TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH
BỘ KINH TẬP (425-847)

SỐ 649-KINH QUAN SÁT CHƯ PHÁP HẠNH

Hán dịch: Đời Tùy, Tam tạng Pháp sư Xà-na-khuất-đa, người xứ Thiên Trúc

MỤC LỤC

QUYỂN 1

Phẩm 1: HẠNH PHƯƠNG TIỆN KHÉO VÔ BIÊN

QUYỂN 2

Phẩm 2: SIÊNG NĂNG ĐỜI TRƯỚC (Phần 1)

QUYỂN 3

Phẩm 2: SIÊNG NĂNG ĐỜI TRƯỚC (Phần 2)

Phẩm 3: THỌ KÝ ( Phần 1)

QUYỂN 4

Phẩm 3: THỌ KÝ (PHẦN 2)


QUYỂN 1

Phẩm 1: HẠNH PHƯƠNG TIỆN KHÉO VÔ BIÊN

Lúc ấy, Đức Thế Tôn ở trong gò Thứu điểu tại thành Vương xá, cùng với chúng đại Tỳ-kheo gồm một ngàn vị, chúng Đại Bồ-tát, có đến tám mươi ức vị, từ đủ các cõi Phật đến tập họp. Những vị ấy đều đạt được Đà-la-ni, Tam-ma-địa, Nhẫn và Nhất sinh bổ xứ, chứng được trí đạo quá khứ, vị lai, lời nói thanh tịnh, chẳng làm điều thiện dối trá, chẳng tự khen ngợi, không có tham lam, ngoại đạo chẳng thể hơn, vượt qua nghiệp ma, được các Phật pháp, thành tựu đủ vô úy, pháp chướng đã qua, nghiệp chướng đã diệt, đối với bản tánh các pháp đã được vô ngại, nói câu ca tụng tâm không cùng tận, chẳng thể nghĩ bàn kiếp đã trang nghiêm áo giáp thệ nguyện, tươi cười trước khi nói mặt không nhăn nhó rầu rĩ, biện tài chẳng đoạn, đã được Đẳng nhẫn Tam-ma-địa, Đà-la-ni, thành tựu đầy đủ vô biên biện tài và vô úy thù thắng, trăm ngàn ức ức kiếp khéo nói một câu mà tin hiểu các pháp, giống như huyễn hóa, như sóng nắng, như trăng đáy nước, như chiêm bao, như bóng hình, như tiếng vang... không đến, không đi, không sinh, không diệt, Không, Vô tướng, Vô nguyện, hiển hiện chẳng thể chấp giữ, không có chướng ngại, biết rõ vô biên trí tuệ, trí khéo biết rõ tâm hành của các chúng sinh, như chúng sinh đó tin hiểu thì tùy theo sự tin hiểu ấy mà khéo vì họ nói pháp, dùng cấm giới nhiếp lấy tâm mình, lìa khỏi pháp khát ái, đầy đủ nhẫn, không kiêu mạn khéo léo thắng diệu, dùng pháp bản tánh Như nhiếp lấy cõi Phật, trang nghiêm công đức, tạo tác nguyện vô biên, có thể lần lượt đi vô số thế giới, Tammuội Niệm Phật luôn hiện tiền, khéo thỉnh các Đức Phật, biết diệt các triền, tùy miên phiền não, giỏi biết đi đến tự tại chẳng phải một mà hàng trăm ngàn biển Tam-muội. Những vị đó là: Đại Bồ-tát Từ Thị, Đại Bồ-tát Mạn-thù-thi-lợi, Đại Bồ-tát Quán Thế Tự Tại, Đại Bồ-tát Đại Thế Chí, Đại Bồ-tát Vân Âm, Đại Bồ-tát Thiện Bá Thiên Khai Hoa Trí, Đại Bồ-tát Vô Biên Phan Duyên Xuất Ý, Đại Bồ-tát Lôi Trang Nghiêm Minh Âm Vương, Đại Bồ-tát Vô Số Câu Trí Kiếp Phổ Sinh

Trí, Đại Bồ-tát Sư Tử Hống Vương, Đại Bồ-tát

Đẳng Bất Đẳng Quán, Đại Bồ-tát Tịnh Mật Kim Vô Nghi Vương, Đại Bồ-tát Tịch Quán, Đại Bồtát Trí Vương, Đại Bồ-tát Bất Không Kiến, do Đại Bồ-tát Hiền Hộ đứng đầu gồm mười sáu bậc

Thiện trượng phu. Bồ-tát Tượng Hương Thủ Giả, Bồ-tát Vô Biên Bảo Tạng, Bồ-tát Trí Tích, Bồ-tát

Biện Tích, Bồ-tát Sư Tử Hống Minh Âm Vương, Bồ-tát Châu Trang Nghiêm Anh Lạc Hạnh, Bồtát Sư Tử Hành Bộ, Bồ-tát Đà-la-ni Tự Tại Vương, Bồ-tát Đắc Vô Biên Biện Tài Vô Úy, Đại Bồ-tát Danh Xưng, Đại Bồ-tát Hỷ Vương, những Bồ-tát như vậy đứng đầu cùng với tám mươi ức Đại Bồ-tát.

Như đại vương của tam thiên đại thiên thế giới này, hoặc Đế Thích, hoặc Phạm vương, hoặc Đại Phạm, hoặc Thiên vương, hoặc Long vương, hoặc chúa Dạ-xoa, chúa A-tu-la, chúa Già-lưu-trà, chúa Khẩn-na-la, chúa Ma-hầu-la-già, chúa người, chúa chẳng phải người... họ cùng với quyến thuộc vây quanh, mang theo vòng hoa, hương xoa, vải, lọng, cờ, phướn và tấu nhạc đi đến chỗ Đức Phật. Đến nơi rồi, họ đảnh lễ dưới chân Đức Phật, nhiễu quanh ba vòng, rồi tùy theo vật họ mang theo như vòng hoa, hương xoa, bột thơm, vải, lọng, cờ, phướn, tấu nhạc... ở chỗ Đức Thế Tôn đã cúng dường xong, tôn trọng nghe nhận chắp tay mà trụ.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Hỷ Vương, sau bảy ngày nhịn ăn, hoặc đi kinh hành, hoặc đứng, hoặc ngồi, chẳng nằm, chẳng ngủ tinh cần cầu pháp. Những Tam-muội nào đã khiến cho Đại Bồ-tát, ở Đại thừa vô thượng, chuyển thành Biến trí, Tài bảo trí... Bồtát đó suy nghĩ nhân duyên này rồi liền đứng dậy, sửa áo bày một vai, gối phải quỳ xuống đất, chắp tay hướng về Đức Phật mà bạch:

–Thưa Đại Đức Thế Tôn! Con có điều muốn thưa hỏi Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri! Nếu Đức Thế Tôn ban cho con tịch tĩnh thì kính xin Ngài giảng nói cho con về điều con đã hỏi!

Nói như vậy rồi, Đức Phật bảo Đại Bồ-tát Hỷ Vương:

–Này Hỷ Vương! Như Lai Ứng Chánh Biến Tri thường an trú tịch tĩnh để giảng nói những vấn nạn. Này Hỷ Vương! Như vậy, nếu ông muốn hỏi Như Lai Ứng Chánh Biến Tri thì ta liền theo từng điều, từng điều ông hỏi mà giải nói đúng như vậy, sẽ khiến cho ông hoan hỷ!

Đức Phật nói như vậy rồi, Đại Bồ-tát Hỷ Vương bạch:

–Bạch Thế Tôn! Bằng những Tam-muội nào, Đại Bồ-tát thành tựu đầy đủ Tam-muội? Đại Bồtát biết như thật tâm hành của các chúng sinh? Có thể hiểu ý của các Đức Phật Thế Tôn nói? Không làm trái điều đã nói mà thuận vào tùy âm thật trí? Có thể thấy các Đức Phật Thế Tôn hiện tại không có chướng ngại, thuận được pháp không sân giận tranh cãi? Theo đúng như pháp đã nghe đã nghĩ mà phụng hành, tuy ở và thực hành trong pháp thế gian mà chẳng bị tiêm nhiễm pháp ấy? Tuy hành ở trong định Biến trí mà ở đó tự tại, chẳng sinh? Tuy thực hành trong Niết-bàn mà chẳng ở khoảng giữa Niếtbàn vì chưa đầy đủ các Phật pháp? Tuy tu hành hạnh chân thật trong pháp Thanh văn, pháp Độc giác mà chẳng Niết-bàn ở những thừa đó? Phát ra vô biên ý niệm mà tâm chẳng quên mất? Vào pháp môn đủ các cõi của các chúng sinh, pháp môn vô cùng tận, giảng nói thông suốt nối tiếp nhau, đạt được vô biên công đức, trang nghiêm cõi Phật? Ở trong Biệt trí được Vô dư trí? Tuy thành thục chúng sinh nhưng chẳng nương vào tưởng chúng sinh mà nói pháp? Những chúng sinh đó không có kiến chấp mà đem an trụ ở Niết-bàn, cũng không một pháp nào có thể tịch diệt? Tuy hành Bồ-đề mà chẳng nương trụ? Thành tựu đầy đủ đại trí, lìa bỏ hai bên có và không? Tuy biết các pháp duyên sinh mà ở trong pháp duyên sinh chẳng chấp trước?

Nhanh chóng chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hàng phục ma cùng đồ chúng của ma, với các luận sư khác thì dùng pháp khuất phục, sẽ chuyển bánh xe pháp vô thượng, vì trời cùng thế gian gầm lên tiếng pháp?

Bạch Thế Tôn! Pháp Phật chẳng thể nghĩ bàn! Pháp Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn! Hạnh Bồ-tát chẳng thể nghĩ bàn! Rất hay, bạch Thế Tôn! Con đã hỏi Đức Như Lai, xin Đức Thế Tôn dùng vô số chẳng thể nghĩ bàn những trí Phật ưu việt để diễn nói. Nếu con ở bên Đức Thế Tôn nghe rồi thì sẽ theo đúng như thật tu hành. Theo đúng như thật tu hành rồi thì sẽ được tròn đầy những trí Phật ưu việt. Đại Bồ-tát Hỷ Vương nói lời như vậy rồi, lại dùng kệ hỏi Đức Phật. Bài ca tụng này là:

Con hỏi Luân Sư Nguyệt
Gần đời, trên mọi người
Như các hạnh Bồ-tát
Lần lượt mà giảng nói.
Nhiều người tụ đến không bờ đến
Chúng Người, Trời, Dạ-xoa tin tưởng
Nghe giảng nói công đức Phật pháp
Đa phần cùng muốn được giác ngộ.
Công đức của Phật, con đã tin
Con thưa hỏi các bờ công đức
Đấng Danh Vô Biên biết tâm con
Con và chúng sinh chẳng thể biết.
Giải thích phân biệt mười lực, hạnh
An lạc, đức độ hơn, người, trời vui
Đức hạnh Bồ-đề không thể sánh
Trăm phương tiện lớn nói trí hạnh.
Người phá tối tăm, gần cộng lực
Như chóng phóng ra trí sáng suốt
Như động đất ba ngàn thế giới
Như hạnh Bồ-tát nói vì con.
Cây Bà-tra thắng giác
Trụ đây, thêm phấn chấn
Phóng ánh sáng soi khắp
Na-do-tha, ức cõi
Như đại địa chấn động
Một mình chứng thắng trí
Hành giả tu hạnh lành
Như thực hành, sẽ nói.
Như sẽ có được tướng hoa nở
Như sinh, gìn giữ vô biên tiếng
Như được chánh định, vì còn mê
Như thực hành xong hạnh Bồ-tát
Như có tướng hoa nở thanh tịnh
Như nghe khéo léo, giữ gìn ý
Tựa hồ còn mê, chẳng lay động
Đủ trăm công đức như nói, làm.
Vô đẳng, Vô xưng, không dua nịnh
Vô ngã, Ứng cúng, không ba uế
Trí người khen, Sa-môn thù thắng
Con nay hỏi hạnh bậc hơn người.
Ý khéo hành trì lời hoa nở
Lời thanh tịnh, không lầm, thù thắng
Bậc trâu chúa trừ hết nhơ uế
Như chóng làm Phật nói vì con.
Như có nhiều người đến nhóm họp
Ngày đêm tinh cần luôn nhất tâm
Những người đó nghe hạnh thù thắng
Sẽ trụ hạnh Bồ-tát thật chân.
Nhiều người, trời ưa công đức Phật
Ngày đêm miệt mài luôn gắng sức
Nếu nghe hạnh này sẽ tu theo
Sẽ được mười Lực, lực khác tan.
Như sẽ đắc được Tam-ma-địa
Như được biện tài và trí thông
Như Phật quang soi vô biên hướng
Sẽ hỏi trí tuệ Vô biên xưng
Dáng cười Như như nói như vậy
Thông đạt Như như trong các pháp
Như được trí thông giữ gìn khắp
Thấy trăm Vô cấu, Phật mười phương.
Sao gọi sẽ được Vô tỷ trí
Đạt được na-do-đa ức kinh
Nên khi nói pháp không lầm lộn
Giảng nói hạnh Bồ-tát cho con.
Con chẳng hỏi vui “hữu”
Đường “hữu” đều xa lìa
Con chẳng hỏi hạnh nhỏ
Lìa bỏ hết các hành.
Như được đức tối thắng
Trăm loại công đức tròn
Vì con nói như vậy
Tươi cười rạng dung nhan.
Con nay chẳng hỏi đường vui “hữu”
Con nay chẳng hỏi cảnh giới nương
Bậc Thắng! Con muốn sinh bất tử
Thực hành mười Lực, nói thật chân.
Thưa Thiện Thệ! Sao là tịnh thí?
Sao gọi trì giới chấn bỏ trần?
Sao gọi Nhẫn từ đều ưa muốn?
Như có tinh tấn, sẽ tuyên dương!
Sao gọi ái trí ưa đoạn hoặc?
Sao gọi trí tuệ dứt danh ngôn?
Phải biết biển trí chẳng thể động
Như hạnh Bồ-tát vì con nói.
Nếu con chẳng được hỏi Thiện Thệ
Trí con ở trong chẳng tận cùng
Được qua Biến trí, bờ công đức
Vì con đều nói đức vô biên.

Nói lời kệ như vậy rồi, Đức Phật bảo Đại Bồtát Hỷ Vương:

–Hay lắm! Này Hỷ Vương! Hay lắm! Này Hỷ Vương! Ông nay phát khởi hạnh vì lợi ích của nhiều người! Vì an lạc của nhiều người! Vì thương xót thế gian đem nghĩa lợi ích, an lạc cho người, trời. Ông cũng vì những Đại Bồ-tát bây giờ và vị lai mà chẳng đoạn chủng tánh Phật, chẳng đoạn chủng tánh Pháp và chủng tánh Tăng. Nên hôm nay ông hỏi Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, về ý nghĩa này. Như ông ở bên các Đức Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng đã từng thưa hỏi, các Đức Phật đã giải nói. Này Hỷ Vương! Ông phải lắng nghe, khéo chánh niệm! Ta sẽ vì ông giảng nói! Bồ-tát nương vào Tam-muội gì để được những điều này và các công đức khác? Biết tâm hành của các chúng sinh?

Đại Bồ-tát Hỷ Vương thưa:

–Bạch Thế Tôn! Đúng vậy con ưa muốn nghe! Đức Phật bảo:

–Này Hỷ Vương! Có Tam-ma-địa gọi là Quyết định quan sát hạnh các pháp. Đại Bồ-tát nếu nương vào Tam-ma-địa này thì được tám mươi bốn ngàn Tam-ma-địa, được tám mươi bốn ngàn Đà-la-ni, được tám mươi bốn ngàn Ba-la-mật, mau chóng chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, chuyển bánh xe pháp Vô thượng, vì trời, người... trong thế gian mà gầm tiếng pháp.

Này Hỷ Vương! Những gì gọi là Tam-ma-địa Quyết định quan sát hạnh các pháp?

Đó là: Nói Như, làm Như, làm Như, nói Như, thân tịnh, lời tịnh, tâm tịnh, cầu đến lợi ích, tạo tâm bạn bè, chẳng vì cầu tham dục, chẳng bỏ được bi, chẳng vì chấp thủ pháp (10).

Chẳng mất niềm tin, tự thệ chẳng động, khéo hiểu chúng sinh, lời nói, việc làm điều thuận, nghiệp thuận thu liễm thân, lìa bỏ lời nói ác, tâm không lừa dối, người khổ khiến cho an lạc, người vui dạy tu hành (20).

Người buông lung thì biết xét lại, kẻ phát khởi tinh cần thì khiến cho quyết định hợp pháp, người hối hận thì khiến tan mất, chẳng trụ pháp tưởng, lìa khỏi tưởng chúng sinh, chẳng phân biệt sự tưởng, bỏ các chấp thủ, quan sát biết đến tướng, giữ giới chẳng động (30).

Thường cầu đến trí, lìa khỏi lời nói thế gian, cầu lời nói xuất thế, tự tiến chẳng quên, nghĩ thuận với pháp, nhập vào vận hành của Như, làm thuận theo nghi thức, với nghiệp nhất định tin, lìa bỏ chẳng tin (40).

Có nhiều tin hiểu, nghĩ đến Phật, có tội nói lên rõ ràng, với phước thì tùy hỷ, thỉnh cầu Phật, người đáng lễ thì lễ, không có tự cao ngã mạn, chẳng chán thiện căn, thường siêng tương ứng, chẳng bỏ siêng năng (50).

Thông tuệ phát xuất câu cú, tin nhân tạo nghiệp mà thọ quả báo ấy, với duyên biết xét lại, chẳng chấp trước hư thật, có sự nói năng (60).

Chẳng trụ Dục giới, chẳng đồng Sắc giới, chẳng đắm trước Vô sắc giới, đối với quả, nghiệp báo theo đó mà tin, chia đều vật dụng, có tâm bình đẳng, chẳng hại pháp giáo, hợp trong điều chẳng hợp không có sân hận, người khác được có lợi cũng chẳng ganh ghét, thỏa mãn điều mong ước (70).

Đạt đến pháp thệ, chẳng bỏ giới tụ, trừ kiêu mạn, lìa sân giận, cắt hết ngu si, chẳng sinh tham hạnh, theo được tri túc, chẳng cầu quyến thuộc, được lợi chẳng tự cao, không lợi chẳng tự ti (80).

Pháp lợi vui lòng chia, chẳng tích trữ, lời ác chẳng đáp lại, tự hộ trì lời nói của miệng, hiển bày ánh sáng Bồ-đề, xem xét phát khởi tinh cần, hòa hợp, ở nơi thanh vắng (90).

Đối với công đức Đầu-đà và cả quán sát đều có hỷ lạc, tin hiểu đối với không, chẳng đắm trước các việc, trong tụ họp chẳng nương, trong giới chẳng nghĩ, trong Nhập chẳng thấy, trong cảnh chẳng ái, trừ diệt điên đảo, tâm khiến cho niệm trì, trí tuệ phát sinh (100).

Hành theo hạnh Thánh, thuận thu liễm tâm, thuận theo đến đất phước điền, trừ bỏ các hành, bố thí chẳng cầu báo, đáp trong giới (cấm) chẳng niệm, chẳng phân biệt nhẫn, chẳng ngăn che tinh tấn, chẳng nương định ý, trí biết các pháp (110).

Vào đất lục Độ, chẳng nghĩ đức của mình, chẳng ghét đức của người khác, chẳng nương các hạnh, chẳng xưng lường hạnh, ở trong Niết-bàn không có vin theo duyên, chạy trốn sự lưu chuyển, ở trong giải thoát không có tư tưởng sợ, ở trong nhóm họp không có tư tưởng làm hại, ưa thích diệt độ (120).

Trụ ở nhẫn, dung nhan cười vui, hỏi thăm trước khi nói, mặt không nhăn buồn, kính già, trẻ, trung niên, tâm ấy có niềm tin thanh tịnh, chẳng bức não người khác để làm chủ, diệt tranh cãi, khen nói tịch tĩnh, siêng dạy hòa hợp (130).

Yêu ghét lòng bình đẳng, cầu Đà-la-ni, trong các chúng sinh coi như cha, mẹ, anh em, chị em, con cái, thân thuộc, tôn trưởng, bạn bè, thương nghĩ bình đẳng, yêu bậc Thánh như cha, ở với người thân cận thì yêu kính tôn trọng, ở trong Bồtát thì kính nghĩ như Phật, trong pháp thương kính cũng như chính mình, ở trong đa văn, không có chán đủ, trong hạnh thì phụng hành, cúng dường Như Lai (140).

Tin hiểu thượng diệu, không có co rụt lại, tạo hạt giống Tam bảo, nói Nhẫn bất định, trong thân chẳng tiếc, trong mạng chẳng tiếc, sinh sống trong sạch, với hạnh khất thực mà chẳng bỏ ách, khất thực bình đẳng lấy làm điều tốt đẹp, khéo trụ ở chỗ thanh vắng (150).

Lìa bỏ tại gia, lòng thường mừng vui, chẳng xen lẫn tục gia, với người xuất gia cũng mừng vui chẳng xen lẫn, chẳng làm thiện dối trá, chẳng tự khen ngợi, nói năng bằng lời ái ngữ, trong Bồ-tát thừa giáo hóa chúng sinh, người là phương tiện, thường thuận niệm Phật (160).

Tư duy về pháp, thường tôn trọng Tăng, cúng dường người trí, gần gũi bậc giải thoát, hộ trì người định ý, phò trì người siêng năng, nói đạo Bồ-đề tu tập pháp, tin vào phước đức, với việc dạy bảo chúng sinh thì dùng thiện căn (170).

Ái niệm người tin, giúp đỡ kẻ khổ, uy nghi thanh tịnh, thẹn mà có sợ, sợ thấy thẹn và hối hận, lìa khỏi người ác, trụ đúng như pháp hạnh, hướng về trừ diệt, cầu đến hạnh Thánh, huân tu niệm xứ (180).

Thường trụ chánh đoạn, được mọi Thần túc, giữ gìn các căn; thành tựu được Lực, quán Bồ-đề phần, Đạo chẳng điên đảo, vào Chỉ tức (Xa-matha), xem xét phát khởi Quán (Tỳ-bát-xá-na) với tâm chẳng mừng, trong pháp đều vui (190).

Vượt qua vin theo duyên trong địa mà có thể chẳng trụ, chẳng kinh sợ, không thấy, chẳng sinh đọa tưởng, hộ trì hạnh Bồ-tát, ở trong hạnh Phật tác khởi vô lượng tưởng, chán bỏ hạnh ác, bỏ điều đã làm trước kia, làm sạch nghiệp của mình (200). Bí mật giới cấm của luật tạng và biệt giải thoát, chẳng hủy báng pháp giáo, đúng lúc mà làm, lìa khỏi phi thời, khéo léo vào ra, biết được nguyện lượng, trong việc sinh sống đủ mà chẳng mừng, được các trí thông, tu Tam-muội, vào với các hạnh (210).

Nhập vào báu vi diệu, lời đã nói của Như Lai giữ lấy mà chẳng chấp, người siêng năng thì vui mừng, hiển bày ánh sáng Phật tử, khiến cho hàng Thanh văn nghe để thực hành, khiến cho hàng Độc giác thuận biết một đường, tài vật của Bồ-tát, chỗ ở của Thanh văn, hành hóa của bậc trí giả chính là thú hướng của người điều thuận (220).

Trọng người nói pháp, quan sát nhiều người tin, thị hiện Phật đạo, là kho tàng cho người cầu của cải, là ruộng cho người cầu quả báo, là vườn cho người ba lửa nóng bức, là ao hoa cho người được Tam-muội, là mẹ cho người sinh ra pháp thiện, người chẳng tin thân thì khiến cho dừng ràng buộc duyên với tướng (230).

Bố trí các việc tốt, bình đẳng trụ ở cõi Phật, được Đà-la-ni, phát ra đủ các trí, siêng huân tu, vượt cảnh giới ma, mạnh mẽ chiến đấu cắt đứt phiền não, tiêu diệt việc bất thiện, phát triển mạnh điều thiện (240).

Siêng năng nguyện cầu là chuỗi ngọc, ma chẳng thể phá, lời nói không tận cùng, thế gian chẳng ngang bằng, ngoại đạo chẳng biết, đã vượt qua trong pháp Thanh văn, đã ra khỏi Độc giác, an trụ trong Biến trí, con đường đến của chúng sinh vào đạo, lời nói của thiện bằng hữu (250).

Biết xem xét như thật, là hỷ đối với người thọ báo, là vị cho người muốn uống, là vòng hoa cho người muốn mừng vui, là xe chở người hướng về Niết-bàn, là thuyền cho người đi qua bờ, là bè cho người muốn vượt qua, là đèn cho người mù, là mắt cho người muốn thấy, là đuốc cho người nói pháp (260).

Là lời thề đối với người chẳng dối trá, là của cải cho người muốn bố thí, là phương tiện cho người muốn giải thoát, là niềm hỷ lạc cho người cầu đùa vui, là niềm tin thanh tịnh người hỷ, là yêu thương người hoan hỷ, là tính xứ người cầu nghe, là mê còn lại cho người được Tam-muội, là Đế Thích cho người mong được mắt, là dũng mãnh cho người vào đấu chiến, là hang động cho người muốn trụ, là Phạm tâm cho người tự tâm hành, là hỷ lạc cho người cầu hợp (270).

Là chỗ ở đối với người chẳng thoái chuyển, là tịnh tâm cho người được Vô sinh pháp nhẫn, là niệm cho người trí hạnh, là phương tiện đầu tiên tu tập, là lẫy nỏ bậc trí, là cung cho người Tam-muội, là Đại thừa cho người nói Vô ngã, là đạo cho người có trí, khiến cho người giải thoát sinh bình đẳng trí, chỗ chư Thiên lễ bái (280).

Các rồng dâng hoa, mọi người cúng dường, chỗ khó của người học, người vô học hướng về lễ bái, Bồ-tát khen ngợi, pháp chủ nhớ nghĩ, đối với người che giấu căn là thành quách, là đạo cho người phương tiện khéo, là lợi ích cho người siêng, là tan biến cho người nghi ngờ (290).

Người tham dục khiến cho đoạn, kẻ phiền não thì ói ra, người muốn độ thì khiến cho nổi lên, đối với người bệnh là thuốc hay, là điều trị cho người chẳng thấy điên đảo, là rút ra cho người bị tên, là tự tại cho người muốn thanh tịnh, là tướng không sợ cho người muốn tạo tiếng rống, là nơi đến của người muốn nghe (300).

Đối với người Niết-bàn là đạo, là xa lìa cho kẻ đi đường ác, là vượt qua đối với người cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, là chuỗi ngọc cho người trang nghiêm cõi Phật, là sinh nhân cho người Tam-muội Kim cang dụ, là tòa ngồi sư tử cho người sinh lần sau cùng, khiến cho người phước đức chẳng mất, cho người cầu khiến cho lấy được, người đi thì khuyến khích tiến lên, cho người rơi xuống thì khiến đứng dậy, kẻ lười biếng thì khiến cho phát khởi lực (310).

Đối với người phát khởi việc là kiến lập, kẻ phát khởi sự việc quá thì khiến cho dừng lại ở định, khiến cho vào các việc, khiến cho bỏ, lấy, kẻ đấu tranh thì khiến cho họ trừ bỏ, người biết khiến cho họ thỏa mãn, được sinh vô biên pháp môn, người nói nghĩa thù thắng thì khiến cho họ chẳng mất, khiến cho người nói Không rốt ráo tịch tĩnh, người tin vô tướng thì khiến cho diệt phân biệt, người tin Vô nguyện thì đoạn dừng việc gấp (320).

Khiến cho người tin, xả, vượt qua ba đời; thuận đến các xứ, trong phương tiện khéo là đèn đối với giác, đối với chưa học lòng chẳng khinh miệt, đối với người nói pháp thì không có mong cầu, trong pháp lầm lẫn của người nói ấy chẳng sinh sân hận, đối với kẻ cùng một thừa không có hủy báng, chẳng mong đồ vật ấy mà vì nói pháp, là những sự cúng dường đối với người nói pháp, ở trong việc nghe pháp thì lòng chẳng tán loạn (330).

Ở chỗ đồ chúng không có ý niệm lừa dối, ở trong pháp thí không có đoạn tuyệt, đối với ngay thẳng thì khó có thể vấn nạn, đối với người sân giận thì trụ ở tâm nhẫn, kẻ hối hận thì khiến cho tan biến, đối với đạo chẳng dứt cầu đến với trí tụ, khiến cho người nương vào sự giữ gìn mà được giải thoát, kẻ ác khiến cho điều phục, người không trụ xứ thì khiến cho xả bỏ (340).

Người muốn thuận niệm thì khiến cho họ chánh niệm, phát khởi Bồ-tát, hiển thị các Đức Phật khiến cho bốn chúng vui mừng, là vị ngon đối với người thích vị ngon, là sấm với kẻ muốn đùa cợt, là cửa đối với cam lộ, nơi đến của người có hạnh Niếtbàn thì khiến cho ham muốn, mát mẻ không nóng đối với người được chẳng sợ, giải thoát ràng buộc đối với người đắc đạo (350).

Đối với sự thỉnh mời cùng lợi ích của tâm vui thì tâm ấy buông dứt niềm vui của ý, niềm vui của thân, bậc trí đã giữ lấy thì thọ nhận chắc chắn chẳng bỏ, chẳng chuyển đạo hạnh phương tiện của Như Lai, huân tập các căn lành, phá trừ các căn chẳng lành, đó là sự học của bậc Vô trí, là sự thành tựu vào trong phương tiện, là tướng cho người chẳng dối trá, hạnh của người thuận lời dạy của Phật, là ánh sáng bậc trí, lễ bái hàng ức các Đức Phật, có thể tạo ra ức vấn nạn, đoạn dứt sự nghi ngờ ấy, sinh trưởng các pháp thiện, xả bỏ sự trợ giúp đen tối, chẳng mất các phước hỷ, là sự yêu thích cho người có phước, là sức mạnh cho người hỷ lạc, là biện tài cho người muốn nói, là hộ trì cho người nói pháp, khiến cho các nhân sinh ra ưa thích, ở trong các pháp mà có thiện xảo, biết ở với sinh diệt mà thị hiện như như, trong đồ chúng điều phục tự tâm, người hợp phương tiện thì khiến cho mừng, kẻ kiêu mạn thì khiến cho tan biến, là tòa ngồi cho người thành tựu phương tiện, khiến cho người tư duy quan sát no đủ (400).

Nhìn xem không ác, là danh xưng như sấm của bậc Pháp chủ, bước dũng mãnh của bậc Trượng phu, người phiền não thì khiến dừng lại, người hành theo các kiến chấp thì khiến cho tan rã, người nghe thì khiến họ tu pháp Tổng trì, khiến cho người nói pháp không có lầm lẫn, chẳng chuyển Bồ-đề, khéo vào các pháp môn, là nơi chứa nhóm cho người căn lành, chẳng đoạn Phật nhãn, rực sáng Pháp nhãn, bao trùm Thánh chúng, hàng phục luận sư khác, khéo nói pháp ngữ, là hạnh của Bồ-tát, là vầng trăng với người, lòng bình đẳng, là mặt trời với kẻ cầu nghiệp, là thầy với người muốn học, là hộ trì với các kinh, là người dẫn đường với kẻ trí, hạt giống pháp lành, quả chín cam lộ, thuận niệm với sinh mà chẳng nhiễm lưu chuyển, kẻ si mê nghiệp phàm thì khiến chán bỏ, công đức Như Lai là chân thật, khiến người khen ngợi được quả báo vô biên, người thọ trì thì đưa đến nhân Biến trí, là nơi lợi ích cho người đọc tụng hướng đến (430).

Người chép thành sách thì vào vô biên trí công đức, người giảng nói thì vô lượng phước đức, đó là bến cho bậc Bất lai qua, đó là trụ xứ cho bậc Bất động, với những người thọ thế dục thì vì họ giảng nói, chư Phật đã nói lời khen ngợi, đầy đủ chúng của Phật quá khứ, mong ước của Phật vị lai, là kho trí của Phật hiện tại, hạnh của các chúng sinh nhập môn, với người của thừa Thanh văn là đèn, với người của thừa Độc giác là đuốc sáng, với người của Phật thừa là hộ trì, những người sinh ra chẳng mất, là Ấn thị hiện tay Phật, với kẻ chẳng che giấu là Thật, với kẻ được trí mau chóng là Chuyển sinh, có thể khiến hỏi công đức của Phật, khiến cho người muốn làm chẳng chán, khiến cho lửa phiền não tịch diệt (450).

Được trí phương tiện, khiến cho hiểu địa giới, khiến cho vào thủy giới, bình đẳng vào hỏa giới, chẳng trụ ở phong giới, sinh ra giải thoát hư không giới, thanh tịnh trí giới, thuận vào pháp giới, chán bỏ các hạnh, ngăn đoạn tùy miên (ngủ, hôn trầm), tiêu tan sân si, trừ bỏ yêu ghét, hạnh của mình khéo léo, hạnh người khác khéo léo, khiến cho người muốn nói có biện tài vô tận, trong những sự sinh ra khiến cho chẳng vào chấp trước, khiến cho kẻ tương ứng chẳng thể ngôn thuyết, bỏ đi ngã tướng, trừ đi tướng ngã sở, lìa xa sự chấp trước (470).

Lòng thấp mà “Như” lớn, nhập môn tối diệu, khéo trụ trong Định, với kẻ thiếu thốn là bóng che, khiến cho qua khỏi dòng, kẻ ngoại luận chẳng thể phá, với người ngay thẳng chẳng thể nói xấu (ác), xa lìa thùy miên, gần gũi người nói pháp, vượt qua trạo cử hối hận, trừ diệt hết si, tiêu tan tham dục, xa lìa biếng nhác, chẳng thấy nơi ngã, hiển sáng vô ngã, chẳng kiến lập mạng, trong pháp chẳng chạm xúc, trong lời nói chẳng tranh cãi, đã biện luận là hợp lý, giỏi suy nghĩ, chẳng tạo tác hạnh, có thân thể điều thuận, có chẳng khiếp nhược, rốt ráo tin hiểu, vào chúng chẳng sợ hãi, chẳng khen đức của mình, đức của người khác chẳng ganh ghét, tâm ấy thường hành Biến trí, chẳng chấp thủ chỗ ở (500).

Lìa lời nói chẳng hợp, các hạnh thường thanh tịnh, chẳng yêu thân ấy, thu giữ tâm, với hạnh khéo léo, suy nghĩ thuận theo niệm, chẳng hủy báng, chẳng kiêu mạn, cầu giải thoát, muốn được không nghi, tu tập phạm hạnh, với Từ thì lòng bình đẳng, với Bi thì thuận nhiếp lấy, với Hỷ thì luôn nghĩ đến, với Xả thì diệt yêu ghét, với Giới thì thuận nhiếp lấy, với Định thì đều sinh ra, với Tuệ thì đều hiểu biết, đã khởi văn tự, lời nói khéo léo (520).

Vào các âm thanh lời nói, chẳng vì tài lợi, diễn nói pháp rộng rãi, chẳng mừng ở cùng chúng, hạnh một đêm dời chỗ, chẳng nâng lên, cũng chẳng đặt xuống, trong ấy hiểu biết, chẳng chấp trước các pháp, hiểu rõ được Như, chẳng lừa dối các chúng sinh, chẳng đoạn chủng tánh Tam bảo, với pháp thì bao gồm (530).

Thỏa mãn nguyện bền chắc chẳng ham muốn Tiểu thừa, cùng định tương ứng, ngày đêm chẳng xả, đầy những tâm thanh tịnh, trí tuệ công đức. (Nương vào bản chữ Phạm hợp lại có 535 câu, trong đó phân câu dài ngắn, ly hợp không nhất định chuẩn, ngắn nhất thậm chí hai chữ làm một câu, dài nhất cho đến năm chữ mới thành một câu. Đây mới theo nghĩa phân câu nên chẳng thể ở sau mỗi một mà ghi số. Xin tùy nghi mà tường lãm vậy!)

Này Hỷ Vương! Đây gọi là Tam-muội Quyết Định Quan Sát Chư Pháp Hạnh, chính là cảnh giới của Đại Bồ-tát nhập vào hạnh chúng sinh, đạt được trí Biến tri.

Trong khi Đức Phật nói pháp căn bản này, chín mươi hai ức Bồ-tát ở trong pháp vô sinh phát sinh nhẫn, năm ngàn chúng sinh trước đây chưa phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì đến hôm nay đều phát sinh. Ba mươi ức trời và người tâm rốt ráo thanh tịnh, xa lìa phiền não trần cấu, ở trong các pháp sinh ra Pháp nhãn, mười trăm ngàn Tỳ-kheo chẳng chấp nên tâm vô lậu giải thoát, tam thiên đại thiên thế giới này chấn động sáu cách, ánh sáng lớn soi khắp thế gian.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại muốn khiến cho ý nghĩa này hiển bày không lường nên liền nói kệ:

Các hạnh thanh tịnh là đạo Thánh
Tâm ấy giải thoát tùy thuận pháp
Mắt Bồ-đề phần biện luận pháp
Tam-muội này Đấng Thiện Thệ hành.
Hàng phục ma, xa lìa nhơ uế
Đoạn hữu ái, diệt trừ chướng sân
Danh xưng và trí đầy đủ đức
Tam-muội này là cờ đức trí.
Đối trí là địa và đường thiện
Các chúng thánh giả, phá ma quân
Giải thoát được Hữu, Thiện Thệ khen
Tam-muội này của cải đức trí.
Khéo vào pháp hạnh các pháp môn
Thuận biết lỗi ác đã đoạn dứt
Diệt trừ khổ, vào vui thù thắng
Tam-muội này là hạnh Thiện Thệ.
Đây là hoa Giác niệm, Giác phận
Tàm quý đầy đủ, bao gồm thiện
Cõi Thiện Thệ, vòng hoa Bồ-đề
Tam-muội thù thắng, đây đã nói.
Đạo tràng Bồ-đề, giải thoát soi
Sáng hơn ánh sáng các vì sao
Tạo ra ánh sáng vượt ba cõi
Khen pháp đó như vậy hơn trăng.
Ba loại phương tiện mong thanh tịnh
Gần gũi vua tối thắng giải thoát
Bỏ thiện dối trá, lợi tri thức
Nên thành tựu Tam-ma-địa này.
Nên xa lìa chê bai người khác
Chớ tự khen ngợi nhân tri thức
Chỉ ba y, thường đi khất thực
Không tích trữ cùng đây hợp chung.
Mong được các Thánh, giới đẳng phần
Thường nên cung kính hỏi người trí
Như thật tu hành theo điều hỏi
Thì sẽ được định Tịch tĩnh liền.
Nếu có giới làm đẹp thế gian
Vui Xa-ma-tha, xa mọi dục
Không kiêu mạn, chớ thiện dối gạt
Thì sẽ mau được định thù thắng.
Thường cung kính với bậc Tôn sư
Hoặc già, hoặc lớn, như người trẻ
Thường thọ giáo những chỗ như thế
Của cải Thiện Thệ muốn cầu xin.
Chớ làm mặt giận, không thẹn thùng
Thấy những người đời thường giảng nói
Chớ cống cao kiêu mạn, tự tại
Thì sẽ được định Tịch tĩnh liền.
Chớ thương tiếc hãy nên xả thân
Chớ có lười biếng, nhiều ngủ nghỉ
Tương ứng ngày đêm tu niệm ý
Thì sẽ đạt được định thù thắng.
Với đời bình đẳng, Từ làm vui
Dùng Bi ý tu hạnh Bồ-đề
Hỷ, Xả bình đẳng ý xưng lượng
Thì sẽ được thắng định ấy liền.
Tài sản mười Lực nên thường giữ
Đến khi pháp phá khổ thế gian
Tài sản pháp nếu thường hộ trì
Thì sẽ được định Tịch tĩnh này.
Ba cõi ý thường chẳng đắm say
Thuận theo nhớ nghĩ khổ lưu chuyển
Muốn cầu Niết-bàn, nơi yên ổn
Chóng được thân tối thắng vô tỷ.
Thuận theo nhớ nghĩ, vô ngã, không
Ở trong các tướng xa lìa hết
Cũng lìa ba cõi, nguyện tu tập
Thì mau chóng đại Bi được thành.
Bố thí tự giữ hoặc điều phục
Trì giới và cả nhẫn, tinh tấn
Thường vui với định và trí tuệ
Thì Tam-muội này mau được thành.
Như ta, trăm kiếp xưa, tu hành
Như ta nói hạnh Bồ-đề này
Như ta được giác ngộ Tịch tĩnh
Những hạnh như vậy mau thành tựu.
Ta là Biến Trí, Thiện Ngưu Vương
Học ta, các hạnh rất thù thắng
Nếu làm như ta làm trước đó
Thì sẽ thành Phật, hơn mọi người.
Ăn vị giải thoát, mặc hổ thẹn
Tâm vui chỗ vắng, tin ở định
Thích vô ngã thường làm ca vịnh
Thì sao trí người, được an vui?
Gánh lời mắng nhiếc, chịu nhịn nhường
Chớ ôm oán hận, chẳng cúng dường
Ứng với nghiệp báo phải tin tưởng
Thì kia sẽ được định thù thắng.
Xa lìa ác đạo và kiến chấp
Phải thân cận nẻo Thánh rỗng không
Ngày đêm lực tinh tấn khởi lên
Thì người đó sẽ được định này.
Chẳng ưa đạo, xa lìa nhị biên
Gần đạo bình đẳng hay nẻo thật
Tu hành như đây, được Phật mến
Như quán chẳng sinh, chẳng khởi pháp.
Tối Thắng chẳng cầu hoa hương tốt
Vải đẹp cùng cờ, phướn, lọng che
Như thuận theo hành với pháp không
Đây tối thắng, cúng dường bậc nhất.

QUYỂN 2

Phẩm 2: SIÊNG NĂNG ĐỜI TRƯỚC (Phần 1)

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Đại Bồ-tát Hỷ Vương:

–Này Hỷ Vương! Lại nữa, Bồ-tát nên biết, các pháp chẳng nương tựa; nên biết các pháp chẳng phát xuất, chẳng diệt, chẳng tạo tác, chẳng sinh; xa lìa hư dối tự nó không, chẳng bền chắc, chẳng lấy, chẳng bỏ; nên biết các pháp vô thường, khổ, vô ngã, tịch tĩnh; nên biết các pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, nên biết các pháp vô ngã, vô chúng sinh, vô mạng, vô phú-già-la (20).

Nên biết các pháp chẳng hòa hợp, chẳng thể tạo tác, không tự thể, không tướng, không có; nên biết các pháp lìa ô nhiễm chẳng vận hành, lìa hý luận chẳng vận hành, đến tối thắng chẳng có nhiều loại (30).

Không hý luận, lìa hý luận, chẳng thể nắm, chẳng giữ, không trú xứ, chẳng đến, chẳng đi, chẳng trụ, không văn tự, chẳng thể nói (40).

Các pháp chẳng thể nói, chẳng thể đem lại, không nghiệp, không báo; nên biết các pháp chẳng phân biệt, không đủ loại phân biệt, đoạn trừ hết phân biệt, các tưởng và niệm đều đã đoạn trừ, vượt trên đời sống cõi trời được qua năm đường, qua khỏi chúng sinh, thắng chúng ma, vượt qua ma phiền não, ra khỏi Ma-la tụ họp, đoạn dứt ma chết, đầy trí vô trước, nắm giữ sắc thù thắng ba đời, được các chúng sinh yêu thích, được sự cúng dường của người trí, có thể thấy được pháp thể ở các pháp, được Nhục nhãn thanh tịnh đến Thiên nhãn sáng, đến Trí nhãn vận hành chẳng động Pháp nhãn, đầy đủ Phật nhãn như trăng hiển chiếu, biết vận hành trong tâm của các chúng sinh, người chẳng siêng năng phải tạo sự xét biết, bỏ những điều đã chấp thủ (50).

Ở trong tam thiên đại thiên thế giới, vì những trời người tạo tác chi thể, thuận theo đế tướng, được địa hạnh thanh tịnh, thông suốt cõi vô ngã, biết đến cõi phát xuất, chỗ của các chúng sinh, phải gần gũi bậc tôn trọng, lìa tăng thượng mạn, có được sức nhẫn vượt qua năm chướng ngại, có thể biết bản tánh danh sắc, giác ngộ thuận theo ngôn từ mà các Đức Phật đã nói, biết rõ ba mươi hai tướng (60).

Với được, chẳng được, tâm có đối tượng thủ đắc đều đã vượt qua cái được của thế gian mà được pháp chẳng nhiễm ở đời, với các chúng sinh sẽ vì họ làm nhà, mở cửa Niết-bàn, khiến cho các chúng sinh vào được thành Vô úy, cho vị cam lộ, diễn nói giáo pháp, tỉnh ngủ phiền não, làm tan phiền não của chúng sinh, đoạn dứt sự chấp trước, các kiến chấp trói buộc... của họ; sáu căn chẳng nhiễm mà vì chúng sinh nói pháp, được pháp môn mười sáu chữ, phát xuất Đà-la-ni.

Những gì là mười sáu Đà-la-ni đó?

Đó là chữ A là nghĩa chẳng sinh, chữ Ba là nghĩa tối thắng, chữ Già là nghĩa bốn thật, chữ Na là nghĩa biết danh sắc sinh, chữ Đà là nghĩa điều phục, chữ Sa là nghĩa vượt qua chấp trước, chữ Ca là nghĩa chẳng mất nghiệp báo, chữ Ta là nghĩa các pháp bình đẳng, chữ Dà là nghĩa thậm thâm, chữ Tha là nghĩa thế lực, chữ Xà là nghĩa vượt qua sinh lão tử, chữ Xa là nghĩa đoạn sạch phiền não, chữ Tha (Sa) là nghĩa xuất phát cao, chữ Sá là nghĩa trụ, chữ Trà là nghĩa giáo hóa Dilê-xa ở biên địa (bản chữ Phạm cũng thiếu một chữ).

Này thiện gia tử! Đây là mười sáu chữ đã phát ra Đà-la-ni. Gọi là được Đà-la-ni là nơi sinh ra trí khéo léo biết rõ các pháp vốn tự rỗng không, lựa chọn tâm các chúng sinh, thoát khỏi các phiền não, thông đạt pháp tướng và sự chấp thủ của phàm phu, vượt qua biển lưu chuyển, khéo giảng nói khiến họ hoan hỷ, lập hội pháp thí, khéo sinh ra trí văn tự âm thanh biết rõ được không, ưa giải thoát của Phật; bỏ ái, chẳng ái mà không nuối tiếc, với lập luận khác của các ngoại đạo thì đúng như pháp mà hàng phục; nói như tiếng gầm sư tử, đạt được Phật trí, hưng khởi Pháp thí, bỏ các phiền não, phá nghĩa oán ác, tin pháp luân của chư Phật chuyển, thông đạt được Như cho đến biết pháp, sân hận kiêu mạn đã lìa, bùn đục chẳng nhiễm, điều ngự chúng sinh, trừ khử nhơ bẩn, có thể dùng nước Bi gột rửa, chúng sinh, thống lãnh đồ chúng, thuận được thế lực, vượt qua già chết, nhớ ngàn số kiếp, được pháp tạng tổng trì, thông đạt cõi tịch tĩnh, được Không đẳng trí, thuận giác ngộ pháp tận, đáng được chúng sinh... khen ngợi, đầy vô chướng trí, không còn phiền não, huân tập thuận hạnh, tiêu diệt quân ma, bóng che tam thiên đại thiên thế giới, biết rõ đời trước, chứng Địa Niếtbàn, làm nơi nương tựa, che chở hết người tại gia; biết xứ và phi xứ, chẳng bỏ lời thệ nguyện trước; đối với các chúng sinh rải tâm Từ đầy khắp, biết rõ vô sinh, nghe, ý nhớ nghĩ đều chánh chân, được hương giới Chiên-đàn-na, dứt đường sinh tử, thuận được Niết-bàn, biết các pháp như chạm xúc chữ Na. Này Hỷ Vương! Đó là từ chữ Na trở lên là không chữ. Đó cũng không tên, cũng chẳng thể nói, cũng không có tiếng, chẳng thi hành thiết lập tên, chẳng biết tên gọi. Trong ngôn từ các tiếng đó chẳng quá khứ, chẳng vị lai, chẳng hiện tại. Các Đức Phật đó chẳng đã nói, chẳng đang nói, chẳng sẽ nói, chẳng sinh, chẳng xuất. Các pháp tướng như vậy... Bồ-tát nên biết.

Này Hỷ Vương! Lại có mười sáu chữ nhập môn Đà-la-ni. Gọi là giác ngộ hành tướng của chữ là nói Pháp thắng nghĩa, qua khỏi bốn dòng (tứ lưu), nói không có pháp danh sắc, khéo léo bố thí, tự an trụ ở Nhẫn, chẳng nương sáu căn, hành theo sáu Độ, khiến diệt phiền não dục mà vì chúng sinh nói pháp, khéo biết các pháp sai biệt, không được nghi ngờ sâu, nói về xứ, phi xứ, biết vận hành của các chúng sinh, nhịn lời thô ác, xả bỏ da thịt tủy, biết hạnh niệm ý, an trụ pháp giới, biết rõ chữ Na nhập vào hết các pháp.

Này Hỷ Vương! Đây là mười sáu chữ nhập môn Đà-la-ni. Này Hỷ Vương! Nếu Đại Bồ-tát hiểu đúng mười sáu chữ nhập môn Đà-la-ni này như chữ A là nghĩa vô sinh, chữ Ba là nghĩa tối thắng chữ Già là nghĩa vượt bốn dòng, chữ Na là nghĩa nói danh sắc, chữ Đà là nghĩa bố thí tự giữ hòa hợp, chữ Sa là nghĩa trí lục thông, chữ Ca là nghĩa chẳng thấy nghiệp báo, chữ Sa là nghĩa các pháp bình đẳng, chữ Dà là nghĩa thậm thâm, chữ Tha là nghĩa thị hiện thế lực, chữ Xà là nghĩa thị hiện sinh tử, chữ Xoa là nghĩa thị hiện sức nhẫn, chữ Xa là nghĩa vứt bỏ phiền não cực ác, chữ Tama là nghĩa tự đại chứng giác, chữ Ta Tha là nghĩa nói xứ, phi xứ, chữ Đa là nghĩa nói tận biên tế... thì những Bồ-tát đó được Tam-muội này tên là Quyết định quan sát hạnh các pháp. Nhờ mười sáu chữ Đà-la-ni này, các Đại Bồ-tát chẳng bị sự quở trách của người trí, bỏ tham dục, sân hận, ngu si, diễn nói đạo đến bờ kia, được bốn Vô úy, thọ thân lực sĩ, cắt đứt cành dục, được sức mười Lực, gặp được diệu âm, diệt trừ phiền não, thọ ký cho Thanh văn, Độc giác, xa lìa ngoại đạo, được Như Lai địa, như lời nói mà làm liền đạt được, chúng sinh cao mạn sẽ khiến cho giải thoát, làm sự nghiệp của Phật, thuận được tụ trí, chúng sinh bị nghi thì đoạn sự nghi hoặc ấy, do sự có hòa thiện nên cùng ở yên vui, tràn đầy đại Bi, vượt cảnh giới ma, tràn đầy tiếng hay, trừ kiêu mạn phóng dật đạt được Nhẫn, giỏi Định sâu, khiến đi qua các cõi mà vì họ nói pháp, ở trong các pháp khiến cho được chỗ cạn vì trụ bờ kia khiến họ đến bờ, biết hạnh của các chúng sinh, biết hạnh phương tiện của các pháp, nhớ vô số kiếp giữ các pháp thể, diệt sạch các ác, thanh tịnh các điều nghi, được không đẳng trí, thuận đến chỗ diệt phiền não, chóng đi lên đạo tràng giác ngộ, trời rồng phải khen ngợi, thuận thông các trí, khéo diệt cháy nóng, nói tự thể của các chúng sinh, ăn món ăn cam lộ, đoạn các nghi hoặc, thụy miên, lìa bỏ sự theo chấp trước và tập khí vốn có, dùng đại Bi ấy che chở các chúng sinh, biết trước đời trước, thấy công đức ở Niết-bàn, thuận hiểu hạnh của phàm phu, được Đại trí bí mật, hủy hoại các niệm khác, kêu loa pháp, khiến trụ Phật trí, vượt chủng loại tướng, sinh ra thông hiểu, biết trú xứ của chúng sinh, có thể khiến cõi Phật hưng thịnh, không bừng cháy phiền não, lìa khỏi già bệnh, chóng có thể thuận hiểu mật ngữ phương tiện, đoạn trừ đường sinh tử, thuận đến Niết-bàn yên ổn, với ác ma chóng có thể hàng phục, thấy Phật Thế Tôn ở trong vô lượng thế giới, lìa tham dục rồi mà nghe pháp, cũng chẳng quên trí, đạt đến cõi Phật như đã mong, khéo biết tự tại, sinh ra các Tam-ma-địa.

Này Hỷ Vương! Đại Bồ-tát nếu được giảng nói Tam-muội Quyết định quan sát chư pháp hạnh này thì nên biết cũng được Nhất thiết trí. Vì sao? Nhưng lúc nào thì Bồ-tát đó muốn chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Hoặc một đời, hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, hoặc mười, hoặc hai mươi, hoặc trăm đời, hoặc ngàn đời, hoặc trăm ngàn đời, hoặc một kiếp, hoặc trăm kiếp, hoặc ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp... cho đến muốn vào thời gian lâu thì Bồ-tát đó cũng lâu mới được giác ngộ. Dùng nguyện tự tại, ở trong lưu chuyển, đến tận bờ cõi kiếp sau cùng. Vì sao? Nhưng về sau, tự tại ở trong các pháp.

Khi Đức Phật nói pháp căn bản phẩm Đà-lani tự môn này, ba mươi hai ngàn Bồ-tát đạt được Nhẫn. Lúc đó, tam thiên đại thiên thế giới này chấn động sáu cách. Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ tụng:

Không lẫn, không đục, không uế tạp
Chẳng phải đường đi đến cam lồ
Ứng Thiên Địa Cúng, không ai sánh
Trì phương tiện này, hành mười Lực.
Tạo vui xa oán, diệt phiền não
Mặt như hoa nở, người trời vui
Bậc Ứng Thắng, đức độ cho đời
Trì phương tiện này hành mười Lực.
Trừ diệt chúng khác, khéo hạnh khác
Người trời quý trọng, ý khác tan
Phân biệt hạnh khác, ý khéo khôn
Trong đạo này hành hạnh mười Lực.
Có, chấp, bất Như đều bỏ hết
Xét hiểu người trời, ý quyết Như
Hạnh sáng như trăng trong không trung
Bậc hạnh Hữu nhãn, hạnh bậc Trí.
Người trời thương yêu người ý đó
Chẳng ưa cảnh giới, không lầm lẫn
Giảng nói trong chúng, hàng trăm hạnh
Hạnh bậc Trí này soi các hướng.
Được mười, hai mươi... lại có hai
Người, trời cúng dường, tướng vi diệu
Được, mất chẳng chấp, lìa cả hai
Do được hạnh này soi mọi hướng.
Thí chủ cam lồ khéo bố thí
Thường cùng trâu chúa, báu thù thắng
Sức lớn mười lực, hàng lực khác
Chẳng lâu được hạnh người trí ấy.
Được nhiều đức, niệm, ý thù thắng
Diệt trừ nhiều khổ được nhiều vui
Nhiều người tôn trọng, khéo phụng thờ
Học trí này, vui công đức Phật.
Như trâu chúa, chẳng lâu hàng phục
Diệt trăm phiền não, lìa thiêu đốt
Bay đường hư không, qua trăm cõi
Hành phương tiện này soi các hướng.
Niềm tin khéo thế gian tin tưởng
Ý tin, thẹn niệm không ai bằng
Trừ trăm đắm trước tạo hương đời
Trì phương tiện này, chứa trăm đức.
Phân biệt nhiều đức, trừ ba cấu
Đó có lời mỹ diệu thấm nhuần
Giỏi nói trăm phần trong trời đất
Trì đức này tài không ai bằng.
Độ người trời, trụ thành vô úy
Lời nói Như, rũ sạch phiền não
Thực hành theo Như, không phiền não
Trì phương tiện này, hạnh mười Lực.
Tài sản cam lồ được tiếng khen
Đức không ai sánh được hành Như
Ý Như, người trời, lời nói Như (?)
Người trí học đạo cam lộ ấy.
Không bụi trần, soi khắp mười phương
Thoát mạn, chúng sinh thẳng không cong
Đến thành vô úy, lìa kiêu mạn
Trì phương tiện này, hạnh mười Lực.
Giáo hóa người trời bằng ngôn thuyết
Chẳng vui thích dục, thích pháp chân
Nói làm, người làm, nói trăm hạnh
Học phương tiện này, bậc thiện ý.
Tịnh chúng sinh hạnh, ý bình đẳng
Nói thiện hợp, thiện mỹ, thiện hành
Trong các pháp khéo thường cùng vui
Hành phương tiện này ưa cam lộ.
Lực ác ma, chẳng lâu hàng phục
Trừ bỏ cấu uế, ba cấu tan
Hành ở Địa này thêm tài sản
Trì phương tiện ấy, hạnh mười Lực.
Ở cõi thù thắng vượt đường ác
Chúa thú voi ngựa, người buông lung
Khen đức, trì đức, đủ trăm đức
Chẳng lâu được hạnh người trí ấy.
Hành xử khéo léo, chẳng chấp có
Thị hiện thế lực quyết định hơn
Đến đất, trụ nước cấu bẩn tan
Như học hạnh này, hạnh mười lực.
Bỏ thành cùng đất đai thôn xóm
Bỏ ái, chẳng ái, cảnh chẳng yêu
Bỏ cây quý, bỏ người oán thù
Người trí học đây, lực quyết tiến.
Nhớ nghĩ nhiều trăm kiếp quá khứ
Nhớ chết và sinh trong các đời
Và nhớ pháp thuở trước đã nghe
Trì định thù thắng tịch tĩnh này.
Đuốc pháp cháy rực, thường khiến “Hữu”
Bố thí pháp vui, pháp tài sản
Và luôn giữ gìn hạnh mười Lực
Trì định thù thắng tịch tĩnh này.
Trụ Xa-ma-tha, ý Từ bi
Chỉ ý tịch tĩnh, căn tịch tĩnh
Tịnh giới, tiếng ái ngữ ngọt ngon
Trì Tam-ma-địa này phải có.
Như tê giác đi, không ngã sở
Được đến phương nhàn cùng đạo nhàn
Theo chỗ trụ, lìa tám chẳng nhàn
Trì định thù thắng tịch tĩnh này.
Với niệm giác tri, hạnh tự tánh
Cũng sẽ biết pháp tận thiện xảo
Lực kham nhẫn tối thắng hiện lên
Trong này học hạnh nghĩa thù thắng.
Nên được các thế gian tán thán
Được hàng trăm trời sẽ ngợi khen
Chỗ làm, người làm đều lặng yên
Ở biển trí này trụ thân cận.
Dấu chân chim bay sẽ thuận theo
Dược tịch diệt với các não phiền
Phương tiện đó, các ma chẳng làm
Tịnh này khó thấy, siêng tương ứng.
Nói giác quyết định, hạnh Thiện Thệ
Tạo vô hữu, bứng hữu ái lên
Thường được người trong đời cung phụng
Trì định thù thắng tịch tĩnh này.
Người đoạn đã hợp với tịnh ấy
Đoạn xong phiền não, chiếu ba cõi
Tạo nên bóng che khắp mọi nơi
Như trì Thắng Tam-ma-địa này
Nghĩ đến hạnh mình và người khác
Rồi vì họ nói thuận theo hành
Hạnh không kiêu mạn, hạnh thù thắng
Trì định thù thắng tịch tĩnh này.
Có thí xả rồi, điều phục ý
Cõi Thiện Thệ đi đến mau chóng
Nói vô úy, ban cho vô úy
Được định tối thượng thù thắng này.
Ở trong các đời làm người thân
Lầm lẫn khỏi rồi lại hiểu thông
Họp chung nói bàn thật khéo léo
Như người tu hành Tam-muội ấy.
Thân bằng kim cương hợp nhất lại
Mau chóng phá tan các quân ma
Thuần pháp tịnh soi không bợn nhơ
Trì định thù thắng tịch tĩnh này.
Thị xứ là chỗ đáng an trụ, phù hợp
Chỗ chẳng nên trụ như ý trên
Đối xứ, phi xứ có khéo léo
Như người giữ được định ý này.
Không chấp giảng nói công đức Phật
Phát sinh ra trăm ức hiểu biết
Kia chẳng chính ý không nghi ngờ
Thắng định ý này có thể giữ.
Chóng có thể tin cam lộ đó
Cũng thường tin cùng với người vui
Hộ đời khác khi được quả rồi
Thắng định ý này có thể giữ.
Tự biết rỗng không đối nhóm họp
Kia không lẫn lộn không mê lầm
Đến các hạnh lành trong ba cõi
Tam-muội này, nếu người gìn giữ.
Sẽ được xa lìa bệnh và già
Khéo thẳng ngay chẳng bị hàng phục
Tâm ấy trì giới luôn vui mừng
Như người gìn giữ định ý này.
Cắt đứt cây sinh là Thánh đạo
Mau chạm đến tịch tĩnh Niết-bàn
Đất Di-lê-xa chẳng nhiều thêm
Nếu người gìn giữ Tam muội này.
Chẳng tự tán dương, lời xảo diệu
Trên mọi đức, công đức lừng vang
Vào chúng, đoan chánh hiện rõ ràng
Như sao Mão, trời, trăng trong sáng.
Chúng quyến thuộc, đủ nhà danh tánh
Người đó gần bà con Thiện Thệ
Tài biện luận đó như Thủy vương
Là Tam-muội này phải gìn giữ.
Pháp hạnh tự tánh tướng vô ngã
Ở trong các đời thuận giác xong
Mau làm chúa dũng kiện ba ngàn
Hạnh bình đẳng kinh này hiếm có.
Cho đến rừng trong ba ngàn cõi
Chủng tánh, ba loại hạnh chúng sinh
Với thù thắng đó được trí tuệ
Siêng năng tương ưng chạm cam lộ,
Dao độc và lửa chẳng xâm nhập
Chẳng sợ cùm trói, các phiền não
Dạ-xoa, La-sát chẳng thể hại
Nếu lòng tịnh tín tương ưng này.
Của không mất, của chẳng ly tán
Không nghiệp báo, không bệnh, không lo
Chẳng câm, chẳng chột cũng chẳng mù
Trì bốn câu này như vậy đó.
Trên Đức Phật, sáu mươi ba ức
Khắp nghĩ đến sự tương ứng này
Chỗ đó nếu cùng tạng Tổng trì
Tịch này khó thấy đã tương ứng.
Nếu muốn mau chạm đến Bồ-đề
Nếu muốn lấy đức yên ổn hơn
Nên khiến tu kinh thù thắng này
Thì các mong cầu đều đầy đủ.
Kia đã nghe niềm vui thiện hỷ
Nếu người ở trong cầu Bồ-đề
Siêng năng tương ứng bốn ngày qua
Người ấy sẽ được định thù thắng.
Tám mươi ức ở trên Đức Phật
Còn hơn sáu mươi na do-đa
Đều nghĩ cùng với tương ứng này
Chuyên tu, tụng Tam ma địa này.
Nếu nghe thiện này, được lợi ích
Nghe rồi nếu có thể tin hiểu
Trong công đức Phật, không nghi ngờ
Như đến Bồ-đề, trì như vậy.
Do đã nghe nói thật hạnh này
Không được không đức chớ biếng lười
Các phước nhất định đến trong tay
Như trì kinh này hoặc ghi chép.
Ta nhớ trước đây vô số kiếp
Có Bậc Tối Thắng tên Biện Tràng
Ngài đã tuyên dương Tam muội này,
Vương tử Nguyệt Diệu nghe điều đó
Liền bỏ ngôi vua mà xuất gia
Ông ấy nghe một đêm một ngày
Đến lúc chết, trong phần sau này
Lại được sinh đến những cõi khác.
Nghe được kinh đó nhiều như cát
Gặp rồi, lại gặp, rất thù thắng
Các chỗ nghe Tam muội này xong
Thì trong ba kiếp, chứng Thắng Giác.
Gọi là bậc Bảo Viêm Tối Thắng
Được Phật Nhiên Đăng thọ ký cho
Lợi ích như vậy, nhờ kinh này
Nên đã nghe rồi chớ lười biếng.
Ta nay muốn bảo với đại chúng,
Những điều tốt đẹp của trời, người
Ta ở trong này mở kho báu
Tài sản mười Lực ông lấy đi!

Lại nữa, này Hỷ Vương! Đời quá khứ trước kia, kiếp số chẳng thể tính được lại vượt qua sự lâu xa chẳng thể tính được, vô lượng chẳng thể nghĩ, chẳng thể lường, vào thời đó, có Đức Phật tên là Biện Tài Anh Lạc Trang Nghiêm Vân Minh Xuất Hống Hiển Âm Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, xuất thế Minh Hành Cụ Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Giáo Sư, Phật Bà-già-bà (Thế Tôn). Cõi nước của Đức Phật ấy tên là Vô Biên Bảo Công Đức Trang Nghiêm, thế giới tên là Vô Cấu, kiếp tên là Ái kiến.

Này Hỷ Vương! Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri Biện Tài Anh Lạc Trang Nghiêm Vân Minh Xuất Hống Hiển Âm đó có vô lượng Thanh văn, có bảy mươi hai ức Đại Bồ-tát, những vị ấy đều được Nhẫn, đạt đến địa Quán đảnh.

Lại nữa, này Hỷ Vương! Ở trong chúng Bồtát đó, có vị Bồ-tát nói pháp tên là Vô Biên Công Đức Biện Tràng Du Hý Minh Âm. Vị Bồ-tát đó có vô số hạnh biện tài tàm quý. Ở trong Đà-la-ni, Bồ-tát ấy dạo bước đến tận cùng, được trí ngũ thông. Vị Bồ-tát đó bạch Đức Phật kia, xin Đức Phật quan sát xong mà vì bốn bộ chúng nói rộng rãi Tam-muội Thuyết quyết định quan sát chư pháp hạnh này.

Này Hỷ Vương! Vào lúc đó, có vương tử tên là Phước Báo Thanh Tịnh Nhân Sơ Ái Minh Thanh Tự Tại, hình thể đẹp đẽ, đoan nghiêm của vương tử đó có thật đáng nhìn, sắc đẹp thanh tịnh tối thắng, thành tựu mỹ mãn, từ lâu đã phát khởi hạnh Vô thượng Chánh giác.

Này Hỷ Vương! Vương tử Phước Báo Thanh Tịnh Đa Nhân Sơ Ái Minh Thanh Tự Tại đã nghe Bồ-tát Vô Biên Công Đức Biện Tràng Du Hý Minh Âm nói pháp tên là Tam-ma-địa Quyết định quan sát chư pháp hạnh. Nếu Bồ-tát vào trong thôn, thành, ấp, làng xóm, kinh đô của vua mà giảng nói thì vương tử đó luôn ở bên cạnh để nghe Tam-mađịa này. Nghe rồi, vương tử đó rất vui mừng, yêu thích vừa lòng, lại sinh thiện ý đi đến chỗ vị Đại Bồ-tát nói pháp đó. Đến rồi, vương tử đảnh lễ dưới chân, tôn trọng, cung kính chắp tay mà trụ trong Tam-ma-địa này. Vương tử ấy lại vui mừng nhiều hơn nữa, muốn nghe Tam-ma-địa này, vị nói pháp đó lại biết vương tử kia có lòng tin thanh tịnh nhiều hơn, nên lúc đó lại nói rộng rãi Tam-ma-địa này.

Này Hỷ Vương! Như vậy, vị vương tử đó ở bên vị nói pháp kia nghe Tam-ma-địa này xong lại vô cùng hoan hỷ, yêu thích thỏa lòng, rồi lại sinh thiện ý, đem áo đang mặc dâng cúng, nói lời như vầy: “Ngài khiến cho chúng sinh được báu Tam-ma-địa này.” Nhờ căn lành bố thí cho vị nói pháp kia, nên ở trong pháp hiện tại, vương tử đó thờ những Đức Phật nhiều như số cát tám mươi sông Hằng, ở bên các Đức Phật Thế Tôn đó, được nghe Tam-ma-địa này, đều tạo sự cúng dường tối thắng đến chư Phật, ở trong giáo pháp của các Ngài, xuất gia giữ gìn chánh pháp, ở các chỗ chẳng nghe trăm ngàn ức kinh điển đều có thể giảng nói, sinh ra ý niệm luôn tròn đầy, thọ sinh biến hóa được trí ngũ thông, được Đà-la-ni, biện tài trôi chảy. Vương tử đó thuận theo thứ lớp hành các pháp trợ Bồ-đề. Mãn rồi, vương tử đó, ở trong cõi Phật Vô Biên Công Đức Bảo Trang Nghiêm, chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sống lâu không lường, chúng Thanh văn không lường, chúng Bồ-tát không lường, ánh sáng không lường, nguyện công đức trang nghiêm không lường.

Lại nữa, này Hỷ Vương! Trong thời đó, vị nói pháp tên là Vô Biên Công Đức Biện Tràng Du Hý Minh Âm, ông chớ nghĩ là ai khác, Vì sao? Này Hỷ Vương! Vì đó là Như Lai Đại Nhãn vậy. Vị ấy đã được Đức Như Lai Bất Động thọ ký Bồ-đề. Lại vương tử tên là Phước Báo Thanh tịnh Đa Nhân Sở Ái Minh Thanh Tự Tại kia chính là Đức Như Lai Vô Lượng Thọ ấy, tức là vương tử lúc đó vậy.

Này Hỷ Vương! Vương tử đó nghe Tam-mađịa này xong thì nghiệp chướng của bảy mươi ngàn kiếp đều diệt hết, liền được pháp môn Phân biệt chư pháp cú phẩm xuất vô biên gọi là Đà-la-ni và chẳng xa lìa Tam-ma-địa cho đến đạo tràng Bồ-đề. Này Hỷ Vương! Nhân duyên như vậy nên ông phải biết, Tam-ma-địa này ở chỗ các Đại Bồ-tát như vậy tạo nhiều thanh tịnh, chuyển các nghiệp chướng, trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh, chuyển công đức, mau tròn đầy vận chuyển Phật pháp.

Lại nữa, này Hỷ Vương! Đời quá khứ xa xưa, kiếp số chẳng thể tính được lại vượt qua sự xa xưa chẳng thể tính, vô lượng chẳng thể nghĩ, chẳng thể lường, vào lúc đó, có Đức Phật hiệu là Tịnh Diện Vô Cấu Nguyệt Diệu Oai Tạng Như Lai,

Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Xuất Thế Minh Hành

Cụ Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Giáo Sư, Phật Bà-già-bà.

Này Hỷ Vương! Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri Tịnh Diện Vô Cấu Nguyệt Diệu Oai Tạng đó đã có một cõi Phật công đức trang nghiêm mà ta hôm nay chẳng thể ở trong một kiếp, giảng nói rộng hết được vô lượng công đức như vậy để trang nghiêm cõi Phật thanh tịnh. Chúng Đại Bồ-tát, ở trong Phật pháp đều trụ vững chắc.

Này Hỷ Vương! Vào lúc đó, có con ông trưởng giả tên là Hiển Diệu Quảng Thân. Ông đó đi đến chỗ Đức Như Lai Tịnh Diện Vô Cấu Nguyệt Diệu Oai Tạng. Đến rồi, ông đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn đó, rồi đem vô lượng chuỗi ngọc báu ma-ni có hàng trăm ngàn ngọc xen lẫn để cúng dường Đức Phật đó rồi đứng trước Đức Phật vì muốn được nghe pháp. Đức Như Lai đó biết ông ấy đã có lòng tin thanh tịnh nên giảng nói Tam-ma-địa này, lúc đầu, đoạn giữa và về sau.

Này Hỷ Vương! Như vậy, con ông trưởng giả đó ở bên Đức Phật kia nghe Tam-ma-địa này xong rất đỗi vui mừng, yêu thích, thỏa lòng rồi phát sinh thiện ý, được pháp lực lớn. Được pháp lực rồi mà chẳng dùng để cầu trong trời người, ông ấy xả bỏ bảy mươi ngàn phụ nữ, xả bỏ một dũ-xà-na (do-tuần) bốn kho tàng lớn đầy vô số báu, xả bỏ tám trăm vườn rừng, xả bỏ mọi đồ dùng của mình, ở trong giáo pháp của Đức Thế Tôn đó, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, dùng niềm tin xuất gia, bỏ nhà mà tu hành.

Lại nữa, này Hỷ Vương! Con ông trưởng giả đó, lúc còn ở nhà, đất chẳng trải vải thì chẳng bao giờ đạp chân xuống. Khi đã xuất gia rồi, trong mười ngàn năm, vẫn chẳng trải vải thì chân chẳng đạp đất, chẳng ngồi, chẳng nằm, chỉ trừ khi thọ dụng bữa ăn. Trong mười ngàn năm, ông ngủ nghỉ chẳng lâu, cho đến trong khoảnh khắc gảy móng tay cũng chẳng từng phân biệt dục, phân biệt sân, phân biệt hại. Trong mười ngàn năm, ông luôn nhất tâm đối với Biến trí tương ứng phát khởi tu hành tinh tấn, được Đà-la-ni Chư từ thanh nhiếp chư Phật ngữ danh, thành tựu Đà-la-ni Phổ âm nhập môn danh. Ông ấy mạnh mẽ tinh tấn đầy đủ như vậy nên mới có sáu mươi ức chư Thiên ở chỗ vị Bồ-tát đó siêng năng cung cấp, hợp với ý Bồtát, khiến cho thân tâm Bồ-tát ấy an vui, đủ khả năng tinh tấn. Con ông trưởng giả đó xuất gia rồi, tinh tấn mạnh mẽ như vậy, được nghe Tam-mađịa này nên chín mươi chín ức trăm ngàn kiếp lưu chuyển đều quay lưng bỏ hết, hiện tại gặp được bảy mươi ngàn Đức Phật. Có những chỗ, lúc đi xuất gia rồi, ông ấy thọ trì, đọc tụng, tư duy Tamma-địa này, vì người khác giảng nói rộng rãi, lại phát khởi tu hành tinh tấn chẳng hành động buông lung, thành tựu được Tam-ma-địa này, ở trong tám kiếp chứng ngộ Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đạt được tướng trang nghiêm công đức của cõi Phật như vậy như cõi Phật của Đức Thế Tôn Tịnh Diện Vô Cấu Nguyệt Diệu Oai Tạng Như Lai đó. Ta nay thấy ông ấy ở trong địa phận phương Nam, qua khỏi đây bốn mươi bốn trăm ngàn cõi Phật, có thế giới tên là Đại trang nghiêm. Vị ấy ở trong cõi đó làm Phật hiệu là Thiện Ý Hỷ Lạc Như Lai, đang nói pháp cho vô lượng chúng Đại Bồ-tát tụ tập tính chẳng thể hết.

Này Hỷ Vương! Các vị Đại Bồ-tát đó nếu muốn mau chóng đối với các pháp thuận theo được tự tại thì phải nghe, phải trì, phải nói, phải nhớ nghĩ Tam-ma-địa này.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại muốn khen ngợi công đức của Tam-ma-địa này nhiều hơn nữa nên liền nói kệ khen ngợi:

Ta nhớ đời trước vô biên kiếp
Giống như vô lượng cát sông Hằng
Có bậc Trí dẫn đường thế gian
Các phương nghe vang tiếng biện tài.
Có Tỳ-kheo trong pháp tối thắng
Bậc trí nhân trì pháp, nói pháp
Đức Phật giảng định tịch tĩnh này
Bên Phật, vương tử đã nghe nhận.
Liền đem áo mình mà cúng dường
Hồi hướng đạo Bồ-đề tối thắng
Lại gặp vô biên những Đạo sư
Được đạo, hiệu là Vô Lượng Mạng.
Trước kia có tuệ tạo tác nghiệp
Đều hết không còn, không nghiệp báo
Nghe Tam-muội vi diệu này xong
Người có biện tài đủ công đức.
Người nào lúc đời sau
Nếu có muốn cầu đạo
Phải nên nghe định này
Tự sẽ trừ các ác.
Lại Phật Vô Cấu Nguyệt
Nói Tam-ma-địa này
Con trưởng giả nghe rồi
Chọn lấy hạnh xuất gia.
Mười ngàn năm ông ấy
Tư duy Tam-muội này
Chân chẳng đạp không vải
Cũng chẳng vào ngủ nghỉ.
Đạt được Bồ-đề này
Chỉ có cùng nghe nhận
Chẳng ưa ở trong nhà
Cũng không muốn tài vật.
Ông đến các cõi Phật
Ở đó đều nghe xong
Các hạnh đã nhập môn
Chẳng lâu được giác ngộ.
Tâm trước, kia thỏa mãn
Cũng đầy xe ý kia
Mau chóng được Bồ-đề
Sao chẳng siêng năng tu.
Đời vị lai về sau
Nhiều người cầu Bồ-đề
Không tài sản, không vui
Hành xuất gia chẳng tham.
Giận mắng mà kêu trách
Hủy nhục nói lời ác
Mỗi mỗi đều nghe xong
Mà nói sẽ làm Phật.
Khổ hàng ngàn chẳng một
Nhịn chịu vì dục thôi
Vì dục làm tôi tớ
Mà nói sẽ làm Phật.
Trong mơ đã thấy Phật
Kia tạm được hồi sinh
Với người thường khi nhờn
Bồ-đề ta chẳng nghi.
Đã nghe xong kinh này
Tiếng nói, nghĩa chẳng thông
Mà chấp là trong lòng
Chẳng lâu sẽ làm Phật.
Những người nghe kinh Phật
Nếu đã nghe đây xong
Thì họ không chấp trước
Như gió thổi không trung.
Có người xuất gia rồi
Cầu Bồ-đề nhiều hơn
Vì tri thức nên sân
Mỗi mỗi mà sinh khởi.
Kia nghèo cùng phước thiếu
Nghe ít liền vui mừng
Người có tâm lừa dối
Ta tới bờ Bồ-đề.
Đã được cõi thấy sáng
Chúng sinh mà cúng dường
Do đây thiếu vui mừng
Biết sẽ đến Bồ-đề.
Bồ-đề đó xa lắm
Nếu dua nịnh ghét ghen
Ta đạt trí đôi lần
Thì càng xa Tối thắng.
Đã nghe kinh điển này
Biết sẽ được Bồ-đề
Thấy cõi Vô Lượng Thọ
Sẽ chẳng lâu làm Phật.
Bồ-đề đó xa lắc
Có thấy được chỗ nương
Mà lòng chẳng tương ưng
Thì ta chẳng thọ ký.
Con ông trưởng giả ấy
Của cải đã bỏ lìa
Về sau đã xuất gia
Làm người đi khất thực.
Như được Tam-muội này
Ở chỗ Phật Nhiên Đăng
Nếu nghe khéo tu hành
Chẳng lại sinh ái dục.
Kia cạo tóc xuất gia
Lợi tri thức buộc ràng
Trong biển chấp gánh gai
Mà xả bỏ trân bảo.
Trong nghe chẳng thanh tịnh
Không giới, chẳng xuất gia
Tu hành đạo Bồ-đề
Kia chớ nên buông thả.
Sau này nếu có chỗ
Nói pháp phải lắng nghe
Người kia vì tri thức
Lại làm chẳng khen nói.
Ở trước phải lễ bái
Và khen ngợi điều lành
Vậy tung áo cúng dường
Lại làm chẳng khen nói.
Khóc lóc rơi nước mắt
Cung phụng đối tự thân
Kia ở trong đại chúng
Mà nói ác hạnh ấy.
Chẳng kính A-xà-lê
Chẳng trong người thân cận
Vì thiếu mà phá nhau
Do nhà mà ganh ghét.
Chỉ tin phước người khác
Đức mình chẳng nghĩ suy
Độc ác sẽ sinh sôi
Biết người khác giàu cúng,
Hương hoa, bột thơm, cờ
Lọng, phướn cùng tràng hoa
Tấu nhạc... cúng dường ta
Rằng: Sẽ được Bồ-đề.
Đây, thật cúng dường ta
Nghe thắng định này rồi
Lợi, tri thức bỏ rơi
Tu hành thì tương ứng.
Sao cúng dường thân mạng
Các tụ ta bỏ xong
Nên cúng dường Pháp thân
Cũng như cúng thiện thật.
Mạng quý đã bỏ hết
Trú ngụ A-lan-nhã
Kinh này tụng niệm luôn
Đến hết đời sống này.
Này Hỷ Vương! Ta bảo
Tu theo điều đã nghe
Không cùng bè đảng đây
Dua nịnh làm phe đảng.
Ở trong ta chẳng khen
Trong chúng phải nói rằng:
Đây thật! Đây chẳng chân!
Ở trong chớ muốn tin,
Chẳng chấp các cảnh giới
Muốn chứng Phật Bồ-đề
Đạt được các hạnh kia
Thì Bồ-đề xa lắm.
Thần thông ta đã chứng
Sức đại thể thấy đây
Các loại cấm giới này
Ta đã tu hành được.
Thích giới mà phân biệt
Trong chúng tợ thú hoang
Lợi, tri thức bỏ xong
Ở riêng nơi thanh vắng.
Ta không có chỗ đó
Lời ta nói chắc thật
Đời mạt thế sau này
Phú chúc ông Kinh ấy.
Vô Lượng Thọ phóng quang
Và Bất Động Pháp Vương
Sáu mươi ba ức Phật
Chúng hội đã thấy hết.
Giáo sư phú chúc cho
Khiến hộ pháp về sau
Như kinh này, trí ấn
Về sau ta trì khắp.
Ba ngàn cõi chấn động
Chư Thiên khen: Lành thay!
Có nhiều hoa mưa xuống
Khi nghe phú chúc này.

QUYỂN 3

Phẩm 2: SIÊNG NĂNG ĐỜI TRƯỚC (Phần 2)

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Hỷ Vương cùng ba mươi ngàn vị Bồ-tát nghe những sự phá diệt của chánh pháp sau năm mươi năm vào đời mạt thế như trên thì trào nước mắt, thân thể rúng động, nổi da gà, toát mồ hôi, liền đứng dậy, sửa áo bày một vai, gối phải quỳ xuống đất, hướng về Đức Phật chắp tay, cùng nghẹn ngào mà bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Về sau, năm mươi năm trong đời mạt thế, lúc chánh pháp tiêu mất, lúc trong đó tai nạn lớn đến, lúc mỗi mỗi đều tan nát, lúc người nói pháp bị bức bách, lúc biến trí diệt, lúc pháp thiện tan, lúc rỗng không, không mạng sống, lúc chánh pháp bị hủy diệt, lúc chánh pháp bị bài báng, lúc ngôn ngữ thiếu trí hiện lên, lúc tạp thoại cùng ở dẫy đầy, lúc dùng việc ác tìm sự sống, lúc mỗi mỗi hành động chẳng khen ngợi, lúc nghi thức trang nghiêm của ma tăng trưởng, lúc trong đó chuyển bức não lớn...

Bạch Thế Tôn! Lúc đó, chúng con sẽ bỏ thân mạng mình và bỏ những niềm vui tri thức, như loài tê giác ra đi, hoặc trong rừng, hoặc trong rừng nhỏ, lìa khỏi các ái chấp trước. Chúng con ở chỗ có những kinh như thế này, giữ lấy trí Như Lai, đạt đến trí đại pháp thể, lấy chủng tánh làm kho tàng, chẳng làm điên đảo hạnh đã ấn chứng, nhiếp lấy vô lượng căn lành và kinh Đà-la-ni đã được ấn khả, đả phá các luận ngoại đạo, giác ngộ Biến trí, giữ gìn chánh pháp, thị hiện những niềm vui của chúng sinh. Chúng con đều sẽ ghi chép, đọc tụng, thọ trì, giảng nói kinh này.

Bạch Thế Tôn! Chúng con chấp nhận chịu ở Nê-la-gia (địa ngục) vì kinh báu Tam-ma-địa này! Chúng con cũng lại chẳng bỏ Như Lai, Pháp, Tăng và chẳng bỏ Vô thượng Chánh giác.

Bấy giờ, các vị Đại Bồ-tát do Bồ-tát Hỷ Vương đứng đầu, đồng thanh một lòng ở trước Đức Phật và chư Thiên cùng thế gian, nói lên tiếng gầm sư tử Đại pháp Vô thượng xong, liền nói bài kệ khen ngợi:

Biết rõ tâm chúng con
Con muốn cầu Giác ngộ
Không có đèn sáng khác
Chỉ trừ Đấng Trượng phu.
Tâm chúng con tự nhiên biết rõ
Con muốn cầu trí Phật thù thắng
Con trong ba cõi không chứng khác
Người vượt mọi đức đến bờ kia.
Thân mạng đã bỏ đi
Không ai trên Lưỡng Túc
Thọ trì Tam-muội này
Về sau, lúc kinh sợ
Với thân chẳng tiếc, lìa mạng mình
Lợi lạc thân gần đều bỏ hết
Hành Tam-muội không phiền não này
Về sau khó bị gặp ác lớn.
Hoặc chẳng thể lường vô lượng kiếp
Trụ Nê-la-gia sợ ác khổ
Thọ trì Tam-muội không phiền não
Con sẽ chịu đựng trong mọi thời.
Khổ não như vậy không bờ bến
Ở địa ngục, khốn không ai cứu
Trì thọ Tam-muội thanh tịnh này
Khổ ác hại con đều cam chịu.
Con ở trong kham nhẫn
Chẳng động bền tinh tấn
Con mời các chúng sinh
Pháp thí chẳng xin vật.
Mình lợi, chúng sinh lợi
Đồ cúng, các của cải
Tiếng tốt và khen chê
Con đã nhẫn, xả bỏ,
Con thỉnh các sinh chúng
Thật pháp, chẳng cầu vật
Con nói pháp rộng rãi
Chúng sinh đủ no pháp.
Thanh tịnh đã có rồi
Sẽ làm hạnh Bồ-đề
Sẽ tạo nhiều nghĩa lợi
Vì xót thương chúng sinh.
Da, thịt và cả xương
Tủy, máu đều khô khan
Con sẽ chẳng lười biếng
Vì thấy chúng sinh khổ.
Da thịt và da mỏng
Và máu con khiến khô
Con nay bỏ thân này
Chẳng sinh tinh tấn nhỏ.
Thấy này chúng sinh khổ
Phải bệnh, trong lo sợ
Sẽ khiến qua biển khổ
Trên đất yên không sợ.
Con trụ A-lan-nhã
Các ái đã lìa bỏ
Tâm từ đã đầy khắp
Ban vui, khiến không nóng.
Rừng nhàn A-lan-nhã
Con ở nơi thanh vắng
Xa lìa lời nói tạp
Chẳng cùng với ái kia.
Con sẽ có tâm Từ
Ban vui cho chúng sinh
Và cam lộ thù thắng
Được thuốc hay, lành bệnh.
Nếu người chẳng học theo
Lìa lời nói chân thật
Con sẽ trụ tu hành
Theo lời nói trong Kinh.
Chúng con chẳng theo họ
Thuận học tập hạnh đó.
Nếu chẳng phải hạnh phàm
Chẳng thật lìa đạo chân.
Chúng con sẽ luôn trụ
Trong cảnh giới thật ngữ
Giảng nói như Kinh này
Con sẽ có ý kia.
Con sẽ chẳng buông lung
Như điều Đức Phật biết
Ban sức cho chúng sinh
Ở trong, con đi trước.
Con sẽ thường có chẳng buông lung
Như Thắng giả biết, Biến trí thấy
Trong các chúng sinh, con cho lực
Con sẽ đi trước trong trí Phật.
Con sẽ vào đám cháy
Nếu ăn thức ăn độc
Chẳng cúng dường tri thức
Chẳng nói Phật Bồ-đề.
Con vì pháp nên rơi trong lửa
Ăn thức ăn độc con vào khổ
Lợi, tri thức chẳng bị buộc ràng
Vô thượng Bồ-đề chẳng tuyên dương.
Nếu ma nhiều vô lượng
Làm chướng ngại bên con
Đã bỏ các chúng ma
Sẽ làm vua thế gian.
Các ma trăm ngàn chẳng thể lường
Ở trong, chúng làm con chướng ngại
Không não phiền, con đều lìa xong.
Thế gian sẽ sinh vua Vô thượng.

Lại nữa, trong khi Đại Bồ-tát Hỷ Vương dùng tiếng gầm sư tử để giảng nói thì tam thiên đại thiên thế giới này, chấn động sáu cách, ánh sáng lớn soi khắp thế gian, các chúng sinh đều dùng hoa tung lên trong hư không nhiều chẳng phải một lần. Chư Thiên có đến ức ức trăm ngàn người, phát ra tiếng khen ngợi, lại tấu lên vô lượng vô số ức ức trăm ngàn âm nhạc và nói lên lời như vầy: “Vị Đại Bồtát Hỷ Vương này, chẳng bao lâu nữa sẽ hướng về Bồ-đề đạo tràng, sẽ gầm lên lời nói sư tử của Như Lai như tiếng gầm của Như Lai trước chư Thiên và loài người”.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ở chỗ của Đại Bồ-tát Hỷ Vương, ban lời khen ngợi:

–Rất hay! Rất hay! Này Hỷ Vương! Ông có khả năng giữ gìn chánh pháp, phát ra tiếng gầm đại sư tử vô thượng này! Như ông đã ở bên các Đức Phật Thế Tôn nhiều như cát sông Hằng, cũng gầm tiếng sư tử như vậy. Này Hỷ Vương! Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Chánh niệm suy nghĩ! Ta sẽ vì ông nói về sự sinh khởi phước của Đại Bồ-tát do giữ gìn chánh pháp. Này Hỷ Vương! Ta nay vì ông đưa ra thí dụ. Ở trong ví dụ này, sẽ có một bậc Trượng phu trí giả biết được ý nghĩa của điều nói ra.

Này Hỷ Vương! Như trong phần phương Đông kia có những cõi Phật nhiều như cát sông

Hằng, như vậy trong phần phương Nam, phương Tây, phương Bắc, phương Trên, phương Dưới, như vậy trong mười phương và trong các phương phụ đều có những cõi Phật nhiều như cát sông Hằng. Các cõi đó đều làm một vòng tường thành vây quanh. Nhưng tường ấy được đo lường đến bờ mé trời Hữu đảnh, mọi người đều cho là lớn. Dọc ngang trên thành báu lớn ấy đầy dây leo chằng chịt, đầu nhọn buộc vào đứng vững, chẳng gạt mà khiến cho bằng phẳng. Có một vị trượng phu khác sinh ra để phân chia riêng biệt cây dây leo ấy. Nếu vị đó, tay phải nắm lấy những hạt cây dây leo, ném lên không. Những hạt đã ném ấy không rời ra mà chúng tụ lại thành một đám hạt dây leo lớn. Cho đến khi có một ngọn gió thổi đến, như vậy đám hạt dây leo lớn đó bị xao động tan rã, văng đến trong mỗi một cõi Phật khắp mười phương. Nhưng mỗi cõi Phật chỉ rơi xuống một hạt dây leo, nhất định không có hai. Đám hạt dây leo lớn nói trên rơi hết vào các cõi mà mỗi một cõi chỉ rơi xuống một hạt.

Này Hỷ Vương! Ý ông thế nào? Số cõi Phật đó có thể dùng phương tiện để biết được bờ cõi không?

Bồ-tát Hỷ Vương đáp:

–Bạch Thế Tôn! Chẳng thể được vậy! Thưa Đấng Tu-già-đa! Chẳng thể được vậy! Chỉ có Đức Như Lai mới đạt được sự hiểu biết như vậy!

Đức Phật bảo:

–Này Hỷ Vương! Nếu lại có vị Bồ-tát tin hiểu bố thí, ở các cõi Phật nhiều vô lượng vô số, lại chẳng thể tính được, đem bảy báu chất đầy trong đó rồi dùng để bố thí. Nếu có bất kỳ Bồ-tát nào tôn trọng chánh pháp, hộ trì chánh pháp, thậm chí chỉ trong một ngày đêm kham nhẫn vì khiến cho chánh pháp trụ thế lâu dài. Như vậy, phước của vị này phát sinh nhiều hơn phước vị ở trên kia. Vì sao? Này Hỷ Vương! Vì vị ấy ở chỗ một Đức Như Lai để hộ trì chánh pháp rồi, tức là đã ở chỗ những Đức Phật Thế Tôn quá khứ, vị lai và hiện tại để được hộ trì chánh pháp.

Này Hỷ Vương! Khi xả bỏ các báu thì còn phiền não, còn chấp thủ. Này Hỷ Vương! Lại khi pháp thí thì vô lậu không chấp thủ, các khổ trở nên tiêu diệt.

Này Hỷ Vương! Do đó, nên các ông phải tin hiểu pháp thí, chớ tin vào của cải thế gian. Các ông nên dùng pháp cúng dường để cúng dường cho ta, chớ dùng của cải thế gian để cúng dường, dùng pháp cung kính để cung kính ta, chớ dùng tài vật để cung kính. Vì sao? Này Hỷ Vương! Vì Bồ-đề của các Đức Phật Thế Tôn từ pháp mà ra, chẳng do của cải mà ra.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Hỷ Vương bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ tôn trọng chánh pháp, chẳng tôn trọng tài vật. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì nhất định do pháp nên Đại Bồ-tát chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chứ chẳng phải do tài vật. Lại nữa, tài vật khiến cho phiền não tăng thêm, pháp khiến cho phiền não chuyển biến, diệt tận.

Đức Phật khen Đại Bồ-tát Hỷ Vương:

–Rất hay! Rất hay! Này Hỷ Vương! Ông khéo nói lời nói này! Pháp khiến cho phiền não chuyển biến tận diệt! Lại nữa, này Hỷ Vương! Ông hãy lắng nghe! Lắng nghe! Chánh niệm suy nghĩ! Ta sẽ vì ông giảng nói! Như Đại Bồ-tát đời trước hộ trì chánh pháp, siêng năng tu tập, chẳng tiếc thân mạng, lìa bỏ các niềm vui và dùng tài lợi tri thức để cung kính, hộ trì chánh pháp.

Đại Bồ-tát Hỷ Vương bạch Phật:

–Như vậy, bạch Thế Tôn! Con rất ưa thích nghe!

Đức Phật nói:

–Này Hỷ Vương! Thuở xưa, ở đời quá khứ, kiếp số chẳng thể tính được, lại trải qua vô số vô lượng, chẳng thể lường, chẳng thể suy nghĩ được, vào thời gian đó, có Đức Phật hiệu là Quảng Tịnh Hậu Kim Phổ Vô Nghi Quang Oai Vương Như Lai, Ứng Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Giáo Sư, Phật Bà-già-bà ra đời.

Lại nữa, này Hỷ Vương! Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri Quảng Tịnh Hậu Kim Phổ Vô Nghi Quang Oai Vương có tuổi thọ không lường, cõi Phật vô biên công đức trang nghiêm và có bảy mươi ức trăm ngàn quyến thuộc Thanh văn vây quanh cùng với vô lượng chúng Bồ-tát. Tất cả đã phát ra vô biên hạnh, thuận vào pháp giới.

Này Hỷ Vương! Như vậy, Đức Như Lai Thế

Tôn Quảng Tịnh Hậu Kim Phổ Vô Nghi Quang Oai Vương ở quá khứ đã diệt rồi. Lâu sau, khi chánh pháp mất đi, có vị nói pháp tên là Vô Biên Bảo Chấn Thanh Tịnh Hạnh Tụ. Vị ấy tu hành hết các hạnh, được trí năm thông, Tổng trì tự tại, biện tài trôi chảy, thuận vào pháp hạnh. Vị đó đi vào thôn, thành, phường ấp, kinh đô vua... vì chúng sinh nói pháp. Pháp vị ấy nói ra cũng là Tammuội Quyết định quan sát chư pháp hạnh này, lấy đó làm phát khởi. Vị đó theo thứ lớp đã kiến lập được sáu mươi ức ức trăm ngàn chúng sinh ở đạo Vô thượng Chánh giác. Trong lúc đó, có nhiều

Tỳ-kheo xem ra giống như người nhập đạo mặc Phú-già-la, nhưng những người đó chẳng tu Tamma-địa này, cũng chẳng thể nhẫn. Họ bị sự trói buộc của ganh ghét xan tham nên ở chỗ vị Tỳkheo nói pháp kia, bảo những người trong lãnh thổ cai trị của vua, những thôn, thành, phường ấp, kinh đô chẳng nên nghe biết, chẳng lệnh cho vào, chẳng cùng nói, chẳng gần gũi...

Này Hỷ Vương! Bấy giờ, người nói pháp kia bị đuổi ra khỏi thôn, nhưng lòng không khiếp sợ lẩn tránh, lòng không yếu hèn, lòng không sân động, lòng không vẩn đục, lòng không ô tạp... mà chỉ hộ trì chánh pháp như vậy, chẳng tiếc thân mạng, xả bỏ các tài lợi cung kính thôi. Có vị chúa rừng lớn tên là Nhị Sinh (Nhị sinh là chim vậy. Đầu tiên sinh trứng là một lần sinh, ra khỏi vỏ trứng là hai lần sinh. Phàm loài noãn sinh thì đều có hai lần sinh. Vì chim phần nhiều là noãn sinh nên riêng một mình được hiệu là Nhị sinh) lên tiếng, tung hoa mà đi đến chỗ người nói pháp đó. Đến rồi, vua Nhị Sinh vào ngồi chung với ba mươi ngàn ức Bồ-tát. Cùng đến với vua rừng có Tứ đại Thiên vương... cho đến trời Sắc cứu cánh. Vì nghe pháp nên họ đi đến chỗ ấy. Vị nói pháp đó, ở trong chúng đại thiên mà nói pháp. Bên vị nói pháp đó đầy ắp ba dũ-xà-na (do-tuần) trăm ngàn trời người hiển hiện. Vị ấy ở trong chỗ vua rừng đó vì chúng Tứ đại Thiên vương mà nói pháp như vầy, như vầy... khiến cho trăm ngàn trời của chín mươi chín tầng trời chẳng thoái chuyển đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vô lượng trăm ngàn Thiên tử chứng được trí kiến đạo. Ở chỗ đó, Tứ đại Thiên vương, chúa của ba mươi ba tầng trời và Phạm thiên, chúa của cõi Ta-bà... siêng đến cung cấp hầu hạ tùy theo sự cần thiết của vị nói pháp đó. Cũng có ba mươi ngàn ức Bồtát cung cấp hầu hạ vị nói pháp đó.

Này Hỷ Vương! Vào lúc đó, có vị vua tên là Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm xuất hiện ở châu Diêm-phù. Là bậc Pháp vương dùng pháp, cai trị ở trong bốn châu, tự tại chuyển bánh bảy báu đầy đủ. Này Hỷ Vương! Lại nữa, vua Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm đó đầy đủ một ngàn người con trai, nhưng tất cả đều hóa sinh trong tư thế kiết già, chẳng mất chánh niệm.

Tám mươi bốn ngàn phụ nữ trong cung đều có phạm hạnh. Lại nữa, vua Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm đó thường thuận phạm hạnh, thường vào chánh định. Này Hỷ Vương! Bấy giờ, vị nói pháp Vô Biên Công Đức Bảo Chấn Thanh Tịnh Hạnh Tụ biết tâm vị vua đó đã ở đời trước tương ứng thành tựu, quyết định phát tâm tu hành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Trong đêm tịch tĩnh, vị nói pháp ấy biến hóa thân mình làm voi Ma-na-bà vào trong vầng trăng, ở trên điện với các quần thần trong cung vây quanh. Rồi từ rừng chúa đó, ông bay lên trong hư không giống như chúa chim ưng mà không vướng mắc, đi đến chỗ vua Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm. Đến nơi, ông ra khỏi vầng trăng hóa làm hình sắc Phạm thiên, ở trước mặt vị vua đó, trên không trung. Phát ra ánh sáng soi cùng khắp cung điện xong, liền vì vị vua kia mà nói bài kệ tụng:

Chủ đất người chớ làm phi pháp
Vang danh khen ngợi ắt chẳng tăng
Dùng hạnh phi pháp chẳng an vui
Chúa loài người hiện tại không vui.
Chúa đất, trước cũng tu pháp hạnh
Nay được lợi tự tại bốn châu
Không đoạn chủng tánh, hộ pháp mầu
Với pháp hạnh, chúa người hộ trì.
Với mắt chánh pháp nên thuận theo
Chánh pháp hộ xong rất vui mừng
Có nhiều Tỳ-kheo, không trì giới
Bài báng Bồ-đề và Thiện Thệ.
Chúng tôi khởi tu Phật Bồ-đề
Như vậy chúng sinh có kiến chấp
Nếu khi thực hành những hạnh này
Như vậy chúng sinh rơi đường ác.
Châu Diêm-phù này có Tỳ-kheo
Hiệu Vô Biên Tụ Địa Chấn Thanh
Quan sát nghĩa, giảng nói chánh định
Phú-già-la, vô ngã, vô mạng.
Ngài nói Tam-ma-địa tịch tĩnh
Mà Tỳ-kheo bị đời đuổi đi
Trong rừng chúa, Chấn Thanh vi diệu
Tá túc trong đó khéo hộ pháp.
Do trụ rừng đó, khắp mừng vui
Trời Sắc cứu cánh đều đến nơi
Để nghe Ngài nói Tam-muội này
Nhiều ức cõi trời phát hạnh đạo.
Voi chúa, ông muốn đi đến đâu
Nghe biển công đức Tam-ma-địa?
Và vì chúng sinh làm nhiều lợi?
Nay nên đến người nói pháp kia.
Như Lai sinh ra rất khó gặp
Bạn nói chánh pháp lại khó gặp
Chúng sinh cầu pháp càng khó hơn
Gặp người hộ pháp rất khó khăn.
Châu Diêm-phù này, ông tự tại
Vì chánh pháp ông nên hộ trì
Người nói pháp, thường ban vô úy
Như vậy đến trong thành nói pháp.
Nếu lời tôi nói vua thực hiện
Vị lai chắc được nhiều lợi ích
Và vì chúng sinh làm lợi hơn
Thì sẽ đạt được Bồ-đề Phật.

Này Hỷ Vương! Như vậy, người nói pháp kia thức tỉnh vua đó xong, trở lại hư không vào với nguyệt luân, lại đi đến chỗ rừng chúa kia. Vị vua đó nghe sự thức tỉnh này rồi rất đỗi vui mừng, ưa thích, thỏa lòng thì thiện ý lại phát sinh. Qua đêm đó, nhà vua cùng với một ngàn người con và bốn binh chúng cùng rất nhiều dân chúng khác đi đến chỗ rừng chúa lớn Nhị Sinh Chấn Thanh Tán Hoa đó. Đến rồi, nhà vua hướng về chỗ vị nói pháp kia. Vào lúc đó, vị nói pháp đang vì chúng Đại thiên và Đại Bồ-tát giảng nói Tam-ma-địa này.

Bấy giờ, vị vua đó và các con cùng những người vây quanh đều thấy vị nói pháp đó và các vị Đại Bồ-tát liền được niềm vui mừng cùng lòng tin thanh tịnh. Những người đó đem lòng tin thanh tịnh đảnh lễ dưới chân vị nói pháp đó và đảnh lễ dưới chân các vị Đại Bồ-tát kia xong, ngồi về một bên. Những người theo nhà vua đã ngồi xong, vị nói pháp kia vì họ giảng nói Tam-ma-địa này. Những người kia nghe Tam-ma-địa này xong, được niềm tin thanh tịnh yêu thích mừng rỡ. Bấy giờ, vị vua đó đạt được Tam-ma-địa này, trong số rất nhiều người đó có tám mươi bốn ngàn chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh giác, một ngàn người con đều cùng đạt được Bất đoạn biện tài.

Này Hỷ Vương! Như vậy, vua Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm vui mừng hớn hở tràn đầy trong lòng, liền đứng dậy, đem hai chiếc áo vô giá dâng lên vị Tỳ-kheo nói pháp đó, các vật dụng của nhà vua đều đem ban cho và bố thí vô úy, tô tức.... cho đến cung cấp, hầu hạ trọn đời, tùy theo sự cần dùng của vị ấy mà dâng y phục, thực phẩm và nói như vầy: “Thưa Tỳ-kheo! Ngài nên đi vào thôn, thành, phường, ấp, vương tôi xin làm thị giả, khiến cho các chúng sinh sẽ được trí này.”

Này Hỷ Vương! Nhà vua kia nói lời như vậy rồi đảnh lễ dưới chân vị nói pháp đó và quyến thuộc xong, đi ra trở về cung điện. Này Hỷ Vương! Bấy giờ, Tỳ-kheo Vô Biên Công Đức Bảo Chấn Thanh Tịnh Hạnh Tụ từ trong rừng chúa đó đứng dậy đi ra, rồi vào trong thôn, thành, phường, ấp, kinh đô vì chúng sinh nói pháp. Nhà vua đó ở những chỗ có người đều ban sắc lệnh: “Không một người nào đối với vị Tỳ-kheo mà chẳng kính mến, chẳng vui lòng, chẳng kính trọng, chẳng thân thiện.” Một ngàn người con trai của vị vua đó theo sau vị nói pháp kia, tiếp nối nhau ủng hộ pháp lợi ích. ba mươi ngàn vương tử quyến thuộc khác cũng vì Đại Bồ-tát kia mà làm người hầu hạ sai bảo, tùy theo việc làm của vị ấy mà họ làm cho người được những hạnh vui.

Này Hỷ Vương! Vị nói pháp đó vì thành tựu chúng sinh nên tự thân trì kinh nửa kiếp, khiến cho vô lượng chúng sinh đều đã thành thục ở trong ba Thừa. Nhà vua đó và các con cùng mọi quyến thuộc, hoặc là tôi tớ của các vương tử kia hay người làm thị giả của Bồ-tát đó, ở trong số ấy đều đã phát tâm Bồ-đề. Do nghe Tam-ma-địa này và hạnh căn lành đời trước nên họ đều cùng ở trong tám mươi kiếp, phụng sự sáu mươi tần-bàla (mười triệu) các Đức Phật Thế Tôn ở các nơi họ đều được nghe Tam-ma-địa này đúng như điều họ mong ước mà hộ trì cõi Phật. Ở trong ấy, hoặc có người đạt đến Bồ-đề, hoặc có người hiện thực hành hạnh Bồ-tát vì thành thục chúng sinh.

Này Hỷ Vương! Vị nói pháp tên là Vô Biên Công Đức Bảo Chấn Thanh Tịnh Hạnh Tụ. Lúc đó ý ông nghi là ai khác chăng? Chớ thấy như vậy! Vì sao? Vì chính Đức Như Lai Vô Lượng Thọ là người nói pháp lúc đó. Lại nữa, này Hỷ Vương! Lúc đó có vị vua tên là Đa Nhân Vô Ưu Phổ Dục Hỷ Âm, ông cho là ai khác chăng? Chớ thấy như vậy! Vì sao? Vì chính là Đức Như Lai Bất Động. Này Hỷ Vương! Một ngàn người con của vị vua kia trong lúc đó, ông cho là ai khác chăng? Ông chớ thấy như vậy! Vì sao? Vì đó là những Đại Bồtát trong kiếp Hiền này, hay một ngàn vị Phật sẽ ra đời trong đại kiếp Hiền vậy.

Lại nữa, này Hỷ Vương! Người nói pháp Vô Biên Công Đức Bảo Chấn Thanh Tịnh Hạnh Tụ, lúc đó có ba mươi ngàn Bồ-tát bằng hữu theo sau nối nhau vây quanh. Ý ông nghi họ là ai khác chăng? Ông chớ thấy như vậy! Vì sao? Vì các Đại Bồ-tát đó ở trong một kiếp, sẽ chứng giác đạo Vô thượng Chánh giác. Này Hỷ Vương! Như vậy hộ trì chánh pháp siêng năng tương ứng với Đại Bồtát, vì vô lượng vô số chúng sinh mà làm việc lợi ích và mau chóng được Tam-ma-địa này.

Này Hỷ Vương! Do đó hoặc ta hiện tiền, hoặc ta diệt độ thì nên thọ trì, đọc tụng, giảng nói, tư duy, vì người khác diễn nói rộng rãi Tam-muội này sẽ mau chóng phá được quân ma.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm cho ý nghĩa này rộng rãi hơn nữa nên liền nói bài kệ tụng:

Với các chúng sinh nếu ban vui
Ngàn ức năm, chẳng thể nghĩ bàn
Phước này chẳng thể ví dụ được
Nếu tâm này sinh nhân Bồ-đề.
Nếu chúng sinh khắp trong mười phương
Đều thành tựu Độc giác thù thắng
Cúng dường họ cả ngàn ức kiếp
Thường ban cho tâm tịnh an vui.
Nếu muốn đạt được Bồ-đề này
Rằng: “Ta sẽ được thành Nhị túc
Trì một kệ Tam-ma-địa này
So với người đó phước nhiều hơn.
Các chúng sinh gặp đời có Phật
Ngàn ức kiếp cúng dường Đức Phật
Họ cũng chẳng sánh được phước này
Nếu một lòng phát tâm Bồ-đề
Hoặc hộ trì đối với Phật pháp
Bốn câu kệ Tam-ma-địa này
Phước như vậy, phi tâm Bồ-đề
Như người hộ trì chánh pháp kia.
Chúng sinh trong thế giới Ta-bà
Hoặc dùng Bồ-đề hóa độ họ
Với người chẳng tin đạo, nghe xong
Thì chẳng sinh ra sợ phước này.
Nếu Bồ-tát bố thí tài sản
Trải qua hằng hà sa ức kiếp
Dùng trân bảo đầy ắp các cõi
Cũng chẳng nghe Tam-ma-địa này.
Như vậy, nếu người trí thọ trì
Bốn câu kệ tụng của định ấy
Thì phước đức tụ nhiều lắm vậy
Chẳng cần nhiều ức kiếp bố thí.
Nếu bậc Thắng giả hộ Bồ-đề
Được định Vô Trần chẳng thể nghĩ
Chẳng thể dùng lời mà nói đủ
Như người có phước trùm khắp kia.
Ở trong sinh tử thấy nhiều Phật
Ý niệm đó chưa từng quên mất
Ở trong đất nước hạnh ưa thích
Tam-muội này nên chép giữ gìn.
Niềm vui của thân như của tâm
Được sinh lên trời gặp bậc Thánh
Vị lai, khổ não chưa từng chịu
Vua Tam-ma-địa tùy hỷ theo.
Ngàn ức pháp môn để thể nhập
Bậc ánh sáng vô biên hứa khả
Ta trụ lực thù thắng nói ra
Cốt do được định Bồ-đề này.
Như được biện tài Tổng trì môn
Được Tam-ma-địa như Thần túc
Bậc trí chứng quả Thánh thanh tịnh
Nếu diễn nói Tam-ma-địa này.
Người trí ra đời trong các cõi
Sẽ được thấy chư Phật hiện tiền
Nghe được pháp Phật thọ trì hết
Tụng, tu tập, giáo hóa do định này.
Nếu được đoan chánh, căn đủ đầy
Ba mươi hai tướng cùng trăm phước
Chúng sinh thấy rồi rất mừng vui
Tụng, tu, giáo hóa do định này.
Người trí tiếng tốt lời ý hay
Có đủ sáu mươi phần âm thanh
Bao gồm tiếng Phật tịnh chúng sinh
Do nghe định này khen lành thay.
Họ sẽ được tuệ lại lanh lợi
Họ cũng được trí, không nhơ uế
Cũng biết rõ tâm các chúng sinh
Nếu trì Tam-muội thanh tịnh này.
Pháp môn hội nhập không một tiếng
Do ở trong ấy chẳng biện luận
Mà đối các tiếng được thiện xảo
Do tụng Tam-muội không phiền não.
Được tâm rộng lớn, chẳng thẹn thùng
Lại được hoan hỷ rất mừng vui
Hỷ lạc đó chưa từng giảm bớt
Do giảng rộng Tam-ma-địa này.
Việc ta thấy rõ như bàn tay
Các ông nên chính tâm dấy khởi
Các ông là con, thuận ta dạy
Phát tu định này sẽ được thành.
Đây có ông hứa, ta giảng nói
Các ông tâm tịnh làm tương ứng
Ta trụ đến nay nên siêng tu
Chớ để về sau phải buồn khổ.

Phẩm 3: THỌ KÝ ( Phần 1)

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Hỷ Vương bạch Phật:

–Thật hiếm có! Bạch Thế Tôn! Thưa Đấng Tugià-đa! Thật hiếm có! Thậm chí Đức Như Lai cũng khen ngợi công đức của Đại Bồ-tát hộ trì chánh pháp này. Bạch Thế Tôn! Pháp nào mà Bồ-tát phải đầy đủ để được Tam-ma-địa này?

Đức Phật nói:

–Này Hỷ Vương! Có một pháp đầy đủ để Bồtát được Tam-ma-địa này. Thế nào là một? Này Hỷ Vương! Ở trong, thệ nguyện Bồ-tát bền chắc trụ trong Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chỗ đó, hoặc bị phá hoại, hoặc đối trước đùa giỡn, hoặc hướng về người khác hủy báng, hoặc tranh sai trái, hoặc sân mắng, hoặc quở trách, người kia ở trong hoàn cảnh ấy không phẩn hận, không tỵ hiềm, không sinh oán kết, mà trụ ở trên sự quan sát tâm mình. Khi ta phát tâm Bồ-đề không người thỉnh ta, hoặc Trời, Rồng, hoặc Dạ-xoa, A-tu-la, Già-lưu-trà, Kiền-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầula-già và phi nhân, chẳng phải phi nhân, cũng chẳng có một người thế gian khác thỉnh ta, chỉ tự tâm của ta suy nghĩ mà sinh tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nhưng khi tâm đó của ta sinh ra thì các Đức Phật đều biết. Ta nay chẳng nên như thế này: Như ta vì người khác phá vỡ tự tại, như đối trước người khác đùa giỡn, như giận mắng, như quở trách, như khinh khi, như học không nghiêm túc, như nói hại, như đánh... muốn khiến cho họ sợ hãi xả bỏ Bồ-đề hay xả bỏ chúng sinh, hoặc ta lại khởi ý nhỏ nhoi, hoặc sinh ra tâm Thanh văn hoặc tâm Độc giác... thì ta đã lừa dối các Đức Phật Thế Tôn. Nếu tâm này sinh ra Bồđề thì ta nay cần phải trụ chắc chắn ở thệ nguyện. Khi tâm đó sinh thì nhất định chẳng buông bỏ cho đến khi chưa ngồi Bồ-đề đạo tràng.

Này Hỷ Vương! Đây là đầy đủ một pháp để Bồtát được Tam-ma-địa này.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn cho ý nghĩa này sáng tỏ hơn nữa nên liền nói kệ tụng:

Người trí thường sinh thệ bền chắc
Vì cầu Vô thượng đại Bồ-đề
Ta ở trung gian chẳng mỏi mệt
Dùng tâm chẳng mệt hành Bồ-đề.
Nếu bị đùa giỡn và tranh cãi
Giận mắng, quở trách, chẳng cúng dường
Tự tâm như vầy thuận an ủi:
Ở trong không có giận phá sinh.
Như ta khi tâm Bồ-đề sinh
Chẳng phải trời rồng... thỉnh ta vậy
Đối các chúng sinh ta Từ bi
Sinh tâm duyên với đạo Bồ-đề.
Nếu ta nay lại khởi ý nhỏ
Thì ta lừa dối các Thế Tôn
Ta bền tinh tấn chẳng mỏi mệt
Hộ trì thệ nguyện mà làm Phật.
Hành giả như vậy đại danh xưng
Tam-ma-địa này có hiện tiền
Tâm Bồ-đề căn bản đứng vững
Hành pháp Bồ-đề chẳng khó khăn.

Này Hỷ Vương! Lại có hai pháp đầy đủ khác để Bồ-tát được Tam-ma-địa này.

Những gì là hai? Như lời nói mà làm, giữ các hạnh pháp lành mà chẳng nhàm chán.

Này Hỷ Vương! Ở trong, cái gì là như lời nói mà làm? Bồ-tát này nghe nói có hạnh Bồ-tát, nghe có Phật pháp đầy khắp thì Bồ-tát đó giữ lấy những điều này mà làm. Ta cũng tu hành những điều này. Bồ-tát hành rồi, nhân đây sẽ giác ngộ Phật pháp vô thượng. Bồ-tát đó làm đúng như lời nói tức là giữ lấy mà làm. Nếu việc làm thành tựu, hành động thanh tịnh thì đây là như lời nói mà làm. Sao gọi là trong các hạnh thiện chẳng nhàm chán? Bồ-tát này khởi ý niệm này: “Biến trí không lường, như vậy chúng sinh không lường, ta làm lợi ích nên họ chẳng thể do thiếu căn lành, thiếu hạnh. Đối với vô lượng Biến trí mà được đầy khắp, vì vô lượng chúng sinh mà làm lợi ích”. Bồ-tát đó nếu khi phát khởi ý thiện như vậy mà đem hồi hướng hết vô lượng hồi hướng đó thì sẽ như biển cả cầu mong nghe chẳng nhàm chán.

Này Hỷ Vương! Đây là hai pháp đầy đủ để Bồtát được Tam-ma-địa này.

Đức Phật lại nói kệ:

Như lời nói mà làm
Đó không chẳng nói Như
Mà cũng chẳng nói năng
Nếu có sai biệt này.
Bồ tát đó là nói năng Như
Hạnh tướng như vậy nghe đã hành
Người trí như lời nói mà làm
Là được định này công đức Phật.
Chẳng nhàm chán pháp thiện
Những vị đó không chán
Bồ-đề kia không lường
Vô lượng tánh công đức.
Với pháp thiện lại chẳng, nhàm chán
Ý thường chẳng đủ giống như biển
Vô lượng vô biên cõi chúng sinh
Chẳng thể ý nhỏ mà nhàm chán.
Như lời đã nói mà thực hành
Lại chẳng nhàm chán mong cầu pháp
Với hai pháp này thuận tu học
Thì được định này công đức Phật.

Này Hỷ Vương! Lại có ba pháp đầy đủ khác để Bồ-tát được Tam-ma-địa này.

Những gì là ba? Bồ-tát này có thành tựu ba cấm giới.

Những gì là ba? Đó là thân giới, ngữ giới và ý giới; lại không có ba thứ phiền não thiêu đốt.

Những gì là ba? Đó là tham dục thiêu đốt, sân ác thiêu đốt, ngu si thiêu đốt và chẳng nương trong ba cõi mà tu hành Phạm hạnh. Có ba pháp đầy đủ này thì Bồ-tát được Tam-ma-địa này.

Đức Phật lại nói kệ:

Cấm ngăn ở ba nơi
Thân, miệng và tâm ý
Ba phiền não thanh tịnh
Chẳng nương trong ba cõi
Cấm ngăn thân, ngữ và cả ý
Ba thứ phiền não, ý tịch tĩnh
Và chẳng nương nhờ trong ba cõi
Nên Tam-ma-địa mau được thành.

Này Hỷ Vương! Lại có bốn pháp đầy đủ khác để Bồ-tát đạt được Tam-ma-địa này. Những gì là bốn?

Đó là biết nhân sinh ra pháp, biết nhân đó và biết nhân sinh ra pháp rồi liền xả bỏ nhân ấy, chẳng chấp trước nhân sinh ra pháp. Bồ-tát đó biết đầy đủ như vậy thì Bồ-tát chẳng thấy có một pháp nào chẳng phải do nhân sinh ra. Bồ-tát đó nghĩ như vầy: “Nếu pháp đó nhân duyên sinh thì bản tánh “không” kia chẳng sinh. Lại nữa, Bồ-tát đó có trí đầy đủ như vậy rồi, nên chẳng khởi vô minh còn khiến cho vô minh diệt nên vì chúng sinh nói pháp. Bồ-tát đó chẳng khởi các hành và khiến biết rõ các hành nên vì chúng sinh nói pháp... cho đến chẳng khởi lão tử và khiến vượt qua lão tử nên vì chúng sinh nói pháp.

Này Hỷ Vương! Đây là bốn pháp đầy đủ để Bồtát được Tam-ma-địa này.

Lúc ấy, Đức Phật lại nói kệ:

Đã biết ở nhân duyên
Nhân sinh ra cũng biết
Người đó không chấp thủ
Như đoạn và cả thường.
Cũng biết rõ các nhân
Hoặc tướng, hoặc tự thể
Hoặc pháp thuộc về nhân
Ở trong, trí chẳng chấp.
Sự sinh của nhân duyên
Nếu có thật là không
Nếu trí chuyển bên trong
Thì được Tam-ma-địa.
Biết rõ vô minh xong
Thì các hành chẳng sinh
Biết Như nói cũng Như
Lợi ích cho chúng sinh.
Nếu có bốn pháp này
Bồ-tát, các Thắng giả
Thì chẳng khó được thành
Là Tam-muội Phật khen.

Này Hỷ Vương! Lại có năm pháp đầy đủ khác để Bồ-tát đạt được Tam-ma-địa này.

Những gì là năm? Này Hỷ Vương! Đó là Bồtát biết Tác biết Hợp, biết Môn, biết Hạnh, biết Đạo. Ở trong, sao gọi là Tác? Sở dĩ nói Tác là, nếu ở trong chúng sinh mà tâm bình đẳng, xả bỏ mọi tưởng, đối với các chúng sinh chỉ dùng một vị Từ. Đây gọi là Tác. Trong đây, sao gọi là Hợp? Nếu biết quả báo chín muồi trong thân, đem thiện nghiệp đã làm hồi hướng về đạo Bồ-đề, ở trong chẳng chạm đến. Đây gọi là Hợp. Sao gọi là Môn? Gọi là môn chính là không môn hay cam lộ môn (y vào Phạm bản thì gọi là Bất tử. Từ xưa đến nay theo nghĩa gọi là cam lộ), cũng chẳng do cái gì khác. Đây gọi là Môn. Sao gọi là Hạnh? Đó là hạnh không, hạnh một mình, hạnh như. Hạnh của các pháp bản tính đều thanh tịnh. Đây gọi là Hạnh. Sao gọi là Đạo? Là lìa khỏi ngã tác và ngã sở tác (ta làm và cái ta làm) là chánh kiến của bậc Thánh. Đây gọi là Đạo.

Này Hỷ Vương! Đây là năm pháp đầy đủ để Bồ-tát đạt được Tam-ma-địa này.

Đức Phật lại nói kệ:

Bình đẳng đối chúng sinh
Những bậc đó làm vậy
Nghiệp báo chín cũng tin
Thì hợp vô thượng này.
Phi đạo, pháp nhơ đều xa lìa
Cầu đến pháp lành chẳng ngưng bỏ
Đều đem hồi hướng đạo Bồ đề
Mà với Bồ-đề, không chạm đến.
Biết được cửa giải thoát
Là vô tướng và không
Cũng chẳng làm với nguyện
Đây, pháp môn vô thượng.
Ở trong các pháp có thiện xảo
Ở trong các pháp thường chẳng nương
Riêng tự hợp với cảnh vô sinh
Ngã và ngã sở, đó chẳng sinh.
Việc làm kẻ trí hợp với hạnh
Và thường an trụ trong bốn đạo
Là Hợp Bồ đề chẳng khó được
Huống chi Tam muội tịch tĩnh này.

Này Hỷ Vương! Lại có sáu pháp đầy đủ khác để Bồ-tát đạt được Tam-ma-địa này.

Những gì là sáu? Đó là biết về nhãn (mắt) và biết tự tánh của Nhãn; khi biết nhãn rồi và biết tự tánh của nhãn rồi, đối với sắc đáng ưa và sắc không đáng ưa, không có chấp trước ngăn ngại đạt đến bình đẳng. Sắc này nhãn căn chẳng đốt cháy. Như vậy biết nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý và biết... tự tánh của ý... khi biết ý rồi, biết tự tánh của ý rồi, đối với pháp ưa thích và pháp chẳng ưa thích không có chấp trước ngăn ngại, đạt đến bình đẳng. Pháp này ý căn chẳng đốt cháy. Này Hỷ Vương! Đây là sáu pháp đầy đủ để Bồ-tát đạt được Tam-ma-địa này.

Đức Phật lại nói kệ:

Biết đến tự tánh nhãn
Phi tự tánh, tự tánh
Đối trong sắc chẳng ngại
Hoặc không, hoặc bất tịnh.
Đạt bình đẳng trong sắc
Sắc không có dục nhiễm
Biết thể bản tánh xong
Sắc không bị đốt cháy.
Như vậy nhĩ, cùng tỷ
Thiệt, thân và cả ý
Biết tự tánh kia xong
Trong các pháp chẳng chấp.
Sáu cảnh giới giam cầm
Khiến chẳng chạy bên ngoài
Trí tự tánh đủ thành
Phi dục, phi ly dục.
Trí như vậy tối tôn
Là Bồ-tát thù thắng
Người đó chẳng khó khăn
Được Tam-muội Phật khen.

Này Hỷ Vương! Lại có bảy pháp đầy đủ khác để Bồ-tát đạt được Tam-ma-địa này.

Những gì là bảy? Đó là chẳng dua nịnh, ngay thẳng, ưa thích pháp, cầu pháp, quan sát pháp, khai mở pháp, thực hành pháp. Này Hỷ Vương! Nhờ bảy pháp đầy đủ này, nên Bồ-tát đạt được Tamma-địa này.

Đức Phật lại nói kệ:

Không có dua nịnh luôn ngay thẳng
Và cả lời, ý đều không khác
Ý luôn suy nghĩ như lời nói
Người trí tự vui, cùng người vui.
Trụ ở trong thuận pháp, hành pháp
Chưa từng dùng tiếng làm Tối thắng
Như vậy siêng hợp thì được định
Mau chạm đại Bồ-đề vô thượng.
Vì ưa thích pháp Đại danh xưng
Cầu được nghe chưa từng nhàm chán
Như nghe chánh niệm mà quan sát
Vì người nghe đó lại tuyên dương.

Này Hỷ Vương! Lại có tám pháp đầy đủ khác để Bồ-tát đạt được Tam-ma-địa này.

Những gì là tám? Đó là: Giới tụ đều thanh tịnh, xa lìa các ái nhiễm, tâm thường xuất gia, ưa ở chỗ tịch tĩnh, chẳng vì các lợi dưỡng, lòng chẳng tiếc thân, tin hiểu rộng rãi, đối với ái, chẳng ái tâm luôn bình đẳng.

Này Hỷ Vương! Đầy đủ tám pháp này thì Bồtát đạt được Tam-ma-địa này.

Đức Phật lại nói kệ:

Khắp tịnh với giới tụ
An trụ thiện thanh tịnh
Đã lìa các ái nhiễm
Xuất gia trong Thắng giáo.
Thiện Thệ dạy Tỳ-kheo
Nên xả bỏ lợi dưỡng
Mà cầu trụ tịch tĩnh
Định này rất khó thấy.
Nếu tu hành hạnh tối thượng này
Trong ái, chẳng ái không có khác
Giữ gìn tám pháp mà tu hành
Chắc chứng Tam-muội Tối thượng này.

Này Hỷ Vương! Lại có chín pháp đầy đủ để Bồ-tát đạt được Tam-ma-địa này.

Những gì là chín? Này Hỷ Vương! Đó là Bồtát này xả bỏ chín việc sân, vượt khỏi chín chỗ chúng sinh, thành tựu chín lớp định, qua khỏi tám tà kiến điên đảo, vào trong tám chánh, lìa khỏi tám nơi chẳng an ổn, chứng tám Giải thoát, biết bảy Thức trụ, tu bảy Giác phần.

Này Hỷ Vương! Đầy đủ chín pháp này, Bồ-tát được Tam-ma-địa ấy.

Đức Phật lại nói kệ:

Chín trú xứ chúng sinh
Ở trong chúng sinh nương
Đoạn lìa khỏi các kiến
Kia không có chỗ nương.
Đoạn tám nơi chẳng an
Đạt được tám giải thoát
Ở chỗ trụ bảy thức
Dùng chánh niệm biết khắp.
Người trí tu niệm bảy Giác phần
Đoạn các phân biệt, bứng não phiền
Siêng năng như vậy thì được định
Cũng mau chứng Bồ đề thù thắng.

Này Hỷ Vương! Lại có mười pháp đầy đủ để Bồ-tát đạt được Tam-ma-địa này.

Những gì là mười? Đó là: Bỏ các vật sở hữu, kham nhẫn ngay thẳng để giữ gìn sự lưu chuyển không lường, đầy đủ trí xuất thế, chẳng phải chỉ vì các chúng sinh mà đại Từ, học rộng hiểu nhiều, giữ gìn những điều đã nghe, dùng đại Bi, vượt trên các sự bố thí, chẳng dùng các phương tiện vui khéo léo, nhớ nghĩ khắp các Đức Phật, mười nghiệp đạo thiện này, thậm chí trong mộng cũng chẳng quên mất, nói pháp nương vào tâm Bồ-đề, chẳng tham muốn thừa khác.

Này Hỷ Vương! Đầy đủ mười pháp này thì Bồtát được Tam-ma-địa ấy.

Đức Phật lại nói kệ:

Bỏ các sở hữu mà vui mừng
Cũng có lời nhẫn, tâm ngay thẳng
Trong ức kiếp, không hề thiếu thốn
Người đó mau được Tam-muội này.
Người có trí tuệ không phiền não
Bậc có lòng từ không mong cầu
Ghi nhớ điều nghe chẳng quên mất
Người đó đạt được Tam-muội này.
Bi đối chúng sinh, chẳng hý luận
Các phương tiện khéo chẳng ưa thích
Chánh niệm nghĩ khắp các Thế Tôn
Người đó đạt được Tam-muội này.
Hộ trì mười thiện đều thanh tịnh
Thậm chí trong mộng chẳng từng mất
Tâm luôn nghĩ đến hạnh Bồ-đề
Trong tiểu thừa chưa từng ham thích.
Nếu có pháp tối thắng như vầy
Thì được Phật pháp chẳng khó khăn
Quân chúng Ma mau chóng phá được
Sẽ đạt được Bồ-đề tối tôn.

Khi Đức Thế Tôn nói pháp căn bản này, bảy mươi ngàn chúng sinh xa trần lìa cấu, ở trong pháp được Pháp nhãn tịnh, bảy ngàn chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh giác, đều được thọ ký không thoái chuyển, ba mươi ngàn Bồ-tát trong pháp Vô sinh được nhẫn, về sau muốn hộ trì thành lũy pháp, vô lượng chúng sinh thành tựu căn lành. Tam thiên đại thiên thế giới này, chấn động sáu cách, ánh sáng lớn soi khắp thế gian, ba đường ác lặng dừng, các chúng sinh, đều thấy Đức Như Lai trước mặt. Từ nơi thân Đức Thế Tôn, lại phóng ra ánh sáng, nhờ ánh sáng này nên vô lượng vô số thế giới tràn đầy ánh sáng. Chúng sinh ở những nơi đó do ánh sáng chạm đến thân rồi họ đều đối với Đức Phật, chánh niệm thuận theo, cùng vui tương ứng, lìa bỏ phiền não. Ánh sáng của Thế Tôn đó, ở trong mười phương hiện ra, vô biên trân bảo trang nghiêm, chẳng phải một trăm ngàn màu sắc, có ức ức hoa sen trăm ngàn cánh mọc ra khắp các chỗ. Trong hoa sen có hình tượng giống như Đức Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni Như Lai. Nhưng hình tương tự Như Lai đó, ở trong hoa sen kia, ngồi ngay thẳng hiển hiện. Trong những hoa sen đó, trên đài hoa sen có vị tương tự Đại Bồ-tát Hỷ Vương, gối phải quỳ xuống đài hoa sen rồi, cũng hỏi Tam-ma-địa này, các Đức Như Lai đó cũng giảng nói rõ Tammuội này. Mỗi một vị Như Lai đó giác ngộ, thành thục vô lượng ức ức trăm ngàn chúng sinh. Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Hỷ Vương:

–Này Hỷ Vương! Ông có thấy khắp mười phương vô lượng vô số vị Như Lai tương tự ta ngồi trong hoa sen và những Đại Bồ-tát tương tự ông như vậy chăng?

Bồ-tát Hỷ Vương đáp:

–Con thấy, bạch Thế Tôn! Con thấy, thưa Tugià-đa! Nhưng con chẳng biết số lượng.

Đức Phật bảo:

–Này Hỷ Vương! Có thể biết hết số lượng cát sông Hằng mà chẳng thể biết số lượng của những Đức Phật Thế Tôn đó. Như vậy, các Đức Phật Thế Tôn ông đã thấy cùng. Số Đại Bồ-tát tương tự ông kia cũng lại chẳng thể biết số lượng của họ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn thu lại thần lực hiếm có xong liền bảo Đại Bồ-tát Hỷ Vương:

–Này Hỷ Vương! Ý ông thế nào? Như Lai từ cõi Phật này có chỗ ra đi sao? Ngồi mà động sao?

Ông cũng có chỗ ra đi sao?

Bồ-tát Hỷ Vương đáp:

–Chẳng phải vậy, bạch Thế Tôn! Chẳng phải vậy, thưa Tu-già-đa!

Đức Phật nói:

–Này Hỷ Vương! Do chính nhân duyên! Ông nên biết rằng, các pháp đều Như, sinh ra tướng trụ, khởi ra phân biệt, không đến không đi, như điều ưa thích, như điều tạo tác vì không ai làm chủ vậy. Ông nên biết, những cái đó đều không phân biệt.

Này Hỷ Vương! Vậy nên, ông đối với các pháp nên phải tin hiểu, thấy chúng như sóng nắng, như chiêm bao, như bóng hình, như tiếng vang, như trăng đáy nước, như điện chớp, như bọt nước... các ông nên học như vậy. Vì sao? Vì Bồ-tát tin hiểu sâu sắc sẽ được Tam-ma-địa này.

QUYỂN 4

Phẩm 3: THỌ KÝ (PHẦN 2)

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Đại Bồ-tát Hỷ vương:

–Này Hỷ Vương! Nếu lại có Bồ-tát nương vào ngã, chúng sinh trải qua số kiếp nhiều như cát sông Hằng, mà bố thí, hộ trì giới, niệm nhẫn, phát khởi tinh tấn, vào thiền định, tu trí tuệ, nếu lại có Bồ-tát tin hiểu các pháp là vô ngã thì vị này hơn vị kia về phước đức tụ và mau chóng chứng Vô thượng Chánh giác. Vì sao?

Này Hỷ Vương, thuở xưa, đời quá khứ, chẳng thể tính được kiếp, lại không thể tính toán, chẳng thể lường, vô lượng chẳng thể nghĩ Ca-la, Tamma-gia đó có Đức Như Lai ra đời hiệu là Bảo Quang Uy Luân Vương Ứng Chánh Biến Tri, Minh Hành Cụ Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, thế giới tên là Hữu bảo; kiếp tên là Ứng vãng.

Lại này Hỷ Vương! Trong ca-la và tam-ma-gia đó, Đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai có thế giới Hữu bảo giàu có sung túc rất là vui sướng, dân chúng đông đúc, đất đai bằng phẳng như bàn tay, không có sành sỏi, vàng bạc thừa thải, đất mịn như sờ vào áo Cơ-chân-lâu-nê-ca, tám con đường nối liền trang hoàng thuần dạ lưu ly màu xanh. Và có hoa sen bằng vàng Diêm-phù-na-đa tự nhiên sinh ra trong phần lớn đất đai. Hoa lớn như bánh xe, hương sắc đẹp đẽ thơm lừng. Thế giới đó rộng rãi có đến sáu mươi bốn trăm ngàn ức châu. Trong mỗi một bốn châu có sáu mươi bốn trăm ngàn ức thành. Những thành lớn đó đều rộng ba mươi hai dũ-xà-na, đều có tường vách bằng bảy báu và có nhiều trăm ngàn ức chúng sinh ở. Mỗi một thành lớn có mười hai ngàn thôn, thành, phường, ấp vây quanh. Những thành lớn đó đều có năm trăm ngôi vườn để sử dụng với đủ những loại cây báu đầy hoa trái hương thơm vây quanh trang nghiêm. Trong mỗi khu vườn đều có ba mươi hai ao hoa, trong ao ấy đầy tràn nước tám công đức. Cát vàng trải khắp, lan can báu vây quanh xen lẫn những dạ lưu ly xanh và có hoa báu Ưu-ba-la, Bađầu-ma, Cứu-mâu-đà, Bôn-trà-lợi... sinh ra trong vườn ấy. Những loài chim như ngỗng, nhạn, giao thanh, khổng tước, uyên ương, ca-la-tần-già, mạng mạng ở trong những hoa Ưu-ba-la, Ba-đầu-ma, Cứu-mâu-đà, Bôn-trà-lợi đó đều cất tiếng hót.

Này Hỷ Vương! Nơi kiếp số ca-la, tam-ma-gia đó, Đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai có khu vườn tên là Ái kiến, là nơi Đức Thế Tôn cư ngụ. Đức vua cai trị xứ ấy tên là Hữu Nguyệt cùng nương tựa, ở chung với bảy mươi hai ức Thanh văn và tám mươi bốn ức Bồ-tát đều chẳng thoái chuyển.

Này Hỷ Vương! Nước Nguyệt vương cai trị, có bảy mươi hai ức chúng sinh ở. Trong các nơi đều có tám đường thông nhau.

Lại nữa, này Hỷ Vương! Nước Nguyệt vương cai trị, rộng sáu mươi bốn dũ-xà-na với bảy lớp tường vách, lan can bằng bảy báu, đủ các trụ cửa báu và cây Đa-la thẳng hàng đều mắc lưới gắn chuông nhỏ.

Lại nữa, này Hỷ Vương! Vào thời điểm ca-la, tam-ma-gia kiếp số đó, nước đó có Nguyệt vương cai trị, có vua tên là Bảo Nguyệt, làm chuyển luân tự tại, ở trong bốn ngàn châu, dùng pháp làm vương pháp.

Lại nữa, này Hỷ Vương! Vua Bảo Nguyệt đó với vua Hữu Nguyệt kia, chỗ cai trị đều tạo lập cung điện, nhà cửa bằng bảy báu đều rộng bốn dũxà-na với bảy lớp tường ngăn... cho đến giăng lưới gắn chuông bằng bảy báu vây quanh và lưới bằng ngọc ma-ni che bên trên. Trong cung điện nhà cửa đó, bốn phương có bốn ngôi vườn lớn, một tên là Tạp họa xa, hai tên là Thường khai hoa, ba tên là Hy kiến, bốn tên là Chánh hạnh lạc. Trong những vườn lớn đó có đủ loại cây sinh ra. Đó là cây báu, cây cho hoa, cây cho mùi thơm, cây cho quả, cây anh lạc, cây cho vải, cây âm nhạc, cây phú sa, cây nguyệt thượng, cây nhật thượng viêm. Trong các vườn lớn đó đều có bốn ao hoa lớn đầy ắp nước chiên-đàn-na với lan can báu giáp vòng, đáy ao trải cát vàng Diêm-phù-na-đa. Các hoa báu Ưu-ba-la, Ba-đầu-ma, Cứu-mâu-đà, Bôn-trà-lợi che bên trên ao ấy. Chim uyên ương hót vang.

Lại nữa, này Hỷ Vương! Vua Bảo Nguyệt đó có bốn mươi hai ngàn thể nữ đứng vào hàng các đồng nữ cõi trời. Trong số đó có một Thiên nữ lớn nhất tên là Hữu Phước. Nhan sắc người ấy sáng đẹp hơn hẳn các trời.

Lại nữa, này Hỷ Vương! Vua Bảo Nguyệt đó có mười hai ngàn người con, hình sắc thù thắng vi diệu, người nhìn thấy đều tin yêu, sắc tướng tối thượng thanh tịnh viên mãn, có hai mươi tám tướng đại trượng phu trang nghiêm khắp thân.

Này Hỷ Vương! Vua Bảo Nguyệt ra khỏi cung, đến trong vườn Ý Hỷ Kiến vui vẻ dạo chơi, từ nơi Thiên nữ bậc nhất tên là Hữu Phước, bỗng có một đứa trẻ hóa sinh trong tư thế kiết già, hình sắc thù thắng vi diệu, người nhìn thấy đều tin yêu, có đầy đủ hai mươi tám tướng Đại trượng phu. Đứa trẻ đó, lúc sinh ra liền nói như vầy: “Các hành vô thường, vô trụ không có dừng yên, điên đảo, nên hướng về pháp.”

Đứa trẻ đó lại nói kệ này:

Các hành vô thường không dừng yên
Không trụ, không bền nên hướng pháp
Phàm niệm nhỏ, đây là thường an
Vì dục buông lung không chánh niệm.
Người và chư Thiên theo “hữu dục”
Đều là vô thường, tận pháp thể
Với dục chưa từng có chán đủ
Không chắc khổ dục là gốc khổ.
Có Thế Tôn hiệu là Bảo Quang
Phật nói pháp vô cấu vô vi
Các căn luôn ở trong tịch tĩnh
Và Thánh lạc Bồ-đề vô lậu.
Nay nghe con trình lời này: Như
Lai ra đời khó gặp được Nên
cùng đi đến bên Thế Tôn Trời
hơn cả trời, hạnh sáng rõ.

Này Hỷ Vương! Bấy giờ, vua Bảo Nguyệt hướng về đồng tử kia nói kệ:

Ông là Trời, Rồng, Dạ-xoa, Thần
Đồng tử vì ta nói nghĩa ấy
Ông mới sinh, nói lời như vậy
Với Phật pháp nói lời khen ngợi.
Ông chết ở đâu, đến nơi này?
Ông tên là gì? Nói với ta!
Ánh sáng soi khắp trong vườn này
Oai đức thù thắng chiếu soi khắp.

Đồng tử đáp lại:

Có Đấng Trượng Phu ở phương Đông
Tên Đạo sư Tu-mê-lưu-tụ
Tôi chết ở đó đến nơi này
Vì muốn thấy Pháp vương Bảo Quang
Như vậy, Pháp Thượng là tên tôi
Tôi nay phát nguyện tu trí Phật
Ngài nếu muốn nghe Đấng Tối Tôn
Nên cùng đi đến bên Thiện Thệ.

Này Hỷ Vương! Bấy giờ, vua Bảo Nguyệt cùng với đồng tử Pháp Thượng và các thể nữ, các vương tử và rất nhiều người đều đi đến vườn Ái kiến, chỗ của Đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai Ứng Chánh Biến Tri. Đến rồi, nhà vua đảnh lễ dưới chân Đức Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lui về đứng một bên. Mọi người đi theo vua cũng đảnh lễ dưới chân Đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương rồi lui về đứng một bên. Đồng tử Pháp Thượng làm lễ dưới chân Đức Thế Tôn đó rồi, quỳ ở dưới chân mà nói lời như vầy: “Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai Tumê-lưu-tụ gởi lời hỏi thăm Đức Thế Tôn có được ít bệnh ít phiền não, đi đứng nhẹ nhàng, sức lực vận động thư thái chăng?” Đồng tử nói rồi, đứng trước Đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai và hướng về Đức Thế Tôn đó mà nói kệ:

Đấng Vô Thượng Tư Nghì Ứng Cúng
Tối Thắng diễn nói hạnh Vô tránh
Độ thoát chúng sinh nhiều không lường
Ngài ngự tại tòa, nay con lễ.
Làm Giáo chủ ba ngàn cõi này
Thế Tôn dùng Pháp bảo bố thí
Vì người giảng nói kho pháp báu
Phá vua Ma-la, quân La-sát.
Trong chúng như trăng soi khắp cùng
Nói đạo đi qua bờ giải thoát
Giảng dạy năm Lực và năm Căn
Ngũ nhãn Thiện Thệ, con nương tựa.
Bậc xa lìa hết các não phiền
Vua Chuyển luân ở trong cõi này
Trừ bỏ ba cấu giống như mắt
Mắt tịnh lìa cấu bẩn thế gian.
Ma-hầu-la-già, người, chúng sinh...
Không ai chẳng hướng về Thượng nhân
Tối Thắng không cao cũng không thấp
Con nay kính lễ các Thế Thân.
Được cùng chẳng được, hạnh bình đẳng
Các tướng hoa nở, tướng trăng rằm
Như hoa sen, chẳng nhiễm thế pháp
Thế Thân khiến cành ái tan rã.
Khéo điều phục tâm rất hoàn hảo
Bình đẳng Thí, giới, lòng không sân
Chúng sinh khó phục, đã điều phục
Thiện Thệ điều tâm, trăng sáng ngời.
Ngôn ngữ dịu dàng ý khéo thuận
Khi nói chấn động ba ngàn cõi
Trời, Rồng, Tu-la và loài người
Họ nghĩ đây là do con nói.
Đây là không, không tánh chúng sinh
Không có tướng, nguyện cũng xa lìa
Phật nói trong này, không nơi đi
Cũng không có đến, cũng không chết.
Pháp giới chẳng động, không trú xứ
Đời trước, đời sau chẳng đắm tham
Ở trong khoảng ấy như hư không
Phật nói pháp này, không nhớ nghĩ.
Thế Tôn thường nói đến thật tế
Trong các đời này chuyển mê loạn
Như mù, đầy phiền não, sân hận
Họ khởi ý niệm ngã và nhân.
Pháp này tợ như mây cùng huyễn
Điều mắt thấy chẳng động, rỗng không
Nếu có được nhẫn thắng diệu này
Người đó luôn theo lời thầy dạy.
Như vẽ đủ loại vào hư không
Không chỗ, không có một chỗ dừng
Như vậy tự nhiên biết chỗ trụ
Nên kia không có một chỗ dừng.
Khi nghe các tiếng không có thật
Cũng chẳng thể thấy không trú xứ
Hoặc nghe, hoặc nói cũng lại vậy
Bản tánh chúng chẳng động, rỗng không.
Pháp thắng giả, thể tướng cũng không
Sẽ thấy sự thị hiện như huyễn
Nếu thấy thể như, không phân biệt
Sẽ thấy Thiện Thệ cũng như vậy.
Cõi, chẳng cõi, đều cùng bình đẳng
Công đức của chư Phật bình đẳng
Các pháp bình đẳng, pháp tịch tĩnh
Các chúng sinh bằng không chúng sinh.
Bất tận mất hết ở trong tận
Bất tận mất hết không trong tận
Tận ấy chẳng tận, tận chẳng tận
Như vậy luôn thuận theo nhẫn này.
Phân biệt, phân biệt khởi phân biệt
Các pháp cũng không chỗ khởi lên
Nếu đã khởi thì thường chẳng khởi
Như vậy luôn thuận theo nhẫn này.
Thấy thấy thường, không thấy được thể
Hoặc thấy chẳng như, quán như thế
Hoặc thấy những pháp này rỗng không
Như vậy luôn thuận theo nhẫn này.
Chưa từng có thể biết đời trước
Tối thắng thật tế do chẳng biết
Nếu biết thông tế thường không tế
Thì tiền tế đó đoạn dứt theo.
Chẳng nương ở trong biên, vô biên
Bờ này, bờ kia thường chẳng trụ
Nếu trong ba cõi không trú xứ
Thì kia, trụ ở trong thật tế,
Nếu kia trụ ở trong thật tế
Thì trong ba cõi, không trú xứ
Nếu trong ba cõi không trú xứ
Thì kia thường trụ trong thật tế.
Nếu sắc tợ như chùm bọt nước
Biết thọ cũng như bọt nước nổi
Tưởng, niệm cũng giống như sóng nắng
Nếu biết thì trụ trong thật tế.
Các tụ là hữu vi, không bền
Nếu biết tợ như là cây chuối
Biết ý cùng huyễn kia tương đồng
Thì tụ tan đó đã tiêu diệt.
Nếu với Từ bi khéo tu hành
Không nương tựa ở mình và người
Tu niệm hạnh tối thượng thanh tịnh
Thì sẽ làm Phật như trời Tịnh.
Nếu lìa rộng khắp các não phiền
Thì kia chưa từng có thủ trước
Bỏ các sở hữu, không nắm giữ
Bố thí đó được Phật ngợi khen.
Nếu thân giống như trăng đáy nước
Biết lời nói ra như tiếng vang
Biết tâm như ánh chớp trong không
Giới kia thù thắng trong ba cõi.
Nếu Nhẫn điều xong đến bờ kia
Ý đó việc ngoài chẳng tổn hại
Biết rõ sáu căn như thôn vắng
Nhẫn đó được Thiện Thệ tán thán.
Nếu ưa thanh nhàn không sợ hãi
Đôi lần tu cảnh giới trí sáng
Thân tâm tịch tĩnh, hạnh ngay thẳng
Tấn đó thù thắng trong ba cõi.
Nếu người diệt bản tánh phiền não
Rỗng không phân biệt người tịch trí
Nếu tưởng chẳng chuyển trong ba cõi
Thì định kia Thiện Thệ ngợi khen.
Nếu biết trong này không có nhân
Thì với Thượng trí, kia được liền
Nên lìa hý luận mà tịch tĩnh
Trong ba cõi trí đó thù thắng.
Nếu ở trong “hữu” không mệt mỏi
Trong ức kiếp lúc tu khổ hạnh
Chưa từng ham thích thừa thấp nhỏ
Chúng Ma-la kia đều kinh hồn.
Con nói Tối Thắng, công đức trên
Như lấy giọt nước ở trong biển
Phật pháp rộng rãi không giới hạn
Chưa từng biết được bờ cõi đó.

Này Hỷ Vương! Bấy giờ, đồng tử Pháp Thượng ở trước Đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai, nói bài kệ này thì khắp tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, trăm ngàn ức âm nhạc đồng thời tấu lên và mưa xuống các hương thơm, vòng hoa, hương xoa, hương bột. Tám ngàn vị Bồtát đều sinh ra nhẫn ở trong pháp Vô sinh. Vua Bảo Nguyệt cùng các thể nữ, các đồng tử với đại chúng đó đều phát tâm Vô thượng Chánh giác.

Này Hỷ Vương! Bấy giờ, đồng tử Pháp Thượng hướng về Đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai bạch như vầy: “Bạch Thế Tôn! Những Tam-ma-địa nào khiến cho Đại Bồtát sẽ được thọ trì các pháp? Sẽ được hộ trì cõi Phật công đức trang nghiêm? Sẽ được đủ đầy chúng Thanh văn, Bồ-tát? Sẽ được của cải, vật dụng vô thượng? Sẽ được vượt qua các Ma-la, các phiền não ác? Sẽ được đủ đầy chánh niệm, chánh ý, chánh thú, tàm quý, đạt được trí tuệ? Sẽ được tu tập theo các điều đã nghe? Sẽ được đủ đầy năm phép thần thông thắng trí? Sẽ được không chấp trước, ưa nói Tổng trì? Sẽ được đủ đầy biện tài? Sẽ được đủ đầy sáu pháp Ba-la-mật? Sẽ được đủ đầy sinh vào gia đình dòng họ hình sắc đẹp đẽ? Sẽ được vừa lòng với tiếng nói và việc làm? Sẽ được đủ đầy các công đức? Sẽ được giỏi biết vào, ra các định giải thoát Tam-ma-địa? Sẽ được đủ đầy các trí công đức, chưa được trí rộng lớn mà luôn làm Phật sự vì chúng sinh?” Đồng tử ở trước Đức Phật ấy nói như vậy xong, Đức Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai hướng về đồng tử Pháp Thượng bảo: “Này Đồng tử! Hãy lắng nghe! Lắng nghe! Khéo suy nghĩ kỹ! Ta sẽ vì ngươi diễn nói! Nếu đầy đủ Tam-ma-địa thì Đại Bồ-tát sẽ được những điều này và vô lượng vô số chẳng thể lường công đức thù thắng khác nữa, cũng sẽ mau chóng hướng về đạo tràng Bồ-đề. Này Đồng tử! Có Tam-ma-địa tên là Quyết định quan sát chư pháp hạnh. Nếu được Tam-ma-địa này rồi, Đại Bồ-tát vượt qua các cảnh giới ma, sẽ mau chóng chứng giác đạo Vô thượng Chánh giác”. Đức Như Lai lại vì đồng tử kia dùng lời kệ giảng rộng Tam-ma-địa này:

Như lời nói mà làm
Làm rồi chẳng nói dối
Thân, miệng, ý sạch trong
Có tâm Từ ích lợi.
Với Bi chẳng quên mất
Và chán các tham dục
Vì pháp luôn vui cầu
Thệ trí cũng chẳng bỏ.
Khéo léo trong ngôn từ
Nhập vào trí chúng sinh
Chẳng tiếc với nghiệp thân
Trong thân chẳng tham muốn.
Phải lìa lời thô ác
Với lòng chẳng hý luận
Cứu giúp khổ chúng sinh
Giác ngộ kẻ buông lung.
Người siêng dạy tương ưng
Kẻ hối khiến ra khỏi
Chẳng trụ tưởng chúng sinh
(Bản Phạm văn thiếu một câu).
Tưởng việc chẳng phân biệt
Xa lìa khỏi chấp thủ
Các tướng cũng sẽ diệt
Chẳng động trong thọ nhận.
Thường phải cầu trí tuệ
Xa lìa lời thế gian
Phải cầu được xuất thế
Chánh niệm chẳng quên mất.
Thuận niệm với các pháp
Như vậy sẽ khéo léo
Việc làm, làm đầy đủ
Và thuận hạnh thế gian.
Nên phải tin nghiệp báo
Xa lìa lòng chẳng tin
Nên phải tin chư Phật
Nên nhớ nghĩ thuận theo.
Thường nên nói tội lỗi
Phước tụ phải tùy hỷ
Và thỉnh cầu chư Phật
Lễ bái, lại hồi hướng.
Thường hàng phục kiêu mạn
Làm thiện không nhàm chán
Cũng thường siêng tương ứng
Luôn làm chớ bỏ buông.
Thành tựu hạnh tu chính
Phải biết nhân tạo tác
Chớ theo danh. biện bày
Bị trách chớ nổi sân.
Chớ chấp trước ngôn ngữ
Chớ nghĩ đây thật chân
Chẳng cầu trụ Dục giới
Chủng tánh Sắc, Vô sắc.
Như nghiệp đã chịu báo
Quả đó phải nên tin
Phân chia vật cần dùng
Dạy bảo chẳng chê bai.
Bình đẳng với chúng sinh
Một người cũng chẳng hại
Siêng, lười đều chẳng sân
Không ghét người chứng đắc.
Tâm luôn đầy mong ước
Như pháp hộ thệ nguyện
Với giới không xa lìa
Kiêu mạn phải trừ diệt.
Chuyển đổi lỗi hận sân
Ngu si cũng bứng đứt
Tham dục chẳng dấy khởi
Theo được liền biết đủ.
Lìa bỏ các thân quen
Không lợi chẳng tự ti
Được lợi chẳng tự cao
Chỉ mừng được pháp lợi.
Thường làm hạnh bình đẳng
Phải lìa khỏi tích trữ
Nghe được lời nói ác
Nhẫn nhục mà nghe nhận.
Thường hộ trì ngữ ngôn
Phải nói Bồ-đề thừa
Thường khuyên như siêng năng
Người tinh cần kề cận.
Luôn thưa hỏi bậc trí
Tăng tu kỹ chánh định
Chớ bỏ nơi thanh nhàn
Trụ Đầu-đà, ít muốn.
Nên tin hiểu về không
Với việc không đắm trước
Chẳng nương ở xóm làng
Chẳng tham dục các cõi.
Bên trong chẳng chấp ta
Chẳng đắm trước cảnh giới
Diệt các ý đảo điên
Với tâm luôn gìn giữ.
Nên phát sinh trí tuệ
Thường hành nghiệp chân chánh
Tâm ấy chẳng khiếp hèn
Nghĩ ruộng phước thanh tịnh.
Các hành phải bỏ buông
Thí rồi không cầu mong
Cũng chẳng nghĩ trì giới
Với Nhẫn không phân biệt.
Chẳng phát khởi tinh tấn
Cũng chẳng nương trong định
Chẳng quên mất các pháp
Trí tuệ nên thông đạt.
Nên nhập vào các Ba-la-mật
Trong công đức mình, chưa từng nghĩ,
Nghe công đức người chẳng giận ghét
Hữu vi, vô vi tâm bình đẳng.
Lúc nào cũng vin vào Niết-bàn
Với Hữu vi thường phải xa lìa
Giải thoát yên ổn luôn luôn biết
Trong xóm tưởng như kẻ sát nhân.
Với chỗ Niết-bàn thường ưa thích
Luôn luôn trụ ở trong hòa nhẫn
Mặt vui không làm vẻ nhăn nhó
Gặp người khác trước phải hỏi han.
Với bậc tôn túc luôn kính trọng
Và tâm trí tuệ khéo nối liền
Với người khác chưa từng trách phạt
Nếu có đấu tranh khiến lặng yên.
Với chỗ tịch tĩnh thường khen ngợi
Thường dạy. chúng sinh luôn hòa hợp
Yêu ghét trong lòng thường bình đẳng
Thường phải cầu đến Tổng trì môn.
Như mẹ yêu thương các chúng sinh
Như cha yêu thương các thánh nhân
Yêu thương tôn trọng như thân cận
Yêu Bồ-tát như Phật Thế Tôn,
Yêu pháp cũng như yêu tự thân
Và cầu điều nghe không nhàm chán
Đã nghe pháp xong tu chân chánh
Với Như Lai cũng thường cúng dường.
Nên tin hiểu đối pháp thù thắng
Không tâm khiếp nhược, không biếng nhác
Với Tam bảo luôn phải cúng dường
Thường phải nhịn chịu lời bất chánh.
Thường chẳng luyến tiếc với tự thân
Cũng lại chẳng tham tiếc tuổi thọ
Sống đời thanh tịnh, thường khất thực
Chẳng bỏ Đầu-đà, theo thứ lớp.
Chưa từng lìa chỗ ở thanh vắng
Xa, xa nữa, phải bỏ đồ chúng
Chớ ưa ở chung với tại gia
Với người xuất gia chớ quấy nhiễu.
Chớ yêu, dối trá, nói lời lành
Giáo hóa nhiều người vào Phật trí
Khi nói pháp, lòng không khiếp hèn
Phương tiện khéo quán sát người khác.
Trong tâm luôn luôn nghĩ đến Phật
Và thường nghĩ pháp chẳng buông lung
Cũng ở chỗ Tăng luôn tôn trọng
Và thường cúng dường cho người trí,
Cũng thường gần trí phương tiện khéo
Thường không tranh cãi với người định
Với kẻ tinh cần giúp tâm tốt
Cũng niệm tu pháp tin việc phước.
Giáo hóa chúng sinh khiến làm lành
Người tin phải yêu, lòng ngay thẳng
Nếu chạm việc khổ hay khai mở
Thường nương đúng thời, bỏ phi thời.
Thường nên biết sợ và hổ thẹn
Trong tội ác đó sinh xấu hổ
Các hạnh bất chánh nên xa lìa
Gặp người chánh hạnh, luôn thân cận.
Vì giải thoát, nên giữ gìn giới
Cũng lại phải cầu đến hạnh Thánh
Luôn nghĩ tu hành bốn Niệm xứ
Cũng thường thân cận bốn Chánh đoạn.
Và bốn Như ý túc sẽ thành
Với các căn cũng sẽ phát sinh
Nên phải cầu lực cũng như định
Với bảy Giác phần luôn quán sát.
Thường phải tu hành tám Phần đạo
Xa-ma-tha cũng cầu tích chứa
Tỳ-bát-xá-na luôn sinh Đế
Tâm đã tùy hỷ mà quán sát.
Trong pháp hoan hỷ lại sinh hỷ
Cũng vượt qua vướng mắc các duyên
Nghe không trú xứ chẳng kinh sợ
Chỗ chẳng thể được, chớ buông lung.
Thường phải cầu mong hạnh Bồ-đề.
Hạnh Phật sẽ làm, tin, khen ngợi
Nên phải chán bỏ hạnh cảnh giới
Cũng phải bỏ những hạnh trước làm.
Nghiệp mình tịnh, không nói người khác
Luật hạnh chẳng phá, luôn tuân giữ
Giỏi học cấm giới biệt giải thoát
Bỏ phi thời, nương thời thực hành.
Khéo léo suy xét nên đi, đến
Vật tốt biết lường tự cấm dừng
Và ở dòng Thánh đều biết đủ
Cũng lại cầu vào Thắng trí thông.
Trong Tam-ma-địa phải vin giữ
Và với định hạnh, biết vào trong
Nên biết lòng chúng sinh ưa muốn
Theo đúng lời nói thầy dẫn đường.
Cũng nên thông đạt thuyết vô ngã
Nếu kẻ siêng năng khiến vui mừng
Niệm tu hành như thể Tối thắng
Tam-ma-địa này phải niệm luôn.
Nghe đã tin Thanh văn chánh hạnh
Đạo Duyên giác phải học, thuận theo
Chủng tánh chư Phật phá ma đạo
Tam-ma-địa này phải cầu luôn.
Phát khởi Thắng giác do bố thí
Người chẳng thoái chuyển hạnh Thế Tôn
Nhiều ức kiếp tu hạnh bậc trí
Chính biển nghe là pháp hành xứ.
Trong cảnh giới này, tôn trọng pháp
Nếu tin hiểu là tài sản thật
Thị hiện, trú xứ của Phật này
Ở pháp tạng này cầu châu báu,
Ở trong ruộng này cầu quả đó
Lửa phiền não ở trong vườn vui
Ưa trì pháp, đây là vườn tược
Là người thích thấy Tam-ma-địa.
Cầu pháp thanh tịnh, mẹ này sinh
Người muốn được, không nên nương tựa
Các tướng thắng diệu sẽ buộc lấy
Các tướng đẹp đẽ cũng hiện lên.
An trụ trong đất nước trang nghiêm
Lại cũng được nghe và giữ gìn
Sinh ra đủ loại, được giác ngộ
Lời thanh tịnh, tiếng nói thật chân.
Cũng vượt qua được cảnh giới ma
Bao gồm tất cả, mặc giáp đồng
Giết hại phiền não, nương điều phục
Đây cũng phá tan điều chẳng lành.
Muốn cho các thiện được hưng thịnh
Muốn được cầu nguyện làm trang nghiêm
Nhiều chúng mà ma chẳng phá được
Đây, lúc nói cũng không tận cùng.
Mong cầu cùng thế gian bình đẳng
Luận sư ngoại đạo nói chẳng thật
Đây vượt qua khỏi pháp Thanh văn
Bậc Độc giác thắng, đây là duyên
Trí Nhất thiết trí, đây gìn giữ
Cõi chúng sinh đây cũng an trụ
Đây là chân thật giáo hóa người
Trong lúc lựa chọn lời, bạn lành
Bậc căn thanh tịnh là Thiên nhãn
Và với Pháp nhãn muốn cầu tìm.
Cầu người nói pháp đây thắp đuốc
Cầu lời thệ nguyện, đây thành thật
Cầu người tài thí, đây là xả
Cầu giải thoát chấp, đây siêng năng,
Cầu người vui định, đây niềm tin
Muốn nghe biển pháp, đây chánh hạnh
Cầu mê lưu định, đây là lực
Muốn cầu đạo pháp, đều bình đẳng.
Vì muốn sự trang nghiêm vi diệu
Tự tâm điều phục, đó là Phạm
Phương tiện cầu pháp, đây tâm hỷ
Và bất thoái chuyển, đây hành hóa.
Đây là nẻo đến hạnh nói năng
Thường nghĩ người trí tuệ lợi căn
Đây là phương tiện nghiệp bắt đầu
Trượng phu trâu chúa, đó cờ trí.
Muốn cầu thù thắng, bằng cung tên
Cầu vô ngã là na-la-dạ
Nếu hướng trí tuệ, đây là đường
Cầu giải thoát là giới bình đẳng.
Đây là chỗ trời... lễ bái luôn
Đây là chỗ rồng thường tung hoa
Và cả loài người đều cúng dường
Dạ-xoa khen ngợi: Thật hiếm có!
Hàng trăm La-hán cũng đảnh lễ
Bồ-đề Thắng Thiên cũng khen ngợi
Nếu tự nhớ nghĩ chư Như Lai
Muốn hộ căn, đó là thành quách.
Trụ như pháp là hợp phương tiện
Nương tựa Định, đó được bình đẳng
Các nghi ngờ thì khiến tan rã
Có mê hoặc thì khiến đoạn trừ.
Ngã mạn phiền não khiến diệt tan
Muốn qua bờ kia, khiến vượt qua
Bệnh ràng buộc, đây là thuốc lành
Người có bệnh, đây là trị thật.
Nhổ bật lên tên độc phiền não
Muốn hợp lý là tạo suy nghĩ
Trong chúng, sư tử gầm không sợ
Ở chỗ Thiện Thệ cầu nghe pháp.
Và đường này thường là Niết-bàn
Đoạn trừ tất cả các đường ác
Ở chỗ ba cõi đều vượt lên
Cầu cõi công đức, đây trang nghiêm.
Ví định Kim cang đây với đó
Sinh tòa Sư tử lần sau cùng
Việc cầu phước đức, đây chẳng mất
Các việc muốn cầu, đây bao gồm.
Thường mệt mỏi thì khiến ngưỡng mong
Chưa có tinh tấn, đây phát khởi
Nương cậy duyên thì khiến yên ổn
Việc làm khác biệt, che khiến trụ.
Có thể bình đẳng, đây thành tựu
Nương vật kiêu, buông lung, trừ hết
Lấy vật ngang ngược, đây buông bỏ
Biết hết các thứ, trí khắp cùng.
Cầu trí tuệ thì đây phát sinh
Lập hội cầu phước đây chẳng mất
Nương ba hữu thì dứt thệ nguyện
Thường không có tướng cầu Bồ-đề.
Ba đời các pháp không
Biết rồi mà chẳng xả
Trí phương tiện mọi lúc
Làm vì các thế gian.
Mong cầu chủng tánh Phật
Trí Phật là từ đó
Chớ tìm cầu lỗi lầm
Ở người nói pháp đó.
Cũng lại chớ khi khinh
Chưa học, chưa thấy biết
Người nói pháp, chớ sân
Phải ở gần tôn trọng.
Nghe thật phải biết thật
Chớ huỷ báng bậc trí
Thí pháp, chớ mong vật
Nói pháp chớ lẫn tiếc.
Nghe pháp và tôn trọng
Tâm ý chớ tán loạn
Vì nói pháp hết lòng
Nếu thấy người ưa muốn.
Giảng pháp chớ gián đoạn
Chớ duyên vào việc khác
Kham nhẫn lời hỏi thẳng
Hoặc hỏi vì giải thoát.
Hoặc kẻ có ác tâm
Với họ, nên nhẫn nhục
Hối hận và nghi hoặc
Nên đoạn dứt vì họ.
Nếu thấy chưa được đạo
Đem đạo vì tuyên dương
Khi tư duy định này
Dễ được trí Thế Tôn.
Các việc làm, cúng dường
Ở bên người nói pháp
Cầu tám phần thắng đạo
Chớ duyên theo việc khác.
Nếu tâm ác cạnh tranh
Khó phục khiến phục hàng
Không nương Thần túc đó
Nên cầu mong Thần túc.
Niệm tuệ và hành xứ
Vì những người cầu pháp
Phát khởi đều nói rằng:
Nếu muốn hành Bồ-đề
Thị hiện ức chư Phật
Đều trụ trong cõi đó.
Nói hóa độ chúng sinh
Nếu người thuyết pháp nói
Vị này là rất ngon
Nếu kia tu thanh tịnh
Cầu thần thông tự tại
Mà gầm tiếng sư tử.
Hạnh những trí giả đó
Ngợi khen hạnh tịch diệt
Trừ nóng có mát mẻ
Đây là câu “bất đọa”.
Nói lợi ích mở trói
Hỷ lạc phát ở thân
Lòng ấy cũng vui mừng
Người trí, trí tự tại.
Kia cầu trí khắp cùng
Tin vào những pháp đó
Trụ Phật trí chẳng thoái
Quyết định vì Bồ-đề.
Thuận huân tập pháp lành
Các ác đều bỏ đi
Trừ sạch các pháp ác
Pháp lành liền tự đến.
Những người học giới kia
Nếu muốn cầu phước đức
Những người đó được thành
Nếu cầu thì tương ưng
Những người đó đạt được
Tướng đoan nghiêm trong thân.
Hạnh này Phật thuận biết
Thân cận các Thánh xong
Trí sáng soi trong trí
Được trí Phật sáng khắp.
Trụ đây rồi sẽ thấy
Ức ức bậc đoan nghiêm
Trong này, đại lực đó
Hỏi nghi nơi bậc trí.
Đoạn trừ các nghi ấy
Các hoặc đều diệt tan
Trong này sinh Phật pháp
Bậc Thù Thắng ngợi khen.
Lìa bỏ các đời ác
Và phiền não nhiễm ô
Chẳng mất các phước đức
Với phước nếu cầu mong.
Thì họ nương kẻ trí
Thích pháp là tột cùng
Và vui mừng pháp nhãn
Thân gần người dũng kiện.
Biện luận pháp trôi chảy
Muốn cầu ngữ ngôn khéo
Đã nói kia hộ trì
Nếu có người nói pháp
Và biết các nhân duyên
Ưa gặp người nương cậy.
Trong các pháp ứng hợp
Hòa hợp chẳng hòa hợp
Thể trí, phần phương tiện
Nói đến các pháp xong.
Như vậy hiện các pháp
Trí tư duy chân thật
Ở trong đoạn lưới khát
Phải bỏ các tham đắm
Vô minh ở trong tan
Sẽ được sáng hiện tiền
Biết rõ khắp ở trong
Chỗ đó nói vô chấp.
Biết đủ loại tâm, ý
Ở đây giảng rộng xong
Hiểu rõ cùng danh Những
pháp đã giảng nói. Chỗ
sáu căn quan sát
Như thấy làng trống không
Với xúc biết bên ngoài
Sẽ được thấy trí Phật
Nếu lìa ba ngôn ngữ
Thì họ chấp ở trong
Và diệt ba ái nhiễm
Thì họ nói ở trong
Nói xả bỏ ở trong
Nếu ở chỗ sinh ra
Với hữu họ đoạn tan
Ở trong định này nói
Dứt hẳn sinh bệnh tật
Và lìa tên độc chết
Các khổ đều vắng lặng
Thì các dòng phân biệt
Các lo khiến vui mừng
Ý ác khiến giải tán
Thành phương tiện sạch trong
Nếu người hành pháp đó
Đầy đủ sự xét xem
Nếu mong cầu thù thắng
Tạo sáng trong ác sân
Nếu có con mắt mê
Trong này sấm Phật vang
Khi chuyển bánh xe pháp
Hạnh mạnh, đây xưng dương
Nếu trí thế gian đó
Trong này trừ tan hết
Nếu não phiền ô nhiễm
Trong này trừ các kiến
Nếu nương tựa vào ngã
Nhận lấy và giữ gìn
Trong này đều đã nói
Chẳng lẫn trong trí Phật
Như vậy được thù thắng
Các pháp luôn tăng trưởng
Đây là đạo trí khéo
Luôn chứa nhóm pháp thiện
Xa lìa các nghiệp ác.
Siêng tu niệm pháp Phật
Giảng nói không lẫn tiếc
Chẳng đoạn chủng tánh Phật
Phải trụ ở trong đó
Chủng tánh pháp sáng lên
Thánh chúng đều hộ trì.
Thu phục các luận sư
Ngoại đạo muốn khởi dậy
Nói pháp khen: Lành thay
Họ đều sẽ khen ngợi
Thường tu hạnh Bồ-đề
Ở đó không tâm niệm.
Các chúng sinh như trăng
Thường tạo ý bằng hữu
Các pháp, như mặt trời
Luôn giữ suy nghĩ đúng
Luôn tưởng khởi đến thầy
Tư duy trong định ấy.
Định này giống như vua
Vì chúng sinh nói rõ
Vì người trí dẫn đường
Tâm tin kính pháp lành
Quả cam lộ chín muồi
Đời trước khiến niệm trụ
Thọ thai, không nhiễm bẩn
Nhàm chán pháp ngu si
Công đức Phật đại Tiên
Khi khen không bờ bến
Khi trì trí tuệ Phật
Khi pháp nói Thiện Thệ
Và trí khi chép thành
Khi nói sẽ được phước.
Xa lìa các ngoại đạo
Đây là chỗ bất động.
Lời nói ở thế gian
Lời nói của chư Phật
Công đức Phật quá khứ
Ở đời sau cầu mong
Hiện tại chư Phật trụ
Đây là các kho báu.
Khiến chúng sinh vào hạnh
Vì nói thừa Thanh văn
Với trí chẳng quên mất
Đây là Ấn Phật pháp
Đây phát ra mạnh mẽ
Đây, báu không biến đổi
Và các trí mau thành
Muốn hỏi công đức Phật
Ham pháp không chán nhàm
Tan các lửa phiền não
Trí phương tiện sẽ thành
Tư duy về địa giới
Thủy giới sẽ vào trong
Vào với định Hỏa giới
Phong giới, không trú xứ
Không giới chẳng mê hoặc
Trong giới trí hiện lên
Khiến vào với Pháp giới
Chán lìa khỏi các hành
Khiến tan các ái nhiễm
Lánh xa các biển “hữu”
Trừ diệt các hoạn nạn
Khiến xả bỏ các pháp
Tự phân biệt biết rõ
Hạnh khác cũng biết rành
Muốn nói không cùng tận.
Trong phương tiện sạch trong
Chỗ ra sẽ thuận biết
Ngã kiến nên lìa bỏ
Cũng xa lìa ngã sở
Nhiễm trước phải trừ tan
Kiêu mạn nên điều phục
Như chó đi vì ăn
Không tham trong bố thí
Đã ăn nên no tràn
Ăn rồi biết an vui
Tại ấm không thiếu được
Nước lớn phải qua nhanh
Các luận chẳng thể phá
Ngay thẳng không vin duyên
Xa lìa khỏi thụy miên
Thân cận người nói pháp
Trạo hý vượt qua liền
Cũng nên diệt nghi hoặc
Và các dục khiến tan
Cũng lìa xa lười nhác
Chỗ ngã chẳng chấp giữ
Vô ngã khiến hiển bày
Chẳng trụ chấp nơi mạng
Cũng chẳng nên giữ pháp
Chẳng đấu tranh trong pháp
Nói nghĩa hợp bình đẳng
Dùng tâm khéo suy nghĩ
Các hành không thật có
Phải gần gũi người trí
Các nơi, không khiếp nhược.
Trong đó phải tin hiểu
Trong chúng chớ kinh sợ.
Nói công đức người khác
Chớ tự đề cao mình
Chỗ hành xứ Biến trí
Luôn luôn cần thực hành
Không chấp trước trú xứ
Như chim bay mất tăm.
Chớ làm vì lợi dưỡng
Cũng chẳng chấp thân mình
Tâm cũng chẳng giảm kém
Khéo biết chỗ kinh hành
Phải thuận theo tu niệm
Chớ nghĩ, chớ nhớ mong
Cũng sẽ cầu giải thoát
Luôn ở chỗ lặng yên.
Thường tu niệm phạm hạnh
Với định sẽ được nhanh.
Từ ở lòng bình đẳng
Bi là bao gồm khắp
Dùng Hỷ làm pháp lạc
Chỗ Xả phải bỏ luôn
Dùng Giới thương người khác
Do định sẽ hiểu pháp
Do trí làm nên làm
Về sau không hối hận.
Phát ra trí vô tận
Cũng nên lời khéo léo
Nói ngã vào ngữ ngôn
Chỗ nói không cầu lợi
Không ưa lời tạp nhiễm
Là trụ không mệt thiếu
Chẳng bỏ chẳng lấy thêm
Các pháp là Bồ-tát
Chớ hủy hoại các pháp
Như vậy nói minh hiển
Chẳng lừa dối chúng sinh
Phải quy y Tam bảo
Bao gồm hết chánh pháp
Tạo nguyện phải bền chắc
Với Tiểu thừa không ham
Ngày đêm nên siêng năng.
Vì cầu các pháp nên
Biến trí từ đó lại
Đây kho tàng chư Phật
Tam-ma-địa như biển.

Này Hỷ Vương! Bấy giờ, Đức Bảo Quang Uy Luân Vương Như Lai vì đồng tử Pháp Thượng, dùng kệ tụng, giảng nói rộng rãi Tam-muội Chư pháp hạnh quyết định quan sát thuyết này. Khi Đức Như Lai nói Tam-ma-địa này, vua Bảo Nguyệt và các con, quyến thuộc đạt được sự không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh giác, một ngàn chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh giác, học địa của vô lượng chúng sinh tăng trưởng.

Này Hỷ Vương! Ý ông thế nào? Về thuở đó, đồng tử Pháp Thượng là ai khác ư? Ông chớ có thấy khác như vậy? Vì sao? Này thiện gia tử, vì vào thuở ấy, ông tên là đồng tử Pháp Thượng đó. Này thiện gia tử, Thuở đó vua tên là Bảo Nguyệt thì nay là Đại Bồ-tát Từ Thị đó. Còn các con của vua đó tức là chúng Đại Bồ-tát ngồi trong hội này đó.

Này Hỷ Vương! Bấy giờ Đại Bồ-tát Pháp Thượng cùng với cha, mẹ, tôn trưởng và bạn bè tri thức, đầy đủ ba mươi sáu ngàn ức chúng sinh cùng ở trong giáo pháp của Đức Như Lai Thế Tôn Bảo Quang Uy Luân Vương mà bỏ nhà xuất gia. Này Hỷ Vương! Họ yêu thích giáo pháp của Đức Thế Tôn đó, làm Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-ba-bà-ca, Ưu-bà-tư-ca rất nhiều.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn đã nói cho họ biết ý nghĩa này rồi, lại muốn hiển minh thêm nữa nên liền nói kệ:

Ta nhớ thuở xưa nhiều ức kiếp
Có Đấng Tối Thắng hiệu Bảo Quang
Phật có Tăng chúng cũng nhiều lắm
Và các Bồ-tát lậu tận xong.
Cõi Phật đó thanh tịnh đáng ưa
Trang nghiêm tự nhiên như cung Trời
Trang hoàng, vườn, xóm làng, thành ấp
Bằng hoa trải bằng như bàn tay.
Trong đó có vua tên Bảo Nguyệt
Vua tự tại với hàng ngàn châu
Là bậc trí phước tuệ đầy đủ
Nhiều thần túc, vô biên kho tàng
Vua ở vườn rừng vui dạo chơi
Hoàng hậu mang thai, sinh đồng tử
Tên là Pháp Thượng đáng chiêm ngưỡng
Tướng tốt rực sắc vàng, thù thắng.
Vừa sinh liền nói lời vi diệu
Nói về pháp Phật mà ngợi khen
Nói tại gia ác, đức tịch tĩnh
Các tội lỗi dục cũng nói lên
Hóa độ mẹ cha và thân thuộc
Trí giả nghĩ khiến tin thanh tịnh
Nhà vua đó rất đỗi vui mừng
Hướng về bên Tối thắng Đại Tiên.
Đồng tử chẳng lại vào trong cung
Liền cùng cha mình ở trong vườn
Cùng với thân thuộc và đại chúng
Ba mươi sáu ức bên Thế Tôn
Vua Đại Tượng đó đã đi đến
Thấy Phật Bảo Quang Pháp Vương rồi
Lòng thêm hớn hở, thêm kính yêu
Lễ dưới chân rồi ngồi một bên
Pháp Thượng cũng lễ chân Tối Thắng
Rồi chắp tay mà hầu Thế Tôn
Đã kính trọng Phật đó như vậy
Đồng tử ca tụng bằng kệ khen
Với Tối thắng, ông nhiều khen ngợi
Pháp thể thật đức, thầy dẫn đường
Vua và các con cùng đồ chúng
Duyên theo Bồ-đề mà phát tâm
Pháp Thượng thưa hỏi với Đức Phật
Nói định này, Tịch tĩnh ly trần;
Mạnh mẽ trụ Tam-ma-địa ấy
Chứng đắc Bồ-đề, ma phục hàng.
Đấng Lưỡng Túc Tôn nhận lời thỉnh
Biết tâm đồng tử tin thanh tịnh
Liền vì ông nói định khó thấy
Và dùng kệ khen uy đức lớn
Phật đó nói Tam-ma-địa này
Chư Phật Bồ-đề lìa trần cấu
Vua và các con cùng thần dân
Liền trụ Phật trí chẳng thoái chuyển.
Phần nhiều đều trụ học, vô học
Đã nghe định tịch tĩnh như vậy
Lại còn nhiều ức chúng sinh khác
Duyên với Bồ-đề mà phát tâm
Vua và các con cùng đồ chúng
Đều khiến lìa, nhàm phước ngũ dục
Lúc đó đồng tử là đứng đầu
Ở đây bỏ nhà liền xuất gia
Rất đỗi yêu thích lời thầy dạy
Khắp nơi đầy người và chư Thiên
Đồ chúng Thiện Thệ đó nhiều lắm
Ở trong, chẳng dễ biết số lượng
Hỷ Vương! Ông ở thuở xưa đó
Chính tên là đồng tử Pháp Thượng!
Người ở trong đó làm phụ vương
Nay là Bồ-tát Từ Thị đó!
Các vương tử con vua lúc đó
Tức là các chúng hội ngồi đây!
Chúng sinh tại cõi tương tục này
Biết rồi khiến tu hạnh thanh tịnh
Vậy nên, đã nghe định tịch tĩnh
Nên phải giữ lấy, luôn tin tưởng
Thường vì người nói không lẫn tiếc
Sẽ có Phật trí chẳng khó khăn
Số lượng phước đó chẳng dễ được
Thời gian nói, nhiều kiếp không lường
Nếu gìn giữ định Thắng thượng này
Vì chúng giảng nói chớ buông lung.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Hỷ Vương bạch Đức Phật: –Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn! Tam-ma-địa này tạo ra nhiều lợi ích, mới có thể cho các Bồ-tát các công đức pháp, khiến cho các vị ấy chuyển sinh. Bạch Thế Tôn! Bồ-tát được Tam-ma-địa này thì nên phải thân cận, nên phải tu niệm, nên phải làm nhiều những pháp gì? Nên chẳng thân cận, nên chẳng tu niệm, nên chẳng làm nhiều những pháp nào? Rất hay! Bạch Thế Tôn! Có những pháp nào?

Không có những pháp nào? Bạch Thế Tôn! Xin nguyện vì con giảng nói! Thưa Đấng Tu-ca-đa! Xin nguyện vì con phân biệt! Bồ-tát pháp nào có?

Pháp nào không?

Đức Phật nói:

–Này Hỷ Vương! Bồ-tát đối với lưu chuyển, không có mỏi mệt. Bồ-tát đối với chúng sinh, không có sai biệt. Bồ-tát đối với của cải, không có giữ lấy. Bồ-tát đối với thí luôn luôn bình đẳng. Bồtát đối với sự học thường kính trọng, trì giới không có chỗ sinh, tâm không phiền não, không khiếp nhược, không hiểu theo tà, không chẳng suy nghĩ mà có chứng đắc. Bồ-tát đối với chúng sinh không có giết hại, đối với của cải người không có trộm cắp, đối với vợ người không có tham ái, không nói nghiệp ác, không lời phá hoại, không có ác khẩu, không có nói thêu dệt, chẳng tham của người khác, không theo sân hận, không có rừng kiến chấp, không vượt qua ưa thích Bồ-đề, chẳng hủy báng pháp, chẳng khinh thường Tăng, đối với những bậc đáng tôn không ai chẳng kính trọng, đối với cửa giải thoát không có kinh sợ, đối với việc làm người khác không có mệt mỏi, chẳng tự ngợi khen, chẳng chê bai kẻ khác, trong hành động lưu chuyển không có tùy thuận, trong hành động phi lưu chuyển không gì chẳng thuận theo, đã phát lời thề thì nhất định chẳng thay đổi, đối với việc đã làm nhất định chẳng hủy bỏ, việc làm của người khác thì biết ân, việc làm của mình thì không mong cầu, đối với người không thế lực không có khinh khi, đối với người chưa học không có khinh chê, chẳng lưu luyến vợ con, không có yêu ghét, đối với giáo sư không có bí mật riêng, trong pháp làm thầy không có giấu giếm, đối với các pháp không có tư tưởng phá hại, đối với pháp thí không có mệt mỏi, đối với cầu pháp không có lười chán, chẳng do lợi ràng buộc mà có điều giảng nói, chẳng do bố thí mà làm bạn bè, chẳng dua nịnh, không có hai lưỡi, chẳng vì huyễn hoặc mà gần gũi phụng sự, chẳng ghét đối với pháp, không ngã, ngã sở, chẳng luyến tiếc đối với thân, chẳng ưa thích đối với mạng, không có ngã kiến, không có tạo oán, đối với thật, chẳng thật không có hủy báng, đối với pháp không sân mới giác ngộ, chẳng phải thích trẻ nhỏ, chẳng phụ bạn bè, đối với chỗ gần gũi cận kề không có dối lừa, đối với thật và chẳng thật chẳng phạm nâng lên, thả xuống, chẳng làm lừa dối; chẳng điều khiển phi thời, đối với chúng sinh khác không có tư tưởng cạnh tranh, đối với mọi việc không có giải đãi, chẳng tổn đến nhẫn, chẳng đáp lại lời ác, chẳng ràng buộc với oán, chẳng khinh thấp hèn, theo tiếng nói đùa không có hâm mộ, đối với siêng năng chẳng xả, đối với ăn uống không được chẳng phân chia, khi bố thí chẳng dùng vật xấu, đối với phụ nữ không có hạnh quấy, đối với trượng phu không có nhiễm ô, chánh tín chẳng bỏ, học giới chẳng thong thả, không gì chẳng hổ thẹn, không gì chẳng xấu hổ, không có thiếu phước, không có thiếu nghe, thí rồi chẳng hối, với trí chẳng lầm lẫn, đối với Tam bảo không gì chẳng kính trọng, đối với thế đế chẳng là bền chắc, đối với thắng nghĩa không có nhiễm trước, không có rừng kiến chấp, không chấp ngã, chẳng quên chánh niệm, đối với chánh đoạn không có làm khác, đối với thần túc không có vị say, đối với căn chẳng mềm, lực chẳng yếu, đối với giác phần không có chẳng biết, với đạo không điên đảo, đối với Tam-ma-địa không có tướng chấp trước, trong Xa-ma-tha không có trụ chắc chắn, đối với Tỳ-bát-xá-na không có phân biệt, với minh giải thoát không riêng chứng đắc, đối với các đế không có chướng ngại, “qua bờ kia” không chẳng phát khởi, trong các tụ chẳng đắm trước, trong giới chẳng nương nhờ, chẳng phải thời chẳng được, đối với Thanh văn không có thấy chứng (100).

Đối với các Bồ-tát là giáo sư, đối với các Nhập không có ý niệm, ở các cảnh giới không có nương tựa, chẳng do tự nghiệp mà sinh đường ác, ở trong thai không có khổ não, đối với lưu chuyển không có hỷ lạc, đối với lưu chuyển không có tưởng khổ, đối với những chỗ sinh ra không có kinh sợ, đối với các chúng sinh là ruộng, không thiếu hạt giống, ở chỗ gieo trồng chẳng hề mong cầu, ở các ruộng phước người nhận không có trống khuyết, đối với bố thí chẳng ràng buộc hạn lượng, trì giới chẳng ràng buộc hạn lượng, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ cũng chẳng ràng buộc hạn lượng, lưu chuyển cũng chẳng ràng buộc hạn lượng, Từ chẳng chia cắt, đại Bi không thiên lệch, không có kiêu mạn, về nhà không kiêu mạn về của cải, không kiêu mạn về sắc, không kiêu mạn về tự tại, không kiêu mạn về quyến thuộc, không kiêu mạn về đa văn, không kiêu mạn về trì giới, không kiêu mạn về ở nơi thanh vắng, không có kiêu mạn công đức ít muốn của Đầu-đà, không có mạn mạn, không có sân si, không có tùy miên ái, trong điên đảo không cho là thật, đối với tịnh và bất tịnh chẳng cho là hai, chẳng ham sinh lên cõi trời, chẳng ưa thích Dục, chẳng phải người đồng nghiệp nhất định chẳng thân cận, luôn siêng năng, chẳng giữ gìn biện luận của thế gian, đối với ngoại đạo luôn thương xót, đối với sự vật không có tư tưởng ràng buộc, đối với tự thân ấy chẳng muốn cầu vui, không có yêu giả trá, chẳng nương cậy ma. Này Hỷ Vương, các Đại Bồ-tát đã phát lời thề thì nhất định chẳng dời đổi cho đến đạo tràng Bồ-đề rốt cùng (150).

Này Hỷ Vương! Các vị Đại Bồ-tát, những vị này đều không, việc khác của mình chẳng được làm thì chớ nên làm, có những pháp nào nên làm thì làm.

Này Hỷ Vương! Các Bồ-tát chẳng nên hủy báng. Bồ-tát chẳng hủy báng người khác thì tự được an định, đối với các việc làm chẳng động, chẳng trì hoãn, phải gánh vác gánh nặng, đối với việc xấu ác thì chẳng làm theo, đối với việc thiện phải làm lợi ích, đối với phần ít hạnh phải làm vượt qua, vô lượng hạnh cũng phải nhập vào, đối với việc thấm nhuần yêu thương phải làm xa lìa, đối với pháp lượng sẽ chẳng xa lìa, đối với khổ sinh tử sẽ được giải thoát, đối với cuộc sống nên suy nghĩ: “Đã sinh ra thì sẽ chẳng giải thoát, trong nghiệp bất thiện phải chẳng chấp giữ, đối với các căn phải làm hộ trì, đối với phiền não bố thí Bồtát phải bỏn sẻn, đối với pháp thí Bồ-tát phải chẳng bỏn sẻn, chẳng tu học theo ngoại đạo, các chỗ Phật cho học phải khéo tu học, chẳng bình đẳng thấy nhẫn phải chẳng làm nhẫn, đối với chánh kiến nhẫn phải đầy đủ nhẫn, tạo nghiệp ác, phải biếng nhác, làm nghiệp thiện phải tinh tấn, phi tưởng, phi phi tưởng sinh thì phải quên nhớ nghĩ, đối với năm thông tự tại phải có mùi vị định, đối với chú thuật đáng sợ, đạo dùng độc, khiến thây chết đứng dậy phải làm vô trí, đối với trí xuất thế phải làm trí tuệ, phải như vầng trăng đối với các chúng sinh lòng bình đẳng, pháp lành tăng trưởng, phải như mặt trời xa lìa tối đen, tạo ra trí sáng rõ, phải như đất xa lìa cả hai, đối với các chúng sinh lòng bình đẳng, phải như nước không ghét sạch, chẳng sạch và các cặn, phải như lửa, thiêu cháy các phiền não, phải như gió, đối với các pháp không chấp trước. Phải như hư không, trí không bờ bến, phải như biển, cầu thiện căn không chán đủ, phải như núi Mê-lưu, các luận sư khác chẳng thể hàng phục, phải như hoa sen, tám pháp thế gian chẳng nhiễm trước, phải như cây cối, không phân biệt, phải như chủng tánh, pháp vô tận, các phiền não chẳng thể dày xéo, đối với hạnh chúng sinh phải hướng đến, chẳng chấp trước các cõi, phải hướng vào trong Niết-bàn, nên làm ruộng thiện, trừ khử gai nhọn ác sân hận, phải khéo chọn lựa niềm tin làm hạnh ban đầu, phải được quả lớn, nói bốn Đế, phải được lợi lớn ở trong Phật pháp, phải được không chướng ngại đối với Trí giải thoát Tam-ma-địa, Tam-ma-bậtđế, phải được hoan hỷ bằng pháp hỷ, phải được đã qua ở trong bùn khổ sinh tử, phải rơi vào tương ứng, phương tiện khéo léo, phải làm nghiệp thiện, thoát khỏi chẳng tương ứng, phải quan sát thiện nhẫn đối với chứng đắc, phải ái ngữ bằng tịnh tín bên trong, phải tạo bạn bè bền chặt cho đến Niếtbàn, bạn bè tối thắng vậy, phải thuần hậu, không huyễn hoặc, phải chất trực, không dua nịnh quanh co, phải nhu nhuyến, dễ ở chung, phải đáng ưa, tin nhuần bên trong, phải đến các nơi, tùy thuận di chuyển, phải thấm nhuần bằng đại Bi, phải khát ngưỡng đối với đạo tràng Bồ-đề, phải tạo sự chẳng thèm khát ở trong các dục, phải khiến no đủ đối với các Thanh văn, phải tạo sự giáo hóa đối với các Duyên giác, phải tạo nhớ nghĩ đối với các căn lành, phải tạo sự giác ngộ ở trong bất thiện, phải hộ trì đối với chánh pháp, phải tạo sự chẳng đoạn dứt đối với chủng tử Tam bảo, phải tạo sự rực cháy đối với các pháp thiện.

Này Hỷ Vương! Các Đại Bồ-tát phải diệt trừ sạch các nghiệp ác. Này Hỷ Vương! Ta lược nói pháp bất thiện mà các Bồ-tát không có vậy. Các hạnh, các thiện pháp là ứng hợp nên ta nói có vậy. Như thế, các ông phải học! Ta nói lời dạy bảo như vậy!

Khi Đức Phật nói kinh này, Đại Bồ-tát Hỷ Vương vui mừng và những Đại Bồ-tát từ các phương khác đến tập họp, cùng các đại chúng Trời, Người, A-tu-la, Càn-thát-bà... nghe lời Đức Phật nói không ai chẳng tùy hỷ, rất đỗi vui mừng, chẳng thể tự kềm chế, siêng năng cúng dường, đối với những lời Đức Phật nói họ đều rất vui mừng.


[Đầu trang]


[Mục lục bộ Kinh tập][426][427][428][429][430][431][432][433][434][435][436][437][438][439][440][441][442][443][444][445][446][447][448][449][450][451][452][453][454][455][456][457][458][459][460][461][462][463][464][465][466][467][468][469][470][471][472][473][474][475][476][477][478][479][480][481][482][483][484][485][486][487][488][489][490][491][492A][492B][493][494][495][496][497][498][499][500][501][502][503][504][505][506][507][508][509][510][511][512][513][514][515][516][517][518][519][520][521][522][523][524][525][526][527][528][529][530][531][532][533][534][535][536][537][538][539][540][541][542][543][544][545][546][547][548][549][550][551][552][553][554][555][556][557][558][559][560][561][562][563][564][565][566][567][568][569][570][571][572][573][574][575][603][604][605][606][607][608][609][610][611][612][613][614][615][616][617][618][619][620][621][622][623][624][625][626][627][628][629][630][631][632][633][634][635][636][637][638][639][639][640][641][642][643][644][645][646][647][648][649][650][651][652][653][654][655][656][657][658][659][660][661][662][663][664][665][666][667][668][669][670][671][672][673][674][675][676][677][678][679][680][681][682][683][684][685][686][687][688][718][719][720][721][721][722][723][724][725][726][727][728][729][730][731][732][733][734][735][736][737][738][739][740][741][742][743][744][745][746][747A][747B][748][749][750][751][752][753][754][755][756][757][758][759][760][761][762][763][764][765][766][767][768][769][770][771][772][773][774][775][776][777][778][779][780][781][782][783][784][785][786][787][788][789][790][791][792][793][794A][794B][795][796][797A][797B][798][799][800][801][802][803][804][805][806][807][808][809][810][811][812][813][814][815][816][817][818][819][820][821][822][823][824][825][826][827][828][829][830][831][832][833][834][835][836][837][838][839][840][841][842][843][844][845][846][847]


[Mục lục tổng quát]