươi cũng tùy theo nghiệp ấy mà thọ báo. Y nơi nghiệp, nghiệp là thân quyến. Này ma ác Ba-tuần! Ngươi hãy mau mau trở lại con đường chánh đạo. Nếu ngươi gây phiền cho ta thì sẽ thọ khổ nhiều đời.” Ma liền hổ thẹn, ẩn mình rút lui. Đó gọi là Bồ-tát tinh tấn như kim cang, ma chẳng thể phá hoại.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành tinh tấn không ai bằng?
Bồ-tát tu hành tinh tấn vượt hơn trăm ngàn vạn ức chư Bồ-tát, tính toán thí dụ còn chẳng thể nêu bày hết, huống nữa là các người tu học theo Nhị thừa sánh kịp sao? Vì lực tinh tấn nên Bồ-tát có khả năng thâu giữ hết thảy các pháp thiện của chư Phật, có khả năng xả bỏ tất cả các pháp ác. Đây gọi là Bồ-tát hành tinh tấn không ai bằng.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành tinh tấn đúng mức?
Không chuyên cần thái quá và cũng không bê trễ lơ là. Tinh tấn như vậy gọi là tinh tấn đúng mức. Thế nào gọi là Bồ-tát hành tinh tấn hiển thắng? Bồ-tát phát tâm tinh tấn dũng mãnh, nguyện hiện được sắc tướng như Phật: “Nếu ta thành Phật thì tướng vô kiến đảnh tròn sáng một tầm, trí tuệ vô ngại, đại tự tại; tướng hảo của Phật ta nguyện đều đạt được.” Đó gọi là Bồ-tát hành tinh tấn hiển bày thù thắng.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành tinh tấn dũng mãnh? Ví như chân kim, châu báu ma-ni không có cấu uế, ánh sáng rực rỡ tỏa chiếu đoan nghiêm. Chân kim tỏa chiếu vô lượng tia sáng; ngọc báu ma-ni, luôn chiếu sáng rực rỡ. Bồ-tát hành tinh tấn cũng lại như vậy, không có các cấu uế.
Thế nào là cấu uế của tinh tấn? Thế nào là chướng ngại của tinh tấn?
Biếng trễ là cấu uế của tinh tấn. Biếng nhác là cấu uế của tinh tấn. Tham ăn không biết đủ là cấu uế của tinh tấn. Ham thích ngủ nghỉ là cấu uế của tinh tấn. Ham thích gần gũi dục lạc là cấu uế của tinh tấn. Không thấy vô ngã là chướng ngại của tinh tấn. Đấy gọi là cấu uế của tinh tấn, chướng ngại của tinh tấn. Trừ bỏ những cấu uế chướng ngại như vậy gọi là Bồ-tát hành tinh tấn dũng mãnh.
Thiện nam! Thế nào gọi là Bồ-tát hành tinh tấn liên tục?
Hành động trong các oai nghi không lìa tinh tấn. Đi, đứng, nằm, ngồi, thân tâm không hề biếng nhác, phế bỏ, thất niệm. Đây gọi là Bồ-tát hành tinh tấn liên tục.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành tinh tấn thanh tịnh?
Bồ-tát hành tinh tấn liên tục như trên đã nói, nhưng có lúc nghiệp ác bất thiện khởi lên để làm chướng ngại, suy tổn đạo pháp thì phải nên đoạn trừ, không để làm chướng ngại hết thảy pháp thiện, là nhân của Niết-bàn. Có thể trợ giúp đạo pháp, an trụ nơi đạo xứ thì nên tu tập, làm cho tăng trưởng mạnh mẽ, thậm chí một niệm ác vi tế còn không để cho khởi lên, huống nữa là niệm ác lớn. Đây gọi là Bồ-tát hành tinh tấn thanh tịnh.
Thế nào gọi là Bồ-tát hành tinh tấn không cùng với hàng Nhị thừa?
Đại Bồ-tát dạo khắp mười phương, ví như nơi địa ngục A-tỳ lửa dữ đang hừng hực mạnh mẽ, đầy trong những thế giới nhiều như cát sông Hằng, cũng như ngoài thế giới ấy có chúng sinh cực khổ, không nơi nương tựa, không ai cứu hộ, thậm chí nếu có một chúng sinh bị khổ não như vậy, Bồ-tát có thể nhẫn chịu lửa dữ trải qua vô lượng hằng hà sa thế giới để cứu vớt làm thành thục chúng sinh khổ đó. Vì một chúng sinh, Bồ-tát hãy còn cứu độ, huống nữa là nhiều chúng sinh mà Bồ-tát không cứu độ sao? Tất cả hàng ngoại đạo, nhị thừa đều không thể bì kịp Bồ-tát. Đó là Bồ-tát hành tinh tấn không cùng hàng nhị thừa.
Sao gọi là Bồ-tát hành tinh tấn không tự khinh thường?
Bồ-tát suy nghĩ: “Ba đời chư Phật tu vô lượng đức đều từ những tinh tấn nhỏ mới có khả năng tích tụ khổ hạnh lâu đời thành tựu quả vị Đẳng chánh giác. Vì vậy, nay ta tinh tấn nhỏ mà gieo lần công đức, không lâu cũng sẽ thành Phật, chẳng nghi.” Đó gọi là Bồ-tát hành tinh tấn không tự khinh thường.
Sao gọi là Bồ-tát hành tinh tấn bất thoái chuyển?
Bồ-tát không vì mình tinh tấn yếu kém, không vì bần cùng nghèo thiếu của cải mà sinh tâm xả bỏ, thoái lui, nên thường tu tinh tấn hướng đến quả vị Bồ-đề vô thượng. “Ba đời chư Phật quá khứ, hiện tại, vị lai đều vì tích thiện, tinh tấn vi tế mà chứng đắc Bồ-đề vô thượng. Ta nay không vì nghèo hèn mà tự khinh hủy. Nhờ tinh tấn nhỏ mà tất cả chúng sinh tích tập được các điều thiện, thành tựu Bồ-đề vô thượng. Thà làm chúng sinh ở mãi trong địa ngục, chứ không vì thú vui riêng mà nhập Niếtbàn.” Đó gọi là Bồ-tát hành tinh tấn không thoái chuyển.
Này thiện nam! Đủ mười việc ấy gọi là Bồ-tát đầy đủ sự tinh tấn.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có đầy đủ mười pháp Thiền ba-la-mật.
Đó là:
1. Tích tập nhiều phước đức.
2. Chán ngán các điều ác.
3. Chuyên cần tinh tấn.
4. Đầy đủ sự đa văn
5. Không thông hiểu một cách điên đảo.
6. Thông hiểu pháp, hướng về pháp.
7. Lợi căn thông đạt.
8. Có tâm thuần thiện.
9. Giỏi thông hiểu thiền định và trí tuệ.
10. Không vướng mắc nơi thiền tướng. Sao gọi là tích tụ nhiều phước đức?
Từ lâu đối với Đại thừa, việc tích tập thiện căn là sinh tại nơi đâu cũng thường hộ trì giới thiện và gặp bậc Tri thức thiện. Đời đời được sinh vào dòng tộc Sát-lợi, dòng họ lớn Bà-la-môn, đại gia cư sĩ. Sinh ra đời luôn là người chánh kiến, pháp thiện tăng trưởng, nhớ lại những điều thiện đã tu, không bỏ phương tiện thiện xảo, thường không xa lìa các bậc Tri thức thiện, Bồ-tát, chư Phật. Dần dần tăng trưởng sự quan sát các pháp để biết rõ thế gian thống khổ thường bị tai họa bức bách, không một phút giây ngơi nghỉ nên các khổ cứ nối tiếp. Vô minh tối tăm đều là do nhân từ ái dục, dục là căn bản. Nay ta không nên cùng với kẻ phàm phu thân cận nơi dục. Đức Phật Thế Tôn dạy: “Dục ấy từ vọng tưởng sinh, là nhân của vô lượng tai họa, hủy hoại. Ví như lấy cây đâm thủng tim, thận con người. Dục như kích nhọn, dục như kiếm bén, dục như rắn độc, dục như ngọn lửa, dục như mủ thối chẳng thể đến gần, dục như bọt nước tụ, dục như đám lửa dữ, dục như huyễn hóa, dục như mộng tưởng, dục là bất tịnh làm cho người thối tha, dục như ung nhọt, dục như thịt thối rã nát.” Nên nghĩ như vậy mà xa lìa tưởng dục xấu ác, cạo bỏ râu tóc, xả ly sản nghiệp, xuất gia học đạo, khoác tấm pháp y, làm bậc Sa-môn, hành theo chánh pháp, tin nhà chánh pháp chẳng phải là nhà thế tục, luôn phát khởi đại tinh tấn; pháp thiện chưa đắc, siêng tu cho đắc; trí tuệ chưa đắc, siêng tu cho đắc; Bồ-đề chưa chứng, siêng tu cho chứng. Với nhân như vậy, duyên như vậy, do việc ấy nên đạt được đa văn; đối với Thế đế, Đệ nhất nghĩa đế đều có khả năng nêu giảng rõ, khéo biết Thế đế là Đệ nhất nghĩa đế, giỏi biết pháp không điên đảo, thể tướng đúng như pháp.
Thế nào là giỏi nhận biết về pháp tướng?
Đó là chánh kiến, chánh chí, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, được thấy chánh đạo, lợi căn thù thắng, tâm thường trụ nơi đạo. Nhờ lợi căn nên nhàm chán pháp ác cực độ, xa lìa nơi đông đúc ồn ào, sớm lìa dục vọng, tham sân, tà kiến, tâm thù hại, xa lìa quyến thuộc ràng buộc, xa lìa lợi dưỡng, danh tiếng, xa lìa tất cả thân tâm, thường tự nhớ quan sát tâm mình là đang niệm thiện, bất thiện hay vô ký. Nếu niệm thiện thì nên niệm thắng thiện. Niệm thắng thiện là tâm sinh hoan hỷ, phát khởi tin vui.
Thế nào là tâm thắng thiện?
Đó là ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Ba mươi bảy phẩm trợ đạo là gì?
Đó là bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác phần, tám Thánh đạo. Đó gọi là thắng thiện, là các phần của chân đạo. Tâm còn bất thiện thì phải luôn quan sát, sinh tâm nhàm chán pháp ác cực độ, chuyên cần đoạn trừ điều bất thiện. Những gì là bất thiện?
Đó là tham dục, sân hận, ngu si. Tham dục có ba loại là thượng, trung và hạ.
Tham dục bậc thượng là gì?
Đó là tâm dục bức bách thân, làm chánh kiến suy tổn, sức xa lìa tâm dục yếu ớt, đánh mất tâm hổ thẹn.
Thế nào là xa lìa tâm hổ thẹn?
Như ở một mình trong rừng vắng thâu giữ thân tĩnh niệm. Trong lúc tư duy, dục vọng khởi lên mạnh mẽ mà lại quý trọng, thích thú, tư duy với lòng dục như vậy là không hổ thẹn. Vì nghiệp dục nên tạo ra nhân của dục, trách móc, oán hận cha mẹ, không kính sợ các bậc tôn quý, cũng không cảm thấy nhục nhã, xấu hổ đối với người, mà còn tỏa ra là mình có đức. Vì dục vọng như vậy, nên khi mạng chung bị đọa vào đường ác. Đây gọi là tham dục bậc thượng.
Thế nào là tham dục bậc trung?
Nếu đã thọ dục mà sinh tâm nhàm chán xa lìa, hoặc khởi tâm hối hận gọi là tham dục bậc trung.
Thế nào là tham dục bậc hạ?
Nếu lúc xúc chạm, tưởng dục liền dứt, hoặc khi nói chuyện với nhau, tuy có tưởng nhiễm nhưng liền diệt trừ; hoặc khi thấy cảnh dục, tưởng dục liền dứt. Đây gọi là tham dục bậc hạ.
Tất cả mọi vật cung cấp đầy đủ cho thân như y phục, đồ ăn, thức uống… đều gọi là dục.
Sân hận cũng có ba loại thượng, trung và hạ.
Thế nào là sân bậc thượng?
Như tức giận, căm hờn, não hại người, hoặc tạo năm tội ngũ nghịch, hoặc tạo một trong năm tội ngũ nghịch, hoặc phỉ báng chánh pháp… tội như vậy chẳng thể lấy gì tính đếm, thí dụ cho bằng. Thân hoại mạng chung sẽ bị đọa vào đại địa ngục chịu tội, sau đó được sinh trong loài người, do dư báo còn sót nên thân thể đen đúa, gầy ốm, mắt đỏ kè, thường biểu hiện tâm ý thô lỗ, nóng giận, nhiễu hại. Do nghĩa này mà gọi là sân bậc thượng.
Thế nào là sân bậc trung?
Nếu đã lỡ tạo những việc ác, sớm biết ăn năn hối cải, tu pháp đối trị, gọi là sân bậc trung.
Thế nào là sân bậc hạ?
Như nói lời hung dữ, hoặc chê bai quở trách, hoặc hành động theo thói quen với nghiệp ác nhỏ, hoặc lúc nào cũng tìm cách để đối phó. Đây gọi là sân bậc hạ.
Ngu si cũng có ba loại: thượng, trung và hạ.
Thế nào là si bậc thượng?
Khi làm việc ác mà không sinh tâm hối hận, xấu hổ, chán bỏ. Như vậy gọi là si bậc thượng.
Thế nào gọi là si bậc trung?
Khi thân lỡ làm việc ác, liền tìm cách ăn năn hối lỗi, phát lồ Sám hối với bậc đồng phạm hạnh và không tỏ ra mình là người đức hạnh. Đây gọi là si bậc trung.
Thế nào gọi là si bậc hạ?
Nương vào những giới pháp của Đức Như Lai đã chế, trừ tánh trọng tội ra, còn lại những giới khác thì ít vi phạm. Do vậy gọi là si bậc hạ.
Khi tâm thiện phát khởi, Đại Bồ-tát có khả năng thu phục tham, sân, si, đoạn trừ dục ái, đoạn trừ dục lạc, đoạn trừ dục nhiễm. Nhờ tâm thiện nên làm cho dục không khởi.
Thế nào gọi là tâm vô ký?
Khi tâm vô ký này khởi lên, nó không duyên bên trong, không duyên bên ngoài, không duyên vào thiện, không duyên vào bất thiện, không từ định sinh, cũng không từ trí sinh, như người ngủ mới dậy mắt thấy không rõ. Không duyên thiện, ác gọi là vô ký.
Nếu lúc tâm vô ký sinh khởi, Bồ-tát liền tự sách tấn, phát khởi tâm thiện, làm cho tâm hoan hỷ an trụ nơi thiện. Đây gọi là Bồ-tát đạt được tâm thiện. Nhờ tâm thiện nên quan sát tất cả các pháp như huyễn, như mộng, như tia lửa, như âm vang của tiếng gọi. Đây là pháp thiện, đây chẳng phải là pháp thiện, đây là dấu tích của pháp, đây chẳng phải là dấu tích của pháp.
Đại Bồ-tát quán hết thảy các pháp, phát khởi tâm thiện, lấy pháp làm tướng, lấy tâm làm người dẫn đường. Nên khéo giữ gìn, điều phục tâm ấy, khéo gìn giữ điều phục các pháp. Nhờ nhân duyên thấy chánh pháp nên liền được tịch định.
Tâm là cảnh giới, lấy tâm buộc tâm, dần dần nhập vào chỗ tịch định, đem tâm tụ nơi tâm, chánh trụ nơi Tam-muội; tâm tịch định nên liền được chuyên nhất. Tâm chuyên nhất thứ lớp không gián đoạn nên đắc tâm định. Vì đắc tâm định nên tâm thường tịch tĩnh. Vì tâm tịch tĩnh nên tâm sinh hỷ lạc, liền trừ được dục ái cùng các ác, bất thiện.
Có giác, có quán, định sinh hỷ lạc, thành tựu Sơ thiền.
Không giác, ít quán, định sinh hỷ lạc, thành tựu Nhị thiền.
Trừ hỷ đắc lạc, xả niệm, đắc đệ Tam thiền.
Lìa hạnh hỷ lạc, xả tâm, đắc Tứ thiền.
Trừ ngã kiến; lìa ưu, hỷ; xả khổ, lạc, tịnh niệm; xả hạnh tứ thiền cùng tất cả giải thoát; lìa sắc, tưởng như hư không, tưởng tâm chúng sinh như hư không, tưởng tất cả thành một quán giải thoát. Do vậy mà tưởng sắc diệt, tưởng không sinh, tưởng não hoại đã diệt, tưởng về vô biên hư không thành tựu.
Tiếp đến là quán thức từ tưởng vô biên hư không. Vì thức vô biên nên tưởng hư không diệt. Quán thức này giảm dần đến độ chỉ còn bé tí, gọi là bất dụng xứ.
Lại quán thức này hoặc có, hoặc không, gọi là phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Diệt các tưởng và thọ gọi là định diệt (Định diệt tận).
Bồ-tát tuy nhập định diệt nhưng không bỏ sự giáo hóa chúng sinh, cũng không mãi vui trong định diệt cho là tịch tĩnh.
Không xả định diệt mà vẫn hay dùng tâm Từ bi bảo hộ chúng sinh; cho đến ở trong định diệt khởi tâm Bi, Hỷ, Xả cũng lại như vậy. Khi đó Bồ-tát liền được năm thần thông.
Không vì chứng đắc mười hai môn thiền, năm thần thông… mà Bồ-tát tự cho là đủ. Chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng, đầy đủ công đức trang nghiêm mới là Bồ-tát cầu thượng pháp.
Này thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát đầy đủ Thiền ba-la-mật.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là trí tuệ đầy đủ. Những gì là mười? Đó là:
1. Đầy đủ thiện căn vô ngã.
2. Thông hiểu về nghiệp báo.
3. Thông hiểu pháp hữu vi.
4. Thông hiểu sinh tử tương tục không dứt.
5. Thông hiểu pháp chính yếu xuất ly sinh tử.
6. Thông hiểu pháp hai thừa Thanh văn, Bíchchi-phật.
7. Thông hiểu Đại thừa.
8. Thông hiểu pháp chận đứng nghiệp ma.
9. Trí tuệ không điên đảo.
10. Trí tuệ không trí tuệ nào sánh bằng.
Thiện nam! Thế nào là đầy đủ thiện căn vô ngã? Bồ-tát dùng trí quan sát sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Quán sắc không sinh, không khởi, không thấy nhân khởi. Quán thọ cũng không sinh, không khởi, không thấy nhân khởi. Quán tưởng cũng không sinh, không khởi, không thấy nhân khởi. Quán hành cũng không sinh, không khởi, không thấy nhân khởi. Quán thức cũng không sinh, không khởi, không thấy nhân khởi. Quán diệt cũng không sinh, không khởi, không thấy nhân khởi. Quán Đệ nhất nghĩa đế cũng không thấy, không sinh, không khởi. Thế đệ và Đệ nhất nghĩa đế chỉ có giả danh, không có thật thể. Tuy biết các pháp rỗng không mà vẫn không xả bỏ, tinh tấn tu tập, thương xót hết thảy chúng sinh như cứu lửa cháy đầu, như cứu xiêm y đang cháy, chuyên cần tu hạnh theo phương tiện, không biếng trễ, không phế bỏ. Vì tất cả chúng sinh mà cầu quả vị Bồ-đề vô thượng, trang nghiêm đầy đủ. Đây gọi là Bồ-tát thiện căn vô ngã. Thế nào gọi là Bồ-tát thông hiểu về nghiệp báo?
Bồ-tát quan sát kỹ tướng nơi hết thảy chúng sinh đều như huyễn, như thành Càn-thát-bà, như trăng trong nước, thể tánh vắng lặng. Tất cả chúng sinh nhiễm chấp nơi ngã kiến và ngã sở kiến, vì nhân duyên ấy nên không thấy chánh đạo. Chúng sinh tác tưởng như vầy: “Nếu không ngã, không nhân, không thọ mạng, không trượng phu, tất cả đều không, như vậy thì ai thọ thiện ác sai khác trong sáu đường?” Đại Bồ-tát tuy thông hiểu về nghiệp báo là chẳng thường, chẳng đoạn, nhưng vẫn thọ nhận, không bỏ. Đó gọi là Bồ-tát thông hiểu về nghiệp báo.
Thế nào gọi là Bồ-tát thông hiểu pháp hữu vi mà không chấp giữ tướng hữu vi?
Chánh kiến như thật, biết pháp hữu vi biến đổi mau chóng không dừng, niệm niệm lưu chuyển, như hạt sương trên hoa, như thác nước đổ xuống khe núi không có ngưng nghỉ, cũng như thành xây trên cát không có vững chắc. Thấy rõ tướng của pháp hữu vi như vậy, há có người trí nào lại tham đắm, luyến ái dục lạc, sinh lòng ưu bi? Nhờ nhân duyên này nên Bồ-tát nhàm chán các sinh tử ác, vui thích Niết-bàn. Đó gọi là Bồ-tát thông hiểu pháp hữu vi.
Thế nào gọi là Bồ-tát thông hiểu sự sinh tử lưu chuyển?
Bồ-tát quan sát hết thảy chúng sinh do vô minh tăm tối nên trôi nổi theo dòng sinh tử, thường bị lưới ái ràng buộc. Vì nhân duyên ấy nên có thọ. Vì thọ nên tạo nghiệp thiện, ác. Vì nhân duyên của nghiệp nên có hữu. Vì nhân duyên hữu nên có sinh. Vì nhân duyên sinh nên có tử, ưu, bi, khổ não, các khổ tụ tập, sinh tử lưu chuyển qua lại, lên xuống, giống như vòng lửa. Bồ-tát chánh quán về sinh tử, rõ biết như thật, gọi là Bồ-tát thông hiểu sự sinh tử lưu chuyển.
Thế nào là Bồ-tát thông hiểu pháp vượt thoát sinh tử?
Không có vô minh thì không có hành, không có hành thì không có thức, không có thức thì không có danh sắc, không có danh sắc thì không có lục nhập, không có lục nhập thì không có xúc, không có xúc thì không có thọ, không có thọ thì không có ái, không có ái thì không có thủ, không có thủ thì không có hữu, không có hữu thì không có sinh, không có sinh thì không có già, bệnh, chết, ưu bi khổ não, các khổ tụ tập. Bồ-tát tri kiến như thật về mười hai nhân duyên, đó gọi là Bồ-tát thông hiểu pháp vượt thoát sinh tử.
Thế nào là Bồ-tát thông hiểu pháp Nhị thừa: Thanh văn, Bích-chi-phật?
Như khi Bồ-tát quan sát pháp ấy mười hai nhân duyên liền chứng đắc quả Tu-đà-hoàn, quả Tư-đàhàm, quả A-na-hàm, quả A-la-hán, đoạn tận các kết sử, lậu hoặc, chứng đắc Bích-chi-phật. Sau khi thành Bích-chi-phật thì như tê giác một sừng, Bồtát thông hiểu pháp Thanh văn, Bích-chi-phật mà không thủ chứng. Vì sao? Vì Bồ-tát thâu nhận hết thảy chúng sinh, với âm thanh phát ra như sư tử gầm: “Ta nguyện nhổ tận hết thảy gốc rễ nơi khổ, sinh tử triền miên của chúng sinh. Do vậy, nay ta không nên vượt thoát sinh tử một mình.” Đấy gọi là Bồ-tát thông hiểu pháp Thanh văn, Bích-chiphật.
Thế nào là Bồ-tát thông hiểu pháp Đại thừa?
Học thông tất cả các pháp mà Bồ-tát không thủ đắc tướng nơi các pháp. Bồ-tát tu học đạo một cách tinh thông mà không thủ đắc tướng nơi đạo, không thấy người là chủ thể hành, không thấy pháp là đối tượng được hành, cũng không thấy chỗ đạt đến. Do tướng mạo của nhân duyên này mà không rơi vào đoạn kiến. Đây gọi là Bồ-tát thông hiểu pháp Đại thừa.
Thế nào là trí tuệ của Bồ-tát khéo thông hiểu pháp ngăn ngừa nghiệp ma?
Bồ-tát khéo biết, không thân cận các tri thức ác, cũng không đến nước ác, thường hay xa lìa sự đàm thoại về thế tục, chẳng thích thân cận các điều phi pháp, chẳng cầu lợi dưỡng. Đối với các pháp ấy cũng chẳng sinh tâm ưa thích. Tất cả các kết sử tạo chướng ngại, Bồ-tát đều đã xa lìa, thông hiểu, đối trị. Đây gọi là trí tuệ của Bồ-tát thông hiểu pháp ngăn ngừa nghiệp ma.
Thế nào là Bồ-tát hành trí tuệ không điên đảo?
Bồ-tát học thông suốt Thế đế, Đệ nhất nghĩa đế và các kinh, luận cùng các sách tạp luận thế gian là vì nhằm hóa độ làm thành thục cho chúng sinh. Tuy học rộng đa văn nhưng không vì thế mà hiển bày công đức của mình, chỉ vì để giáo hóa chúng sinh. Tuy hiểu rõ sách đời, nhưng Bồ-tát vẫn luôn tôn kính pháp Phật, vì nó là tối thắng, hoàn toàn không nhiễm tư tưởng tà kiến ngoại đạo. Đây gọi là Bồ-tát hành trí tuệ không điên đảo.
Thế nào gọi là trí tuệ của Bồ-tát không ai sánh bằng?
Không thấy trời, hoặc người, hoặc Sa-môn, Bàla-môn, các ngoại đạo nào có trí tuệ bằng Bồ-tát. Trừ các Đức Như Lai Thế Tôn Đẳng Chánh Giác, còn lại các chúng Trời, Người, A-tu-la… không ai có trí tuệ bằng Bồ-tát. Đây gọi là trí tuệ của Bồ-tát không ai sánh bằng.
Này thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát trí tuệ đầy đủ.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là phương tiện đầy đủ, đó là:
1. Thông hiểu phương tiện hồi hướng.
2. Khéo điều phục các kiến chấp của ngoại đạo.
3. Khéo điều phục năm trần.
4. Khéo trừ nghi, hối.
5. Khéo cứu hộ chúng sinh.
6. Khéo biết giúp đỡ mạng sống của chúng sinh.
7. Khéo thọ nhận cúng dường.
8. Khéo làm thay đổi các người tu học hai thừa:
Thanh văn, Bích-chi-phật về với Đại thừa
9. Thông hiểu chỉ dạy, tạo sự lợi, hỷ.
10. Thông hiểu cung kính cúng dường.
Thế nào là Bồ-tát thông hiểu phương tiện hồi hướng?
Hết thảy các vật vô chủ, chẳng phải là của mình trong những chốn đồng trống, ao đầm rộng lớn vắng vẻ, tất cả các vật hiện có như hoa quả, hương, cây hương, vật báu, cây báu, bông vải, cây bông vải… ngày đêm sáu thời Bồ-tát đều hết lòng dâng cúng Phật; đem căn lành này hồi hướng lên quả vị Bồ-đề vô thượng như ở trong kinh luôn khen ngợi việc cúng dường Tam bảo, hết thảy Bồ-tát cùng các chúng sinh trong mười phương thế giới đều hết lòng tùy hỷ.
Nếu khởi lên một niệm về thiện căn, thân tâm tùy hỷ thì đều hồi hướng. Dùng hương hoa cúng dường hình tượng, tháp miếu của chư Phật, đem căn lành này nguyện cho tất cả chúng sinh đều trừ sạch giới phi pháp, cấu uế, được thân giới hương của chư Phật.
Nếu khi quét dọn đất tháp, nguyện cho hết thảy chúng sinh đều được thân đoan nghiêm, uy nghi đầy đủ.
Nếu đem lọng hoa cúng dường tháp Phật, nguyện cho hết thảy chúng sinh trừ được phiền não bức bách.
Nếu vào phòng tăng, chùa và tháp, nguyện cho hết thảy chúng sinh vào được thành Niết-bàn.
Nếu ra khỏi chùa, tháp, nguyện cho hết thảy chúng sinh mãi mãi lìa xa sinh tử.
Nếu khi mở cửa, nguyện cho hết thảy chúng sinh mở cửa đường thiện.
Nếu lúc đóng cửa, nguyện cho hết thảy chúng sinh đóng cửa đường ác.
Nếu khi muốn ngồi, nguyện cho hết thảy chúng sinh ngồi nơi đạo tràng.
Nếu muốn đứng dậy, nguyện cho hết thảy chúng sinh vượt thoát khỏi bùn nhơ phiền não.
Nếu khi nằm nghiêng hông bên phải, nguyện cho hết thảy chúng sinh được nằm nơi Niết-bàn.
Nếu khi mặc áo, nguyện cho hết thảy chúng sinh mặc được áo hổ thẹn.
Nếu lúc cầm bát, nguyện cho hết thảy chúng sinh đầy đủ pháp Phật.
Nếu lúc muốn ăn, nguyện cho hết thảy chúng sinh đều được pháp thực.
Nếu lúc đại tiểu tiện, nguyện cho hết thảy chúng sinh trừ khử cấu uế, không còn dâm, nộ, si.
Nếu khi rửa tay, nguyện cho hết thảy chúng sinh đều xa lìa nhiễm trược.
Nếu khi rửa chân, nguyện cho hết thảy chúng sinh trừ sạch phiền não cấu bẩn.
Nếu khi xỉa răng, súc miệng, nguyện cho hết thảy chúng sinh trừ sạch các loại uế tạp.
Nếu khi thân đi, đứng, hoặc cử động, nguyện cho hết thảy chúng sinh đều được an lạc.
Nếu khi lễ chùa tháp, nguyện cho hết thảy chúng sinh cũng đều kính lễ.
Đây gọi là Bồ-tát thông hiểu phương tiện hồi hướng.
Thế nào gọi là Bồ-tát khéo hàng phục các kiến chấp của ngoại đạo, làm cho chín mươi sáu loại dị học được điều phục và xuất gia?
Khi muốn điều phục ngoại đạo, Bồ-tát không nên cao ngạo, vì làm bậc mô phạm nên trước phải cung kính, giả hiện làm đệ tử, sau đó mới điều phục. Tùy theo oai nghi phép tắc của ngoại đạo, Bồ-tát đều phải tập học, nghiên cứu tường tận, vượt hơn họ. Sau khi điều phục họ rồi, Bồ-tát mới chuyển hóa khiến họ làm đệ tử tin theo lời mình nói. Bấy giờ Bồ-tát liền dẫn dạy: “Pháp trước đây ông học chẳng phải pháp lìa dục, cũng chẳng phải pháp đưa đến giải thoát.” Dùng chánh đạo khuyến hóa tâm họ, khiến an lập nơi pháp Phật. Đây gọi là
Bồ-tát giỏi điều phục các kiến chấp của ngoại đạo. Thế nào gọi là Bồ-tát khéo điều phục năm trần? Thấy các chúng sinh tham dục dấy khởi mạnh, vì hóa độ những người đó nên Bồ-tát hiện làm thân nữ đoan chánh, đẹp hơn những người nữ khác, khiến cho người kia đắm đuối. Sau đó, Bồ-tát lại hiện làm thây chết sình trướng, thối rửa, khiến chúng sinh thấy vậy đều sinh kinh sợ, nhàm chán mà suy nghĩ: “Nay ta làm thế nào để sớm xa lìa được thân cấu uế?” Khi ấy, Bồ-tát liền hiện lại thân cũ, thuyết giảng pháp yếu, khiến đạo tâm vô thượng của họ được kiên cố. Đây gọi là Bồ-tát khéo điều phục năm trần.
Thế nào gọi là Bồ-tát khéo trừ nghi, hối?
Nếu thấy chúng sinh nào tạo tội ngũ nghịch và các tội ác khác, Bồ-tát liền hỏi chúng sinh: “Nay ông làm gì mà sầu khổ như vậy?” Người đó đáp: “Tôi tạo tội ngũ nghịch nên ưu sầu hối hận. Bỏ thân này rồi sẽ chịu nhiều khổ não, mãi mãi suy tổn, không có an vui.” Bồ-tát liền hiện thần biến thích hợp với tâm niệm người đó, khiến họ tín phục, sinh kính tín, ái lạc. Bồ-tát lại hóa làm cha mẹ bị mình nghịch lại, khiến người đó nghĩ: “Bồ-tát thần túc oai lực vô lượng còn hại cha mẹ, huống gì là ta ngu si.” Bồ-tát nói: “Ta thật cùng ông làm bạn tạo tội ngũ nghịch.” Bồ-tát liền vì họ thuyết các loại pháp khiến cho tội ngũ nghịch của người đó liền được nhẹ mỏng như cánh muỗi. Đây gọi là Bồ-tát giỏi trừ nghi, hối.
Thế nào gọi là Bồ-tát giỏi có khả năng cứu độ chúng sinh?
Bồ-tát quán thấy chúng sinh kia có khả năng làm bậc pháp khí nhưng lại tạo các việc ác, Bồ-tát liền hiện các loại thân thuyết pháp như: cần hiện thân vua để độ thì liền hiện thân vua; cần hiện thân hàng Sát-lợi để độ thì liền hiện thân hàng Sát-lợi; cần hiện thân Bà-la-môn để độ, liền hiện thân Bàla-môn; cần hiện thân trời để độ, liền hiện thân trời; cần hiện thân Kim cang lực sĩ để độ, liền hiện thân Kim cang lực sĩ; cần hiện thân khủng bố để độ, liền hiện thân khủng bố; cần hiện thân trói nhốt, đánh đập, lo sợ để độ, liền hiện thân trói nhốt, đánh đập, lo sợ; cần hiện thân thân hữu yêu thích để độ, liền hiện thân thân hữu yêu thích… Thấy cần độ chúng sinh bằng thân gì thì Bồ-tát liền hiện ra thân đó để độ. Đây gọi là Bồ-tát giỏi có khả năng cứu độ chúng sinh.
Thế nào gọi là Bồ-tát giỏi biết cứu mạng chúng sinh?
Đại Bồ-tát thấy chúng sinh không thể gắng nhận, chẳng biết chánh pháp, chỉ biết tham dục, ăn uống, y phục, ngoài ra chẳng cầu gì khác. Khi ấy, Bồ-tát chỉ dạy toán số, y phương, các loại kỹ thuật, những việc lành như vậy đều khiến họ học tập, làm cho họ không còn bị thiếu thốn về y phục, ăn uống. Đây gọi là Bồ-tát giỏi biết cứu mạng chúng sinh.
Thế nào gọi là Bồ-tát thông hiểu sự thọ nhận cúng dường?
Lúc được khối lượng châu báu lớn như núi Tudi, Bồ-tát đều có thể thọ dụng. Nếu được bố thí ít vật cỏn con, Bồ-tát cũng đều thọ dụng. Vì nhân duyên gì mà Bồ-tát đều thọ dụng tất cả vật lớn, nhỏ? Vì thấy chúng sinh tham lam, bỏn sẻn, ganh ghét, không có tâm bố thí. Lại thấy chúng sinh chìm đắm nơi sinh tử như cá trong nước. Vì thương xót chúng sinh nổi trôi ngụp lặn trong biển cả nên Bồ-tát tạo lợi ích khiến họ được an vui. Bồ-tát nhận của cải, châu báu rồi đem cúng dường Phật, Pháp, Tăng, cung cấp cho kẻ nghèo thiếu. Những nơi được cấp thí, Bồ-tát tùy theo đó mà thuyết pháp khiến họ đều phát tâm Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là Bồ-tát thông hiểu sự thọ nhận cúng dường.
Thế nào gọi là Bồ-tát hay giỏi chuyển hàng Nhị thừa nhập vào Đại thừa?
Bồ-tát thấy các chúng sinh có thể gắng nhận làm hạng đại khí, cho đến những người tu theo hàng Nhị thừa là Thanh văn, Bích-chi-phật tinh tấn dốc hành khổ hạnh, Bồ-tát đều làm cho trụ vào Đại thừa, kể cả đồ chúng của họ cũng đều được chuyển bỏ tâm nhỏ hẹp vì kế thừa Phật chủng, không đoạn mất Tam bảo. Đây gọi là Bồ-tát khéo chuyển hàng Nhị thừa an trụ vào Đại thừa.
Thế nào gọi là Bồ-tát giỏi có khả năng chỉ dạy tạo mọi lợi vui?
Người chưa phát tâm Bồ-đề, Bồ-tát hay làm cho phát tâm. Người bê trễ biếng nhác, Bồ-tát khiến cho chuyên cần, tinh tấn. Nếu người làm việc thiện ít mà tự cho là đủ, Bồ-tát phát khởi phương tiện khiến cho họ hành trì đầy đủ các pháp thiện. Nếu có người giới bị tổn giảm chút ít, sinh chướng ngại lớn, tâm lìa bỏ hết thảy pháp thiện, Bồ-tát liền thuyết pháp khiến họ hoan hỷ, tu đầy đủ giới hạnh. Đây gọi là Bồ-tát giỏi có khả năng chỉ dạy tạo mọi lợi vui.
Thế nào gọi là Bồ-tát giỏi có khả năng cung kính, cúng dường Tam bảo?
Bồ-tát xuất gia thiểu dục, tri túc, chẳng chứa của cải, vật báu, chỉ dùng pháp thí làm lợi. Tại nơi thanh vắng, Bồ-tát ngồi một mình, tư duy: “Vì sao nay ta không tác tưởng cúng dường Phật?”, tức thời tự tâm tư duy các loại hoa sen cúng dường chư Phật. Tư duy như vậy xong, liền có khả năng hành trì đầy đủ sáu Độ.
Thế nào là hành trì đầy đủ sáu Độ?
1. Đem các loại cúng dường đầy đủ là Bố thí ba-la-mật.
2. Thường giúp đỡ hết thảy chúng sinh làm thiện là Trì giới ba-la-mật.
3. Vui nhẫn hoan hỷ là An nhẫn ba-la-mật.
4. Thân tâm không biếng nhác là Tinh tấn bala-mật.
5. Chuyên tâm không loạn là Thiền ba-la-mật.
6. Các hạnh đều được đầy đủ trang nghiêm là Bát-nhã ba-la-mật.
Khi ở chỗ thanh vắng tư duy như vậy, Bồ-tát có khả năng hành trì đầy đủ sáu pháp Ba-la-mật. Đây gọi là Bồ-tát thông hiểu sự cung kính cúng dường Tam bảo.
Này thiện nam! Đầy đủ mười việc này gọi là Bồ-tát đầy đủ phương tiện.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là phương tiện phát nguyện. Những gì là mười? Đó là:
1. Phát nguyện không làm việc thấp kém.
2. Phát nguyện không sợ sinh tử.
3. Phát nguyện siêu vượt hết thảy chúng sinh.
4. Phát nguyện khen ngợi hết thảy chư Phật.
5. Phát nguyện hàng phục hết thảy ma chướng.
6. Phát nguyện không bị người khác giáo hóa.
7. Phát nguyện vô biên.
8. Phát nguyện không sợ hãi.
9. Phát nguyện không ưu buồn.
10. Phát nguyện đầy đủ.
Thế nào là Bồ-tát phát nguyện không làm việc thấp kém?
Đại Bồ-tát phát nguyện không vì thọ lạc trong ba cõi. Đó gọi là Bồ-tát phát nguyện không thấp kém.
Thế nào gọi là Bồ-tát phát nguyện không sợ sinh tử?
Bồ-tát phát nguyện không vì cầu Nhị thừa, không vì chán ghét sinh tử, không vì diệt trừ sinh tử. Đây gọi là Bồ-tát phát nguyện không sợ sinh tử.
Thế nào gọi là Bồ-tát phát nguyện vượt lên trên hết thảy chúng sinh?
Bồ-tát nguyện làm cho hết thảy chúng sinh trong bốn loài (thai sinh, noãn sinh, thấp sinh, hóa sinh) đều thành tựu đạo quả Bồ-đề và nhập Niếtbàn; còn mình thì nhập Niết-bàn hoặc không nhập Niết-bàn. Đây gọi là Bồ-tát phát nguyện vượt lên trên hết thảy chúng sinh.
Thế nào gọi là Bồ-tát phát nguyện khen ngợi hết thảy chư Phật?
Bồ-tát phát nguyện: “Ta khuyến hóa hết thảy chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề, hành đạo Bồ-tát, cho đến ngồi nơi đạo tràng. Ta sẽ khuyến thỉnh Phật chuyển pháp luân. Nếu Ngài nhập Niết-bàn, ta sẽ khuyến thỉnh trụ mãi ở đời, tạo lợi ích cho chúng sinh.” Đây gọi là Bồ-tát phát nguyện khen ngợi tất cả chư Phật.
Thế nào gọi là Bồ-tát phát nguyện hàng phục hết thảy ma chướng?
Bồ-tát phát nguyện làm cho tất cả chúng sinh thành Phật và các quốc độ không còn nghe danh từ ma ác. Đây gọi là Bồ-tát phát nguyện hàng phục hết thảy ma chướng.
Thế nào gọi là Bồ-tát phát nguyện không bị người khác giáo hóa?
Bồ-tát trọn đời chẳng nhận người khác giáo hóa mà chỉ tự phát tâm Bồ-đề vô thượng, tự mình dùng trí tuệ quan sát thế giới chúng sinh thọ vô lượng khổ, vì cứu độ họ mà Bồ-tát phát tâm cầu đạt đạo quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là Bồ-tát phát nguyện không bị người khác giáo hóa.
Thế nào gọi là Bồ-tát phát nguyện vô biên?
Bồ-tát phát nguyện không vì những duyên nhỏ. Bồ-tát chỉnh đốn y phục, gối phải quỳ chấm đất, chắp tay, sinh tâm nhàm chán pháp ác, hướng về chư Bồ-tát khắp mười phương thế giới ngồi ở đạo tràng dốc tu khổ hạnh mới thành Phật, hoặc chuyển pháp luân đều đang quán sát soi thấy tâm con. Con tùy hỷ kính thỉnh chư Phật chuyển pháp luân. Các vị Bồ-tát khắp mười phương, lúc mới phát tâm hành sáu pháp Ba-la-mật đều hành vô lượng hạnh khổ khó, cho đến ngồi ở đạo tràng hàng phục ma chướng, thành Phật và chuyển pháp luân. Đối với mỗi một niệm thiện này, con đều tùy hỷ phát tâm Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là Bồ-tát phát nguyện vô biên.
Thế nào gọi là Bồ-tát phát nguyện không lo sợ?
Từ lúc mới phát tâm, nghe diệu pháp sâu xa, Bồ-tát không sinh kinh sợ. Nghe vô lượng bản hạnh, công đức của Phật, Bồ-tát không sinh kinh sợ. Nghe pháp thần thông diệu dụng sâu xa của chư Bồ-tát, Bồ-tát không sinh kinh sợ. Nghe phương tiện thiện xảo sâu rộng của chư Bồ-tát, Bồ-tát không sinh kinh sợ. Bồ-tát nghĩ: “Trí tuệ của Phật là vô lượng, vô biên, thế giới là vô lượng, vô biên, Phật đã thành thục cho chúng sinh là vô lượng, vô biên, trí tuệ của ta không đủ sức hiểu biết được, chỉ có Phật với Phật mới hiểu được một cách rốt ráo.” Đây gọi là Bồ-tát phát nguyện không lo sợ.
Thế nào gọi là Bồ-tát phát nguyện không ưu buồn?
Bồ-tát thấy các chúng sinh si mê không có mắt trí tuệ, phá giới, biếng nhác, làm đủ mọi điều ác, cứng cỏi khó điều phục. Vì những việc như vậy mà các Bồ-tát khởi tâm chán ngán, chỉ cầu sinh về tịnh độ: “Nguyện cho chúng con thực hành được đầy đủ từ bi, trí tuệ và không còn nghe những danh từ xấu ác như vậy.” Bồ-tát phát tâm liền nghĩ: “Trong hết thảy các thế giới, chúng sinh trí kém, ngu si, ám độn, không có phần trong Niết-bàn, không sinh tín tâm, không có duyên với chư Phật và Bồ-tát. Những chúng sinh như vậy ta đều điều phục cho đến ngồi nơi đạo tràng đắc Bồ-đề vô thượng.” Khi Bồ-tát phát tâm này thì tất cả cung điện của ma đều chấn động, chư Phật mười phương khen ngợi: “Tịnh độ trang nghiêm, sớm thành Chánh giác.” Đây gọi là Bồ-tát phát nguyện không ưu buồn.
Thế nào gọi là Bồ-tát phát nguyện đầy đủ?
Bồ-tát phát tâm thệ nguyện hàng phục ma chướng, đắc thành Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là Bồ-tát phát nguyện đầy đủ. Ví như bát dầu, nếu đã tràn đầy mà nhỏ thêm một giọt nhỏ nữa thì chẳng thể được. Bồ-tát thành Phật, các hạnh nguyện đầy đủ viên mãn cũng lại như vậy, chẳng giảm thiểu một mảy may.
Này thiện nam! Đầy đủ mười việc này gọi là Bồ-tát phát nguyện với phương tiện đầy đủ.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là Lực đầy đủ. Đó là:
1. Lực của Bồ-tát, người chẳng khinh thường.
2. Lực chẳng bị người khác hàng phục.
3. Đầy đủ lực phước nghiệp.
4. Đầy đủ lực trí tuệ.
5. Đầy đủ lực nơi đồ chúng.
6. Lực thần thông.
7. Lực tự tại.
8. Lực Đà-la-ni.
9. Lực của Bồ-tát định trì bất khả động.
10. Lực của lời nói vô nhị.
Thế nào gọi là lực của Bồ-tát không ai dám khinh thường?
Hết thảy lực của ngoại đạo, Thanh văn nhị thừa không thể hơn lực của Bồ-tát. Hết thảy chúng sinh cũng không có ai bằng lực của Bồ-tát. Đây gọi là lực của Bồ-tát không ai dám khinh thường.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ lực phước nghiệp? Không có phước đức trang nghiêm nào của sự tu tập theo thế gian và xuất thế gian mà có thể sánh bằng phước lực của Bồ-tát. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ lực phước nghiệp.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ lực trí tuệ?
Trí lực của Bồ-tát hoạt động suy xét trước sau không có sai lầm. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ lực trí tuệ.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ lực nơi đồ chúng? Đồ chúng của Bồ-tát không hoại chánh kiến, không phạm oai nghi, thường tu tịnh mạng. Đại chúng đều cùng Bồ-tát thu giữ hạnh chánh trực.
Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ lực nơi đồ chúng.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ lực thần thông?
Bồ-tát dùng năm thông theo thế tục vượt thắng cả năm thông của hàng Thanh văn nhị thừa, có thể lấy một vi trần dung chứa cả cõi Diêm-phù-đề và bốn cõi thiên hạ, hoặc ngàn thế giới, hai ngàn thế giới, ba ngàn thế giới, cho đến hằng hà sa số tam thiên đại thiên thế giới mà vi trần không tăng, thế giới không giảm; chúng sinh trong ấy cũng không cảm thấy chật chội, không có tưởng, giác, tri; không có tướng ngăn ngại. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ lực thần thông.
Thế nào gọi là Bồ-tát đạt được lực tự tại?
Bồ-tát có lực tự tại muốn làm cho các loại châu báu đầy khắp trong tam thiên đại thiên thế giới thì liền được như ý. Đây gọi là lực tự tại của Bồ-tát.
Thế nào gọi là Bồ-tát đạt được lực Đà-la-ni?
Như chư Phật thuyết pháp với vô lượng, vô biên âm thanh khác nhau, văn tự khác nhau; chỉ trong một niệm, Bồ-tát có khả năng nghe được các loại âm thanh đó, tư duy, thọ trì, tu hành. Đây gọi là Bồ-tát chứng đắc lực Đà-la-ni.
Thế nào gọi là Bồ-tát chứng đắc lực định trì không khuynh động?
Tất cả chúng sinh không thể quấy nhiễu làm cho tâm của Bồ-tát loạn động. Đây gọi là Bồ-tát chứng đắc lực định trì không khuynh động.
Thế nào gọi là Bồ-tát đạt lực nói không hai lời?
Bồ-tát nghĩ trước rồi mới nói, nói ra không khác với ý nghĩ. Chỉ trừ phương tiện vì làm lợi ích, Bồ-tát mới nói khác ý. Đó gọi là Bồ-tát đạt lực nói không hai lời. Nếu có thọ ký, Bồ-tát trọn không sai lầm. Trí tuệ của tất cả chúng sinh không thể vượt qua Bồ-tát.
Thiện nam! Đầy đủ mười việc này gọi là Bồ-tát chứng đắc lực đầy đủ.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là đầy đủ trí. Đó là:
1. Đầy đủ trí biết nhân vô ngã.
2. Đầy đủ trí biết pháp vô ngã.
3. Đầy đủ trí biết khắp các phương.
4. Đầy đủ trí thông hiểu cảnh giới thiền định.
5. Đầy đủ trí thọ trì.
6. Đầy đủ trí không gì hơn.
7. Đầy đủ trí thông hiểu căn hạnh của chúng sinh.
8. Đầy đủ trí vô tác.
9. Đầy đủ trí thông hiểu hết thảy pháp tướng.
10. Đầy đủ trí thông hiểu xuất thế gian.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ trí biết nhân vô ngã?
Bồ-tát quán năm ấm không bền chắc, hư vọng, không thật, cho đến diệt mất cũng không thấy có mất. Bồ-tát suy nghĩ: “Năm ấm ấy không ngã, không chúng sinh, không thọ mạng, không dưỡng dục, không nhân.” Phàm phu ngu si vì cho là có thật ngã nên vọng chấp về ngã. Giống như sự đắm chấp mê vọng của ma quỷ, chúng sinh vọng chấp cũng lại như vậy. Hoặc cho ấm tức là ngã, ngã tức là ấm, hoặc ấm tức là ngã sở, ngã sở là ấm; hư vọng chấp ngã không thấy đúng thật, nên mãi quanh quẩn trong sinh tử như vòng lửa quay tròn, hư vọng không thật. Bồ-tát giỏi biết việc ấy một cách như thật, gọi là Bồ-tát đầy đủ trí biết nhân vô ngã.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ trí biết quán pháp vô ngã?
Bồ-tát thấy tướng sinh tướng diệt đúng như thật, biết hết thảy vật giống như giả mượn, chỉ có danh, có dụng, giả tạo ra có sinh mà không có thật thể, giả bày ra các pháp cũng chẳng đoạn, chẳng thường, do duyên mà sinh, do duyên mà diệt. Biết các pháp một cách như thật đúng đắn gọi là Bồ-tát quán pháp vô ngã đầy đủ.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ trí biết khắp mọi nơi?
Người biết khắp mọi nơi chẳng phải biết trong một sát-na, chẳng phải không biết trong một sátna, chẳng phải biết phương này mà không biết phương kia. Bồ-tát có khả năng đạt được trí vô ngại nhận biết khắp mười phương. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ trí biết khắp mọi nơi.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ trí biết xứ sở cảnh giới của thiền định?
Bồ-tát biết định của Thanh văn, biết định của Bích-chi-phật, biết định của Bồ-tát, biết định của chư Phật. Bồ-tát biết rõ tất cả các định như vậy, còn Thanh văn Nhị thừa chỉ biết phần cảnh giới của mình, ngoài ra thì không biết. Định của Bồ-tát là biết cảnh giới của mình, cảnh giới của Nhị thừa và biết luôn cả tướng thiền định cứu cánh của Như Lai. Do nhờ Phật lực nên Bồ-tát biết được tất cả. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ trí biết xứ sở, cảnh giới của thiền định.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ trí thọ trì?
Bồ-tát thông hiểu sự thọ trì của Thanh văn, sự thọ trì của Bích-chi-phật và sự thọ trì của chư Bồtát, huống gì là các loại thọ trì của chúng sinh mà Bồ-tát không biết sao? Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ trí thọ trì.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ trí không gì hơn?
Chỉ trừ Nhất thiết chủng trí của Như Lai, ngoài ra các trí của hết thảy ngoại đạo, Nhị thừa, không trí nào có thể sánh bằng trí của Bồ-tát. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ trí không gì hơn.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ trí thông hiểu căn hạnh của chúng sinh?
Bồ-tát có khả năng dùng trí tịnh vô ngại quán khắp thế giới, thấy có chúng sinh có khả năng phát sinh Bồ-đề, có chúng sinh không thể phát sinh Bồđề, có chúng sinh đầy đủ Bồ-đề, có chúng sinh chưa đầy đủ Bồ-đề, có chúng sinh trụ nơi Địa thứ nhất cho đến Địa thứ mười, có vị chuyển pháp luân cho đến nhập Niết-bàn, có vị nhập Niết-bàn Thanh văn thừa, có vị đạt Niết-bàn Bích-chi-phật thừa, có người sinh cõi lành, có người sinh cõi ác. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ trí thông hiểu căn hạnh của chúng sinh.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ trí vô tác?
Trong bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi, Bồ-tát niệm niệm không tạo tác, tâm hằng thành tựu. Ví như có người hít vào thở ra cho đến lúc ngủ thường không tạo tác. Bồ-tát tâm không tư duy, không tạo tác cũng như vậy, thì trí vô ngại tự nhiên được thành tựu. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ trí vô tác.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ trí thông hiểu hết thảy pháp tướng?
Bồ-tát thấu đạt các pháp đều đồng một tướng. Thế nào là một tướng? Tất cả tận cùng đều là tướng “không”, tướng huyễn, tướng hư vọng. Đấy gọi là Bồ-tát đầy đủ trí thông hiểu hết thảy pháp tướng.
Thế nào gọi là Bồ-tát đầy đủ trí thông hiểu pháp xuất thế gian?
Bồ-tát biết trí vô lậu vượt ra ngoài hết thảy các trí thế gian. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ trí thông hiểu pháp xuất thế gian.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát đầy đủ Nhất thiết trí.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là chứng đắc địa Tam-muội. Đó là:
1. Như đất rộng lớn vô biên.
2. Như đất là nơi tất cả chúng sinh nương vào để tồn tại.
3. Như đất là nơi tất cả chúng sinh đều mang ân dưỡng dục nhưng trọn đời đất không kể ân.
4. Như đất rộng lớn dung chứa tất cả mây lớn, mưa lớn.
5. Đất là nơi có khả năng làm cho tất cả chúng sinh nương tựa.
6. Đất hay sinh giống lành và tất cả các hạt giống.
7. Đất như vật báu lớn.
8. Đất hay sinh ra hết thảy đại dược.
9. Đất chẳng thể khuynh động.
10. Chẳng kinh, chẳng sợ.
Thế nào gọi là Bồ-tát như đất rộng lớn vô biên?
Chu vi mười phương vô biên vô lượng; công đức, trí tuệ trang nghiêm, nguyện hạnh của Bồ-tát cũng vô biên vô lượng như vậy. Đây gọi là Bồ-tát như đất rộng lớn vô biên.
Thế nào gọi là Bồ-tát như đất, là nơi tất cả chúng sinh nương tựa, tồn tại?
Từ đất, tất cả chúng sinh đều được tồn tại theo ý muốn của mình. Đất cung cấp, cứu sống tất cả chúng sinh không ngăn ngại. Bồ-tát cũng vậy, ban phát tất cả pháp thí, giới luật, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, cho đến những gì Bồ-tát có đều đem thí hết mà tâm không bị ngăn ngại. Đây gọi là Bồ-tát như đất, là nơi tất cả chúng sinh nương tựa, tồn tại.
Thế nào gọi là Bồ-tát ban ân dưỡng dục mà không mong đền đáp?
Giống như đại địa bình đẳng, không phân biệt tốt xấu. Bồ-tát cũng vậy, đối với việc gia ân cũng không mừng, vong ân cũng không hận. Đây gọi là Bồ-tát ban ân dưỡng dục mà không mong đền đáp. Thế nào gọi là Bồ-tát như đại địa, có khả năng dung chứa mây pháp mưa pháp lớn?
Tất cả những cơn mưa như trút nước, đại địa đều có khả năng dung nạp. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, có khả năng thọ trì hết thảy những cơn mưa pháp lớn dày của chư Phật đổ vào. Đây gọi là Bồtát như đại địa, có khả năng dung chứa mây pháp mưa pháp lớn.
Thế nào gọi là Bồ-tát có khả năng làm trú xứ cho hết thảy chúng sinh nương tựa?
Như đại địa, mọi cỏ cây lớn nhỏ, hết thảy chúng sinh đi, đứng, nằm, ngồi đều nương vào đất. Bồ-tát cũng vậy, hết thảy chúng sinh tu hành hướng thiện, nhị thừa học pháp cho đến chứng Niết-bàn, tất cả đều nhân nơi Bồ-tát mà được. Đây gọi là Bồ-tát có khả năng làm trú xứ cho hết thảy chúng sinh nương tựa.
Thế nào gọi là Bồ-tát làm nơi chốn dựa nương cho mọi hạt giống lành?
Ví như đại địa, mọi hạt giống đều nương nơi đất mà sinh trưởng. Bồ-tát cũng vậy, hết thảy mọi hạt giống nghiệp thiện, nơi trời, người đều nương vào Bồ-tát mà sinh trưởng. Đây gọi là Bồ-tát làm nơi chốn dựa nương cho mọi hạt giống lành.
Thế nào gọi là Bồ-tát như vật báu lớn?
Ví như đại địa có khả năng sinh ra mọi thứ châu báu, các báu vật đều lấy ra từ đất. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, hết thảy các báu là quả vui nơi công đức thiện đều sinh ra từ Bồ-tát. Đây gọi là Bồ-tát như vật báu lớn.
Thế nào gọi là Bồ-tát có khả năng sinh ra hết thảy đại pháp dược?
Ví như đại địa sinh ra các cây thuốc vi diệu, có khả năng trị hết các loại bệnh tật. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, có khả năng sinh ra tất cả các pháp dược vi diệu, trừ sạch các bệnh phiền não. Đây gọi là Bồ-tát có khả năng sinh ra hết thảy đại pháp dược.
Thế nào gọi là Bồ-tát không bị khuynh động?
Ví như đại địa, gió không thể làm lay động; ruồi, ve, rệp, mọt… chẳng thể làm suy tổn. Cũng vậy, hết thảy các duyên bức não trong ngoài đều chẳng thể nhiễu động Đại Bồ-tát. Đây gọi là Bồ-tát không bị khuynh động.
Thế nào gọi là Bồ-tát không kinh sợ?
Hết thảy các âm thanh gầm thét vang dội của sấm chớp, voi, rồng, hổ, báo, sư tử… không thể làm đại địa kinh sợ. Đại Bồ-tát cũng như thế, hết thảy chín mươi sáu thứ ngoại đạo chẳng thể làm cho dao động. Đây gọi là Bồ-tát không kinh sợ.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát chứng đắc địa Tam-muội.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp ví như đại thủy. Đó là:
1. Như dòng nước phun tưới, thấm đượm đất sâu dày.
2. Hay làm cho những hạt giống thiện của chúng sinh nẩy nở.
3. Vui mừng, kính tín.
4. Nhận chìm hết thảy mầm mống phiền não.
5. Như nước trong sạch không nhơ.
6. Diệt trừ hết thảy hoạn nạn nóng bức.
7. Trừ sạch tâm tham dục, khát ái.
8. Sâu rộng khó dò.
9. Như nước từ trên cao chảy xuống, tất cả đều được thấm đượm.
10 Hay trừ hết thảy các kết sử trần cấu.
Thế nào gọi là Bồ-tát như dòng nước phun tưới, thấm đượm đất sâu dày?
Nước làm cho tất cả cỏ cây sinh trưởng tươi tốt. Cũng vậy, Bồ-tát đem các công đức rưới xuống như nước nhuần thấm tất cả, đến như điều thiện nhỏ cũng được tăng trưởng. Đây gọi là Bồ-tát như dòng nước phun tưới, thấm đượm đất sâu dày.
Thế nào gọi là Bồ-tát hay làm cho những hạt giống thiện của chúng sinh nẩy nở?
Như nước hay làm cho tất cả cỏ cây lớn nhỏ đều được sinh trưởng tươi tốt, Bồ-tát dùng nước thiền định tưới mát thấm nhuần chi đạo chánh trực, giác ý, làm cho tăng trưởng, lần lần sung mãn thành đại thọ Nhất thiết trí. Đây gọi là Bồ-tát có khả làm cho những hạt giống thiện của chúng sinh nẩy nở. Đem ngần ấy các loại quả pháp Phật để tạo lợi ích cho chúng sinh. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, đem pháp thanh tịnh làm cho chúng sinh được thấm nhuần tăng trưởng. Đây gọi là Bồ-tát hay làm cho những hạt giống thiện của chúng sinh nẩy nở.
Thế nào gọi là Bồ-tát vui mừng kính tín?
Như nước tự ướt, cũng hay làm ướt các vật khác. Bồ-tát cũng thế, tự thân cung kính tín lạc, cũng hay làm cho kẻ khác cung kính tín lạc. Đây gọi là Bồ-tát cung kính tín lạc.
Thế nào gọi là Bồ-tát nhận chìm hết thảy mầm mống phiền não?
Ví như đại thủy có khả năng nhận chìm mầm gốc cỏ cây trong nước, làm cho thối rã. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, dùng nước thiền định dìm sâu mầm mống phiền não, khiến tất cả đều tan hoại, cho đến tập khí kết sử của trần cấu thảy đều không còn. Đây gọi là Bồ-tát nhận chìm hết thảy mầm mống phiền não.
Thế nào gọi là Bồ-tát như nước tinh khiết không cấu bẩn?
Thể tánh của nước thường hằng không cấu bẩn. Cũng lại như vậy, Đại Bồ-tát thể tánh không cấu uế.
Thế nào là thể tánh Bồ-tát không cấu uế?
Đó là những kết sử tham dục, sân hận, ngu si… đều bị Bồ-tát đoạn trừ sạch sẽ, lại khéo hộ trì các căn thanh tịnh như nước. Đây gọi là Bồ-tát như nước tinh khiết không cấu bẩn.
Thế nào gọi là Bồ-tát trừ sạch hết thảy các hoạn nạn nóng bức?
Ví như vào mùa hè, dùng nước tắm rửa thân thể thì được mát mẻ. Bồ-tát cũng lại như vậy, hay dùng nước pháp gội sạch phiền não nóng bức. Đây gọi là Bồ-tát trừ sạch hết thảy các hoạn nạn nóng bức.
Thế nào gọi là Bồ-tát hay trừ tâm tham dục khát ái?
Ví như dòng suối mát đẩy tan cơn khát của muôn loài. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, hay dùng nước pháp trừ tận lòng khát nơi năm dục của chúng sinh. Đây gọi là Bồ-tát hay trừ tâm tham dục khát ái.
Thế nào gọi là sự rộng sâu khó dò của Bồ-tát?
Hết thảy chúng ma và các ngoại đạo không thể vượt qua dòng nước thiền định và trí tuệ của Bồtát. Đây gọi là sự rộng sâu khó dò của Bồ-tát.
Thế nào gọi là Bồ-tát như dòng nước từ trên đổ xuống tràn khắp?
Ví như dòng nước từ trên cao đổ xuống tràn khắp. Bồ-tát cũng lại như vậy, đem dòng pháp tưới nhuận khắp cả, làm cho hết thảy chúng sinh thiện và ác không còn khổ não. Đây gọi là Bồ-tát như dòng nước từ trên đổ xuống tràn khắp.
Thế nào gọi là Bồ-tát có thể dứt trừ hết thảy các trần cấu kết sử?
Bồ-tát dùng nước thiền định ngâm ướp sáu trần, các căn thanh tịnh không nhiễm nơi sắc, thanh. Đây gọi là Bồ-tát có thể dứt trừ hết thảy các trần cấu kết sử.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát ví như đại thủy.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp ví như đại hỏa. Đó là:
1. Có thể thiêu đốt hết thảy củi kết sử.
2. Có thể hầm chín hết thảy các vật.
3. Hay làm khô bùn phiền não.
4. Như đống lửa lớn.
5. Như lửa chiếu sáng.
6. Hay làm cho kinh sợ.
7. Hay làm cho an ổn.
8. Nếu có lợi dưỡng đều cho hết thảy chúng sinh.
9. Được người cúng dường.
10. Người không dám khinh.
Thế nào gọi là Bồ-tát có thể thiêu đốt hết thảy củi kết sử?
Như lửa hay thiêu đốt tất cả rừng rậm, cỏ cây lớn nhỏ. Bồ-tát cũng vậy, dùng lửa trí tuệ thiêu sạch rừng rậm kết sử phiền não. Đây gọi là Bồ-tát có thể thiêu đốt hết thảy củi kết sử.
Thế nào gọi là Bồ-tát như lửa, có thể làm thành thục hết thảy các vật?
Cũng lại như vậy, Bồ-tát dùng lửa trí tuệ có thể khả năng làm thành thục hết thảy pháp Phật kiên cố, bất hoại. Đây gọi là Bồ-tát có thể làm thành thục hết thảy các vật.
Thế nào gọi là Bồ-tát hay làm khô bùn phiền não?
Như lửa có khả năng làm khô mọi vật ướt. Bồtát cũng vậy, có khả năng dùng lửa trí tuệ làm khô bùn hữu lậu. Đây gọi là Bồ-tát hay làm khô bùn phiền não.
Thế nào gọi là Bồ-tát như đống lửa lớn?
Như người bị khí lạnh bức ép, được hơ lửa thì khỏi lạnh ngay. Bồ-tát cũng lại như vậy, thấy các chúng sinh bị phiền não khổ lạnh buốt bức bách, Bồ-tát dùng lửa trí tuệ làm cho họ được ấm áp. Đây gọi là Bồ-tát như đống lửa lớn.
Thế nào gọi là Bồ-tát như lửa chiếu sáng?
Ví như trên đỉnh núi Tuyết có người đốt đống lửa lớn, chu vi ánh sáng tỏa chiếu khắp một trăm lý đến hai trăm lý. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, ở trên đỉnh núi vô minh thắp sáng ngọn lửa trí tuệ soi khắp hơn trăm ngàn thế giới. Đây gọi là Bồ-tát như lửa chiếu sáng.
Thế nào gọi là Bồ-tát hay làm kinh sợ?
Ví như các loài hoẵng, hươu, hổ, beo… thấy lửa đều phải kinh sợ chạy xa. Như thiên ma và quyến thuộc của chúng thấy lửa trí tuệ, oai đức của Bồ-tát thảy đều tránh xa. Đây gọi là Bồ-tát hay làm kinh sợ.
Thế nào gọi là Bồ-tát hay làm an ổn?
Ví như có người ở trong chỗ đồng trống vắng đen tối quên mất hướng về, từ xa trông thấy ánh lửa, họ liền đi về phương đó, hoặc gặp làm xong, hoặc gặp chỗ người thả trâu. Đến được nơi đó rồi, người này tâm được an ổn không còn lo sợ. Cũng lại như vậy, chúng sinh ở trong đồng hoang sinh tử tăm tối quên mất hướng về, xa xa trông thấy ánh lửa của Đại Bồ-tát, chúng sinh liền theo hướng ấy tìm đến. Sau khi đến đó, phiền não sợ hãi của chúng sinh đều được tiêu trừ. Đây gọi là Bồ-tát hay làm an ổn.
Thế nào gọi là lợi dưỡng của Bồ-tát luôn ban cho chúng sinh cùng hưởng?
Ví như lửa lớn làm cho vua hoặc quần thần, hoặc hàng Chiên-đà-la, kẻ nam người nữ… tất cả đều được ấm áp. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, thí cho hết thảy chúng sinh, vua hoặc quần thần, hoặc Chiên-đà-la, kẻ nam người nữ… dùng lửa trí tuệ của mình thiêu sạch mọi phiền não băng giá, vĩnh viễn được an hòa ấm áp. Đây gọi là lợi dưỡng của Bồ-tát luôn ban cho chúng sinh cùng hưởng.
Thế nào gọi là Bồ-tát được người cúng dường? Ví như đại hỏa được Sát-lợi, Bà-la-môn, dân chúng trong toàn thành ấp, xóm làng cúng dường.
Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, được hàng Trời, Người, A-tu-la và quyến thuộc của ma cung kính cúng dường như Đức Thế Tôn không khác. Đây gọi là Bồ-tát được người cúng dường.
Thế nào gọi là bậc Bồ-tát mọi người không dám khinh?
Ví như có người được một ít lửa dùng để thiêu đốt nên không dám khinh thường. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, một niệm thiện mới phát, tuy chưa có lực lớn nhưng hàng Trời, Người, A-tu-la và quyến thuộc của ma không dám khinh thường. Vì sao? Vì không bao lâu Bồ-tát này sẽ ngồi tòa đạo tràng, chứng quả Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là Bồ-tát mọi người không dám khinh thường.
Thiện nam! Đầy đủ mười việc này gọi là Bồ-tát ví như đại hỏa.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp giống như hư không. Đó là:
1. Rộng lớn vô ngại.
2. Tịch diệt vô tướng.
3. Trí không vô biên.
4. Tuệ không vô biên.
5. Rộng lớn như pháp giới.
6. Biết hết thảy pháp.
7. Tướng như hư không.
8. Hết thảy pháp không trụ.
9. Vượt qua hết thảy hình tướng.
10. Vượt qua tất cả số lượng nghĩ bàn.
Thiện nam! Đầy đủ mười việc này gọi là Bồ-tát giống như hư không.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp tâm như hư không. Đó là:
1. Được sự hỷ lạc, tâm cũng không tham đắm.
2. Không được hỷ lạc, tâm cũng không sân hận.
3. Đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, tâm cũng không tham đắm.
4. Đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc tâm cũng không sân hận.
5. Cho đến đối với hết thảy các pháp tâm cũng không tham đắm.
6. Đối với bốn pháp: Lợi suy, hủy dự, xưng cơ, khổ lạc tâm không tham đắm hay sân hận.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát tâm như hư không.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp giống như trăng tròn. Đó là:
1. Hay làm cho tất cả chúng sinh được an lạc, mát mẻ.
2. Ai thấy cũng vui thích.
3. Hay làm cho pháp thiện mỗi ngày tăng trưởng.
4. Hay làm cho pháp ác mỗi ngày giảm mất.
5. Như trăng tròn đầy.
6. Thể tướng thắng diệu, thể tánh thanh tịnh.
7. Đạt đến Vô thượng thừa.
8. Thường tự trang nghiêm.
9. Đạt pháp hỷ lạc, hành hóa theo đệ nhất thừa.
10. Có đại thần thông, oai đức tự tại.
Thế nào gọi là Bồ-tát hay làm cho tất cả chúng sinh được an lạc, mát mẻ?
Như Nguyệt Thiên tử vừa mới xuất hiện, làm cho chúng sinh an vui, mát mẻ, thích thú, mọi người ưa xem, tâm không mệt mỏi. Trăng của Bồtát cũng lại như vậy, trừ sạch khí nóng phiền não, làm cho tất cả chúng sinh đều được mát mẻ, hỷ lạc, thích thú. Đây gọi là Bồ-tát hay làm cho tất cả chúng sinh được an lạc, mát mẻ.
Thế nào gọi là Bồ-tát ai thấy cũng đều ưa thích? Như trăng mới mọc, chúng sinh thích nhìn, an vui tràn ngập. Trăng của Bồ-tát cũng lại như vậy, lúc mới xuất hiện, các căn tịch định như nước, trong suốt vắng lặng, oai nghi đầy đủ, chúng sinh thích nhìn, an lạc hưng khởi. Đây gọi là Bồ-tát ai thấy cũng đều ưa thích.
Thế nào gọi là Bồ-tát làm cho pháp thiện mỗi ngày tăng trưởng?
Như mặt trăng mới mọc, lần lần tròn đầy viên mãn. Trăng của Bồ-tát cũng lại như vậy, từ lúc mới phát tâm dần dần tăng trưởng cho đến ngồi nơi cội Bồ-đề đạo tràng, công đức đầy đủ. Đây gọi là Bồtát làm cho pháp thiện mỗi ngày tăng trưởng.
Thế nào gọi là Bồ-tát làm cho pháp ác mỗi ngày giảm mất?
Ví như vào những đêm tối tràng, ánh sáng của mặt trăng giảm dần, cho đến lúc trăng lặn thì ánh sáng cũng ẩn mất không hiện. Cũng như vậy, hết thảy các pháp ác của Bồ-tát theo thứ lớp giảm dần, cho đến lúc Bồ-tát giác ngộ thì tất cả pháp ác không còn. Đây gọi là Bồ-tát làm cho pháp ác mỗi ngày giảm mất.
Thế nào gọi là Bồ-tát như mặt trăng tròn?
Như mặt trăng từ lúc mới mọc cho đến khi tròn đầy, được tất cả Bà-la-môn, Sát-lợi, nam nữ trong thành ấp, làng mạc không ai chiêm ngưỡng mà không khen ngợi. Trăng của Bồ-tát cũng lại như vậy, thường được hàng trời, người, hết thảy chúng sinh xưng tán. Đây gọi là Bồ-tát như mặt trăng tròn.
Thế nào gọi là Bồ-tát thể tướng thanh tịnh?
Như thân tướng của Nguyệt Thiên tử thanh tịnh là do quả báo nơi bốn nghiệp. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, thân thanh tịnh vô cấu sinh ra từ biến hóa, từ chánh pháp, không do tinh khí của cha mẹ. Đây gọi là Bồ-tát thể tướng thanh tịnh.
Thế nào gọi là Bồ-tát chứng đắc Vô thượng thừa?
Ví như Nguyệt Thiên tử nương vào sự vận hành thanh tịnh chiếu khắp bốn cõi thiên hạ. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, nương vào Đại thừa làm cho vô lượng trăm ngàn vạn ức thế giới chúng sinh đều được chiếu sáng. Đây gọi là Bồ-tát chứng đắc Vô thượng thừa.
Thế nào gọi là Bồ-tát thường tự trang nghiêm?
Như Nguyệt Thiên tử mang vòng hoa hiển hiện. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, thường tự trang nghiêm bằng công đức anh lạc. Đây gọi là Bồ-tát thường tự trang nghiêm.
Thế nào gọi là Bồ-tát đạt pháp hỷ lạc?
Như Nguyệt Thiên tử vui chơi nơi năm dục, tâm thường đắm vướng. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, hội nhập nơi các pháp, tâm thường hỷ lạc, không nhiễm năm dục. Đây gọi là Bồ-tát đạt pháp hỷ lạc.
Thế nào gọi là Bồ-tát có đại thần thông, oai đức tự tại?
Như Nguyệt Thiên tử có oai đức lớn. Bồ-tát cũng lại như vậy, đầy đủ các công đức tự tại, trí tuệ thần thông biến hóa tùy ý, vô ngại. Đây gọi là Bồtát có đại thần thông, oai đức tự tại.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát như Nguyệt Thiên tử.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là như mặt trời.
Đó là:
1. Có thể diệt trừ vô minh đen tối.
2. Làm cho tín tâm mở bày.
3. Làm cho khắp mười phương ấm áp.
4. Làm cho pháp thiện sinh trưởng.
5. Làm cho hữu lậu diệt mất.
6. Thường hay soi sáng.
7. Hay làm cho tà đạo dị kiến che phủ biến mất.
8. Làm cho gò hố cao thấp đều được hiện rõ.
9. Làm cho tất cả nghiệp thiện được hưng khởi.
10. Làm cho người trí hỷ lạc, người ngu thêm oán ghét.
Thế nào gọi là Bồ-tát hay trừ vô minh đen tối?
Ví như khi mặt trời mọc, mọi không gian đen tối không còn. Cũng vậy, mặt trời Bồ-tát xuất hiện thì có thể trừ vô minh tăm tối của chúng sinh.
Như khi mặt trời mọc, muôn hoa cùng nở. Cũng vậy, mặt trời Bồ-tát xuất hiện, những ai cần nhận sự hóa độ cũng đều được khai ngộ.
Như khi mặt trời mọc, làm cho ấm áp khắp cả mười phương. Cũng vậy, mặt trời Bồ-tát xuất hiện, ánh sáng công đức trí tuệ làm cho mười phương ấm áp, không quấy nhiễu chúng sinh.
Như khi mặt trời sắp mọc, xem minh tướng biết có mặt trời sắp mọc. Bồ-tát cũng lại như vậy, dùng trí quang minh chiếu các thế gian, chúng sinh liền biết mặt trời Bồ-tát xuất hiện.
Như khi mặt trời lặn, mọi phương đều tối mịt, các vật không hiện rõ. Cũng vậy, Bồ-tát dùng ánh sáng trí tuệ nhập vào các Tam-muội làm cho hết thảy phiền não tối tăm, kết sử lậu hoặc đều diệt mất không còn.
Như khi mặt trời mọc, chiếu sáng cõi Diêmphù-đề, diệt hết thảy tối tăm, ánh sáng trí tuệ của Bồ-tát cũng hay chiếu khắp như vậy.
Như khi mặt trời mọc, ánh sáng phủ khắp, các ánh sáng nhỏ như: ánh sáng đom đóm, ánh lửa… thảy đều không hiện, mà mặt trời không cố tình che phủ các ánh sáng kia, chỉ vì bản chất của nó là vậy. Mặt trời Bồ-tát xuất hiện cũng lại như thế, che khắp hết thảy các dị kiến của đám tà kiến ngoại đạo.
Như khi mặt trời mọc, các vật tốt xấu, cao thấp trong cõi Diêm-phù-đề đều hiển lộ rõ nét. Mặt trời
Bồ-tát xuất hiện cũng lại như vậy, soi rõ đâu là chánh đạo, đâu là tà đạo. Tà là tám tà, chánh là tám chánh.
Như khi mặt trời mọc, nông phu ra đồng làm việc cày cấy. Mặt trời Bồ-tát xuất hiện cũng vậy, những chúng sinh tín tâm đều dốc tu thiện rộng khắp.
Như khi mặt trời xuất hiện, người thiện vui mừng, bọn gian dâm, trộm cướp đều ghét không ưa. Mặt trời Bồ-tát xuất hiện cũng vậy, người hiền, trí vui thích, đám ngoại đạo quần tà không ưa.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát như mặt trời.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp ví như sư tử.
Đó là:
1. Vô sở úy.
2. Không sợ đám đông.
3. Ra đi không bao giờ trở lại.
4. Hay gầm tiếng sư tử.
5. Đầy đủ biện tài.
6. Vui chốn rừng già.
7. Ở tại hang núi.
8. Thu phục đại chúng.
9. Đủ lực dũng mãnh.
10. Khéo giỏi giữ gìn.
Thiện nam! Thế nào là Vô sở úy?
Ví như sư tử vào ra, qua lại tự tại không sợ chướng nạn. Vì sao? Vì sư tử không thấy loài nào bằng nó cả. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, lượn quanh qua lại không e ngại chướng nạn. Vì sao? Vì Bồ-tát không thấy ai bằng mình.
Ví như sư tử không sợ quần, bầy. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, có các đại chúng muốn đến giảng luận, Bồ-tát không sợ vấn nạn, tâm cũng không cao thấp.
Ví như sư tử tâm không khiếp nhược, khi lâm trận tranh giành, lòng không thoái chuyển, thẳng tiến không lùi. Bồ-tát cũng lại như thế.
Như khi sư tử gầm lên thì chim rơi, thú núp, cá, giao, rùa, ba ba.. Thuộc thủy tánh đều ẩn trốn dưới đáy nước; người, súc vật đều kinh sợ. Bồ-tát cũng vậy, hành pháp vô ngã vang lừng như sư tử gầm, làm cho hết thảy đám dã can ngoại đạo, kẻ chấp trước nơi ngã kiến trong mười phương đều kinh sợ bỏ chạy. Đây không phải là Bồ-tát muốn làm cho những chúng sinh đó kinh sợ, chỉ vì nhằm dứt trừ tâm ngã kiến của họ, ngoài ra cũng vì hóa độ các chúng sinh có tín tâm.
Như sư tử chúa dũng mãnh vô úy, nhìn khắp bốn phương tâm không khiếp nhược. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, các hạnh thuần tịnh, trí tuệ Tammuội thường quan sát rõ.
Ví như sư tử thích chốn rừng già. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, thường vui sống một mình nơi thanh vắng, lìa xa chỗ náo nhiệt.
Lại như sư tử thích ở hang núi. Bồ-tát cũng vậy, thích chốn hang sâu thiền định Tam-muội.
Ví như sư tử không bị điều gì trói buộc. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, đã hoàn toàn lìa xa gánh nặng kết sử, hành hạnh không đắm nhiễm.
Ví như sư tử không bè nhóm, có khả năng quật ngã quần bầy. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, ngồi một mình nơi đạo tràng hàng phục chúng ma.
Thiện nam! Giống như sư tử sống gần làng mạc làm cho hươu, hoảng… không dám phá hoại các loại hoa màu xanh non. Bồ-tát cũng vậy, sống bất cứ nơi đâu cũng làm cho chúng ma, tất cả ngoại đạo không dám phá hoại chánh pháp.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát giống như sư tử.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là khéo giỏi điều phục. Những gì là mười?
Đó là:
1. Tâm Bồ-đề vững chắc.
2. Hoàn bị sự giác ngộ.
3. Thủ hộ các căn.
4. Hướng về chánh đạo.
5. Khéo gìn giữ chánh pháp.
6. Vì chúng sinh nên không khước từ lao khổ.
7. Sống đời chánh mạng.
8. Hay trừ những lời nói hư vọng dua nịnh.
9. Trừ sạch huyễn hoặc.
10. Tâm thường ngay thẳng.
Thiện nam! Đầy đủ mười pháp này gọi là Bồtát khéo điều phục.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là khéo hành hóa.
Đó là:
1. Tuy hành thiền định nhưng thường tu tướng không.
2. Tuy dứt sạch phiền não chướng mà vẫn thường tu đạo.
3. Tuy hay thuận theo pháp Phật mà không có chống trái.
4. Quán các pháp bình đẳng.
5. Thông hiểu pháp giới.
6. Tâm thường tự khiêm cung như Chiên-đà-la.
7. Hay trừ tâm cao ngạo, kiêu mạn chấp ngã.
8. Thấy biết các pháp chắc chắn không còn nghi hối. Khéo quan sát các pháp được tướng quyết định.
9. Giỏi vào chánh đạo không theo lời dạy của người khác. Giỏi hướng đến giác ngộ.
10. Ruộng phước của thế gian.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát khéo hành hóa.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp giống như hoa sen. Những gì là mười?
Đó là:
1. Thể tánh thanh tịnh.
2. Không bị dính nước.
3. Không nhiễm chút nhơ.
4. Đầy đủ giới hương. 5. Tu hành thanh tịnh.
6. Sắc diện tươi vui.
7. Mềm mại không cứng.
8. Ai thấy cũng được an lành.
9. Tâm ý thuần thục.
10. Sinh đã có tưởng.
Thế nào là không nhiễm vướng?
Như hoa sen sinh trong nước bùn mà không nhiễm bùn. Bồ-tát tuy sinh trong thế gian nhưng không bị pháp thế gian trói buộc. Vì sao? Vì Bồtát đã đạt được trí tuệ phương tiện.
Như hoa sen, nước không thể làm thấm nhiễm. Bồ-tát cũng vậy, không bị chút cấu uế làm đắm nhiễm.
Như hoa sen sinh mùi hương tỏa ngát xung quanh. Bồ-tát cũng vậy, trụ bất cứ nơi đâu giới hương cũng đầy đủ.
Ví như hoa sen, sinh bất cứ nơi đâu thể tánh cũng vẫn thanh tịnh, được các hàng Bà-la-môn, Sát-lợi, dân chúng nơi các thành ấp, làng mạc xưng tán. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, giới hạnh tinh khiết, được các chúng Trời, Người, A-tu-la, Dạxoa, Càn-thát-bà, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầula-già, Nhân và phi nhân… xưng tán, thường được chư Phật hộ niệm.
Như hoa sen nở, mọi người đều vui thích. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, sắc diện luôn tươi vui, các căn thanh tịnh, ai thấy cũng mến mộ.
Ví như hoa sen mềm mại không cứng. Bồ-tát cũng thế, thể tánh nhu hòa dịu dàng, nói lời không thô lỗ.
Ví như hoa sen thường được biểu trưng cho tướng tốt, cho đến trong mộng thấy hoa sen cũng gọi là tốt. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, tốt lành trên mọi phương tiện, hoàn toàn quyết định chứng được Nhất thiết trí. Do ý nghĩa ấy nên gọi là tất cả đều tốt.
Như lúc hoa sen chưa nở thì không gọi là đầy đủ, khi hoa sen đã nở mới gọi là thanh tịnh đầy đủ. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, tuệ giác bung nở thì gọi là Phật.
Như hoa sen nở, ai thấy cũng hết sức thích thú, chạm vào mềm mại, mùi hương tràn ngập, tâm ý vui vẻ, an lạc. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, trí tuệ thuần thục, tướng ánh sáng của trí tuệ làm cho khi thấy mắt được thanh tịnh, khi nghe tai được thanh tịnh, hương giới lan xa, mũi được thanh tịnh, thân tiếp xúc cúng dường thân được thanh tịnh, tư duy về công đức ý được thanh tịnh.
Khi hoa sen sinh, sinh đã có tưởng. Nếu khi Bồtát xuất hiện thì chư Phật, Bồ-tát và Tứ Thiên vương… cũng đều gìn giữ hộ trì, sinh đã có tưởng. Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát giống như hoa sen.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là tâm thù thắng lớn lao. Những gì là mười?
Đó là:
1. Bồ-tát đầy đủ các Ba-la-mật nên gọi là tâm thù thắng lớn lao.
2. Bồ-tát đầy đủ hết thảy pháp Phật nên gọi là tâm thù thắng lớn lao.
3. Bồ-tát hóa độ tất cả chúng sinh nên gọi là tâm thù thắng lớn lao.
4. Nơi cội Bồ-đề, Bồ-tát chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên gọi là tâm thù thắng lớn lao.
5. Bồ-tát mới thành Chánh giác liền chuyển pháp luân. Sa-môn, Bà-la-môn, Trời, Người, Ma, Phạm chẳng thể chuyển, ngoài thế gian cũng không ai có thể chuyển. Vì Bồ-tát đang chuyển nên gọi là tâm thù thắng lớn lao.
6. Vì muốn làm lợi ích cho chúng sinh nên Bồtát không chỉ ở thế giới này mà còn ở vô lượng, vô biên thế giới khác, cũng đem chánh pháp thâu giữ chúng sinh cho nên gọi là tâm thù thắng lớn lao.
7. Bồ-tát dùng thuyền trí tuệ vì nhằm cứu độ chúng sinh đang lưu chuyển trong biển lớn sinh tử cho nên gọi là tâm thù thắng lớn lao.
8. Chúng sinh không có nhà cửa, không có chủ, không nơi nương tựa, không ai cứu giúp, vì thế Bồtát thân cận, gần gũi, làm chỗ nương tựa cho chúng sinh, do vậy gọi là tâm thù thắng lớn lao.
9. Vì muốn thị hiện oai đức của Như Lai nên Bồ-tát gầm tiếng gầm sư tử như Phật. Bồ-tát hiện bày thần thông diệu dụng như Phật. Bồ-tát muốn hiện tướng oai nghi của voi quý, nhìn thẳng không ngoái lui, muốn vượt hơn Trời, Người, Ma, Phạm, Sa-môn, Bà-la-môn, A-tu-la… cùng hết thảy chúng sinh không ai sánh bằng Bồ-tát, nên gọi là tâm thù thắng lớn lao.
10. Phật với oai đức lớn đã hóa độ chúng sinh, Bồ-tát muốn làm được như Ngài thì chẳng hành hạnh phàm, tiểu, chẳng hành hạnh thô xấu, chẳng hành hạnh chướng nạn, chẳng hành hạnh thấp kém, nên gọi là tâm thù thắng lớn lao.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát đạt tâm lớn lao tối thắng.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là tâm thanh tịnh.
Đó là:
1. Thể tánh đầy đủ, thể tánh không động, thể tánh chất trực.
2. Tướng không hư ngụy.
3. Trừ các hạnh ác.
4. Không phát tâm Thanh văn, không phát tâm Bích-chi-phật.
5. Không vì trần cấu kết sử của mình mà tu tập các công đức.
6. Ân nhỏ còn nhớ đền đáp, huống nữa là ân lớn. Thi ân cho người không cầu đền đáp, không ỷ thị.
7. Ngôn hạnh tương ưng, trọn không sai lầm.
8. Không che giấu lỗi mình, cũng không chê bai lỗi người khác.
9. Trọn đời Bồ-tát không bao giờ bên ngoài nói lời mềm mỏng mà trong lòng ôm thù hận. Cũng không nhăn nhó, hiện sắc sân hận, hành xử thô bạo khiến chúng sinh đau khổ.
10. Tự tâm không tranh cãi, cũng không khiến cho người khác khởi lên sự tranh cãi; không nói hai lưỡi gây tranh chấp, phá hoại, não loạn người khác. Thân thường cung kính, nói lời chân thật; ngôn hạnh tương xứng, đều tạo nghiệp thiện đối với pháp Như Lai, không nói lời hủy báng. Phát tâm Bồ-đề, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, được xuất gia ở trong giáo pháp của Phật chẳng vì sợ vua mà xuất gia, chẳng vì sợ vương thần mà xuất gia.
Chẳng vì làm đạo tặc mà xuất gia, chẳng vì trốn nợ mà xuất gia, chẳng vì lo sợ mà xuất gia, chẳng vì tà mạng mà xuất gia, mà chính vì tín tâm nên xuất gia. Được xuất gia rồi, luôn cầu pháp thiện, thân cận thiện hữu, tùy thuận bạn lành, ghi nhận pháp lành của bậc Tri thức thiện dạy bảo. Nghe pháp tu hành, tâm không kiêu mạn, trọn không điên đảo chấp giữ theo pháp hư vọng. Trừ bỏ điên đảo thì nhập vào chánh đạo. Nhập vào chánh đạo rồi liền được chánh kiến. Được chánh kiến rồi thì hành trình chứng ngộ đạo quả Bồ-đề vô thượng không còn xa.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát đạt tâm thanh tịnh.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là tin sâu, không nghi. Đó là:
1. Tin thân vi mật của Như Lai.
2. Tin khẩu vi mật của Như Lai.
3. Tin ý vi mật của Như Lai.
4. Tin vào nẻo hành hóa của chư Bồ-tát.
5. Tin pháp Bồ-tát.
6. Tin vào chư Phật, theo đó tu tập khiến được đầy đủ, trọn vẹn.
7. Tin chư Phật ra đời.
8. Tin pháp nhất thừa của chư Phật.
9. Tin chư Phật với âm thanh sâu xa.
10. Tin chư Phật tùy theo chúng sinh mà thuyết pháp ứng hợp.
Thế nào là tin thân vi mật của Như Lai?
Đó là tin Pháp thân của Như Lai. Tin thân Như Lai là tịch diệt. Tin thân Như Lai là vô lượng, vô đẳng. Tin thân Như Lai là kiên cố. Tin thân Như Lai là bất hoại. Tin thân Như Lai như kim cương, sinh từ như thật… Tin hiểu như vậy không hư dối, cũng không sinh nghi hoặc. Đây gọi là Bồ-tát tin thân vi mật của Như Lai.
Lại tư duy tiếp: “Nghe Như Lai có khẩu mật, như thọ ký hiện tại, thọ ký bí mật, thọ ký người chưa phát tâm, thọ ký người mới phát tâm. Tin chư Phật thường dùng bốn thứ y chỉ để thuyết pháp. Tin chư Phật hiểu biết không sai lầm. Tin chư Phật nói lời không sai lầm. Như trước đã nói, tin chư Phật không nói lời hư vọng. Vì sao? Vì chư Phật đã đoạn tận tất cả sai lầm, dứt trừ hết thảy trần cấu, không còn một mảy may nhiệt não, đoạn hết các kết nghiệp, tự tại vô ngại, tâm thường vắng lặng như nước tinh khiết, trong suốt không một chút bợn. Nếu nói Như Lai thân khẩu có lỗi lầm, điều này không hề xảy ra. Quyết chắc điều ấy là như thật, không hư vọng, không sinh nghi hoặc. Đây gọi là Bồ-tát tin khẩu vi mật của Như Lai.”
Bồ-tát lại nhớ nghĩ: “Nghe Như Lai có ý vi mật, mỗi khi tâm tạo tác đều tùy theo trí tuệ. Tâm đó hàng Thanh văn, Duyên giác cùng tất cả Bồ-tát chẳng thể biết được, chỉ trừ khi Như Lai muốn khiến cho người đó biết. Vì sao? Vì trí tuệ của Như Lai rộng lớn, sâu xa như biển, khó dò, chẳng thể nghĩ bàn, vượt qua hết thảy mọi biểu hiện của tâm ý, vô lượng, vô biên như cõi hư không, vượt qua hết thảy sự hiểu biết của ngoại đạo chiêm tinh, xem tướng, chú thuật. Tâm của Như Lai thường như thật, không có hư vọng.”
Lại nghe các Bồ-tát vì chúng sinh tạo dựng sự nghiệp không hề chán mệt, không sinh kinh sợ, ý chí kiên cường, gánh vác việc lớn, ấp ủ hoài bão lớn, muốn thành tựu đầy đủ các Ba-la-mật, hết thảy pháp Phật lớn dần viên mãn. Tâm của Bồ-tát vô ngại không ai sánh bằng, tinh tấn kiên cố, trang nghiêm kiên cố, trí tuệ kiên cố, thệ nguyện kiên cố, thệ nguyện bất động, thệ nguyện không ai bằng. Vì sao? Vì ưng tướng với đạo quả Bồ-đề ngày càng tăng trưởng rộng lớn, cho đến khi viên mãn, biết điều này đúng như thật không có hư vọng, tâm không nghi hoặc.
Thế nào là tu tập tin chắc không nghi?
Bồ-tát suy nghĩ: Từ lúc mới phát tâm cho đến khi ngồi nơi đạo tràng, được trí biết khắp tất cả pháp, rõ ràng cùng tột không có chướng ngại, được Thiên nhĩ, Thiên nhãn, tha tâm, túc mạng, như ý túc trí, lậu tận trí, trong một sát-na biết cả ba đời. Dùng trí như vậy quan sát thế giới chúng sinh, thấy chúng sinh thân nghiệp bất thiện, khẩu nghiệp bất thiện, ý nghiệp bất thiện, hủy báng Hiền thánh, khởi đại tà kiến. Bồ-tát biết rõ những người tạo nghiệp là nhân duyên của tà kiến như vậy, khi thân hoại mạng chung sẽ bị đọa vào địa ngục lớn.
Cũng quán như vậy, Bồ-tát thấy chúng sinh thân nghiệp tu thiện, khẩu nghiệp tu thiện, ý nghiệp tu thiện, không hủy báng Hiền thánh, thành tựu chánh kiến, vì nhân duyên ấy nên thân hoại mạng chung được sinh về cõi trời. Bồ-tát quan sát thấy các chúng sinh thiện ác sai biệt như vậy, liền nhớ nghĩ: “Khi xưa ta tu đạo Bồ-tát, phát đại thệ nguyện: Nếu bản thân ta được giác ngộ thì cũng khiến cho kẻ khác được giác ngộ như vậy. Ta thệ nguyện đầy đủ, ngôn hạnh chân thật, không có hư vọng.” Đối với những điều này Bồ-tát không có nghi hoặc.
Nghe Như Lai chỉ có một thừa, việc này chân thật không điên đảo, không hư vọng. Vì sao? Vì ví như vô số cồn cát nhỏ trong cõi Diêm-phù-đề, những cồn cát nhỏ này đều nương vào cõi Diêmphù-đề mà tồn tại. Nó cũng đồng một tên là Diêmphù-đề. Nhất thừa của Như Lai cũng lại như vậy, hết thảy các thừa đều xuất ra từ Đại thừa. Do vậy, nhất thừa gọi là Như Lai Đại thừa. Đối với điều này Bồ-tát biết rõ, không nghi hoặc, tin sâu vào Như Lai thừa.
Bồ-tát cũng từng nghe Đức Như Lai thuyết pháp cho tất cả mọi tầng lớp, kinh điển nhiều, đủ loại, chân thật không hư dối. Vì sao? Vì Đức Như Lai tùy theo chúng sinh mà hóa độ, tùy theo câu hỏi pháp của chúng sinh mà trả lời cho họ. Đối với sự việc này, Bồ-tát biết rõ như thật, tin thọ không nghi.
Bồ-tát từng nghe âm thanh vi diệu sâu xa của chư Phật, việc này chân thật, lòng tin chắc chắn, không nghi hoặc. Vì sao? Vì chư Thiên tu ít phước mà còn được âm thanh thanh thoát vi diệu, huống nữa là Đức Như Lai đầy đủ vô lượng trăm ngàn vạn ức công đức. Do vậy Bồ-tát tin sâu điều này, không sinh nghi hoặc. Đây gọi là Bồ-tát tin vào âm thanh sâu xa của Đức Như Lai.
Lại tin Như Lai thuyết pháp chỉ dùng một thứ tiếng, có khả năng trừ hết mọi nghi hoặc, tùy theo từng loại tâm tính khác nhau. Các chúng sinh này đều nghĩ: “Đức Thế Tôn chỉ giảng nói riêng cho một mình ta.” Hoặc dùng một thứ tiếng diễn thuyết các pháp, các chúng sinh tuy mỗi loại khác nhau nhưng tất cả đều được tin hiểu, chẳng tác tưởng, cũng chẳng không tác tưởng. Biết rõ như thật không có hư vọng. Đối với điều này, Bồ-tát không sinh nghi hoặc.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát tin sâu, không nghi hoặc.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp giống như biển lớn. Những gì là mười?
Đó là:
1. Kho chứa châu báu lớn.
2. Sâu xa khó dò.
3. Rộng lớn vô lượng.
4. Càng ra càng sâu.
5. Không ở chung một chỗ với phiền não.
6. Một tướng tịch diệt.
7. Dung nạp tất cả các sông đua nhau đổ về.
8. Nước thủy triều lên đúng giờ không sai.
9. Hay vì tha nhân làm nơi nương tựa.
10. Không bao giờ khô cạn, cùng tận.
Thế nào là Bồ-tát như kho chứa châu báu lớn?
Cũng như đại dương, hết thảy châu báu đều có trong đó. Người cõi Diêm-phù-đề đều đến đó lấy của báu nhưng không thể làm cho kho báu giảm cạn. Bồ-tát cũng vậy, giống như kho báu, vô lượng chúng sinh đều đem tín tâm tu hạnh Bồ-tát mà kho công đức báu ấy cũng không có giảm. Đây gọi là Bồ-tát như kho báu lớn.
Ví như biển cả sâu rộng, khó dò. Biển pháp trí tuệ của Bồ-tát cũng lại như vậy. Hết thảy chúng ma và các ngoại đạo không thể lường xét được. Đây gọi là Bồ-tát sâu rộng khó dò.
Ví như biển cả rộng lớn vô biên. Bồ-tát cũng vậy, công đức trí tuệ rộng lớn vô biên. Đây gọi là Bồ-tát giống như biển cả sâu rộng vô biên.
Ví như biển lớn càng lội ra càng sâu, Đại Bồtát thành tựu Nhất thiết trí ngày càng sắc bén. Đây gọi là Bồ-tát giống như biển lớn từ cạn đến sâu.
Ví như biển cả không chứa thây chết. Vì sao? Vì pháp của biển là như vậy. Biển pháp của Bồ-tát cũng lại như vậy, không dung chứa những tử thi phiền não, lậu hoặc, kết sử và tri thức ác. Vì sao? Vì pháp của Bồ-tát là như vậy.
Ví như biển cả, tất cả các dòng chảy ở trong đó đều đồng một vị. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, hết thảy công đức của vô lượng nghiệp thiện bạch tịnh vào biển chủng trí đều đồng một vị bình đẳng không sai biệt.
Ví như biển cả có thể dung chứa trăm ngàn dòng sông nhưng biển lớn lại không tăng không giảm. Bồ-tát cũng vậy, ghi nhận hết thảy pháp Phật, vì chúng sinh phân biệt giải nói cũng không tăng không giảm. Đây gọi là Bồ-tát giống như biển cả không tăng không giảm.
Như biển cả nước lên xuống đúng thời, Bồ-tát cũng lại như vậy, những chúng sinh cần được thành thục, Bồ-tát làm cho thành thục đúng thời, không quá hạn.
Giống như biển cả là nơi hết thảy chúng sinh thân lớn nương vào sinh sống. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, với tâm niệm rộng lớn làm nơi nương tựa cho tất cả chúng sinh. Đây gọi là Bồ-tát giống như biển lớn làm nơi nương tựa.
Ví như biển cả không có cùng tận. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, vì tất cả chúng sinh mà thuyết pháp cũng không cùng tận.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát giống như biển cả.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là trí vi tế. Đó là:
1. Thông hiểu sự xuất yếu.
2. Thông hiểu pháp xuất yếu.
3. Thông hiểu tất cả pháp xuất yếu bình đẳng đồng một tướng.
4. Thông hiểu tất cả pháp như huyễn hóa.
5. Thông hiểu tất cả pháp tướng.
6. Thông hiểu sâu xa mười hai nhân duyên.
7. Thông hiểu các nghiệp không thể nghĩ bàn.
8. Thông hiểu nghĩa tất cả các pháp.
9. Thông hiểu về nghĩa như thật.
10. Thông hiểu trí như thật.
Thiện nam! Thế nào gọi là Bồ-tát thông hiểu pháp xuất yếu?
Bồ-tát dùng trí tuệ quan sát thấy tất cả chúng sinh bị lửa tham, sân thiêu đốt hừng hực, ngu si làm mê tối. Bồ-tát suy nghĩ: “Làm thế nào để chúng sinh vượt thoát khỏi?”
Bồ-tát quán tất cả pháp bình đẳng đồng một tướng
Biết tất cả pháp như huyễn, mộng.
Biết tất cả pháp một cách như thật.
Có khả năng vượt qua nhân duyên sâu xa.
Biết nghiệp không thể nghĩ bàn.
Biết hết thảy các pháp đều vô tướng.
Biết tất cả các loại nghiệp.
Biết duyên khởi và các tướng nơi nghiệp.
Do trí tuệ vi tế như vậy nên Bồ-tát thấu rõ nghĩa các pháp của chư Phật giảng nói. Do hiểu nghĩa nên thấy được chân thật. Do thấy chân thật nên liền có khả năng độ thoát chúng sinh khỏi biển sinh tử. Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát có trí tuệ vi tế.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp được tùy thuận biện tài ứng hợp. Phật giảng nói như vầy:
1. Tất cả các pháp không ngã.
2. Không chúng sinh.
3. Không thọ mạng.
4. Không nhân.
5. Không tác giả.
6. Không trí giả.
7. Không kiến giả.
Tướng của các pháp là như vậy.
8. Tất cả pháp là “không.”
9. Tất cả pháp là hư vọng, khi dối, vô chủ.
10. Tất cả pháp là tướng hư vọng không thật, đều từ nhân duyên hợp khởi.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát tùy thuận biện tài ứng hợp.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là biện tài về ngôn từ. Đó là:
1. Luận đàm thông suốt.
2. Giàu vốn từ ngữ.
3. Ngôn từ dịu dàng.
4. Vui vẻ hoan hỷ.
5. Không sợ đám đông.
6. Lời nói không thấp kém.
7. Lời nói không lo sợ.
8. Lời nói không ai sánh bằng.
9. Giảng nói không bị người khác ghét bỏ.
10. Giảng nói tuy nhiều nhưng không lìa nghĩa bốn thứ y chỉ.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát đầy đủ biện tài về ngôn từ.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là đạt biện tài thanh tịnh.
Đó là:
1. Lời nói luôn lưu loát.
2. Nói thẳng không kinh sợ.
3. Lời nói không thấp kém.
4. Lời nói không thô, cao.
5. Nghĩa không nông cạn.
6. Ngôn từ không khiếm khuyết.
7. Âm thanh trong trẻo.
8. Giọng nói luôn đầy đủ thuyết phục.
9. Nói đúng thời, không sai lầm.
10. Biện tài không thô bạo.
Thế nào là Bồ-tát biện tài luôn lưu loát?
Vì Bồ-tát không hề sợ oai đức nơi đại chúng nên biện tài luôn lưu loát.
Thế nào là Bồ-tát biện tài không kinh sợ?
Vì bản tánh ngay thẳng nên Bồ-tát không sợ sệt.
Thế nào là Bồ-tát biện tài không thấp kém?
Vì Bồ-tát ở nơi đại chúng, giống như sư tử không sợ chướng nạn.
Thế nào là Bồ-tát biện tài không thô lậu, cao ngạo?
Vì Bồ-tát đã dứt trừ sạch hết kết sử.
Này thiện nam! Nếu Bồ-tát còn phiền não thì chắc chắn lời nói thô lậu, cao ngạo.
Thế nào là Bồ-tát hiểu nghĩa không nông cạn?
Vì Bồ-tát thông đạt pháp, thấu rõ được nghĩa lý sâu xa của pháp.
Thế nào gọi là Bồ-tát biện tài luôn đầy đủ, thuyết phục?
Vì Bồ-tát thông hiểu các sự luận lý. Nếu Bồ-tát hiểu biết sự luận lý một cách hời hợt thì biện tài sẽ thiếu sót, không thuyết phục.
Thế nào là Bồ-tát tiếng nói không khiếm khuyết?
Vì Bồ-tát hiểu được tất cả các thứ âm thanh.
Sao gọi là Bồ-tát biết thời mới nói?
Vì khi Bồ-tát giảng nói là thích hợp với thời gian trước mà không ảnh hưởng tới thời điểm sau; hoặc thích hợp thời điểm sau mà không ảnh hưởng tới thời điểm trước. Vì sao? Vì Bồ-tát luôn khéo biết thời.
Thế nào gọi là Bồ-tát biện tài không thô bạo?
Khi Bồ-tát không an vui thì không giảng nói. Vì sao? Vì tất cả lời nói thô bạo đều do các kết sử kết tập. Do vậy, đoạn dứt lời nói thô ác thì lời nói được nhu hòa, dịu dàng. Đại Bồ-tát biện tài được thông suốt, vì sao? Vì các căn của Bồ-tát đều đã thông lợi.
Này thiện nam! Nếu các căn ám độn thì chẳng thể biện tài thông suốt được. Lợi căn thì không như vậy.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát đạt biện tài thanh tịnh.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là lạc thuyết biện tài.
Đó là:
1. Ái ngữ.
2. Lời nói không cau có.
3. Lời nói đúng nghĩa.
4. Lời nói đúng pháp.
5. Lời nói bình đẳng.
6. Lời nói không tự cao.
7. Nói không khinh người.
8. Nói không nhiễm chấp.
9. Nói không gây xúc não.
10. Biện tài đủ loại.
Thiện nam! Bồ-tát nói lời êm dịu làm cho chúng sinh tâm sinh hỷ lạc, sắc diện vui tươi, an ổn.
Bồ-tát biện tài đúng nghĩa lý, hay dùng lời nói tươi đẹp làm cho chúng sinh an vui.
Bồ-tát dạy bảo phép tắc tạo lợi ích.
Bồ-tát biện tài bình đẳng thường đem tâm bình đẳng vì chúng sinh thuyết pháp, làm cho tất cả đều được hỷ lạc.
Bồ-tát thuyết pháp lòng không tự cao, trừ bỏ tâm kiêu mạn tự thị.
Bồ-tát đồng sự thuyết pháp, ân cần làm vui lòng chúng sinh.
Bồ-tát thuyết pháp tâm luôn chuyên nhất, không khinh người khác.
Bồ-tát thuyết pháp lòng trong sạch, giữ gìn giới tịnh nên chúng sinh vui thích.
Bồ-tát thuyết pháp không gây xúc não, dùng sức nhẫn nhục nên chúng sinh an vui.
Bồ-tát thuyết pháp đủ loại ngôn từ, hay dùng lời nói an lành làm vui lòng chúng sinh.
Này thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát đạt lạc thuyết biện tài.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là thuyết pháp thích hợp khiến chúng sinh tin thọ. Đó là:
1. Thuyết pháp cho người có khả năng làm bậc pháp khí.
2. Thuyết pháp xứng hợp căn tánh của người đó.
3. Không thuyết pháp cho người châm biếm, quở mắng.
4. Không thuyết pháp cho ngoại đạo, dị kiến.
5. Không thuyết pháp cho người tâm kiêu mạn, không thành thật.
6. Không thuyết pháp cho người không có tín tâm.
7. Không thuyết pháp cho kẻ dua nịnh, dối trá.
8. Không thuyết pháp cho người tham cầu mạng sống.
9. Không thuyết pháp cho người cầu lợi dưỡng, tham lam, keo kiệt, ganh ghét.
10. Không thuyết pháp cho người điên cuồng, ngu si, câm điếc.
Thiện nam! Vì nhân duyên gì Bồ-tát không keo kiệt đối với chánh pháp?
Vì chính bản thân Bồ-tát đã được pháp rồi, muốn cho chúng sinh cùng được tin hiểu. Không làm người thầy giỏi mà giấu cất không giảng nói. Trọn đời không bao giờ Bồ-tát đối với chúng sinh mà không khởi tâm thương xót. Nhưng đối với chúng sinh không thể làm bậc pháp khí thì Bồ-tát đành nhập tâm Xả.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Những chúng sinh như vậy, nếu không giảng nói cho họ thì giảng nói cho ai?
Đức Phật đáp:
–Ta nên nói cho người có tín tâm.
Người thiện căn thành thục có khả năng làm bậc pháp khí thì nên giảng nói cho họ.
Đối với chư Phật quá khứ, người đã trồng các căn lành, tâm không tà nịnh, không dối trá, cũng không huyễn hoặc, không giả hiện oai nghi, không cầu danh lợi.
Người thường được tri thức thiện ủng hộ, gìn giữ.
Người có trí nghe pháp theo đó có khả năng tìm hiểu.
Người các căn lanh lợi.
Người nghe pháp có khả năng hành trì tinh tấn.
Người có khả năng tùy thuận lời dạy của Phật.
Nếu có những thiện nam, thiện nữ như vậy thì chư Phật và Bồ-tát sẽ thuyết pháp cho họ.
Thiện nam! Đủ mười việc ấy gọi là Bồ-tát có khả năng thuyết pháp giỏi, làm cho chúng sinh tin thọ.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là bậc thầy thuyết pháp.
Đó là:
1. Tu tập pháp Phật.
2. Có khả năng thuyết pháp nhưng không thấy có pháp để tu tập.
3. Cũng không thấy có pháp có thể đoạn trừ kết sử mà thuyết pháp. Cũng không thấy có kết sử bị đoạn. Cũng không thấy có pháp chán ác. Cũng chẳng thủ đắc tướng lìa dục. Cũng chẳng thủ đắc tướng tịch diệt.
4. Đắc quả Tu-đà-hoàn mà thuyết pháp, không thấy có tướng Tu-đà-hoàn
5. Đắc quả Tư-đà-hàm mà thuyết pháp, không thấy có tướng Tư-đà-hàm.
6. Đắc quả A-na-hàm mà thuyết pháp, không thấy có tướng A-na-hàm.
7. Đắc quả A-la-hán mà thuyết pháp, không thấy có tướng A-la-hán.
8. Đắc quả Bích-chi-phật mà thuyết pháp, không thấy có tướng Bích-chi-phật.
9. Đoạn trừ chấp trước nơi ngã mà thuyết pháp, cũng không thấy ngã, không thấy chấp trước.
10. Thấy quả báo của nghiệp mà thuyết pháp, cũng không thấy tướng nơi quả báo của nghiệp. Vì sao? Vì Bồ-tát quán tất cả các pháp đều giả danh nên hoàn toàn không nương vào pháp; và vì trong danh không pháp, trong pháp không danh. Nhưng vì thế tục mà Bồ-tát giả bày danh tự để giảng giải, lưu hành nơi thế gian. Vì thế đế mà có giả danh, còn đối với Đệ nhất nghĩa đế thì hoàn toàn là không, đều là hư vọng, dối hoặc phàm phu.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát làm bậc thầy thuyết pháp.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là đạt pháp kiên cố.
Đó là:
1. Đại Bồ-tát tuy quán sắc một cách chân thật, nhưng không hủy hoại tướng của sắc.
2. Quán thọ, tưởng, hành, thức một cách chân thật nhưng không hủy hoại tướng của thọ, tưởng, hành, thức.
3. Bồ-tát tuy quán Dục giới một cách chân thật nhưng không hủy hoại tướng của Dục giới.
4. Tuy quán Sắc giới một cách chân thật nhưng không hủy hoại tướng của Sắc giới.
5. Tuy quán Vô sắc giới một cách chân thật nhưng không hủy hoại tướng của Vô sắc giới.
6. Tuy quán các pháp một cách chân thật nhưng không hủy hoại tướng của các pháp.
7. Tuy quán các pháp một cách chân thật nhưng không hủy hoại giả danh nơi chúng sinh.
8. Tuy quán các pháp là rỗng lặng nhưng hoàn toàn không rơi vào đoạn kiến.
9. Tuy quán các pháp một cách chân thật nhưng không hủy hoại chánh đạo.
10. Bồ-tát dùng trí tuệ phương tiện thiện xảo thông hiểu pháp “có”, “không” mà không chấp giữ nơi tướng.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát đạt pháp kiên cố.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp hiểu thông pháp giới.
Đó là:
1. Có trí tuệ.
2. Nương vào tri thức thiện.
3. Chuyên cần tinh tấn.
4. Xa lìa mọi ấm cái.
5. Thanh tịnh.
6. Cung kính.
7. Hằng tập không quán.
8. Trừ các kiến chấp.
9. Hướng về chánh đạo.
10. Thấy biết chân thật.
Thiện nam! Bồ-tát có trí tuệ nên gần gũi tri thức thiện. Thấy tri thức thiện, Bồ-tát sinh tâm ái kính vui vẻ. Đối với tri thức thiện, Bồ-tát sinh tưởng như Thế Tôn, nương vào tri thức thiện mà sống. Nhờ tri thức thiện, Bồ-tát chuyên cần tinh tấn. Nhờ tri thức thiện, Bồ-tát có khả năng trừ sạch tất cả các pháp ác. Bồ-tát tuy đầy đủ hết thảy pháp thiện nhưng vẫn chuyên cần tinh tấn, không biếng trễ. Bồ-tát trừ diệt những thứ ngăn che, gây chướng ngại, tuy chúng không còn nhưng vẫn chuyên cần tu đạo, được thân, khẩu, ý nghiệp thanh tịnh, trừ các tập ác. Do được thanh tịnh nên hay cung kính cúng dường. Do cung kính cúng dường nên được quán không. Do tu quán không nên trừ được các giả danh. Trừ các giả danh nên hay hướng về chánh đạo. Hướng về chánh đạo nên thấy biết chân thật.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là thấy biết chân thật?
Đức Phật đáp:
–Thấy biết không sai lầm gọi là thấy biết chân thật.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là chân thật?
Đức Phật đáp:
–Pháp không hư vọng gọi là chân thật.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là không hư vọng?
Đức Phật đáp:
–Như thật, chẳng phải là không như thật, gọi là không hư vọng.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là như thật?
Đức Phật đáp:
–Pháp đây chỉ có tâm mới biết, khó dùng miệng nói, văn tự chẳng thể diễn bày, giải thích.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là pháp tướng lìa văn tự?
Đức Phật đáp:
1. Cắt đứt con đường ngôn ngữ.
2. Vượt qua hết thảy ý niệm nơi các nẻo hành hóa của tâm.
3. Xa lìa các hý luận.
4. Không tạo không tác.
5. Cũng không đây, kia.
6. Chẳng thể trù lượng tính toán mà có thể vói kịp.
7. Cũng chẳng có tướng mạo.
8. Vượt qua mọi sự thấy biết của phàm phu.
9. Vượt qua cảnh giới của ma, vượt qua hết thảy xứ sở của kết sử, vượt qua tất cả mọi biểu thị của tâm ý thức.
10. Không trụ nơi xứ sở tịch diệt của Hiền thánh, nhưng các Hiền thánh tự chứng biết.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là rốt ráo như thật, là chỗ nêu bày của Nhất thiết trí, là cảnh giới bất nhị, cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Tướng như thật này làm sao chứng được? Làm sao thấy được?
Phật dạy:
–Này thiện nam! Chỉ có trí xuất thế gian mới có thể “chứng”, mới có thể “kiến”, tự đạt được pháp ấy.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng lại bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Thể tánh của pháp ấy tuyệt đối thanh tịnh, chẳng phải là pháp nhiễm ô, là pháp trong lặng tịch tĩnh, là pháp vi diệu tối thắng, thường trụ, bất động, chẳng phải pháp hư hoại, có Phật hay không có Phật, pháp tánh vẫn thường như vậy. Đại Bồ-tát tinh tấn tu hành hạnh khó, hạnh khổ, trải qua trăm ngàn vạn ức hạnh khó hạnh khổ mới đạt được pháp này, an lập cho chúng sinh.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng lại bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Như dùng văn tuệ nghe tên gọi ấy, dùng tư tuệ tư duy vấn đề ấy thì tự thân có thể chứng đắc pháp ấy không?
Phật đáp:
–Này thiện nam! Không thể được. Vì sao? Vì chỉ có dùng trí tuệ quán pháp một cách như thật, tự thân mới có thể chứng đắc.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Không từ văn tuệ nghe, không từ tư tuệ tư duy vấn đề này, tự thân có thể chứng đắc không?
Phật đáp:
–Này thiện nam! Chẳng thể được. Không thể dùng văn tuệ, tư tuệ mà tự thân có thể chứng đắc.
Này thiện nam! Nay ông hãy lắng nghe, ta sẽ nói thí dụ.
Này thiện nam! Ví như vào cuối mùa Xuân, khí trời nóng bức, giữa vùng đất hoang rộng lớn, có người từ hướng Đông đi về hướng Tây và có người từ hướng Tây đi về hướng Đông. Người đi từ hướng Tây bị nóng bức bách, nói với người kia: “Tôi nay bị nắng thiêu đốt, cổ khô khát nước, anh chỉ giúp cho gần đây nơi nào có ao nước trong mát có thể uống được?”
Người đến từ phương Đông biết rõ đường đi, biết rõ ngõ ngách dẫn tới chỗ có nước, liền đáp: “Giữa đường có ao nước ngọt trong mát, không bị mặn, không khó uống. Ở đó tôi đã tắm rửa, uống no mới đến được nơi đây. Này anh bạn! Anh muốn tới chỗ đó, đường có rất nhiều ngả. Từ đây đi không bao xa, liền gặp hai con đường: một đường là rẽ trái, một đường là rẽ phải. Anh nên đi con đường bên phải, bỏ con đường bên trái. Đi tiếp không lâu, anh sẽ thấy khu rừng có cây tươi tốt, mát mẻ. Trong khu rừng này có nhiều ao suối xinh đẹp, nước chảy mát ngọt, có thể tắm rửa, uống hết cơn khát.”
Phật bảo:
–Này thiện nam! Người khát nước kia nghe nói đến nước liền tư duy: “Vậy người ấy có được hết khát không?”
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Không thể được, bạch Thế Tôn! Tuy được nghe nói đến nước mát ngọt nhưng người đó thân chưa chứng biết.
Phật bảo:
–Này thiện nam! Đây cũng như vậy, chẳng thể dùng văn tuệ, tư tuệ… mà có thể chứng biết tướng thật của pháp. Đồng trống rộng lớn là dụ cho cõi sinh tử. Người khát nước là dụ cho phàm phu bị vô số phiền não nóng bức trói buộc, nên sinh khát ái. Người thành thạo đường đi là dụ cho Bồ-tát biết rõ con đường đi tới Nhất thiết trí. Người uống được nước là dụ cho việc đạt được pháp vị. Tắm rửa mát mẻ là dụ cho thân chứng. Nước lắng trong mát không bị mặn là dụ cho pháp chân thật.
Này thiện nam! Nay ông lắng nghe, ta lại nói ví dụ: Giả sử Như Lai trụ ở cõi Diêm-phù-đề, thọ mạng một kiếp, nói về mùi vị Tu-đà: mùi hương thắng diệu, ngọt thơm thanh khiết, khi ăn cảm thấy diệu lạc, chắc chắn thảy đều khen mùi vị của nó không gì sánh bằng. Giả sử có người tuy thấy sắc tướng của nó nhưng chưa ăn thì biết được mùi vị chăng?
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Không, bạch Thế Tôn!
Phật bảo:
–Này thiện nam! Nay ta vì ông lại nói thí dụ: Ví như có người đã từng ăn quả ngọt, mùi vị thơm phức. Đối trước người bạn chưa ăn quả ấy, người đó khen ngợi quả này đầy đủ sắc, hương, vị. Khi nghe nói về quả ấy, người bạn kia biết được sắc, hương, vị của quả ấy chăng?
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Không, bạch Thế Tôn!
Phật bảo:
–Này thiện nam! Phàm phu ngu si cũng lại như vậy. Không dùng tuệ trong văn, tư mà cho là có thể chứng biết pháp tướng chân thật.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nay vì con mà Ngài nói những thí dụ này. Nếu ai nghe được những thí dụ ấy thì không lâu cũng sẽ đạt được pháp lợi. Vì sao? Vì nếu nghe pháp này thì chắc chứng không thoái chuyển, sẽ đắc quả vị Bồ-đề vô thượng.
Phật đáp:
–Đúng như lời ông nói, ai nghe được pháp này chắc chắn chứng không thoái chuyển, sẽ đắc quả vị Bồ-đề vô thượng.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát thông hiểu pháp giới.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có mười pháp gọi là khéo trụ nơi không xứ.
Đó là:
1. Thông hiểu về lực không.
2. Thông hiểu về vô úy không.
3. Thông hiểu về bất cộng pháp không.
4. Thông hiểu về giới tụ không.
5. Thông hiểu về định tụ không.
6. Thông hiểu về tuệ tụ không.
7. Thông hiểu về giải thoát tụ không.
8. Thông hiểu về giải thoát tri kiến tụ không.
9. Thông hiểu về không không.
10. Thông hiểu về thật đế không.
Tuy biết rõ không mà chẳng chấp giữ nơi tướng không, chẳng tác kiến về không, chẳng y chỉ nơi không, chẳng vì tướng trạng nhân duyên của không ấy mà rơi vào đoạn kiến.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát khéo trụ nơi không xứ.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là trụ nơi vô tướng.
Đó là:
1. Trừ tướng bên ngoài.
2. Trừ tướng bên trong.
3. Trừ tướng hý luận.
4. Trừ hết thảy tướng tính toán.
5. Trừ hết thảy tướng cảnh giới.
6. Trừ hết thảy tướng cử động.
7. Trừ hết thảy tướng hướng tới xứ sở.
8. Trừ hết thảy tướng tạo tác.
9. Trừ hết thảy tướng của thức.
10. Trừ hết thảy tướng nơi đối tượng duyên của thức.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Nếu các Bồ-tát đã trụ vào vô tướng như vậy thì Phật trụ nơi vô tướng sẽ như thế nào?
Đức Phật đáp:
–Cảnh giới của Như Lai chẳng thể nghĩ bàn. Vì sao? Vì chẳng phải trí có thể suy lường được. Nếu muốn tư duy về cảnh giới ấy thì tâm hẳn cuồng loạn. Hết thảy chúng sinh dò xét, suy lường cùng tận cũng chẳng thể biết được chốn bờ kia của Như Lai. Vì sao? Vì cảnh giới của Như Lai sâu xa không thể nghĩ bàn, giống như hư không, vượt qua tất cả mọi hiển hiện các số lượng. Người giữ chặt lấy kiến chấp tâm thường điên đảo. Cũng chẳng phải là xét tính của toán số.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Con có nghi vấn, cúi xin Thế Tôn cho phép.
Phật đáp:
–Này thiện nam! Tùy theo ý ông hỏi, Như Lai sẽ phân biệt giảng nói, hết thảy chư Phật cũng đều tùy hỷ.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Nếu chấp vào ngã sở thì chẳng phải là pháp của người trí. Thế Tôn là đại Pháp chủ, tại sao còn tự khen mình?
Phật khen:
–Hay lắm! Hay lắm! Này thiện nam! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe ta giảng nói.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Con xin nghe, bạch Thế Tôn!
Phật nói:
–Chư Phật Như Lai không vì kiêu mạn để tự khen ngợi, không vì lợi dưỡng, không vì danh tiếng, không vì khiến kẻ khác biết, không hư vọng tự khen, không tà nịnh, dối trá. Vì sao? Chỉ vì lợi ích của hết thảy chúng sinh, vì muốn chúng sinh đạt được pháp tu hành an lạc. Vì sao? Vì muốn khiến chúng sinh kính tin sâu sắc đối với Như Lai, muốn chúng sinh thâm tâm hoan hỷ, có khả năng làm bậc pháp khí luôn được yên ổn, đạt được thiện lợi, thường thọ an lạc, cho đến chứng đắc quả vị Bồ-đề vô thượng.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Chúng sinh lẽ nào không biết Như Lai là Thiên Trung Tôn Tự Tại Pháp Vương hay sao?
Phật đáp:
–Này thiện nam! Chúng sinh không thể biết hết. Vì sao? Vì hàng chúng sinh thấp kém, hạnh nghiệp sâu dày, ít trí, ít tín tâm, thường bị các ác bất thiện kéo giữ nên không biết Như Lai có đại oai đức. Vì những việc như vậy cho nên Như Lai tự xưng về đức thật khiến chúng sinh kia tín thọ, tu hành.
Này thiện nam! Ví như vị lương y hiểu thông y pháp, nơi lương y ở có nhiều người bệnh hoạn, không bệnh nào mà lương y không trị lành, nhưng mọi người ở đấy đều không biết lương y này có oai đức lớn. Khi ấy, lương y thấy các người bệnh không biết phương dược, cũng lại không biết ngừa những thứ không nên ăn, lúc đó lương y khởi tâm đại Từ bi: “Ta nên chữa trị, trừ hết thảy các bệnh khổ ấy.” Đối trước mọi người, lương y tự khen về tài năng đức hạnh của mình: “Tôi thông hiểu những bệnh ấy, biết rõ nguyên nhân của chúng, cũng hiểu rành về thuốc chữa sẽ tùy theo bệnh mà cho thuốc.”
Bấy giờ chúng sinh đối với lương y sinh tâm kính tin. Do tín tâm nên chúng sinh tin vào những lời chỉ dạy của lương y. Lúc này lương y dùng đủ loại dược phẩm, tùy theo mỗi bệnh mà cho thuốc, bệnh tật được trừ khỏi, mọi người đều bình phục.
Này thiện nam! Như vậy lương y có tự khen mình chăng?
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Không, bạch Thế Tôn!
Phật bảo:
–Này thiện nam! Như Lai Thế Tôn như Đại Y vương, hay trị các bệnh phiền não của chúng sinh, cũng biết rõ nguyên nhân phát sinh phiền não, dùng đại pháp dược ban bố cho tất cả. Chúng sinh ngu si bị phiền não che lấp, không biết Như Lai là Đại Y vương. Bất cứ nơi đâu, ở trước chúng sinh, Như Lai cũng thường tự khen mình. Khi đó chúng sinh liền sinh tâm kính tín, quy y Như Lai. Thánh chủ Thế Tôn giống như Y vương, dùng đại pháp dược trừ diệt bệnh phiền não của chúng sinh, Thế nào gọi là đại pháp dược?
Người tham dục dùng pháp bất tịnh để trị. Người sân hận dùng pháp từ tâm để trị. Người ngu si dùng pháp nhân duyên để trị. Pháp dược như vậy có đến vô lượng, đều có khả năng đối trị các bệnh phiền não.
Thiện nam! Vì Như Lai thấy có vô lượng lợi ích như vậy nên mới tự khen.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát trụ nơi vô tướng.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là vô nguyện. Đó là:
1. Tuy hành bố thí nhưng không dựa vào đó mà cầu xin một điều.
2. Tuy giữ giới cấm nhưng không dựa vào đó mà cầu xin được một điều gì.
3. Hành nhẫn nhục.
4. Hành tinh tấn.
5. Hành thiền định.
6. Hành trí tuệ.
7. Tuy nương vào ba cõi nhưng không cầu được tướng của ba cõi.
8. Tuy cầu Bồ-đề nhưng không chấp giữ tướng Bồ-đề.
9. Tuy hành chánh đạo nhưng không chấp thủ tướng chánh đạo.
10. Tuy cầu Niết-bàn nhưng không thủ tướng Niết-bàn.
Vì sao? Vì Bồ-tát đã lìa hết thảy tướng cầu xin. Tuy hành tất cả pháp Phật nhưng tâm thường không vì cầu được một điều gì.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát trụ nơi vô nguyện.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là tu tâm Từ vô lượng. Đó là:
1. Không tạo tâm Từ trong một phương.
2. Tâm Từ không chỉ tùy thuận nơi thân thích.
3. Thường hành pháp tâm Từ.
4. Nương định tu tâm Từ.
5. Tu tâm Từ không vì lìa sân.
6. Thường vì lợi ích của tất cả chúng sinh mà khởi tâm Từ.
7. Thường vì chúng sinh mà tu tâm Từ bình đẳng.
8. Tu tâm Từ không vì lìa não hại.
9. Tu tâm Từ hiện bày cả mười phương.
10. Tu tâm Từ xuất thế gian.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát tu tâm Từ vô lượng.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là tu tâm Bi vô lượng. Đó là:
1. Thấy các chúng sinh bị khổ não không nơi nương tựa, không ai cứu giúp, không chỗ cậy nhờ, Bồ-tát liền phát tâm Bồ-đề, tu hành như pháp.
2. Sau khi đắc được pháp rồi thì tạo lợi ích cho chúng sinh.
3. Đối với chúng sinh tham, Bồ-tát dạy khiến cho bố thí.
4. Chúng sinh phá giới, Bồ-tát dạy tu trì giới.
5. Chúng sinh não hại, Bồ-tát dạy tu nhẫn nhục.
6. Chúng sinh biếng trễ, Bồ-tát dạy tu tinh tấn.
7. Chúng sinh tâm loạn, Bồ-tát dạy thiền định.
8. Chúng sinh ngu si, Bồ-tát dạy tu trí tuệ.
9. Nếu thấy các chúng sinh ác, bướng bỉnh không nghe lời dạy, tâm Bồ-tát cũng không thoái chuyển.
10. Tuy vì chúng sinh đang thọ các khổ lâu dài nhưng Bồ-tát quyết chí cứu chúng sinh đó không hề chán nản, mệt mỏi.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát tu tâm Bi vô lượng.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là tu tâm Hỷ vô lượng. Đó là:
1. Khi thấy các chúng sinh nơi cảnh giới sinh tử bức bách khổ não mà được thoát khỏi những thứ ấy trong ba cõi hư giả, Bồ-tát liền sinh tâm hoan hỷ.
2. Thấy chúng sinh đoạn tuyệt sinh tử, qua lại tạo chấn động, kết nghiệp không còn, Bồ-tát sinh tâm hoan hỷ.
3. Trong biển sinh tử, thấy chúng sinh bị nạn La-sát nơi nước Sâu-ác-giác-ma-kiệt, nay được lìa xa các nạn sinh tử trong biển lớn như vậy, Bồ-tát sinh tâm hoan hỷ.
4. Bồ-tát sinh tâm hoan hỷ khi cờ ma gãy đổ.
5. Bồ-tát dùng trí kim cương phá tan núi kết sử, khiến không còn mảy bụi, liền sinh tâm hoan hỷ.
6. Ta nay tự đạt được sự dứt bỏ, cũng khiến cho kẻ khác được sự dứt bỏ nên sinh tâm hoan hỷ.
7. Ta nay đối với cảnh giới sinh tử triền miên, tự tâm được giác ngộ. Đối với các chúng sinh bị ái trói buộc, bị vô minh bao phủ, ta cũng làm cho họ đều được giác ngộ, nên sinh tâm hoan hỷ.
8. Ta nay tự được giải thoát, lìa các nơi đường ác hiểm nạn. Ta cũng sẽ độ thoát những chúng sinh nào rơi vào đường ác hiểm nạn đó, nên sinh tâm hoan hỷ.
9. Trong đồng hoang sinh tử, sáu đường hiểm nạn, kẻ độc hành không bè bạn, cứ mãi qua lại không biết đường ra, không biết nơi chốn hướng đến. Ta sẽ khiến họ biết được đường chánh, biết rõ nơi chốn nên sinh tâm hoan hỷ.
10. Nay ta được gần thành trì Nhất thiết trí, gần nơi Phật ngồi nên sinh tâm hoan hỷ.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát tu tâm Hỷ vô lượng.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là tu tâm Xả vô lượng. Đó là:
1. Mắt thấy sắc đẹp mà không đắm nhiễm, nhập vào tâm Xả.
2. Tai nghe tiếng.
3. Mũi ngửi mùi.
4. Lưỡi nếm vị.
5. Thân chạm vật trơn mịn.
6. Ý biết các pháp… như vậy mà tâm không chấp giữ lấy tướng nơi năm trần, cũng không bức não, thường hành tâm Xả.
7. Khổ khổ.
8. Hành khổ.
9. Hoại khổ, đối với ba loại thọ này tâm không tăng giảm, cũng không bức não, thường hành tâm Xả.
10. Chuyển hóa tận cùng các hữu kết, thường hành tâm Xả. Bồ-tát suy nghĩ: “Ta muốn độ người, phải tự độ mình, thường hành tâm Xả.”
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát hành tâm Xả vô lượng.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là hiện bày thần thông diệu dụng. Đó là:
1. Thị hiện xả thọ mạng.
2. Thị hiện sinh ở thế gian.
3. Thị hiện làm đồng tử vui chơi, học tập.
4. Thị hiện xuất gia.
5. Thị hiện hành khổ hạnh.
6. Thị hiện ở nơi cây Bồ-đề.
7. Thị hiện hàng phục ma oán.
8. Thị hiện ưa tịch tĩnh.
9. Thị hiện chuyển pháp luân.
10. Thị hiện nhập Niết-bàn.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà thị hiện xả bỏ thọ mạng ở cõi trời Đâu-suất-đà, cho đến thị hiện nhập Niết-bàn?
Phật đáp:
–Trời Đâu-suất-đà còn đắm nhiễm nơi năm dục, sinh nhiều kiến chấp, tưởng thường. Trong tất cả chúng sinh, Bồ-tát là tối thắng, tối thượng, không nhiễm nơi năm dục, xả bỏ thọ mạng để có thể phá trừ bệnh tưởng chấp thường của chúng sinh, khiến đạt được tưởng vô thường, tâm không phóng dật. Trời Đâu-suất-đà còn nhiều phóng dật, không sinh tâm cung kính tin vui, tham cầu ái dục, không thọ chánh pháp, ngày đêm theo nẻo phóng túng mê vui. Do vậy, Bồ-tát vì muốn trừ tâm phóng dật của họ mà thị hiện xả bỏ thọ mạng.
Khi ấy, chúng sinh thấy Bồ-tát xả bỏ thọ mạng thì đều trừ được phóng dật, sinh tâm nhàm chán xa lìa. Nhờ trừ bỏ phóng dật nên chúng sinh liền phát tâm Bồ-đề vô thượng. Bồ-tát thị hiện nơi thai mẹ, có nhiều tướng lạ cũng vì khiến chúng sinh tin thọ sự biến hóa ấy. Tuy ở thai mẹ nhưng Bồ-tát luôn vì chúng sinh mà thuyết pháp, làm cho tất cả đều được tâm không thoái chuyển, chóng đạt đến quả vị Bồ-đề vô thượng.
Nếu có chúng sinh thấy Bồ-tát từ lúc còn nhỏ, liền thành tựu được thiện căn, thì Bồ-tát vì chúng sinh đó mà hiện làm hài nhi.
Nếu có chúng sinh thiện căn được tăng trưởng, khi thấy Bồ-tát xuất gia, thì Bồ-tát liền vì những chúng sinh đó mà xả bỏ nhà cửa thế gian xuất gia.
Nếu có chúng sinh tâm ý gắn chặt với sự thô tệ, Bồ-tát hiện hành khổ hạnh, khiến chúng sinh đó được thành thục.
Các chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà… cần thấy khổ hạnh mới thành tựu đầy đủ thì Bồ-tát liền hiện hạnh khổ hạnh làm cho họ thành thục.
Cũng nhằm điều phục các ngoại đạo, vô lượng chúng sinh nhiều kiếp phát nguyện mau thấy Bồtát hướng đến Bồ-đề thọ, Bồ-tát tùy theo ý họ, liền thị hiện đi đến nơi cội Bồ-đề, tức thời các chúng sinh ấy đạt được không thoái chuyển, cho đến phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng.
Lại vì chúng sinh cao ngạo, kiêu mạn, tự ỷ thế lực, Bồ-tát vì muốn phá trừ tâm kiêu mạn của họ nên thị hiện ngồi nơi đạo tràng hàng phục ma oán, khiến họ tin phục.
Vì chúng sinh ưa tịch tĩnh, thiện căn tăng trưởng nên Bồ-tát thị hiện ngồi nơi đạo tràng.
Lúc Bồ-tát ngồi tòa đạo tràng, có khả năng làm cho hết thảy âm thanh trong tam thiên đại thiên thế giới đều ngưng bặt. Tam thiên đại thiên thế giới tức thì tịch tĩnh, khiến cho người ưa tịch tĩnh sinh tưởng hy hữu, phát tâm Bồ-đề vô thượng, có thể làm cho chúng sinh đều được tịch tĩnh.
Lại có chúng sinh tự cho mình là Đại sư, tác tưởng về Nhất thiết trí, không hiểu đạo xuất yếu, không biết pháp xuất thế, cũng không biết về hiện sinh, hậu báo, vì nhằm hàng phục các chúng sinh như vậy. Lại thấy các chúng sinh có khả năng làm bậc pháp khí, thành tựu đầy đủ pháp thiện cho nên Bồ-tát thị hiện thành đạo quả Vô thượng Bồ-đề, rồi đến Ba-la-nại, ba lần chuyển pháp luân giảng nói tứ Thánh đế.
Lại có chúng sinh cần hiện cảnh Niết-bàn mới thành thục, vì muốn các chúng sinh đó đạt được những thành tựu trọn vẹn nên Bồ-tát thị hiện nhập Niết-bàn.
Vì những nhân duyên như vậy, vì những giáo nghĩa như vậy nên Bồ-tát thị hiện ngồi tòa đạo tràng, cho đến thị hiện nhập Niết-bàn.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát hiện bày thần thông diệu dụng.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là lìa tám nạn. Đó là:
1. Lìa các pháp bất thiện.
2. Giới cấm của Như Lai chế, trọn đời không phạm.
3. Trừ bỏ tham lam, ganh ghét.
4. Đã trồng các căn lành trong thời Phật quá khứ.
5. Thường tu đầy đủ phước nghiệp, trí tuệ.
6. Thông hiểu phương tiện.
7. Thông hiểu về sự phát nguyện.
8. Chán lìa tâm ác.
9. Siêng năng tinh tấn.
10. Bồ-tát không tạo nghiệp ác mà vào địa ngục. Tuy ở địa ngục nhưng trọn không thọ khổ báo của địa ngục.
Chỗ không vui, cũng không sinh buồn phiền.
Tuy đọa vào địa ngục nhưng Bồ-tát ở đó không lâu, cũng lại không sinh tâm não hại.
Bồ-tát tánh khí nhu hòa, hằng tu mười pháp thiện.
Nhờ tu mười thiện nên không bị đọa vào địa ngục.
Bồ-tát không hủy giới cấm của Phật mà vào cõi súc sinh. Tuy hiện làm súc sinh mà không thọ khổ của súc sinh.
Bồ-tát không khởi tham lam, ganh ghét nhưng lại vào trong cõi ngạ quỷ. Tuy hiện làm ngạ quỷ mà Bồ-tát không thọ khổ của ngạ quỷ.
Bồ-tát không bao giờ sinh vào nhà tà kiến. Nếu sinh nơi tà kiến, chắc chắn Bồ-tát sẽ gặp tri thức thiện. Vì sao? Vì ở đời quá khứ Bồ-tát đã tu các điều thiện, cũng gieo trồng thiện căn trong thời Phật quá khứ lâu xa nên thường sinh vào nhà chánh kiến, đầy đủ nhân duyên thiện. Do đầy đủ nhân duyên thiện nên công đức tăng trưởng rộng lớn.
Bồ-tát không bao giờ khiếm khuyết các căn. Nếu các căn khiếm khuyết, Bồ-tát chẳng thể làm bậc pháp khí.
Bồ-tát tích đức lâu xa, tu phước không hề mệt mỏi. Đối với các hình tượng, chùa tháp, pháp tạng, Tăng chúng, bất cứ ở nơi đâu Bồ-tát cũng tu phước, tâm không bê trễ. Do thường tu phước nên Bồ-tát luôn đầy đủ các căn, không khiếm khuyết, có khả năng làm bậc pháp khí.
Bồ-tát trọn chẳng sinh những nơi xấu ác như chốn biên địa, hoặc làm kẻ ngu tối, câm điếc. Ví như loài bạch tượng ngu si vô trí, không phân biệt được nghĩa lý thiện ác, không thể làm bậc pháp khí, cũng lại không biết các hàng Sa-môn, Bà-la-môn.
Bồ-tát sinh ở vùng giữa đất nước, lợi căn thông tuệ, có đại tri kiến, tín tâm ưa thích thân cận bậc trí. Đối với các việc thiện, ác, Bồ-tát khéo phân biệt rành rõ, có khả năng làm bậc pháp khí, bậc thâm tín Sa-môn, Bà-la-môn. Vì sao? Vì Bồ-tát vốn tu tập về trí tuệ lực.
Bồ-tát không sinh vào cõi trời Trường thọ. Nếu sinh vào cõi trời Trường thọ thì không gặp Phật xuất hiện ở đời, lìa xa đạo quả, không thể đem lại mọi thành tựu đầy đủ cho chúng sinh. Do vậy Bồtát sinh vào cõi dục lúc Phật xuất thế, hẳn sẽ gặp Phật, mới có khả năng hóa độ chúng sinh.
Do phương tiện nhân duyên thiện mà Bồ-tát trọn không sinh vào thế giới không có Phật, cũng không sinh vào nơi không được nghe pháp, cho đến không sinh vào chốn không có chúng Tăng để cúng dường, Bồ-tát luôn sinh vào nơi chốn được gặp Tam bảo. Vì sao? Vì sức của thệ nguyện xa xưa nên Bồ-tát sinh ở nơi nhàm chán điều ác, tự tâm không kiêu mạn, cao ngạo. Nếu nghe nơi nào có tám nạn và những điều ác, Bồ-tát liền sinh tâm chán bỏ, không hỷ lạc, cần tu tinh tấn, đủ các pháp thiện, trừ diệt pháp ác.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát lìa nơi tám nạn.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là không quên mất tâm Bồ-đề, đó là:
1. Tâm không dua nịnh, dối trá, cũng không huyễn hoặc.
2. Tâm thường buộc giữ, thanh tịnh, vắng lặng.
3. Đối với Phật, Pháp, Tăng trọn không sinh nghi.
4. Thọ trì pháp Phật cũng không sinh nghi.
5. Không sinh tưởng làm thầy mà lẫn tiếc giáo pháp, trừ bỏ pháp keo kiệt.
6. Trọn không tạo nhân duyên hoại diệt pháp Phật.
7. Thọ trì pháp Đại thừa, ngôn hạnh tương ưng, trọn không hư vọng.
8. Nếu thấy người thọ trì thì thường hay cung kính.
9. Đối với pháp Đại thừa dần dần thâm nhập.
10. Đối với người thuyết pháp sinh tưởng như Phật, tưởng như bậc Tri thức thiện.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát thường không quên mất tâm Bồ-đề.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp có thể nhận biết túc mạng. Đó là:
1. Từng nhiều lần cung kính cúng dường chư Phật.
2. Thọ trì pháp chư Phật, hay trì giới thanh tịnh.
3. Trừ các nghi hối, trừ các thu ngăn che, gây chướng ngại.
4. Tâm luôn luôn hoan hỷ, vui trong thiền định.
5. Thường thọ hóa sinh có được sự hiểu biết đúng đắn.
6. Người cúng dường Phật thường đối với chánh pháp luôn sinh tâm cung kính. Người thọ trì chánh pháp cũng thường cung kính.
7. Vì nhân duyên hay thọ trì chánh pháp.
8. Vì người rộng nói, đọc tụng, biên chép.
9. Không tiếc thân mạng, dốc lòng vì chánh pháp.
10. Tịnh tu giới hạnh, thân, khẩu, ý nghiệp đều được thanh tịnh.
Vì giới thanh tịnh nên tâm không nghi, hối. Vì trì giới một cách trong sạch nên không bị ngăn che, chướng ngại.
Do không bị ngăn che, chướng ngại nên tâm được hoan hỷ.
Do tâm hoan hỷ nên có thể tu thiền định.
Do tu thiền định nên sinh ở nơi thanh tịnh.
Do sinh ở nơi chốn thanh tịnh nên liền được hóa sinh.
Do hóa sinh nên có được sự hiểu biết đúng đắn. Do có được hiểu biết đúng đắn nên liền đạt được trí túc mạng.
Do được trí túc mạng nên hay nhớ biết một thân, hai thân, cho đến nhớ biết về trăm ngàn thân mạng ở vô số đời trước.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát đạt được trí túc mạng.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp đạt được việc không lìa tri thức thiện. Đó là:
1. Được gặp Phật, hoặc nghe Phật giảng nói, hoặc nhớ nghĩ về Phật.
2. Được thường nghe Pháp.
3. Được thường cúng dường Tăng.
4. Được lễ bái, thăm hỏi, cung kính chắp tay cúng dường… chư Phật và Bồ-tát.
5. Được không lìa người đa văn, gặp người thuyết giảng pháp.
6. Được không lìa việc nghe các pháp Ba-lamật.
7. Được không lìa việc nghe các đạo phẩm giác ý.
8. Được không lìa việc nghe ba môn giải thoát.
9. Được không lìa việc nghe bốn phạm hạnh.
10. Được không lìa việc nghe Nhất thiết chủng trí.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát không lìa tri thức thiện.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp đạt được việc xa lìa tri thức ác. Đó là:
1. Lìa xa tri thức ác phá giới.
2. Lìa xa kẻ phá bỏ chánh kiến.
3. Lìa xa kẻ phá bỏ oai nghi.
4. Lìa xa kẻ tà mạn.
5. Lìa xa kẻ ưa nói chuyện thế tục ồn ào.
6. Lìa xa kẻ uể oải, biếng nhác.
7. Lìa xa kẻ mê say nơi cõi sinh tử.
8. Lìa xa kẻ thoái thất tâm Bồ-đề.
9. Lìa xa chúng tại gia.
10. Lìa bỏ tất cả kết sử.
Bồ-tát tuy thích lìa xa những sự việc như vậy, nhưng trọn không sinh tâm não hại, cũng không sinh tâm khinh khi, hủy báng. Bồ-tát suy nghĩ: “Ta từng nghe Phật dạy: Chúng sinh tánh nhiễm cùng dục, do gần gũi, huân tập những việc như vậy nên có nhiều chỗ bị hủy hoại. Vì vậy, ta nên xa lìa tất cả.”
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát xa lìa tri thức ác.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp đạt được Pháp thân của Như Lai. Đó là:
1. Thân bình đẳng.
2. Thân vô nhị.
3. Thân thanh tịnh.
4. Thân vô tận.
5. Thân tu tập thiện lâu đời.
6. Thân pháp.
7. Thân thâm diệu không thể suy tính, thân chẳng thể nghĩ bàn.
8. Thân tịch diệt.
9. Thân hư không.
10. Thân trí.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát chứng đắc Pháp thân của Như Lai.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Khi nào Bồ-tát đạt được Pháp thân của Như Lai?
Phật đáp:
–Thiện nam! Hàng Bồ-tát trụ Địa thứ nhất được thân bình đẳng. Vì sao? Vì Bồ-tát trụ Địa thứ nhất trừ hết thảy thân ác, cùng các Bồ-tát đồng một danh hiệu là thân bình đẳng.
Bồ-tát trụ Địa thứ hai được thân thanh tịnh, nhờ trì giới thanh tịnh.
Bồ-tát trụ Địa thứ ba được thân vô tận, nhờ trừ sạch sân hận, não hại.
Bồ-tát trụ Địa thứ tư được thân từ lâu tích tụ tất cả pháp thiện, nhờ tu tập tất cả pháp Phật.
Bồ-tát trụ Địa thứ năm được Pháp thân, nhờ lực nơi thiền định nhận biết tất cả pháp Phật.
Bồ-tát trụ Địa thứ sáu được thân chẳng phải là chỗ có thể nhận biết, có thể trù tính xét đoán của thế gian, do thân này hết sức sâu xa.
Bồ-tát trụ Địa thứ bảy được thân chẳng thể nghĩ bàn, do khéo dùng phương tiện.
Bồ-tát trụ Địa thứ tám được thân tịch diệt, do khéo trừ hết mọi hý luận, dứt tận hết thảy phiền não.
Bồ-tát trụ Địa thứ chín được thân hư không, được thân vô ngại, do hiện bày khắp hư không.
Bồ-tát trụ Địa thứ mười được thân diệu trí. Vì sao? Vì nhận biết khắp hết thảy các pháp nơi các Địa của Bồ-tát.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Pháp thân của Bồ-tát và Pháp thân của Như Lai có sai khác chăng?
Phật đáp:
–Thân thì không sai biệt nhưng về công đức thì có khác.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là thân không sai biệt mà công đức thì có sai khác?
Phật đáp:
–Tên của thân không có khác. Vì sao? Vì thân, khẩu cùng đồng một tướng, nhưng tướng công đức thì có sai khác.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Vì sao trong cùng một thân mà thấy tướng công đức có khác?
Phật đáp:
–Thiện nam! Nay ta vì ông mà nói ví dụ để giải thích nghĩa ấy. Ví như ngọc ma-ni đều cùng danh từ là ma-ni. Ngọc ấy tên tuy là một, nhưng nếu được mài giũa kỹ lưỡng thì ánh sáng của nó hiển hiện, khiến tâm ý ưa thích. Ví như thân của Như Lai, nếu không được tu luyện kỹ lưỡng thì cũng giống như thân của Bồ-tát; vì thân của Như Lai cũng là ngọc báu ma-ni và thân của Bồ-tát cũng là ngọc báu ma-ni, không khác. Nhưng sắc tướng của ma-ni báu sáng tỏa nơi Như Lai và của Bồ-tát có khác. Vì sao? Vì thân ma-ni báu của Như Lai thì vô lượng, trùm khắp cõi chúng sinh, tràn đầy cõi hư không, thanh tịnh, lìa hết mọi thứ trần cấu. Thân ma-ni báu của Bồ-tát thì có giới hạn, chẳng thể đầy khắp cõi hư không. Vì sao? Vì còn cấu uế chướng ngại.
Thiện nam! Ví như mặt trăng từ đầu tháng cho đến ngày mười lăm gọi là trăng tròn đầy, sau ngày thứ mười lăm cũng gọi là trăng, cho đến cuối tháng cũng gọi là trăng; danh từ trăng tuy đồng nhưng ánh sáng thì chẳng đồng, vì ánh trăng ngày thứ mười lăm sáng rỡ, bản chất của nó xưa nay là như vậy. Thân của Như Lai và thân của Bồ-tát tuy cùng danh từ thân-như danh từ mặt trăng, cùng đồng như nhau-nhưng ánh sáng chiếu diệu của Bồ-tát và của Như Lai thì lại không đồng. Ánh sáng chiếu diệu nơi thân Bồ-tát không bằng ánh sáng nơi thân Như Lai chiếu diệu một cách rực rỡ. Ví như ánh sáng của trăng cuối tháng, trăng giữa tháng và trăng đầu tháng, tướng ánh sáng của chúng không giống nhau.
Thiện nam! Do vậy, thân Như Lai và thân Bồtát, hai thân này tuy đồng nhưng công đức có khác. Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là thân kim cang bất hoại.
Đó là:
1. Tham dục, sân hận, ngu si chẳng thể hủy hoại.
2. Phiền não, kiêu mạn, chấp ngã, tự thị, thấy biết điên đảo chẳng thể hủy hoại.
3. Tám pháp thế gian chẳng thể hủy hoại.
4. Cõi ác chẳng thể hủy hoại.
5. Tất cả khổ chẳng thể hủy hoại.
6. Sinh, già, bệnh, chết, ưu bi, khổ não chẳng thể hủy hoại.
7. Hết thảy ngoại đạo, dị kiến chẳng thể phá hoại.
8. Hết thảy thiên ma cùng quyến thuộc của ma chẳng thể phá hoại.
9. Chẳng bị hoại do hết thảy hàng Thanh văn và Bích-chi-phật.
10. Tất cả cõi dục chẳng thể hủy hoại.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát đạt thân kim cang bất hoại.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là đại thương chủ, đó là:
1. Hay khiến thương nhân thuận theo lời dạy.
2. Hay khiến thương nhân cung kính cúng dường.
3. Hay làm người dẫn đường, không sợ các nạn.
4. Hay làm nơi nương tựa cho mọi người. 5. Có khả năng làm cho người nương tựa.
6. Thường được sự sống.
7. Tư lương dồi dào.
8. Châu báu vô số.
9. Tâm không dừng nghỉ, cho là đủ.
10. Thường làm người đi đầu, đến được đại thành Nhất thiết chủng trí.
Thiện nam! Thế nào gọi là Bồ-tát hay khiến thương nhân thuận theo lời dạy?
Ví như thương chủ khéo dẫn đường, hoặc dạy bảo thương nhân đều thuận theo. Bồ-tát cũng vậy, khéo hóa độ chúng sinh, có khả năng làm cho tất cả đều thuận theo mình.
Ví như thương chủ được các thương nhân cung kính cúng dường. Bồ-tát thương chủ cũng lại như vậy, được hàng Hữu học, Vô học, các chúng Trời, Người, Rồng, Quỷ, Thần, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Nhân và Phi nhân… đều đến cung kính cúng dường.
Ví như ở chỗ đồng vắng có nạn cướp giật, thương chủ có khả năng đưa chúng bạn vượt qua an ổn. Bồ-tát thương chủ cũng lại như vậy, có khả năng đưa mọi người vượt qua giặc phiền não nơi đồng hoang sinh tử, đạt được an ổn.
Ví như thương chủ có khả năng đưa mọi người ra khỏi đồng hoang, cứu sống được mạng họ. Bồtát cũng lại như vậy, dẫn dắt các ngoại đạo Bát-labà, Thực-ni-càn-đà… thoát khỏi đồng hoang sinh tử, cứu được mạng sống của họ.
Hoặc có những kẻ ưa thích nơi sinh tử như các hàng vua, đại thần, quan viên cùng tất cả chúng sinh… đều nhờ nương vào Bồ-tát thương chủ mà được cứu sống trọn vẹn.
Như đại thương chủ khéo phòng bị hành trang, châu báu cần dùng, có khả năng dẫn chúng nhân vượt qua đường hiểm được an ổn, thẳng đến đại thành. Bồ-tát thương chủ cũng lại như vậy, muốn cùng chúng bạn vượt qua đồng hoang sinh tử hiểm nạn để đến thành giác ngộ của Phật thì phải tu thiền định giải thoát, tự trang nghiêm công đức đầy đủ.
Bồ-tát thương chủ muốn đến đại thành Nhất thiết chủng trí phải hành trì đủ hết thảy pháp Phật, công đức châu báu.
Ví như thương chủ gồm chứa các châu báu không có chán đủ. Bồ-tát cũng vậy, gồm chứa các pháp tài quý báu không có chán đủ.
Ví như thương chủ thông tuệ tối thắng, tài sản vô số là hàng cự phú, khéo hướng dẫn các thương nhân, nói điều gì ra chúng đều phụng hành. Bồ-tát thương chủ cũng lại như vậy, vì chúng sinh mà làm người dẫn đầu, công đức vô lượng, đối với pháp được tự tại, lời nói không hai.
Ví như thương chủ có khả năng giỏi dẫn dắt chúng thương nhân vượt qua đường hiểm, đến được đại thành. Bồ-tát thương chủ cũng lại như vậy, dẫn dắt các chúng sinh vượt hiểm nạn sinh tử, đến được đại thành chủng trí Niết-bàn.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi Bồ-tát là bậc đại thương chủ.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là thông hiểu về đạo, đó là:
1. Hiểu thông đạo bình đẳng.
2. Hiểu thông xứ hiểm ác.
3. Hiểu thông đạo an ổn.
4. Hiểu thông xứ không an ổn.
5. Hiểu thông các mối đạo.
6. Hiểu thông các xứ đạo.
7. Hiểu thông xứ sở dừng trụ.
8. Hiểu thông tướng đạo.
9. Hiểu thông đạo chánh tà.
10. Hiểu thông đạo xuất yếu.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát khéo biết rõ về đạo.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp biết đạo không điên đảo. Đó là:
1. Với người cần được độ bằng đạo Đại thừa, Bồ-tát liền chỉ dẫn đạo Đại thừa, không chỉ đạo Thanh văn.
2. Người cần được độ bằng đạo Thanh văn, Bồtát liền chỉ đạo Thanh văn, không chỉ đạo Đại thừa. 3. Người cần được độ bằng đạo Nhất thiết chủng trí, Bồ-tát liền chỉ đạo Nhất thiết chủng trí, không chỉ đạo Thanh văn.
4. Người cần được độ bằng đạo Duyên giác, Bồ-tát liền chỉ đạo Duyên giác, không chỉ đạo Nhất thiết chủng trí.
5. Vì người chấp ngã kiến, Bồ-tát vì họ mà nói pháp “không, vô ngã.”
6. Người không chấp ngã kiến, Bồ-tát vì họ mà giảng pháp “khổ, không, vô thường, vô ngã.”
7. Vì người chấp nhị biên, Bồ-tát vì họ mà nói giảng pháp trung đạo.
8. Người chấp trung đạo, Bồ-tát nên vì họ mà giảng nói về nhị biên.
9. Vì kẻ thất tâm, cuồng loạn, Bồ-tát vì họ mà giảng nói về pháp Sa-ma-tha (chỉ) và Tỳ-ba-sa-na (quán).
10. Vì kẻ chấp tà đạo, Bồ-tát liền nói chánh đạo khiến lìa bỏ các loại gai gốc kết sử.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát biết đạo không điên đảo.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là luôn ở nơi thiền định. Đó là:
1. Quán thân niệm xứ của thân.
2. Quán thọ niệm xứ của thọ.
3. Quán tâm niệm xứ của tâm.
4. Quán pháp niệm xứ của pháp.
5. Ở A-lan-nhã thâu giữ tâm hành trì.
6. Quán năm dục thâu giữ tâm hành trì.
7. Thâu giữ tâm hành trì ở những nơi như: thôn xóm, doanh trại, thành ấp, làng mạc.
8. Thâu giữ tâm hành trì đối với danh tiếng, lợi dưỡng.
9. Thâu giữ tâm hành trì đối với giới cấm của Như Lai chế định.
10. Thâu giữ tâm hành trì đối với các phiền não, tâm sân hận và tâm tà, nịnh.
Thâu giữ tâm hành trì, quán thân niệm xứ như thế nào?
Bồ-tát dùng trí tuệ chân chánh tuyển chọn, loại bỏ các điều ác bất thiện. Từ chân lên đỉnh đầu, cho đến màng não, Bồ-tát quan sát các phần đều vô ngã và vô ngã sở, từng sát-na sinh diệt liên tục, là pháp tan hoại, là chỗ gân mạch ràng buộc, hôi thối đáng ghét, thuần là sự tích tập các sắc xấu ác, Bồ-tát nên quan sát như vậy: Quán tưởng của ngã sở, tưởng của thân hoạnh sinh, quán rõ nhân duyên của thân tướng như vậy, hình trạng như vậy thì tâm được tự tại.
Quán thọ niệm xứ như thế nào?
Bồ-tát nghĩ nhớ: “Quan sát hết thảy các thọ đều là khổ.” Kẻ phàm phu điên đảo sinh tưởng là vui; kẻ ngu si vô trí không phân biệt khổ vui. Bậc Hiền thánh đều quán các thọ là khổ, siêng tu phương tiện đoạn trừ khổ ấy, cũng dạy chúng sinh quán thọ như vậy, đoạn xả các thọ, không yêu, không ghét.
Thế nào là quán tâm niệm xứ của tâm?
Tâm theo pháp chỉ, quán. Vô thường mà tưởng là thường, khổ mà tưởng là vui, vô ngã mà tưởng là ngã, bất tịnh mà tưởng là tịnh; tâm như khỉ vượn, như gió lay động, niệm niệm không dừng, thay đổi nhanh chóng, là gốc rễ của kết sử, là nguồn gốc của cõi ác, là ông chủ của phiền não thường sinh dua nịnh, tà vạy, cũng là nhân duyên của tham dục, sân hận, ngu si. Tâm là tông chủ của tất cả các pháp, là ông thợ, là kẻ dẫn đường đi trước. Tâm từ nhân duyên khởi, biết tất cả các pháp. Tâm như họa sư, vẽ hết thảy hình tượng mà tâm không biết. Các nghiệp thiện ác đều do tâm tạo. Tâm như vòng lửa xoay tròn như sự tuần hoàn. Tâm như lửa dữ thiêu củi ba cõi. Tâm có thể sinh khởi các vật giống như đại thủy. Người quan sát tâm nên biết tướng của tâm là gốc của hoạn nạn lớn. Tâm này chẳng khiến được tự tại. Nếu ai đối với tâm ấy mà được tự tại thì đối với pháp cũng được tự tại.
Quán pháp niệm xứ như thế nào?
Nhận biết đúng như thật về các pháp bất thiện, tham dục, sân hận, ngu si, cùng chỗ nương khởi của hết thảy pháp ác, Bồ-tát có thể tu tập đối trị tham, sân, si… đoạn trừ pháp bất thiện, quán các pháp thiện mà tâm ưa tùy thuận, buộc tâm chuyên niệm, thuận hành các pháp thiện, cũng dạy người khác đồng quán như mình.
Thâu giữ tâm tu hành đối với năm dục, quán như thế nào?
Đối với năm dục, Bồ-tát không sinh hỷ lạc, cũng không oán ghét. Đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, Bồ-tát cũng không sinh ái luyến, cũng không oán ghét. Đối với pháp không thể tướng ấy, Bồ-tát nếu sinh tâm thương ghét liền đồng với hàng phàm phu ngu si, đồng với hàng trẻ con bất thiện.
Đức Thế Tôn nói:
–Nếu đối với pháp mà sinh tâm ưa thích thì cũng sinh tâm đắm nhiễm. Sinh tâm đắm nhiễm thì liền thành ngu si. Nếu ngu si sinh, liền không biết rõ về thiện ác. Do nhân duyên ấy nên rơi vào cõi ác. Vì vậy, đối với pháp không ấy, không nên ghét bỏ. Nếu ai ghét bỏ tức là không thể thọ nhận. Nếu không thể thọ nhận thì tâm oán hận tăng trưởng, người ấy bị các vị A-xà-lê quở trách, cũng bị đồng phạm hạnh chê cười. Quan sát năm dục như vậy, tu hành chánh niệm, tâm không đắm nhiễm, cũng không oán ghét, cũng chỉ dạy người khác quán xét như vậy.
Thế nào gọi là ở nơi A-lan-nhã?
Thâu giữ tâm lìa loạn tưởng, như pháp tu hành, gọi là ở nơi A-lan-nhã, gọi là trụ xứ không tranh chấp, cũng gọi là trụ xứ tịch diệt. Nơi A-lan-nhã này có các hàng Trời, Rồng, Quỷ, Thần, bậc đạt được tha tâm trí khéo thấy biết tâm ta. Vì vậy, ta nay không nên khởi tự giác bất thiện, phải đoạn trừ giác bất thiện, dốc tu giác thiện, nên làm cho giác thiện thường được tăng trưởng.
Trong các oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, Bồ-tát ở nơi thôn xóm, hàng quán, làng mạc, thành ấp, mọi phương sở, quốc độ như thế nào?
Ở những nơi bất thiện, người xuất gia đều phải lìa xa không nên đến.
Những nơi nào là không nên đến?
Đó là quán rượu, nhà dâm nữ, nhà vương quyền, chỗ cờ bạc, chỗ say sưa, chỗ ca múa kỹ nhạc… Những nơi như vậy, chẳng phải là nơi chốn của người xuất gia nên đến, chẳng nên vãng lai. Nên thâu giữ tâm hành trì đối với những nơi thôn ấp, làng mạc như vậy.
Thâu giữ tâm hành trì đối với danh tiếng lợi dưỡng như thế nào?
Vì nhằm khiến cho đàn-việt tăng trưởng phước nghiệp, Bồ-tát ở chỗ được lợi dưỡng, không nên tham đắm tài lợi có được, không tác tưởng ích kỷ, nên ban cho hết thảy chúng sinh khổ não đều được cùng hưởng. Nhờ nhân duyên bố thí ấy nên Bồ-tát được tán thán khen ngợi. Tuy được tán thán có tiếng tăm nhưng Bồ-tát không tự khen, không sinh kiêu mạn, không tự phóng dật. Được tán thán có tiếng tăm như vậy chỉ một thời gian thì tự diệt. Đối với pháp vô thường mau chóng không dừng như thế, người có trí ai lại bám vào! Lẽ nào đối với việc ấy lại sinh sự yêu ghét? Có người trí nào lại sinh tưởng là mình có, sinh tâm kiêu căng, phóng dật. Đây gọi là Bồ-tát thâu giữ tâm hành trì đối với danh tiếng lợi dưỡng.
Bồ-tát đối với giới cấm do Đức Như Lai chế ra, thường nhớ nghĩ tu hành như thế nào?
Như chư Phật quá khứ hành trì giới cấm mà được thành Phật cho đến Niết-bàn, chư Phật vị lai cũng hành trì giới cấm mà được thành Phật cho đến Niết-bàn, chư Phật hiện tại cũng hành trì giới cấm mà được thành Phật cho đến Niết-bàn. Bồ-tát quán xét như vậy nên hành trì giới cấm trọn không hủy phạm, gọi là Bồ-tát khéo tu trì giới cấm do Như Lai chế.
Đối với các phiền não trần cấu, che ngăn, Bồtát khéo tu tập, thâu giữ tâm hành trí như thế nào?
Bồ-tát khéo nhận biết phiền não, kết sử, trần cấu, che ngăn tạo chướng ngại, biết rõ về nguyên nhân, biết rõ nơi chốn nguyên nhân dấy khởi, từ nhân này mà phát xuất. Đối với kết sử, ngăn che tạo chướng ngại, Bồ-tát thường nhớ nghĩ, thâu giữ tâm tu hành như vậy.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát thường hành trì thiền định.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là mặc y phấn tảo. Đó là:
1. Hay thọ trì y trọn đời không hủy hoại.
2. Tâm thường khiêm cung.
3. Không mệt mỏi chán bỏ.
4. Chẳng đem việc thọ trì y cho là giải thoát.
5. Chẳng thấy sự thô xấu của y.
6. Thấy rõ mọi công đức ích lợi.
7. Mình chẳng tự cao.
8. Không cất chứa nhiều.
9. Khéo trì giới cấm.
10. Chư Thiên gần gũi.
Thế nào là thọ trì y, không hủy hoại?
Bồ-tát có tâm kính tín, thể tánh đầy đủ. Đối với Như Lai, Bồ-tát sinh tâm kính tín sâu xa, thà xả bỏ thân mạng, không bỏ những điều đã thọ, giữ vững những điều đã thọ, không để lay động. Tâm hay khiêm cung, do tâm như thế nên Bồ-tát không sinh ngã mạn. Do ý khiêm cung nên Bồ-tát liền đối với các vật phẩn tảo dơ xấu, giữ lấy, tẩy sạch, sau đó may nhuộm, tâm không mệt chán. Do không mệt chán nên Bồ-tát thường giữ y phấn tảo, cũng không vì hạnh nhỏ ấy mà tự cho là đủ, thường tiến cầu thượng pháp, chắc chắn được đại lợi.
Bồ-tát cũng không thấy sự thô xấu của y phấn tảo mà mình thường mặc từ đây cho đến già. Bồtát không cho y này là xấu tệ, cũng không khởi niệm: “Y ấy xấu tệ, có nhiều rận rệp, nếu thường mặc thì thân nhơ uế.”
Bồ-tát thường niệm tư duy: “Mặc y phấn tảo có các công đức, là pháp phục của bậc Hiền thánh, là pháp phục của người tu hành lùa xa dục nhiễm, gọi là Thánh chủng, được chư Phật tán thán, Như Lai khen ngợi.”
Với việc làm như vậy mà không tự hào, không tự cao, cũng không hạ thấp kẻ khác, gọi là Bồ-tát trì giới đầy đủ. Nhờ giới đầy đủ nên Bồ-tát được chư Thiên thân cận, chư Phật tán thán, các Bồ-tát giữ gìn quan sát thường xuyên; hàng nhân và phi nhân, Sát-lợi, Bà-la-môn trong chủ ấp, làng mạc cung kính, lễ bái, được bạn đồng phạm hạnh ca ngợi.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát mặc y phấn tảo.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Bồ-tát chí lớn, vì nhân duyên gì lại ưa thích y phấn tảo thô xấu kém cỏi?
Phật đáp:
–Này thiện nam! Bồ-tát vì nhằm hộ trì các chúng sinh, với năng lực của công đức có thể làm được, đối với phiền não chưa sinh có thể ngăn chận chẳng phải là việc các phàm phu thấp kém có thể làm được.
Phật bảo Bồ-tát Trừ Cái Chướng:
–Thiện nam! Ông cho Như Lai là bậc Đại chí hay chỉ là hàng chí nhỏ?
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Vấn đề này con không thể nêu bày, không thể đáp được. Vì sao? Vì con không có khả năng nhận biết về dung lượng của Như Lai. Hiện tại con thấy Như Lai biết rõ về tất cả pháp, thọ trì y phấn tảo, hay chế phục kết sử, không thấy Như Lai có chỗ bị ngăn cấm. Bốn cõi thiên hạ, Trời, Người, Rồng, Quỷ đều có chí thấp kém; Như Lai tuy thị hiện sự thấp kém nhưng vì nhằm tạo mọi thành tựu cho tất cả chúng sinh, tán thán hạnh Đầu-đà ở trước các chúng sinh.
Phật nói:
–Ông nay nên biết nhân duyên như vậy.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Vì nhằm tạo mọi thành tựu cho các chúng sinh cùng hàng mới tu học, vì để ngăn đoạn kết sử của Bồ-tát nên Đức Thế Tôn giảng nói việc này.
Phật bảo:
–Thiện nam! Bồ-tát với diệu lực từ oai đức, vì hóa độ chúng sinh nên thị hiện thọ y phấn tảo, chẳng phải là do chí nguyện thấp kém. Do ý nghĩa như vậy nên Bồ-tát thọ y phấn tảo.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là thọ giữ ba y. Đó là thiểu dục, tri túc, không tham cầu nhiều, không tích tụ nhiều. Do không tích tụ nên lìa được các sự âu lo. Không hư mất nên lìa các ưu não. Do lìa ưu não nên lìa được các khổ tụ tập. Do lìa các khổ tụ tập nên không còn ái dục. Do không còn ái dục nên hay dứt sạch các lậu.
Bồ-tát thiểu dục nên luôn biết đủ. Người biết đủ tuy được ít vẫn cho là đủ. Do thiểu dục nên không mong cầu nhiều. Lìa mong cầu nên không tích tụ nhiều. Lìa tích tụ nên không bị khổ não vì hư mất. Do không khổ não vì sự hư mất nên không có ưu sầu. Không có ưu sầu nên không khổ não.
Không khổ não nên không có thọ dụng. Không có thọ dụng nên liền dứt sạch hết các lậu.
Thiện nam! Đủ mười việc này gọi là Bồ-tát thọ trì ba y.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là gồm đủ chiên y. Những gì là mười?
Đó là:
1. Chẳng thuận theo dục nhiễm.
2. Chẳng thuận theo sân hận.
3. Chẳng thuận theo si mê.
4. Chẳng thuận theo não hại.
5. Chẳng thuận theo tham lam, ganh ghét.
6. Chẳng thuận theo kiêu mạn, phân biệt tôi, ta.
7. Chẳng vì được người nhận biết.
8. Chẳng vì tiếng tăm, lợi dưỡng.
9. Chẳng để cho quân ma được tùy tiện.
10. Tâm không cao, thấp.
Này thiện nam! Gồm đủ mười pháp này, đó là chiên y của Bồ-tát.
Lại nữa, này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là khất thực. Những gì là mười?
Đó là:
1. Vì tạo lợi ích cho chúng sinh, khiến họ được phước đức.
2. Khất thực theo thứ lớp.
3. Tốt xấu theo thời, chẳng sinh hối hận.
4. Nên ít ham muốn, biết đủ.
5. Khất thực được rồi, nên ban cho người cùng hưởng.
6. Đối với thức ăn ngon, dở không sinh tâm tăng, giảm.
7. Không sinh tâm tham đắm.
8. Đối với thức ăn nên biết rõ về hạn lượng.
9. Hướng đến nẻo thiện.
10. Tu tập thiện căn, lìa mọi chấp giữ.
Thế nào là khất thực vì tạo lợi ích cho chúng sinh?
Bồ-tát hành khất thực, thấy các chúng sinh thiện căn ít ỏi, nên thọ pháp khất thực là nhằm tạo lợi ích cho họ.
Khi vào các chốn làng xóm, thành ấp khất thực, Bồ-tát luôn giữ niệm không bỏ, oai nghi đầy đủ, hoặc lúc nhìn, ngó, trọn không hấp tấp, cử động luôn thuận hợp, các căn tịch tĩnh, phải nhìn kỹ, mắt hướng về phía trước không quá một tầm. Nơi Phật, Pháp, Tăng sinh tâm tin kính sâu xa, sau đấy mới khất thực. Khất thực theo thứ lớp tâm không lựa chọn. Đối với các hàng Sát-lợi, Bà-la-môn, những nhà giàu sang cũng hoàn toàn theo đúng thứ lớp, thức ăn xin đủ thì dùng.
Trừ những nơi có chó dữ, trâu mẹ mới sinh con, do kiếp trước phá bỏ giới cấm nên bị đọa vào đường súc sinh; những nơi hoặc nam, nữ, đồng nam, đồng nữ hay quấy phá gây phiền não thì không nên đến. Hoặc các chốn có thể tạo hiềm nghi cũng đều lánh xa. Theo thứ lớp khất thực, trước hết là không nên sinh tham vướng, không nên sinh giận dữ, đối với mọi người không dấy tâm yêu ghét, đối với các thức ăn ngon, dở, tâm luôn bình đẳng. Nên ít ham muốn, biết đủ, theo chỗ khất thực được nhiều hay ít. Trở lại nơi chúng tăng ở để giải y, cất bát, rửa ráy tay chân. Nếu tới chỗ thờ Phật, tháp, chùa, nơi có chúng Tăng, luôn cung kính, cúng dường. Thức ăn khất thực được phân ra làm bốn phần: Một phần cho người đồng phạm hạnh, một phần cho kẻ khốn khó nhất trong số khất thực, phần thứ ba dành cho các quỷ thần, sau cùng là phần của mình thọ thực. “Ta nay thọ thực, chỉ nhớ nghĩ tới việc tu đạo, không nên vì chuyện ăn uống mà sinh tham nhiễm. Cũng chẳng nên phóng túng, ham thích không chán.” Ăn uống như vầy là để giữ lấy mạng sống này, cho nên việc thọ thực là nhằm duy trì sắc thân, không khiến phải gầy ốm hoặc quá béo tốt. Vì sao? Vì nếu thân ốm yếu thì trở ngại cho việc hành đạo. Còn nếu ăn uống nhiều thì lại thêm nhiều ngủ nghỉ. Nhằm hành đạo, nên đối với việc ăn uống phải biết dè chừng, vừa đủ, không nhiều không ít. Dốc tu tinh tấn, trừ bỏ bê trễ, là nhằm làm viên mãn các pháp Bồ-đề giác phần.
Viên mãn các pháp này nên ngã kiến được diệt. Ngã kiến được diệt trừ thì có thể dùng thịt nơi thân mình bố thí cho chúng sinh.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp này, gọi là Bồtát hành pháp khất thực.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là “Nhất xứ tọa.” Những gì là mười? Đó là:
1. Nơi cội Bồ-đề, nhất tọa đạo tràng, hàng phục quân ma, khiến chúng thảy đều kinh sợ.
2. Chốn này chẳng động, đạt được định xuất thế gian.
3. Chốn này chẳng động, đạt được tuệ thế gian.
4. Chốn này chẳng động, đạt được trí xuất thế gian,
5. Chốn này chẳng động, đạt được Tam-muội không.
6. Chốn này chẳng động, đạt được sự giác ngộ về hết thảy các pháp.
7. Chốn này chẳng động, đạt được tám chánh đạo.
8. Chốn này chẳng động, đạt được chân thật.
9. Chốn này chẳng động, chứng đắc như thật.
10. Chốn này chẳng động, chứng đắc Nhất thiết chủng trí tọa.
Thiện nam! Nhất tọa tức là pháp tọa. Bồ-tát chẳng hề dao động nên gọi là Nhất tọa.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy gọi là Bồ-tát hành pháp Nhất tọa.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là Nhất thọ thực. Đó là:
1. Thọ thực không tham cầu.
2. Thọ thực không nhiễm, đắm.
3. Cho là thọ thực đã đủ thì không thọ nhận bơ, dầu.
4. Không thọ nhận hắc thạch mật.
5. Không thọ nhận nước quả A-ma-lặc.
6. Không thọ nhận nước mía, cùng nước của những thứ quả khác.
7. Đúng thời hay phi thời đều không ăn uống.
8. Thấy người khác ăn uống không sinh phiền não.
9. Thường ăn một lần.
10. Bồ-tát giả như có bệnh khổ, hoặc tánh mạng gặp hoạn nạn, hay pháp thiện gặp trở ngại, trong các trường hợp ấy đều không sinh tâm nghi, hối. 10. Luôn tạo tưởng thọ thực như uống thuốc.
Này thiện nam! Đầy đủ mười pháp ấy, gọi là Bồ-tát hành pháp Nhất thọ thực.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là trụ nơi A-lan-nhã. Đó là:
1. Tu tập phạm hạnh từ lâu.
2. Không hiểu về giới luật.
3. Các căn đầy đủ.
4. Nghe rộng biết nhiều.
5. Trí tuệ sâu xa.
6. Dứt trừ ngã kiến.
7. Ví như hươu nai.
8. Thân tướng không mập không ốm.
9. Tâm luôn chán lìa điều ác.
10. Ưa thích chốn thanh vắng tịch tĩnh, chốn Alan-nhã.
Thế nào là tu tập phạm hạnh từ lâu?
Này thiện nam! Đại Bồ-tát ở trong pháp Phật xuất gia học đạo, ba nghiệp thanh tịnh, thọ trì giới cấm, khéo nhận biết về các pháp, hiểu rõ về oai nghi ứng hợp với nơi chốn đi, ở. Qua, lại, nằm, ngồi, hoàn toàn dựa theo giới pháp. Trong pháp của Như Lai, luôn hành trì đúng với các bậc Thượng, Trung, Hạ. Chỉ dạy về oai nghi nơi giới, hoặc có thể chỉ dạy về pháp thiền. Các pháp như thế đã tự thông hiểu, hành trí, không thọ nhận từ kẻ khác. Hiểu biết về nghĩa, về nẻo xuất ly, giải thoát. Biết rõ về tọa thiền, về lỗi lầm phát sinh, nên tránh những sự hủy phạm, tinh tấn tu trì về giới. Nếu có chỗ phạm dù ít, cũng nên tự chê trách, Sám hối. Theo chỗ bị phạm cùng do đấy mà chẳng phạm, đều có thể nhận biết rõ. Nếu phạm tội nặng, kể cả tội vừa, nhẹ, đều có thể phân biệt về sự thọ nhận quả báo nhẹ nặng xa gần. Các căn đầy đủ, dựa nơi chốn A-lan-nhã. Nơi được nương tựa ấy không bị kẻ khác gây phiền não. Luôn ưa thích hành khất thực, chốn lui tới không gần không xa. Gần chỗ nước trong sạch, không đục không dơ. Thích chỗ có nhiều cây rừng, nơi không gây sự sợ hãi, hoa quả đủ đầy, lìa xa nơi có thú dữ, hang động, đền thờ, chọn chốn tịch tĩnh bậc nhất, lui tới không khó khăn. Bồ-tát ở nơi chốn như thế, ngày đêm sáu thời, đọc tụng kinh, luật, âm thanh vừa phải, khéo giữ các căn, tâm không tán loạn, có lòng tin sâu xa, luôn vui vẻ nên có thể nhớ đủ về câu kệ. Khéo chọn lấy tướng nhân để trừ bỏ việc ham ngủ nghỉ.
Các bậc quốc vương, vương hầu, vương tử, các hàng Bà-la-môn, Sát-lợi, cùng chúng dân, đi đến chốn A-lan-nhã của Bồ-tát, vị Tỳ-kheo xướng: “Lành thay! Đại vương đã thân hành đến đây. Xin an tọa vào chỗ này!” Khi vua ngồi, Bồ-tát cùng ngồi. Nếu quốc vương không ngồi, Bồ-tát cũng không ngồi.
Nếu các căn của vua không ổn định, Bồ-tát phải nên tán thán: “Đại vương khéo đạt được lợi lớn. Vì trong cõi nước của vua có nhiều vị Sa-môn, Bà-lamôn hành trì giới luật, nên không bị những kẻ ác, đạo tặc phá hoại.” Nếu vua là hàng lợi căn, hòa nhã khéo thuận hợp, có thể làm bậc pháp khí, thì nên vì đấy mà thuyết giảng giáo pháp. Hoặc không thích việc thuyết pháp thì nên giảng nói về năm dục là vô thường khiến vua nhận biết mà chán lìa điều ác. Nếu không ưa việc chán lìa điều ác thì nên vì vua nêu giảng về chư Phật có tâm đại Từ bi, uy đức tự tại với chỗ hành hóa ứng hiện rộng khắp.
Đối với các hàng Sát-lợi, Bà-la-môn, Trưởng giả, chủ các thành ấp cùng chúng dân thì tùy hoàn cảnh thích hợp mà giảng nói pháp. Bồ-tát đối trước những người đa văn như vậy nên cho là có thể làm bậc pháp khí, tức nên vì họ hết lòng giảng giải pháp Phật, nghe rồi tin, thọ, tâm sinh vui thích, đều khiến hoan hỷ. Bồ-tát đa văn, hiểu biết sâu rộng nên không phiền não dấy khởi. Do khéo tu pháp đối trị, có thể dứt trừ ngã kiến, nên không sinh sợ sệt. Trí tuệ biện tài gồm đủ nên đối nơi đại chúng không chút kinh sợ. Dũng mãnh, không cho là khó khăn, hành trì đủ các sự việc như vậy nên có thể an trụ nơi chốn A-lan-nhã. Giữ vững tâm, chán lìa điều ác, vui thích ở một mình nơi vắng lặng, giống như nai rừng thường ở chốn sơn lâm. Tỳ-kheo trụ A-lan-nhã khác với loài nai rừng vì tâm không còn kinh sợ. Loài nai kia khi thấy người thì vội vàng chạy lánh, vì sợ bị bắn giết. Đại Bồ-tát cũng lại như vậy, đối với các nơi chốn đông đúc náo nhiệt, hết thảy nam nữ đều nên xa lìa. Vì sao? Vì khiến cho tâm mình bị loạn động, khó tu thiền định, không thể chán bỏ điều ác, tu tập công đức, tạo sự ưa thích tịch tĩnh. Ta nay không nên đắm nhiễm, gần gũi nơi đô hội, khiến mất tâm định, trụ nơi A-lan-nhã. Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy, gọi là Bồtát hành trì chốn A-lan-nhã.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là trụ nơi cội cây. Những gì là mười? Đó là:
1. Chẳng ở gần nơi làng xóm.
2. Nương theo chỗ có cây cối mà trụ.
3. Chẳng trụ gần chỗ có nhiều gai gốc.
4. Chẳng trụ gần chỗ có cây cỏ độc hại.
5. Chẳng trụ nơi cây cối trụi lá.
6. Chẳng trụ nơi cây có loài khỉ vượn ở.
7. Chẳng trụ nơi cây có tổ, hang của loài chim, thú.
8. Chẳng trụ nơi có loài thú dữ.
9. Chẳng trụ nơi có kẻ trộm, giặc, nguy hiểm.
10. Chỗ trụ của Bồ-tát không có những sự sợ hãi, khiến tâm luôn an vui.
Này thiện nam! Đầy đủ mười pháp như thế, gọi là Bồ-tát hành trì pháp trụ nơi cội cây.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là ngồi nơi khoảng đất trống. Những gì là mười?
Đó là:
1. Bốn mùa xuân, thu, đông, hạ không dựa nơi tường vách mà trụ.
2. Cũng không nương nơi cội cây mà trụ.
3. Chẳng dựa nơi bãi cỏ mềm mà trụ.
4. Chẳng dựa nơi mé núi cao dốc.
5. Chẳng trụ nơi bờ sông.
6. Không tạo các vật dụng ngăn lạnh, ngăn gió, ngăn mưa, ngăn nóng, ngăn sương móc.
7. Bồ-tát ngồi nơi khoảng đất trống, trường hợp thân bị bệnh, ốm yếu, nên tìm đến trụ xứ của chúng Tăng, suy niệm: “Đức Như Lai vì nhằm ngăn chận các thứ kết sử, nên thuyết giảng về hạnh Đầu-đà. Ta nay tuy ở tại trụ xứ của chúng Tăng, nhưng phải dốc đoạn trừ kết sử.”
8. Tuy ở nơi chúng Tăng nhưng không sinh tâm tham đắm.
9. Không phải vì thân mình, chỉ vì các hàng thí chủ, giúp họ thành tựu các công đức.
10. Luôn khởi tưởng như ngồi nơi chỗ đất trống.
Đầy đủ mười pháp này, gọi là Bồ-tát hành trì pháp ngồi nơi đất trống.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là ngồi nơi vùng gò mả. Đó là:
1. Theo chỗ an trụ luôn khởi tâm chán lìa điều ác.
2. Thường tu tập quán tưởng về thây chết cùng những liên hệ từ thây chết.
3. Ngồi nơi vùng gò mả, luôn tu tập tâm Từ.
4. Khởi tưởng tạo lợi ích, thương xót chúng sinh.
5. Thọ trì thanh tịnh các giới cấm, luôn đầy đủ các oai nghi.
6. Trọn không ăn thịt. Vì sao? Vì gần với vùng gò mả có các loài phi nhân cùng những quỷ thần xấu ác ăn máu thịt người, tâm địa thấp hèn, không vui khi thấy Bồ-tát ăn thịt, sẽ tạo mọi sự não hại.
7. Tỳ-kheo ngồi nơi vùng gò mả, đi tới trụ xứ của Tăng chúng, trước hết nên lễ bái tháp Phật, rồi đảnh lễ các vị Thượng tọa, Đại đức. Nói năng, bàn luận nên đứng để thưa, đáp. Không ngồi chỗ có y áo, chăn đệm. Vì sao? Vì luôn giữ lấy sự quý trọng đối với vật của Tăng chúng.
8. Như kẻ phàm phu ngu tối xem thường nơi chốn vùng gò mả. Bồ-tát thì không như thế.
9. Giá như có người bày biện chỗ ngồi, mời Bồtát an tọa, Bồ-tát nên hỏi: “Đây là ý riêng của ông hay là ý của chúng Tăng?” Xem ý của người trước mặt mình chẳng sinh tâm hối hận, sau đấy mới ngồi.
10. Khởi tâm cho là thấp kém như con cái hàng Chiên-đà-la.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy gọi là Bồtát hành trì pháp ngồi nơi nghĩa địa.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là luôn ngồi, không nằm. Những gì là mười? Đó là:
1 . Chẳng vì thân khổ nên thường ngồi.
2. Chẳng vì tâm khổ nên luôn ngồi.
3. Chẳng vì dứt bỏ sự ngủ nghỉ nên thường ngồi.
4. Chẳng vì quá mệt nhọc nên thường ngồi.
5. Vì nhằm thực hiện đầy đủ các pháp Bồ-đề nên thường ngồi.
6. Nhằm khiến tâm được chuyên nhất nên luôn ngồi.
7. Nhằm khiến hướng tới chánh đạo.
8. Nhằm an tọa nơi đạo tràng chứng đắc đạo quả giác ngộ vô thượng.
9. Nhằm tạo lợi ích cho chúng sinh.
10. Vì dốc đoạn trừ tất cả các thứ kết sử.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy gọi là Bồtát hành trì pháp luôn ngồi không nằm.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là tùy nghi trải tòa ngồi. Những gì là mười? Đó là:
1. Chẳng tham đắm chỗ ngồi nên thuận theo đấy mà ngồi.
2. Không tự bày tòa ngồi, cũng không khiến người khác trải tòa ngồi.
3. Không tạo ra hình tướng khác lạ để khiến người khác trải tòa.
4. Tòa ngồi hoặc bằng cỏ hoặc bằng cành lá cây khô, tùy nghi mà ngồi lên.
5. Nếu là chỗ có nhiều kiến, ong, ruồi nhặng… thì nên bỏ đi.
6. Nếu khi muốn nằm thì nên nằm nghiêng theo phía hông bên phải. Hai chân chồng lên nhau, khéo tóm vén y phục gọn gàng.
7. Hoặc lúc ngủ nghỉ thì phải giữ vững lấy tâm, minh tướng xuất hiện thì dậy.
8. Ý không tham vướng việc ngủ nghỉ, cho là vui thích.
9. Khi nằm nghiêng theo phía hông bên phải, nếu bị mệt mỏi lắm cũng không chuyển sang nằm theo hông bên trái.
10. Nhằm điều hòa bốn đại, luôn nhớ nghĩ đến điều thiện.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp này gọi là Bồtát hành trì pháp tùy nghi trải tòa ngồi.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là thành tựu về thiền. Những gì là mười? Đó là:
1. Tu tập nhiều pháp quán bất tịnh.
2. Tu tập nhiều pháp quán từ bi.
3. Tu tập nhiều pháp quán mười hai nhân duyên.
4. Tu tập nhiều pháp lìa lỗi lầm.
5. Tu tập nhiều về pháp không.
6. Tu tập nhiều về môn vô tướng.
7. Tu tập nhiều về môn vô nguyện.
8. Tu tập nhiều về thiền.
9. Tu tập nhiều về pháp không hối hận.
10. Trì giới đầy đủ, hoàn hảo.
Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát tu tập nhiều pháp quán bất tịnh?
Bồ-tát một mình ở nơi chốn vắng lặng, tịch tĩnh, an nhiên thâu giữ tâm ý hiện tiền, chán lìa điều ác, thẳng thân ngồi yên theo lối kiết già, các chi phần nơi thân đều hoàn bị, thâm tâm hoan hỷ, tư duy: “Con người ăn uống hoặc bằng các thức ăn ngon lạ, hoặc chỉ là thức ăn dở kém, tất cả đều dựa nơi thân này biến thành những thứ bất tịnh. Máu mủ nhơ uế thảy đều đáng ghét. Hết thảy chúng sinh tham đắm nơi mỹ vị, nên tâm luôn vui chấp. Ta nay sẽ nguyện, nương theo chánh pháp của Phật, quán xét thân này đúng như tướng thật của nó, chẳng thể nhiễm vướng, cũng không chán lìa để dốc cầu Niết-bàn. Đó gọi là Bồ-tát tu tập nhiều pháp quán bất tịnh.
Thế nào là Bồ-tát tu tập nhiều pháp quán tâm Từ? Như trên đã nói về nơi chốn cấu nhiễm, Bồtát với thân đoan nghiêm, một mình an tọa chỗ vắng lặng, tư duy: “Chúng sinh có nhiều sân hận, nên dấy khởi não hại, tạo nhiều điều bất thiện. Nếu có chúng sinh đối với ta bình đẳng thì vì sao vào đời sau tự sinh oán hận? Chúng sinh như thế, ta phải dùng phương tiện để đoạn trừ sân hận nơi họ.” Tư duy rồi thì từ thâm tâm khởi tâm Từ bi thực hành, chẳng phải chỉ nói suông.
Thế nào là Bồ-tát tu tập nhiều pháp quán mười hai nhân duyên? Chúng sinh phần nhiều dấy khởi tham dục, giận dữ. Những thứ phiền não ấy đều do nhân duyên sinh. Giả sử các pháp còn lại, hết thảy đều từ nhân duyên sinh khởi. Vì sao kẻ trí lại không thấy rõ về tướng như vậy? Trong khoảng một sátna, pháp từ nhân duyên sinh nên thảy đều là không, chẳng nên vì đấy mà tự hủy hoại.
Thế nào là Bồ-tát tu tập nhiều về pháp lìa bỏ lỗi lầm? Nếu tự sinh khởi lỗi lầm thì có thể đoạn trừ liền. Thấy rõ lỗi lầm của người khác thì đi sâu vào tâm Xả. Thế nào là tự tìm cách đoạn trừ lỗi lầm? Lỗi lầm là đối với chư Phật không sinh tâm tin kính. Đối với Pháp, Tăng cũng không sinh tâm kính tin. Đối với giới luật, với các bậc Hòa thượng, A-xà-lê, các bậc tôn túc, trí đức... cũng chẳng sinh tâm tin, kính. Tự đề cao về bản thân, hạ thấp kẻ khác. Nơi năm thứ dục tâm luôn ưa thích hướng tới, quay lưng với Niết-bàn, tạo đủ mọi kiến chấp về ngã về chúng sinh, về thọ mạng, về người, chấp có hư không, dấy khởi đoạn kiến, chấp sâu nơi tưởng có dấy khởi thường kiến. Xa lìa Hiền thánh, thân cận kẻ phàm phu, lìa bỏ người trì giới, gần gũi hàng phá giới, gần tri thức ác, xa tri thức thiện, chê bai kinh pháp, không tin, nghe các nghĩa lý sâu xa tâm sinh hoảng sợ, bê trễ, biếng nhác, pháp cần tu tập thì coi thường, không hành trì, ý chí sút kém, không có ngôn ngữ biện tài, điều không nên nghi thì lại khởi nghi hoặc, chỗ đáng nghi ngờ thì lại không nghi. Bị năm thứ ngăn che trùm phủ gây chướng ngại, huyễn hoặc, tà nịnh, gắn chặt với chuyện ngủ nghỉ, đắm nhiễm lợi dưỡng, danh vọng nơi thế gian, cậy dựa nơi tộc họ, cơ nghiệp, tham ái theo đồ chúng, xa lìa chánh pháp, ưa bàn chuyện thế tục, bỏ bê thiền định, quán tưởng.
Thấy điều thiện không vui, nghe việc xấu ác thì thích thú, không chịu gần gũi cảnh xuất gia, chỉ nhớ nghĩ việc kết thân với đám trẻ, người nữ, đồng nam, đồng nữ, chẳng vui với chốn A-lan-nhã, uống ăn không biết hạn lượng, không kết thân với người thiện, các vị thầy trí đức, không biết đọc tụng, kinh hành đúng thời, cũng không rõ về nơi chốn thích hợp để đi đến, lui tới. Ở nơi giới luật vi tế, tâm ý tỏ ra xem nhẹ, cũng xem thường những điều ác nhỏ, nên tha hồ dòm ngó, ngắm nghía, cử động hấp tấp, luôn hành theo phi pháp, nói năng thô ác.
Đối trước mọi thứ hình sắc tốt xấu, tâm đều tham vướng, ưa giận dữ chẳng tu tập tâm Từ, không chút thương xót nơi các chúng sinh khổ não. Thấy kẻ khổ vì bệnh cũng chẳng chán bỏ điều ác. Nghe việc chết chẳng kinh hãi, luôn gắn với chốn lửa dữ cháy bùng, chẳng cầu nẻo xuất ly, giải thoát. Không quan sát nơi thân, chẳng giữ gìn giới cấm. Chẳng xét kỹ về bản thân, điều đáng làm thì không làm, điều nên hiểu biết thì không hiểu biết, điều phải tư duy thì không chịu tư duy, chẳng phải đạo cho là đạo, đạo thì cho là chẳng phải đạo, chưa chứng đắc bảo là đã chứng đắc. Hoặc ít mong phước đức, chỉ chú trọng việc được giàu có, nên tâm ý loạn động.
Ở nơi công đức lớn trọn chẳng tu hành, lại chê bai, hủy báng pháp Đại thừa, người ưa cầu Đại thừa, pháp Thanh văn, người ưa thích pháp Thanh văn. Cũng trách chê giới pháp, với giới thì gây tranh cãi, với người thì ương bướng, ngôn từ thường hung tợn. Tự cao, không rõ hạnh khiêm cung, không biết hổ thẹn, thô tháo, nói năng chẳng từ tốn, ưa chuộng lời thêu dệt, ác khẩu, nên hay nói dối, đùa cợt, buông lung vô độ…
Tạo vô số lỗi lầm như thế, nên vì nhằm lìa bỏ các pháp tội lỗi ấy, xa lìa mọi thứ buông thả đùa cợt, cần dốc tu tập định không. Tu tập nhiều về không, nên quán xét tất cả mọi thứ, thể tánh đều không. Trí của chủ thể quán không ấy cũng là không. Quán như vậy rồi thì buộc tâm quán vô tướng nơi pháp trong, ngoài. Không thủ đắc nơi tướng của thân, cũng không thủ đắc nơi tướng buộc giữ niệm. Bấy giờ chẳng thấy tâm bị buộc, nơi thân cũng không thủ đắc tướng của thân, cũng chẳng thủ đắc tướng bên ngoài, cũng chẳng thủ đắc chỗ niệm về tướng bên ngoài. Tướng bên ngoài dứt trừ, thì tướng của thân cũng dứt trừ. Đoạn trừ chỗ nhận thức về bên trong thì tâm ưa thích pháp thiện, việc tu tập càng tăng trưởng, thứ lớp không dứt.
Luôn nhớ nghĩ tới định, tuệ để tu tập gốc các công đức. Quán xét đúng các pháp với ý nghĩa thâm diệu, như thật, đó gọi là tuệ. Khéo thâu tóm tâm ý tán loạn, hoan hỷ, không dối, đó gọi là định.
Vì sao? Vì trì giới thanh tịnh nên Bồ-tát có thể làm thanh tịnh hoàn thiện việc trì giới, tất thành tựu thiền, giới, đầy đủ thiền đạo. Do đó, trì giới đầy đủ gọi là tu thiền.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp này, đó là Bồtát khéo tu tập pháp thiền.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là thọ trì Tu-đa-la. Đó là:
1. Vì hộ trì chánh pháp nên nghe pháp thì có thể thọ trì, chẳng vì tài vật các thứ ăn uống mà thọ trì.
2. Vì nhằm nối tiếp chủng tánh của Tam bảo, khiến cho pháp Phật không bị đoạn tuyệt, chẳng vì lợi dưỡng nên thọ trì.
3. Vì khiến cho giáo pháp Đại thừa được lưu hành rộng khắp nên thọ trì, chẳng vì được cung kính, có nhiều lợi lạc mà thọ trì.
4. Vì nhằm cứu độ các chúng sinh không ai cứu giúp, nên thọ trì, chẳng vì tiếng tăm, được ca ngợi mà thọ trì.
5. Vì các chúng sinh bị khổ não, khiến họ được an lạc nên thọ trì.
6. Vì nhằm khiến chúng sinh đạt được mắt tuệ nên thọ trì.
7. Vì những người cầu pháp Thanh văn khiến họ đạt được nên thọ trì.
Vì sự tu tập theo pháp Đại thừa được thành tựu nên thọ trì.
8. Vì nhằm thành tựu viên mãn Nhất thiết chủng trí nên thọ trì.
9. Chẳng vì cầu các thừa thấp nên thọ trì.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp này, đó là Bồtát thọ trì Tu-đa-la.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là bậc Luật sư. Những gì là mười?
Đó là:
1. Khéo thông tỏ về nhân duyên dấy khởi của Luật tạng.
2. Thông tỏ về chỗ thâm diệu của Luật tạng.
3. Thông tỏ về các sự việc vi tế của Luật tạng.
4. Thông tỏ về các trường hợp nên làm, không nên làm.
5. Thông tỏ về giới tánh trọng.
6. Hiểu rõ về giới chế trọng.
7. Hiểu rõ về nhân duyên phát khởi việc chế tác giới luật.
8. Thông hiểu về giới luật của hàng Thanh văn.
9. Thông hiểu về giới luật của hàng Bích-chiphật.
10. Thông tỏ về Luật tạng của Bồ-tát.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp này, đó là Bồtát khéo hành trì Luật sư.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là khéo nhận biết về oai nghi, khéo nhận biết về chỗ nên làm, không nên làm, về pháp cầu hành trì, về các cử chỉ, động tác nơi oai nghi. Những gì là mười?
Đó là:
1. Khéo tu học giới luật của hàng Thanh văn.
2. Khéo tu học giới luật của hàng Bích-chiphật.
3. Do khéo tu học nên oai nghi đầy đủ.
4. Do oai nghi đầy đủ, nên chốn không thể hành trì thì trọn không đi đến.
5. Các vùng, cõi chẳng nên lui tới thì cũng không tìm đến.
6. Hành trì luôn đúng thời.
7. Hành trì đúng với nơi chốn hành hóa của Samôn, chốn không thể hành hóa thì chẳng hành, do đấy, oai nghi luôn đầy đủ.
8. Nơi chốn bị các hàng Sa-môn phạm hạnh chê trách thì không nên đến.
9. Cũng có thể giáo hóa kẻ khác hành trì giới cấm, oai nghi như thế.
10. Do ý nghĩa ấy, nên oai nghi gồm đủ, oai nghi vắng lặng, oai nghi không dua nịnh, dối trá.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy, đó là Bồtát thực hiện trọn đủ mọi thứ tiến, dừng, hành, trụ của oai nghi.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là trừ bỏ ganh ghét. Những gì là mười? Đó là:
1. Tự hành bố thí.
2. Cũng chỉ dẫn cho người khác hành bố thí.
3. Tán thán pháp bố thí.
4. Thấy người khác bố thí sinh tâm tùy hỷ.
5. Vì những trường hợp ấy mà nêu giảng pháp chính yếu, khen ngợi người kia, khiến được hoan hỷ.
6. Trọn không sinh niệm: “Chỉ nên bố thí cho ta, chớ bố thí cho người kia!”
7. Nguyện cho tất cả chúng sinh đều được lợi ích của bố thí. Mọi chỗ cần dùng đều có đủ, nên được an lạc.
8. Đạt được những lợi lạc thế gian.
9. Đạt được những lợi lạc xuất thế gian.
10. Bồ-tát tư duy: “Ta nay vì chúng sinh, tu tập đạo Vô thượng, nhằm đem lại lợi ích cho họ.” Vậy sao lại khởi tâm ganh ghét?
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp này, đó là Bồtát có thể diệt trừ sự ganh ghét.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp, có thể vì chúng sinh mà khởi tâm bình đẳng. Những gì là mười? Đó là:
1. Vì tất cả chúng sinh mà tu tập tạo nhân duyên của phước.
2. Khiến hết thảy chúng sinh tâm không hiềm khích, sân hận.
3. Không khiến cho tất cả chúng sinh dấy khởi giận dữ.
4. Vì hết thảy chúng sinh nên tu tập sáu độ: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ.
5. Vì tất cả chúng sinh nên phát tâm cầu đạt Nhất thiết chủng trí.
6. Vì hết thảy chúng sinh nên tự làm viên mãn tâm tu đạt Nhất thiết chủng trí.
7. Đều không khởi hai tưởng.
8. Công đức tạo được ban cho hết thảy chúng sinh cùng đạt được.
9. Duyên hợp nơi hết thảy chúng sinh dùng làm cảnh giới. Khi tư duy như vậy thì có thể mau chóng thành tựu pháp của. Thành tựu mau chóng pháp Bồ-tát nên có thể quán xét về sinh tử như đám lửa cháy dữ dội, tự hành hóa theo pháp ấy thì có thể ra khỏi sinh tử. Cũng khiến cho các chúng sinh được cứu độ khỏi biển khổ.
10. Luôn khởi tâm bình đẳng, không sinh tăng, giảm.
Thiện nam! Ví như ông trưởng giả có sáu người con, tâm yêu thương đối với các con thảy đều bình đẳng, chỉ bày phương tiện. Nhưng các con hãy còn quá trẻ, chưa đủ trí tuệ, không thể làm theo, chẳng biết thiện ác. Nhà bị lửa cháy, những chú bé con đều đang chơi ở những nơi khác nhau. Này thiện nam! Ông trưởng giả ấy đâu có thể khởi tâm, đứa con này nên đem ra, đứa con kia chẳng nên đem ra, đứa con này đem ra trước, đứa con kia nên đem ra sau chăng?
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Không thể. Vì sao? Vì ông trưởng giả ấy, đối với các con tâm luôn bình đẳng, không sai khác.
Phật dạy:
–Này thiện nam! Bồ-tát cũng lại như vậy. Đối với các chúng sinh tâm đều xem họ như con trẻ, ngu tối không trí, nơi thế giới sinh tử lửa cháy dữ dội khắp chốn, các người con ấy đều ở khắp sáu đường, Bồ-tát tùy chỗ ứng hợp thành tựu, thảy đều cứu vớt, Cùng khắp được ra khỏi, đến nơi chốn vắng lặng.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy, đó là Bồtát đối với hết thảy chúng sinh luôn khởi tâm bình đẳng.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là khéo cúng dường Phật. Những gì là mười? Đó là:
1. Dùng pháp để cúng dường Phật.
2. Dùng sự cứu độ chúng sinh để cúng dường Phật.
3. Dùng sự giáo hóa chúng sinh, khiến họ an lập nơi pháp thiện để cúng dường Phật.
4. Dùng sự luôn ban cho hết thảy chúng sinh mọi thứ lợi lạc để cúng dường Phật.
5. Dùng việc không lìa bỏ hạnh nguyện để cúng dường Phật.
6. Không bỏ nẻo hành hóa của Bồ-tát để cúng dường Phật.
7. Ngôn, hành luôn tương ưng để cúng dường Phật.
8. Tâm không mệt chán để cúng dường Phật.
9. Không bỏ tâm Bồ-đề để cúng dường Phật.
10. Không đem tài thí để cúng dường Phật.
Vì sao? Này thiện nam! Vì Pháp thân của Như Lai không phải được cúng dường bằng tài thí, mà chỉ dùng pháp thí để cúng dường là hơn hết. Do cúng dường đầy đủ, đem lại lợi ích cho chúng sinh khiến họ đạt được an lạc, thiện lợi. Nếu không thể tạo lợi ích cho chúng sinh thì sẽ buông bỏ pháp thiện, chỗ tạo tác trở nên chán nản, ưa thích vọng ngữ, ý chí sút kém, tâm sinh mỏi mệt, lìa bỏ tâm Bồ-đề. Có các sự việc như thế thì không thể vì các chúng sinh mà tạo lợi ích. Vì sao? Vì Bồ-tát cần dựa nơi chúng sinh để tu tập các công đức, cho đến thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu không có chúng sinh thì trọn không thể thành tựu đạo quả kia. Đạo quả Vô thượng Chánh giác là gồm đủ Phật đạo, nên dùng pháp cúng dường là hơn hết, là tối thượng. Dùng tài thí cúng dường chưa phải là cúng dường đích thực.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy, đó gọi là Bồ-tát hành trì pháp khéo cúng dường Phật.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là phá trừ kiêu mạn. Đó là Bồ-tát hoặc khi xuất gia, tư duy: “Đã lìa bỏ cha mẹ, quyến thuộc để xuất gia, xem như là thây chết thối rửa bị từ bỏ”, vậy sao ở trong ấy lại khởi kiêu mạn? Ta nay cạo bỏ râu tóc, bỏ hình tướng cũ, hướng cầu đạo pháp, hạn chế nơi thân tâm biết đủ. Mặc y hoại sắc, trước tiên là cải đổi chỗ ưa thích. Tu pháp xuất gia, xả bỏ mọi ứng xử theo thế tục, vì sao lại dấy khởi tâm kiêu mạn? Cạo tóc, ôm bình bát, hành pháp khất thực, tạo tưởng khất thực thì chẳng nên kiêu mạn, phải tự hạ mình xem như hàng Chiên-đà-la. Ta nay xin ăn là do kẻ khác cứu giúp mạng sống của mình, vậy sao lại kiêu mạn mà tự làm thương tổn? Vì vậy, tư duy nhằm phá trừ kiêu mạn. Ta nay thọ pháp khất thực, tức bị kẻ khác xem thường, người đem cho thức ăn tợ như đem vất bỏ, như thế thì sao lại khởi kiêu mạn? Ta nay, đối với hết thảy chúng sinh luôn khởi tưởng như các bậc Hòa thượng, A-xà-lê, nên gia tăng sự khiêm tốn, cung kính để phá bỏ tâm kiêu mạn. Ta cùng với các vị đồng học, đồng phạm hạnh, nên khéo gìn giữ oai nghi luôn nhớ nghĩ để hành trì thuận hợp, không nên tới các nơi chốn chẳng phải là luật nghi, nên khiến cho các bạn đồng phạm hạnh trông thấy ta đều sinh hoan hỷ. Khi tư duy như vậy thì phá trừ được kiêu mạn. Ta chưa từng được tu hành Phật pháp, nay được tu tập, ở trong chỗ chúng sinh sân hận, não hại, phải luôn nhớ nghĩ tới nhẫn nhục. Lúc suy xét như thế thì phá bỏ được kiêu mạn.
Này thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy, đó là Bồ-tát hành trì pháp phá trừ kiêu mạn.
KINH BẢO VÂN
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là tin, kính.
Những gì là mười? Đó là:
1. Thiện căn sâu dày vì đã gieo trồng gốc đức từ đời trước.
2. Đạt được chánh kiến, không tin theo kẻ khác, không quy y nơi kẻ khác.
3. Ý chí luôn chánh trực, không hề hư vọng.
4. Tâm luôn chân chất, ngay thẳng, dứt mọi tà vạy, dua nịnh.
5. Lợi căn, trí tuệ, công đức gồm đủ.
6. Trừ bỏ mọi thứ ngăn che, nên tâm luôn thanh tịnh.
7. Thường nương tựa nơi các bậc Tri thức thiện, xa lìa hàng tri thức ác.
8. Phá trừ kiêu mạn.
9. Được nghe pháp thâm diệu, có thể khéo thọ nhận trọn vẹn. Hoàn toàn không điên đảo để luôn hiểu đúng về pháp tạng vô cùng sâu xa của Như Lai.
10. Uy đức luôn tự tại.
Này thiện nam! Gồm đủ mười pháp này, đó là Bồ-tát hành trì đầy đủ pháp kính, tin.
Bấy giờ, Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Con nay ở nơi chỗ Như Lai đủ oai đức lớn, xin Đức Thế Tôn giảng nói một ít pháp thuộc về uy đức ấy, khiến con được lãnh hội.
Đức Thế Tôn bảo:
–Này thiện nam! Ông nay hãy khéo lắng nghe! Ta sẽ vì ông mà nêu giảng một ít phần về uy đức nơi pháp chính yếu của Như Lai.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng thưa:
–Lành thay! Thế Tôn! Xin vì con mà giảng nói. Phật nói:
–Như Lai là Bậc Đại Từ, luôn ban cho hết thảy chúng sinh mọi sự an lạc. Hoặc khi ở nơi một chúng sinh khởi tâm Từ, cho đến tất cả chúng sinh trong mười phương cũng lại như vậy, hiện bày khắp cảnh giới của hết thảy chúng sinh, cũng hiện bày khắp cõi hư không. Không ai có thể nhận biết trọn vẹn về biên vực nơi cảnh giới vô cùng sâu xa của Như Lai. Như Lai có tâm đại Bi, không cùng dung lượng với hàng Thanh văn, Bích-chi-phật. Như Lai, nơi một chúng sinh khởi tâm Bi, cho đến tất cả chúng sinh cũng lại như vậy, là để tạo lợi ích. Tâm đại Bi của Như Lai không có biên vực, chẳng phải là nơi chốn có thể đạt được một cách rốt ráo của hàng Nhị thừa.
Này thiện nam! Như Lai thuyết giảng pháp không thể cùng tận. Có thể nơi một thời, vì khắp chúng sinh trong mười phương mà thuyết pháp. Hoặc một kiếp, trăm ngàn vạn ức kiếp, vô lượng atăng-kỳ kiếp luôn thuyết pháp như thế. Hết thảy chúng sinh không ai có thể nhận biết về gốc ngọn nơi biên vực thuyết pháp của Như Lai. Giả sử tất cả chúng sinh, trong một lúc nêu vấn nạn, Như Lai ở trong một niệm, đều tùy theo từng loại chúng sinh, với một âm thanh, có thể giải đáp, nhưng biện tài của Như Lai không có cùng tận. Như Lai có vô lượng a-tăng-kỳ nơi chốn hành hóa các pháp Tammuội, thiền định.
Này thiện nam! Giả sử hết thảy chúng sinh đều chứng đắc mười trụ, mỗi mỗi chúng sinh đều nhập vô lượng pháp Tam-muội, ở trong trăm ngàn kiếp đều nhập các định khác, như vậy trải qua vô lượng kiếp, hãy còn không thể nhận biết hết về cảnh giới Tam-muội của Như Lai. Như Lai lại tạo ra vô lượng a-tăng-kỳ ứng thân, khiến cho hết thảy chúng sinh đáng thọ nhận sự hóa độ, thảy được thấy Như Lai đều hiện tiền trước họ, trong khoảng một niệm, nơi mỗi mỗi sắc tướng đều sinh tin hiểu với những sai khác. Như Lai lại còn, trong một lúc đều hiện ra trước các chúng sinh, tùy chỗ ứng hợp mà thuyết pháp, khiến họ thảy đều thọ nhận, thực hành.
Này thiện nam! Thiên nhãn của Như Lai với cảnh giới của đối tượng được nhận thấy là vô lượng, vô biên, chẳng phải là chỗ thấy được của nhục nhãn. Cảnh giới của Thiên nhãn ấy, Như Lai chỉ trong một niệm thảy đều thấy rõ, như xem quả A-ma-lặc trong bàn tay. Cảnh giới của đối tượng được nghe nơi Thiên nhĩ của Như Lai cũng là vô lượng, vô biên, như Thiên nhãn đã nêu trên, hết thảy chúng sinh với các loại âm thanh khác nhau, theo sự lớn nhỏ, ở trong một niệm đều phân biệt nhận biết. Như Lai lại có vô lượng, vô biên trí tuệ vô ngại, không gì có thể so sánh, cũng không thể nêu ví dụ. Hết thảy chúng sinh, như chỗ nhận biết của tâm niệm, tùy theo căn tánh với vô số sai biệt, chỉ trong một sát-na, Như Lai thảy phân biệt, biết rõ. Tùy nơi các chúng sinh kia, mỗi mỗi chỗ nhớ nghĩ, mỗi mỗi chỗ tạo tác, theo nơi gây nghiệp thiện, ác mà phải thọ nhận quả báo, Như Lai có thể dùng ba đạt nơi trí tuệ vô ngại, chỉ trong một sátna đều phân biệt nhận biết.
Này thiện nam! Như Lai luôn ở nơi thiền định. Vì sao? Vì Như Lai hoàn toàn không mất chánh niệm, các căn của Như Lai không hề nhầm lẫn, Như Lai đã đoạn trừ mọi thứ kết sử, nên tâm luôn vắng lặng. Nếu còn xen lẫn kết sử thì tâm tán loạn, lìa pháp thanh tịnh. Như Lai đã lìa hết mọi tác động của hết thảy các nghiệp, mọi trần cấu đã hoàn toàn dứt sạch, vô lậu, vô vi, nơi các pháp luôn tự tại. Tất cả Tam-muội, Tam-ma-đề, với vô lượng cảnh giới, đã đạt tới bờ giác ngộ. Như Lai luôn ở nơi Tammuội, luôn một oai nghi cho đến Niết-bàn. Như Lai, nơi vô lượng trăm ngàn ức kiếp tu tập, chứng đắc, không có chúng sinh nào có thể tư duy, phân biệt, nhận biết về số lượng.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Như Lai chẳng từ nơi a-tăngkỳ kiếp tích tập công đức sao?
Phật bảo:
–Chẳng phải thế. Vì sao? Này thiện nam! Vì Bồ-tát không thể nghĩ bàn về cảnh giới của Như Lai. Cảnh giới của Như Lai vượt mọi sự lường tính, suy xét, chỉ vì các chúng sinh thiển cận mà nói là ba a-tăng-kỳ kiếp tu tập, chứng đạt. Bồ-tát từ lúc thật sự phát tâm đến nay là chẳng thể tính kể.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng thưa:
–Bạch Thế Tôn! Nếu chúng sinh, từ lâu đã tu tập thiện căn, gieo trồng các hành nghiệp, trừ bỏ mọi thứ ngăn che, đạt nhiều tin hiểu, gần gũi với bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được nghe vô lượng uy đức của Như Lai, nghe pháp ấy rồi thì hoan hỷ vui tin, huống nữa là lại thọ trì, đọc tụng, biên chép, cúng dường, vì mọi người mà giảng nói rộng? Người như thế, chẳng bao lâu cũng sẽ có được uy đức lớn, xứng đáng là bậc Pháp khí.
Phật bảo:
–Đúng vậy! Đúng vậy! Như chỗ ông nói, chúng sinh như thế, vì chỗ đạt được của Phật, từ lâu đã gieo trồng căn lành, gần gũi chư Phật, nghe Phật có đại uy đức, các thiện nam, thiện nữ đó, đối với chỗ uy đức lớn lao kia không sinh nghi hoặc, tâm không lầm loạn. Do không lầm, loạn nên suy xét về đại uy đức của Như Lai, sinh tâm ân trọng, tin vui một cách sâu xa, bảy ngày bảy đêm mặc y phục mới, sạch, cung kính cúng dường, chuyên niệm về uy đức báu lớn lao của Như Lai, tâm không dời chuyển, tất được thấy Phật. Nếu chưa đủ bảy ngày, thậm chí chỉ một ngày một đêm, khi mạng chung, cũng được thấy Phật.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Có các chúng sinh, đối với những điều Như Lai đã giảng nói không tin thọ chăng?
Phật đáp:
–Có đấy. Này thiện nam! Hoặc có chúng sinh nghe pháp được Phật nêu giảng chẳng những không tin, thọ, mà còn sinh tâm não hại sâu xa, đối với người thuyết pháp thì khởi tưởng là tri thức ác. Do nhân duyên ấy nên sau khi thân hoại mạng chung, bị đọa vào địa ngục.
Này thiện nam! Nếu nghe Như Lai có uy đức lớn, sinh khởi tưởng về bậc Thế Tôn, bậc Đại sư, người như vậy, tức ở nơi đời trước đã được nghe về vô lượng công đức của Như Lai. Do nhân duyên ấy nên nay lại tiếp tục được nghe. Liền tự tư duy: “Chúng ta, nơi thân đời trước tất từng theo Phật nghe pháp như thế.”
Bấy giờ, Đức Như Lai tức thì hiện bày tướng lưỡi dài rộng, tự che phủ nơi kim diện. Lưỡi dài rộng ấy vượt lên phần tóc, cho đến che phủ cả đầu. Phủ nơi đầu rồi lại che phủ khắp thân. Che phủ khắp thân xong thì phủ khắp tòa Sư tử. Lại che phủ cả chúng Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác, Tứ Thiên vương Hộ thế, Phạm thiên, Đế Thích, che phủ khắp tất cả vô lượng đại chúng.
Rồi Phật thâu hồi tướng lưỡi, nói với đại chúng:
–Này các thiện nam! Tướng lưỡi như vậy là không hư vọng chăng?
Nếu tin nơi sự việc ấy thì cả trong đêm dài sinh tử luôn được an ổn, được những lợi lạc.
Phật nêu bày như vậy xong, có tám vạn bốn ngàn chúng sinh chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh, vô lượng chúng sinh xa lìa trần cấu, đạt được Pháp nhãn thanh tịnh. Vô số chúng sinh chưa phát tâm Bồ-đề, thì đều phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng.
Đức Phật lại bảo Bồ-tát Trừ Cái Chướng:
–Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp, gọi là đầy đủ sự khéo léo nơi thế gian. Những gì là mười? Đấy là:
1. Tuy nói về sắc mà đối với thật đế không thấy có tướng, cũng không chấp nơi tướng của sắc.
2. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.
3. Tuy nói về đại địa, mà đối với thật đế không thấy có tướng, cũng không chấp nơi tướng của đại địa.
4. Các đại: Thủy, hỏa, phong, không, thức cũng lại như vậy.
5. Tuy nói về nhãn (mắt) mà đối với thật đế không thấy có tướng, cũng không chấp nơi tướng của nhãn.
6. Tuy nói về nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý, pháp, mà đối với thật đế không thấy có tướng, cũng không chấp nơi tướng của ý pháp…
7. Tuy nói về có ngã, mà đối với thật đế không thấy có tướng, cũng không chấp nơi tướng của ngã.
8. Tuy nói về chúng sinh, thọ mạng, trượng phu, người, mà đối với thật đế không thấy có tướng, cũng không chấp giữ. Song nơi thế đế thì giả nêu bày là có, còn Đệ nhất nghĩa đế thì không thể thủ đắc, cũng không chấp giữ.
9. Thế đế, giả nêu bày nên có. Đệ nhất nghĩa đế thì không có thể tướng cũng không chấp giữ. Trong sự lưu hành khắp của thế gian mà có pháp Phật sai biệt.
10. Nếu ở nơi thật đế cũng không có tướng của thiện ác, không có pháp Phật. Chỉ trong thế đế mới có Bồ-đề. Đệ nhất nghĩa đế thì không có Bồ-đề, cũng không có chấp giữ.
Này thiện nam! Giả nêu bày về pháp gọi là Thế đế, hoàn toàn không nói thế đế là Đệ nhất nghĩa đế. Này thiện nam! Đại Bồ-tát khéo đối với Thế đế, không gọi là khéo đối với Đệ nhất nghĩa đế.
Thiện nam! Gồm đủ mười việc này, gọi là Bồtát hành trì pháp đầy đủ, khéo léo nơi thế gian.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là khéo nêu bày về Đệ nhất nghĩa đế. Những gì là mười?
Đó là:
1. Thành tựu pháp Nhẫn vô sinh.
2. Thành tựu pháp diệt.
3. Thành tựu pháp chẳng hoại.
4. Thành tựu pháp không tạo tác.
5. Pháp cứu cánh.
6. Thành tựu pháp không xứ sở.
7. Thành tựu pháp không ngôn ngữ.
8. Thành tựu pháp dứt mọi đùa cợt.
9. Pháp tịch diệt.
10. Pháp Hiền thánh.
Vì sao? Này thiện nam! Vì Đệ nhất nghĩa đế là chẳng sinh, chẳng diệt, không hoại, không chỗ tạo tác, cũng không cùng tận, chẳng phải là nơi chốn đạt đến của văn tự, hý luận.
Này thiện nam! Đệ nhất nghĩa đế chẳng phải là con đường của ngôn ngữ, là đối tượng được chứng đắc, giác ngộ của các bậc Hiền thánh nơi pháp tướng vắng lặng.
Này thiện nam! Đệ nhất nghĩa đế chẳng phải là tướng hư hoại. Chư Phật xuất hiện ở đời hay không xuất hiện ở đời thì pháp tướng vẫn luôn như thế. Do nhân duyên ấy, nên Bồ-tát cạo bỏ râu tóc, tin nhà thế tục chẳng phải là nhà đích thật, xuất gia học đạo, xuất gia với chánh tín, thân mặc ca-sa, choàng y hoại sắc, tinh tấn tu đạo như cứu lửa cháy đầu, lìa bỏ các thứ hư vọng, chí cầu pháp thật.
Này thiện nam! Nếu không pháp thật thì không có xuất gia, chư Phật, Như Lai cũng không xuất hiện ở đời. Do nhân duyên này nên có pháp chân thật.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy, đó là Bồtát khéo lãnh hội về Đệ nhất nghĩa đế.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là khéo nhận biết về mười hai nhân duyên. Những gì là mười? Đó là:
1. Khéo nhận biết về thể tướng là không.
2. Khéo nhận biết về pháp sát-na.
3. Khéo nhận biết về pháp không kiên cố.
4. Khéo nhận biết pháp như ảnh tượng.
5. Khéo nhận biết pháp như trăng trong nước.
6. Khéo nhận biết pháp như âm vang của tiếng gọi.
7. Khéo nhận biết pháp như huyễn.
8. Khéo nhận biết pháp như ánh chớp.
9. Khéo nhận biết pháp như dợn nắng.
10. Pháp do nhân duyên sinh nên thảy là không, pháp chuyển biến trong từng sát-na nên không kiên cố.
Như vậy, cho đến nhân duyên sinh pháp, thì pháp ấy sinh cũng thấy sinh, trụ cũng thấy trụ, dị, hoại cũng thấy dị, hoại.
Bồ-tát tư duy như vầy: “Do nhân duyên gì sinh, do nhân duyên gì diệt?” Bồ-tát lại tư duy: “Nhân nơi vô minh nên có thể sinh các pháp. Do sức mạnh của vô minh nên các pháp được sinh ra. Hết thảy các pháp đều do vô minh dẫn dắt, đều nương tựa nơi vô minh. Dựa nơi vô minh nên có thể sinh ra hành. Dựa nơi hành nên sinh ra thức. Thức là nhân duyên sinh ra danh sắc… cho đến tử là nhân duyên sinh ưu bi khổ não, các khổ tụ tập. Do nhân duyên ấy nên sinh khổ ấm lớn. Dùng trí tuệ sâu xa, theo phương tiện khéo léo sẽ đoạn trừ vô minh, nhổ bật gốc rễ của vô minh, diệt trừ vô minh. Vô minh tương ưng với các pháp, nên vô minh được diệt trừ thì tất cả cũng được diệt tận. Ví như khi mạng căn dứt thì các căn đều dứt. Khi vô minh dứt thì dựa nơi pháp vô minh, tất cả đều dứt tận. Vô minh diệt nên các phiền não diệt. Phiền não diệt nên nhân của sinh tử đều diệt. Sinh tử diệt nên tiếp cận với Niếtbàn.”
Này thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy, gọi là Bồ-tát khéo nhận biết về mười hai nhân duyên.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là khéo nhận biết về ngã. Những gì là mười?
Bồ-tát quan sát như vầy: “Ta sinh nơi nhà nào? Là nhà của hàng Bà-la-môn, là nhà của hàng Sátlợi, là nhà của hàng trưởng giả, hay là nhà của tầng lớp hạ tiện?” Bồ-tát tuy sinh nơi nhà của tộc họ lớn, mà không có tưởng khác nhau. Nếu sinh nơi nhà thuộc hàng hạ tiện, nên suy nghĩ: “Ta vốn từng tạo các nghiệp bất thiện, do nghiệp ác nên nay sinh nơi nhà thuộc hàng hạ tiện.” Vì thế nên tu tập nhiều pháp chán bỏ điều ác. Do chán bỏ điều ác, nên muốn được xuất gia. Đã xuất gia rồi, nên suy niệm: “Ta vì sự việc gì mà cầu xuất gia? Phàm pháp xuất là tự độ thoát và cũng độ thoát cho người khác. Do vậy mà chẳng được bê trễ, biếng nhác. Ta nay xuất gia là dốc đoạn trừ pháp bất thiện. Nếu có một chút xấu ác thì phải mau chóng dứt bỏ. Nơi các pháp thiện, phải dấy khởi sự ưa thích, hoan hỷ sâu xa, không chán. Chỗ ác chưa đoạn trừ thì phải dùng phương tiện để trừ diệt.”
Lại nên quan sát: Chúng ta là người xuất gia, làm thế nào để các pháp thiện được tăng trưởng rộng khắp? Pháp thiện được tăng trưởng nên càng yêu thích gấp bội, thâm tâm hoan hỷ. Pháp thiện chưa tăng trưởng thì khiến cho tăng trưởng rộng khắp. Ta nay nên dựa vào các bậc thầy trong đạo để phát triển pháp thiện. Do vậy, đối với chư vị Hòa thượng, hoặc trì giới, hoặc phá giới, hoặc đa văn, hoặc không đa văn, hoặc thông minh, hoặc không trí, thảy đều cung kính, sinh tưởng về Đức Thế Tôn. Nơi các Đức Thế Tôn luôn cung kính, cúng dường, hoan hỷ, tin, vui. Nơi chư vị Hòa thượng cũng lại như vậy. Đối với các A-xà-lê lại sinh cung kính. Ta dựa nương nơi các bậc A-xà-lê nên pháp thiện tăng trưởng rộng khắp, pháp phần Bồ-đề chưa được viên mãn sẽ khiến viên mãn, các thứ kết sử chưa đoạn trừ sẽ khiến đoạn trừ. Nơi chư vị A-xà-lê lại sinh tưởng như Hòa thượng, cung kính như trước, yêu thích hoan hỷ, làm tăng trưởng pháp hữu, tổn giảm pháp tả, pháp tả như thế chẳng khiến phát triển. Bồ-tát lại quán xét. Ai là Đức Thế Tôn của ta? Bậc Nhất thiết chủng trí là Đức Thế Tôn của ta. Bậc ấy có thể hiểu biết tất cả, có thể thuyết giảng tất cả, cứu vớt thế gian, thương xót chúng sinh, đầy đủ tâm đại Bi, là ruộng phước lớn, là Đức Thế Tôn của ta, bậc thầy của hàng trời, người. Do nhân duyên ấy, do hình tướng ấy nên sinh tin kính, yêu thích hoan hỷ.
Bồ-tát lại khởi suy nghĩ: “Ta được lợi lạc lớn là gặp Đức Thế Tôn Như Lai, Phật chế ra giới luật. Ta nay thà bỏ thân mạng, trọn không hủy phạm giới luật do Đức Như Lai chế.” Đó gọi là khéo thọ trì giáo pháp của Phật.
Ta nay phải nên theo những thành phần nào để thọ nhận sự cúng dường? Như ta hiện tại, phải nhờ vào các hàng Sát-lợi, Bà-la-môn nơi những làng mạc, thành ấp, thọ nhận sự cung cấp bố thí của họ, khiến cho phước báo của họ được tôn quý, giàu có, an lạc. Ta cũng không nên dối thọ nhận sự cúng dường của mọi người. Như vậy thì các hàng Sátlợi, Bà-la-môn nơi những làng mạc, thành ấp đều dấy khởi tưởng gì? Ta nay suy xét, có công đức gì mà được nhận các thức ăn uống bố thí? Hàng Sátlợi, Bà-la-môn nơi những tụ lạc, thành ấp sẽ nghĩ ta là vị Sa-môn, tạo tưởng về ruộng phước. Vậy ta nay phải nên thực hiện đầy đủ đúng theo đạo pháp thuộc nẻo hành trì của bậc Sa-môn. Công đức của hàng Tỳ-kheo, công đức của các Sa-môn, ruộng phước, hành nghiệp thanh tịnh, phải xứng hợp với tên gọi. Ta nay ở trong cõi sinh tử phải tự xuất ly ra khỏi. Đã được thiện lợi là xuất gia, là bước đầu đạt được lợi lạc lớn, không gì hơn. Ta được xuất gia tức là có được lợi lớn, vô thượng, có thể xứng hợp với pháp xuất gia, cũng là đại lợi, không gì hơn. Thế nên ta nay phải siêng năng tinh tấn, xa lìa bê trễ, cũng phải mau chóng ra khỏi nẻo sinh tử khổ hoạn.
Thiện nam! Bồ-tát xuất gia thường nên giữ niệm, suy xét như vậy.
Này thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy, đó là Bồ-tát khéo nhận biết về ngã.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là khéo nhận biết về pháp thế gian. Những gì là mười? Đó là:
1. Đối với người cao ngạo khởi tưởng thấp kém.
2. Nơi người kiêu mạn khởi tưởng cung kính.
3. Nơi người tà, nịnh, khởi tưởng chất trực.
4. Đối với kẻ vọng ngữ, khởi tưởng chân thật.
5. Nơi kẻ ghét bỏ, khởi tưởng yêu thích.
6. Nơi kẻ cứng cỏi, khởi tưởng dịu dàng, hòa nhã.
7. Nơi người không nhẫn khởi tưởng nhẫn nhục.
8. Nơi kẻ sân hận, khởi tưởng tâm Từ.
9. Nơi người khổ não, khởi tưởng tâm Bi.
10. Nơi kẻ nhiều tham khởi tưởng bố thí.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy, đó là Bồtát khéo nhận biết về pháp thế gian.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là có thể sinh vào quốc độ Phật thanh tịnh. Những gì là mười? Đó là:
1. Trì giới thanh tịnh, không thiếu sót, không hiềm nghi.
2. Nơi tất cả chúng sinh tâm luôn bình đẳng.
3. Cùng chung sự nghiệp tu tập, đầy đủ các công đức.
4. Xa lìa mọi thứ tiếng tăm, khen ngợi, lợi dưỡng. Không nhiễm tám pháp nơi thế gian.
5. Luôn có tâm tin tưởng sâu xa, không nghi ngờ.
6. Siêng năng tinh tấn tu tập, không hề bê trễ.
7. Thâu giữ tâm, hành thiền định, dứt mọi tán loạn.
8. Khéo tu học về đa văn, xa lìa hàng vô trí.
9. Căn trí lanh lợi, thông tuệ, diệt trừ ngu tối.
10. Nơi các chúng sinh sân hận, não hại luôn tu tập tâm Từ.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Nếu mười pháp ấy không gồm đủ thì có thể sinh vào cõi tịnh không?
Phật đáp:
–Này thiện nam! Nếu có thể nơi một pháp hành trì đầy đủ không thiếu sót thì nên biết mười pháp kia thảy đều thanh tịnh. Do ý nghĩa ấy, nên gọi là gồm đủ mười pháp, được sinh nơi cõi tịnh.
Thiện nam! Đầy đủ mười pháp ấy, đó gọi là Bồtát có thể sinh vào cõi tịnh của Phật.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là không cấu nhiễm theo thai sinh. Những gì là mười?
Đó là:
1. Tạo các hình tượng.
2. Chùa, tháp Phật nếu bị hư hoại thì nên tu sửa, tạo sự trang nghiêm.
3. Dùng các thứ hương thích hợp để tô, thếp các hình tượng Như Lai, sơn sửa lại các tháp Phật.
4. Thường dùng các loại nước thơm để rưới, tẩy nơi các tháp Phật.
5. Luôn quét dọn sạch sẽ các nơi kể trên.
6. Luôn cung kính, hết lòng phụng dưỡng cha mẹ.
7. Đối với các bậc Hòa thượng, A-xà-lê, các vị đồng phạm hạnh, tâm luôn cung kính, cúng dường, chẳng phải chỉ là tài thí.
8. Đem các thiện căn này hồi hướng cho các chúng sinh.
9. Nguyện đều được thai sinh không bị cấu nhiễm.
10. Tâm luôn ân cần, tôn trọng, tư duy như vậy. Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy, gọi là Bồtát không bị cấu nhiễm theo thai sinh.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là lìa bỏ nhà xuất gia. Đó là:
1. Không có nơi chốn thọ dụng.
2. Đối với nơi chốn có thể bị cấu nhiễm, trọn không gần gũi.
3. Quay lưng với năm thứ dục.
4. Trừ bỏ các thứ khao khát về ái.
5. Đối với các giới cấm do Như Lai chế ra, hoàn toàn không hủy phạm.
6. Ít ham muốn, biết đủ.
7. Y phục, thức ăn uống, giường nằm tòa ngồi, chính là để giữ lấy mạng sống, trọn không tham tích chứa.
8. Nơi chốn của năm dục luôn sinh sợ hãi.
9. Thường nhớ nghĩ đến việc chán lìa.
10. Dốc tu tập pháp thiện.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy, đó là Bồtát lìa bỏ nhà, xuất gia.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là chánh mạng.
Những gì là mười? Đó là:
1. Tâm không dua nịnh, quanh co.
2. Không nên bên ngoài cố hiện tướng oai nghi để cầu lợi dưỡng.
3. Không nên tạo sự khen chê, đề cao mình khác với đại chúng.
4. Không nên bên ngoài che giấu năm dục mà tâm cầu lợi dưỡng.
5. Không giữ lấy tài sản phi pháp.
6. Không cất giữ tài sản không thanh tịnh.
7. Không tham đắm lợi dưỡng.
8. Không nhiễm nơi lợi dưỡng.
9. Phải luôn biết đủ.
10. Đối với lợi lạc đúng như pháp luôn sinh tâm biết đủ.
Thế nào là Bồ-tát tâm không dua nịnh, quanh co? Tức không vì lợi dưỡng mà khiến thân, khẩu, ý phải khi dối, quanh co.
Thế nào là thân dua nịnh, dối trá? Bồ-tát chẳng vì gặp các thí chủ mà giả hiện bày các oai nghi. Hiện bày oai nghi ra sao? Như lúc gặp thí chủ thì mắt nhìn xuống thấp, bước đi chậm rải như mèo rình chuột. Đó gọi là thân dua nịnh, dối trá. Thế nào là khẩu dua nịnh, dối trá? Bồ-tát không vì lợi dưỡng mà tạo lời nói mềm mỏng, lời nói ưu ái, lời nói nhẹ nhàng, lời nói dua theo chỗ yêu thích của kẻ khác, lời nói dua theo ý nghĩ của kẻ khác. Những thứ lời nói như thế thảy đều không nên hiện bày. Thế nào là ý dua nịnh, dối trá? Tức miệng nói biết đủ mà tâm thì tham đắm. Phật dạy: “Lửa thiêu đốt từ bên trong”, tức miệng nói biết đủ mà tâm luôn tham cầu đắm nhiễm. Nếu không như vậy, gọi là không dua nịnh, dối trá.
Thế nào là không nên bên ngoài cố hiện bày tướng mạo oai nghi? Bồ-tát không do khi thấy các thí chủ mà tạo các tướng mạo oai nghi. “Tôi nay y phục, bình bát, thuốc thang đồ nằm đều thiếu, cũ, hư… Bồ-tát chẳng vì gặp các thí chủ mà nói như thế.
Thế nào là không nên tạo sự khen chê, đề cao mình, khác với đại chúng? Bồ-tát trọn không nên nói: “Có thí chủ kia cho tôi vật này, vì thương xót nên thọ nhận. Tôi nay trì giới thanh tịnh, đa văn đầy đủ, ít ham muốn, nên các thí chủ tín tâm đều ưa thích cung cấp cúng dường.” Không nói những lời như vậy gọi là không tạo sự khen chê để tự đề cao mình.
Thế nào gọi là không nên bên ngoài che giấu năm dục mà tâm thì cầu lợi dưỡng? Bồ-tát hoàn toàn không nên bên ngoài hiện bày đủ các hạnh khổ mà chính là cầu của cải, lợi dưỡng. Đối với lợi dưỡng của kẻ khác không ôm lòng ganh ghét, cũng không buồn phiền, bực tức. Đó gọi là không nên bên ngoài che giấu năm dục mà tâm cầu lợi dưỡng.
Thế nào gọi là không giữ lấy tài sản phi pháp? Không nên cân nhẹ, đong thiếu, lừa dối kẻ khác để nhận lấy tài sản. Bồ-tát hoàn toàn không lừa dối, xâm đoạt.
Thế nào là không giữ lấy tài sản không thanh tịnh? Như có người dâng cúng các vật dụng cho Tam bảo cùng cho cả đại chúng, những vật dụng như vậy đã giữ lấy để dùng riêng cho mình, thậm chí còn đem đổi chác, mua bán để kiếm lời, tăng thu nhập cho mình. Các vật như thế gọi là tài sản không thanh tịnh. Đại Bồ-tát nên xa lìa các vật như trên. Đó gọi là đời sống thanh tịnh. Bồ-tát nếu có được lợi dưỡng, không nên sinh tưởng đó là vật của mình. Của cải, lợi lộc quy về mình cũng không nên dấy khởi tưởng có thể đạt được, cũng không tạo tưởng tích tập, giữ gìn, luôn nhớ nghĩ để bố thí cho các Sa-môn, Bà-la-môn, cha mẹ, sư trưởng, quyến thuộc, những kẻ bần cùng, hành khất, luôn khởi tưởng ấy. Nếu lúc cần phải thọ thực thì nên cầu nhằm tăng thêm mạng sống. Đối với các vật ngon, lạ tâm không nhiễm đắm. Như khi không được cúng dường thì cũng chẳng buồn phiền, cũng không bực bội, chẳng nên khiến cho các thí chủ tín tâm kia sinh tâm bất tín. Nếu có được lợi dưỡng đúng như pháp thì nên chia cho chúng Tăng cùng thọ nhận. Người có thể làm được như vậy thì Phật cũng chấp thuận, các chúng Bồ-tát không hề chê trách, cũng được chư Thiên tán thán, các vị đồng phạm hạnh tâm không tỵ hiềm. Ở trong lợi dưỡng luôn sinh tâm biết đủ, nên lìa bỏ tà mạng. Thiện nam! Gồm đủ mười pháp như thế gọi là Bồ-tát có đời sống thanh tịnh.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là không chán mệt. Những gì là mười? Đó là:
1. Luôn vì chúng sinh nên ở lâu trong sinh tử, tâm không mệt chán.
2. Vì các chúng sinh nên có thể thọ nhận sinh tử.
3. Nơi vô lượng khổ cũng không chán, mệt.
4. Vì người theo Thanh văn dẫn dạy tu pháp thiền, không sinh chán mệt.
5. Tâm luôn thận trọng.
6. Tu tập các pháp giác phần không sinh mệt, chán.
7. Hành trì đầy đủ pháp Bồ-đề chẳng sinh chán, mệt.
8. Tuy cầu đạt Niết-bàn nhưng không thủ chứng.
9. Dần dần tiến đến chỗ sâu rộng.
10. Đạt đến bờ giác ngộ.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp này gọi là Bồtát tâm không hề chán mệt.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là tùy thuận giáo pháp của Phật. Những gì là mười? Đó là:
1. Chẳng trụ nơi chốn phóng dật, trừ bỏ mọi phóng dật.
2. Khéo thâu giữ thân, cũng không khiến thân dấy khởi các lỗi lầm xấu ác.
3. Khéo thâu giữ miệng, cũng không khiến miệng phát khởi những lỗi lầm xấu ác.
4. Khéo thâu giữ tâm, cũng không khiến tâm sinh khởi các lỗi lầm ác xấu.
5. Sợ hãi khổ não nơi đời sau mà tu tập đầy đủ các pháp thiện.
6. Hành trì hết thảy các pháp thiện, đoạn trừ hết mọi pháp bất thiện.
7. Nêu bày tất cả pháp thiện, chê trách hết thảy pháp ác.
8. Chê trách hết thảy các nghiệp ác, tu tập tất cả các nghiệp thiện. Đối với pháp của Như Lai không nói về chỗ sút kém.
9. Diệt trừ hết thảy các thứ phiền não cấu uế.
10. Gìn giữ các giới pháp do Phật chế ra.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp này gọi là Bồtát tùy thuận giáo pháp của Như Lai.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là sắc diện luôn tươi vui, lìa mọi buồn bực. Những gì là mười? Đó là:
1. Các căn tĩnh lặng.
2. Các căn thanh tịnh.
3. Các căn đầy đủ.
4. Các căn lìa cấu uế.
5. Các căn bạch tịnh.
6. Trừ mọi não hại.
7. Diệt trừ các kết sử.
8. Khiến các kết sử không còn dấy khởi.
9. Trừ bỏ tâm hiềm hận.
10. Xa lìa mọi giận dữ.
Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Thế Tôn! Như con lãnh hội điều Phật giảng nói thì các căn thanh tịnh nên sắc diện vui tươi. Do sắc diện vui tươi nên lìa bỏ mọi thứ kết sử. Lìa mọi kết sử nên không còn buồn bực.
Phật bảo:
–Này thiện nam! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói. Các căn thanh tịnh nên sắc diện vui tươi, trừ các kết sử nên lìa mọi buồn bực.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy, gọi là Bồtát sắc diện luôn tươi vui hòa hợp, lìa mọi buồn bực.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là đa văn. Những gì là mười? Đó là:
1. Nhận biết đúng như thật về sinh tử như lửa cháy dữ dội.
2. Nhận biết đúng như thật về sân hận cháy bừng.
3. Nhận biết đúng như thật về vô minh tối tăm loạn động nơi sinh tử cháy bùng.
4. Nhận biết đúng như thật về tất cả các pháp hữu vi đều là vô thường.
5. Nhận biết đúng như thật về tất cả các pháp hữu vi đều là khổ.
6. Nhận biết đúng như thật về thế gian là không.
7. Nhận biết đúng như thật về tất cả pháp là vô ngã.
8. Nhận biết đúng như thật về tất cả chúng sinh tham vướng nơi sự vui chơi hoan lạc.
9. Nhận biết đúng như thật về hết thảy các pháp từ nhân duyên sinh.
10. Nhận biết đúng như thật về Niết-bàn vắng lặng, chính là từ văn tuệ, tư tuệ mà đạt được chứ không phải chỉ là lời nói.
Nhận biết như vậy rồi, vì các chúng sinh nên phát khởi tâm đại Bi một cách sâu xa, dốc sức tu tập đầy đủ sự tinh tấn. Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy, đó là Bồ-tát hành trì đa văn.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là hộ trì chánh pháp. Những gì là mười?
Đó là:
1. Lúc pháp sắp bị diệt có năm thứ ô trược xấu ác dấy khởi, chúng sinh phước mỏng phần nhiều tin theo tà đạo.
2. Đèn trí tuệ sắp tắt, không có bậc đạo sư có thể thuyết giảng chánh pháp.
3. Các kinh điển lớn tuy chứa đựng những ý nghĩa sâu xa nhưng không người có khả năng lãnh hội, nêu giảng, cũng không có ai đọc tụng, thọ trì.
4. Bấy giờ Bồ-tát thấy chánh pháp bị hủy hoại, có thể tự thọ trì kinh tạng, tán thán, đọc tụng, vì mọi người mà mở bày, chỉ dẫn, phân biệt, giải thích, thuyết giảng.
5. Trong số đó có người nghe rồi sinh tâm tin tưởng, vui thích, hoan hỷ, không vì của cải lợi lộc, chỉ nhằm được nghe pháp.
6. Đối với vị thuyết pháp sinh tưởng như Đức Thế Tôn.
7. Nơi pháp được nghe sinh tưởng như cam lồ.
8. Tạo tưởng bất tử như các thứ thuốc vi diệu.
9. Không tiếc thân mạng dốc cầu chánh pháp.
10. Nghe pháp rồi đều tinh tấn tu tập.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy gọi là Bồtát khéo có thể hộ trì chánh pháp.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là bậc Pháp vương tử. Những gì là mười? Đó là:
1. Dùng các tướng để trang nghiêm nơi thân.
2. Các vẻ đẹp luôn như hoa tươi thắm.
3. Các căn đầy đủ không khuyết, giảm.
4. Pháp được Như Lai thân cận Bồ-tát cũng có thể gần gũi.
5. Nẻo hành đạo của Như Lai, Bồ-tát cũng có thể thuận hành.
6. Pháp được Như Lai biện giải, Bồ-tát cũng có thể biện giải thuận hợp.
7. Tạo mọi thành tựu đầy đủ cho các chúng sinh bị khổ não.
8. Khéo tu học về giới luật.
9. Ngày đêm siêng năng hành trì bốn tâm vô lượng.
10. Nơi thành trì Như Lai dừng lại, Bồ-tát cũng có thể an trụ trong ấy.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp này gọi là Bồtát hành trì theo bậc Pháp vương tử.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là vượt hơn pháp của Đế Thích, Hộ thế. Những gì là mười?
Đó là:
1. Tâm Bồ-đề không hề thoái chuyển.
2. Hết thảy chúng ma không thể quấy nhiễu.
3. Nơi trụ xứ của tất cả Phật gieo trồng thiện căn.
4. Có thể hội nhập nơi mọi pháp tạng sâu xa vi diệu.
5. Nơi tất cả các pháp đạt được trí bình đẳng.
6. Ở trong pháp Phật không tin theo kẻ khác.
7. Đạt được trí thanh tịnh.
8. Không chung với pháp của hàng Nhị thừa.
9. Trụ nơi pháp Nhẫn vô sinh.
10. Vượt qua pháp của hết thảy bậc Hộ thế.
Này thiện nam! Gồm đủ mười pháp này đó là Bồ-tát hành trì pháp vượt hơn hết thảy pháp của Đế Thích, Hộ thế.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là có thể nhận biết về căn tánh, về các thứ kết sử trong ngoài của chúng sinh. Những gì là mười? Đó là:
1. Hoặc các chúng sinh căn tánh tham dục, Bồtát có thể nhận biết đúng như thật.
2. Bồ-tát có thể nhận biết đúng như thật về các chúng sinh căn tánh sân hận.
3. Bồ-tát có thể nhận biết đúng như thật về các chúng sinh căn tánh ngu si.
4. Khéo nhận biết về các thứ phiền não thượng, trung, hạ.
5. Có thể nhận biết đúng như thật về căn tánh trong ngoài sai biệt của chúng sinh.
6. Có thể nhận biết đúng như thật về căn tánh thiện của chúng sinh.
7. Có thể nhận biết đúng như thật về căn tánh cứng cỏi của chúng sinh.
8. Có thể nhận biết đúng như thật về căn tánh lớn lao của chúng sinh.
9. Nhận biết đúng như thật về căn tánh xấu ác của chúng sinh.
10. Khéo nhận biết về một chúng sinh, cũng nhận biết về căn tánh của chúng sinh nơi tất cả thế giới.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy gọi là Bồtát khéo nhận biết về căn tánh, về các thứ kết sử trong ngoài.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là có thể thành tựu đầy đủ cho chúng sinh. Những gì là mười? Đó là:
1. Đối với các chúng sinh nên thấy thân Phật để được hóa độ, Bồ-tát liền hiện thân Phật.
2. Nên thấy thân Bồ-tát để được hóa độ, liền hiện thân Bồ-tát.
3. Nên thấy thân Duyên giác để được hóa độ, liền hiện thân Duyên giác.
4. Nên thấy thân Thanh văn để được hóa độ, liền hiện thân Thanh văn.
5. Cần thấy thân Đế Thích để được hóa độ, liền hiện thân Đế Thích.
6. Cần thấy thân ma để được hóa độ, liền hiện thân ma.
7. Cần thấy thân Phạm vương để được hóa độ, liền hiện thân Phạm vương.
8. Nên thấy thân Bà-la-môn để được hóa độ, liền hiện thân Bà-la-môn.
9. Nên thấy thân Sát-lợi để được hóa độ, liền hiện thân Sát-lợi.
10. Nên thấy thân Trưởng giả để được hóa độ, liền hiện thân Trưởng giả.
Các thân như vậy, tùy chỗ ứng hợp thảy đều hiện bày.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy gọi là Bồtát có thể thành tựu đầy đủ cho chúng sinh.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là khéo điều phục thuận hợp. Những gì là mười? Đó là:
1. Ngay thẳng, thành thật, mềm dịu.
2. Không có tâm dua nịnh, dối trá.
3. Không có tâm não hại.
4. Không có tâm cấu uế.
5. Tâm luôn thanh tịnh.
6. Không có tâm thô ác.
7. Dứt trừ tâm sân hận.
8. Dứt trừ lời nói thô bạo xấu ác.
9. Luôn hành nhẫn nhục.
10. Hay dứt bỏ mọi thứ tranh luận.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy, đó là Bồtát có thể khéo điều phục thuận hợp.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là cùng trụ nơi an lạc. Những gì là mười? Đó là:
1. Chánh kiến thanh tịnh.
2. Tu hành đầy đủ.
3. Đầy đủ giới thanh tịnh.
4. Đầy đủ các nơi chốn hành hóa.
5. Ứng hợp với pháp xuất gia.
6. Chẳng trụ nơi chốn có phiền não phát khởi.
7. Tâm ý hòa nhã thuận hợp đối với các vị đồng phạm hạnh.
8. Như bò mẹ nhớ bê con, Bồ-tát luôn tu tập, hành trì bình đẳng.
9. Luôn ưa thích chánh đạo giác ngộ bậc nhất.
10. Chỉ Phật là bậc tôn quý, không cầu các vị thần khác.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy gọi là Bồtát cùng trụ nơi an lạc.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là pháp thâu nhiếp chúng sinh. Những gì là mười? Đó là:
1. Dùng bố thí để thâu nhiếp chúng sinh.
2. Dùng an lạc để thâu nhiếp.
3. Dùng bố thí vô tận để thâu nhiếp.
4. Dùng lợi lạc để thâu nhiếp.
5. Dùng lợi ích của đạo nghĩa để thâu nhiếp.
6. Dùng việc giảng nói pháp để thâu nhiếp.
7. Dùng sự giáo hóa, dẫn dắt để thâu nhiếp.
8. Dứt trừ mọi thứ hơn kém để thâu nhiếp.
9. Cùng ăn uống để thâu nhiếp.
10. Các vật dụng cần cho đời sống thảy đều cung cấp để thâu nhiếp chúng sinh.
Thế nào là bố thí để thâu nhiếp chúng sinh? Tức thường dùng pháp thí dứt trừ vĩnh viễn các khổ của chúng sinh.
Thế nào là dùng an lạc để thâu nhiếp? Tức bố thí sự ăn uống khiến chúng sinh được no đủ, không còn tưởng về đói khát.
Thế nào gọi là bố thí vô tận? Tức chỉ dạy tu tập thiền định, xa lìa tán loạn. Đó gọi là bố thí vô tận.
Thế nào là đem lại lợi ích? Tức chỉ dạy, trao truyền các pháp thiện làm tăng trưởng tín tâm. Đó gọi là đem lại lợi ích.
Thế nào là đem lại lợi lạc về đạo nghĩa? Là dẫn dạy về pháp như thật, khiến thấu tỏ sâu xa về tướng không.
Thế nào là bố thí bằng thuyết pháp? Tức dựa nơi kinh điển, tùy chỗ nên nghe mà giảng nói, hoàn toàn không có tà thuyết.
Thế nào là đem lại sự dẫn dắt, giáo hóa? Là giảng nói pháp như thật, không nhầm lẫn về tướng. Thế nào gọi là dứt trừ mọi thứ hơn kém, xấu tốt để thâu nhiếp? Đó là dốc sức diệt trừ pháp ác, tạo lập pháp thiện.
Thế nào là cùng ăn uống để thâu nhiếp? Tức mọi thứ thức ăn uống hiện có thảy đem cho đại chúng cùng thọ hưởng.
Thế nào là bố thí các vật dụng cần cho đời sống? Đó là các thứ voi ngựa, bảy báu, cho đến các vật dụng đủ loại cần cho thân mạng đều cung cấp đầy đủ.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy, gọi là Bồtát hành trì các pháp thâu nhiếp chúng sinh.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là thân tướng đoan nghiêm. Những gì là mười? Đó là:
1. Oai nghi tĩnh lặng.
2. Oai nghi đích thực, không dối trá.
3. Oai nghi thanh tịnh.
4. Oai nghi khiến người thấy đều yêu kính.
5. Oai nghi như mặt trăng.
6. Oai nghi khiến người xem không hề chán đủ.
7. Oai nghi khiến tâm ý vui vẻ.
8. Oai nghi khiến mọi người đều ưa thích chiêm ngưỡng.
9. Oai nghi có thể khiến cho hết thảy đều hoan hỷ.
10. Oai nghi có thể khiến cho tất cả đều tin, vui.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy, đó là Bồ-tát hành trì với oai nghi đoan nghiêm.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là có thể làm nơi nương tựa. Đó là:
1. Có thể ủng hộ chúng sinh khiến họ lìa bỏ phiền não.
2. Có khả năng khiến chúng sinh ra khỏi chốn đồng hoang vắng sinh tử hiểm nạn.
3. Có khả năng khiến cho chúng sinh ra khỏi biển lớn sinh tử.
4. Có thể vì các chúng sinh không ai cứu hộ làm nơi chốn thân hữu.
5. Có thể vì các chúng sinh bị bệnh phiền não làm vị lương y.
6. Đối với những kẻ không ai cứu giúp có thể cứu giúp.
7. Đối với những người không có nhà cửa tạo ra nhà cửa.
8. Làm chỗ quay về nương tựa cho những kẻ không chốn dựa nương.
9. Làm chốn đất liền, nương bãi cho những kẻ bơ vơ.
10. Những người chưa đạt đến khiến cho đạt đến.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp này gọi là Bồtát luôn có thể làm nơi chốn nương tựa.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là cây thuốc lớn. Những gì là mười? Đó là:
1. Ví như cây thuốc quý tên là Thiện Kiến, nên có chúng sinh dùng rễ cây để trừ hết bệnh.
2. Có chúng sinh dùng thân cây để trừ hết bệnh.
3. Hoặc dùng cành cây để trừ dứt bệnh.
4. Hoặc dùng lá cây để trừ dứt bệnh.
5. Hoặc dùng hoa của cây để trừ hết bệnh.
6. Hoặc dùng quả để trừ hết bệnh.
7. Hoặc thấy màu sắc để trừ hết bệnh.
8. Hoặc có chúng sinh ngửi mùi hương dứt trừ hết bệnh.
9. Hoặc nếm vị để trừ hết bệnh.
10. Hoặc xúc chạm để trừ hết bệnh.
Thiện nam! Đại Bồ-tát cũng lại như vậy. Từ khi mới phát tâm đã vì vô lượng chúng sinh với từng ấy các thứ bệnh phiền não, có người dựa nơi hạnh xả của Bồ-tát để được sống, có người nương nơi giới của Bồ-tát để được sống, có người dựa nơi nhẫn nhục của Bồ-tát để được sống, có kẻ nương vào tinh tấn của Bồ-tát để được sinh mạng, có kẻ dựa vào thiền định của Bồ-tát để được sinh mạng, có chúng sinh nương nơi trí tuệ của Bồ-tát để được sinh mạng, có kẻ nhờ thấy pháp mà được thọ mạng, có chúng sinh nhờ nghe tiếng mà được sống, có kẻ nhờ nếm vị mà được thọ mạng, có người nhờ đồng sự mà được thọ mạng.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp này gọi là Bồtát hành trì làm cây thuốc lớn.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là siêng năng tu tập phước nghiệp. Đó là:
1. Thường đối với Tam bảo, tùy theo khả năng mà cúng dường.
2. Đối với người bệnh thì cung cấp thuốc men.
3. Đối với kẻ đói khát thì bố thí các thức ăn uống.
4. Đối với kẻ thiếu thốn y phục phải chịu lạnh thì bố thí y phục.
5. Đối với các bậc Hòa thượng, A-xà-lê thì luôn cung kính, cúng dường, tin thọ những lời chỉ dạy.
6. Đối với các vị đồng phạm hạnh thì đón tiếp, thăm hỏi, cung kính lễ bái.
7. Tạo ra các vườn hoa, cây, ao tắm giếng nước.
8. Lại dùng các loại vải lụa để bố thí cho tất cả.
9. Bố thí luôn cả các nô tỳ, gia tộc, khiến cho quyến thuộc trong ngoài cũng cùng bố thí.
10. Cùng với các bậc Sa-môn trì giới luôn nhớ nghĩ, gần gũi, lui tới để cung kính, cúng dường.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy, đó là Bồtát siêng năng tu tập phước nghiệp.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là khéo có thể biến hóa. Đó là:
1. Nơi một cõi Phật, thân tướng bất động mà có thể hiện hữu khắp các cõi Phật để thưa thỉnh, hỏi đáp.
2. Nơi một cõi Phật, thân tướng bất động mà có thể hiện hữu khắp các cõi Phật để nghe thọ nhận pháp vi diệu.
3. Nơi một cõi Phật, chẳng động mà có thể hiện hữu để cúng dường khắp các chư Phật trong mười phương.
4. Nơi một cõi Phật, bất động, mà có thể hiện hữu khắp các cõi Phật để trang nghiêm đạo quả Bồđề thảy đều đầy đủ.
5. Nơi một cõi Phật, bất động, mà có thể hiện hữu khắp tất cả cõi Phật, ở đấy, khi Phật mới thành tựu đạo quả, an tọa tại cội Bồ-đề nơi đạo tràng, đã cung kính cúng dường, tôn trọng, tán thán.
6. Nơi một cõi Phật, bất động, có thể dùng tự thân hiện hữu khắp tất cả các cõi Phật, an tọa nơi đạo tràng, thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng.
7. Nơi một cõi Phật, bất động, có thể hiện hữu khắp các cõi Phật, chuyển pháp luân.
8. Nơi một cõi Phật, bất động, có thể hiện hữu khắp các cõi Phật, nhập Bát-niết-bàn.
9. Nơi một cõi Phật, bất động, có thể hiện hữu nơi tất cả cõi Phật trong mười phương, đối với các chúng sinh nên thọ nhận sự hóa độ, đều hiện thân để giáo hóa.
10. Bồ-tát đạt được thần lực vô tác, nơi tất cả cõi Phật khắp mười phương không tạo tưởng biến hóa, cũng không tạo mọi biến hóa, tùy các chúng sinh cần được chiêm ngưỡng, Bồ-tát thảy đều ứng hiện.
Bấy giờ, Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Thế Tôn! Vì sao Bồ-tát có thể tạo được những biến hóa như vậy, lại nói là “Cũng không tạo tưởng biến hóa, cũng không tạo các biến hóa?” Phật bảo:
–Này thiện nam! Ông nay hãy lắng nghe! Như Lai sẽ nêu thí dụ. Ví như ánh sáng của mặt trời, mặt trăng chiếu khắp bốn cõi thiên hạ, tạo lợi ích cho thế gian, có thể ở nơi các chúng sinh luôn tạo mọi lợi lạc, mà mặt trời mặt trăng cũng không dấy khởi tưởng: “Ta có thể soi chiếu nơi các chúng sinh, tạo lợi ích lớn”, nhưng các chúng sinh đều nhờ nơi ánh sáng tỏa chiếu ấy. Bồ-tát cũng thế, do nhân duyên của thệ nguyện từ nơi nghiệp thiện gốc, chứng đắc pháp vô tác nên tự nhiên thành tựu, có thể không tạo tưởng biến hóa, cũng không tạo mọi thứ biến hóa, nhưng đối với hết thảy những nơi chốn có lợi ích đều thấy có sự biến hóa.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy, đó là Bồtát hành trì pháp khéo biến hóa.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có mười pháp gọi là mau chóng thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Những gì là mười? Đó là:
1. Tu hành bố thí khiến cho pháp bố thí đầy đủ.
2. Tu tập trì giới, giới không thiếu sót, giới không bị chê trách, dị nghị, vượt hơn giới của hàng Nhị thừa, thân giới thanh tịnh viên mãn.
3. Đầy đủ nhẫn nhục.
4. Tinh tấn đầy đủ.
5. Thiền định viên mãn.
6. Trí tuệ gồm đủ.
7. Phương tiện trọn vẹn.
8. Nguyện viên mãn.
9. Lực đầy đủ.
10. Trí trọn vẹn, vượt hơn hẳn hàng Nhị thừa.
Từ Địa thứ nhất cho đến Địa thứ chín, là chỗ không thể đạt tới của Bồ-tát.
Thiện nam! Gồm đủ mười pháp ấy, gọi là Bồtát mau chóng đạt được quả vị Bồ-đề vô thượng.
Lúc thuyết giảng phần kinh này, thì khắp tam thiên đại thiên thế giới đều hiện đủ sáu cách chấn động. Trong tam thiên đại thiên thế giới ấy, các núi như núi chúa Tu-di, núi Mục-chân-lân-đà, núi Đại mục-chân-lân-đà, núi Thiết vi, núi Đại thiết vi, núi Báu, núi Đen, các núi như thế thảy đều cong mình hướng về núi Già-da. Vì sao? Vì do diệu lực nơi thần thông tự tại của Đức Như Lai.
Cũng nơi tam thiên đại thiên thế giới, hết thảy các loại cây hoa, các loại cây quả, các loại cây hương, lại đều cong thân hướng tới núi Già-da. Vì sao? Vì do diệu lực nơi thần thông tự tại của Đức Như Lai. Vô lượng ức na-do-tha, trăm ngàn ức chư Bồ-tát đều cởi các tấm y thượng diệu nơi thân cùng với các xâu chuỗi anh lạc dâng lên cúng dường Đức Như Lai. Do diệu lực từ thần thông nên ngần ấy loại y phục và anh lạc đã tích tụ hơn cả núi Tudi.
Vô lượng trăm ngàn ức Đế Thích, Hộ thế, Phạm Thiên vương cùng chắp tay đảnh lễ, tung rải các loại hoa: Mạn-đà-la, Ma-ha mạn-đà-la, Mạnthù-sa, Ma-ha mạn-thù-sa, Lô-chi, Ma-ha lô-chi, lên trên chỗ Phật để cúng dường. Trăm ngàn vạn ức chư Thiên, ở trong hư không đều tung rải y trời, tấu các loại nhạc hay, vô cùng hoan hỷ phát ra âm thanh lớn, đều dùng hoa trời cúng dường Phật, cùng nói:
–Phật lại xuất hiện ở thế gian, lại chuyển pháp luân. Chúng sinh có phước vì từ đời trước đã trồng gốc đức, ở nơi trụ xứ của Phật thời quá khứ, đã gieo trồng căn lành lâu xa, nên được nghe kinh này. Nghe hãy còn khó, huống chi lại còn tin hiểu, biên chép, thọ trì.
Lúc này, vô lượng trăm ngàn Ma-hầu-la-già, đối với pháp được diễn nói ấy, phát ra âm thanh như tiếng sấm lớn, vang khắp tam thiên đại thiên thế giới, lại dùng vô số thứ nước hương mưa xuống núi Già-da. Vô lượng trăm ngàn Long vương, ở trước chỗ Đức Phật tấu các loại kỹ nhạc. Vô lượng trăm ngàn Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, dùng âm thanh dịu dàng hòa nhã, tán thán cúng dường, nhiễu quanh núi Già-da. Vô lượng trăm ngàn Dạ-xoa, mưa xuống các hoa sen, tạo ra những trận gió mát mẻ. Vô lượng trăm ngàn chư Phật ở phương khác đều hiện bày tướng bạch hào phóng ra ánh sáng, cúng dường Đức Như Lai cùng pháp được nêu giảng. Hào quang hiện ra từ tướng bạch hào tạo thành đủ loại màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng, tía, pha lê, vòng quanh khắp tam thiên đại thiên thế giới, xua trừ mọi tối tăm, vòng quanh núi Già-da, rồi nhập vào đỉnh đầu Đức Thế Tôn. Vô lượng trăm ngàn Bà-la-môn, Sát-lợi nơi các thành ấp, làng mạc, dùng đủ loại hoa, hương, anh lạc, hương bột, y phục, lụa, lọng, cờ phướn để cúng dường Phật.
Khi nêu giảng phần kinh ấy, đã có vô lượng sự cúng dường như vậy. Có bảy mươi hai na-do-tha Bồ-tát đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Vô lượng trăm ngàn chúng sinh lìa mọi trần cấu, được mắt pháp thanh tịnh. Vô lượng trăm ngàn ức chúng sinh phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Thần núi Già-da tên là Vô Tử, cùng với đám quyến thuộc, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, tự đi vào pháp hội, dùng các vật cúng dường dâng lên cúng dường Phật, cúng dường Phật xong, thưa:
–Bạch Thế Tôn! Con nhớ lại về thời xa xưa, có bảy vạn hai ngàn vị Phật đều ở nơi núi Già-da này, tuyên giảng kinh điển ấy, văn chữ câu chương như nay không khác.
Phật bảo:
–Đích thực là đạt được thiện lợi! Các ông đã được nghe kinh Bảo Vân như thế!
Có một vị Thiên tử, suy nghĩ: “Thần núi Giàda này, từ lâu đã được nghe pháp ấy, đã cúng dường bảy vạn hai ngàn vị Phật, vì sao không chuyển thân nữ?” Đại Bồ-tát Trừ Cái Chướng nhận biết tâm niệm của vị Thiên tử kia nên bạch Phật:
–Thế Tôn! Do nhân duyên gì, Thiên thần Vô Tử, có uy đức lớn, được nghe pháp bảo này, cúng dường ngần ấy chư Phật, vì sao không chuyển thân nữ?
Phật đáp:
–Này thiện nam! Vì nhằm tạo lợi ích cho chúng sinh, ông đã hỏi về chỗ do nhân duyên gì… là vì sự giải thoát không thể nghĩ bàn.
Này thiện nam! Như Lai nhớ về thời quá khứ, nơi trụ xứ của Phật Toán Số, đã thấy Thiên thần Vô Tử ấy phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Thiên thần Vô Tử có uy đức lớn, thần thông, cúng dường ngàn vị Phật trong Hiền kiếp, ở nơi quốc độ này sẽ được thành Phật hiệu là Vô Tử Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri.
Phật bảo Thiên thần Vô Tử:
–Hiện tại người có thể hiện bày về cõi nước khi thành Phật chăng?
Bấy giờ, Thiên thần Vô Tử liền nhập Tammuội Hiện nhất thiết sắc. Nhập Tam-muội rồi, thì đại địa nơi tam thiên đại thiên thế giới này bằng phẳng như bàn tay, đều là lưu ly. Hết thảy các thứ cấu uế, xấu ác, các núi đen… thảy đều mất hết. Nơi nơi đều thấy các cây kiếp-bát, cây các báu, cây các hương, chốn chốn đều thấy các dòng suối chảy, ao tắm, nước với tám thứ công đức tràn đầy ở đấy. Mọi kẻ hèn kém nơi các cõi ác đều không hiện bày, trong nước không có tên gọi về người nữ, khắp cõi đều có hoa sen lớn như bánh xe, trên ấy đều có Bồtát an tọa theo lối kiết già. Phật Vô Tử cũng an tọa trên hoa sen, vì các Bồ-tát giảng nói pháp chính yếu. Vô lượng trăm ngàn ức Đế Thích, Phạm vương, Tứ Thiên vương cùng vây quanh. Lại có vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh cùng đến cúng dường, Phật vì họ mà thuyết pháp, tuần tự lắng nghe.
Thiên thần Vô Tử từ pháp Tam-muội Hiện nhất thiết sắc xuất, cung kính lễ nơi chân Phật, đi vòng quanh chỗ Phật theo phía bên phải, liền ẩn không hiện.
Đại Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Thế Tôn! Thiện nam, thiện nữ tạo phước đức như thế nào mới được nghe kinh này?
Phật nói:
–Nếu người chí tâm khéo lãnh hội kinh này, nhớ nghĩ, thọ trì, đọc tụng, biên chép, vì mọi người giảng nói rộng khắp. Lại có thiện nam, thiện nữ ở nơi tam thiên đại thiên thế giới này, trải qua trăm ngàn ức kiếp tu hành bố thí, chẳng bằng các thiện nam, thiện nữ kia, tâm tin thanh tịnh, biên chép, cúng dường kinh ấy. Do tâm thanh tịnh nên được phước hết sức nhiều. Vì sao? Vì tài thí thì phước ít, nhỏ, pháp thí thì phước mới lớn, rộng. Chúng sinh sinh tử ở trong cõi sinh tử, tạo vô lượng tài thí, chưa từng được nghe pháp thí xuất thế gian. Nếu có các thiện nam, thiện nữ có thể khiến cho chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới này đều an lập nơi mười pháp thiện. Lại có thiện nam, thiện nữ nghe chánh pháp ấy, thứ lớp thọ trì, đọc tụng, phân biệt giảng nói rộng khắp, thì phước đức nơi những người này cũng vượt hơn trường hợp trên. Vì sao? Vì phước báo của mười nghiệp thiện sinh nơi thế giới này. Hoặc có thiện nam, thiện nữ, có thể khiến cho chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới đều chứng đắc bốn quả vị của hàng Thanh văn, chứng đắc quả vị Bích-chi-phật, giả thiết đạt được công đức như thế, cũng không bằng người nghe được diệu nghĩa của một câu nơi kinh trên, tuần tự thọ trì, đọc tụng, biên chép, vì mọi người mà giảng nói rộng. Vì sao? Vì mọi công đức của hàng Nhị thừa đều từ kinh này mà ra. Nhân nơi kinh này mà có thể phát sinh tất cả Bồ-tát cùng chư Phật xuất hiện ở thế gian. Nếu đọc tụng kinh này, theo thứ lớp câu, nghĩa, phân biệt, giải thích, giảng nói, tức là thọ trì tất cả pháp Phật. Vì sao? Vì kinh này là mẹ của tất cả các kinh. Như chẳng đạt được kinh này thì các pháp thù thắng lớn lao thảy đều chẳng đạt được. Kinh ấy tức là giới pháp đầy đủ của Bồ-tát.
Lúc này, chư vị Thanh văn đệ tử của Phật, đều từ chỗ ngồi đứng dậy, bày vai áo bên phải, chắp tay bạch Phật:
Thế Tôn! Chúng con ở nơi cảnh giới sinh tử lớn rộng, nghe kinh này nên đều được xuất ly.
Phật bảo:
–Này các Tỳ-kheo! Đúng vậy! Đúng vậy!
Đức Thế Tôn lại bảo đại chúng:
–Các thiện nam, thiện nữ, nếu ở nơi cõi nước, địa phương nào có kinh điển này, văn chữ câu chương đúng theo thứ lớp, nên biết nơi chốn ấy tức là chốn đạo tràng, tức là nơi chốn chuyển pháp luân, tức là nơi chốn có tượng, tháp lớn của chư Phật. Nơi có kinh này tức là có Thế Tôn. Vì sao? Này thiện nam! Vì pháp tức là Bồ-đề. Pháp tức là chuyển pháp luân. Thiện nam! Pháp ấy tức là Phật. Cúng dường pháp tức là cúng dường Phật. Nếu nơi chốn nào có Pháp sư thuyết pháp thì nơi chốn ấy tức là tháp Phật. Đối với bậc Pháp sư đó nên sinh tưởng kính trọng, tưởng như bậc Tri thức thiện. Tạo tưởng chỉ rõ về chánh đạo nên thấy vị Pháp sư ấy phải sinh yêu thích, tin kính, hoan hỷ, nên khởi sự nghênh đón từ xa, thỉnh an tọa nơi tòa ngồi, phải nên tán thán: “Lành thay! Lành thay! Đã khéo giảng nói về pháp chánh yếu!” Hoặc một kiếp, hoặc ít hơn một kiếp, hoặc hơn một kiếp dùng để tán thán. Tán thán như vậy cũng chưa thể biết. Vì sao? Vì nếu người ưa thích pháp thì vô số sự tán thán, tôn trọng, cung kính cũng không thể nêu bày hết về nơi chốn của đối tượng được hành hóa. Giả sử có người có thể dùng máu rưới tưới lên đất vẫn không thể gọi là tận tâm cúng dường. Vì sao? Vì vị pháp sư như thế tức là đã thọ trì hết thảy chủng tử Phật của Như Lai. Pháp sư như vậy xứng đáng được xem như sư tử không khác, chẳng nên tạo tưởng thấp kém, chẳng khởi tâm hủy hại. Vì khoác y thanh tịnh, trong lành, nên sinh tâm tin kính sâu xa. Được kẻ khác tán thán mà tâm không cao ngạo, không khởi ngã mạn, cũng không xem thường kẻ khác, không vì tài lợi, chuyên tâm thuyết pháp.
Bấy giờ, Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:
–Thế Tôn! Nếu có nơi chốn nào của thế giới này có thể thuyết giảng kinh ấy, thì con sẽ tự thân dẫn hàng quyến thuộc đến nơi đó cúng dường, ủng hộ vị Pháp sư.
Phật bảo:
–Lành thay! Lành thay! Này Kiều-thi-ca! Đó là việc ông nên làm!
Đại Bồ-tát Trừ Cái Chướng bạch Phật:
–Thế Tôn! Pháp được thuyết giảng theo thứ lớp nên gọi tên kinh này là gì?
Phật dạy:
–Này thiện nam! Kinh này với văn, chữ, chương, câu theo thứ lớp, nên gọi là Bảo Vân, cũng gọi là Bảo Tạng, cũng gọi là Trí Đăng, cũng gọi là Chỗ Thọ Trì Của Bồ-tát Trừ Cái Chướng.
Lúc này, Bồ-tát Trừ Cái Chướng cùng với các vị Bồ-tát, các vị đại Thanh văn, Đế Thích, Đại Phạm Thiên, Thiên vương Hộ thế, Ma-hê-thủ-la, là vị thượng thủ của chư Thiên, cho đến tám bộ chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâula, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, vô lượng trăm ngàn ức chúng, đều xưng tán, hoan hỷ phụng hành.
[Mục lục bộ Kinh tập][426][427][428][429][430][431][432][433][434][435][436][437][438][439][440][441][442][443][444][445][446][447][448][449][450][451][452][453][454][455][456][457][458][459][460][461][462][463][464][465][466][467][468][469][470][471][472][473][474][475][476][477][478][479][480][481][482][483][484][485][486][487][488][489][490][491][492A][492B][493][494][495][496][497][498][499][500][501][502][503][504][505][506][507][508][509][510][511][512][513][514][515][516][517][518][519][520][521][522][523][524][525][526][527][528][529][530][531][532][533][534][535][536][537][538][539][540][541][542][543][544][545][546][547][548][549][550][551][552][553][554][555][556][557][558][559][560][561][562][563][564][565][566][567][568][569][570][571][572][573][574][575][603][604][605][606][607][608][609][610][611][612][613][614][615][616][617][618][619][620][621][622][623][624][625][626][627][628][629][630][631][632][633][634][635][636][637][638][639][639][640][641][642][643][644][645][646][647][648][649][650][651][652][653][654][655][656][657][658][659][660][661][662][663][664][665][666][667][668][669][670][671][672][673][674][675][676][677][678][679][680][681][682][683][684][685][686][687][688][718][719][720][721][721][722][723][724][725][726][727][728][729][730][731][732][733][734][735][736][737][738][739][740][741][742][743][744][745][746][747A][747B][748][749][750][751][752][753][754][755][756][757][758][759][760][761][762][763][764][765][766][767][768][769][770][771][772][773][774][775][776][777][778][779][780][781][782][783][784][785][786][787][788][789][790][791][792][793][794A][794B][795][796][797A][797B][798][799][800][801][802][803][804][805][806][807][808][809][810][811][812][813][814][815][816][817][818][819][820][821][822][823][824][825][826][827][828][829][830][831][832][833][834][835][836][837][838][839][840][841][842][843][844][845][846][847]