TẠNG KINH
BỘ KINH TẬP (425-847)
SỐ 659-KINH ĐẠI THỪA BẢO VÂN
Hán dịch: Đời Lương, Tam tạng Mạn-đà-la Tiên, cùng Tăng-già-bà-la, người Phù Nam.
PHẨM 2: MƯỜI BA-LA-MẬT (PHẦN 1)
PHẨM 2: MƯỜI BA-LA-MẬT (PHẦN 2)
Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Phật Bà-già-bàn trụ tại đỉnh núi Già-da, nước Già-da, cùng đại chúng Tăng bảy vạn người. Các vị ấy đều là A-la-hán, các lậu đã dứt, không còn phiền não, tâm được tự tại, tâm khéo giải thoát, tuệ khéo giải thoát, là bậc Đại Long tượng mọi người đều biết, việc làm đã xong, không còn thọ thân sau, lìa bỏ gánh nặng, sớm được tự lợi, dứt các trói buộc, khéo được giải thoát, tự tại nơi tấc cả, thông đạt pháp tánh, tuyệt đối giải thoát, khéo đạt pháp tánh, là con của đấng Pháp vương, tâm được điều phục, kiên cố bất thoái, tám thức gió của thế gian chẳng thể lay động, chúng đức vẹn toàn, nguyện đã viên mãn, trụ nẻo Niết-bàn. Chỉ trừ một người, đó là Trưởng lão A-nan còn ở bậc Hữu học.
Lại có các chúng Đại Bồ-tát, gồm mười sáu vạn Đại sĩ, tất cả đều là Nhất sinh đại bổ xứ, hướng đến Nhất thiết trí, kính trọng Nhất thiết trí, tiến tới Nhất thiết trí, thành tựu Nhất thiết trí, đắc Tam-muội Vô ngại đà-la-ni, trụ Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, có khả năng hiện bày diệu dụng các đại thần thông, luôn luôn hóa độ, thành tựu đầy đủ cho chúng sinh không có ngừng nghỉ, không còn các phiền não chướng ngại, tâm đại Từ rải khắp tất cả quốc độ trong mười phương, khéo giỏi qua lại vô lượng cõi Phật, dùng cảnh giới “không” trụ vào vô tướng, nhất cử nhất động đều tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh, hành thiện ở tất cả cảnh giới của chư Phật, trí tuệ vô biên đồng với hư không, Tam-muội vi diệu sâu rộng như biển, tâm không dao động như núi Tu-di, thanh tịnh không nhơ giống như hoa sen, tâm thiện trong sáng như báu ma-ni, tâm ấy tinh khiết như vàng ròng đã luyện.
Tên của các vị này là Đại Bồ-tát Bảo Tướng, Bồ-tát Bảo Chưởng, Bồ-tát Bảo Ấn Chưởng, Bồtát Bảo Quan, Bồ-tát Bảo Đảnh, Bồ-tát Bảo Thủ, Bồ-tát Bảo Tích, Bồ-tát Bảo Kế, Bồ-tát Bảo Tràng, Bồ-tát Kim Tạng, Bồ-tát Kim Cang Tạng, Bồ-tát Bảo Tạng, Bồ-tát Cát Tạng, Bồ-tát Trang Nghiêm Tạng, Bồ-tát Như Lai Tạng, Bồ-tát Trí Tuệ Tạng, Bồ-tát Nhật Nguyệt Tạng, Bồ-tát Tam-muội Tạng, Bồ-tát Liên Hoa Tạng, Bồ-tát Giải Thoát Nguyệt, Bồ-tát Phổ Nguyệt, Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí, Bồ-tát Quán Sát Tự Tại, Bồ-tát Phổ Hiền, Bồ-tát Phổ Nhãn, Bồ-tát Liên Hoa Nhãn, Bồtát Quảng Nhãn, Bồ-tát Phổ Oai Nghi, Bồ-tát Phổ Tề Chỉnh, Bồ-tát Phổ Duyệt Ý, Bồ-tát Phổ Lễ, Bồtát Trí Ý, Bồ-tát Pháp Ý, Bồ-tát Thắng Ý, Bồ-tát Thượng Ý, Bồ-tát Kim Cang Ý, Bồ-tát Sư Tử Phấn Tấn, Bồ-tát Đại Lôi Thanh Vương, Bồ-tát Sư Tử Hống, Bồ-tát Thâm Hưởng Âm, Bồ-tát Vô Ô, Bồtát Vô Cấu, Bồ-tát Kim Cang Minh, Bồ-tát Nhật Quang, Bồ-tát Trí Quang, Bồ-tát Trí Cát, Bồ-tát Nguyệt Cát, Bồ-tát Phù Dung Cát, Bồ-tát Bảo Cát, Bồ-tát Đồng tử Văn-thù-sư-lợi cùng mười sáu vị Đại sĩ, do Bồ-tát Hiền Hộ làm Thượng thủ.
Các Đại Bồ-tát trong Hiền kiếp, do Bồ-tát Dilặc làm thượng thủ. Tứ đại Thiên vương làm thượng thủ cõi trời Tứ Thiên vương. Thiên chủ Đế Thích làm thượng thủ cõi trời Tam thập tam. Thiên tử Dạ-ma làm thượng thủ cõi trời Tu-dạ-ma. Sanđâu-suất-đà Thiên chủ làm thượng thủ chư Thiên cõi trời Đâu-suất. Hóa lạc Thiên chủ làm thượng thủ chư Thiên cõi trời Hóa lạc. Tự tại Thiên chủ làm thượng thủ chư Thiên cõi Tha hóa tự tại. Đại Phạm vương làm thượng thủ tất cả chúng Phạm thiên. Những Phạm chúng này đều phò giúp các Phạm vương. Đại Tự Tại Thiên làm thượng thủ tất cả chư Thiên cõi trời Tịnh-cư. A-tu-la vương Tỳma-chất-đa làm thượng thủ vô lượng trăm ngàn Atu-la vương. Các Long vương A-nậu-đạt, Long vương Ma-na-tư, Long vương Sa-kiệt-la, Long vương Bà-tu-cát... trong vô lượng trăm ngàn Long vương như vậy, Long vương Cát Oai Đức làm thượng thủ.
Lại có vô lượng trăm ngàn các long nữ, tám bộ chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân... tất cả đại chúng vây quanh đảnh núi Già-da rộng bốn do-tuần, nhiều như vi trần, trên mặt đất cũng như trong hư không, không còn chỗ khuyết trống.
Đại chúng tụ hội an tọa về một bên, chiêm ngưỡng tôn nhan Đức Như Lai. Chính giữa chúng hội là bảo tòa Sư tử, cao một do-tuần. Bảo tòa chung quanh chạy dài hai mươi dặm. Vô lượng tơ lụa năm ngủ sắc giăng bày trên ấy. Linh bảy báo cùng các lưỡi báu và trăm ngàn cờ hoa treo lơ lững giữa không trung.
Tất cả địa giới xung quanh tòa cao đều được tạo thành do kim cương bảy báu. Mọi người vui vẻ sửa sang cho đất bằng phẳng, quét dọn rưới nước sạch sẽ, đốt các loại hương, vô lượng hoa trời tung lên trên đó. Vô lượng trăm ngàn hoa sen lớn như bánh xe từ đất vọt lên, đều là sắc vàng rồng, lưu ly dùng làm đài, ngọc châu Nhân-đà-ni-la làm tua hương thơm phảng phất, thanh thoát, khả ái nhằm cúng dường Đức Thế Tôn.
Cách bốn góc tòa cao, không xa cũng không gần, có bốn cây báu tự nhiên xuất hiện cao sáu mươi lý, tàng của mỗi cây tre phủ xung quanh mười lăm lý.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn ngồi trên tòa Sư tử, dùng tâm bình đẳng chuyển bánh xe pháp, hàng phục ma oán. Tám thức gió thế gian chẳng thể làm lay động. Như Sư tử vương không còn tư tưởng khiếp nhược sợ hãi, như nước đủ tám công đức ở A-nậu-đạt tràn đầy vắng lặng. Như biển lớn sâu thẳm không đáy, như núi Tu-di an ổn bất động, như mặt trời soi rõ tất cả thế gian, như mặt trăng làm mát dịu mọi vật, như đại Long vương biển tuôn mưa pháp khắp chốn, như đại Phạm vương ra ngoài ba cõi.
Khi ấy, nơi đỉnh đầu Đức Thế Tôn phóng ra ánh sáng lớn chiếu soi tất cả đại chúng đệ tử điều thuận đang vây quanh cùng vô lượng trăm ngàn chư Thiên, Thích, Phạm, Hộ thế cung kính lễ bái, tâm chẳng cao thấp. Đó gọi là ánh sáng phổ chiếu. Vô lượng tia sáng ấy từ đỉnh phóng ra chiếu khắp vô biên tất cả thế giới, nơi mười phương, sau đó ánh sáng được thu về, nhiễu quanh Thế Tôn ba vòng rồi nhập vào diện môn, nhưng toàn bộ ánh sáng vẫn không tăng giảm. Giống như lấy nước bơ dầu vẽ trên cát, không tăng không giảm, ánh sáng của Như Lai cũng lại như vậy.
Bấy giờ, về phương Đông trải qua vô lượng hằng hà sa thế giới, có thế giới tên la Phù dung hoa. Đức Phật trong thế giới ấy tên là Phù Dung Nhãn, gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn đang diễn thuyết pháp yếu cho chúng Đại Bồ-tát. Đó là pháp Nhất Đại thừa đạo.
Cõi Phật này không có tên của hàng Nhị thừa là Bích-chi-phật và Thanh văn.
Tất cả chúng sinh trong thế giới này đều là Bồtát, đối với đạo quả Bồ-đề vô thượng ở vào ngôi vị bất thoái.
Hết thảy Bồ-tát trên thế giới ấy không dùng tạp thực, chỉ lấy thiền duyệt làm thức ăn, lấy pháp lạc làm thức ăn.
Nơi thế giới này không có ánh sáng của mặt trời, mặt trăng, tinh tú, tất cả chỉ dùng ánh sáng chiếu tỏa của Như Lai.
Thế giới ấy cõi đất bằng phẳng như bàn tay, không có cỏ dại, cấu uế, bụi rậm, sỏi đá và các núi đen.
Nơi cõi Phật này có Đại Bồ-tát tên là Tát-bàni-bật-xa-cảm-tỳ-trân-quốc, cũng gọi là Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại. Nếu có chúng sinh nào nghe danh hiệu của Bồ-tát này, chỉ trong giây lát thì liền phát tâm thiện, có khả năng trừ được tất cả chướng ngại.
Khi ấy, Đại Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại gặp được ánh sáng từ thân của Đức Thế Tôn chiếu qua, liền từ trú xứ của mình đi đến chỗ Đức Phật Phù Dung, cung kính lễ bái sát chân rồi ngồi qua một bên. Cùng lúc cũng có vô lượng đại chúng Bồ-tát cảm nhận được ánh sáng này, liền từ trú xứ của mình cùng đến chỗ Phật, cung kính lễ bái, lui ngồi một bên.
Lúc này, Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại từ chỗ ngồi đứng dậy, bày vai phải, gối phải chạm nền liên hoa đài thượng, chắp tay đứng về Đức Phật, thưa:
–Kính bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà có ánh sáng chiếu khắp, sắc màu rực rỡ đủ loại, bất khả tư nghì, thanh tịnh vô cấu, làm cho thân tâm tất cả Bồ-tát vui thích?
Đức Phật Phù Dung Nhãn liền bảo Bồ-tát:
–Này thiện nam! Từ đây đi về phương Tây, hơn hằng hà sa số thế giới có cõi Phật tên là Sa-ha, Phật trong thế giới ấy tên là Thích-ca Mâu-ni gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Nếu có chúng sinh nghe được danh hiệu của Phật Thích-ca Mâu-ni, thì đối với đạo quả Bồ-đề vô thượng, chúng sinh đó không còn thoái chuyển. Ánh sáng mà các vị thấy ở đây chính là ánh sáng của Đức Thích-ca Như Lai phóng ra. Ánh sáng đó thanh tịnh, vô cấu, vi diệu đệ nhất, làm an vui tất cả thân tâm Bồ-tát.
Bồ-tát lại thưa:
–Kính bạch Thế Tôn! Có những chúng sinh nghe được danh hiệu của Đức Phật Thích-ca Mâuni thì đối với đạo quả Bồ-đề vô thượng họ không còn thoái chuyển. Nghĩa này như thế nào?
Phật Phù Dung Nhãn bảo Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại:
–Này thiện nam! Trong đời quá khứ, lúc Đức Thích-ca Như Lai hành Bồ-tát đạo đã phát thệ nguyện: “Khi ta thành Phật, nếu có chúng sinh nào được nghe danh hiệu ta thì đối với đạo quả Bồ-đề vô thượng liền được không thoái chuyển.” Bồ-tát lại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sinh trong thế giới ấy nghe danh hiệu Phật, đều được không thoái chuyển hết chăng?
Phật nói:
–Chẳng phải vậy.
Bồ-tát hỏi:
–Bạch Thế Tôn! Vậy chúng sinh nơi cõi đó chẳng được nghe danh hiệu Phật Thích-ca Mâu-ni chăng?
Phật bảo:
–Này thiện nam! Tất cả đều nghe được.
Bồ-tát thưa:
–Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng sinh ở cõi đó đều được nghe danh hiệu của Phật, tại sao có người được không thoái chuyển, người không được không thoái chuyển?
Phật đáp:
–Này thiện nam! Những chúng sinh nhờ nghe danh hiệu Phật Thích-ca Mâu-ni, họ được không thoái chuyển là do đã gieo trồng nhân không thoái chuyển. Như Lai đã thấy việc này nên mới nói chúng sinh đó không thoái chuyển. Chẳng phải chỉ có nghe danh hiệu mà được không thoái chuyển. Này thiện nam! Nay ta vì ông mà nói thí dụ làm cho nghĩa này được sáng tỏ.
Này thiện nam! Như hạt giống của cây, hoặc lớn, hoặc nhỏ, nếu gặp ngoại duyên đầy đủ, không có gì ngăn ngại thì cây nẩy mầm, phát triển nhanh.
Này thiện nam! Thế nào gọi là chủng tử?
Bồ-tát thưa:
–Vì không có gì ngăn ngại nên gọi là chủng tử. Phật bảo:
–Đúng vậy! Này thiện nam! Nghe danh hiệu Như Lai tức là gieo chủng tử không thoái chuyển. Chính các chúng sinh đầy đủ các duyên, nghe danh Như Lai, đối với đạo quả Bồ-đề vô thượng được gọi là không thoái chuyển.
Bồ-tát lại thưa:
–Nay con muốn qua thế giới Sa-ha, mong thấy Đức Phật Thích-ca Ứng Cúng Chánh Biến Tri để hầu hạ, lễ bái, cung kính cúng dường.
Thế Tôn Phù Dung Nhãn bảo Đại Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại:
–Này thiện nam! Lành thay! Thật tốt thay! Khi qua đến đó, ông sẽ biết rõ những điều ấy.
Lúc ấy, lại có vô lượng chư Đại Bồ-tát đến chỗ Phật Phù Dung Nhãn thưa:
–Kính bạch Thế Tôn! Chúng con rất muốn đến thế giới Sa-ha mong được gặp Phật Thích-ca Mâuni để hầu hạ, cung kính, tôn trọng cúng đường.
Phật Phù Dung Nhãn bảo chúng Bồ-tát:
–Này các thiện nam! Nay đúng là lúc các ông được tùy ý đến đó. Đến thế giới ấy, các ông thận trọng thu nhiếp các căn, chớ có buông thả. Vì sao? Vì chúng sinh ở thế giới ấy có quá nhiều tham dục, sân hận, ngu si, chẳng giữ phạm hạnh thanh tịnh của Sa-môn, vui theo phi pháp, vu khống, gian trá, thô xấu, nói lời gièm pha quanh co sai trái, nói lời ác độc nguyền rủa, buông lung, phóng túng, cao ngạo, giọng điệu châm biếm, dua nịnh, diện mạo thô xấu, biếng nhác, phá giới, ám độn, siêng làm việc ác, đố kỵ, keo kiệt, bị vô lượng phiền não trói buộc. Chúng sinh trong thế giới đó tánh tình như vậy, đang được Đức Thích-ca Như Lai thuyết pháp, hóa độ.
Khi ấy, đại chúng Bồ-tát thưa:
–Kính bạch Thế Tôn! Việc Đức Thích-ca Như Lai vì chúng sinh đó mà thuyết pháp, thật là khó!
Thật là khó!
Phật bảo:
–Đúng vậy! Đúng vậy! Này thiện nam! Thíchca Như Lai vì chúng sinh đó mà diễn thuyết pháp yếu, là rất khó! Khó thật! Này thiện nam! Chúng sinh nơi cõi đó xấu ác như thế, khởi một niệm thiện là rất khó! Vì sao? Vì nếu ở cõi nước thanh tịnh, chúng sinh thanh tịnh, tu hành pháp thiện chẳng có gì gọi là khó.
Còn ở thế giới Sa-ha uế trược như vậy, trong giây lát mà chúng sinh khởi được tâm thiện thật là hiếm có. Chỉ trong sát-na, chúng sinh nơi cõi đó quy y Phật, quy y chánh pháp, quy y Thánh tăng, thật là hiếm có. Chỉ trong sát-na, chúng sinh nơi cỏi ấy thọ trì tịnh giới, thật là hiếm có! Trong một sát-na, chúng sinh nơi cõi đó khởi tâm lìa dục, thật là hiếm có. Trong một sát-na, chúng sinh nơi cõi đó khởi lòng đại Bi, phát tâm Bồ-đề vô thượng, thật là hiếm có.
Khi ấy các vị Bồ-tát thưa:
–Việc này thật hiếm có, bạch Thế Tôn! Thật hiếm có, thưa Thiện Thệ!
Tất cả các Đại Bồ-tát nói:
–Cao cả thay, bạch Thế Tôn! Như lời Phật dạy, chúng con vâng giữ phụng hành, thuận theo chánh pháp.
Thưa như vậy xong, các vi đảnh lễ sát chân Phật rồi lui ra. Các vị Bồ-tát này muốn cúng dường Đức Thích-ca Như Lai nên biến hóa ra đủ loại: Có vị hóa làm cây báu tướng hảo trang nghiêm, hoa trái đầy đủ. Có vị hóa thành cây Tỳ-lưu-ly, hóa làm cây Pha lê báu, hóa làm cây Kim Ngân, cây hoa quả và cây Như ý. Lại có vị hóa làm mây y phục, mây trang nghiêm, mây hương, mây tóc mượt, mây long, mây kỹ nhạc... các mây biên hóa như vậy hợp thành một mảng lớn.
Các Bồ-tát cùng Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại đi đến thế giới Sa-ha.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại nói với chư Bồ-tát:
–Này các Nhân giả! Chúng sinh nơi cõi Sa-ha ấy luôn bị các khổ não hại, bức bách. Đúng rồi! Này các nhân giả! Chúng ta phải nên vì các chúng sinh mà hiện bày, đại thần thông. Dùng sức thần thông này, khiến cho chúng sinh đó xa lìa các khổ, thọ hưởng an vui.
Các Bồ-tát đáp:
–Hay thay! Thật hay thay! Kính vâng nhân giả!
Lúc này, Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại liền dùng thần thông phóng ra các loại ánh sáng làm cho thân tâm an lạc, mát mẻ vi diệu, không còn nhơ nhớp. Bồ-tát chiếu ánh sáng này khắp tam thiên đại thiên thế giới, khiến cho các loài ngạ quỷ, súc sinh, chúng sinh trong tất cả địa ngục cùng Diêm-la vương gặp ánh sáng ấy đều lìa được các khổ, thọ hưởng an vui, không còn tâm tướng sát hại, tâm không phẫn nộ, tâm không sân hận, tất cả đều cung kính nhau, tưởng như cha mẹ.
Khoảng giữa của tam thiên đại thiên thế giới là những nơi chốn tối tăm, ánh sáng mặt trời, mặt trăng và đạo lực thần thông chẳng thể chiếu đến, chỉ có ánh sáng của Bồ-tát là chiếu rõ tất cả, giúp cho các chúng sinh nơi ấy được thấy nhau. Các núi Thiết vi, núi Mục-châu-lân, núi Đại mục-châu-lân, cùng vô lượng núi đen trong tam thiên đại thiên thế giới, tất cả đều được ánh sáng của Bồ-tát chiếu rõ. Ánh sáng ấy, trên chiếu đến tất cả cõi Phạm thiên, lên đến trời Hữu đảnh, dưới chiếu tới các địa ngục: Địa ngục Hoạt hoạt, địa ngục Hắc thằng, địa ngục Hiệp phá, địa ngục Khiếu hoán, địa ngục Đại khiếu hoán, địa ngục Thiêu chử, địa ngục Đại thiêu chử, địa ngục A-tỳ và một trăm ba mươi sáu các địa ngục lớn. Các địa ngục băng giá không có phương chốn, cùng tất cả các địa ngục, ánh sáng mặt trời chẳng thể chiếu tới. Nay được ánh sáng chiếu tới nên tất cả đều vui mừng dứt các thống khổ.
Có các chúng sinh nhờ thần thông này, cầu ăn được ăn, cầu uống được uống, cầu y phục, xe cộ, tiền tài, vàng bạc, châu báu... khởi niệm liền được. Người mắt tối được sáng, người điếc nghe được, người câm nói được, người tâm loạn điên cuồng liền được chánh niệm, người khổ được vui, người mang thai sinh con được an ổn không có đau đớn.
Khi tất cả chúng Đại Bồ-tát nơi cõi kia đến đỉnh núi Già-da còn chẳng bao xa, các vị bèn dùng lưới bảy báu giăng che khắp tam thiên đại thiên thế giới này. Ở giữa hư không, tự nhiên hiện bày tuôn mưa hoa sen lớn, cùng các loại hoa mây của chư Thiên: Mây quả, mây tóc mượt, mây hương, mây phục, mây hương bột, mây các loại tơ lụa, mây cờ phướn, mây lọng... các chúng sinh xúc phạm với các thứ mưa mây này được an vui. Cõi đất xung quanh đều rất thanh tịnh. Các loại cây tạp lớn nhỏ trên đỉnh núi Già-da đều không xuất hiện, chỉ có các thứ cây báu, cây ý, cây hoa, cây quả, cây chiên-đàn, cây trầm hương lan tỏa khắp chốn ấy.
Vô lượng Thiên nữ ở giữa hư không tấu kỹ nhạc trời để cúng dường Thế Tôn. Những âm thanh này phát ra, tạo thành kệ tụng ca ngợi công đức của Phật:
Thác sinh vườn rừng, đời kỳ vĩ
Thanh tịnh vô cấu không gì bằng
Nguyện lễ tướng hư không bình đẳng
Nên chúng con đến cõi nước này.
Nơi gốc cây thành đạo Đẳng giác
Phá trừ tất cả các oán ma
Nguyện lễ đấng oai thần tột bậc
Nên chúng con đến thế giới này.
Chuyển pháp Luân vi diệu giữa chúng
Giảng pháp như huyễn, trăng trong nước
Nguyện lễ cây như ý vi diệu
Nên chúng con đến thế giới này.
Biết rõ thế gian như ảo mộng
Các loại sắc tượng tợ vòng lửa
Nguyện lễ phước tuệ tu bất động
Nên chúng con đến thế giới này.
Trong vô lượng kiếp tu song hạnh
Nhờ đại Bi, phước tuệ viên thành
Nguyện lễ mặt trăng tròn thanh tịnh
Nên chúng con đến thế giới này.
Vô lượng chúng trời, người, Bồ-tát
Cúi đầu lễ, cung kính cúng dường
Nguyện lễ đấng ánh sáng tuyệt vời
Nên chúng con đến thế giới này.
Nhiều kiếp khổ hạnh được pháp báu
Từ bi thí muôn loài chẳng tiếc
Nguyện lễ đấng tự lợi, lợi tha
Nên chúng con đến thế giới này.
Tâm tịnh vắng lặng ướp Từ bi
Chẳng nhiễm bụi cấu, như hoa sen
Nguyện lễ vô lượng công đức tụ
Nên chúng con đến thế giới này.
Bản tánh vô vi, chẳng sinh diệt
Đạo lực thần thông hiện ba tướng
Nguyện lễ tự tại chẳng nghĩ bàn
Nên chúng con đến thế giới này.
Thân tướng trang nghiêm, đẹp phân minh
Đấng cứu hộ, thế gian quy ngưỡng
Nguyện lễ cây báu vô lượng cành
Chúng con xin cúng dường đầy đủ.
Bài kệ ca ngợi công đức Phật phát ra chưa được bao lâu thì Trưởng lão Mục-liên từ chỗ ngồi đứng dậy, bày vai phải, gối phải chấm đất, chắp tay cung kính đảnh lễ Phật, thưa:
–Kính bạch Thế Tôn! Tướng đoan nghiêm này do ai tạo ra? Từ xưa đến nay con chưa từng thấy nghe như vậy.
Phật đáp:
–Này Tôn giả Mục-kiền-liên, đi về phương Đông, cách đây hằng hà sa số thế giới, có thế giới tên là Phù dung hoa, trong cõi ấy có Phật tên là Phù Dung Nhãn, gồm đủ mười tôn hiệu: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri... Hiện giờ đang thuyết pháp yếu. Từ cõi Phật đó, Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại cùng vô lượng trăm ngàn ức na-dotha chư Đại sĩ đi đến thế giới Sa-ha này nên hiện tướng đoan nghiêm như thế.
Phật vừa dứt lời thì Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại cùng trăm ngàn ức na-do-tha chư Bồ-tát dùng đại thần thông đã đến cõi Phật. Các vị cúi đầu kính lễ sát chân Đức Thế Tôn rồi đi nhiễu ngàn vòng, đứng trước Đức Phật dùng kệ, đồng thanh tán thán:
Xin quy mạng Thế Tôn
Đấng Đại dũng vang lừng
Đại trí, Đại Tiên tôn
Vượt qua mọi nguy hiểm!
Kính lễ đấng tối thượng
Soi sáng tất cả chỗ
Biết rõ tánh chúng sinh
Thương xót cứu độ khắp.
Cúi đầu lễ Pháp vương
Bất động như Tu-di
Như biển sâu không đáy
Hàng phục các ngoại đạo.
Kính lễ đấng chuyển pháp
Sư tử gầm trong chúng
Thể pháp tánh tự nhiên
Xưa nay không sinh diệt.
Nói chánh đạo đúng thời
Khiến đạt được chân như
Làm cho nhập Niết-bàn
Hoặc là được thọ ký.
Khéo đạt tánh ba tụ
Thấu suốt mọi thời, cơ
Hóa độ các chúng sinh
Bủa lưới pháp như y.
Dâm, nộ, si, các uế
Cùng vô lượng mê hoặc
Ngồi nơi cội Bồ-đề
Dùng lửa trí thiêu tận.
Tự độ mình, độ người
Mình cùng đời giải thoát
Mê muội chìm ba cõi
Chỉ có Phật vớt lên.
Vô minh che chúng sinh
Trong lao ngục ba cõi
Nay giác ngộ đèn pháp
Cùng nhau xin đảnh lễ.
Chư Bồ-tát chúng con
Đều từ Phật hóa sinh
Rất thích nghe chánh pháp
Mong Thế Tôn giảng nói.
Sau khi Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại cùng chư Đại Bồ-tát dùng kệ tán thán Đức Phật xong, Đức Thế Tôn thương mến, khen ngợi, mời tất cả Bồ-tát ngồi trên đài hoa sen.
Bấy giờ, Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại, từ tòa đứng dậy, bày vai hữu, quỳ gối phải trên đài hoa sen, chắp tay hướng về Đức Phật, thưa: –Kính bạch Thế Tôn! Nay con có một vài điều muốn hỏi Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Cúi xin Thế Tôn thương xót giải đáp cho.
Phật bảo:
–Đại sĩ cứ hỏi, Như Lai, Thế Tôn thường lắng nghe những điều nghi vấn, Như Lai sẽ phân biệt giải đáp.
Được Phật cho phép hỏi, Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại liền thưa:
–Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát đầy đủ Bố thí ba-la-mật?
Thế nào là Đại Bồ-tát đầy đủ Trì giới ba-lamật?
Thế nào là Đại Bồ-tát đầy đủ Nhẫn nhục ba-lamật?
Thế nào là Đại Bồ-tát đầy đủ Tinh tấn ba-lamật?
Thế nào là Đại Bồ-tát đầy đủ Thiền-na ba-lamật?
Thế nào là Đại Bồ-tát đầy đủ Bát-nhã ba-lamật?
Thế nào là Đại Bồ-tát đầy đủ Ưu-hòa Câu-xasa ba-la-mật?
Thế nào là Đại Bồ-tát đầy đủ Ba-ni-lao-na bala-mật?
Thế nào là Đại Bồ-tát đầy đủ Bà-la ba-la-mật?
Thế nào là Đại Bồ-tát đầy đủ Xà-na ba-la-mật? Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát cùng với đất bình đẳng?
Thế nào là Bồ-tát cùng với nước bình đẳng?
Thế nào là Bồ-tát cùng với lửa bình đẳng?
Thế nào là Bồ-tát cùng với gió bình đẳng?
Thế nào là Bồ-tát cùng với hư không bình đẳng?
Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát như mặt trời, mặt trăng?
Thế nào là Bồ-tát như Sư tử vương?
Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát có khả năng giỏi điều phục?
Thế nào là Bồ-tát là tri thức của thế gian?
Thế nào là Bồ-tát dụ như hoa sen?
Thế nào là Bồ-tát phát tâm rộng lớn?
Thế nào là Bồ-tát được tâm thanh tịnh?
Thế nào là Bồ-tát tâm không nghi hoặc?
Thế nào là Bồ-tát ý như biển lớn?
Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát tâm hiểu rõ điều vi tế?
Thế nào là Bồ-tát biện tài hợp lý?
Thế nào là Bồ-tát biện tài rõ ràng?
Thế nào là Bồ-tát biện tài thanh tịnh?
Thế nào là Bồ-tát có thể tạo an vui tất cả chúng sinh?
Thế nào là Bồ-tát hội nhập hủy hoại ngôn ngữ? Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát nói pháp lợi ích?
Thế nào là Bồ-tát luôn tùy thuận?
Thế nào là Bồ-tát thấu triệt pháp giới?
Thế nào là Bồ-tát hành nơi cảnh giới “không?” Thế nào là Bồ-tát trụ vào vô tướng?
Thế nào là Bồ-tát xa lìa tất cả tâm nguyện?
Thế nào là Bồ-tát dùng Từ làm thân?
Thế nào là Bồ-tát dùng Bi làm thân?
Thế nào là Bồ-tát thường trụ nơi Hoan hỷ?
Thế nào là Bồ-tát an trụ trong Xả?
Thế nào là Bồ-tát hiện bày thần thông diệu dụng?
Thế nào là Bồ-tát vĩnh viễn lìa xa tám nạn?
Thế nào là Bồ-tát không quên mất tâm Bồ-đề?
Thế nào là Bồ-tát đạt được trí túc mạng?
Thế nào là Bồ-tát thân cận tri thức thiện?
Thế nào là Bồ-tát xa lìa tri thức ác?
Thế nào là Bồ-tát chứng đắc Pháp thân Như Lai?
Thế nào là Bồ-tát được thân Kim cang bất hoại?
Thế nào là làm Đại Cát-bạc chủ?
Thế nào là Bồ-tát làm đại Đạo sư?
Thế nào là Bồ-tát chỉ rõ đạo không điên đảo?
Thế nào là Bồ-tát thường nhớ nghĩ chân chánh?
Thế nào là Bồ-tát mặc y phấn tảo?
Thế nào là Bồ-tát thọ trì ba y?
Thế nào là Bồ-tát hành động chẳng luồng cúi, vênh váo?
Thế nào là Bồ-tát khất thực như pháp?
Thế nào là Bồ-tát chỉ ăn một lần?
Thế nào là Bồ-tát không ăn uống nhiều lần?
Thế nào là Bồ-tát trụ nơi A-lan-nhã?
Thế nào là Bồ-tát nương tựa nơi gốc cây?
Thế nào là Bồ-tát quen ngồi nơi khoảng đất trống?
Thế nào là Bồ-tát trụ nơi rừng Thi-đà?
Thế nào là Bồ-tát ngồi yên không ngủ?
Thế nào là Bồ-tát tùy nghi trải đồ ngồi?
Thế nào là Bồ-tát thâu nhiếp tâm đúng pháp?
Thế nào là Bồ-tát dụng tâm cùng lý tương ưng?
Thế nào là Bồ-tát thọ trì Tu-đa-la kinh?
Thế nào là Bồ-tát thọ trì Tỳ-ni luật?
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ oai nghi, hành động như pháp?
Thế nào là Bồ-tát tâm không keo kiệt, ganh ghét?
Thế nào là Bồ-tát sinh tâm bình đẳng đối với tấc cả chúng sinh?
Thế nào là Bồ-tát ân cần cúng dường, cung kính chư Phật?
Thế nào là Bồ-tát đoạn trừ kiêu mạn?
Thế nào là Bồ-tát tâm hằng thanh tịnh?
Thế nào là Bồ-tát rõ biết về Thế đế?
Thế nào là Bồ-tát thông đạt về Đệ nhất nghĩa đế?
Thế nào là Bồ-tát thông suốt mười hai nhân duyên?
Thế nào là Bồ-tát biết rõ mọi sự ở thế gian?
Thế nào là Bồ-tát sinh ở cõi Phật thanh tịnh?
Thế nào là Bồ-tát chẳng thọ thai sinh ô nhiễm?
Thế nào là Bồ-tát xuất ly gia cư?
Thế nào là Bồ-tát thọ mạng thanh tịnh?
Thế nào là Bồ-tát tâm không mỏi mệt?
Thế nào là Bồ-tát thực hành đúng pháp Phật chế?
Thế nào là Bồ-tát dung mạo luôn vui vẻ, không hề chau mày?
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ đa văn?
Thế nào là Bồ-tát giữ gìn chánh pháp?
Thế nào là Bồ-tát sinh ra làm Pháp vương tử?
Thế nào là Bồ-tát được Thích, Phạm, Hộ thế, chư Thiên nghênh tiếp?
Thế nào là Bồ-tát biết rõ căn tánh của chúng sinh?
Thế nào là Bồ-tát thành tựu đầy đủ cho chúng sinh?
Thế nào là Bồ-tát có khả năng nhận lãnh ngôi chánh vị?
Thế nào là Bồ-tát cùng an trú nơi an lạc?
Thế nào là Bồ-tát khéo hành cách nhiếp pháp?
Thế nào là Bồ-tát được thân tướng đoan nghiêm?
Thế nào là Bồ-tát là chỗ nương tựa?
Thế nào là Bồ-tát dụ như đại Dược thọ vương?
Thế nào là Bồ-tát tương ưng phước nghiệp?
Thế nào là Bồ-tát có khả năng biến hóa giỏi?
Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát sớm thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng?
Khi ấy, Đức Phật bảo Đại Bồ-tát Hàng Phục Nhật Thiết Chướng Ngại:
–Lành thay! Lành thay! Này thiện nam! Thật là hay lắm! Ông vì lợi ích của tất cả chúng sinh, vì an lạc cho tất cả thế gian, đặc biệt là vì muốn trang nghiêm cho đại chúng trời, người nên đã đem những câu như vậy thỉnh vấn Như Lai. Này thiện nam! Hãy chú tâm lắng nghe, ghi nhớ cho kỹ, Như Lai sẽ vì ông phân biệt, giải thích.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại thưa:
–Dạ vâng! Kính bạch Thế Tôn! Con xin muốn nghe.
Phật bảo:
–Này thiện nam! Đại Bồ-tát tu hành Bố thí bala-mật phải đầy đủ mười pháp. Những gì là mười?
1. Thí pháp đầy đủ.
2. Thí vô úy đầy đủ.
3. Thí của cải đầy đủ.
4. Bố thí hoàn toàn không mong đền đáp.
5. Bố thí tình thương đầy đủ.
6. Bố thí hoàn toàn không kiêu mạng.
7. Bố thí nhiệt tình, chu đáo, trọn vẹn.
8. Cúng dường đầy đủ.
9. Thí đầy đủ, không nương tựa vào nơi chốn.
10. Bố thí tinh khiết đầy đủ.
Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát bố thí pháp đầy đủ?
Thiện nam! Bồ-tát thọ trì chánh pháp lòng không mong cầu, không vì lợi dưỡng, không vì tri thức, không vì danh tiếng, mọi việc làm đều muốn diệt trừ tất cả nhân duyên khổ đau của chúng sinh. Thuyết pháp cho các chúng sinh, Bồ-tát dùng tâm không vướng mắc, một lòng bình đẳng không phân biệt. Như thuyết pháp cho hàng quốc vương, vương tử, triều thần giàu sang và cho hạng, Chiênđà-la, người hạ tiện cũng lại như vậy, giữ lòng bình đẳng không phân biệt huống chi là đối với tất cả chúng sinh, muôn dân trong thành ấp, Bồ-tát thuyết pháp như vậy không sinh kiêu mạn. Thiện nam! Đó gọi là Bồ-tát bố thí pháp đầy đủ.
Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát bố thí vô úy đầy đủ?
Thiện nam! Bồ-tát tự thân xả bỏ tất cả dao, gậy, không khiến cho các chúng sinh sợ hãi, dùng chỗ pháp hành khuyến hóa, dạy bảo, xem các chúng sinh như cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, Thiện tri thức. Vì sao? Vì như lời Phật dạy: “Từ vô thỉ, đời đời kiếp kiếp lưu chuyển, không có một chúng sinh nào chẳng phải là cha mẹ, vợ con, tri thức, quyến thuộc của các ông. Thậm chí, đối với tất cả bốn loài chúng sinh, kể cả loại nhỏ bé nhất, cần phải thí cho chúng sự không sợ hãi, lóc thịt mình nuôi chúng, chẳng khiến phải âu lo, huống nữa là đối vơi các chúng sinh lớn.” Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát bố thí của cải đầy đủ?
Bồ-tát nếu thấy chúng sinh tâm tánh xấu ác, tạo nghiệp bất thiện thì liền cho tài vật, sau đó chỉ dạy chúng sinh tu các hạnh lành, dứt nghiệp xấu ác. Bồ-tát lại nhớ nghĩ lời của Như Lai dạy: “Ai hành bố thí tức diệt ba loại pháp ác, đó là ganh ghét, bỏn sẻn, tham ái.” Do vậy, chúng ta hành bố thí không nên sinh tâm kiêu mạn, phải nương vào lời dạy của Như Lai mà hành hóa. Thiện nam! Đó là Bồ-tát bố thí tài vật đầy đủ.
Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát bố thí đầy đủ, không mong đền đáp?
Thiện nam! Bồ-tát làm việc bố thí không vì tự thân, không vì quyến thuộc, không vì thế tục, không vì ân nghĩa mà hành bố thí. Các Bồ-tát này đúng như pháp bố thí, vui vẻ bố thí. Do nhân duyên như vậy nên Bồ-tát không có tâm mong cầu đền đáp. Thiện nam! Đó là Bồ-tát bố thí đầy đủ, hoàn toàn không mong cầu báo đáp.
Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát bố thí tình thương đầy đủ?
Thiện nam! Bồ-tát thấy các chúng sinh khốn khổ như: đói, khát, không một mảnh vải che thân, hoặc thân mặc rách rưới, hoặc không ai cứu giúp, không chỗ nương tựa, phước đức mỏng manh, thân không được an. Thấy vậy, Bồ-tát liền sinh tâm ân cần thương xót. Vì muốn đem lại lợi ích an lạc cho chúng sinh nên Bồ-tát cấp tốc tu hạnh Bồ-đề vô thượng, nghĩ: các chúng sinh khốn khổ, không ai cứu hộ, không nơi nương tựa, sinh tử lưu chuyển khắp nơi trong sáu nẻo, thọ các thống khổ không một phút giây ngừng nghỉ, cho nên Bồ-tát nguyện làm tôn sư, làm người thủ lãnh, làm người dẫn đường, làm người cứu độ, làm chỗ nương tựa cho các chúng sinh. Bồ-tát dùng tình thương lớn thâu nhận, bảo phủ lấy tâm chúng sinh, xót thương thâu tóm vô lượng, vô biên tất cả chúng sinh như vậy. Tu thiện căn này, Bồ-tát không sinh kiêu mạn. Thiện nam! Đó là Bồ-tát bố thí tình thương đầy đủ. Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát bố thí hoàn toàn không kiêu mạn?
Thiện nam! Bồ-tát làm việc bố thí chẳng cho bằng cách ném, chẳng khinh khi người nhận thí, chẳng mạ nhục, bực tức khi bố thí, chẳng ỷ giàu sang, bố thí qua loa, chẳng cầu danh tiếng, chẳng ỷ vào sự đa văn của mình. Bồ-tát khi bố thí phải ân cần, cung kính, tự tay ban vật thí cho họ. Thiện nam! Đó là Bồ-tát bố thí hoàn toàn không có kiêu mạn.
Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát bố thí nhiệt tình, chu đáo, trọn vẹn?
Thiện nam! Nếu Bồ-tát thấy các Hòa thượng, Sư tăng, bậc đáng tôn kính cùng các bạn đồng tu thì phải hết lòng ân cần, cung kính, chắp tay lễ bái, nghênh tiếp đón đưa, vui hòa niềm nỡ. Đối với các pháp sự tu hành, Bồ-tát tương ưng với thiện, thường làm bạn với nhau. Thiện nam! Đó là Bồ-tát bố thí nhiệt tình, chu đáo, trọn vẹn.
Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát cúng dường đầy đủ?
Thiện nam! Đó là Bồ-tát bày biện các vật cúng dường ở trước Phật, trước Pháp, trước Tăng. Hoặc đến chỗ tháp miếu của Như Lai, Bồ-tát quét dọn sạch sẽ, đem các loại hương hoa cúng dường. Hoặc tháp Như Lai bị hư hoại thì Bồ-tát liền tu sửa. Bồtát cúng dường chư Phật như vậy. Đối với chánh pháp của Như Lai, Bồ-tát sau khi nghe rồi liền thọ trì, đọc tụng, biên chép, giảng nói, suy nghĩ về ý nghĩa ấy, tu hành như pháp, không còn điên đảo. Bồ-tát cúng dường chánh pháp như vậy.
Bồ-tát đem các loại y phục, đồ ăn, thức uống, nệm lót, thuốc thang, tất cả tài sản, thậm chí đến cả nước lạnh, nước nóng... cung cấp cúng dường chúng Tăng. Thiện nam! Như vậy gọi là Bồ-tát cúng dường đầy đủ.
Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát bố thí đầy đủ không nương vào nơi chốn?
Thiện nam! Khi Bồ-tát thực hành bố thí không tạo ước nguyện nhưng vì căn lành mà nên khiến được sinh vào cõi trời, hoặc tuần tự đến các cõi trời, hay sinh làm quốc vương, triều thần, tể tướng giàu sang. Thiện nam! Đó là Bồ-tát bố thí đầy đủ không nương vào xứ xở.
Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát bố thí đầy đủ sự tịnh khiết?
Thiện nam! Như trước đã nói, Bồ-tát thực hành các loại thí đều khéo quan sát. Nhờ quán sát như vậy nên các lỗi lầm, cấu uế, chướng ngại của sự bố thí không phát sinh. Thiện nam! Như vậy, Bồ-tát bố thí đầy đủ sự tịnh khiết. Thiện nam! Đó là mười pháp Bố thí ba-la-mật đầy đủ của Bồ-tát.
Này thiện nam! Bồ-tát có đầy đủ mười pháp Trì giới ba-la-mật. Những gì là mười?
1. Hộ trì giới cấm Ba-la-đề-mộc-xoa.
2. Hộ trì học giới ứng hợp của Bồ-tát.
3. Xa lìa hết thảy mọi phiền não, thiêu đốt.
4. Lìa xa tư duy bất thiện.
5. Tin nơi nghiệp nhân quả.
6. Khởi tưởng sợ hãi tội lỗi.
7. Biết quán xát hổ thẹn.
8. Thọ trì kiên cố.
9. Trì giới không có chỗ nương tựa.
10. Hành tịnh giới tam luân.
Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát giữ gìn giới cấm Ba-la-đề-mộc-xoa?
Những giới cấm Như Lai chế trong Tu-đa-la, Tỳ-ni và trong các kinh, Bồ-tát sống bất cứ nơi đâu cũng phải nên học và thọ trì đúng như pháp, không cậy nơi chủng tộc, không vướng nơi các kiến chấp, không chia rẻ đồ chúng, không nhìn lỗi người, không dấy tưởng thấp kém, không tham vướng nơi tạp nghệ. Đối với giới luật sinh tâm ân cần, tôn kính, thọ trì như pháp. Như vậy là Bồ-tát giữ gìn giới cấm Ba-la-đề-mộc-xoa.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát gìn giữ học giới ứng hợp của Bồ-tát?
Thiện nam! Bồ-tát tư duy, suy xét kỹ: “Ta chẳng những thọ trì Ba-la-đề-mộc-xoa, mà còn mà phải chứng được quả vị Bồ-đề vô thượng. Do đó, bất cứ trong kinh nào nói về các loại oai nghi của Bồ-tát, các loại luật nghi của Bồ-tát được Như Lai chế định, ta phải nên học, thọ trì đúng như pháp.” Bồ-tát tu tập giới, oai nghi như thế nào?
Phi xứ, phi thời, Bồ-tát không nên thuyết pháp. Phải biết thời, thông hiểu về quốc độ, dùng mỹ âm hòa nhã, vì họ mà giảng nói. Vì sao? Vì chớ để cho chúng sinh sinh tâm bất thiện, nên bảo hộ họ, ý tự thâu giữ sáu tình. Như vậy Bồ-tát mới đạt được hạnh Bồ-đề viên mãn.
Thế nào là luật nghi, giới đầy đủ?
Đó là nói lời tốt đẹp, nói lời diệu êm, không trụ nơi uế tạp loạn; thích sống nơi vắng lặng tịnh, sắc diện luôn tươi vui. Sau khi đầy đủ oai nghi như vậy, Bồ-tát thông suốt các pháp luật nghi của Như Lai chế, dùng tâm ân cần thọ trì trọn vẹn.
Như vậy là Bồ-tát gìn giữ học giới ứng hợp của Bồ-tát.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát lìa xa hết thảy sự thiêu đốt của phiền não?
Thiện nam! Bồ-tát hoặc bị tham dục thiêu đốt, hoặc bị sân hận thiêu đốt, hoặc bị si mê thiêu đốt, kể cả bị hết thảy vô lượng các lửa phiền não thiêu đốt, hoặc các loại nhân duyên nơi tài sản, tiền của,... thiêu đốt thân tâm. Bồ-tát nên tu ba loại pháp môn đối trị, phải sớm lìa xa nhân duyên ba độc.
Đối trị dục như thế nào? Nhân duyên của dâm dục là gì?
Tu quán bất tịnh là đối trị dục. Hết thảy nữ sắc là nhân duyên dâm.
Tu quán bất tịnh như thế nào?
Đó là quán các phần trong thân này như: lông, tóc, móng, răng, da, mọi thứ cấu bẩn, nước mắt, mồ hôi, đờm dãi, phân, nước tiểu, gân, thịt, huyết mạch, não, mô, mỡ sa, xương tủy, mỡ nước, mũ, tim, phổi, lá lách, thận, gan, mật ruột, dạ dày, nước vàng trắng, sinh thục, nhị tạng, đầy dẫy những bất tịnh. Bồ-tát nên khéo quán sát ba mươi sáu vật của thân như vậy. Quán sát như thế, lại tư duy: “Có những hài nhi, phàm phu ngu si, không sáng suốt, ít phần thiện căn, còn có khả năng quan sát ba mươi sáu vật, không sinh tham dục; huống gì là người trí gồm đủ tướng đại nhân, thiện căn sâu dày.” Bồ-tát tu quán bất tịnh như vậy.
Thế nào gọi là nữ sắc?
Đó là (những nữ giới): hay ưa trang điểm, sửa sắc đẹp ngoại hình được duyên dáng, cho ba mươi sáu vật giả hợp hôi thối là hình tướng đẹp, làm mê hoặc các hạng phàm ngu. Nếu khi thấy sắc, Bồ-tát nên khởi niệm: “Như Lai thường dạy: Hết thảy cảnh giới như mộng, như huyễn, đều là hư vọng.” Có người trí nào đối với các cảnh giới như mộng, huyễn... lại sinh tâm tham dục?! Quán sát như vậy nên sớm xa lìa.
Đó gọi là Bồ-tát lìa nhân duyên của dục.
Đối trị sân hận như thế nào? Thế nào là nguyên nhân của sân hận?
Thiện nam! Đối với các chúng sinh, Bồ-tát luôn sinh tâm Từ bi. Những nhân duyên có khả năng làm sân sinh khởi, Bồ-tát đều phải lìa xa. Như vậy là Bồ-tát tu đối trị sân, lìa nhân duyên của sân. Sau khi quán như vậy, Bồ-tát liền được lìa si. Được lìa si rồi, không sinh khổ não. Nếu bị hạ nhục hoặc mất tài vật, Bồ-tát cũng không sinh bức bách khổ não. Như vậy là Bồ-tát lìa xa hết thảy sự thiêu đốt của phiền não.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát lìa xa tư duy bất thiện?
Thiện nam! Bồ-tát một mình ở nơi thanh vắng tịch tĩnh, không bè bạn, phát tâm như vầy: “Nay ta an trụ nơi thanh tịnh, không ồn ào, náo loạn. Do vậy, được trụ nơi giới luật an lạc, thanh tịnh của Như Lai.” Có các Sa-môn cạo bỏ râu tóc, mặc y hoại sắc, hành khổ hạnh, gần tri thức ác, tư duy bất thiện nên đã đánh mất giới luật của Như Lai giảng dạy. Như vậy là Bồ-tát lìa xa tư duy bất thiện.
Thế nào là Bồ-tát tin nơi nghiệp, nhân quả?
Bồ-tát khởi sự tư duy: “Như Phật dạy: Sa-môn tạo công đức, phải nên chí tâm trì giới, tu trí một cách hết sức chuyên cần.” Vì sao? Vì chí tâm tạo công đức như vậy nên thọ được quả báo an lạc như ý. Do tin như vậy nên liền được lìa xa các nghiệp bất thiện. Đó gọi là Bồ-tát tin nơi nghiệp, nhân quả. Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát khởi tưởng lo sợ về tội?
Đối với tội lỗi vi tế, Bồ-tát luôn sinh lo sợ hãy còn không dám cố phạm. Vì sao? Vì như Phật dạy Sa-môn: “Thể tánh của tội lỗi là độc dược, hoặc nhiều, hoặc ít đều có thể làm chết người. Hết thảy tội lỗi hoặc lớn hoặc nhỏ đều khiến cho chúng sinh đọa vào ba đường ác khốn khổ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.” Cũng lại như vậy, tư duy như thế Bồ-tát liền sinh tưởng lo sợ đối với hết thảy tội. Đó gọi là Bồ-tát lo sơ về nghiệp tội.
Thế nào là Bồ-tát biết quán sát hổ thẹn?
Bồ-tát thân quen với bốn bộ chúng và dân chúng trong nước. Những người như vậy gởi cho Bồ-tát các loai vật báu: vàng, bạc, trân châu, lưu ly, ngọc bích, nhưng Bồ-tát không sinh tham. Hoặc vật của tháp miếu, hoặc các vật của Tăng giao phó cho Bồ-tát, Bồ-tát cũng không dùng riêng. Vì sao? Vì như Phật dạy: “Bồ-tát đối với các phần thân mình, thà chịu cắt thịt tùy ý dùng, chớ không dùng vật chẳng phải là xả thí.” Như vậy là Bồ-tát biết quán sát, hổ thẹn.
Thế nào là Bồ-tát thọ trì kiên cố?
Bồ-tát nếu bị các Thiên thần và quyến thuộc của ma làm nhiễu loạn, khiến sinh tâm tham đắm tất cả tài vật cùng năm thứ dục lạc, nhưng tâm Bồtát luôn an trụ bất động, không bị phân tán, cũng không thoái chuyển. Như vậy là Bồ-tát thọ trì kiên cố.
Thế nào là Bồ-tát hành trì giới không có nơi chốn nương tựa?
Bồ-tát hành trì tịnh giới, nghĩ rằng: “Không vì giới đây mà ta sẽ được sinh Thiên và làm chư Thiên, đế chủ, các quốc vương, các triều đại thần.” Bồ-tát hành trì giới là hoàn toàn không thủ đắc. Đó gọi là Bồ-tát hành trì giới không có nơi chốn nương tựa.
Thế nào là Bồ-tát hành tịnh giới tam luân?
Đó là Bồ-tát dùng thân thanh tịnh, khẩu thanh tịnh, tâm thanh tịnh để trì giới.
Thế nào là Bồ-tát thân giới thanh tịnh?
Đó là hết thảy thân nghiệp bất thiện: sát sinh, trộm cướp, tà dâm, Bồ-tát đều đã lìa xa. Đó gọi là Bồ-tát thân nghiệp thanh tịnh.
Thế nào là Bồ-tát khẩu nghiệp thanh tịnh?
Đó là hết thảy khẩu nghiệp bất thiện: vọng ngữ, nói hai lưỡi, ác khẩu mắng chửi, nói lời ly gián... Bồ-tát đều đã lìa xa. Đó gọi là Bồ-tát khẩu nghiệp thanh tịnh.
Thế nào là Bồ-tát tâm nghiệp thanh tịnh?
Đó là hết thảy tâm nghiệp bất thiện: tham dục, sân hận, ngu si... Bồ-tát đều đã lìa xa. Đó gọi là Bồ-tát tâm nghiệp thanh tịnh.
Như vậy gọi là hành trì tịnh giới tam luân.
Thiện nam! Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ Trì giới bala-mật thanh tịnh.
Thiện nam! Bồ-tát có đủ mười Nhẫn nhục bala-mật. Những gì là mười?
1. Đầy đủ nội nhẫn.
2. Đầy đủ ngoại nhẫn.
3. Đầy đủ pháp nhẫn.
4. Đầy đủ Nhẫn được Phật ấn chứng.
5. Đầy đủ không nhẫn phương sở.
6. Đầy đủ nhẫn bình đẳng.
7. Đầy đủ không nhẫn kiến sự.
8. Đầy đủ không nhẫn dao động.
9. Đầy đủ nhẫn Từ bi.
10. Đầy đủ thành tựu nhẫn thệ nguyện.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ nội nhẫn? Như bên trong có: ưu, bi, khổ não, sầu lo, buồn bực, bứt rứt... Bồ-tát đều nhẫn chịu một cách mặc nhiên, không nổi nóng. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ nội nhẫn.
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ ngoại nhẫn?
Thiện nam! Có người nói lời thô ác, mắng chửi, nguyền rủa, phỉ báng Bồ-tát cùng cha mẹ và hết thảy các quyến thuộc, các vị hòa thượng, sư tăng cho đến hủy báng Phật, Pháp, Tăng bảo..., Bồ-tát nghe rồi vẫn gắng nhẫn không sân, không buồn phiền, không ôm lòng oán hận. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ ngoại nhẫn.
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ pháp nhẫn?
Đối với những kinh, giáo sâu xa của chư Như Lai giảng dạy, Đại Bồ-tát trừ các nghi hoặc, ý hướng khó đạt cảnh giới chư Phật. Đây là các pháp xưa nay tịch tĩnh, không sinh không duyệt, tự tánh là Niết-bàn. Nghe pháp như vậy, Bồ-tát không sinh kinh hãi, không khiếp sợ, không mất vía, khỏi sự tư duy, sâu xa trong mọi lúc. Có người nào không nghe chánh pháp vi diệu sâu xa như vậy của Như Lai, mà đạt được quả vị Bồ-đề vô thượng chăng? Vì nhân duyên này phải nên chí tâm thọ trì, đọc tụng, quán xát tu hành chánh pháp như thế. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ pháp nhẫn.
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ được Phật ấn chứng?
Đại Bồ-tát nếu sinh sân hận liền phải chí tâm lắng lòng tư duy: “Sân này do đâu sinh và do đâu diệt? Ai sinh ra? Vì sao sinh ra? Nương nhân gì sinh?” Quán sát như vậy không thấy nhân sân, không thấy nơi sinh, không thấy nguyên do. Vì nhân duyên này liền nhẫn được nó, không sinh phiền não. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ được Phật ấn chứng.
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ nhẫn không phương sở?
Bồ-tát không chỉ nhẫn vào ban ngày mà ban đêm không nhẫn; không chỉ nhẫn vào ban đêm mà ban ngày không nhẫn. Không chỉ nhẫn ở nước này mà không nhẫn ở nước kia; không chỉ nhẫn ở nước kia mà không nhẫn ở nước này. Không chỉ nhẫn nơi hàng tri thức mà không nhẫn với chẳng tri thức; không chỉ nhẫn với chẳng tri thức ma không nhẫn với hàng tri thức. Bồ-tát không như vậy, trong tất cả thời, bất cứ nơi đâu cũng đều có thể nhẫn, an chịu tất cả. Đó gọi là Bồ-tát nhẫn không phương sở.
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ nhẫn bình đẳng?
Bồ-tát không chỉ nhẫn với cha mẹ, tôn trưởng, vợ con, tất cả quyến thuộc của mình, mà không nhẫn các đối tượng khác. Bồ-tát không như vậy. Vì sao? Vì Bồ-tát thực hành nhẫn không hề có thân sơ. Bất luận là hạng tôn quý, thấp hèn, kể cả hạng chiên-đà-la, Bồ-tát đều dùng tâm bình đẳng kham nhẫn tất cả. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ nhẫn bình đẳng.
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ nhẫn không kiến sự?
Bồ-tát hành trì nhẫn không vì duyên sự, nhẫn không vì tiếng tăm, nhẫn không vì được lưu truyền tên tuổi ở đời, nhẫn không vì hổ thẹn, Bồ-tát ở nơi nào chốn nào luôn tu nhẫn nhục. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ không nhẫn kiến sự.
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ không nhẫn nhiễu động?
Sân hận chưa phát khởi vì ác chưa sinh, nên tạm nhẫn nhục, đó không gọi là nhẫn của Bồ-tát. Nếu gặp cảnh ác như bị đấm, bị đánh bằng cây, bằng dao, hoặc bị đá, hoặc bị giết, hoặc bị mắng chửi..., Bồ-tát đều nhẫn. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ không nhẫn nhiễu động.
Thế nào là Bồ-tát đủ nhẫn Từ bi?
–Bồ-tát nếu làm quốc vương, vương tử, triều thần phú quý, của cải sung mãn, quyền lực tự tại; giả sử bị người mạ nhục, mắng chửi, phỉ báng, khinh khi đủ cách, Bồ-tát đều kham nhẫn, không sân, không hận, không tỏ vẻ sang giàu, nên suy nghĩ: “Những chúng sinh này ta đều cậy nhờ, được ta giúp đỡ. Do vậy không nên đối với chỗ như thế lại khởi sự sân hận, phải xả bỏ ngay.” Vì nhân duyên ấy mà từ bi được tăng trưởng, hay an nhẫn, không sinh sân hận. Đó gọi là Bồ-tát đủ nhẫn Từ bi.
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ nhẫn thệ nguyện?
Đại Bồ-tát nên nghĩ rằng: “Ở trước Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, ta nguyện như sư tử, gầm vang. Ta sẽ tu hạnh cầu đạt đạo quả Bồ-đề vô thượng. Thấy các chúng sinh chìm đắm sâu thẳm trong bùn lầy sinh tử, ta phải cứu vớt khiến họ được độ thoát. Do vậy, nay ta không thể đối với các chúng sinh đáng cứu độ lại khởi tâm sân hận, thù oán, không nhịn, không nhẫn. Nếu ta không nhẫn, còn chẳng tự độ, huống là độ người.”
Thiện nam! Ví như thầy thuốc, thấy những người mù liền khởi niệm: “Nay ta nên vì những người này trừ thảy các loại màng chướng mù tối trong mắt cho họ.” Tuy nghĩ như vậy, nhưng chính y sư mắt cũng bị mù từ lâu.
Thiện nam! Ý ông nghĩ sao? Y sư như vậy có khả năng trừ bệnh mắt cho chúng sinh không?
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại thưa:
–Không, bạch Thế Tôn!
Phật nói:
–Này thiện nam! Bồ-tát cũng như vậy, đối với vô minh ấy đã là người bẩm sinh nơi thế gian, tự thân không có tuệ nhãn, làm sao có khả năng trừ vô minh cho thế gian? Tự thân bệnh mắt còn chẳng thể trị, há có khả năng trị cho kẻ khác? Vì nhân duyên này, Bồ-tát muốn trừ hết thảy vô minh tăm tối của chúng sinh, trước phải tự trừ hết thảy các ám chướng của mình, sau mới trị cho người. Do vậy, Bồ-tát phải kham nhẫn, không sinh sân hận. Như vậy là Bồ-tát đầy đủ nhẫn tự thệ nguyện.
Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát hoàn thiện đầy đủ mười pháp Nhẫn nhục ba-la-mật.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đầy đủ mười pháp Tinh tấn ba-la-mật viên mãn. Những gì là mười?
1. Tinh tấn như kim cang bất hoại.
2. Tinh tấn dũng mãnh.
3. Tinh tấn lìa hai bên.
4. Tinh tấn tăng thêm.
5. Tinh tấn luyện trị.
6. Tinh tấn không dừng nghĩ.
7. Tinh tấn thanh tịnh.
8. Tinh tấn vô tỷ.
9. Tinh tấn không khinh miệt.
10. Tinh tấn không kế sách.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát Tinh tấn bất hoại, dụ như kim cang?
Đại Bồ-tát dũng mãnh tinh tấn phát thệ nguyện rộng lớn vì các chúng sinh: “Ai chưa Niết-bàn, ta khiến được Niết-bàn. Ai chưa được độ, ta khiến được độ. Ai chưa giải thoát, ta khiến được giải thoát. Ai chưa an lập, ta khiến được an lập. Ai chưa giác ngộ, ta khiến được giác ngộ.”
Lúc Bồ-tát dũng mãnh, hiện bày tâm quảng đại như vậy, ma Ba-tuần liền đến chỗ Bồ-tát, can gián: “Thiện nam! Không nên dũng mãnh tinh tấn nhọc sức như thế. Vì sao? Vì xưa kia ta đã từng dũng mãnh như vậy, cũng vì chúng sinh mà phát thệ nguyện lớn: Ai chưa Niết-bàn, khiến được Niếtbàn... thệ nguyện như vậy đều là vọng ngữ, khi dối thế gian, chỉ là hàng phàm phu, ấu trĩ không chân thật. Thiện nam! Ta chưa từng thấy có người nào tinh tấn, phát thệ nguyện lớn như vậy, vì nguyện lực mà chứng đắc quả vị Bồ-đề vô thượng. Thiện nam! Ta chỉ thấy vô lượng, vô biên hết thảy chúng sinh tinh tấn như vậy đạt được Thanh văn thừa, Bích-chi-phật thừa liền nhập Niết-bàn. Do đó, ông nên sớm xả bỏ tinh tấn, vì chỉ khiến cho thân tâm lao lực, khổ nhọc.”
Khi ấy, Bồ-tát liền nghĩ: “Có nên quát mắng ma Ba-tuần không? Nó đến không cố tình nhiễu loạn ta chăng? Nó không muốn tạo chướng ngại gây khó khăn cho pháp sự của ta chăng?”
Sau khi xét kỹ như vậy, Bồ-tát nói: “Lành thay! Ba-tuần! Ít ham muốn tự hành trì, biết việc khổ vui nơi thế gian chăng? Này Ba-tuần! Như Lai dạy: Hết thảy thế gian này, nghiệp là thầy giỏi sai khiến. Do dựa nương nhân nơi nghiệp lực mà bị sai sử.”
Ba-tuần! Ông nên tự thu giữ, trở về với chánh đạo.
Nay ông não hại ta, vì nhân duyên ấy, đời vị lai sẽ thọ khổ mãi mãi, không có lợi ích.”
Cũng vậy, ma chúng và dân thiên ma cùng nhau kéo đến cố tạo chướng ngại, não hại Bồ-tát không lay chuyển, không phân tán, không thối lui. Đó là Bồ-tát đầy đủ tinh tấn như kim cang.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát tinh tấn dũng mãnh?
Đại Bồ-tát hành tinh tấn dũng mãnh tức có khả năng vượt hơn các hạnh tu trước. Các hàng Bồ-tát khác chẳng thể bằng một phần của Bồ-tát này, cho đến dùng toán số ví dụ cũng chẳng thể sánh, huống nữa là các Thanh văn, Bích-chi-phật...
Bồ-tát từ lúc mới phát tâm, hết lòng tinh tấn thâu giữ tất cả pháp tạng của Như Lai, liền xa lìa được hết thảy pháp bất thiện. Đó là Bồ-tát đầy đủ tinh tấn dũng mãnh.
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ tinh tấn lìa nhị biên?
Đại Bồ-tát tuy hành tinh tấn dũng mãnh như vậy, nhưng không được quá sức, tự khổ thân mình, cũng không được yếu đuối, bê trễ, biếng nhác. Đó là Bồ-tát đầy đủ tinh tấn lìa nhị biên.
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ tinh tấn tăng trưởng?
Đại Bồ-tát tinh tấn như vầy: “Thân Như Lai thế nào, thân ta như thế đó. Đảnh thượng Như Lai không ai thấy được, ánh sáng tròn đầy một tầm, tướng hảo thù thắng, công đức chư Phật đầy đủ vô lượng, không thể nghĩ bàn, trí tuệ vô ngại, thường như sư tử gầm, hiện bày lực vô sơ úy..., ta cũng phải như vậy.” Tinh tấn như thế gọi là Bồ-tát đầy đủ tinh tấn tăng trưởng.
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ tinh tấn luyện trị?
Thiện nam! Như ngọc báu ma-ni cùng vàng, bạc... nhờ tôi luyện nên cấu bẩn không còn, ánh sáng tinh khiết trong suốt, ai thấy cũng khen:
“Ngọc báu ma-ni cùng vàng bạc nay được sáng đẹp là nhờ tôi luyện.” Cũng vậy, Bồ-tát tu hành tinh tấn, trừ sạch hết thảy cấu uế, bất tịnh, cũng lại như thế. Thế nào là cấu bẩn của Tinh tấn? Bê trễ, biếng nhác là cấu bẩn của Tinh tấn. Đối với sự ăn uống chẳng tự biết đủ, chẳng biết tiết chế, đó là cấu bẩn của tinh tấn. Bồ-tát đều phải trừ sạch. Bồ-tát dũng mãnh như vậy, không còn cấu, không còn uế thì ánh sáng tinh khiết hiển lộ. Đó là Bồ-tát đầy đủ tinh tấn tôi luyện.
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ tinh tấn không dừng nghĩ?
Đại Bồ-tát trong bốn oai nghi thường tu tinh tấn, không tạm ngơi nghĩ trong mọi thời gian, không gian. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ tinh tấn không dừng nghĩ?
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ tinh tấn thanh tịnh?
Đại Bồ-tát thường tu tinh tấn như vậy. Giả sử có các pháp bất thiện thô ác, nhân duyên lắm chướng ngại đạo, các việc không lợi ích, Bồ-tát đều phải trừ sạch. Có các pháp thiện tùy thuận Niếtbàn, không nghịch chánh đạo, hỗ trợ Bồ-đề, hướng tới Bồ-đề, Bồ-tát phải làm cho tăng trưởng rộng lớn. Trong một niệm còn không cố sinh khỏi các ác vi tế, huống gì là đối với đại ác. Đó gọi là Bồtát đầy đủ tinh tấn thanh tịnh.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ tinh tấn vô tỷ?
Bồ-tát suy nghĩ: Nếu hằng hà sa số thế giới khắp mười phương là ngục A-tỳ, bị lửa dữ thiêu đốt, Bồ-tát thấy các chúng sinh trong những thế giới ấy không ai cứu, không ai hộ, không nơi chốn quay về, khốn khổ không chỗ hướng đến, Bồ-tát liền phát tâm dũng mãnh, một mình không bạn; giả như vì nhân duyên chỉ độ thoát cho một người, Bồtát hãy còn đi đến cứu độ giúp họ thoát khỏi những thế giới lửa dữ như thế, huống nữa là nhiều người. Như vậy, các Thanh văn, Bích-chi-phật... cùng các ngoại đạo chẳng thể so sánh với Bồ-tát. Đó là Bồtát đầy đủ tinh tấn vô tỷ.
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ tinh tấn không khinh miệt?
Bồ-tát không nên nghĩ: “Hàng phàm phu như nơi thế gian chẳng thể chứng đắc Bồ-đề. Nay sự tinh tấn tu tập của ta còn chẳng đủ, lại biếng nhác, yếu đuối thua kém muôn đắc pháp Bồ-đề phải dũng mãnh tu tập tinh tấn như cứu lửa cháy trên đầu, trải qua vô lượng kiếp như vậy mới đạt được. Nay ta nếu không gắn sức thọ nhận, xốc vác với gánh nặng như thế, há có thể chứng đắc Pháp Bồ-đề ư?” Bồ-tát lại tư duy niệm tưởng: “Quá khứ đã có vô lượng chư Phật Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, chư Phật Chánh đẳng giác nơi đời hiện tại và các vị sẽ thành tựu Chánh Đẳng giác nơi đời vị lai, tất cả đều dùng kế sách dũng mãnh như vậy, tu hành như vậy, tinh tấn như vậy, nên chư Phật, Như Lai đều thành tựu quả vị Chánh giác. Nay ta phải dùng kế sách tinh tấn dũng mãnh như thế, các chúng sinh chẳng thể sánh được. Duyên theo các chúng sinh mà thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng cũng lại được như vậy. Do đó, nay thà vì tất cả chúng sinh, ta thọ khổ địa ngục, chứ không vì lợi ích tự thân, riêng chứng giải thoát, chọn lấy Niếtbàn.” Đó là Bồ-tát đầy đủ tinh tấn không khinh miệt.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ tinh tấn không kế sách?
Bồ-tát tinh tấn như vậy, chẳng phải theo kế sách của người khác, chẳng chấp theo đường lối của người khác, cũng chẳng vì chuyên cần tinh tấn như vậy mà cho là kế sách của mình khác lạ so với tha nhân, cũng chẳng tự cao. Phải nên tư duy: “Có người trí nào làm việc chánh, việc tư, lại đợi kế sách của người khác?” Đó là Bồ-tát đầy đủ tinh tấn không kế sách.
Thiện nam! Như vậy Bồ-tát hoàn thiện đầy đủ mười pháp Tinh tấn ba-la-mật.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đầy đủ mười pháp Thiền định ba-la-mật viên mãn. Những gì là mười?
1. Phước đức trợ giúp.
2. Khởi nhiều tưởng chán lìa.
3. Dũng mãnh tinh tấn.
4. Đầy đủ đa văn.
5. Tâm không điên đảo.
6. Tương ưng với lời giáo huấn.
7. Như pháp tu hành.
8. Tự tánh là lợi căn.
9. Thông hiểu tâm địa.
10. Thông tỏ về Xa-ma-tha, Tỳ-bà-xá-na, không có ý dừng nghĩ.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát phước đức trợ giúp?
Đối với pháp Đại thừa, Đại Bồ-tát đã từng trồng sâu gốc đức. Sinh tử lưu chuyển bất cứ nơi đâu, Bồ-tát cũng được các hàng tri thức thiện thâu nhận, tùy nguyện thọ sinh, hoặc nơi nhà thuộc tộc họ phú quý, hoặc nơi đại gia cư sĩ, hoặc nơi nhà tín lạc. Ý đã muốn thọ sinh nơi ấy, liền tạo nhân duyên của nghiệp ấy, khiến được sinh đến nơi chốn ấy, đời đời kiếp kiếp luôn được gặp, gần gũi tri thức thiện chân chánh.
Thế nào là tri thức thiện chân chánh?
Nghĩa là các Đức Phật và Bồ-tát, làm cho nhân duyên của sự tu tập nghiệp thiện, có từ đời trước được tăng trưởng. Bồ-tát thường nghĩ: “Thế gian khổ lụy, thế gian thống khổ! Hết thảy thế gian đều không an ổn, từ lâu vướng phải trọng bệnh là vô minh si ám. Vì sao? Vì nhân duyên của dục. Do đó, nay đối với thế gian khốn ách như vậy, ta không nên cầu thọ năm dục, xét dục chỉ là vọng tưởng, điên đảo, ở trong ba khổ lầm sinh tưởng cho làm lạc. Do vậy, trong các kinh, Như Lai nói đủ các loại nhân duyên của dâm dục, gây nhiều tội lỗi, cần phải dứt sạch.” Vì vậy mà nói dâm dục như cách nướng thịt, thịt quay bị cháy đều. Như lưỡi tham liếm vị hư giả trên dao bén nhọn. Như đầu rắn độc đủ bốn loại độc. Như heo trong chuồng hôi thối bất tịnh. Như chó ngu si gặm xương khô, miệng tiết ra dịch vị, cho đó là ngon. Cũng như khỉ, vượn bị dính chặt vào keo. Do vậy, Bồ-tát phải nên nhàm chán, cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, như pháp xuất gia ở trong chánh pháp, sống nơi không nhà, mến mộ tinh tấn; chưa đắc làm cho đắc, chưa chứng khiến cho chứng, chưa đến khiến được đến. Vì nhân duyên này mà chọn lấy ba tuệ. Đối với Thế đế và Đệ nhất nghĩa đế đã được nêu giảng cần thông hiểu lý thâm diệu của nhị đế. Luôn tùy theo sự giáo huấn, lìa các điên đảo, tu hành như pháp.
Thế nào gọi là tu hành như pháp?
Đó là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Do có khả năng thông đạt đạo đế nên thành tựu lợi căn, thấu rõ về các căn, ưa thích tịch tĩnh, lìa bỏ hết thảy đồ chúng hỗn tạp, huyên náo, đa ngôn, dâm, nộ, si... tất cả ác kiến. Hoàn toàn lìa xa, mọi kiến chấp, bà con, lợi dưỡng, thanh danh khiến thân tâm an vui, điều hòa, thuận hợp.
Lại tư duy quán sát tâm này, sự hoạt động của nó như thế nào là pháp thiện, pháp bất thiện, pháp vô ký? Nếu làm việc thiện làm sinh hoan hỷ. Nếu sinh giác dục gọi là bất thiện.
Dục có ba loại là thượng, trung, hạ.
Thế nào là dục bậc thượng? Đó là dục hiện bày khắp thân ăn sâu trong tâm làm mê loạn điên cuồng, chẳng thể tu hạnh nhân duyên của xa lìa, vì bị đắm nhiễm. Vì sao đắm nhiễm? Vì người ấy chẳng thể sinh tâm hổ thẹn trọn vẹn, nên tuy ở một mình nơi vắng vẻ nhưng vẫn nhớ nghĩ tới việc ấy, không lúc nào quên. Khởi quán giác ác quả quyết rằng dâm dục là hơn hết, ca vịnh, tán thán, vọng tưởng điên đảo, cho là việc hay tốt. Như khỉ, vượn ngu si, thấy trăng trong nước liền muốn chộp bắt, chẳng biết thấy như vậy là lầm, không có tâm hổ thẹn. Do nhân duyên là dục nên có thể tranh giành cùng với cha mẹ, tôn trưởng, chẳng kiên nể thân sơ. Phàm phu ngu si mê say ái nhiễm, chẳng thể xả bỏ nhân duyên dục nên chết rồi bị đọa vào địa ngục súc sinh, thọ các khổ báo. Đây gọi là dục bậc thượng.
Thế nào là dục bậc trung?
Như người tập hành động, gần gũi sự dâm dục, trước chưa giao tiếp, chỉ mới chuẩn bị, việc ấy đang diễn tiến nửa chừng liền sinh tâm hổ thẹn chán bỏ, biết dục là bất thiện, tự hối hận quở trách.
Đây gọi là dục bậc trung.
Thế nào là dục bậc hạ?
Như gặp nhân duyên dục thì nắm tay, xúc chạm, nói chuyện, mắt nhìn có tình ý. Đây gọi là dục bậc hạ. Cho đến nói rộng về dâm dục, thì ngay cả việc trang điểm nơi thân thể, hoặc ái luyến về thọ mạng cùng các tài sản hay sinh tham đắm, tất cả đều là dâm dục.
Thế nào gọi là sân? Sân cũng có ba loại: thượng, trung, hạ.
Sân bậc thượng là hay sinh tâm phẫn hận, oán thù, hung hăng, ác độc, ganh ghét, có thể gây tạo đủ năm trọng tội vô gián, hoặc hủy báng chánh pháp. Do hủy báng chánh pháp nên bị trọng tội, năm tội ngũ nghịch trước không bằng một phần, cho đến chẳng thể lấy gì để tính đếm nếu ví dụ. Do nhân duyên này nên khi chết bị đọa vào đại địa ngục, thọ các quả báo khổ, mãi mãi không ngừng trong vô lượng kiếp. Sau đó được sinh làm người, ánh mắt đỏ kè, tánh tình hung hăng, dối trá, bạo ngược, nói lời hung dữ, sinh nơi nhà hạ tiện, nhà chiên-đà-la. Vì nhân duyên này nên bị sinh tử lưu chuyển không có kỳ hạn vượt thoát. Đây gọi là sân bậc thượng.
Thế nào là sân bậc trung?
Người tuy phát khởi sân, tạo các nghiệp ác nhưng liền sinh tâm hối cải, phát lồ sửa đổi tội vừa mới tạo, sớm tu pháp đối trị. Đây gọi là sân bậc trung.
Thế nào là sân bậc hạ?
Đương lúc sân phát khởi, nói lời thô ác, không ái ngữ, hoặc nhìn một cách hờn giận. Tuy tạo nghiệp bất thiện, nhưng không sân lâu, chỉ trong một niệm sớm biết tu tập pháp đối trị. Đây gọi là sân bậc hạ.
Si cũng có ba loại: thượng, trung, hạ.
Thế nào là si bậc thượng?
Như trước đã nói, những việc làm như vậy là mê hoặc, ngu si; vậy mà không lo buồn, không biết hối cải. Đây gọi là si bậc thượng.
Thế nào là si bậc trung?
Trong lúc bất giác tạo các nghiệp ác, liền sớm hối cải, biết tội đã phạm chẳng ích lợi nên đối trước bạn đồng học phát lồ Sám hối, chẳng dám che đậy.
Đây gọi là si bậc trung.
Thế nào là si bậc hạ?
Đối với giới đã thọ, giả như bị phạm hoặc hai, ba giới đều là tội khai chế, chứ trọn chẳng dám phạm tánh trọng giới. Đây gọi là si bậc hạ.
Trong đây, Bồ-tát khéo dùng phương tiện thiện xảo chế ngự tâm mình, chớ để tạo tội. Chế ngự tâm như vậy làm cho nhân duyên của dâm dục trói buộc không còn sinh lại. Vì sao? Vì khéo hàng phục tâm như thế nên tâm như vô ký. Khi ấy ức niệm chuyên chú quán sát khiến cho tánh tâm ấy cùng thiện tương ứng.
Thế nào gọi là tâm vô ký?
Tâm này chẳng phân tán theo bên ngoài, chẳng trụ ở trong, chẳng trụ nơi thiện, cũng chẳng trụ nơi bất thiện, chẳng thuộc định, chẳng thuộc quán, chẳng thể thu nhiếp để được tịch tĩnh. Tâm này bị sự mê ngủ bức bách, khiến rơi vào trạng thái gần như hôn mê. Như người ngủ mới dậy, sự ngái ngủ chưa tan nên tâm không rõ biết.
Khi ấy, Bồ-tát dùng phương tiện chế phục tâm ấy, làm cho phát khởi sự hoan hỷ, an trụ nơi thiền định. Như vậy là Bồ-tát khéo giải được tâm này. Sau khi giải tâm này rồi, Bồ-tát quán sát các pháp như mộng huyễn, đây là pháp bất thiện, đây là pháp xuất ly, đây là pháp không xuất ly...
Quán như vậy rồi, Bồ-tát biết các pháp này đều nương nơi tâm, do tâm sinh ra, tâm là ông chủ. Nếu có thể điều phục, thu nhiếp, tâm được ngưng bặt, hoặc thông đạt được tánh của tâm thì có khả năng thâu hóa được tất cả các pháp, có khả năng điều phục tất cả các pháp, có khả năng thông đạt tấc cả các pháp. Nếu thấy tất cả các pháp như vậy thì có khả năng tu tâm, dùng tâm buộc tâm, khiến được an tĩnh. Nếu tâm tánh loạn, liền phải chế ngự, khiến tâm an tĩnh trên tâm. Nếu tâm tương ưng với sự tịch tĩnh như vậy, gọi là nhất tâm.
Được nhất tâm rồi, tức nhập vào định. Được nhập định rồi, tịch tĩnh sinh ra một hướng hoan hỷ. Tâm đã hoan hỷ, tham dục liền diệt. Sau khi tham dục diệt thì tất cả pháp bất thiện cũng diệt theo. Có giác, có quán, tịch tĩnh phát sinh, đắc hoan hỷ lạc, nhập định sơ thiền. Khi ấy vì diệt trừ giác quán nên Bồ-tát cần hành tinh tấn, không nhiễm chấp nơi hương vị của hoan hỷ lạc. Vì sao? Vì nó vô thường. Chuyển tâm hành nơi Sơ thiền, lìa sự giác quán, tâm không nhiễm vướng. Không giác không quán, Tam-muội phát sinh, đắc hoan hỷ lạc, nhập Đệ nhị thiền. Bấy giờ, thấy sự an lạc này, Bồ-tát quyết cho là khổ. Vì sao? Vì thuộc về ba khổ.
Khi ấy Bồ-tát trụ vào tâm Xả. Trụ vào tâm Xả rồi Bồ-tát nhớ nghĩ chân chánh, rõ biết thân đang thọ lạc. Tất cả Thánh nhân gọi lạc này là xả. Ức niệm trụ lạc, nhập Đệ tam thiền.
Khi đó, vì thấy Đệ tam thiền chưa rốt ráo, nên Bồ-tát cầu Tứ thiền, liền khiến tâm ấy nhập vào Tứ thiền, làm cho các ngã kiến đều hồi chuyển. Lạc cũng diệt theo, các khổ cũng diệt. Khổ, lạc diệt, nên vui buồn từ trước đến nay cũng diệt. Không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh, nhập Đệ tứ thiền.
Lại khởi quán hành, tự thấy thân cùng với hư không chỉ là một tướng. Quán như vậy rồi thì hoàn toàn siêu việt mọi sắc tướng, không còn tưởng ngăn ngại. Vì sao? Vì đã vượt qua được sắc tưởng nên không còn chướng ngại. Đối với tất cả tưởng chỉ thấy vô ngại, vô biên như hư không, nên liền nhập vào hư không vô biên. Khi đó, lại thấy thức tương ưng cùng với hư không vô biên nên tự cho thức đây không có biên vực liền nhập vào thức vô biên. Vượt qua thức ấy rồi, trong đó chỉ còn cái tâm vô tướng. Tất cả các hành diệt, không còn công dụng của tâm. Đậy gọi là diệt.
Tâm như vậy diệt, Bồ-tát phải nên biết nhập định trở lại, tấn tu không ngừng nghĩ. Lúc này khởi lòng từ tương ưng cùng tâm ấy, đầy đủ như trước đã nói, cho đến tu chứng đắc sáu thông tự tại, ở đây cũng lại tinh tấn không ngừng, cần cầu tu viên mãn pháp hạnh Bồ-đề.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp Thiền ba-la-mật.
Này thiện nam! Bồ-tát lại có đầy đủ mười pháp Bát-nhã ba-la-mật. Những gì là mười?
1. Thông hiểu chân lý vô ngã.
2. Thông hiểu quả báo của các nghiệp.
3. Thông hiểu pháp hữu vi.
4. Thông hiểu sự sinh tử tương tục.
5. Thông hiểu sự sinh tử không tương tục.
6. Thông hiểu đạo Thanh văn, Bích-chi-phật.
7. Thông hiểu đạo Đại thừa.
8. Thông hiểu pháp xa lìa nghiệp ma.
9. Trí tuệ không điên đảo.
10. Trí tuệ không ai bằng.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát thông hiểu chân lý vô ngã?
–Này thiện nam! Đại Bồ-tát khéo dùng chánh tuệ quan sát sắc ấm, cho đến khéo quan sát thọ, tưởng, hành thức. Quan sát như vậy chẳng thấy sắc sinh, chẳng thấy sắc tập, chẳng thấy sắc diệt. Cho đến đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng không thấy sinh, cũng không thấy tập, cũng không thấy diệt. Vì sao? Vì bản chất thật của nó là vậy, chẳng do thế tục chỉ là giả danh. Tánh chân thật ấy cùng tánh thế tục, hai loại tánh này văn tự, chương cú chẳng thể diễn nói. Do nhân duyên này nên tinh tấn không ngừng, như cứu lửa cháy đầu. Tinh tấn dũng mãnh làm lợi ích cho chúng sinh. Đây là Bồ-tát thông hiểu chân lý vô ngã.
-tát thông hiểu quả báo của các nghiệp?
Bồ-tát nên quán sát như vầy: “Các thức quả báo thế gian cho là có, tự tánh vốn là không, tựa như kỹ nhi, thành Càn-thát-bà. Cái được gọi là chúng sinh thì chẳng phải chúng sinh. Vậy mà cứ chấp chặt các tướng, gắn chặt vào ngã kiến. Do nhân duyên này nên chẳng đạt chân lý. Vì không thể thấu đạt lý chân đạo nên thấy như vậy. Nếu nói không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ giả, không sĩ phu, không dưỡng dục, không nam nữ, cho đến khi có các nghiệp báo nhân quả, thiện ác, vậy thì ai sinh, ai tử?” Khi ấy Bồ-tát tuy biết không có chúng sinh nhưng lại có nghiệp, có quả báo. Bồ-tát cũng biết phi chúng sinh, phi nghiệp báo, nhân quả thiện ác, là chánh tuệ chân thật. Đây là Bồ-tát thông hiểu nghiệp báo nhân quả. Thế nào là Bồ-tát thông hiểu các pháp hữu vi?
Đối với tất cả các pháp hữu vi, Đại Bồ-tát nhờ khéo dùng trí tuệ quan sát mà thông đạt. Bồ-tát nên khởi quán như vầy: “Các pháp hành này dao động không ngừng, như giọt sương buổi sáng, khi mặt trời lên liền tiêu tan. Như thác nước chảy xuống mà không trở về. Đối với pháp hành như vậy, người có trí ai lại sinh tâm tham chấp, luyến mộ?!” Nếu có thể quán thấy chân thật như vậy, thấy nhân duyên một cách như thật thì liền sinh tâm tịch diệt, chán bỏ. Đây là Bồ-tát thông hiểu pháp hữu vi.
-tát thông hiểu sự sinh tử lưu chuyển?
Bồ-tát khéo dùng trí tuệ thông đạt các pháp hữu vi, suy lường như vầy: “Con mắt tuệ của khắp cả thế gian bị vô minh tối tăm che đậy. Như người mù tối không thấy đường đi. Do đâu có thể thoát ly được sinh tử? Do đắm, vướng sinh tử, bị ràng buộc vì sợi dây thừng tham ái liền giữ lấy bốn Thủ, đi vào ba cõi. Sinh tử chìm đắm do nhân duyên Thủ nên tạo tác nghiệp thiện, bất thiện. Do các hành nghiệp thiện, bất thiện, nên có nhân duyên sinh, thọ sinh trong ba cõi. Do nhân duyên sinh nên có già, có chết. Nhân duyên già chết, ưu bi, khổ não vô lượng bất tận, lưu chuyển như vậy giống như bánh xe sinh tử luân hồi lại không chấm dứt.” Đây gọi là Bồ-tát thông hiểu sự sinh tử lưu chuyển.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát thông hiểu sự chấm dứt sinh tử?
Đại Bồ-tát khởi quán như vầy: “Do vô minh diệt nên không còn đắm nơi sinh tử. Do không chấp trước nên Tham ái không sinh. Do tham không sinh nên Thủ chẳng sinh. Do Thủ chẳng sinh nên Hữu không còn tương tục. Do không tương tục nên sinh tức là chẳng sinh. Do sinh tức bất sinh nên các khổ não, già chết, ưu bi... đều bi đoạn diệt, hoàn toàn rốt ráo.” Đại Bồ-tát nương vào đạo lý ấy, khéo dùng trí tuệ nên được thông đạt. Đây gọi là Bồ-tát thông hiểu sự chấm dứt sinh tử.
-tát thông hiểu Thanh văn, Bích-chi-phật thừa?
Bồ-tát nên quán như vầy: “Nếu hành pháp này thì đắc quả Tu-đà-hoàn, hoặc đắc quả Tư-đà-hàm, hoặc đắc quả A-na-hàm, hoặc đắc quả A-la-hán, đầy đủ sáu thông, không còn các kết sử, hướng đến đạo Niết-bàn, không còn trói buộc. Hoặc hành pháp này chứng đắc Duyên giác, tự độ, tự thoát, tựa như tê giác.”
Các pháp như vầy, Bồ-tát khéo dùng trí tuệ nên đều thông đạt. Tuy thông đạt như vậy nhưng Bồtát không thủ chứng. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát suy nghĩ: “Nay các loài chúng sinh nương nhờ ta. Ta phải gầm lên tiếng sư tử thệ nguyện độ thoát họ. Do vậy, nay hết thảy chúng sinh còn sinh tử nhiều như rừng rậm nơi đồng hoang hiểm nạn ta chưa độ xong, thì không nên tự độ thoát mình khỏi sinh tử nguy hiểm.” Đây là Bồ-tát khéo hiểu đạo Thanh văn, Duyên giác thừa.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát thông hiểu Đại thừa?
Bồ-tát học tất cả các loại kinh pháp, giới luật do chư Phật chế một cách rốt ráo không sót, nhưng Bồ-tát không thủ đắc về chỗ mình học, không thủ đắc sự học đạo, cũng không thủ đắc về tất cả các pháp đã học. Không vì nhân duyên như vậy mà rơi vào đoạn kiến. Đây là Bồ-tát thông hiểu chánh đạo
Đại thừa.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát thông hiểu pháp lìa xa nghiệp ma?
Đại Bồ-tát hoàn toàn lìa xa tri thức ác và cũng chẳng đến những xóm làng, quốc độ thọ trì đọc tụng ngoại điển, chú thuật Lộ-Già-dạ-đa. Đối với sự tham cầu lợi dưỡng, cung kính ân trọng, Bồ-tát biết rồi liền lìa xa bỏ tất cả, cũng hoàn toàn lìa bỏ các thứ kết sử, các phiền não mê hoặc hay làm chướng ngại đạo, thanh tịnh của Bồ-tát. Bồ-tát tu pháp mô đối trị, đoạn trừ các thứ đó một cách rốt ráo. Đây là Bồ-tát thông hiểu pháp lìa xa nghiệp ma.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát thông hiểu trí tuệ không điên đảo?
Đối với tất cả các đạo thuật, kỹ nghệ của thế gian, Đại Bồ-tát đều đọc hiểu. Vì sao? Vì muốn thành tựu mọi lợi ích cho chúng sinh. Chẳng vì muốn được sự hiểu biết, mà chỉ vì hiển dương ánh sáng chánh pháp và công đức tối thắng của Như Lai. Đối với các pháp bên ngoài, Bồ-tát không sinh tưởng công đức ưu thắng, luôn chỉ hiểu rằng kinh giáo của Như Lai mới là thâm diệu tối thắng, các luật Tỳ-ni là công đức vô lượng. Do vậy, Bồ-tát không chấp giữ nơi pháp tà kiến ngoại đạo cho là thanh tịnh. Đây là Bồ-tát đạt được trí tuệ không điên đảo.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đạt được trí tuệ không ai bằng?
Trí tuệ của Đại Bồ-tát đối với thế gian này, hoặc ma, hoặc Phạm, hoặc Sa-môn, hoặc Bà-lamôn, hoặc người, hoặc trời... khắp cả mười phương, không một ai có trí tuệ sánh bằng. Chỉ trừ Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri, ngoài ra không có trí tuệ nào hơn trí tuệ của Bồ-tát. Trí tuệ của trời, của Phạm, của người, của ma... khắp cả thế gian không thể sánh với trí tuệ của Bồ-tát. Đây là Bồ-tát đạt được trí tuệ không ai sánh bằng.
Này thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp Bát-nhã ba-la-mật viên mãn.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại đủ có mười pháp thông hiểu Phương tiện ba-la-mật. Những gì là mười?
1. Thông hiểu phương tiện hồi hướng mãn nguyện.
2. Thông hiểu phương tiện chuyển đổi các ngoại đạo.
3. Thông hiểu phương tiện chuyển đổi các độc của trần cảnh.
4. Thông hiểu phương tiện điều phục nghi, hối.
5. Thông hiểu phương tiện cứu tế chúng sinh.
6. Thông hiểu phương tiện kéo dài mạng sống chúng sinh.
7. Thông hiểu phương tiện thâu nhận.
8. Thông hiểu phương tiện xứ chẳng phải xứ.
9. Thông hiểu phương tiện khuyến hòa, chỉ dạy, dẫn dắt, tạo lợi ích an vui.
10. Thông hiểu phương tiện cúng dường, thừa sự.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát thông hiểu phương tiện hồi hướng mãn nguyện?
Này thiện nam! Nếu thấy hoa quả không có chủ, chẳng thuộc của ai, Bồ-tát liền dùng hoa quả ấy cúng dường Phật cùng chư Bồ-tát, ngày đêm sáu thời. Đem nhân duyên đạt được công đức này hồi hướng lên quả vị Bồ-đề vô thượng.
Nếu thấy các thức hương, vật báu, nghĩa không có chủ, chẳng thuộc của ai, Bồ-tát ngày đêm sáu thời liền đem cúng dường rồi hồi hướng lên quả vị Bồ-đề vô thượng. Nghe trong các kinh nói về sự cúng dường đủ các loại thắng diệu đặc biệt, rồi hết lòng hồi hướng đến khắp cả chư Phật Thế Tôn trong mười phương thế giới, tất cả Bồ-tát, tất cả chúng sinh có nghiệp thiện tu hành Bồ-đề. Do thâm tâm tùy hỷ hồi hướng lên Bồ-đề vô thượng nên đối với tượng Phật, tháp Phật, Bồ-tát đem hoa quả cúng dường, liền hồi hướng nguyện cho các chúng sinh lìa xa sự phá giới, tập khí cấu uế; nguyện cho các chúng sinh được hương giới định tuệ thơm ngát của Như Lai.
Nếu khi cúng dường Phật bằng cách quét dọn, nguyện cho các chúng sinh được đầy đủ oai nghi đoan chánh.
Nếu đem cờ, lọng cúng dường Tam bảo, đều hồi hướng nguyện cho các chúng sinh lìa xa tất cả phiền não bức bách.
Nếu vào chùa, nguyện cho các chúng sinh vào chùa Niết-bàn.
Nếu ra khỏi chùa, nguyện cho chúng sinh vượt thoát lao ngục sinh tử nguy khốn.
Nếu khi mở cửa, nguyện các chúng sinh mở cửa đường thiện.
Nếu khi đóng cửa, nguyện cho chúng sinh đóng chặt cửa đường ác.
Nếu khi ngồi nghỉ, nguyện cho các chúng sinh được ngồi nơi đạo tràng.
Nếu khi tắm rửa, nguyện cho chúng sinh lìa được phiền não cấu bẩn.
Nếu khi uống nước, nguyện các chúng sinh lìa được mọi sự hôi thối.
Nếu khi rửa chân, nguyện các chúng sinh lìa được phiền não chướng.
Nếu dùng cành dương, nguyện cho chúng sinh trừ mọi thức bất tịnh.
Ra, vào, động, tịnh... Nguyện thân ta đây tạo lợi ích an lạc cho tất cả chúng sinh trong sáu đường.
Nếu khi lễ Phật, nguyện các chúng sinh sớm thành tựu thân Phật, được tất cả trời, người cung kính.
Đây là Bồ-tát thông hiểu đầy đủ phương tiện hồi hướng mãn nguyện.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát thông hiểu phương tiện hồi chuyển ngoại đạo?
Đại Bồ-tát hóa làm đạo sĩ, Phạm chí, Ni-kiền, thường ở những nơi chốn có pháp ngoại đạo, vì nhân duyên muốn chúng sinh kia theo học kinh pháp được thành tựu mà nghĩ rằng: “Những chúng sinh ấy có nhiều kiêu mạn. Nếu ta làm Pháp sư đến giáo hóa, họ sẽ không tin thọ. Do vậy, trước hết ta phải xuất gia làm đệ tử ngoại đạo, theo họ tu học, tinh tấn dũng mãnh, oai nghi tinh tế, chắc chắn sẽ vượt hơn đồ chúng ngoại đạo. Nhờ đa văn, nhờ khổ hạnh, ta mới có thể làm Pháp sư ngoại đạo, lời nói có giá trị, biện tài đầy đủ, đáng được tôn trọng.”
Biết họ tin mình rồi, Bồ-tát mới phê phán đạo của họ, chỉ ra những lầm lỗi của họ như vầy: “Này nhân giả! Đạo của ông học chẳng phải là đạo thanh tịnh, chẳng phải lìa dục, cũng chẳng phải là nẻo xuất ly, chẳng thể diệt trừ chướng ngại.” Sau khi làm cho hàng tà đạo ấy hồi chuyển, Bồ-tát mới đem chánh pháp an lập cho họ.
Vì hàng Tiên đạt năm thông, Bồ-tát thọ trì phạm hạnh, tu phạm hạnh này tinh tấn dũng mãnh, chắc chắn đạt được pháp thuật ngoại đạo. Bồ-tát dũng mãnh như vậy, thành tựu được Tam-muội tam-ma-bát-đề, vượt hơn hẳn các Tiên đạt năm thông của ngoại đạo. Vì các Tiên nhân, Bồ-tát làm đại Pháp sư được đời sùng kính. Biết thời cơ đem lại sự thành tựu đầy đủ cho các ngoại đạo đã đến, Bồ-tát liền phê phán, chỉ những lỗi lầm nơi hiện pháp của họ.
Từ thiền định ấy, Bồ-tát hồi chuyển họ như vầy: “Này nhân giả! Đạo này chẳng thanh tịnh, chẳng phải là pháp xuất ly, cũng chẳng thể diệt trừ tất cả chướng ngại.” Từ pháp như vậy, hồi chuyển họ xong, Bồ-tát đem chánh pháp của Phật an lập cho họ. Đây là Bồ-tát thông hiểu phương tiện hồi chuyển ngoại đạo.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát hồi chuyển các độc nơi trần cảnh?
Đại Bồ-tát thấy các chúng sinh đắm nhiễu tham dục, vì muốn dứt trừ nhân duyên tham dục ấy nên Bồ-tát tạo phương tiện hóa thành người nữ tuyệt sắc, dung mạo đoan chánh, đầy đủ tướng hảo hơn người nữ khác. Thấy người nữ ấy, chúng sinh liền khởi tham đắm, mê say ái lạc. Đến giờ ngủ nghỉ thọ lạc, bỗng nhiên người nữ ấy chết, chỉ trong khoảnh khắc biến thành thây hôi thối, bất tịnh đáng ghét. Chúng sinh thấy liền kinh sợ, hoảng hồn, khổ não, nhàm chán cực độ, suy nghĩ: “Thây hôi thối này, ai có thể trừ bỏ?” Khi ấy, Bồ-tát đứng trước người đó nói pháp, khiến được quyết định, khiến vào chánh vị, tùy theo ba loại Bồ-đề mà được một loại. Đây là Bồ-tát thông hiểu phương tiện hồi chuyển các độc nơi trần chảnh.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát thông hiểu phương tiện đoạn trừ nghi, hối?
Đại Bồ-tát thấy chúng sinh này tạo tội ngũ nghịch cùng các loại nghiệp tội bất thiện khác, Bồtát đến nơi ấy, hỏi: “Này nhân giả! Vì sao ngươi sầu buồn, không an lạc, tâm không ổn định, như kẻ mất thần?” Đáp: “Thưa hiền giả! Tôi đã tạo các nghiệp về tội nghịch, do nhân duyên này nên nay tôi mất thần, lòng lo sợ không ổn định. Vì tội này mà đời vị lai tôi sẽ thọ các khổ não, thọ các điều không lợi ích.”
Khi đó, Bồ-tát ghi nhận lời ấy. Vì nhân duyên này, trước muốn họ tin thọ nên Bồ-tát hiện thần thông. Thấy thần thông ấy, người này tin, rồi ở bên Bồ-tát được niềm vui lớn, sinh tâm tin hiểu, kham nhận lời pháp. Khi họ tin như vậy rồi, Bồ-tát liền đối trước người đó dùng sự biến hóa, hóa làm cha mẹ mà nói: “Nhân giả thấy không? Cha mẹ của ta cũng bị ta sát hại.” Hại cha mẹ xong, Bồ-tát lại dùng thần thông hóa hiện trước người ấy khiến họ hoan hỷ, nghĩ rằng: “Người có đại thần thông như vậy còn giết cha mẹ, huống gì là ta.” Khi ấy, Bồtát vì chúng sinh nay mà thuyết giảng pháp yếu, khiến cho nghiệp tội của họ biến chuyển mỏng nhẹ như lông hồng. Đây là phương tiện thiện xảo đoạn trừ nghi, hối của Bồ-tát.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát thông hiểu phương tiện cứu tế chúng sinh?
Đại Bồ-tát nếu thấy chúng sinh tạo nghiệp ác mà có khả năng nghe, nhận chánh pháp; khi ấy vì giáo hóa họ nên Bồ-tát khéo dùng thần thông.
Như người cần được độ bằng thân vua, Bồ-tát liền hiện thân vua.
Hoặc người cần được độ bằng thân tể tướng, Bồ-tát liền hiện thân tể tướng.
Hoặc người cần được độ bằng thân hàng Sátlợi giàu sang, Bồ-tát liền hiện thân đó.
Hoặc người cần được độ bằng thân trời, Bồ-tát liền hiện thân trời.
Hoặc có chúng sinh cần được độ bằng lời nói mềm mỏng, Bồ-tát liền dùng lời nói mềm mỏng giáo hóa họ.
Hoặc người cần được độ bằng thân Kim cang, Bồ-tát liền hiện thân Kim cang.
Hoặc có chúng sinh cần được độ bằng sự kinh hãi, Bồ-tát liền hiện sự kinh hãi để độ.
Hoặc có người cần được độ bằng sự đánh đập, mắng chửi, trói buộc, Bồ-tát liền hiện các việc ấy để độ.
Hoặc có chúng sinh muốn tạo sự ngỗ nghịch, đánh đập, gây hại, Đại Bồ-tát thấy những việc ấy liền sinh tâm thương xót, suy nghĩ: “Những chúng sinh này muốn đến não hại ta.” Bồ-tát thấy rõ chúng sinh này như xem quả A-ma-lặc trong bàn tay, sinh tâm lo lắng, suy xét: “Nay thân ta đây, thà thọ khổ lớn nơi địa ngục A-tỳ, để chúng sinh ấy được vào vô dư Niết-bàn, được giải thoát.” Bồ-tát thấy chúng sinh ấy tạo các nghiệp tội, do nhân duyên này, sau khi xả thân đây, họ liền thọ khổ báo trong địa ngục A-tỳ, khi ấy Bồ-tát sinh tâm thương xót, vì lòng từ bi nghĩ nhớ chúng sinh ấy mà dùng sự trị phạt để chiết phục họ, sau đó mới dạy cho họ Sám hối. Đây là phương tiện thiện xảo cứu tế chúng sinh của Bồ-tát.
Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát thông hiểu phương tiện kéo dài thọ mạng chúng sinh?
Đại Bồ-tát nếu thấy chúng sinh không được lợi dưỡng, không có uy lực, chẳng biết được diệu pháp của chư Thánh, tìm cầu sự ăn uống nhưng chẳng đủ để nuôi thân miệng. Khi ấy Bồ-tát vì những người này mà chỉ dạy đạo lý văn chương, kỹ nghệ, toán số, cùng các loại pháp thuật ứng hợp với từng người, khiến cho họ được đủ sống được tồn tại. Đây là Bồ-tát thông hiểu phương tiện kéo dài thọ mạng cho chúng sinh.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát thông hiểu phương tiện thâu nhận?
Đại Bồ-tát nếu được các loại châu báu nhiều, lớn như núi Tu-di, đều vì chúng sinh mà thọ nạp; đối với vật cỏn con cũng vì chúng sinh mà thọ nạp. Vì sao? Vì Bồ-tát suy nghĩ: “Do những chúng sinh này tham lam keo kiệt, nắm giữ chặt chẽ, tham đắm không chán. Vì nhân duyên tham lận mà lưu chuyển, chìm đắm trong biển lớn sinh tử. Giống như những dòng sông đều chảy ra biển lớn, những chúng sinh này bị đọa vào ba đường ác cũng lại như vậy.” Vì an lạc, lợi ích của chúng sinh này cho nên Bồ-tát thọ nhận vật bố thí, không vì tư lợi, không vì lợi nhuận cho bản thân mà thọ giữ vật thí cũng không sinh tâm tham. Chỉ vì tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh cùng hưởng. Chỉ vì cúng dường Phật, Pháp, Tăng bảo. Chỉ vì cứu giúp chúng sinh nghèo khổ. Vì khiến cho đàn-việt được hoan hỷ, được lợi ích. Đây là phương tiện thiện xảo thâu nhận của Bồ-tát.
Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát thông hiểu phương tiện xứ phi xứ?
Đại Bồ-tát nếu thấy chúng sinh có đại oai lực, có khả năng thành tựu quả vị Bồ-đề vô thượng mà thực hành các hạnh cầu đạo Thanh văn, Bích-chiphật một cách tin tấn, dũng mãnh. Khi ấy, Bồ-tát từ chỗ như vậy mà tạo phương tiện khiến cho người đó xả bỏ, chỉ rõ về đạo Đại thừa khiến cho tu hành. Nếu không tin thọ thì Bồ-tát phải thị hiện sự tranh chấp lớn để hàng phục họ. Đây là Bồ-tát thông hiểu phương tiện xứ phi xứ.
Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát thông hiểu phương tiện khuyến hóa lợi vui?
Đối với những ai chưa phát tâm Bồ-đề, Đại Bồtát có khả năng làm cho họ phát tâm. Người đã phát tâm mà biếng nhác, uể oải, Bồ-tát làm cho tinh tấn. Người không trì giới, Bồ-tát khiến cho trì giới. Nếu người làm ít điều lành mà tự cho là đủ, Bồ-tát phát khởi phương tiện khiến cho làm đủ các điều thiện. Nếu thấy chúng sinh vin vào giới đã phạm có thể sám hối, do nhân duyên tâm bế tắc mà trụ nơi bất an, không vui; khi ấy Bồ-tát vì chúng sinh này nói rộng pháp yếu, khiến họ được Sám hối, diệt trừ tội ấy. Như vậy là Bồ-tát thông hiểu phương tiện khuyến hóa, lợi vui.
Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát thông hiểu phương tiện thừa sự, cúng dường?
Đại Bồ-tát được xuất gia rồi, không có người cúng dường thì nên biết đủ cái hiện có như pháp. Ở một mình nơi thanh vắng, tịch tĩnh, khởi niệm tư duy: “Nay ta làm thế nào để cúng dường, thờ kính Đức Như Lai?” Tư duy như vậy, tâm tâm không gián đoạn. Bồ-tát nghĩ cúng đủ mọi thứ, nguyện được cúng dường thờ kính Tam bảo, chỉ bằng cách thực hành viên mãn sáu pháp Ba-la-mật.
Ở trong một niệm, vận tâm cúng dường, xả bỏ mọi thứ quan trọng. Đây là Thí ba-la-mật.
Vận tâm cúng dường duyên theo các chúng sinh mà phát tâm này. Đây là Giới ba-la-mật.
Ở trong tâm ấy, luôn an tọa, an lạc, đây là Nhẫn ba-la-mật.
Ở trong tâm ấy không mệt mỏi, đây là Tinh tấn ba-la-mật.
Ở trong tâm ấy không tán loạn, không động, đây là Thiền ba-la-mật.
Ở trong tâm ấy suy nghĩ cúng dường đầy đủ các loại, đây là Bát-nhã ba-la-mật.
Như vậy là Bồ-tát thông hiểu phương tiện thờ kính, cúng dường.
Này thiện nam! Đủ mười việc cúng dường này là thông hiểu Phương tiện ba-la-mật đầy đủ.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp nguyện Ba-la-mật đầy đủ. Những gì là mười?
1. Nguyện không thấp kém.
2. Nguyện không khiếp nhược.
3. Nguyện vì lợi ích độ thoát tất cả chúng sinh.
4. Nguyện xưng tán công đức tất cả chư Phật.
5. Nguyện hàng phục tất cả ma oán.
6. Nguyện không do nhân gì mà tin kẻ khác.
7. Nguyện không biên vực.
8. Nguyện không kinh sơ.
9. Nguyện không mệt mỏi, chán nản.
10. Nguyện rốt ráo viên mãn thanh tịnh các nguyện.
Này thiện nam! Thế nào là Bồ-tát nguyện không thấp kém?
Đại Bồ-tát không vì thọ nhận cái vui nơi ba cõi mà phát thệ nguyện. Đó gọi là Bồ-tát nguyện không thấp kém.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát nguyện không khiếp nhược?
Đại Bồ-tát phát hoằng thệ nguyện không cầu thoát ly ra ngoài ba cõi mà tự thủ chứng. Đó gọi là Bồ-tát nguyện không khiếp nhược.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát nguyện vì lợi ích độ thoát tất cả chúng sinh?
Đại Bồ-tát phát nguyện như vầy: “Nguyện cho tất cả chúng sinh cùng tận đời vị lai đều đạt được Vô dư Niết-bàn trước, sau đó ta đối với Niết-bàn của Phật mà Bát-niết-bàn.” Đó gọi là Bồ-tát nguyện cứu độ tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát nguyện xưng tán công đức tất cả chư Phật?
Đại Bồ-tát phát nguyện như vầy: “Nếu có chúng sinh nào chưa phát tâm Bồ-tát thì ta giáo hóa khiến cho phát tâm. Đã phát tâm rồi thì ta giúp cho người đó thực hành các hạnh Bồ-tát theo thứ lớp. Đã tu hành rồi thì ta làm cho người đó an tọa nơi đạo tràng, ta thiết lễ cúng dường, thỉnh vị ấy chuyển pháp luân, thỉnh trụ ở thế gian đem lại lợi ích cho chúng sinh, chớ vào Niết-bàn.” Đây gọi là Bồ-tát nguyện xưng tán công đức tất cả chư Phật.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát nguyện hàng phục tất cả ma oán?
Đại Bồ-tát phát nguyện như vầy: “Nay ta nên làm những việc như thế, chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng rồi thì cõi nước của ta không nghe danh từ ma. Tất cả dân ma không sinh trong cõi nước ta.” Đây gọi là Bồ-tát nguyện hàng phục tất cả ma oán.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát nguyện không vì lý do gì tin theo người khác?
Đại Bồ-tát không tin người khác nên nguyện được thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Vì sao? Vì Bồ-tát dùng trí tuệ, tác niệm tư duy: “Chúng sinh cõi này vướng mắc khổ nơi sinh tử, không ai giải cứu, không ai bảo hộ. Vì cứu hộ họ nên ta phát nguyện chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng.” Đầy gọi là Bồ-tát nguyện không vì lý do gì tin theo kẻ khác.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát phát nguyện vô biên?
Bồ-tát phát nguyện không có giới hạn, hạnh không chấp trước. Do vậy, Bồ-tát trịch áo bày vai phải, quỳ gối phải chấm đất, chí tâm khuyến thỉnh, quán khắp mười phương hết thảy thế giới có chư Bồ-tát an tọa ở đạo tràng, có chư Bồ-tát ở mười phương cõi thành tựu đạo quả Đẳng chánh giác, Bồ-tát thỉnh các vị ấy chuyển pháp luân. Các chúng sinh căn tánh bất đồng, tùy theo đó mà khéo nhớ nghĩ, tin hiểu những lời pháp yếu của chư Phật giảng thuyết. Tin hiểu như vậy, tùy theo đó mà được an vui. Sau khi phát khởi tùy hỷ, liền hồi hướng lên quả vị Bồ-đề vô thượng. Đây gọi là Bồtát phát nguyện vô biên đầy đủ.
Thiện nam! Thế nào Bồ-tát phát nguyện không lo sợ?
Đại Bồ-tát từ lúc mới phát tâm, nghe pháp thâm diệu của chư Phật, nghe công đức vô cùng sâu xa của Phật, nghe thần thông diệu dụng hết mức sâu xa của chư Bồ-tát, nghe phương tiện vô cùng sâu rộng của chư Bồ-tát, Bồ-tát không lo, không sợ, không hãi, không kinh, mà nghĩ: “Bồ-đề vô lượng, vô biên của chư Phật, cảnh giới vô lượng, vô biên của chư Phật, thành tựu đầy đủ cho chúng sinh vô lượng, vô biên. Những hạng như ta làm sao có thể nghĩ tính về cảnh giới của Như Lai? Vì sao? Vì chỉ có chư Phật Như Lai tự hay biết việc đó. Còn ta thì chẳng thể biết.” Đây gọi là Bồ-tát nguyện đầy đủ không kinh không sợ.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát phát nguyện không mệt mỏi?
Bồ-tát nếu thấy chúng sinh cứng cõi, khó điều, phục phóng dật buông lung, chẳng nhận sự giáo hóa; các Bồ-tát này ngán sợ điều đó. Do nhân duyên ngán sợ những chúng sinh cứng cõi khó điều phục, khó giáo hóa như vậy, nên Bồ-tát liền sinh tâm mệt mỏi, chối bỏ họ, phát nguyện vãng sinh về thế giới thanh tịnh, về cõi tịnh của Phật. Trong cõi tịnh ấy không có những chúng sinh cứng cõi như vậy, cùng các danh từ ấy. Bồ-tát không muốn nghe tên người này, huống nữa là thấy hình tướng. Nếu có Bồ-tát chối bỏ chúng sinh thì cũng chẳng được thọ sinh đến các cõi Phật thanh tịnh.
Trong các Bồ-tát ấy, có nhiều trí tuệ phát tâm bình đẳng như vầy: “Tất cả thế giới có các chúng sinh gàn bướng, cố chấp, ngu tối, đui điếc, câm ngọng, không có tánh Niết-bàn; chư Phật, Bồ-tát đã bỏ rơi họ từ thế giới ấy. Ta nguyện những chúng sinh ấy đều vân tập đến trong quốc độ Phật trang nghiêm của ta. Những chúng sinh như vậy, ta chẳng để sót một ai, đều khiến cho ta tất cả đều được quả vị Bồ-đề vô thượng, an tọa nơi đạo tràng giác ngộ rốt ráo quả Phật.”
Khi Đại Bồ-tát nghĩ như vậy, từ lúc mới phát tâm, tất cả tâm ma không chỗ nào mà không rúng động, được tất cả chư Phật trong mười phương khen ngợi. Cõi Phật trang nghiêm của Bồ-tát này sớm được thành tựu, thanh tịnh viên mãn. Bồ-tát chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng.
Đây gọi là Bồ-tát nguyện không chán nản, mệt mỏi.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát khéo thành tựu rốt ráo đầy đủ các nguyện?
Đại Bồ-tát an tọa nơi đạo tràng, phá trừ quân ma, cho đến chứng đắc Bồ-đề vô thượng, sau không còn phát nguyện, đây gọi là được nguyện như ý, được nguyện Bồ-đề viên mãn. Ví như bát dầu tràn đầy, chẳng thể chứa thêm một giọt như vi trần. Do vậy mà nói bát dầu ấy tràn đầy, rốt ráo viên mãn. Đại Bồ-tát chứng đắc Phật đạo, không còn phát nguyện giống như vi trần cũng lại như vậy. Do tất cả các nguyện đều rốt ráo viên mãn nên gọi là khéo hoàn thiện đầy đủ.
Thiện nam! Đại Bồ-tát do mười pháp này nên nguyện Ba-la-mật được đầy đủ.
Thiện nam! Đại Bồ-tát có mười pháp lực Bala-mật đầy đủ. Những gì là mười?
1. Đầy đủ lực chẳng bị hàng phục.
2. Đầy đủ lực chẳng bị phá hoại.
3. Đầy đủ lực phước đức.
4. Đầy đủ lực trí tuệ.
5. Đầy đủ lực quyến thuộc.
6. Đầy đủ lực thần thông.
7. Đầy đủ lực tự tại.
8. Đầy đủ lực Đà-la-ni.
9. Đầy đủ lực không bị chấn động.
10. Đầy đủ lực siêu việt vô trí.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ lực chẳng bị hàng phục?
Tất cả ngoại đạo đều chẳng thể hàng phục Đại Bồ-tát. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ lực chẳng bị hàng phục.
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ lực chẳng bị phá hoại? Thiện nam! Đại Bồ-tát đối với các hàng trời, người trong đám chúng sinh, không một chúng sinh nào dùng đạo lực của mình có thể phá hoại lực của Bồ-tát. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ lực chẳng thể bị phá hoại.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ lực phước đức?
Trong các hạnh phước đức, không có một hạnh nào của thế gian và xuất thế gian mà Bồ-tát không trải qua. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ lực phước đức.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ lực trí tuệ?
Đối với các pháp Phật, Đại Bồ-tát dùng thiện tuệ nên không một pháp nào là không thấy, không chứng, không thông đạt, chỉ trừ trí tuệ sâu xa của Như Lai. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ lực trí tuệ.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ lực quyến thuộc?
Quyến thuộc của Bồ-tát là người không phá giới, người không tà kiến, người chẳng trái oai nghi, người không tà mạng. Vì sao? Vì quyến thuộc của Bồ-tát theo chỗ có tư sinh cùng nhau chia đều, nghĩa là đầy đủ tự lợi và lợi tha. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ lực quyến thuộc.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ lực thần thông?
Đối với các lực thần thông của thế gian cùng các cảnh giới của hàng Thanh văn, Duyên giác, Đại Bồ-tát đều siêu việt. Vì sao? Vì lực thần thông của Bồ-tát là tối thắng. Nếu an lập cõi Diêm-phù-đề trong một sợi lông, Bồ-tát làm được, không có tổn giảm. Bốn châu như vậy với bao nhiêu thế giới, hoặc tam thiên đại thiên thế giới, hoặc số thế giới nhiều như các sông Hằng mà an lập chúng trong một vi trần, Bồ-tát vẫn an lập được, không tăng giảm. Hoặc hai, hoặc ba, hoặc bốn, hoặc năm, hoặc sáu, hoặc bảy, hoặc tám, hoặc chín, hoặc mười hằng hà sa số thế giới, hoặc có thể nêu, hoặc không thể nêu bày, hằng hà sa số thế giới an lập trong một vi trần, Bồ-tát an lập cũng không tăng giảm. Những thế giới ấy cũng không chướng ngại nhau. Chúng sinh trong ấy cũng không thấy chật chội. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ lực thần thông.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ lực tự tại? Đại Bồ-tát hóa tác bảy báu đầy ấp trong tam thiên đại thiên thế giới này. Do lực tự tại nên mọi việc đều được toại nguyện, cho đến chẳng thể nói, chẳng thể nói thế giới các thức bảy báu đầy khắp trong ấy đều được tự tại. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ lực tự tại.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ lực Đàla-ni?
Bồ-tát đối với các cõi Phật nhiều chẳng thể nói, chẳng thể nói, tùy theo pháp của chư Phật giảng nói về các loại văn tự, chương cú, ý nghĩa sâu xa, chỉ trong một sát-na, một la-bà, một mâu-hưu-la, Bồ-tát nghe qua một lần là có thể thọ trì, thông đạt, giải nói. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ lực Đà-la-ni.
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ lực chẳng bị chấn động?
Trong các hàng trời, người trong chúng sinh, không một chúng sinh nào có khả năng làm Đại Bồ-tát chấn động, chỉ trừ Đức Như Lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ lực chẳng bị chấn động.
Thế nào là Bồ-tát đầy đủ lực siêu việt vô trí?
Đối với tất cả trí, Bồ-tát có khả năng siêu việt. Tất cả chúng sinh còn chẳng bằng, huống nữa là vượt qua Bồ-tát. Chỉ trừ phương tiện thiện giải của Như Lai. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ lực siêu việt, vô trí.
Thiện nam! Đây là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp lực Ba-la-mật viên mãn.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp trí Ba-la-mật viên mãn. Những gì là mười?
1. Đầy đủ trí nhân vô ngã.
2. Đầy đủ trí pháp vô ngã.
3. Đầy đủ trí vô phần hạn.
4. Đầy đủ trí nơi cảnh giới của Tam-muội.
5. Đầy đủ trí trấn giữ.
6. Đầy đủ trí không bị phá hoại.
7. Đầy đủ trí quán hạnh của chúng sinh.
8. Đầy đủ trí vô dụng công.
9. Đầy đủ trí của tất cả pháp tướng.
10. Đầy đủ trí xuất thế gian.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ trí nhân vô ngã?
Đại Bồ-tát quán thấy các ấm lúc sinh, lúc diệt. Khi ấm này sinh, không chân thật sinh, bất động, bất tác, đều là hư vọng, nên quán thấy nó như vậy. Khi ấm này diệt, không thấy tan hoại. Bồ-tát lại nghĩ: “Ấm này là không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ giả, không dưỡng dục, sĩ phu. Chỉ có các phàm phu ngu si chấp trước theo ngã kiến mà cho là hiểu biết. Ấm này phi ngã, trong ngã không ấm. Đối với năm ấm, sinh chấp trước sâu xa quyết cho là có bản thể. Do vậy mà không đạt pháp tánh chân thật. Do không thông đạt đạo lý chân thật nên bị lưu chuyển trong sinh tử. Giống như vòng lửa không có dừng nghĩ, đối với pháp tánh chân thật này, Bồ-tát thông đạt rốt ráo, không có thiếu sót. Đây gọi là là Bồ-tát đầy đủ trí nhân vô ngã.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ trí pháp vô ngã?
Đối với sự hủy báng, tổn giảm, Đại Bồ-tát nhận biết một cách như thật. Đối với sự hủy báng tăng thượng, Đại Bồ-tát cũng biết như thật và suy nghĩ: “Đối với pháp giả danh, vì an lập, phân biệt mà có các danh. Cái phân biệt cùng với cái được phân biệt, tất cả các pháp tự tánh vốn không. Những văn cú, có thể phân biệt ấy, tự tánh cũng là không. Thể tánh của pháp ấy không như phân biệt. Danh tự phân biệt không phải là thế ấy. Vì sao? Vì tất cả các pháp chỉ có danh tướng, chỉ giả danh mà nói. Ở trong pháp này không nên chấp trước. Pháp giả danh này chẳng phải là cứu cánh, hoàn toàn là phi hữu, nhưng các pháp ấy do nương vào nhân duyên khác, mượn duyên khác hiệp lại nên liền có sinh. Nhân duyên tan rã, chúng cũng theo đó hoại diệt.” Những pháp như vậy, Đại Bồ-tát biết một cách như thật. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ trí pháp vô ngã.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ trí không phần, hạn?
Trong một sát-na, Bồ-tát không sinh khởi trí, cho đến sát-na thứ hai cũng không sinh khởi trí. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát trong các sát-na, trí tuệ đều sinh khởi vô biên, vô ngai, không có phần, hạn. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ trí không phần hạn.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ trí nơi cảnh giới của Tam-muội?
Đại Bồ-tát đều biết tất cả Tam-muội của hàng Thanh văn, biết tất cả Tam-muội của hàng Duyên giác, biết tất cả Tam-muội của Bồ-tát, biết tất cả Tam-muội của Như Lai. Với Tam-muội này, Bồtát biết được hành xứ của Thanh văn. Với Tammuội này Bồ-tát biết được hành xứ của Duyên giác. Với Tam-muội này, Bồ-tát biết được hành xứ của Bồ-tát. Với Tam-muội này, Bồ-tát cũng biết về nẻo hành hóa của Như Lai, là Tam-muội của Phật. Lại có quả báo đã được thành tựu. Người tự chứng đắc trí ấy đều có thể nhận biết rõ. Đây gọi là Bồtát đầy đủ trí nơi cảnh giới của Tam-muội.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ trí trấn giữ?
Đối với chỗ trấn giữ của Thanh văn, hoặc chỗ trấn giữ của Bích-chi-phật, hoặc chỗ trấn giữ của Bồ-tát, Bồ-tát hãy còn nhận biết, huống nữa là các loại chúng sinh. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ trí trấn giữ.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ trí chẳng thể phá hoại?
Tất cả trí tuệ chẳng thể hoại của Đại Bồ-tát thì các ngoại đạo, hoặc các binh ma, hoặc các Thanh văn, hoặc các Duyên giác đều chẳng thể phá được. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ trí chẳng thể phá hoại.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ trí quán hành của chúng sinh?
Đại Bồ-tát dùng trí thanh tịnh minh bạch trong sáng, quán thấy chúng sinh trong cõi này, có các chúng sinh đã phát tâm Bồ-đề, có các chúng sinh chưa phát tâm Bồ-đề. Có các chúng sinh đã tu phạm hạnh Bồ-đề, có các chúng sinh chưa tu hạnh Bồ-đề. Có các chúng sinh trụ nơi Địa thứ nhất, cho đến Địa thứ mười và thành tựu quả vị Đẳng giác, sau đó thì chuyển pháp luân chân chánh, Phật sự viên thành, xong nhập Niết-bàn. Có các chúng sinh nhập Niết-bàn của Thanh văn thừa, có vị nhập Niết-bàn của Duyên giác thừa. Có các chúng sinh sinh lên cõi trời. Có các chúng sinh nơi ba đường dữ. Sự việc như vậy, Bồ-tát đều thấy rõ thông suốt. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ trí quán hành của chúng sinh.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ trí vô dụng công?
Đại Bồ-tát hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc ra, hoặc vào, không thêm công dụng mà trí luôn sinh. Giống như có người vào lúc ngủ say, hơi thở luôn sinh; trí Bồ-tát sinh cũng lại như vậy không đâu là không hiện bày cùng khắp. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ trí không dụng công.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ trí thông suốt tất cả pháp tướng?
Đối với tất cả pháp, hoặc tướng chung, hoặc tướng riêng, hoặc vô lượng tướng, Đại Bồ-tát đều biết rõ. Hoặc tướng như huyễn, hoặc tướng hư vọng Bồ-tát đều biết. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ trí thông suốt tất cả pháp tướng.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đầy đủ trí xuất thế gian?
Đại Bồ-tát do được đầy đủ trí vô lưu nên siêu việt tất cả hàng trời, người nơi thế gian. Đây gọi là Bồ-tát đầy đủ trí xuất thế gian.
Thiện nam! Đây là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp trí Ba-la-mật viên mãn.
Đức Phật bảo Đại Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại:
–Này thiện nam! Bồ-tát có đầy đủ mười pháp bình đẳng như đất. Những gì là mười?
1. Rộng lớn vô lượng.
2. Nuôi dưỡng chúng sinh.
3. Đối với có ân, không ân, không có tưởng khác.
4. Có khả năng lãnh thọ những cơn mưa pháp lớn.
5. Làm chỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh.
6. Làm chỗ trồng thiện căn.
7. Làm đồ chứa châu báu.
8. Làm đồ chứa diệu dược.
9. Chẳng thể khuynh động.
10. Không có sợ hãi.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát rộng lớn vô lượng?
Ví như đại địa trùm khắp mười phương rộng lớn vô lượng. Bồ-tát cũng lại như vậy, phước đức trí tuệ đầy đủ, song hành, hiện bày mọi nơi, rộng lớn vô lượng. Đây gọi là Bồ-tát rộng lớn vô lượng. Thế nào là Bồ-tát nuôi dưỡng tất cả chúng sinh? Thiện nam! Ví như đại địa là chỗ tất cả chúng sinh nhờ vào đó mà tồn tại, tùy ý sử dụng các loại sản vật; Bồ-tát cũng vậy trưởng dưỡng chúng sinh bằng các loại bố thí, trì giới nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ... tất cả pháp hành thanh tịnh của Bồ-tát; ngoài ra còn cho vô lượng các loại vật báu khiến được lợi ích. Đây gọi là Bồ-tát dưỡng dục tất cả chúng sinh.
Thế nào là Bồ-tát đối với có ân, không ân, không có tưởng khác?
Thiện nam! Ví như đại địa bị hủy nhục thương tổn cũng không sinh sân, hoặc được cúng dường cũng không sinh vui, trong vấn đề này không sinh hai tưởng. Bồ-tát cũng vậy, bị tổn não không sân, được lợi dưỡng cũng không vui. Đối với chúng sinh đó, Bồ-tát không sinh thương ghét, không mong đền đáp. Đây gọi là Bồ-tát đối với có ân, không ân đều bình đẳng.
Thế nào là Bồ-tát có khả năng lãnh thọ tất cả những cơn mưa pháp lớn?
Thiện nam! Ví như đại địa thọ nhận những cơn mưa lớn, ngoài ra còn có thể dung chứa tất cả các dòng nước lớn. Bồ-tát cũng vậy, có khả năng dung nạp các trận mưa pháp lớn của Như Lai. Đây gọi là Bồ-tát có khả năng lãnh thọ các trận mưa pháp lớn.
Thế nào là Bồ-tát làm chỗ nương tựa cho tất cả chúng sinh?
Thiện nam! Ví như đại địa, tất cả chúng sinh hoặc ra hoặc vào đều nương nơi đại địa. Bồ-tát cũng vậy, làm nơi y chỉ cho tất cả chúng sinh đang sinh hoạt nơi sáu cõi, cho đến Niết-bàn. Đây gọi là Bồ-tát làm nơi nương tựa cho tất cả chúng sinh.
Thế nào là Bồ-tát làm nơi gieo căn lành?
Thiện nam! Ví như đại địa, tất cả hạt giống đều nhờ vào đó mà sinh trưởng. Bồ-tát cũng vậy, các hạt giống lành của tất cả chúng sinh nhân nương vào Bồ-tát mà được sinh trưởng. Đây gọi là Bồ-tát làm nơi gieo các chủng từ pháp thiện.
Thế nào là Bồ-tát làm đồ chứa châu báu?
Thiện nam! Ví như đại địa là đồ chứa châu báu, nhân nương vào đất mà vô lượng châu báu được xuất hiện. Bồ-tát cũng vậy, các loại công đức quang minh quý báu nhân nương vào Bồ-tát mà được xuất hiện. Đây gọi là Bồ-tát làm đồ chứa châu báu.
Thế nào gọi là Bồ-tát làm đồ chứa diệu dược?
Thiện nam! Ví như đại địa sinh ra các loại thuốc vi diệu, có khả năng trị tất cả bệnh khổ chúng sinh. Bồ-tát cũng vậy, tất cả pháp dược nhân nơi Bồ-tát xuất hiện, có khả năng diệt trừ các loại bệnh nặng phiền não của tất cả thế gian. Đây gọi là Bồtát hay làm đồ chứa thuốc vi diệu.
Thế nào là Bồ-tát chẳng thể khuynh động?
Thiện nam! Ví như đại địa, tất cả các thứ khổ chẳng thể nhiễu loạn, xâm phạm; thời tiết nóng lạnh, muỗi, kiến, trùng độc... xúc phạm chẳng động. Cũng vậy, chúng sinh khởi tạo tất cả các loại khổ đều chẳng thể nhiễu loạn, não hại Bồ-tát. Đây gọi là Bồ-tát chẳng thể khuynh động.
Thế nào là Bồ-tát không có sợ hãi?
Thiện nam! Ví như đại địa chẳng kinh sợ khi nghe âm thanh phát ra từ các loài: Sư tử vương, Tượng vương, Long vương..., Bồ-tát cũng vậy, nghe các tiếng của ma, tiếng của ngoại đạo chẳng lo chẳng sợ, chẳng khiếp, chẳng hãi. Đây gọi là Bồtát không có kinh sợ.
Thiện nam! Đây là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp bình đẳng như đất.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có mười pháp bình đẳng như nước. Những gì là mười?
1. Phước đức sâu dần.
2. Sinh pháp trong sạch.
3. Hoan hỷ, tán dương, nhuần thấm.
4. Nhận chìm tất cả gốc rễ phiền não.
5. Thanh tịnh không ô trược.
6. Diệt phiền não nóng bức.
7. Trừ các khát ái.
8. Sâu xa, khó dò.
9. Cuốn trôi mọi thứ tốt, xấu.
10. Làm sạch phiền não trần cấu.
Thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát phước đức sâu dần?
Thiện nam! Ví như các dòng nước từ chỗ cạn chảy vào chỗ sâu, theo thứ lớp; Bồ-tát cũng vậy, gom các pháp thiện từ cạn đến sâu. Đây gọi là Bồtát phước đức sâu dần.
Thế nào là Bồ-tát sinh pháp bạch tịnh?
Thiện nam! Ví như nước trong hay sinh dưỡng các loại diệu dược, cỏ cây, rừng rậm. Bồ-tát cũng vậy, nhờ Tam-muội nên sinh trưởng tất cả trợ pháp Bồ-đề. Sinh trưởng rồi liền phát triển lớn rộng, cho đến thành Nhất thiết chủng trí. Ở cõi Phật, cây cối vườn rừng sinh quả pháp nuôi sống chúng sinh.
Đây gọi là Bồ-tát sinh trưởng pháp thiện.
Thế nào là Bồ-tát hoan hỷ, nhuần thấm?
Thiện nam! Ví như nước trong, tự tánh thấm ướt, lại hay thấm ướt vật khác. Bồ-tát cũng vậy, tự tánh hoan hỷ, tán dương, nhuần thấm, lại hay thấm nhuần kẻ khác. Nói hoan hỷ ấy là pháp xuất thế. Nói tán dương là nương vào Phật, Pháp, Tăng. Nói nhuần thấm ấy là tâm thanh tịnh. Đây gọi là Bồ-tát hoan hỷ, nhuần trạch.
Thế nào là Bồ-tát làm thối rữa gốc rễ của phiền não?
Thiện nam! Ví như nước trong, có khả năng làm thối rữa tất cả cỏ cây, rễ, lá… Bồ-tát cũng vậy, nhân tu Tam-muội mà làm thối rữa tất cả phiền não tương tục, cho đến diệt tận danh tướng cùng tập khí phiền não xú uế, không còn chỗ nương tựa. Đây là Bồ-tát làm thối rữa tất cả gốc rễ của phiền não.
Thế nào là Bồ-tát thanh tịnh không nhơ?
Thiện nam! Ví như nước trong bình, thể tánh thanh tịnh không có cấu uế, Bồ-tát cũng vậy, tự tánh thanh tịnh, không cấu uế. Nói thanh tịnh nghĩa là tất cả tùy miên, phiền não, kết sử, tham, sân, si... đã tiêu diệt; các căn không nhiễm, không cấu, không uế. Đây gọi là Bồ-tát thanh tịnh không nhơ. Thế nào là Bồ-tát diệt trừ phiền não nóng bức? Thiện nam! Ví như tánh nước làm cho tất cả chúng sinh cùng đất và các vật trên đất được mát mẻ vào những tháng hè oi bức; Bồ-tát cũng vậy, dùng pháp tịnh thủy diệt trừ phiền não nóng bức của các cõi chúng sinh, khiến cho được mát mẻ.
Đây là Bồ-tát diệt trừ phiền não nóng bức.
Thế nào là Bồ-tát trừ bỏ các khát ái?
Thiện nam! Ví như nước lạnh, người khát nước uống vào thì hết khát; Bồ-tát cũng vậy, vì tất cả chúng sinh khát ái nơi sáu trần khó nhẫn chịu mà làm mưa pháp. Nhờ mưa pháp nên khiến các chúng sinh hết khát ái nơi sáu trần.
Thế nào là Bồ-tát sâu rộng khó dò?
Thiện nam! Ví như biển nước sâu rộng khó dò; Bồ-tát cũng vậy, tu các trí tuệ thâm diệu khó dò. Nghĩa là tất cả thiên ma, ngoại đạo chẳng thể xét lường. Đây là Bồ-tát sâu rộng khó dò.
Thế nào là Bồ-tát hay làm trôi các thứ tốt xấu?
Thiện nam! Ví như nước chảy, hay làm trôi tất cả vùng đất hoặc tốt hoặc xấu; Bồ-tát cũng vây, dùng “nước chảy” làm trôi tất cả các cõi chúng sinh hoặc tốt hoặc tốt hoặc xấu. Tuy làm trôi như vậy nhưng không não hại chúng sinh. Cũng như nước chảy, Bồ-tát đem đại Từ bi làm nhuận thấm nơi chúng sinh, làm mưa pháp lớn, không tổn não ai. Đây là Bồ-tát cuốn trôi các thứ tốt xấu.
Thế nào là Bồ-tát làm sạch mọi phiền não trần cấu?
Thiện nam! Ví như nước lớn, hay làm cho tất cả các vật bất tịnh, nhơ uế, cấu bẩn trên đất đều được thấm nhuần, trong sạch, không còn chút bẩn; Bồ-tát cũng vậy, nhờ nương vào định tuệ thanh tịnh mà dứt tận các tâm tánh thô bạo, các thức phiền não nơi khách trần của các chúng sinh. Đây gọi là Bồ-tát làm sạch mọi phiền não trần cấu.
Thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp bình đẳng như lửa. Những gì là mười?
1. Năng thiêu đốt phiền não uế tạp.
2. Làm thành thục tất cả pháp Phật.
3. Làm khô ráo bùn nhơ phiền não.
4. Ví như hỏa tụ.
5. Hay làm ánh sáng.
6. Hay làm cho kinh sợ.
7. Hay làm an ổn.
8. Bình đẳng đối với các chúng sinh.
9. Được thế gian cúng dường.
10. Chẳng thể bị khinh miệt.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát có thể thiêu đốt mọi phiền não uế tạp?
Thiện nam! Ví như tánh của lửa, hay thiêu tất cả đồ nhơ nhớp cấu uế, cỏ cây, rừng rậm, các cây thuốc...; Bồ-tát cũng vậy, dùng lửa trí tuệ thiêu cháy tất cả phiền não, thùy miên, tất cả kết sử tham, sân, si... phiền não uế tạp. Đậy gọi là Bồ-tát năng thiêu tất cả phiền não uế tạp.
Thế nào là Bồ-tát làm thành thục tất cả pháp Phật?
Thiện nam! Ví như tánh của lửa làm chín tất cả các thứ dược thảo, động thực vật; Bồ-tát cũng vậy, dùng lửa trí tuệ làm thành thục tất cả các pháp Phật bên trong, thành thục như vậy, mãi mãi không mất.
Đây là Bồ-tát làm thành thục tất cả các pháp Phật. Thế nào là Bồ-tát làm khô bùn nhơ phiền não?
Thiện nam! Ví như tánh của lửa làm khô ráo tất cả bùn nhơ; Bồ-tát cũng vậy, dùng lửa trí tuệ thiêu khô tất cả pháp hữu lưu. Đây là Bồ-tát làm khô bùn nhơ phiền não.
Thế nào là Bồ-tát dụ như đống lửa?
Thiện nam! Như đống lửa lớn làm tan biến sự cóng lạnh; Bồ-tát cũng vậy, dùng lửa trí tuệ đẩy lùi phiền não lạnh rét cho tất cả chúng sinh. Đây là Bồ-tát dụ như đống lửa.
Thế nào là Bồ-tát hay làm ánh sáng?
Thiện nam! Ví như đống lửa lớn trên ngọn núi Tuyết, ánh sáng rực rỡ chiếu khắp một do-tuần, hoặc hai do-tuần, hoặc ba, hoặc bốn do-tuần; Bồtát cũng vậy, dùng trí quang minh chiếu xa ngàn do-tuần, hoặc vạn do-tuần, cho đến vô lượng atăng-kỳ thế giới, vì các chúng sinh mà tạo ra ánh sáng soi chiếu rực rỡ khắp. Bồ-tát dùng trí quang minh đẩy lùi tất cả pháp vô trí tối tăm. Đây là Bồtát hay làm ánh sáng.
Thế nào là Bồ-tát hay làm kinh sợ?
Thiện nam! Ví như các loài muông thú hoặc sư tử vương thấy đống lửa lớn liền sinh kinh sợ, nghĩa là chúng sợ tổn hại thân mình nên tránh xa chỗ ấy. Cũng vậy, ma ác cùng các chúng ma nếu thấy Bồtát liền sinh kinh sợ. Do chúng không có oai đức nên liền tránh xa, thậm chí chẳng nghe danh hiệu của Bồ-tát, huống nữa là thấy hình tướng. Đây là Bồ-tát hay làm kinh sợ.
Thế nào là Bồ-tát khéo làm an ổn?
Thiện nam! Ví như có người mê ở nơi rừng rậm hoang dã, quên mất đường ra, bỗng nhiên thấy được một đống lửa lớn, liền đến nơi đó. Ở chốn này, người đó thấy được xóm làng hoặc thấy bầy trâu bò. Thấy như vậy, người đó liền được an ổn, lìa các lo sợ. Cũng vậy, hết thảy vô lượng chúng sinh nơi rừng già hoang dã sinh tử, nếu thấy Bồ-tát liền được an ổn, lìa mọi sự sợ hãi. Đây là Bồ-tát khéo làm an ổn.
Thế nào là Bồ-tát bình đẳng với tất cả chúng sinh?
Thiện nam! Ví như tánh của lửa đều bình đẳng đối với tất cả chúng sinh; như đối với vua và hàng Chiên-đà-la, lửa đều bình đẳng không hai; Bồ-tát cũng vậy, đều bình đẳng đối với các chúng sinh. Như đối với quốc vương và kẻ đồ tể, Bô-tát đều làm lợi ích như nhau. Đây là Bồ-tát đều bình đẳng với các chúng sinh.
Thế nào là Bồ-tát được thế gian cúng dường?
Thiện nam! Ví như tánh của lửa được các Sátlợi, Bà-la-môn,... cúng dường; Bồ-tát cũng vậy, đều bình đẳng với các chúng sinh. Như đối với quốc vương và kẻ đồ tể, Bồ-tát đều làm lợi ích như nhau. Đây là Bồ-tát đều bình đẳng với các chúng sinh.
Thế nào là Bồ-tát chẳng thể bi khinh miệt?
Thiện nam! Như lửa tuy nhỏ, nhưng không nên khinh thường mà chạm vào, không nên kiêu mạn; Bồ-tát cũng vậy, từ lúc mới phát tâm trụ vào tín hạnh, tuy chưa được uy lực nơi pháp Đại thừa, nhưng chẳng ai dám khinh miệt. Tất cả thế gian, hoặc trời, hoặc người, các chúng Thiên, Long, Dạxoa, Càn-thát-bà... đều biết Bồ-tát và cùng nói: “Nay Bồ-tát này chẳng bao lâu nữa sẽ an tọa nơi Bồ-đề đạo tràng, chứng đắc Chánh đẳng chánh giác. Đây là Bồ-tát chẳng thể bị khinh miệt.”
Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp bình đẳng như lửa.
Thiện nam! Đại Bồ-tát lại có mười pháp bình đẳng như hư không. Những gì là mười?
1. Rộng lớn.
2. Vô ngại.
3. Tịch tĩnh.
4. Tuệ vô biên.
5. Trí vô biên.
6. Tùy thuận pháp giới.
7. Tin tất cả các pháp đồng tánh hư không.
8. Không xứ sở.
9. Vượt qua cảnh giới của tưởng.
10. Siêu việt mọi sự nghĩ lường.
Thiện nam! Đại Bồ-tát đủ mười pháp này, được gọi là bình đẳng như hư không.
Lại nữa, này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có mười pháp bình đẳng như hư không. Những gì là mười?
1. Đối với sắc đẹp sắc xấu, Bồ-tát không tham, không sân.
2. Đối với âm thanh hay dở, Bồ-tát không thích, không ghét.
3. Đối với mùi thơm, mùi thối, Bồ-tát không tham, không bỏ.
4. Đối với vị ngon, vị dở, Bồ-tát không ham, không bỏ.
5. Đối với sự xúc chạm tốt xấu, Bồ-tát không tham, không ghét.
6. Đối với các pháp tốt xấu, Bồ-tát không nhiễm, không chê.
7. Đối với sự được, không được, Bồ-tát không mừng, không giận.
8. Đối với khổ, Bồ-tát không buồn; đối với lạc, Bồ-tát không vui.
9. Đối với danh tốt, danh xấu, Bồ-tát không mến mộ, cũng không khước từ.
10. Đối với lời khen, tiếng chê, Bồ-tát không ưa, không ghét.
Đây là mười việc bình đẳng như hư không.
Thiện nam! Đại Bồ-tát lại có mười pháp dụ như mặt trăng. Những gì là mười?
1. Làm mát mẻ chúng sinh.
2. Người thấy hoan hỷ.
3. Tăng trưởng pháp thiện.
4. Trừ diệt pháp ác.
5. Được thế gian khen ngợi.
6. Hình tướng thanh tịnh.
7. Cỡi xe tối thắng.
8. Thường làm trang nghiêm.
9. Hiện bày chỗ diệu dụng nơi chánh pháp.
10. Có đại thần thông oai đức cao vời.
Thế nào là Bồ-tát làm mát mẻ chúng sinh, cho đến có đại thần thông oai đức?
Thiện nam! Ví như mặt trăng xuất hiện, tất cả chúng sinh đều được mát rượi, thích thú. Bồ-tát cũng vậy, hay dứt trừ phiền não nóng bức cho chúng sinh, khiến được hoan hỷ, vui vẻ, tạo ra sự mát mẻ.
Thiện nam! Như khi trăng mọc, ai thấy cũng hoan hỷ, do trăng mát mẻ nên khiến tâm họ vui thích. Bồ-tát cũng vậy, diệt phiền não nóng bức, các căn thanh tịnh, đầy đủ công đức trong các oai nghi.
Thiện nam! Như trăng thượng tuần từ lúc mới mọc, dần dần tăng trưởng, cho đến ngày thứ mười lăm thì tròn đầy viên mãn. Bồ-tát cũng vậy, từ sơ phát tâm cho đến lúc ngồi nơi đạo tràng, ngày đêm pháp thiện tăng trưởng, viên mãn đầy đủ các loại.
Thiện nam! Như trăng hạ tuần sắc tướng quang minh, thật đáng ưa thích, nhưng tướng ấy dần dần mờ nhạt, cho đến cuối tháng thì không còn xuất hiện. Bồ-tát cũng vậy, được trí xuất thế nên tất cả tướng hư vọng đều tổn giảm; cho đến lúc an tọa nơi đạo tràng thì tướng kia rốt ráo không còn.
Thiện nam! Như khi trăng mọc, tất cả thế gian, đạo tục, thần dân, nam nữ lớn nhỏ đều tán thán. Bồ-tát cũng vậy, được tất cả thế gian, Trời, Người, Tu-la... tán dương.
Thiện nam! Như Nguyệt Thiên tử, thân tâm thanh tịnh, quang minh chiếu sáng do nghiệp báo sinh khởi. Bồ-tát cũng vậy, thân tâm thanh tịnh, ánh sáng chiếu khắp, tự nhiên hóa sinh từ pháp tánh, chẳng phải nhân nơi tinh huyết ô nhiễm bất tịnh, trải qua năm thời từ cha mẹ.
Thiện nam! Như Nguyệt Thiên tử cỡi xe thanh tịnh chiếu khắp bốn phương; Bồ-tát cũng vậy, cỡi xe tối thắng chiếu khắp vô lượng, vô biên thế giới. Thiện nam! Như Nguyệt Thiên tử thường trang nghiêm trong mọi lúc; Bồ-tát cũng vậy, thường trang nghiêm bằng công thức.
Thiện nam! Như Nguyệt Thiên tử luôn tự nhiên có hoan hỷ diệu lạc; Bồ-tát cũng vậy, hằng trụ nơi pháp lạc, không trụ vào dục lạc.
Thiện nam! Như Nguyệt Thiên tử có đại thần thông, có đại oai đức; Bồ-tát cũng vậy có đủ các công đức, trí tuệ tự tại, thần thông biến hóa, tùy ý vô ngại.
Thiện nam! Đây là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp dụ như mặt trăng.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có đủ mười pháp dụ như mặt trời. Những gì là mười?
1. Diệt trừ vô minh tối tăm.
2. Hay làm cho mở bày tỏ ngộ.
3. Chiếu khắp mười phương.
4. Nhân cho pháp thiện khởi.
5. Diệt trừ các dòng.
6. Hay làm ánh sáng.
7. Che phủ ngoại đạo tà kiến.
8. Hiện rõ vật tốt xấu.
9. Tạo các nghiệp theo pháp thiện.
10. Thiện nhân cung kính.
Thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát diệt vô minh tối tăm? Cho đến thế nào là Bồ-tát được thiện nhân cung kính?
Thiện nam! Như khi mặt trời mọc, diệt tất cả tăm tối. Mặt trời Bồ-tát xuất hiện, diệt vô minh u ám cũng lại như vậy.
Thiện nam! Như khi mặt trời mọc, hoa sen bung nở. Mặt trời Bồ-tát xuất hiện, khai ngộ cho chúng sinh, những người nhận được sự giáo hóa cũng lại như vậy.
Thiện nam! Như khi mặt trời mọc chiếu rõ mười phương; mặt trời Bồ-tát xuất hiện, trí tuệ quang minh chiếu khắp mười phương mà không làm tổn hại tất cả chúng sinh.
Thiện nam! Như khi mặt trời mọc, phóng ngàn ánh sáng chiếu khắp cõi Diêm-phù-đề, người đời biết mặt trời đã mọc. Mặt trời Bồ-tát xuất hiện, ánh sáng trí tuệ chiếu khắp, khi ấy hữu tình mới biết có các pháp thiện.
Thiện nam! Ở cõi Diêm-phù-đề, khi ánh sáng mặt trời diệt, tức biết mặt trời đã lặn. Mặt trời Bồtát xuất hiện, phóng ánh sáng trí tuệ đến các chúng sinh, diệt trừ tất cả si ám cho chúng sinh. Mê mờ si ám, mù tối diệt sạch nên gọi là lậu tận. Khi ấy, Bồ-tát không xuất hiện.
Thiện nam! Như khi mặt trời mọc, các ánh sáng bị ánh mặt trời nuốt mất, không thể hiển chiếu, nhưng khi ấy mặt trời chẳng nghĩ: “Ta làm cho những ánh sáng khác chìm mất, không thể hiển chiếu.” Vì pháp như vậy, tự nhiên chẳng thể hiện. Mặt trời Bồ-tát xuất hiện, tất cả ngoại đạo, tà kiến mù ám tự nhiên lui diệt. Khi ấy Bồ-tát cũng chẳng nghĩ: “Ta làm cho các thứ này lui diệt không hiện.”
Thiện nam! Như khi mặt trời xuất hiện ở cõi Diêm-phù-đề, tất cả chúng sinh với tướng đẹp xấu, cao thấp, chánh tà đều được hiện rõ. Mặt trời Bồtát xuất hiện cũng lại như vậy, vì các chúng sinh mà soi rõ tướng đẹp xấu, cao thấp, tà chánh. Nói cái đẹp ở đây tức chỉ Thánh đạo. Nói cái xấu ở đây tức chỉ tất cả tà đạo.
Thiện nam! Như khi mặt trời mọc, các loại nghiệp nhân gieo trồng được thành tựu. Mặt trời Bồ-tát xuất hiện làm sinh trưởng các pháp thiện.
Thiện nam! Như khi mặt trời mọc, thiện nhân hoan hỷ cúng dường, xưng tán, nhưng hạng bất lương lại ưu sầu không vui. Mặt trời Bồ-tát xuất hiện, người có trí tuệ, lợi căn, thông minh vui mừng tán thán; những kẻ tà đạo, phàm phu, độn căn bất lương, không có mắt trí tuệ, ưa thích sinh tử, quay lưng với đạo Niết-bàn thì lại không cung kính.
Đây là Bồ-tát diệt vô minh ám chướng, cho đến được thiện nhân cung kính.
Này thiện nam! Như vậy là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp dụ như mặt trời.
Thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp như sư tử vương. Những gì là mười?
1. Không sợ.
2. Không khiếp nhược.
3. Không quay đầu hồi chuyển.
4. Không gầm tiếng sư tử.
5. Không kinh hãi.
6. Hoạt động nơi sơn lâm.
7. Cư trú nơi hang núi.
8. Không lưu trữ một vật gì.
9. Một mình không bạn.
10. Trụ nơi A-lan-nhã.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát không sợ, cho đến thế nào là Bồ-tát trụ nơi A-lan-nhã?
Này thiện nam! Như sư tử vương đi khắp các chỗ mà không sợ hãi, thường thấy tự thân, đi một mình không có kẻ địch; Bồ-tát cũng vậy, đi khắp mọi nơi mà không kinh sợ, luôn thấy tự thân, không có đối địch.
Thiện nam! Như sư tử vương không có tướng khiếp nhược, Bồ-tát cũng vậy, khi cùng các ngoại đạo giao tiếp, tranh biện luận nghị, Bồ-tát không khởi tướng khiếp nhược, dũng mãnh, không yếu đuối.
Thiện nam! Như sư tử vương, hoặc giả khi bị nhục cũng không trở về; Bồ-tát cũng vậy, nếu bị ngoại đạo làm nhục, tổn hại, cũng không chuyển đổi, cũng không im lặng.
Thiện nam! Như sư tử vương gầm rống, tất cả các loài cầm thú, kể cà các loài lang sói đều chạy xa ẩn trốn. Bồ-tát cũng vậy, nói pháp vô ngã vang lừng như sư tử gầm, làm cho đám lang sói ngoại đạo chấp trước ngã kiến thoái lui tan tác. Khắp mười phương cõi, Bồ-tát này không làm tổn não họ, dùng pháp vô ngã vang lừng như sư tử gầm, chỉ vì nhằm làm chuyển đổi hóa độ chúng sinh.
Thiện nam! Như sư tử vương nhìn khắp mười phương không có gì lo sợ, Bồ-tát cũng vậy, tánh thích tịch tĩnh, hành nơi sơn lâm.
Thiện nam! Như sư tử vương trụ trong hang núi, Bồ-tát cũng vậy, an trụ trong núi trí tuệ tịch tĩnh.
Thiện nam! Như sư tử vương không có lưu trữ, Bồ-tát cũng vậy, trừ bỏ tất cả gánh nặng phiền não, không có lưu trữ.
Thiện nam! Như sư tử vương đi một mình không bạn, hàng phục các bầy cầm thú; Bồ-tát cũng vậy, ngồi nơi đạo tràng một mình không bạn, phá các ma quân.
Thiện nam! Như sư tử vương trú tại nơi nào thì nơi đó tất cả cầm thú chẳng dám xâm phạm, phá hoại các loại lúa mạ, hoa màu. Bồ-tát cũng vậy, cư trú tại thôn xóm, quốc độ nào thì cầm thú nơi đó chẳng thể xâm phạm, phá hoại hoa màu pháp thiện. Đây là Bồ-tát không kinh sợ, cho đến có khả năng bảo hộ thiện căn của chúng sinh.
Này thiện nam! Như vậy, Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp dụ như sư tử vương.
Thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp khéo điều phục. Những gì là mười?
1. Tâm Bồ-đề kiên cố.
2. Lãnh hội lý nơi tâm Bồ-đề.
3. Bảo hộ sáu tình (sáu căn).
4. Tu hành Thánh đạo.
5. Gánh vác việc lớn.
6. Làm lợi ích cho chúng sinh, tâm không mệt mỏi.
7. Chánh mạng.
8. Chân thật, không cao ngạo.
9. Không dua nịnh, dối trá.
10. Ngay thẳng.
Thiện nam! Đây là Bồ-tát đầy đủ mười pháp khéo điều phục.
Thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp làm chỗ nhận biết của thế gian. Những gì là mười?
1. Nhiếp tâm ngồi thiền.
2. Hằng tu hạnh không.
3. Học pháp không nghỉ.
4. Không duyên theo cảnh giới, lìa phiền não kết sử, phụng hành tất cả kinh giáo của Như Lai, nhất nhất không phạm, tùy thuận tất cả tông pháp một cách bình đẳng, thông tỏ chỗ chính yếu của pháp giới.
5. Hành như hàng Chiên-đà-la hạ tiện ở thế gian, do tâm khiêm cung nên lìa xa sự tự cao, ngạo mạn, cuồng loạn.
6. Luôn sống với hạnh khất thực, bình đẳng theo thứ lớp.
7. Trụ ở thế gian, tâm không nghi hoặc, đối với pháp Phật thấy biết như thật.
8. Tâm không do dự nơi pháp nội chứng.
9. Không tin kẻ khác, không để bị dụ dỗ, tự mình thấy đạo lý.
10. Khéo tu hành, làm ruộng phước cho thế gian.
Đây là Bồ-tát đầy đủ mười pháp làm chỗ nhận biết của thế gian.
Thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp như hoa sen. Những gì là mười?
1. Thân không ô nhiễm.
2. Không sống chung với ác vi tế.
3. Hương giới luôn phảng phất.
4. Thọ sinh tinh khiết.
5. Sắc diện hiền hòa.
6. Nhu hòa vi diệu.
7. Ai thấy cũng vui.
8. Tâm ý khai ngộ.
9. Tâm ý thành thục.
10. Giỏi khéo thâu nhận.
Thiện nam! Thế nào là Đại Bồ-tát thân không nhiễm ô, cho đến thế nào là Bồ-tát giỏi khéo thâu nhận?
Thiện nam! Ví như hoa sen tự không nhiễm ô từ khi ra khỏi nước. Không nhiễm vì pháp tánh là như vậy. Bồ-tát cũng thế, không còn nhiễm ô từ khi ra khỏi nước sinh tử. Vì sao? Vì được trí tuệ phương tiện. Tất cả Bồ-tát thông hiểu phương tiện sống nơi sinh tử. Sinh tử hỏa hoạn chẳng thể làm nhiễm ô, vì Bồ-tát khéo hành trì trí tuệ phương tiện. Thiện nam! Như hoa sen, một giọt nước chẳng thể bám trụ. Cũng vậy, những lỗi lầm vi tế chẳng thể bám trụ nơi Bồ-tát.
Thiện nam! Như chung quanh chỗ hoa sen sinh, mùi hương luôn phảng phất xông ướp khắp nơi. Cũng lại như vậy, làng xóm, quốc ấp, thị tứ, nơi Bồ-tát cư trú, mùi hương giới phảng phất, không chỗ nào là không có.
Thiện nam! Như những nơi sinh hoa sen tinh khiết, khả ái, quốc vương, đại thần, hết thảy trăm họ đều tìm đến nơi đó. Cũng lại như vậy, những Bồ-tát thọ sinh, tự tánh tinh khiết, giới đức oai nghi đầy đủ, không thiếu, thường được các chúng Trời, Người, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Khẩnna-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân... cung kính ái mộ, lễ bái; chư Phật Bồ-tát khen ngợi tán dương. Thiện nam! Như khi hoa sen nở, sắc diện khả ái hay làm vui chúng hữu tình, ai thấy cũng hoan hỷ. Bồ-tát cũng vậy, khi cười mỉm, các căn đều thanh tịnh, tươi vui.
Thiện nam! Ví như hoa sen mềm mại không có thô nhám. Bồ-tát cũng vậy, nhu hòa tự nhiên, không có thô bạo.
Thiện nam! Như khi mộng tưởng thấy hoa sen, đây là điềm an lành, lợi ích, đáng khen ngợi. Người thấy Bồ-tát được lợi ích, cũng lại như vậy, tất cả trú xứ thêm sự an lành vì được Nhất thiết trí.
Thiện nam! Giống như hoa sen dần dần bung nở, cũng vậy, hoa sen trí tuệ giác phần của Bồ-tát bung nở, khi ấy gọi là Phật, là bậc giác ngộ.
Thiện nam! Như hoa sen nở, khi thấy: nhãn căn vui thích; khi ngửi: tỉ căn ưa thích; khi xúc phạm: thân căn thích thú; khi tâm hoan hỷ: ý căn vui thích. Bồ-tát cũng vậy, lúc ánh sáng trí tuệ thành thục, nhãn căn thanh tịnh khi thấy, nhĩ căn thanh tịnh khi nghe, tỉ căn vui thích vì đã có hương giới công đức, thân căn vui thích khi xúc chạm, cúng dường cung kính, ý căn thanh tịnh nếu khi tư duy, tán thán công đức.
Thiện nam! Như hoa sen sinh, được hàng trời, người thâu nhận, cũng vậy, Bồ-tát xuất hiện ở thế gian được chư Phật, chư Bồ-tát cho đến chư Thiên, Đế Thích, Phạm thiên hộ thế đều kính ngưỡng. Đây gọi là Bồ-tát tự không ô nhiễm, cho đến được thâu nhận.
Thiện nam! Như vậy, Bồ-tát đầy đủ mười pháp dụ như hoa sen.
Thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp tạo tâm ý quảng đại. Những gì là mười?
1. Nên phát tâm rộng lớn vì tu hành tất cả các Ba-la-mật.
2. Ta nên phát động tâm rộng lớn vì làm thành thục tất cả pháp Phật.
3. Ta nên phát tâm rộng lớn vì giáo hóa tất cả chúng sinh.
4. Ta nên phát tâm rộng lớn, ngồi nơi đạo tràng, thành tựu Phật quả, thành Đẳng giác rồi, sẽ chuyển pháp luân mà tất cả thế gian hoặc Phạm, hoặc Thiên đều chẳng thể chuyển.
5. Ta nên phát tâm rộng lớn vì đem lại lợi ích cho chúng sinh ở vô lượng, vô biên thế giới.
6. Ta nên phát tâm rộng lớn vì kiến tạo thuyền trí tuệ, độ các chúng sinh khỏi biển sinh tử.
7. Tất cả chúng sinh không ai cứu, không ai bảo hộ, không nơi nương tựa, không có người thân độ thoát, ta nên phát âm rộng lớn làm quyến thuộc vì họ.
8. Ta nên phát tâm rộng lớn vì nhằm hiển hiện oai thần của chư Phật, tạo tiếng gầm của sư tử, hiện bày thần thông diệu dụng, đạo lực của chư Phật và cũng phải xem xét như Ma-ha Na-già.
9. Vì tất cả thế gian, hoặc trời, hoặc người, không thể sánh, không thể bằng ta, nên phát tâm rộng lớn.
10. Ta nên phát tâm rộng lớn, đem chánh pháp của Phật giáo hóa tất cả chúng sinh, chẳng dùng hạnh thô lậu, chẳng dùng khổ hạnh, chẳng dùng hạnh thấp kém.
Thiện nam! Đây là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp phát tâm rộng lớn.
Thiện nam! Đại Bồ-tát lại có mười pháp khiến tâm được thanh tịnh. Những gì là mười?
1. Tâm nhiều tín, vui, nội tâm bất động, tâm trụ kiên cố, tâm không hư dối, lìa xa tất cả tư duy bất thiện. Nghĩa là không phát tâm cầu đạo Thanh văn và Bích-chi-phật.
2. Do thiểu dục, tri túc nên lìa xa tất cả cấu uế, bất tịnh.
3. Lìa thân cao ngạo nghĩa là không tạo oai nghi giả dối.
4. Lìa khẩu cao ngạo nghĩa là không nói lời trái sự thật.
5. Lìa tâm cao ngạo là không tà vạy, dối trá.
6. Thân không hỗn tạp, miệng ít ham muốn, tâm không tham cầu.
7. Biết ân phải báo ân, ân nghĩa nhỏ còn không quên, huống là ân nghĩa lớn.
8. Nói lời chân thật. Ở chỗ làm việc không nói xấu kẻ khác. Những điều không lợi không nên nói. Chỉ tán thán những việc có lợi, vui, có đức, trong ấy chỉ thấy có đức, tu hành như lời nói. Bồ-tát không được ngoài miệng nói lời thương yêu mà trong tâm thù oán. Bồ-tát dùng miệng khen ngợi khiến tâm không tranh chấp. Miệng nói lới ái ngữ, tâm không hiềm hận.
9. Bồ-tát không được ngoài thân lộ vẻ hiền lành mà tâm nghĩ ác. Bồ-tát không được đem thân cung kính mà trong tâm kinh mạn. Bồ-tát không cao ngạo, không biếng nhác, không tham tiếc, không ganh ghét, Bồ-tát đã không tự cao, cũng không bề trễ, đã không tham tiếc, không ganh ghét, cũng không dối trá, không quanh co. Bồ-tát không nói lời đâm thọc ly tán đôi bên. Vì sao? Vì Bồ-tát do thân cung kính, miệng luôn nói chân thật.
10. Ba nghiệp tương ưng, không hủy báng chánh pháp thanh tịnh của Như Lai. Bồ-tát không dám hủy báng pháp. Vì sao không hủy báng chánh pháp của chư Phật? Vì Bồ-tát phát tâm Bồ-đề vô thượng, cạo bỏ râu tóc, mặc y hoại sắc, được xuất gia trong chánh pháp của Phật. Sự xuất gia như vậy chẳng vì sợ quốc vương, chẳng vì sợ giặc cướp, chẳng vì nợ nần, chẳng vì kinh hãi, chẳng vì sự sống mà làm Sa-môn. Vì tin ưa nên xuất gia học đạo. Vì cầu pháp nên thân cận thiện hữu, hết lòng phụng sự. Gặp tri thức thiện, lắng tâm nghe pháp, như pháp tu hành, tâm không kiêu mạn. Tuy không kiêu mạn nhưng còn chấp giữ theo điên đảo. Nếu không còn điên đảo thì có khả năng thông đạt chánh đạo nơi Phật. Do thông đạt nên được chánh pháp. Do được pháp nên chắc chắn được Bồ-đề vô thượng. Người học như vậy, không hủy báng chánh pháp và chánh giáo của Như Lai.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp khiến tâm được thanh tịnh.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp không có nghi hoặc. Những gì là mười? Đó là:
1. Tin Như Lai có thân bí mật.
2. Tin Như Lai có khẩu bí mật.
3. Tin Như Lai có tâm bí mật.
4. Tin hạnh Bồ-tát.
5. Tin thần thông đầy đủ.
6. Tin bản nguyện viên mãn.
7. Tin đạo Nhất thừa.
8. Tin chủng chủng thuyết.
9. Tin âm thanh Phật sâu xa vi diệu, vang lừng.
10. Tin vào sự hóa độ chúng sinh, tùy theo căn tánh của họ.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát tin Đức Như Lai có thân bí mật, cho đến tin vào sư giáo hóa chúng sinh?
Thiện nam! Bồ-tát nghĩ: “Nghe nói Đức Như Lai có Pháp thân, thân tịch tĩnh, thân không gì bằng, thân không thể sánh, thân vô lượng, thân bất cộng, thân Kim cang... đều là chân thật, không hư, không dối.” Đối với vấn đề này, Bồ-tát không sinh nghi hoặc, không có hai tâm. Bồ-tát tin Đức Như Lai có thân bí mật như vậy.
Bồ-tát lại nghĩ: “Nghe nói Đức Như Lai có khẩu bí mật. Từ kim khẩu, Đức Như Lai thọ ký, sự thọ ký rõ ràng. Đối với kinh giáo Đức Như Lai nói, nếu không hiểu rõ nghĩa lý, cũng đừng nên bác bỏ. Vì Như Lai không còn lầm lạc, không nói lời vô nghĩa, chẳng hề vọng ngữ. Chư Phật, Như Lai đã diệt tất cả ác, thanh tịnh vô cấu, không còn phiền não, kết sử nóng bức, đầy đủ tự tại, không còn mong cầu, vô trược, vô uế. Nếu nói Như Lai còn sai lầm, Như Lai nói lời vô nghĩa, thì điều này không có. Như Lai chí chân, chí thật, không có khi dối.” Đối với vấn đề này, Bồ-tát không nghi hoặc, Bồ-tát tin vào khẩu bí mật của Phật như vậy.
Bồ-tát lại nghĩ: “Trong tâm Đức Như Lai thật bí mật. Tại nội tâm luôn y chỉ nơi tâm. Tất cả Thanh văn, Duyên giác cùng các Bồ-tát cho đến hết thảy chúng sinh đều chẳng thể biết. Chỉ trừ khi Đức Như Lai dùng sức thần thông hiển bày cho biết. Vì sao? Vì Đức Như Lai thâm diệu khó dò, khó lường; cảnh giới rộng lớn vô biên vô lượng, đồng với hư không, chẳng thể nghĩ bàn, thuần là chân thật không có hư dối.” Điều này Bồ-tát không nghi, tin tâm bí mật của Như Lai như vậy.
Bồ-tát lại nghĩ: “Nghe nói tất cả Bồ-tát chuyên cần tạo lợi ích cho chúng sinh, thành tựu đầy đủ cho tất cả chúng sinh. Đối với sự nghiệp này, các Bồ-tát đều không mệt mỏi, cũng không lo sợ, gánh vác việc lớn, oai lực kiên cố, tu hành mười độ cùng hết thảy pháp Phật, có trí vô ngại, trí vô biên, trí vô đẳng, trí bất cộng; dũng mãnh kiên cố, trang nghiêm kiên cố, thệ nguyện kiên cố; vì Bồ-đề nên thành tựu đầy đủ theo thứ lớp.” Điều này chân thật, chẳng phải hư dối. Bồ-tát tin vào sự tu hành như vậy, không sinh nghi hoặc.
Bồ-tát lại nghĩ: “Ta an tọa nơi đạo tràng, đạt được thanh tịnh, không trì trệ, không chướng ngại, không vướng mắc, đắc nhãn thông cho tới nhĩ thông, tha tâm trí thông, túc mạng thông, như ý thần thông, lậu tận thông, không vướng mắc, không trì trệ, không chướng ngại. Ta đắc trí tương ưng trong một sát-na, thấy rõ như thật các cõi chúng sinh trong ba đời, những chúng sinh này thân hành đủ loại nghiệp ác, khẩu hành đủ loại nghiệp ác, ý hành đủ loại nghiệp ác, tà kiến điên đảo, hủy báng Hiền thánh. Vì nhân duyên nghiệp hành tà pháp nên sau khi chết sinh vào các đường ác, chịu khổ địa ngục. Có các chúng sinh thân làm việc thiện, khẩu, ý hành nghiệp thiện, đầy đủ chánh kiến nên không hủy báng Hiền thánh, trụ nơi chánh kiến, nhờ chánh kiến nên ba nghiệp thanh tịnh. Do nhân duyên ấy nên sau khi chết sinh vào đường lành, thọ vui nơi cõi trời.” Bồ-tát quán chúng sinh giới một cách chân thật như vậy, liền thấy nghiệp thiện và bất thiện của chúng sinh.
Bồ-tát lại nghĩ: “Khi xưa ta làm Bồ-tát, hành đạo Bồ-đề, phát thệ nguyện: “Mình thành Chánh giác mới giúp kẻ giác ngộ.” Đây là lời ta nguyện trước đây. Nay đạo quả đã được viên mãn như sở nguyện là điều chân thật, không có hư dối.” Điều này Bồ-tát không còn nghi ngờ, cũng không mê mờ, nên gọi Bồ-tát là Đẳng giác. Đã tự giác ngộ, gọi là Tam-phật-đà.
Này thiện nam! Đây là Bồ-tát tin Bồ-đề, tin Phật xuất hiện ở đời.
Bồ-tát lại nghĩ: “Nghe nói Nhất thừa là Nhất Phật thừa, điều này chân thật, chẳng phải dối trá, không hư ngụy, không sai lầm. Vì sao? Vì các thừa đều sinh ra từ Đại thừa. Ví như châu Diêm-phù-đề có các châu vây quanh, danh tự mỗi châu đều thuộc vào châu Diêm-phù-đề. Danh ấy được gọi chung là Nhập Diêm-phù-đề. Tất cả các thừa cũng lại như vậy, nương vào Đại thừa mà phát sinh, không có hai, không có ba thừa.” Điều này Bồ-tát không nghi, Bồ-tát tin vào đạo Nhất Phật thừa như vậy.
Bồ-tát lại nghĩ: “Nghe nói các loại pháp Như Lai thuyết giảng trong các kinh đều chân thật. Vì sao? Vì hóa độ các chúng sinh mà các Đức Như Lai tùy thuận căn cơ thuyết pháp.” Điều này Bồtát không sinh nghi hoặc, không khởi hai tâm. Đây là Bồ-tát tin vào ba thừa có chỗ sai khác.
Bồ-tát lại nghĩ: “Âm hưởng của các Đức Như Lai là vô cùng sâu xa vi diệu, Phạm âm như vậy là chân thật. Vì sao? Vì các Phạm thiên tử thiện căn mỏng ít, còn có thanh âm vi diệu vang vọng, êm ái, trong trẻo, xúc cảm, huống nữa là trong vô lượng kiếp Đức Như Lai đã tu hành, thành tựu trăm phước trang nghiêm, đầy đủ vạn đức.” Điều này Bồ-tát không có nghi hoặc. Bồ-tát tin âm hưởng thâm diệu của Như Lai như vậy.
Bồ-tát lại nghĩ: “Nghe nói Phật Như Lai biết rõ các loại tánh khí, căn cơ thông minh, ngu độn của chúng sinh. Các chúng sinh được hóa độ, nghe pháp chỉ có một âm thanh, vậy mà mỗi loài đều hiểu, đoạn dứt tâm nghi. Người thiện căn thành thục được hóa độ trước. Mỗi mỗi chúng sinh đều hiểu như vầy: Nay Đức Như Lai vì một mình ta mà thuyết pháp như thế. Nhưng các Đức Như Lai không có tư duy phân biệt như vậy. Những sự việc như vậy là chân thật, chẳng sai lầm chẳng dối trá.” Điều này Bồ-tát không sinh nghi hoặc, tin chắc rằng Như Lai tùy theo cơ duyên giáo hóa chúng sinh.
Thiện nam! Đây là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp khiến tâm không nghi hoặc.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có đủ mười pháp dụ như biển lớn. Những gì là mười?
Đó là chỗ quy tụ tất cả châu báu, rộng lớn khó dò, càng ra càng sâu, không chứa thây chết, bình đẳng một vị, có khả năng dung nạp hết thảy sông ngòi, không quá thời hạn, là nơi nương sống của các chúng sinh lớn, không có biên vực.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát là nơi các châu báu quy tụ, cho đến thế nào là không có biên vực?
Này thiện nam! Ví như biển cả là nơi quy tụ của vô lượng, vô biên hết thảy châu báu, tất cả chúng sinh đều đến đó lấy vật báu. Bồ-tát cũng vậy, là nơi quy tụ vô lượng, vô biên hết thảy công đức châu báu. Tất cả chúng sinh cầu đạt phước đức đều đến nơi ấy.
Thiện nam! Ví như biển cả thật khó đo lường, sự sâu xa của Bồ-tát khó lường cũng lại như vậy.
Thiện nam! Như biển rộng lớn, từ bi trí tuệ sâu xa rộng lớn của Bồ-tát cũng lại như vậy.
Thiện nam! Ví như biển cả không dung chứa hết thảy thây chết. Vì sao? Vì pháp của biển cả là như vậy. Bồ-tát không thể sống chung với tri thức ác cùng tất cả phiền não, cũng lại như vậy. Vì sao? Vì pháp của Bồ-tát là như thế.
Thiện nam! Ví như biển cả, hết thảy các dòng sông đều chảy vào đó, hòa thành một vị, đó là vị mặn. Bồ-tát tu hết thảy pháp thiện đều thành một vị cũng lại như vậy, đó là vị Nhất thiết chủng trí.
Thiện nam! Như biển dung chứa các sông nhưng không tăng giảm, Bồ-tát thọ vô lượng pháp không có tăng giảm cũng lại như vậy.
Thiện nam! Như nước nơi biển cả lên xuống không quá thời hạn, Bồ-tát giáo hóa chúng sinh không quá thời hạn cũng lại như vậy.
Thiện nam! Như biển cả là nơi cư trú của chúng sinh có thân to lớn; hết thảy chúng sinh có pháp bạch tịch y chỉ nơi thân Bồ-tát cũng lại như vậy.
Thiện nam! Như nước biển rộng bao la, không có phần hạn, tất cả chúng sinh không thể biết lượng nước nhiều ít; Bồ-tát vì các chúng sinh mà nói pháp yếu vô biên vô tận, không thể lường xét cũng lại như vậy.
Đây là Bồ-tát như đại hải, là nơi quy tụ các thứ châu báu phước đức cho đến vô biên.
Thiện nam! Như vậy, Bồ-tát đầy đủ mười pháp dụ như biển lớn.
Bấy giờ, Đức Phật bảo Đại Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại:
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp hiểu biết sâu xa vi tế. Những gì là mười? Đó là:
1. Hiểu sự mong cầu xuất ly.
2. Hiểu các pháp một cách rốt ráo.
3. Hiểu đầy đủ tất cả các pháp.
4. Hiểu sự tùy thuận hết thảy pháp tướng.
5. Hiểu sự phân tích hết thảy các pháp.
6. Hiểu mười hai nhân duyên sâu xa khó suy xét.
7. Hiểu nghiệp lực chẳng thể nghĩ bàn.
8. Hiểu nghĩa sâu rộng như chỗ thuyết giảng.
9. Hiểu và thông đạt thuận như đạo lý.
10. Hiểu về nhất chân đế.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát hiểu sự mong cầu xuất ly, cho đến nào là Bồ-tát hiểu về nhất chân chế?
Bồ-tát hằng nghĩ nhớ: “Hết thảy thế gian thật là thống khổ! Bị lửa dữ của tám khổ thiêu đốt, dâm dục như lửa hừng đốt cháy toàn thân, lửa sân hừng hực, vọng khởi loạn tưởng, vô minh si ám che lấp nhãn căn.”
Bồ-tát thấy rồi lại nghĩ: “Những chúng sinh này làm sao ra khỏi nhà lửa ba cõi, thoát được nạn lửa?! Vì nhân duyên độ thoát những chúng sinh ấy, nên ta phải cầu hiểu các pháp, cầu được bình đẳng thuận theo các pháp.”
Được bình đẳng rồi, như thật biết rõ tướng huyễn của các pháp. Rõ biết huyễn rồi thì hiểu đúng pháp luật. Hiểu đúng như thật rồi, theo đó quán sát mươi hai nhân duyên sâu xa khó lường. Được duyên quán rồi, liền quán sát nghiệp lực chẳng thể nghĩ bàn. Quán như vậy xong, nghĩ: “Pháp này thật là hiếm có. Tất cả các pháp tuy không có tự thể nhưng lại khéo tạo ra đủ loại sắc tướng.”
Nhờ hiểu rõ sự vi tế như vậy nên đối với nghĩa lý đã nghe liền được thông tỏ. Do thấu tỏ về ý nghĩa hơn nên thông đạt chân như. Đạt chân như rồi được thấy thật tế. Thấy thật tế rồi, nên có thể độ thoát tất cả chúng sinh ra khỏi nhà lửa sinh tử.
Thiện nam! Đây là Bồ-tát hiểu sự mong cầu xuất ly, cho đến hiểu đầy đủ về nhất chân đế. Đó là mười pháp Đại Bồ-tát hiểu biết sâu xa vi tế.
Thiện nam! Đại Bồ-tát có đầy đủ mười pháp biện tài hội lý. Những gì là mười? Đó là: Hết thảy các pháp chỉ là giả danh, không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ mạng, không nuôi dưỡng, không tạo tác, không thọ nhận, vô tri, vô kiến, nguy hiểm, tai ách chẳng được tự tại, rỗng không, không sở hữu, do nhân duyên giả hợp, phân biệt hư vọng. Như vậy gọi nó là giả hợp, giả danh. Thiện nam! Có đạo lý này là tùy thuận nơi pháp tướng.
Không ngã, không nhân, không chúng sinh, không thọ mạng, không tạo tác, không thọ nhận, vô tri, vô kiến, không có tự tại, phân biệt hư vọng, nhân duyên giả hợp. Nói pháp như vậy là hợp lý đạo, tùy thuận nơi pháp tướng, không trái với pháp tướng, cùng lý tương ưng. Quán sát đúng lý một cách như thật, tất không điên đảo là làm rõ về pháp tướng. Biện tài như vậy cùng lý tương ưng, nên gọi là biện tài hội lý.
Thiện nam! Đây là Bồ-tát đầy đủ mười pháp biện tài hội lý.
Thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp biện tài sáng tỏ. Những gì là mười? Đó là:
1. Biện tài cởi bỏ mọi trói buộc.
2. Biện tài vô tận.
3. Biện tài không đoạn tuyệt.
4. Biện tài tạo lợi ích khắp nơi.
5. Biện tài không thấp kém.
6. Biện tài không kinh sợ.
7. Biện tài không ai bằng.
8. Biện tài không bị ngăn cản, phá hoại.
9. Biện tài vô cùng.
10. Biện tài bốn vô ngại đầy đủ.
Thiện nam! Đây là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp biện tài sáng tỏ.
Thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp biện tài tịnh khiết. Những gì là mười? Đó là:
1. Biện tài không vụng về.
2. Biện tài không hoảng sợ.
3. Biện tài không yếu hèn.
4. Biện tài không tự khoe khoan.
5. Biện tài không giảm mất nghĩa lý.
6. Biện tài không giảm mất văn từ.
7. Biện tài không sai phương pháp.
8. Biện tài không sai thời.
9. Biện tài không thô thiển, khó hiểu.
10. Biện tài rõ ràng.
Thiện nam! Bồ-tát biện tài không vụng về. Vì sao? Vì không có gì lo sợ. Bồ-tát ở giữa đại chúng như sư tử vương không khiếp sợ.
Bồ-tát biện tài không tự khoe, cũng không dua nịnh. Vì sao? Vì đã lìa xa phiền não. Người còn phiền não thì luôn tự khoe, chẳng phải là không còn phiền não.
Bồ-tát biện tài không làm tổn giảm ý nghĩa. Vì sao? Vì đã đắc pháp như vậy.
Bồ-tát không biện tài vô nghĩa. Vì sao? Vì đã chứng đắc pháp. Thiện nam! Người chưa chứng pháp làm giảm mất nghĩa, ấy chẳng phải là người đắc pháp.
Bồ-tát biện tài không giảm mất văn từ. Vì sao? Vì đã tu hết thảy các phương pháp.
Bồ-tát khéo học vô lượng kinh pháp nên không sai thời, khoảng trước khoảng sau đều không sai. Bồ-tát biện tài không thô thiển, khó hiểu. Lời nói không thô ác, không trái tai. Vì sao? Vì lìa xa các lỗi lầm, ác khẩu. Bồ-tát biện tài rõ ràng. Vì sao? Vì lợi căn đầy đủ.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp biện tài tịnh khiết.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp biện tài hay làm cho tất cả chúng sinh hoan hỷ.
Những gì là mười? Đó là:
1. Ái ngữ.
2. Sắc diện tươi vui, không nhăn nhó.
3. Thường nói nghĩa lý.
4. Thường nói chánh pháp.
5. Nói pháp bình đẳng.
6. Không tự kheo tài năng mình.
7. Không khinh chê.
8. Tâm không nhiễm ô.
9. Hành động không suất.
10. Biện tài đủ loại.
Thiện nam! Bồ-tát nói lời ái ngữ làm cho chúng sinh tâm được hoan hỷ.
Bồ-tát sắc diện tươi vui, không nhăn nhó, luận bàn cởi mở làm cho chúng sinh vui thích.
Bồ-tát thường nói nghĩa lý, lời nói ưu ái nên tâm chúng sinh vui thích.
Bồ-tát thường luôn thuyết pháp, lời nói lợi ích, làm cho chúng sinh vui thích.
Bồ-tát thuyết pháp bình đẳng, khiến cho tâm ý chúng sinh vui thích.
Bồ-tát không tự khoe tài năng của mình, lìa xa kiêu mạn, phóng túng, cao ngạo, tùy theo mỗi loài chúng sinh mà dạy bảo khiến họ được hoan hỷ.
Bồ-tát không có tâm khinh chê, ân cần vì chúng sinh nói pháp khiến họ được hoan hỷ.
Bồ-tát không còn sự nhiễm ô, trì giới thanh tịnh nên khiến chúng sinh hoan hỷ.
Bồ-tát hành động không khinh suất, luôn tu nhẫn nhục.
Bồ-tát biện tài đủ loại, dùng lời ái ngữ nên khiến chúng sinh hoan hỷ.
Này thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp biện tài có khả năng làm cho tất cả chúng sinh hoan hỷ.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp ngôn ngữ biện tài, được người tín thọ. Những gì là mười? Đó là:
1. Bồ-tát đối với các chúng sinh chẳng phải là bậc pháp khí thì không nên nói pháp.
2. Chúng sinh hủy báng pháp, Bồ-tát cũng không vì họ mà giảng nói.
3. Những kẻ đến đùa cợt, khinh nhờn, Bồ-tát cũng không vì họ mà giảng nói.
4. Ngoại đạo tà kiến, Bồ-tát cũng không nên giảng nói cho họ.
5. Người không cung kính, Bồ-tát cũng không nên giảng nói cho họ.
6. Người không tín tâm, Bồ-tát không nên giảng nói cho họ.
7. Người dối trá, dua nịnh, Bồ-tát không nên giảng nói cho họ.
8. Bồ-tát không vì tự thân thiếu thốn, không vì tài sản mà thuyết pháp.
9. Bồ-tát không vì lợi dưỡng, ganh ghét, tham tiếc mà nói pháp.
10. Người đầu óc phân tán, lõa hình và câm điếc, Bồ-tát không nên nói pháp cho họ.
Vì sao? Này thiện nam! Đối với các chúng sinh, Bồ-tát không có lẫn tiếc, cũng không hề dấu pháp. Bồ-tát không thể không thương xót chúng sinh, không thể không làm lợi vật. Nhưng vì các chúng sinh đối với Phật pháp chẳng phải là bậc pháp khí, do vậy Bồ-tát không thể thâu nhận.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại thưa:
–Kính bạch Thế Tôn! Những chúng sinh nào, Bồ-tát nên vì họ nói pháp?
Đức Phật bảo:
–Này thiện nam! Bồ-tát nói pháp vì các chúng sinh như:
Người có tín căn.
Người có khả năng thành thục.
Người đối với Phật quá khứ đã trồng căn lành, có đủ pháp khí.
Người không quanh co, lìa xa sự dối trá.
Người có oai nghi, thật không giả dối.
Người không tham đắm nơi danh vọng, lợi dưỡng của thế gian.
Người tín tâm đầy đủ, được bạn lành thâu giữ.
Người tạo các nghiệp thiện, dễ có thể khai ngộ. Chúng sinh lợi căn, đối với nghĩa lý đã nói có khả năng thông hiểu ý nghĩa sâu xa, tu hành như lời nói, tinh tấn dũng mãnh, có khả năng thành Phật.
Này thiện nam! Đối với những chúng sinh như vậy, chư Phật và Bồ-tát nên vì họ mà nói pháp.
Này thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp, lời nói phát ra được người tín thọ.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có mười pháp giỏi khéo thuyết pháp. Những gì là mười? Đó là:
1. Chỉ vì tu hành các pháp Phật mà nói pháp. Thuyết pháp như vậy nhưng Phật và pháp đều không thủ đắc.
2. Vì muốn tu hành các Ba-la-mật mà nói pháp, nhưng cũng chẳng thủ đắc sự tu hành này và các Ba-la-mật.
3. Vì hạnh Bồ-đề mà Bồ-tát thuyết pháp, nhưng chẳng thủ đắc Bồ-đề cùng hạnh Bồ-đề.
4. Vì diệt phiền não nên thuyết pháp, nhưng chẳng thủ đắc nơi phiền não cùng sự diệt phiền não.
5. Vì tu tập xuất ly để chứng diệt nên Bồ-tát nói pháp, nhưng chẳng thủ đắc sự xuất ly, cũng chẳng thủ đắc sự chứng diệt.
6. Vì chứng đạt quả Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm nên Bồ-tát nói pháp nên chẳng thủ đắc Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm.
7. Vì quả A-la-hán nên Bồ-tát thuyết pháp, nhưng chẳng thủ đắc A-la-hán cùng quả A-la-hán.
8. Vì đạt quả Bích-chi-phật nên Bồ-tát thuyết pháp, nhưng Duyên giác cùng Duyên giác quả cũng chẳng thủ đắc.
9. Vì diệt sự chấp chặt các ngã kiến nên Bồ-tát thuyết pháp, nhưng ngã cùng sự chấp trước đều chẳng thủ đắc.
10. Bồ-tát tuy nói có các nghiệp báo, nhưng nghiệp cùng nghiệp báo cũng chẳng thủ đắc.
Vì sao? Vì Bồ-tát tư duy thấy rằng: Các pháp được nói do nương nơi danh dự. Nhưng vào danh dự này để tìm pháp thì chẳng được. Vì sao? Vì gọi là pháp ấy chẳng phải là thể của văn tự. Xét văn tự ấy cũng không là thể của pháp. Vì nghĩa này, nên nương vào giả danh tục đế để giảng nói ở nơi pháp không danh mà lập nên danh tự. Danh tự như vậy đều là hư vọng, phi chân thật. Phi chân thật ấy chẳng phải là Đệ nhất nghĩa. Đã chẳng phải là chân đế, nên là pháp hư vọng, dối gạt tất cả hàng phàm phu.
Này thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp giỏi khéo thuyết pháp.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp không thể không tùy thuận. Những gì là mười?
1. Thiện nam! Bồ-tát tùy thuận theo pháp không từ nơi sắc.
2. Tùy thuận pháp không từ thọ, tưởng, hành, thức.
3. Tùy thuận pháp không từ Dục giới.
4. Tùy thuận pháp không từ Sắc giới.
5. Tùy thuận pháp không từ Vô sắc giới.
6. Tùy thuận pháp không từ nơi pháp.
7. Tùy thuận pháp nhưng không thuận chúng sinh.
8. Tùy thuận pháp nhưng không thuận đoạn kiến.
9. Tùy thuận pháp không từ nơi đạo.
10. Dùng trí phương tiện thiện xảo để tương ưng, chẳng phải là không tùy thuận.
Thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp không thể không tùy thuận.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp khéo thông hiểu về pháp giới. Những gì là mười?
Đó là:
1. Đầy đủ trí tuệ.
2. Được tri thức thiện thâu nhận.
3. Tinh tấn dũng mãnh.
4. Lìa xa hết thảy chướng ngại.
5. Khéo được thanh tịnh.
6. Sinh tâm ân trọng đối với điều được dạy bảo.
7. Hằng tu không tướng.
8. Lìa xa những kiến chấp lệch lạc, hẹp hòi.
9. Khéo hành Thánh đạo.
10. Thấy rõ chân đế.
Đó là mười pháp.
Này thiện nam! Bồ-tát nuôi dưỡng tuệ mạng phải nên thân cận thiện hữu, sinh tâm hoan hỷ khi gặp tri thức thiện. Đối với thiện hữu nên sinh tưởng như Thế Tôn, y chỉ mà trụ. Nương thiện hữu rồi, dũng mãnh tinh tấn diệt trừ tất cả pháp bất thiện, thành tựu viên mãn hết thảy pháp thiện. Dũng mãnh như vậy, tất cả chướng ngại đều được diệt tận. Chướng ngại không còn nhưng vẫn tấn tu không dừng, nên được thanh tịnh; lìa xa tất cả thân khẩu ý ác cùng nghiệp phá giới. Được thanh tịnh rồi, đối với điều được dạy bảo sinh tâm ân trọng. Ân trọng lời dạy rồi, luôn tu không tướng. Tu không tướng rồi, chẳng sinh thấy biết điên đảo. Lìa xa thấy biết điên đảo rồi, tu tập Thánh đạo. Tu Thánh đạo rồi liền thấy chân thật.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại thưa:
–Kính bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là chân thật?
Phật bảo:
–Này thiện nam! Chân thật là chẳng điên đảo.
Bồ-tát thưa:
–Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là chẳng điên đảo?
Phật bảo:
–Thiện nam! Chẳng hư vọng gọi là không điên đảo.
Bồ-tát thưa:
–Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là chẳng hư vọng?
Phật bảo:
–Tức là pháp Như như không biến đổi.
Bồ-tát thưa:
–Kính bạch Thế Tôn! Thế nào là Như như?
Phật bảo:
–Cái Như như ấy là pháp chứng biết ở bên trong, chẳng thể dùng văn tự hiển bày. Vì sao? Vì pháp này tất cả nẻo ngôn ngữ đều chết. Văn tự, chương cú chẳng thể giải thích được. Nó vượt qua cảnh giới âm thanh, lìa các khẩu nghiệp, dứt các lý luận, chẳng tăng, chẳng giảm, chẳng ra, chẳng vào, chẳng hiệp, chẳng tán, chẳng thể dò xét, chẳng thể suy tính. Vượt qua cảnh giới toán số, chẳng phải chốn hành của Tâm, không ngại, không tưởng, vượt qua cảnh giới của tưởng, vượt qua hết thảy cảnh giới ấu trĩ, chẳng phải nơi đến của tất cả kiến giải còn non kém. Vượt qua tất cả cảnh giới của ma. Vượt qua tất cả cảnh giới của phiền não. Vượt qua cảnh giới của thức, không có chỗ trụ, không trụ nơi hành xứ của Thánh trí tịch tĩnh. Chỗ được chứng đắc bên trong như vậy, không cấu, không uế, không nhiễm, thanh tịnh vị diêu bậc nhất, rốt ráo tối thắng, thường hằng, an nhiên, chẳng phải pháp sinh diệt. Như Lai xuất hiện ở đời, hay không xuất hiện ở đời, pháp giới vẫn thường như vậy.
Này thiện nam! Bồ-tát vì pháp này nên tinh cần không bê trễ, tu hành tinh tấn, nhẫn các loại khổ. Khổ hạnh như vậy mới chứng pháp giới ấy. Ở trong pháp này lại an lập thêm cho tất cả chúng sinh.
Thiện nam! Đó gọi là “Như như”, gọi là Thật tế, gọi là Nhất thiết trí, gọi là Nhất thiết chủng trí, gọi là cảnh giới bất khả tư nghì, gọi là cảnh giới không hai.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại thưa:
–Kính bạch Thế Tôn! Làm sao để chứng, làm sao đạt được pháp giới gọi là chỗ được “chứng đắc bên trong” như vậy?
Phật bảo:
–Thiện nam! Cần phải dùng trí tuệ xuất thế gian mới có thể nội chứng, nội đắc.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại thưa:
–Kính bạch Thế Tôn! Dùng trí nơi đối tượng được chứng đắc thì có thể đạt được nội chứng không?
Phật bảo:
–Thiện nam! Chẳng được. Vì sao? Vì phải dùng trí tuệ mới có thể thấy pháp như thật để thân chứng.
Bồ-tát lại thưa:
–Kính bạch Thế Tôn! Các thiện nam hoặc dùng văn tuệ, hoặc dùng tư tuệ chứng đắc pháp này, có thể gọi là nội chứng chăng?
Phật bảo:
–Thiện nam! Chẳng thể được. Vì sao? Vì chẳng thể dùng văn tuệ, chẳng thể dùng tư tuệ mà nội chứng pháp ấy.
Này thiện nam! Ta nay vì ông mà nói thí dụ:
Thiện nam! Như vào cuối tháng mùa hạ, giữa khu rừng hoang dã rộng lớn, giả sử có người từ phương Đông đi qua thành phương Tây; lại có một người từ phương Tây đi qua thành phương Đông, anh này bị nung nóng, khổ sở, não loạn vì quá khát nước. Giữa đường gặp người phương Đông đi đến, anh hỏi: “Nhân giả! Nay tôi bị nóng bức khó chịu vì cái khổ khát nước. Anh có thể vì tôi chỉ đường đến nơi có ao, hoặc hồ nước trong sạch, mát mẻ không nhơ, có thể giúp tôi trừ được cơn khát này?” Khi ấy, người đến từ phương Đông biết rõ đường đi đến chỗ nước mát, vì tự thân anh đã từng uống nước này và tắm rửa tại đây, anh ta liền đáp: “Nhân giả! Theo con đường này, ông đi thẳng đến chỗ kia, thấy có hai đường, nên tránh đường bên trái, đi đường bên phải. Đi mãi sẽ có rừng cây tươi tốt. Trong khu rừng này có ba ao nước trong sạch, thơm ngon, hòa diệu, nhẹ nhàng, mát mẻ, đầy đủ tám công đức.”
Thiện nam! Ý ông nghĩ sao? Người bị bức não do cái khổ khát nước ấy mới nghe tên nước, nghĩ đến nước này có thể trừ hết khát không? Liền chứng biết nước này mát mẻ không?
Bồ-tát thưa:
–Không, bạch Thế Tôn! Người khát nước ấy phải đến chỗ nước trong mát kia uống, tắm rồi cơn khát mới dứt trừ, tự thân mới chứng biết.
Phật bảo:
–Này thiện nam! Hai tuệ văn, tư chẳng được nội chứng, cũng lại như vậy.
Này thiện nam! Khu rừng ấy tức là sinh tử.
Người bị khổ nóng bức là tất cả chúng sinh. Vì sao? Vì bị ba chướng phiền não thiêu đốt, bứt bách nên khao khát năm dục.
Người chỉ đường đi ấy là Bồ-tát khéo hiểu đạo Nhất thiết trí, đã chứng pháp này, nội chứng đắc pháp.
Nước thanh tịnh ấy tức là Đệ nhất nghĩa đế.
Này thiện nam! Ta nay vì ông lại nói thí dụ, ông nên lắng nghe. Thiện nam! Ý ông nghĩ sao? Giả sử chư Phật Như Lai thọ mạng một kiếp, trụ nơi thế giới, ở cõi Diêm-phù-đề, Như Lai đối trước mọi người xưng tán vị cam lồ: sắc hương, mỹ vị thanh tịnh, mềm mại đầy đủ. Những chúng sinh này nghe khen món ăn ấy có được no không?
Bồ-tát thưa:
–Không, bạch Thế Tôn!
Phật bảo:
–Thiện nam! Vì ý nghĩa ấy ông nên biết, hai tuệ văn, tư chẳng thể nội chứng đắc pháp như thật.
Lại nữa, thiện nam! Hãy lắng nghe thí dụ:
Thiện nam! Ví như một người từng ăn quả cam, biết được mỹ vị của nó. Đối trước mọi người, anh ta tán thán sắc, hương, vị, xúc của nó đầy đủ. Thiện nam! Ý ông nghĩ sao? Những người này nghe nói mùi vị của quả cam, họ có được mùi vị ấy không?
Bồ-tát thưa:
–Không, bạch Thế Tôn!
Phật dạy:
–Thiện nam! Nương nơi nghĩa ấy nên biết, hai tuệ văn, tư chẳng thể nội chứng đắc pháp như thật. Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại thưa:
–Lành thay, Thế Tôn! Lành thay, Thiện Thệ! Bạch Thế Tôn! Những chúng sinh kia làm sao chứng đắc pháp ấy? Phải chăng do nhân duyên từng nghe kinh này? Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì những chúng sinh kia chứng đắc pháp, nhân nghe pháp ấy mà không điên đảo.
Phật bảo:
–Đúng vậy, đúng vậy! Đúng như lời ông nói. Được nghe pháp này, do không điên đảo, nên được pháp ấy như ta không khác.
Này thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát mười pháp thông hiểu pháp giới.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp hành cảnh giới không. Những gì là mười? Đó là:
1. Lực không.
2. Vô úy không.
3. Phật bất cộng pháp không.
4. Giới tạng không.
5. Định tạng không.
6. Tuệ tạng không.
7. Giải thoát tạng không.
8. Giải thoát tri kiến tạng không.
9. Nhất thiết pháp không.
10. Không không.
Bồ-tát đều biết rõ tất cả, không vì nhân duyên này mà thủ đắc pháp không, cũng chẳng chấp trước nơi không, cũng không thấy biết không, cũng không nương nơi không, cũng chẳng vì nhân duyên này mà rơi vào tướng đoạn diệt.
Này thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp hành cảnh giới không.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp trụ nơi vô tướng. Những gì là mười? Đó là:
1. Lìa tướng ở ngoài.
2. Lìa tướng ở trong.
3. Lìa các hý luận.
4. Lìa tất cả sự phân biệt.
5. Lìa tất cả sở đắc.
6. Lìa tất cả chuyển động.
7. Lìa tất cả hành xứ.
8. Lìa tất cả cảnh giới.
9. Chẳng thủ đắc nơi thức.
10. Cũng chẳng thủ đắc nơi pháp theo đối tượng của thức.
Này thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp trụ nơi vô tướng.
Khi ấy, Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Chư Phật, Bồ-tát quan sát pháp vô này như thế nào?
Phật bảo:
–Này thiện nam! Chỗ này thì chẳng thể nghĩ bàn, do nghĩa ấy rất thâm diệu. Vì sao? Vì nó vượt qua cảnh giới của ý thức. Hết thảy chúng sinh đối với pháp này đều sinh loạn động.
Thiện nam! Pháp của Như Lai này là bất khả tư nghì. Tất cả chúng sinh chẳng thể thấy biết. Pháp của Như Lai này vi diệu hết mức, chẳng thể suy tính, lao nhọc tâm thức. Vì sao? Thiện nam! Vì pháp này khó chứng nhập, sâu xa, vượt mọi nẻo ngôn luận, không bỉ, không thử, bình đẳng như hư không, chẳng phải là cảnh giới của tất cả luận sư, chẳng thể suy lường, chẳng thể dò xét.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Hôm nay con muốn hỏi thêm, xin Thế Tôn cho phép?
Phật dạy:
–Thiện nam! Ông tùy ý hỏi, ta sẽ giải đáp.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại liền bạch Phật:
–Như điều Phật dạy, pháp vô tướng này tất cả chúng sinh chẳng thể thấy biết. Vậy pháp của Như Lai ấy ai có thể tin? Như Lai là Đấng Pháp Vương mà tự khen mình, chẳng phải là cao ngạo, tăng thượng mạn sao? Phàm là cao ngạo thì chẳng phải là tướng Đại nhân.
Phật bảo:
–Thiện nam! Ông hỏi rất hay! Hãy khéo lắng nghe mà suy nghĩ.
Bồ-tát thưa:
–Con xin lắng nghe! Bạch Đức Thế Tôn!
Phật bảo:
–Này thiện nam! Phật không kiêu mạn, cũng không cống cao ngạo, không vì danh tiếng, không vì lợi dưỡng, không vì tri thức, chẳng tự khen hư dối, chẳng tự cao hư dối. Chỉ vì tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh chứng đắc pháp ấy nên nói lời như thế. Vì sao? Vì những chúng sinh kia ở bên Như Lai nghe lời ấy liền được đại hoan hỷ, thanh tịnh vô lượng, sẽ được pháp ấy không khác. Ta ngày nay, làm bậc pháp khí nhiều kiếp đạt lợi ích an lạc, cho đến chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Những chúng sinh này sẽ không biết oai thần nơi Phật chăng?
Phật bảo:
–Thiện nam! Những chúng sinh này chẳng biết. Vì sao? Vì tâm còn thấp kém.
Thiện nam! Cõi Phật đây có nhiều chúng sinh tâm ý nhỏ hẹp, thấp kém, trí nhỏ, tín nhỏ, ít phần thiện căn. Do vậy chẳng biết công đức, oai thần của Như Lai. Vì những chúng sinh này nên Phật tự khen mình, khiến họ đối với Phật sinh tâm tin tưởng.
Này thiện nam! Như có một vị Y vương khéo giỏi trị bệnh. Khi ấy có nhiều chúng sinh bị bệnh khổ trầm trọng. Nơi thôn xóm ấy chỉ có vị lương y này, không còn ai khác. Những chúng sinh bệnh khổ trầm trọng, không một ai biết vị lương y này khéo giỏi trị bệnh, đầy đủ oai đức. Khi ấy, lương y nghĩ: “Những người bệnh này khốn khổ đáng thương, bị khổ não bức bách, chẳng biết dược tánh, chẳng biết tăng giảm. Ta nay nên vì những chúng sinh này mà điều trị cho họ hết bệnh.”
Lúc này, vị lương y đối trước các người bệnh tự khen mình: “Này những bệnh nhân! Nên biết ta là đại Y vương khéo giỏi trị bệnh, biết rõ gốc bệnh, thông hiểu việc chẩn đoán, thông hiểu về thuốc thang.” Người bệnh nghe rồi tin biết vị lương y nên đến nương nhờ. Đại Y vương này liền vì những người bệnh kia mà điều trị cho họ. Các loại bệnh tật liền đó được khỏi.
Thiện nam! Ý ông nghĩ sao? Lương y này có thể gọi là cao ngạo không?
Bồ-tát thưa:
–Không, bạch Thế Tôn!
Phật dạy:
–Thiện nam! Chư Phật Như Lai cũng lại như vậy, là đại Y vương, rõ biết tất cả trọng bệnh phiền não, cũng biết căn nguyên của bệnh phiền não. Bố thí cho khắp chúng sinh pháp diệu dược lớn mà người bệnh phiền não chẳng nhận thức được. Như Lai Y vương thấy việc ấy rồi, nên đối trước những người bệnh mới tự khen công đức mình. Những chúng sinh nghe được công đức chân thật của Như Lai đều sinh tín tâm, quy hướng với Như Lai. Vì những người này, Như Lai Đại Y Vương dùng các loại đại pháp dược vi diệu điều trị tất cả trọng bệnh phiền não đều khiến dứt tận. Những gì gọi là đại pháp dược?
Đó là quán bất tịnh, quán Từ bi, quán mười hai Nhân duyên...
Thiện nam! Phật thấy vô lượng lợi ích như vậy nên tự khen công đức mình, chẳng phải là cao ngạo.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp xa lìa tất cả các nguyện nương. Những gì là mười? Đó là:
–Tuy nguyện bố thí nhưng không nương vào sự thí. Tuy nguyện giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, cho đến ba cõi, Bồ-đề, Niết-bàn nhưng thảy đều không nương vào nguyện. Vì sao? Vì Bồ-tát lìa xa tất cả các nguyện, đem vô sở nguyện hành khắp thế gian.
Thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp lìa xa tất cả nguyện nương.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp dùng Từ làm thân. Những gì là mười? Đó là:
1. Đầy đủ Từ không ít phần.
2. Đầy đủ Từ không đây, kia.
3. Đầy đủ pháp từ.
4. Đầy đủ Từ tịch tĩnh.
5. Đầy đủ Từ không tìm lỗi.
6. Đầy đủ Từ lợi ích.
7. Đầy đủ Từ sinh bình đẳng đối với chúng sinh.
8. Đầy đủ Từ không phẫn hận.
9. Đầy đủ Từ phủ khắp mười phương cõi.
10. Đầy đủ Từ xuất thế gian.
Thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp dùng Từ làm thân.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp dùng Bi làm thân. Những gì là mười? Đó là:
1. Thấy các chúng sinh khốn khổ không ai cứu giúp, không ai bảo hộ, không chỗ nương tựa nên Bồ-tát liền phát tâm Bồ-đề.
2. Phát tâm này rồi, nỗ lực tu hành dũng mãnh tinh tấn, được pháp này.
3. Đắc pháp này rồi, vì các chúng sinh mà làm lợi ích.
4. Thấy kẻ keo kiệt, khuyên sống bố thí.
5. Thấy kẻ phá giới, khuyên bảo trì giới.
6. Thấy kẻ sân hận, khuyên tu nhẫn nhục.
7. Thấy kẻ biếng nhác, khuyên tu tinh tấn.
8. Thấy kẻ tán loạn, khuyên tu nhiếp tâm.
9. Thấy kẻ vô trí, khuyên tu trí tuệ.
10. Tuy thấy các chúng sinh bị bức bách, cực khổ, khó có khả năng kham nhẫn, nhưng Đại Bồtát vẫn không thoái chuyển hạnh Bồ-đề.
Thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp dùng bi làm thân.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp trụ nơi hoan hỷ. Những gì là mười? Đó là:
1. Ta đã được thoát khỏi nhà lửa lao ngục trong ba cõi nên sinh hoan hỷ.
2. Ta đã đoạn trừ mạng lưới sinh tử trói buộc từ vô thỉ nên sinh hoan hỷ.
3. Ta đã vượt qua các loại giác quán buông lung trụ tán loạn nơi biển lớn sinh tử, nên sinh hoan hỷ.
4. Ta đã bẻ gãy cờ kiêu mạn được dựng từ lâu, nên sinh hoan hỷ.
5. Ta dùng chày trí Kim cang đập vụn núi cao phiền não, rốt ráo sạch tận, không sót một mảy may nên sinh hoan hỷ.
6. Ta đã vui sống, lại an ủi người chưa vui sống khiến được vui vẻ nên sinh hoan hỷ.
7. Ta đã giác ngộ, từ vô thỉ lâu xa, thế gian mê ngủ, bị khát ái bức bách, vô minh si ám che lấp mắt sáng, người chưa giác ngộ, ta khiến cho giác ngộ, nên sinh hoan hỷ.
8. Ta đã thoát khỏi sáu đường ác và các loại khổ báo, lại đang độ thoát các chúng sinh khác kẻ đang thọ khổ báo nơi cõi ác nên sinh hoan hỷ.
9. Từ vô thỉ đến nay ta mê mờ nơi rừng rậm hoang vu sinh tử, một mình không bè bạn, lo sợ, bôn ba, chưa từng thấy đường ra chẳng biết chánh đạo, không người chỉ dẫn; ngày nay bỗng nhiên gặp được thầy dẫn đường nên sinh hoan hỷ.
10. Ta nay tạm gần thành Nhất thiết trí, kề cận nơi Phật, an tọa nên sinh hoan hỷ.
Thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp trụ nơi hoan hỷ.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp trụ nơi xả ưu-tất-xoa. Những gì là mười? Đó là:
Nhãn thức rõ biết cảnh giới của sắc, trong ấy xả ly, không vì sắc cảnh mà tự tổn hại, không tạo ung nhọt.
Tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý biết pháp, thảy đều xả ly, không vì ý thức rõ biết các pháp mà tự tổn hại, tạo ra ung nhọt, cũng không ngăn ngại.
Đối với hành khổ, khổ khổ, hoại khổ xả ly mà trụ. Đối với ba khổ này không tự làm tổn hại, không để lại ung nhọt, cũng không ngăn ngại. Công việc đã xong, các Thánh nhân mới xả tâm mà an trụ, các Thánh nhân mới sinh đại hoan hỷ.
Bồ-tát lại nghĩ: “Những Thánh nhân này vốn còn ở hàng phàm phu, ta nên hóa độ khiến họ thành Thánh. Nguyện ta đã thành nên trụ nơi tâm Xả.”
Thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát có đủ mười pháp trụ nơi tâm Xả.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp thần thông diệu dụng. Những gì là mười? Đó là:
1. Xuống từ cõi trời Đâu-suất.
2. Gá thần vào thai mẹ.
3. Thị hiện thọ sinh.
4. Thọ lạc trong cung.
5. Vượt thành xuất gia.
6. Thích nơi thanh vắng tu đạo khổ hạnh.
7. Ngồi tòa đạo tràng hàng phục quân ma.
8. Thành Đẳng chánh giác.
9. Chuyển bánh xe pháp.
10. Thị hiện Niết-bàn.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì mà Đại Bồtát thị hiện từ cõi trời Đâu-suất xuống, cho đến thị hiện Niết-bàn?
Phật bảo:
–Này thiện nam! Ở thiên cung Đâu-suất kia có các chúng sinh tưởng chấp về hữu thường, khi thấy Bồ-tát tối thắng, chí tôn, chí cực, vô thượng, vô biên, chẳng nhiễm dục lạc, từ nơi ấy, (cung Đâusuất) đi xuống thế gian. Khi ấy, sự tưởng chấp thường của họ liền diệt, sinh tưởng vô thường. Nhờ nương vào tưởng vô thường nên không phóng dật. Này thiện nam! Ở thiên cung kia có các chúng sinh buông lung, phóng dật, đối với Bồ-tát họ sinh tâm hoan hỷ, nhưng vì tham luyến dục lạc nên không muốn gần gũi Bồ-tát để tu hành, cũng chẳng thừa sự Bồ-tát. Họ nghĩ: “Bồ-tát thường tại, chúng ta cũng vậy, thời gian con dài, lo gì không được thân cận ngài.” Do vậy, vì trừ sự phóng dật của những chúng sinh này, nên Bồ-tát thị hiện thoái chuyển. Các chúng sinh kia bỗng thấy Bồ-tát thoái chuyển, liền hết lòng áo não, lìa bỏ năm dục, chẳng con phóng dật. Nhờ không phóng dật nên quyết định sẽ đạt được Bồ-đề vô thượng.
Này thiện nam! Có các chúng sinh ở trong thai cần nhận sự giáo hóa, Bồ-tát ở trong thai với oai thần rực rỡ, những chúng sinh này thấy rồi liền sinh tâm cho là hy hữu. Vì những chúng sinh ấy nên Bồtát ở trong thai tùy nghi vì họ nói pháp, khiến cho quyết định sẽ chứng đắc Bồ-đề vô thượng.
Này thiện nam! Có các chúng sinh cần Bồ-tát làm anh nhi và ở trong hoàng cung mới có thể thành thục, Bồ-tát vì những chúng sinh ấy được thành tựu đầy đủ. Ngoài ra, vì tùy thuận những chúng sinh thấp kém, ưa pháp nhỏ cho nên thị hiện làm hình tướng anh thi, trụ ở trong cung.
Này thiện nam! Có các chúng sinh cần thấy Bồtát vượt thành xuất gia, Bồ-tát vì muốn tạo mọi thành tựu đầy đủ cho chúng sinh ấy nên thị hiện vượt thành xuất gia.
Này thiện nam! Có các chúng Trời, Rồng, Dạxoa, Càn-thát-bà... ưa sự tệ lậu, vì những người này nên Bồ-tát thị hiện khổ hạnh. Lại vì nhẵn hàng phục các ngoại đạo mà thị hiện khổ hạnh.
Này thiện nam! Có các chúng sinh đợi khi Bồtát ngồi nơi đạo tràng họ sẽ đến đó hiện bày các đồ cúng dường, vì những chúng sinh ấy nên Bồ-tát thị hiện ngồi nơi đạo tràng. Các chúng sinh này đến chỗ Bồ-tát thiết lễ cúng dường, do nhân duyên ấy chắc chắn sẽ đắc Bồ-đề vô thượng.
Này thiện nam! Có các chúng sinh kiêu mạn, cứng cõi, vì nhằm chế ngự họ nên Bồ-tát ngồi nơi đạo tràng hàng phục quân ma.
Này thiện nam! Vì có các chúng sinh thiện căn thành thục, tấn tu công đức thù thắng, lợi ích nên Bồ-tát thị hiện thành Chánh giác. Khi Bồ-tát thành Chánh giác, các loại âm thanh trong tam thiên đại thiên thế giới đều ngưng bặt. Tam thiên đại thiên thế giới không chỗ nào là không tịch tĩnh. Những chúng sinh này thấy việc ấy rồi liền phát thệ nguyện rộng lớn: “Ta nguyện đời vị lai, an tọa nơi đạo tràng chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng.”
Này thiện nam! Có các chúng sinh tự cho mình là thầy thế gian, nhưng chẳng biết rõ rốt ráo pháp thanh tịnh xuất ly, cho đến đời vị lai cũng chẳng được một phần pháp ấy. Vì nhằm chiết phục các chúng sinh này và vì các chúng sinh thiện căn thành thục, có khả năng làm bậc pháp khí, vì chỉ bày đạo pháp cho những chúng sinh này nên sau khi đắc đạo, Bồ-tát liền đến thành Ca-thi chuyển pháp luân. Mười hai pháp luân ấy chuyển đủ ba lần. Ở giữa đại chúng, Bồ-tát nói pháp như sư tử gầm.
Này thiện nam! Có các chúng sinh khi Bồ-tát Niết-bàn, họ mới nhận sự giáo hóa. Vì hóa độ những người này nên Bồ-tát thị hiện nhập Niếtbàn.
Này thiện nam! Vì những nhân duyên ấy nên Bồ-tát thị hiện từ cõi trời Đâu-suất xuống cõi Diêm-phù-đề, cho đến thị hiện nhập Niết-bàn.
Này thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp thần thông diệu dụng.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp lìa xa tám nạn. Những gì là mười? Đó là:
1. Lìa xa tất cả các nghiệp bất thiện.
2. Chẳng dám cố phạm các giới cấm Như Lai đã chế.
3. Lìa xa tham tiếc.
4. Trồng các căn lành nơi Phật quá khứ.
5. Phước đức tương ưng với trí tuệ đầy đủ.
6. Phương tiện thiện xảo.
7. Phát thệ nguyện rộng lớn.
8. Tu tưởng, xuất ly.
9. Dũng mãnh.
10. Tinh tấn.
Này thiện nam! Bồ-tát chẳng tạo các nghiệp bất thiện nên chẳng chiêu cảm nơi địa ngục. Có các chúng sinh bị đọa nơi địa ngục, thọ các loại khổ bất như ý. Tại địa ngục ấy, các chúng sinh thọ khổ đã lâu, còn sinh sân hận với nhau. Vì Bồ-tát giữ tánh giới thanh tịnh, đầy đủ mười điều thiện, cho nên Bồ-tát không bị đọa địa ngục.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát đối với các giới cấm Như Lai chế ra chẳng dám cố phạm, tùy thân thọ trì, cho nên không sinh trong nẻo ác súc sinh. Vì sao? Vì các súc sinh luôn thọ khổ của loài súc sinh.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát tâm không tham tiếc. Nhân duyên tham tiếc sẽ bị đọa nơi cõi ngạ quỷ, thọ khổ ngạ quỷ.
Đại Bồ-tát không sinh nơi nhà hà tiện, tà kiến. Vì sao? Vì chúng sinh tà kiến không thể gần gũi tri thức thiện. Vì từ vô số kiếp lâu xa trong quá khứ, Bồ-tát đã trồng các căn lành nơi chư Như Lai. Do nhân duyên này nên đời đời kiếp kiếp, Bồ-tát sinh nơi nhà chánh kiến, giàu sang sung túc, tu tập nhân quả, thành tựu viên mãn, phước đức trí tuệ ngày càng tăng trưởng.
Đại Bồ-tát đạt được các căn đầy đủ không khuyết. Do nhân duyên các căn đầy đủ, làm bậc pháp khí của Phật, nên công đức của Bồ-tát được thành tựu. Đã cùng với nghiệp-phước đức tương ưng nên đối với tháp miếu Phật, đối với Pháp, đối với Tăng, Bồ-tát bày biện cúng dường các loại. Do nhân duyên cúng dường, tu tập nghiệp thiện nên Bồ-tát được các căn đầy đủ. Các căn đầy đủ liền được làm bậc pháp khí của chư Phật.
Đại Bồ-tát không sinh nơi biên địa. Vì sao? Vì chúng sinh nơi biên địa nhiều ám độn ngu si, câm ngọng, chẳng rõ, chẳng hiểu ngôn ngữ, chẳng thể thính thọ pháp thiện và pháp bất thiện, chẳng biết đạo lý với ý nghĩa sâu xa, chẳng thể làm bậc pháp khí cam lộ, chẳng gọi là Sa-môn, chẳng gọi là Tín sĩ. Do vậy, Bồ-tát sinh nơi trung tâm quốc độ. Chúng sinh nơi trung tâm quốc độ nhiều lợi căn, thông minh sáng suốt, người trí khen ngợi, có thể lãnh thọ phân biệt những lời nói về pháp thiện và pháp bất thiện, hiểu sâu ý nghĩa có thể làm bậc pháp khí cam lồ của chư Phật, gọi là Sa-môn, gọi là Tín sĩ. Vì sao? Vì lực nguyện cùng trí tuệ từ đời quá khứ.
Bồ-tát không thọ sinh nơi cõi trời Trường thọ. Nếu sinh ở cõi trời ấy thì vô lượng chư Phật xuất hiện nơi thế gian Bồ-tát chẳng được thấm nhuần chánh pháp, chẳng được pháp lợi, việc làm lợi ích cho chúng sinh liền bị phế bỏ. Do vậy, Bồ-tát sinh nơi Dục giới, xuống cõi chúng sinh gặp Phật xuất thế, giáo hóa thành thục. Vì sao? Vì phương tiện thiện xảo của Bồ-tát là như vậy.
Bồ-tát không sinh nơi không có Phật xuất hiện. Vì sao? Vì nơi ấy chúng sinh không nghe tên Phật, không nghe tên Pháp, không nghe tên Tăng, không kính Tam bảo. Do vậy, Bồ-tát sinh vào quốc độ nơi có Tam bảo, như quá khứ đã phát thệ nguyện đầy đủ viên mãn.
Chúng sinh hung dữ, bướng bỉnh, khó hóa độ, Bồ-tát thì không như vậy. Vì sao? Vì nghe khổ của Tám nạn, Bồ-tát không thể không chán bỏ. Vì chán bỏ nên dũng mãnh tinh tấn tu hành chân chánh, diệt trừ các pháp bất thiện như vậy.
Thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp xa lìa tám nạn.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp không quên tâm Bồ-đề. Những gì là mười? Đó là:
1. Lìa xa huyễn hoặc tà nịnh, cao ngạo.
2. Ngay thẳng, hòa hợp, tín tâm thanh tịnh.
3. Ở trong chánh pháp đoạn trừ nghi hoặc.
4. Thích trao pháp ấy cho các chúng sinh, không tiếc lẫn, không làm thầy giấu pháp.
5. Những nhân duyên này làm suy tổn chánh pháp, đều phải lìa bỏ, không nên vi phạm.
6. Phải tu hành như lời nói.
7. Thọ trì tất cả kinh điển Đại thừa.
8. Nếu thấy có người thọ trì pháp Đại thừa thì phải sinh tâm ân trọng, cung kính lễ bái, tác tưởng như bạn đồng học.
9. Nhất tâm nhất ý thính thọ Đại thừa.
10. Đối với người nói pháp, sinh tưởng như Đức Như Lai.
Này thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp không quên tâm Bồ-đề.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp chứng đắc túc mạng. Những gì là mười? Đó là:
1. Đã nhiều lần cúng dường, phụng sự chư Phật.
2. Đã từng thọ trì chánh pháp của chư Phật.
3. Giới phẩm thanh tịnh.
4. Lìa xa mọi thứ trạo cử, Hối nghi.
5. Không có các chướng ngại.
6. Tâm luôn hoan hỷ.
7. Tu tâm ngay thẳng.
8. Đắc nhập thiền định.
9. Thường thọ hóa sinh.
10. Không tâm nghi hoặc.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát đã nhiều lần cúng dường chư Phật quá khứ, kính trọng chánh pháp, sinh tâm khiêm cung đối với người hành trì pháp. Nhờ nhân duyên này nên nghe chánh pháp được thành tựu, thọ trì, đọc tụng thông đạt văn cú, rộng vì người khác phân biệt giải nói, hoằng dương chánh pháp không tiếc thân mạng.
Giới cấm thanh tịnh nghĩa là đối với ba phẩm giới thân khẩu ý hành trì giới thanh tịnh.
Lìa các trạo, hối, sinh tâm cung kính. Vì sao? Vì nhờ giữ giới thanh tịnh nên không trạo của hối nghi.
Không trạo, hối nên lìa các chướng ngại.
Lìa các chướng ngại nên sinh hoan hỷ.
Thường hoan hỷ nên có khả năng tham nhận tu tâm, khiến ngay thẳng.
Do tu tâm nên liền được nhập định.
Được thiền định nên nơi sáu cõi đạt thanh tịnh.
Sáu cõi đạt thanh tịnh nên thọ hóa sinh. Thọ hóa sinh nên không tâm nghi hoặc.
Không nghi hoặc nên chứng đắc trí túc mạng, nhớ lại quá khứ một đời, hai đời, ba, bốn, năm đời, mười đời, hai mươi, ba mươi đời, bốn mươi, năm mươi đời, cho đến vô lượng trăm vạn ức đời.
Này thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp chứng đắc trí túc mạng.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp gặp tri thức thiện. Những gì là mười? Đó là:
1. Không lìa thấy Phật.
2. Không lìa nghe pháp.
3. Không lìa cúng dường chúng Tăng phước điền.
4. Không lìa cung kính lễ bái, khiêm cung, chắp tay thừa sự chư Phật và Bồ-tát.
5. Không lìa đa văn và giảng nói pháp.
6. Không lìa nghe các hạnh Ba-la-mật.
7. Không lìa nghe ba mươi bảy phẩm pháp trợ đạo.
8. Không lìa nghe ba môn giải thoát.
9. Không lìa nghe bốn tâm vô lượng.
10. Không lìa nghe Nhất thiết chủng trí.
Thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp được gặp thiện hữu.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp lìa xa tri thức ác. Những gì là mười? Đó là:
1. Lìa xa người phá giới, nên biết gọi là lìa tri thức ác.
2. Lìa xa người tà kiến.
3. Lìa xa người mất oai nghi.
4. Lìa xa người tà mạng.
5. Lìa xa những nơi ồn ào, tạp loạn.
6. Lìa xa người biếng nhác, bê trễ.
7. Lìa xa người ưa trụ nơi sinh tử.
8. Lìa xa người bỏ hạnh Bồ-đề.
9. Lìa xa người tại gia bận rộn.
10. Lìa xa hết thảy phiền não.
Đây gọi là các tri thức ác, Đại Bồ-tát phải nên lìa xa.
Này thiện nam! Tuy lìa những chỗ này, nhưng ở gần chúng sinh, không sinh tâm ác cũng không sinh sân, tâm không nóng nảy, cũng không khinh chê. Ở trước chúng sinh Bồ-tát suy nghĩ: “Như Phật đã nói, tất cả chúng sinh là sự tụ hội khí loại, vì gần tri thức các nên mất lợi lớn. Do vậy, nay ta sớm lìa xa các tri thức ác.”
Này thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp nên xa lìa tri thức ác.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp đạt được Pháp thân Phật. Những gì là mười? Đó là:
1. Thân không gì sánh bằng.
2. Thân thanh tịnh.
3. Thân không tỳ vết.
4. Thân chẳng phải do tu tập đạt được.
5. Thân chẳng thể nghĩ lường.
6. Thân pháp thâm diệu.
7. Thân vượt mọi sự nghĩ bàn.
8. Thân tịch tĩnh.
9. Thân đồng hư không.
10. Thân Phật trí.
Thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp đạt được Pháp thân Phật.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Đại Bồ-tát trụ nơi chỗ nào để có thể đắc Pháp thân như vậy của Như Lai? Phật đáp:
–Này thiện nam! Bồ-tát ở Địa thứ nhất được thân không gì sánh bằng. Vì sao? Vì đã lìa xa hết thảy thân sai biệt, tùy thuận hết thảy pháp bình đẳng của Bồ-tát.
Bồ-tát trụ Địa thứ hai được thân thanh tịnh, vì giới phẩm thanh tịnh.
Bồ-tát trụ Địa thứ ba được thân không tỳ vết, vì lìa xa hết thảy sân hận.
Bồ-tát trụ Địa thứ tư được thân chẳng phải do tu đắc, vì đã tu pháp Phật.
Bồ-tát trụ Địa thứ năm được thân chẳng thể nghĩ bàn, vì đã thông đạt hết thảy pháp.
Bồ-tát trụ Địa thứ sáu được Pháp thân thâm diệu vì đã tu pháp chẳng thể nghĩ bàn.
Bồ-tát trụ Địa thứ bảy được thân vượt mọi sự nghĩ bàn, vì đã tu tập theo phương tiện thiện xảo.
Bồ-tát trụ Địa thứ tám được thân tịch tĩnh, vì đã lìa xa hết thảy hý luận, không còn phiền não.
Bồ-tát trụ Địa thứ chín được thân đồng hư không, ánh sáng rực rỡ.
Bồ-tát trụ Địa thứ mười được thân diệu trí. Vì sao? Vì đã tu hết thảy cảnh giới của đối tượng được nhận thức.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Pháp thân Như Lai và Pháp thân Bồ-tát có sai khác không?
Phật bảo:
–Thiện nam! Được các loại thân không có sai khác, nhưng công đức sáng tối thì có sai khác?
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại bạch Phật:
–Bạch Thế Tôn! Thế nào là các loại thân không có sai khác mà riêng công đức, oai thần có sai khác?
Phật bảo:
–Thiện nam! Thân kia, thân đây không có sai khác. Vì sao? Vì tu một thân. Nhưng tướng nơi công đức, oai thần lại có khác. Phải nên quán như vậy.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại bạch Phật:
–Kính bạch Thế Tôn! Hai thân sai khác nên quán thế nào?
Phật bảo:
–Thiện nam! Hãy lắng nghe, lắng nghe! Ta sẽ vì ông nói thí dụ để rõ nghĩa này: Này thiện nam! Như ngọc báu ma-ni được mài giũa, làm cho đẹp, có ánh sáng trong suốt rực rỡ, vì đã tinh luyện. Đối với các ngọc ma-ni chưa được tinh luyện so với ma-ni trước có thể bằng chăng?
Bồ-tát thưa:
–Không, bạch Thế Tôn! Ngọc ma-ni đã tinh luyện, ánh sáng trong suốt, mọi người thích thú.
Còn ma-ni chưa luyện thì chẳng được như vậy.
Phật bảo:
–Đúng vậy! Thân ngọc ma-ni của Bồ-tát chẳng bằng thân ngọc ma-ni của Như Lai. Tuy cùng là Pháp thân thanh tịnh, nhưng Pháp thân Bồ-tát chẳng thể sánh với Pháp thân Như Lai thanh tịnh rốt ráo. Vì sao? Vì thân Như Lai chẳng thể hạn lượng, trùm khắp cõi chúng sinh, chiếu suốt khắp cõi hư không. Vì sao? Vì thân tối cực thanh tịnh, lìa xa hết thảy các trần cấu. Còn thân ngọc ma-ni của Bồ-tát ánh sáng chẳng như vậy. Vì sao? Vì còn sót cấu bẩn.
Thiện nam! Ví như đầu tháng, ánh trăng bắt đầu, dần dần tăng trưởng, cho đến ngày thứ mười lăm mới tròn sáng. Trong thời gian ấy đều được gọi là trăng, nhưng trăng đầu tháng chẳng thể so với trăng đêm mười lăm. Vì sao? Vì pháp của nó là như vậy. Chư Phật và Bồ-tát tuy đồng danh Pháp thân, nhưng thân Bồ-tát chẳng thể sánh với thân Như Lai ánh sáng chiếu khắp.
Thiện nam! Thân Phật và thân Bồ-tát như vậy, tuy đồng là tướng thân nhưng tướng công đức, oai thần của Phật và của Bồ-tát chẳng phải là một tướng.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp được thân Kim cang chắc thật, kiên cố, chẳng thể hủy hoại. Những gì là mười? Đó là:
1. Tham, sân, si... chẳng thể hủy hoại.
2. Oán giận, phẫn hận, chướng nạn, kiêu mạn, cao ngạo, tà kiến, điên đảo chẳng thể hủy hoại.
3. Tám thức gió thế gian chẳng thể hủy hoại.
4. Ba khổ nơi cõi ác chẳng thể hủy hoại.
5. Các khổ chúng sinh chẳng thể hủy hoại.
6. Sinh, già, bệnh, chết, chẳng thể hủy hoại.
7. Các Phạm chí ngoại đạo, các luận sư tà chẳng thể hủy hoại.
8. Hết thảy chúng ma, các thiên ma chẳng thể hủy hoại.
9. Hết thảy Thanh văn và Duyên giác chẳng thể hủy hoại.
10. Hết thảy dục lạc cũng chẳng thể hủy hoại.
Thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát mười pháp được thân Kim cang chắc thật, kiên cố, chẳng thể hủy hoại.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp làm bậc thương chủ lớn. Những gì là mười? Đó là:
1. Đáng được chúc mừng.
2. Đáng được cung kính.
3. Hay giỏi tế độ.
4. Đáng được nương tựa.
5. Có thể an lập.
6. Tư lương đầy đủ, dồi dào.
7. Sửa soạn đầy đủ hành trang khi đi.
8. Không có chán đủ.
9. Bậc dẫn đường thượng thủ.
10. Khéo giỏi tùy thuận vào thành Nhất thiết trí.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát đáng được chúc mừng, cho đến khéo giỏi tùy thuận vào thành Nhất thiết trí?
Thiện nam! Như Thương chủ được quốc vương, triều thần, tể tướng chúc mừng, Bồ-tát Đại Thương chủ được chư Phật và Bồ-tát chúc mừng cũng lại như vậy.
Thiện nam! Như Thương chủ được Sát-lợi, thần dân cung kính, Bồ-tát tông chủ được hàng Hữu học, Vô học và các chúng Trời, Rồng, Dạxoa, Càn-thát-bà... cung kính cũng lại như vậy.
Thiện nam! Như đại tông chủ có khả năng cứu người vượt qua vùng núi rừng hoang dã rộng lớn, hiểm nạn đạt được an lạc mà không mệt mỏi; ở tại rừng rậm sinh tử hoang dã, các loại chúng sinh gặp các phiền não, giặc kiếp bức bách, Bồ-tát tông chủ có khả năng tế độ khiến đạt an lạc mà không mệt mỏi, cũng lại như vậy.
Thiện nam! Như các thương gia khốn khó thiếu thốn, đến nương nhờ đại Thương chủ liền được ra khỏi rừng rậm hoang dã. Ni-kiền, Phạm chí và các hàng ngoại đạo đến nương Bồ-tát đại Thương chủ, liền được ra khỏi chốn hoang dã sinh tử, những nơi hiểm nạn lớn.
Thiện nam! Như đại Thương chủ có khả năng an lập hàng văn võ, mọi người nương nhờ ông; Bồtát tông chủ khéo an lập chúng sinh nơi sinh tử cũng lại như vậy.
Thiện nam! Như đại Thương chủ cùng với quần chúng đông đảo theo phương tiến bước, dám vượt qua vùng núi rừng hoang dã hiểm nạn, đến được đại thành an lạc kia, có đủ lương thực an ổn, qua khỏi chỗ khó khăn nơi vùng hoang dã, không cảm thấy mệt mỏi, tới được chốn trù phú, an lạc. Bồ-tát tông chủ cũng lại như vậy, đi theo phương hướng của Phật quá khứ đã đi, Bồ-tát hướng dẫn, lãnh đạo hết thảy các chúng sinh, muốn cho họ qua khỏi đại nạn sinh tử, khiến họ sớm đến đại thành Nhất thiết chủng trí, nên tu các loại phước đức tư lương dồi dào vô hạn, chỉ dẫn mà đi.
Thiện nam! Như đại tông chủ lưu trữ vô lượng các loại tài sản châu báu, theo phương mà đi; đó là vàng, bạc, lưu ly, trân châu, ngọc bích, san hô..., Bồ-tát tông chủ cũng lại như vậy, muốn đi đến đại thành Nhất thiết chủng trí phải khéo tu pháp Phật, đầy đủ các hạnh.
Thiện nam! Như Đại Thương chủ cầu các tài vật không biết chán đủ, Bồ-tát tông chủ cầu Thánh pháp tài chẳng biết chán đủ, cũng lại như vậy.
Thiện nam! Như Đại Thương chủ đối với các thương nhân, ông là người đi đầu dẫn đường. Vì sao? Vì giàu tài vật, tối thắng trong chúng, là vị lãnh đạo, nói lời hữu dụng; cũng vậy, Bồ-tát đại Thương chủ đối với các chúng sinh là chủ dẫn đường. Vì sao? Vì công đức sung mãn, quả vị tối thắng, vì pháp tự tại, lời nói không sai.
Thiện nam! Như đại Thương chủ khéo dẫn mọi người đến những quốc độ trù phú; cũng vậy, Bồtát đại Thương chủ khéo dẫn chúng sinh đến quốc độ Nhất thiết chủng trí.
Này thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp làm đại tông chủ.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp làm đại đạo sư biết rõ chánh đạo. Những gì là mười? Đó là:
1. Biết đường bằng phẳng.
2. Biết đường hiểm trở.
3. Biết đường thịnh vượng.
4. Biết đường an ổn.
5. Biết đường có nước hay không nước.
6. Biết đường đến chốn hạnh phúc.
7. Biết rõ hình tướng của đường.
8. Biết đường chánh trực.
9. Biết đường quanh co.
10. Biết đường tắt.
Thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp biết rõ về chánh đạo.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp khéo chỉ đường chân chánh, không điên đảo. Những gì là mười? Đó là:
1. Như có người cần được độ bằng đạo Đại thừa, Bồ-tát vì những người này nói đạo Đại thừa, không nói thừa Thanh văn.
2. Hoặc có chúng sinh cần được giáo hóa bằng Thanh văn thừa, Bồ-tát liền vì họ nói đạo Thanh văn, không nói Bồ-tát thừa.
3. Hoặc có chúng sinh cần được độ bằng Nhất thiết trí, Bồ-tát liền vì họ nói đạo Nhất thiết trí, không nói đạo nhị thừa.
4. Hoặc có chúng sinh cần được độ bằng đạo Bích-chi-phật, Bồ-tát liền vì họ nói đạo Bích-chiphật, không nói đạo Đại thừa.
5. Hoặc có chúng sinh chấp trước ngã kiến, chấp trước các pháp, Bồ-tát vì họ nói đạo vô ngã, không, vô tướng; không nói ngã nhân, chúng sinh, thọ giả.
6. Hoặc có chúng sinh chấp trước theo nhị biên, Bồ-tát vì họ không nói nhị biên.
7. Hoặc có chúng sinh tâm bị tán loạn, Bồ-tát vì họ nói Xa-ma-tha, Tỳ-ba-xá-na, chẳng nói tán loạn.
8. Hoặc có chúng sinh thường luôn hý luận, Bồtát vì họ nói đạo “Như như”, không nói đạo phàm phu hý luận.
9. Hoặc có chúng sinh ưa trụ nơi sinh tử, Bồtát vì họ nói đạo Niết-bàn, không nói sinh tử.
10. Hoặc có chúng sinh hành tà đạo, Bồ-tát vì họ nói đạo bình đẳng, không nói đạo phiền não, gai gốc...
Thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp khéo chỉ đường chân chánh, không điên đảo.
Này thiện nam! Ta nay vì hạnh an lạc của đại chúng, bốn bộ đệ tử mà nói kinh này. Người nghe kinh này, hộ trì thân tâm, làm cho biện tài sáng tỏ vô tận, khiến các chúng trời, rồng... ủng hộ, khiến người ấy được bốn sự cúng dường, lìa các não bệnh, bốn trăm lẽ bốn bệnh được dứt trừ hết, đời đời kiếp kiếp được trí túc mạng, thấy Phật, nghe Pháp, gặp tri thức thiện, dần dần tăng trưởng cho đến thành Phật, đầy đủ mười lực, đạt Vô sở úy. Do vậy mà ta nói chú này:
“Đát điệt tha, đà kha đệ, đà kha bà la đệ, đà tha na già cước na ha lợi nhị, tỳ lê lý nhị, cà lan xà lan na chất xoa chất xoa tát bà tát đoá, bà la da mị, ta ha a kỳ na già đa la kỳ, a chí na kỳ, nĩ đệ, tư tư y, lý chỉ lý, tỷ lị, tu ha la nộ, ma ha tát y, nhân đà la xà, dịch xoa, tỉ đa khuất, a kiển trà kha, nam la thường già đa nam, bà phúc toa ha, Nam-mô bát na già lị mị, ta ha, đát điệt tha, đầu phú đầu phú, kha chi lưu, nhất kha chi hỷ, át bà lị tha, ly lâu địa, kỷ lý cư lũ giá, ma ma, đà hãn chuyên di ta ha, đát điệt tha, tha di tha di tha di tha tu, chỉ lợi chiên đà lợi càn tha lê thường già lê, câu ba si, bà la ma na, pha bà chỉ triển na tha da nê, triển na cáp thị, câu lưu sư lý, ni y bà, bật địa da, sa mạc già la ha nĩ, tát bạt tòa la, tì na thi ni, tát bà lỗ già, bà xa ma ni, ma ha ma do la hỷ đà da, kiển đa, bà ma ba đa, y để ta ha.”
Nếu bị nạn lửa, hoặc nạn vua, hoặc nạn tai ách, hoặc nạn giặc cướp, hoặc nan quỷ ác, hoặc nạn của loài hai chân, hoặc nạn của loài không chân, hoặc nạn hữu sắc, hoặc nạn vô sắc, hoặc nạn phiền não... tất cả các nạn thì nên nhất tâm nhớ nghĩ thọ trì, đọc tụng chú này, liền được tiêu trừ, lìa xa các nạn, được an lạc, mãi mãi không còn lo sợ, được như sở nguyện.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Đại Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại:
–Này thiện nam! Đại Bồ-tát tu hành mười pháp, ở bất cứ nơi đâu tâm cũng thường tịch tĩnh, trụ an lạc. Những gì là mười? Đó là:
Khéo tu nhớ nghĩ, quán sát về thân, thọ, tâm, pháp. Khéo tu nhớ nghĩ, quán sát cảnh giới nơi Alan-nhã, các làng xóm, quốc thành, đô ấp, các sự lợi dưỡng, cung kính, tiếng danh, các giới cấm Như Lai đã chế, các loại phiền não bậc thượng, trung, hạ nơi bì nhục tâm. Khéo tu nhớ nghĩ quán sát như vậy.
Thiện nam! Bồ-tát quán sát thân mà trụ nơi an lạc như thế nào?
Đại Bồ-tát dùng trí tuệ quán sát thân này từ chân đến đỉnh đầu, chỉ thấy thân này là ba mươi sáu vật giả hợp thành người, niệm niệm sinh diệt, vô thường hư hoại, gân mạch liên kết đầy nhẫy bất tịnh, không đáng ưa thích. Quán sát như vậy liền sinh chán bỏ. Do nhàm chán nên sự nhiễm thân, tham thân, kiến chấp thân, say đắm thân không còn sinh khởi. Do nhân duyên ấy nên tất cả những điều bất thiện cùng thân tương ưng đều được lìa xa, các pháp thiện cùng thân tương ưng được tăng trưởng. Quán cảm thấy thọ, khéo tu ức niệm, trụ nơi an lạc như thế nào?
Đại Bồ-tát khởi sự tư duy: “Phàm tất cả các thọ đều là khổ. Vì sao? Vì kẻ phàm phu tối tăm, vô trí, điên đảo nên trong sự khổ tưởng là vui. Tất cả Thánh nhân chỉ thấy là khổ, lại có thể an lập tất cả chúng sinh đối với pháp này khiến được tùy thuận.” Học pháp như vậy, được quán thọ rồi, khéo trụ niệm xứ, nơi thọ khổ, thọ lạc không khởi sân, không khởi tham. Vì diệt thọ nên siêng tu ức niệm, ở trong pháp này khuyến hóa người khác cũng hành như vậy.
Quán sát tâm niệm xứ, trụ nơi an lạc như thế nào?
Bồ-tát khởi sự tư duy: “Tâm này điên đảo, vô thường tưởng là thường, khổ tưởng là vui. Tất cả Thánh nhân chỉ thấy là khổ, lại có thể an lập tất cả chúng sinh đối với pháp này khiến được tùy thuận.” Học pháp như vậy, được quán thọ rồi, khéo trụ niệm xứ, nơi thọ khổ, thọ lạc không khởi sân, không khởi tham. Vì diệt thọ nên siêng tu ức niệm, ở trong pháp này khuyến hóa người khác cũng hành như vậy.
Quan sát tâm niệm xứ, trụ nơi an lạc như thế nào?
Bồ-tát khởi sự tư duy: “Tâm này điên đảo, vô thường tưởng là thường, khổ tưởng là vui, pháp vô ngã tưởng là ngã, ở trong bất tịnh tưởng là tịnh, dao động biến chuyển, một niệm không dừng. Vì các phiền não làm căn bản, vì chúng sinh mãi mãi mở cửa nơi ba đường dữ. Vì các khổ não làm nhân duyên đóng cửa đường thiện, phát khởi tham sân si... vì tất cả pháp làm tăng thượng duyên. Trong tất cả pháp, tâm là thượng thủ, nếu biết rõ tâm thì khéo biết được tất cả các pháp. Tâm có khả năng tạo ra tất cả thế gian, các loại sắc tượng. Chỉ có tâm thấy tâm. Chỉ có tâm tạo nghiệp thiện, bất thiện. Chỉ có tâm luân chuyển, không tạm dừng nghĩ giống như vòng lửa. Chỉ có tâm phóng dật, giống như ngựa hoang. Chỉ có tâm có thể thiêu đốt giống như lửa dữ. Chỉ có tâm luôn luôn sinh khởi giống như các đại.” Quán sát trụ nơi tâm niệm xứ như vậy, liền có khả năng không duyên theo tâm, nhưng lại làm thầy của tâm. Do làm thầy của tâm nên được làm thầy của tất cả pháp. Nếu ai đối với tâm mà được tự tại thì đối với pháp cũng được tự tại.
Bồ-tát quán pháp niệm xứ, trụ nơi an lạc như thế nào?
Đối với các pháp bất thiện như vậy, Đại Bồ-tát biết một cách như thật. Nói bất thiện tức là tham, sân, si và các phiền não... do vô minh sinh. Vì nhân duyên như vậy nên tu pháp môn đối trị. Nếu tâm tham sinh, thì tu quán bất tịnh. Nếu tâm sân sinh thì tu quán từ bi. Nếu tâm si sinh thì tu quán mười hai nhân duyên. Tu hành siêng năng chân chánh khiến trừ diệt tất cả phiền não... lại hay quán sát tất cả pháp thiện. Thấy pháp thiện rồi, ở trong pháp thiện thâu tóm tâm an trụ, ức niệm quán sát thọ trì pháp này. Ở trong pháp này lại đem khuyến hóa, làm cho chúng sinh cũng an trụ trong ấy.
Đối với các cảnh giới, Bồ-tát thâu giữ quán sát, trụ nơi an lạc như thế nào?
Đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, hoặc tốt hoặc xấu, Bồ-tát không sinh tâm tham, sân, ái luyến hay ngăn ngại. Bồ-tát khởi sự tư duy: “Ta nay không nên khởi tâm như vầy: Tất cả các pháp đều chẳng thể nắm giữ, tại sao nay ta lại sinh ái luyến vướng mắc? Đối với pháp này, nếu ái luyến thì ta là kẻ ngu si, là kẻ không thông hiểu, là kẻ điên đảo. Vì sao? Vì như Phật dạy: Do ái luyến nên sinh đắm nhiễm. Do đắm nhiễm nên chấp giữ nơi cảnh giới. Do ngu si nên không thông hiểu pháp thiện và bất thiện. Do nhân duyên ấy nên bị đọa vào các cõi ác.”
Bồ-tát lại nghĩ: “Ta nay không nên sinh tâm như vầy: Đối với pháp nguy hại mà khởi tâm ngăn ngại. Nếu sinh tâm ngăn ngại thì không thể kham nhẫn. Do không nhẫn nại, liền sinh sân hận. Do sinh sân nên bị các Thánh nhân quở trách, các bạn đồng học chê cười, không tán thán.” Bồ-tát quán như vậy rồi nên đối với cảnh trái ý, oán giận, liền khéo tu ức niệm mà trụ nơi an lạc.
Bồ-tát trụ nơi A-lan-nhã như thế nào?
Đại Bồ-tát nghĩ như vầy: “A-lan-nhã là nơi chôn cư trú của Tam-muội Vô tránh. Nơi A-lannhã này có nhiều chúng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Cànthát-bà... chứng đắc tha tâm trí, chứng biết tâm ta và các pháp nơi tâm. Do vậy, ta nay ở trong rừng này không nên khởi các tư duy bất thiện. Đối với các pháp, nếu không sinh tư duy bất thiện thì quán hành thành đạt, tu nhiều pháp thiện.”
Bồ-tát ở nơi thôn xóm, làng mạc, quốc thành, đô ấp... khởi sự quán sát, trụ nơi an lạc như thế nào?
Đại Bồ-tát sống nơi làng mạc nếu thấy chỗ này không thích nghi với người xuất gia thì phải nên tránh xa. Đó là những chỗ nào? Đó là quán rượu, nhà dâm nữ, nhà quan quyền, vua chúa, nơi vui chơi của các binh lính... cho đến chỗ tụ tập uống rượu, chỗ bạch y tụ tập đàn ca, múa hát. Phàm là người xuất gia, những chỗ không thích nghi đều phải nên tránh xa. Quán sát như vậy mà trụ nơi an lạc.
Đối với những sự lợi dưỡng, cung kính, danh tiếng... Bồ-tát quán sát trụ nơi an lạc như thế nào?
Về những lợi dưỡng do đàn-việt cúng dường trong sự công đức, Đại Bồ-tát đối với những lợi dưỡng này nên cảnh tỉnh, điều phục tâm mình, chớ để tham đắm, chớ sinh ái lạc, cũng lại không sinh tâm ngã và ngã sở. Nếu được lợi dưỡng thì đem cho tất cả chúng sinh thiếu thốn thọ dụng một cách đồng đều, bình đẳng. Nếu nhờ vậy mà được danh tiếng thì ở trong danh ấy, Bồ-tát không tự cao, không sinh kiêu mạn, cũng không phóng túng, nên khởi niệm như vầy: “Ta nay được danh tiếng như vậy, thời gian không lâu sẽ tự tiêu tan. Người được danh tiếng cùng với danh đạt được, tất cả đều vô thường. Có người trí nào đối với những cái hư vọng, vô thường, mau chóng, tan hoại, nguy hiểm, không có chỗ an lập mà lại sinh tâm tham đắm, khởi tâm kiêu mạn, khinh chê người khác.” Bồ-tát quán sát như vậy thì trụ nơi an lạc.
Đối với những giới luật Như Lai đã chế, Bồ-tát ức niệm quán sát, trụ nơi an lạc như thế nào?
Đại Bồ-tát nghĩ như vầy: “Ở đời quá khứ, các Đức Như Lai học pháp luật này mới thành Đẳng chánh giác mà nhập Niết-bàn. Ở đời vị lai, các Đức Như Lai học pháp luật này sẽ thành Chánh giác mà nhập Niết-bàn. Ở đời hiện tại, các Đức Như Lai cũng học pháp này, nay thành Chánh giác mà nhập Niết-bàn.” Quán như vậy rồi, đối với các pháp luật, Bồ-tát chí tâm cung kính, siêng năng cầu học pháp ấy, tu hành các thiện được trụ nơi an lạc.
Đối với ba loại phiền não bậc thượng, trung, hạ nơi bì nhục tâm, Bồ-tát ức niệm quán sát, trụ nơi an lạc như thế nào?
Đại Bồ-tát quán sát những phiền não ngoài da và cũng quán sát những phiền não trong tâm. Do quán sát nên biết nhân duyên của nó. Những phiền não này từ duyên gì sinh? Những nhân duyên ấy lại dựa vào đâu sinh? Liền được thấy biết nhân duyên phiền não là từ vô minh. Do vô minh nên tư duy bất thiện. Tư duy bất thiện lại do nhân gì sinh? Do không thông hiểu chánh pháp. Không thông hiểu chánh pháp lại do nhân duyên gì? Do không gần thiện hữu. Đã biết nhân duyên của phiền não như vậy, nguyên do của phiền não, cảnh giới của phiền não thì có khả năng lìa xa mà được trụ nơi an lạc.
Này thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp sống bất cứ nơi đâu tâm cũng luôn tịch tĩnh, trụ nơi an lạc.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có đủ mười pháp mặc y phấn tảo. Những gì là mười? Đó là:
1. Thọ trì kiên cố.
2. Kham nhẫn khiêm cung.
3. Tâm không mệt mỏi.
4. Tâm không nhiễm ô.
5. Không thấy thô xấu, chỉ thấy công đức.
6. Cũng không tự cao.
7. Không khinh chê người.
8. Đầy đủ giới tịnh.
9. Cảm đến chư Thiên.
10. Loài người cúng dường, cung kính lễ bái. Bồ-tát thọ trì kiên cố như thế nào?
Thiện nam! Đại Bồ-tát tín căn thành tựu, lòng luôn thanh tịnh, thuận theo pháp Phật Như Lai đã chế, thà mất thân mạng chứ trọn đời chẳng cố phạm.
Đã thọ trì pháp, hành trì kiên cố rồi được tâm khiêm cung. Do tâm khiêm cung nên kiêu mạn không sinh. Không kiêu mạn nên lượm nhặt y hư hoại của thế gian đã bỏ, khác với y thế tục mặc. Nhặt lượm được rồi, giặt nhuộm sửa sang, làm hoại màu sắc củ, kết nạp thành y.
Không sinh phiền não, không chút lao nhọc, tâm không mệt mỏi, cũng không nhiễm ô, thẳng tiến thành tựu, tạo tác công đức. Đối với những y phấn tảo như vậy, Bồ-tát không thấy những cái thô xấu như phấn tảo là loại xấu xí, bẩn thỉu, quá thô tệ, nhiều rận rệp, bức bách thân ta, xuất ra cấu uế. Do nghĩa này nên Bồ-tát quán sát y phấn tảo, chỉ thấy công đức.
Y phấn tảo này tất cả hàng Tiên thánh đã từng thọ trì, hợp với vô dục, thuận với Thánh chủng, được tất cả chư Phật tán thán. Không vì nhân duyên này mà sinh tâm ngã mạn, cũng không tự cao, không khinh chê người. Nếu lìa kiêu mạn thì không khinh chê người khác. Không khinh chê người khác nên giới phẩm đầy đủ.
Giới đầy đủ nên được tất cả hàng Thích, Phạm và các Thiên chúng cúng dường, xưng tán, lễ bái, được tất cả chư Phật hộ niệm, được tất cả Bồ-tát ủng hộ, được hàng Nhân phi nhân... cung kính, được gia tộc quốc vương và các thần dân cúng dường, được tất cả bạn đồng học khuyến tấn.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp mặc y phấn tảo.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại thưa:
–Kính bạch Thế Tôn! Tất cả Bồ-tát tâm địa rộng lớn, vì nhân duyên gì mà thích y phấn tảo thô tệ, thua kém?
Phật bảo:
–Thiện nam! Tất cả Bồ-tát vì muốn hết thảy thế gian thành tựu nguyện lực tự tại, nhưng các Bồ-tát đối với nguyện lực thì chưa được thành tựu. Vì không để các phiền não phát sinh nên Bồ-tát tu tập pháp môn đối trị.
Thiện nam! Ý ông nghĩ sao? Tâm của Như Lai Thế Tôn rộng lớn chăng? Ý thô lậu chăng? Tâm thua kém chăng?
Bồ-tát đáp:
–Con không thể nói điều này. Vì sao? Bạch Thế Tôn! Vì sự ứng hiện và tín giải của chư Phật, Như Lai chẳng phải là cảnh giới của con. Vì sao? Vì chỉ có Đức Thế Tôn là thấy rõ pháp này, chỉ có Tu-giàđà là thấy rõ pháp này. Không có một pháp nào mà chư Phật Như Lai không thấy biết, không thể tin hiểu.
Phật bảo:
–Thiện nam! Ý ông nghĩ sao? Vì nhân duyên gì mà Như Lai Thế Tôn ở cõi Diêm-phù-đề, với đủ loại căn tánh, đủ loại tín giải của hàng Nhân phi nhân... ở trước chúng sinh, Như Lai hiện hạnh thô lậu? Và ở trước chư Thiên, rồng, Dạ-xoa, Càn-thátbà... Như Lai tán dương ca tụng công đức Đầu-đà? Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Vì những chúng sinh ấy cần được hóa độ nên Như Lai hiện việc này. Và vì vô lượng người mới phát tâm hành hạnh Bồ-đề, phiền não chưa đoạn, Như Lai chỉ rõ pháp môn đối trị.
Đức Phật bảo:
–Thiện nam! Như vậy Bồ-tát đạt được lực thệ nguyện chỉ vì giáo hóa các chúng sinh nên mặc y phấn tảo chứ chẳng phải tâm thấp kém.
Này thiện nam! Vì nhân duyên như vậy nên Đại Bồ-tát mặc y phấn tảo.
Thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp thọ trì ba y. Những gì là mười? Đó là:
1. Tâm thường biết đầy đủ và ít tham muốn.
2. Lìa xa tham cầu.
3. Lìa xa sự lưu trữ.
4. Đã không lưu trữ nên không lo mất.
5. Đã không lo mất nên lìa cái khổ bị mất.
6. Lìa khổ bị mất nên tâm ác không sinh.
7. Tâm ác không sinh nên không sầu não.
8. Không sầu não nên không tìm giữ.
9. Không tìm giữ nên khéo tu hành.
10. Dứt tận các Hữu lưu.
Thiện nam! Do biết đủ nên Đại Bồ-tát tùy nghi ăn mặc, tự cho là đủ.
Do tự biết đủ nên liền được ít ham muốn.
Do ít ham muốn nên lìa xa tham cầu.
Lìa xa tham cầu nên không lưu trữ.
Không lưu trữ nên không buồn bị mất.
Không buồn bị mất nên không sinh khổ não.
Không khổ não nên tâm ác không sinh.
Tâm ác không còn nên không sinh sầu não.
Không sầu não nên không tìm giữ.
Không tìm giữ nên khéo tu hành dứt tận các Hữu lưu.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp thọ trì ba y.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có mười pháp không trụ nơi cao thấp. Những gì là mười? Đó là:
1. Không theo tham dục, không theo sân hận, không theo ngu si. An ổn mà trụ. Đây gọi là không trụ nơi cao thấp.
2. Không trụ nơi oán hận.
3. Không trụ nơi ganh ghét.
4. Không trụ nơi keo kiệt.
5. Không trụ nơi kiêu mạn.
6. Không nêu bày công đức mình.
7. Không trụ chỗ cầu danh tiếng.
8. Không trụ nơi tham lợi dưỡng.
9. Không trụ nơi khinh chê người.
10. Không trụ nơi tự cao.
Thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp không trụ nơi cao thấp.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có đủ mười pháp hành khất đoàn thực. Những gì là mười? Đó là:
1. Phát tâm làm lợi ích chúng sinh.
2. Đi xin theo thứ lớp.
3. Không khát ái mong cầu.
4. Đã tự biết đủ.
5. Tánh ưa đem cho.
6. Không tưởng tham lam.
7. Tự biết hạn lượng trong việc khất thực.
8. Hướng đến trợ đạo.
9. Khéo léo nắm giữ thiện căn.
10. Lìa xa tưởng nắm giữ.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát làm lợi ích cho chúng sinh, cho đến lìa xa tưởng nắm giữ?
Thiện nam! Đại Bồ-tát thấy các chúng sinh bần cùng khốn khổ, công đức mỏng manh, không trồng thiện căn, vì tạo lợi ích cho chúng sinh nên Bồ-tát đi khất thực.
Khi đi xin, hoặc vào thành ấp, hoặc vào làng xóm... phải khéo thâu tóm niệm, tâm tư duy thiện. Đối với các cảnh giới chớ để tâm giong ruổi, oai nghi rõ nét, các căn không động, thận trọng không phóng dật. Nhìn đất cách bảy thước, cúi đầu mà đi. Đối với các pháp thiện chớ để tâm tán loạn. Dùng pháp như vậy mà đi xin theo thứ lớp. Không đưa tay ra dài, nên ôm bát tại ngực. Nếu vào nhà trưởng giả giàu sang, cũng không cầu nhiều, luôn biết lượng thọ thực, đầy đủ ngày ăn một lần. Chớ hại pháp sự.
Nếu chỗ có nhiều chó dữ, bò dữ, ngựa dữ, voi dữ, các loại cầm thú qua lại xúc não, hoặc nam hoặc nữ, hoặc nhỏ hoặc lớn... ác khẩu trêu chọc, hoặc cùng nhau hủy báng, chê bai, bàn luận phải trái... những chỗ như vậy, Bồ-tát đều nên tránh xa. Tu pháp đi xin, chớ khao khát tham cầu, chớ cưỡng bức mà cầu. Đối với các đàn-việt, chớ khởi tâm ái luyến, cũng không sân hận. Không mong cầu món ngon, tùy nghi xin được, tự biết đủ ôm bát trở về. Về đến trú xứ, an trí y bát, rửa tay chân. Nếu thấy tượng Phật thì liền cung kính cúng dường, lễ bái, sau đó mới vào chùa. Đem vật khất thực ấy chia làm bốn phần: Một phần cho bạn đồng học, một phần cho người bần cùng, một phần cho súc sinh và một phần mình ăn. Sử dụng thức ăn như vậy, tâm không tham đắm, tâm không mong cầu, tùy nghi uống ăn chỉ để nuôi thân. Chớ ăn quá ít, chớ ăn quá nhiều. Ăn nhiều ít phải trù lượng biết đủ. Vì sao? Vì nếu ăn quá ít không thể hành đạo, nếu ăn quá nhiều thì thân nặng, mê ngủ, cũng chẳng thể học vấn, tọa thiền.
Xét người cầu đạo phải nên siêng năng chân chánh mà nghĩ rằng: “Bê trễ, biếng nhác làm sao được pháp trợ đạo một cách viên mãn?” Nếu có khả năng tu tập pháp trợ đạo rồi thì không còn chấp ngã. Nếu không chấp ngã thì có khả năng tự cắt thịt mình cho chúng sinh ăn.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp hành khất đoàn thực.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có mười pháp nhất tọa thực. Những gì là mười? Đó là:
1. Bồ-tát ngồi nơi Bồ-đề đạo tràng, tất cả binh ma gây sự khủng bố nhưng vẫn an tọa bất động.
2. Nơi tòa xuất thế, Bồ-tát ngồi bất động.
3. Nơi tuệ xuất thế, Bồ-tát ngồi bất động.
4. Nơi trí xuất thế, Bồ-tát ngồi bất động.
5. Nơi Tam-muội không, Bồ-tát ngồi bất động.
6. Bồ-tát thông suốt các pháp mà ngồi bất động.
7. Nơi tám Chánh đạo, Bồ-tát ngồi bất động.
8. Nơi chân thật tế, Bồ-tát ngồi bất động.
9. Nơi Như như, Bồ-tát ngồi bất động.
10. Nơi Nhất thiết trí, Bồ-tát ngồi bất động. Nói nhất tọa, đó là tọa pháp, cho nên gọi là nhất tọa thực.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát đẩy đủ mười pháp nhất tọa thực.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có đủ mười pháp thọ trì không ăn lại. Những gì là mười?
Đó là: Sau một bữa ăn, không mong chờ ăn nữa, không tham đắm, mời ăn cũng không ăn, đúng thời hay phi thời cũng không thọ lại. Nếu như vì thân bệnh thì có thể dùng các loại thuốc như bơ, dầu, thạch mật, bạch mật, đường cát, rễ cây, trái cây... giả sử thấy người khác ăn cũng không sinh sân, cũng không tham luyến, cũng không thèm tiếc. Nếu sau giữa ngày, Bồ-tát không ăn mà bệnh khốn khổ, hoặc do bệnh mà sợ mất mạng, sợ bỏ hành đạo thì dùng tâm không nghi, xét biết thuốc này có khả năng trị bệnh, được phép thọ dụng.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp thọ trì không ăn lại.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có đủ mười pháp trụ nơi A-lan-nhã. Những gì là mười? Đó là:
1. Tu tập phạm hạnh đã lâu.
2. Thông hiểu Tỳ-ni.
3. Các căn không khuyết.
4. Hiểu biết rộng khắp.
5. Trì nghiệp giới đức.
6. Lìa sự chấp ngã.
7. Thâu giữ thân theo oai nghi ví như hươu nai.
8. Tu thân khinh nhàn.
9. Hướng đến tịch tĩnh.
10. Tâm không sầu não.
Thiện nam! Bồ-tát từ lâu tu tập phạm hạnh, cho đến tâm không sầu não như thế nào?
Thiện nam! Đại Bồ-tát từ khi xuất gia cho đến nay, đối với chánh pháp và luật luôn đầy đủ giới phẩm, ba luận thanh tịnh, thông hiểu pháp tướng, oai nghi gồm đủ, ra vào đúng thời. Các loại đạo pháp thượng, trung, hạ Như Lai đã chỉ dạy, Bồ-tát đều thông đạt, không cầu nơi người khác, chẳng dời đổi lay động, chẳng chấp vào các pháp của tà luận, biết đủ tất cả, lìa xa những người sai phạm, cung kính chánh pháp, thường luôn Sám hối, phát lồ sửa bỏ tất cả pháp ác. Thông đạt và lìa xa tất cả nguyên nhân gây ra tội này. Cũng biết rõ nghiệp thượng, trung, hạ và quả báo thượng, trung, hạ. Nhờ tin hiểu nên dốc sức giữ gìn chánh pháp. Mắt, tai,... các căn đầy đủ, toàn thân không khiếm khuyết.
Trụ nơi A-lan-nhã, A nghĩa là không, Lan-nhã nghĩa là tranh. Ở trong chốn núi rừng không tranh với thế gian.
Ở trong chốn núi rừng ấy không xúc não thế gian, không gần không xa thế gian, thuận tiện nơi khất thực. Trong núi rừng này có nước thanh tịnh, không có các nạn, dễ dàng tắm rửa, cây cối rợp mát, hoa quả tốt tươi, không có cầm thú dữ, tịnh thất bằng đá tự nhiên, không quá cao hiểm trở, bước lên không khó. Ở chốn thanh vắng tịch tĩnh, một mình không bạn; đọc tụng, tu tập những pháp đã từng nghe. Ngày đêm sáu thời nhớ nghĩ không quên, âm thanh đọc tụng không cao, không thấp, chớ phế bỏ. Điều phục các căn, chớ để duyên dựa giong ruổi. Nhiếp tâm tư duy, chớ sinh tán loạn, điềm nhiên tự vui, thọ trì kinh điển. Chú tâm một trong ba tướng tức là ngưng phát xả (tán loạn) chớ rơi vào trạng thái mê ngủ.
Hoặc giả có quốc vương, đại thần, trưởng giả và dân chúng cố đến tìm Bồ-tát, Bồ-tát nên nói: “Lành thay! Lành thay! Nếu đại vương... đến trú xứ thì mời đại vương ngồi chỗ ngồi thích hợp.” Nếu vua ngồi thì hai người cùng ngồi. Nếu vua không ngồi, mình chớ tự ngồi. Nếu vua xao động, nóng nảy, không ngồi chỗ thô xấu, Bồ-tát nên nói lời ái ngữ: “Thưa đại vương! Nơi núi rừng này rất có lợi ích. Các Sa-môn đa văn, đạo đức, trì giới an trụ trong này, không lo không sợ, không có giặc cướp, trộm cắp.” Nếu quốc vương này an ổn, tịch tĩnh có thể nghe pháp thì Bồ-tát nên nói pháp. Nếu vua không ưa nói rộng, phân biệt thì nên nói tóm lược tùy thuận xuất ly. Nếu vua không ưa nghe pháp xuất ly thì nên tán thán công đức vô thượng của Đức Phật. Nếu các trưởng giả và dân chúng đến, Bồ-tát nên tùy theo căn cơ mỗi người mà nói pháp yếu, làm cho tất cả đều được sinh tâm tin pháp; cũng khiến cho họ thọ trì tam quy, giới...khiến họ sinh tâm hoan hỷ, lợi tha.
Bồ-tát diệt trừ các ác và các phiền não phát sinh, tu tập đa văn, không chấp vào ngã. Do không chấp ngã nên trụ nơi núi rừng mà không buồn, không sợ, không khiếp nhược, không sinh lo lắng, hướng đến tịch tĩnh, lìa xa ồn ào, độc cư như nai, ít muốn, biết đủ.
Thiện nam! Bồ-tát ở núi không giống như nai sợ hãi chạy trốn, không giữ cái có thể mất. Nói như nai nghĩa là lìa xa thành phố, làng xóm, nhà cửa. Bồ-tát nên nghĩ: “Gần người ác thì có thể mất mạng.” Do vậy Bồ-tát nên lìa xa những tạp loạn, hoặc nam nữ, hoặc nhỏ, hoặc lớn và nghĩ: “Gần gũi những người này ta sẽ mất đi những thiện căn đã tu tập từ lâu.” Chớ sinh tán loạn, thường sinh tâm lo sợ như vậy, nên hướng đến nơi tịch tĩnh mà trụ.
Ở trong thế gian, Bồ-tát sinh tâm nhàm chán, trụ trong núi rừng chỉ thấy công đức, chỉ thấy tịch tĩnh, chỉ thấy cứu cánh, chỉ thấy an lạc, tâm không ưu sầu, tâm không mê buồn, không gần bạn ác. Ở trong núi không chướng ngại, công đức tịch tĩnh, thọ trì tu hành tất cả pháp thiện. Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp trụ nơi A-lan-nhã.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại cỏ đủ mười pháp sống nơi gốc cây. Những gì là mười? Đó là:
1. Nương ở dưới cây.
2. Cách làng xóm không gần không xa.
3. Chỗ không uế tạp.
4. Không có gai gốc, cỏ cây độc.
5. Cây không trụi lá.
6. Chẳng phải chỗ của khỉ, vượn, chỗ có tổ chim.
7. Chẳng phải cây có cầm thú ác ở.
8. Chỗ không có người ác, nguy hiểm.
9. Nương ở nơi cây, thân an lạc.
10. Tâm không buồn, an tâm mà sống.
Thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp sống nơi gốc cây.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đầy đủ mười pháp ngồi nơi chỗ đất trống. Những gì là mười? Đó là:
1. Trong ba mùa: Đông, Hạ, Xuân, Bồ-tát không được ở gần sân phơi giã gạo.
2. Không ở gần cây lớn.
3. Chẳng gần lùm cây.
4. Không ở nơi mé núi nguy hiểm.
5. Không sống gần sông, hồ.
6. Không ngăn lạnh, không ngăn gió, cũng không che mưa, cũng không che nắng, cũng không che sương, chỉ trừ bệnh tật.
7. Đại Bồ-tát nếu ngồi nơi đất trống, thân có bệnh tật, không thể hành pháp thì nên ở trong chùa mà nghĩ: “Chư Phật Như Lai chế pháp Đầu-đà chỉ vì đoạn trừ tất cả phiền não. Như pháp Phật dạy, ta nên phụng hành.”
8. Ta tuy ở chùa, phải tu học siêng năng chân chánh vì đoạn trừ phiền não, không được bê trễ, không tán loạn.
9. Tuy ở trong chùa nhưng không sinh tham đắm và lại nghĩ: “Nhà chùa như vậy là do đàn-việt tạo dựng, làm lợi ích cho tất cả người tu đạo. Do vậy, nay ta không nên ở chùa mà sinh tâm ngã sở.”
10. Tuy ở trong chùa nhưng thường không lìa tưởng nơi đất trống.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp ngồi nơi đất trống.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có đủ mười pháp ở rừng thây chết. Những gì là mười? Đó là:
1. Như ở trong đây, luôn sinh nhàm chán, xa lìa, thường tác tưởng chết.
2. Tác tưởng đây là ổ của tám vạn con trùng đang đục khoét.
3. Tác tưởng máu đỏ.
4. Tác tưởng bầm tím.
5. Tác tưởng hôi thối.
6. Tác tưởng sình trướng.
7. Tác tưởng máu chảy.
8. Tác tưởng mủ hôi.
9. Tác tưởng tan rã.
10. Tác tưởng hài cốt.
Thiện nam! Đại Bồ-tát ở rừng thây chết phải thường khởi tâm Từ bi thương xót chúng sinh, trì giới thanh tịnh, đầy đủ oai nghi, thường tập ăn chay để nuôi dưỡng thân mạng. Vì sao? Thiện nam! Vì rừng thây chết này có các phi nhân nương sống ở đây, ăn máu thịt người. Nếu thấy Bồ-tát ăn thịt, cá, họ sẽ khởi tâm ác đến não hại.
Thiện nam! Ở rừng thây chết, Bồ-tát nếu đi vào chùa, trước phải lễ tháp Phật, thứ đến lễ bậc Đại đức, thăm hỏi Thượng tọa. Cung kính thăm hỏi xong, Bồ-tát đứng qua một bên, không được ngồi chỗ của chúng Tăng. Vì sao? Vì pháp của Bồ-tát là bảo hộ ý của những người ở thế gian.
Bồ-tát ở nơi rừng thây chết này, xét chúng sinh phàm ngu nơi thế gian không trái Thánh chúng. Nếu nơi tòa riêng thỉnh Bồ-tát ngồi, Bồ-tát xét tăng như vậy, tâm không biến đổi thì nên ngồi, chớ để trước mọi người mà sinh tâm hối tiếc. Bồ-tát dùng tâm khiêm tốn, tác tưởng mình như Chiên-đà-la.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp ở rừng thây chết.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có đủ mười pháp an tọa không nằm. Những gì là mười? Đó là:
1. Không vì hành thân khổ mà ngồi, không ngủ.
2. Không vì tâm ưu não mà ngồi, không ngủ.
3. Không vì bị lôi kéo nên thân ngồi, không nằm.
4. Đại Bồ-tát ngồi mãi không ngủ.
5. Chỉ vì nhằm làm viên mãn các hạnh Bồ-đề.
6. Vì nhất tâm.
7. Vì hướng đến chánh đạo.
8. Vì ngồi nơi đạo tràng.
9. Vì tạo lợi ích cho chúng sinh.
10. Vì diệt tất cả phiền não... nên ngồi mà không nằm.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp thường ngồi, không nằm.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có đủ mười pháp tùy nghi trải tòa ngồi, nằm. Những gì là mười? Đó là:
1. Chỗ ngồi không quá cao, sang trọng.
2. Cũng không mong cầu người khác trải tòa cho mình.
Cũng không giả trang thiền tướng để người trải tòa.
3. Chỗ ngồi hoặc bằng lá, hoặc bằng cỏ, tùy theo đó mà ngồi.
4. Nếu chỗ ngồi có quá nhiều trùng, kiến, muỗi, ruồi, nhặng, rệp... làm hang ở và chỗ thiêu thây chết, Bồ-tát đều nên tránh xa.
5. Nếu khi an nghỉ, Bồ-tát nằm nghiêng hông phải, hai chân chồng lên nhau, ca-sa phủ thân, chánh niệm nhiếp tâm, tác tưởng ánh sáng, luôn tác tưởng thức mà tạm ngủ.
6. Không đắm say ngủ.
7. Không ưa nằm mãi một bên.
8. Vì điều hòa thân, giữ cho bốn đại không quá mệt nhọc.
9. Ngày đêm dụng tâm vào pháp trợ đạo.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp tùy nghi trải tòa ngồi, nằm.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có đủ mười pháp nhiếp tâm cùng lý tương ưng. Những gì là mười?
Đó là:
1. Tu nhiều quán bất tịnh.
2. Tu nhiều quán từ bi.
3. Tu nhiều quán mười hai nhân duyên.
4. Khéo biết pháp nhiễm tâm.
5. Tu nhiều tướng không.
6. Tu nhiều vô tướng.
7. Tu nhiều nhiếp tâm.
8. Không có chỗ mong cầu.
9. Thường tu không nghỉ, không để hối hận.
10. Đầy đủ giới phẩm.
Thiện nam! Thế nào là Bồ-tát tu nhiều quán bất tịnh?
Thiện nam! Đại Bồ-tát một mình ở chỗ thanh vắng, ẩn trong rừng núi, không ra nhân gian. Ngồi kiết già khiến thân điều hòa, ngay thẳng; tâm cũng điều hòa chân chánh, chuyên nhất mặc niệm. Thấy chi tiết của thân; co, duỗi, cúi, ngước sinh tâm chán bỏ. Nên quán ba mươi sáu vật trong thân, niệm niệm theo thứ lớp, chớ quán lơ là. Quán như vậy cho đến quán các loại ẩm thực mỹ vị tịnh khiết của chúng sinh hoặc tốt, hoặc xấu, đưa vào trong bụng, liền thành bất tịnh; tiếp xúc với lửa bên trong liền thành khí uế, hôi thối, trái nghịch lỗ mũi, tất cả thế gian chẳng ai chịu nổi. Thân như vậy mà tất cả hàng phàm phu chúng sinh luyến đắm, Bồ-tát nên khéo dùng trí tuệ nương nơi Thánh giáo quán sát nó một cách như thật. Do vậy, nay ta không nên ái luyến thân hôi thối này. Nhờ nhân duyên ấy nên nhàm chán, xa lìa nó. Đó là Bồ-tát tu nhiều quán bất tịnh.
Thế nào là Bồ-tát tu nhiều quán từ bi?
Đại Bồ-tát một mình ở nơi thanh vắng, nói đủ như trước, y theo thứ lớp như trước mà suy nghĩ: “Những chúng sinh này có nhiều sân hận, oán thù, phẫn hận, tạo các nghiệp ác, kết tạo oan gia, vô cớ trách mắng chủ. Nếu ở quá khứ, hiện tại, vị lại, tất cả sân hận đã diệt tận rốt ráo thì ta mới được ngồi nơi Bồ-đề đạo tràng.” Bồ-tát tư duy quán rất sâu xa như vậy nên khởi tâm Từ bi chân thật, chẳng nói suông.
Bồ-tát tu nhiều quán mười hai nhân duyên như thế nào?
Nếu khi tham dục sinh, hoặc sân hận sinh, hoặc ngu si sinh, Đại Bồ-tát nên tư duy: “Tham, sân, si này mượn nhân duyên sinh, mà nhân duyên ấy lại mượn nhân duyên khác sinh... Các pháp này đều do nhân duyên khác sinh, không có tự tánh, đều là hư vọng do nhân duyên sinh mà tự tạo cho minh cái ung nhọt.”
Bồ-tát khéo biết pháp nhiễm tâm như thế nào?
Đại Bồ-tát quán pháp nhiễm này, hoặc ở tâm mình, hoặc ở tâm người khác, chẳng thể lường xét. Vì diệt những pháp nhân duyên ấy nên Bồ-tát quán sát chúng.
Pháp nhiễm ấy là gì?
Đó là không kính Phật, không kính Pháp, không kính Tăng, không kính giới luật, không kính bạn đồng học, không kính già trẻ...Đây gọi là pháp nhiễm ô nơi tâm.
Chỉ trọng thân mình, khinh chê người khác, buông lung tán loạn theo các cảnh giới, chối bỏ Niết-bàn, chấp chặt ngã kiến, nhân kiến, chúng sinh kiến, thọ giả kiến, chấp trước không kiến, chấp trước đoạn kiến, chấp thường, vô thường.
Oán ghét người thiện, thân cận phàm ngu, xa người trí giới, gần đám phá giới, phục dịch bạn ác, xa trí thức thiện, hủy báng kinh điển sâu xa của chư Phật.
Đối với pháp thâm diệu sinh tưởng lo sợ, bê trễ, biếng nhác.
Ở trong thân mình, sinh tưởng thấp kém, không có oai đức, lời nói lẫn lộn, sinh nghi phi xứ. Chỗ đáng nghi thì không nghi, chỗ không nên nghi thì lại nghi.
Bị các chướng, kết sử trói buộc.
Huyễn hoặc người đời, chia rẻ, dua nịnh, mê ngủ, mờ mịt, chỉ tham lợi dưỡng, mong cầu danh tiếng, dựa vào dòng họ, luyến ái quyến thuộc, mê nhiễm tà kiến, cậy nhờ đất nước, luyến mộ đám đông, học tập chú thuật Lộ-già-da-đà, chuộng văn chương thế tục, xả ly chánh pháp, bỏ sự hành đạo.
Đối với pháp bất thiện thì nhanh nhẹn, chuyên cần gây dựng; đối với nghiệp công đức thì không siêng năng tạo lập. Oán ghét, chê bai người xuất gia. Chỉ ưa ca vịnh, khen ngợi nữ sắc, diệu ngọt với các thiếu niên hoặc nam hoặc nữ.
Chẳng thích tịch tĩnh, ở nơi A-lan-nhã buồn rầu không vui.
Đối với pháp thiện, bất thiện chẳng biết dò xét, lường tính.
Những nơi đáng tôn trọng thì không đến thăm hỏi, gần gũi cúng dường. Đọc tụng kinh điển thì chẳng biết thời. Ở chỗ hành xử chẳng tránh sự cơ hiềm. Đối với các điều khinh trọng của giới luật đều chẳng thọ trì. Đối với các pháp ác thì chẳng kinh sợ.
Các căn ám độn, ngu si, tăm tối. Tâm luôn vọng động, thích thú với nghiệp ác. Một mình tự buông thả, chẳng kiên sợ gì, giữ lấy pháp chống trái, ưu lự sầu não. Chấp theo hình tướng, bình phẩm, so lường sắc đẹp, sắc xấu.
Không tu từ bi nơi cảnh sân hận. Không khởi lòng thương cảm những người khốn khó. Thấy khổ bệnh tật không sinh chán bỏ. Thấy chết không sợ. Ở trong nhà lửa không muốn thoát ra. Thân chỉ lo việc kinh doanh, chẳng hộ trì giới luật. Trong đời quá khứ đã làm việc gì? Đời hiện tại đang làm việc gì? Nơi đời vị lai sẽ làm việc gì? Những cảnh giới như vậy đều không tư duy.
Nơi chẳng thể nghĩ bàn cho là có thể nghĩ bàn. Nơi chẳng thể lường xét cho là có hạn lượng. Cái chẳng thể cầu lại siêng năng tìm cầu. Chỗ chẳng thanh tịnh tưởng là thanh tịnh. Nơi chẳng xuất ly tưởng là xuất ly. Nơi chẳng phải chánh đạo tưởng là chánh đạo. Ở chỗ chưa đắc mà nói đã đắc.
Ta nay đa sự, chưa được tu thiện. Ta là phàm phu, nào có thể tu hành các pháp Thánh đạo, đắm luyến việc đời, tìm cầu từng bữa ăn, tránh bỏ công đức, thiện căn ít mỏng, chẳng tán thán pháp đại, tiểu thừa. Giả sử thấy người ưa tin chánh pháp của Phật thì hủy báng họ.
Thích sự tranh chấp ưa tướng phải trái. Ác khẩu, thô bạo, tự đại, cao ngạo, hung dữ, mắng chửi, nhiễu loạn, xâm phạm người khác. Nói lời vô nghĩa. Thích bàn luận hơn người. Điều chẳng thể nói, lại ham giảng nói. Ưa hý luận, đam mê chơi bời.
Những việc như vậy gọi là pháp nhiễm ô, hay làm nhiễm ô tâm, nên khéo biết rõ.
Vì diệt trừ tất cả sự hý luận nên thường tu pháp “không” mà nhập thiền định.
Do điều phục tâm ấy, tu “không” như vậy, nên đối với cảnh giới này, tâm theo nơi đó bị nhiễm. Nên tìm chỗ này, cầu đạt thể tánh ấy liền thấy là không sở hữu.
Do không sở hữu nên thông đạt “không.” Đều nên quán sát cảnh của đối tượng được duyên và tâm của chủ thể duyên.
Quan sát vậy rồi, hai pháp tâm cảnh đều thấy là không sở hữu mà thông đạt “không.”
Do thông đạt “không” nên tu vô tướng, thâu giữ tâm ấy, nhập vào thiền định. Tất cả tướng mạo hiển hiện tương tợ. Khéo quán sát nó liền thấy phi tướng.
Đã rõ phi tướng, chẳng thủ đắc nơi thân, tức là không có chân tướng.
Được vô tướng rồi thì không còn chấp vào thân mình.
Chẳng chấp trước vào thân nên chẳng được tất cả các cảnh tướng bên ngoài.
Đối trước các ngoại cảnh, tâm chẳng dời đổi, chẳng tác phân biệt. Tâm đã bất động nơi tướng bên ngoài và bên trong.
Vì diệt trừ chấp tướng nơi vô tướng nên tu quán hành, không sinh vui buồn. Tuy được định này nhưng tập khí còn nhiều. Vì diệt tập khí nên thường tu định ấy, tâm tâm tương tục không để dứt đoạn, giống như vòng lửa. Trụ ở trong Xa-ma-tha và Tỳbà-xá-na.
Tỳ-bà-xá-na nghĩa là pháp quán như thật.
Xa-ma-tha nghĩa là nhất tâm tịch mặc.
Được định tâm rồi, sau chẳng còn hối.
Do chẳng còn hối nên sinh tâm hoan hỷ.
Do đâu hoan hỷ? Do giới thanh tịnh.
Tất cả Bồ-tát đầy đủ giới phẩm, nhiếp tâm thanh tịnh, cùng lý tương ưng. Vì sao? Vì giới thanh tịnh nên thâu tóm, tâm được thành tựu, cho nên gọi là cùng lý tương ưng.
Thiện nam! Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ mười pháp thâu tóm tâm cùng lý tương ưng.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có đủ mười pháp thọ trì kinh điển. Những gì là mười? Đó là:
1. Vì hộ trì chánh pháp nên đến nghe pháp, không vì tiền tài.
2. Vì hộ trì chánh pháp nên chuyên cần nghe chánh pháp, không vì lợi dưỡng.
3. Vì không để chủng tánh của Tam bảo đoạn tuyệt nên chuyên cầu đa văn, không vì lợi dưỡng của thế gian.
4. Vì muốn làm lợi ích cho người học Đại thừa nên tu tập đa văn, không vì sự tán thán.
5. Vì các chúng sinh không ai cứu hộ, vì nhân duyên là đem lại lợi ích nên tu tập đa văn.
6. Vì chúng sinh bị ba khổ bức bách mà tạo sự an lạc nên tu tập đa văn.
7. Vì các chúng sinh không có tuệ căn, làm cho họ được tuệ căn nên tu tập đa văn.
8. Vì người Tiểu thừa mà nói pháp Thanh văn nên tu tập đa văn. Vì người Đại thừa mà nói đạo Bồ-tát nên tu tập đa văn.
9. Vì tự chứng đắc trí tuệ Vô thượng nên tu tập đa văn.
10. Vì không cầu thừa thấp nên tu tập đa văn.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp thọ trì kinh điển.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp thọ trì Tỳ-ni. Những gì là mười? Đó là: Biết rõ Tỳ-ni cùng với thể của luật tông. Tỳ-ni sâu xa, Tỳ-ni vi tế, phạm cùng không phạm. Tánh tội, chế tội, Bala-đề-mộc-xoa. Cội nguồn của việc tu học. Tỳ-ni của Thanh văn, Tỳ-ni của Bồ-tát, Bồ-tát thảy đều biết rõ.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp thọ trì Tỳ-ni.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp oai nghi, hành xử tề chỉnh trọn vẹn. Những gì là mười? Đó là:
1. Đã từng học pháp Thanh văn.
2. Đã từng tu học pháp Duyên giác.
3. Đã từng tu học pháp Bồ-tát.
4. Học như vậy rồi nên oai nghi đầy đủ.
5. Phàm là Sa-môn, những chỗ trống không nên đến đều phải lìa xa.
6. Vì nhân duyên ấy nên không đến những nơi phi xứ, không đi phi thời, không đến quốc độ phi pháp.
7. Tu hạnh Sa-môn nên đến chỗ cần đến.
8. Không mất oai nghi.
9. Chớ để Sa-môn, Bà-la-môn chê cười.
10. Xét oai nghi ấy cùng lý tương ưng. Lại giáo hóa người khác khiến trụ nơi pháp ấy, khiến người hành pháp đủ các oai nghi tinh tế, nội tâm tương ưng không có hư dối.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp oai nghi hành xử tề chỉnh trọn vẹn.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có đủ mười pháp tâm không xan tham, cũng không ganh ghét. Những gì là mười? Đó là: Tự hay tuệ thí. Lại khuyên người khác hành bố thí. Tán thán sự bố thí. Thấy người bố thí liền khởi tâm tùy hỷ. Tán thán, khích lệ, làm cho người bố thí hoan hỷ. Không nên khởi niệm: “Chỉ thí cho ta, chẳng thí người khác. Chỉ để mình ta đầy đủ, chẳng để người khác được đầy đủ.” Phải nên nghĩ rằng: “Làm cho các chúng sinh được an lạc, đầy đủ các loại tiền tài; hoặc ở thế gian, hoặc xuất thế gian đều đầy đủ an lạc. Ta nay vì những chúng sinh này mà tạo lợi ích, an lạc, tu các khổ hạnh. Do vậy, nay ở bên chúng sinh, ta không nên khởi các tâm xan tham, ganh ghét.”
Này thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp không có tâm xan tham, ganh ghét.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp hành tâm bình đẳng đối với các chúng sinh. Những gì là mười? Đó là:
Hành nghiệp bình đẳng đối với các chúng sinh. Tâm không sân hận đối với các chúng sinh.
Vì lợi ích bình đẳng đối với các chúng sinh mà hành bố thí, thọ trì giới cấm, tu nhẫn nhục, tinh tấn dũng mãnh, khéo nghĩ thiền định, tu trí Bát-nhã.
Không nương theo nhị biên mà tu theo tâm ấy. Duyên các chúng sinh khởi tâm bình đẳng.
Tự mình thoát được các khổ thiêu đốt trong nhà lửa sinh tử, lại hay cứu người khác cũng được thoát khỏi.
Dùng tâm bình đẳng, không sinh tưởng ngăn cách đây kia, không có thương ghét.
Thiện nam! Ví như nhà trưởng giả kia rất giàu sang, chỉ có sáu đứa con. Ông luôn yêu mến thương tưởng chúng một cách bình đẳng. Những đứa con này còn nhỏ dại, khờ khạo, đối với sự việc thì chẳng rõ, chỉ biết bò, trườn, vui chơi. Một hôm, nhà trưởng giả này bị cháy, ngọn lửa hừng hực cháy mạnh, những đứa nhỏ này mỗi đứa một nơi.
Thiện nam! Ý ông nghĩ sao? Khi ấy trưởng giả có nghĩ thiên vị rằng: “Ta cứu đứa này trước, sau đó mới cứu đứa khác” không?
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại thưa:
–Không, bạch Thế Tôn! Vì sao? Vì trưởng giả này đối với những đứa con của mình, ông đều cứu giúp bình đẳng, không có tâm thiên vị. Tùy theo đứa nào gần ông thì được cứu ra trước.
Phật bảo:
–Thiện nam! Tất cả loại chúng sinh như vậy đều là con nhỏ của Bồ-tát, chưa rõ khổ vui, không hiểu biết nhà lửa sinh tử, trụ ở các nơi trong sáu đường. Tùy theo chúng sinh nào có căn lành thành thục, Đại Bồ-tát liền cứu thoát ra trước, đem đặt nơi pháp thanh tịnh ngoài thế giới sinh tử.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp hành tâm bình đẳng đối với các chúng sinh.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp ân cần cung kính cúng dường chư Phật. Những gì là mười? Đó là:
1. Cúng dường pháp là cúng dường Phật.
2. Không đem tài vật cúng dường Như Lai.
3. Vì làm an lạc, lợi ích chúng sinh.
4. Vì muốn thâu nhận tất cả chúng sinh.
5. Vì muốn thành tựu thiện căn cho chúng sinh, nên không bỏ giới cấm thanh tịnh đã thọ.
6. Không bỏ tất cả hạnh nghiệp của Bồ-tát.
7. Như pháp đã nói, thân khéo hành trì.
8. Tu hành như vậy, tâm không mệt mỏi.
9. Không bỏ tâm vô thượng Bồ-đề.
10. Cung kính cúng dường chư Phật như vậy, không dùng của cải, vật báu.
Nếu hay tu hành chánh pháp của chư Phật tức là cúng dường Phật. Vì sao? Vì cúng dường pháp tức là cúng dường hết thảy Như Lai. Pháp này phát sinh lợi ích cho muôn loài, khiến thoát khỏi thế gian. Nếu trái bỏ hạnh nghiệp của Bồ-tát tức là thân khẩu trái nhau. Nếu đã thệ nguyện mà không được viên mãn thì tâm mệt mỏi, liền bỏ Bồ-đề, chẳng có khả năng làm lợi ích cho chúng sinh. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề chỉ vì lợi ích cho chúng sinh. Nếu không có chúng sinh thì cũng không có Bồ-tát chứng đạt ngôi vị Chánh giác.
Thiện nam! Nên quán như vậy, pháp tức là Phật. Tất cả chư Phật lấy pháp làm thân.
Này thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp ân cần cung kính cúng dường chư Phật.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có đủ mười pháp đoạn trừ kiêu mạn. Những gì là mười? Đó là:
1. Nhờ bỏ nhà xuất gia, cần khổ cầu đạo, không còn quan hệ với tất cả quyến thuộc, bạn bè thân hữu, chẳng khác nào người chết nên không kiêu mạn.
2. Nhờ cải đổi hình tướng, mặc y hoại sắc, ngày nay ta đã có sở cầu riêng nên không kiêu mạn.
3. Nhờ cạo tóc, mang bát khất thực nhà nhà để nuôi sống thân này nên không kiêu mạn.
4. Nhờ khất thực, sinh tâm khiêm cung như Chiên-đà-la nên không kiêu mạn.
5. Nay thân mạng ta nhờ người nuôi sống, thọ thực người khác cho, giống như chó đói bị người khinh chê nên không kiêu mạn.
6. Ta phải thừa kế, tôn trọng phước điền nên không kiêu mạn.
7. Nay các bậc đồng học thấy ta sinh tâm hoan hỷ, nên không kiêu mạn.
8. Vì giữ các oai nghi tinh tường, tề chỉnh nên không kiêu mạn.
9. Vì pháp chưa đắc, ta sẽ chứng đắc nên không sinh kiêu mạn.
10. Đối với tánh tệ ác trong các chúng sinh, vì tu nhiều nhẫn nhục nên không sinh kiêu mạn.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp đoạn trừ kiêu mạn.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp tâm thường thanh tịnh. Những gì là mười? Đó là:
1. Đã hành trì phước nghiệp thiện căn quá khứ.
2. Túc nhân đầy đủ, chánh kiến đầy đủ.
3. Không chấp trước theo tà luận, không thể dời đổi, không thờ thầy khác.
4. Trong giữ thanh tịnh, không có quanh co.
5. Ý không cao ngạo, cũng không huyễn hoặc. Tâm tính ngay thẳng, đủ các trí tuệ.
6. Các căn sáng suốt, nhạy bén, lìa các sự ngăn che.
7. Tâm hành tinh khiết, thân cận bạn lành, xa tri thức ác.
8. Bẽ gãy kiêu mạn, siêng cầu đạo lý vi diệu.
9. Trong khi nghe pháp, không tán tâm, thất niệm.
10. Biết rõ tất cả công đức chư Phật.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp tâm thường thanh tịnh.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Công đức chư Phật chẳng thể nghĩ bàn. Đối với pháp như vậy, làm sao con được nghe, hiểu rõ?
Phật bảo:
–Thiện nam! Ông khéo lắng nghe. Ta nay vì ông mà nói về ít phần công đức của Như Lai.
Bồ-tát thưa:
–Dạ vâng, bạch Thế Tôn! Con muốn được nghe.
Phật nói:
–Thiện nam! Như Lai luôn đầy đủ viên mãn tâm đại Từ, bình đẳng đối với các chúng sinh. Như từ bi bình đẳng đối với một người, đối với tất cả chúng sinh khắp pháp giới, tâm ấy cũng vậy. Như cõi hư không hiện bày khắp trong tất cả cảnh giới của chúng sinh, từ bi của Như Lai khắp mọi nơi chốn, vô lượng, vô biên cũng lại như vậy, khác với Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát.
Thiện nam! Chư Phật Như Lai giảng nói pháp vô tận, trong vô lượng kiếp chẳng thể tận cùng. Ta vì vô lượng chúng sinh mà nói pháp đủ loại danh tự, đủ loại nghĩa lý, bằng một loại âm trong cùng một lúc đối với vô lượng các loài. Tùy theo âm thanh của mỗi loài mà được hiểu, không có hạn lượng, không có tận cùng.
Thiện nam! Chư Phật Như Lai luôn có hỏi đáp đầy đủ. Giả sử có tất cả đủ loại chúng sinh đem các loại câu hỏi, hỏi Như Lai, tùy theo các loại âm, các loại danh tự mỗi loài, chỉ trong một sát-na, một niệm, một thời, Như Lai giải đáp thông suốt, không có chướng ngại.
Thiện nam! Cảnh giới thiền định của chư Phật không có chướng ngại. Thiện nam! Giả sử có tất cả các loại chúng sinh đều ở quả vị Thập địa, trong một thời, một niệm, cùng lúc nhập vào trăm ngàn vạn ức thiền định Tam-muội; vô lượng các loại Tam-muội ấy đều chẳng thể bằng vô biên cảnh giới Tam-muội của Như Lai.
Thiện nam! Như Lai có đầy đủ vô lượng sắc thân. Thiện nam! Giả sử có chúng sinh cần nhận sự giáo hóa từ thân Như Lai, chỉ trong một niệm Như Lai hiện bày khắp trong chúng sinh, đối trước mặt người ấy mà hiện thân Phật, tùy theo sở nguyện của họ, chỉ trong một niệm hiện đủ loại thân.
Thiện nam! Như Lai đầy đủ vô lượng cảnh giới Thiên nhãn. Thiện nam! Có các chúng sinh được Thiên nhãn, thấy các sắc tướng vô lượng, vô biên trong các cảnh giới, Như Lai đều thấy việc ấy trọn vẹn như xem quả A-ma-lặc trong bàn tay.
Thiện nam! Như Lai có vô lượng cảnh giới Thiên nhĩ. Thiện nam! Giả sử có các chúng sinh được Thiên nhĩ đầy khắp trong vô lượng, vô biên thế giới, tùy theo chỗ nghe của mình mà nghe được các loại âm thanh. Chỉ trong một niệm, Như Lai có khả năng nghe được tất cả các âm thanh ấy.
Thiện nam! Như Lai đầy đủ trí nhận biết tâm kẻ khác, vô biên, vô tận, đồng với hư không. Thiện nam! Giả sử có các loại giác quán, các loại tư duy, đủ loại hạnh nghiệp của tất cả các cõi chúng sinh; chỉ trong một niệm, Như Lai đều biết rõ vô lượng, vô biên hết thảy các tâm, chỗ tạo nghiệp cùng quả báo của nghiệp. Như Lai dùng trí vô ngại biết rõ tất cả trong ba đời.
Thiện nam! Như Lai hằng trụ thiền định chưa từng xao lãng. Vì sao? Vì Phật không thất niệm, các căn bất động, nội tâm không loạn. Do tất cả phiền não cùng tập khí phiền não đã được chết sạch, rốt ráo, nên luôn ở trong tịch tĩnh.
Thiện nam! Có người phiền não, nội tâm mê loạn, chẳng đắc thiền định, Như Lai thì không như vậy. Như Lai nghĩa là không còn phiền não, không còn lụy trần, vô lậu, vô vi, đắc tất cả pháp, tự tại hiện bày diệu dụng ở tất cả cảnh giới Tam-muội sâu xa.
Thiện nam! Giả sử Như Lai tùy nghi trụ trong một oai nghi, trong một Tam-muội cho đến Niếtbàn, thường trụ trong ấy không có dao động nên luôn hành trì Tam-muội.
Thiện nam! Trong vô lượng kiếp, chư Phật Như Lai tu đủ các hạnh, đắc thành Chánh giác, chẳng thể nghĩ lường, chẳng thể nghĩ bàn, không có biên vực giới hạn.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại thưa:
–Kính bạch Thế Tôn! Trong vô lượng kiếp Như Lai không có công đức chăng?
Đức Phật bảo:
–Này thiện nam! Chớ nói như vậy. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát chẳng nên nghĩ lường về cảnh giới của Như Lai. Cảnh giới của Như Lai là chẳng thể nghĩ bàn. Chỉ vì các chúng sinh nơi tu học nên ta nói ba tăng-kỳ tu tập chứng đắc. Nhưng thật ra Bồ-tát từ lúc phát tâm cho đến nay, thời gian ấy chẳng thể tính đếm.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại thưa:
–Thật may mắn! Thưa Đức Thế Tôn! Những chúng sinh này tu các thiện căn, đã diệt nghiệp chướng, sinh nhiều tín giải, gần nơi Bồ-đề, nghe công đức của Phật tâm sinh hoan hỷ, huống nữa là nghe rồi lại hết lòng thọ trì, đọc tụng, giảng nói, biên chép, cúng dường. Bạch Thế Tôn! Những chúng sinh này không lâu sẽ đạt được công đức như Đức Thế Tôn ngày nay không khác.
Đức Phật nói:
–Đúng vậy! Đúng vậy! Như Lai thâu nhận những chúng sinh này, ở chỗ chư Phật đã trồng thiện căn, cung kính phụng sự vô lượng Đức Phật. Những chúng sinh ấy nghe công đức của Phật không sinh nghi hoặc.
Này thiện nam! Nếu có thiện nam, thiện nữ nào trong bảy ngày bảy đêm không nghĩ tưởng khác, nội tâm không loạn, niệm niệm tương tục, luôn nhớ tới công đức sâu xa vi diệu của Như Lai như vậy; mặc áo sạch sẽ, thiết lễ cúng dường, tâm tâm thành kính thì trong bảy ngày liền thấy sắc thân Như Lai đầy đủ ba mươi hai tướng. Nếu có loạn tâm, việc ấy không thành; nhưng luôn nhất tâm thì khi lâm chung, Như Lai hiện thân đứng trước người ấy.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Có chúng sinh nào nghe Phật nói về công đức của Như Lai mà không tin chăng? Đức Phật nói:
–Này thiện nam! Có những chúng sinh nghe Phật nói công đức của Như Lai, họ dùng ác khẩu nói năng thô lỗ, sinh tâm sân hận, sinh tưởng oán ghét người thuyết pháp. Do nhân duyên ấy nên sau khi xả thân liền bị đọa vào địa ngục, thọ khổ vô lượng.
Thiện nam! Có các chúng sinh nghe công đức Phật liền sinh hoan hỷ. Họ tưởng người nói pháp như bạn lành, tưởng như Đức Như Lai. Thiện nam! Những chúng sinh này tin đạo lý tối cực, ở đời quá khứ đã từng nghe công đức như vậy của Như Lai. Những chúng sinh này ở trong đại chúng nói rằng: “Nơi đời quá khứ ta đã từng nghe Như Lai nói công đức Phật, không khác ngày nay trong kinh đã nói.” Khi ấy, Đức Thế Tôn đưa tướng lưỡi dài che khuôn mặt mình. Che mặt xong, lại che đảnh đầu. Che đảnh đầu xong lại che thân. Che thân xong, lại che tòa Sư tử. Che tòa Sư tử xong, lại che Bồ-tát và chúng Thanh văn. Che chúng Thanh văn xong lại che các chúng Thích, Phạm, Tứ thiên. Phủ khắp đại chúng như vậy rồi thu tướng lưỡi lại, hỏi đại chúng:
–Như Lai Thế Tôn có tướng lưỡi này, lại có thể vọng ngữ sao?
Thiện nam! Các ông nên tin điều Như Lai nói là chắc chắn, chẳng hư vọng. Đời vị lai, nếu ai tin kinh này thì những người ấy đời đời được lợi ích, an lạc vô tận.
Khi Như Lai giảng nói điều ấy, có tám vạn bốn ngàn Đại Bồ-tát chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh; vô lượng, vô biên các loại chúng sinh lìa xa trần cấu, đạt Pháp nhãn thanh tịnh ở trong pháp Phật. Vô lượng chúng sinh chưa phát tâm Bồ-đề, khi ấy đều phát tâm cầu đạo quả Bồ-đề vô thượng.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo Đại Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại:
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp thông hiểu Thế đế. Những gì là mười? Đó là:
1. Giả nói có sắc nhưng chẳng phải là Đệ nhất nghĩa, nên tuy được sắc mà không chấp trước. Giả nói có thọ, tưởng, hành, thức nhưng chẳng phải Đệ nhất nghĩa nên tuy được thức mà không chấp trước. 2. Giả nói có địa giới mà chẳng phải Đệ nhất nghĩa, nên tuy được giới mà không chấp trước. Giả nói có nước, lửa, gió, hư không, thức giới nhưng chẳng phải Đệ nhất nghĩa, nên tuy được những giới này mà không chấp trước.
3. Giả nói có mắt nhập nhưng chẳng phải Đệ nhất nghĩa, nên tuy được nhãn nhập mà không chấp trước. Giả nói có tai, mũi, lưỡi, thân, ý nhập, nhưng chẳng phải đệ nhất nghĩa, nên tuy được ý nhập mà không chấp trước.
4. Giả nói có ngã mà chẳng phải Đệ nhất nghĩa, nên khi được ngã mà không chấp trước.
5. Giả nói có chúng sinh nhưng chẳng phải Đệ nhất nghĩa, nên tuy được chúng sinh mà không chấp trước.
6. Giả nói có thọ mạng, sĩ phu, dưỡng dục, các hạng người... nhưng chẳng phải là Đệ nhất nghĩa, nên tuy được những loại này mà không chấp trước. 7. Giả nói có thế gian nhưng chẳng phải Đệ nhất nghĩa, nên tuy được thế gian mà không chấp trước.
8. Giả nói có pháp thế gian nhưng chẳng phải Đệ nhất nghĩa, nên tuy được pháp thế gian mà không chấp trước.
9. Giả nói có pháp Phật nhưng chẳng phải Đệ nhất nghĩa, nên tuy được Phật pháp mà không chấp trước.
10. Giả nói có Bồ-đề nhưng chẳng phải là Đệ nhất nghĩa, nên tuy được Bồ-đề mà không chấp trước được Bồ-đề.
Này thiện nam! Lời nói, danh tự, luận bàn giả danh gọi là Thế đế. Ở trong thế pháp không có Đệ nhất nghĩa. Tuy nhiên, nếu lìa Thế pháp thì chẳng thể nêu bày Đệ nhất nghĩa đế.
Thiện nam! Đại Bồ-tát đối với pháp này thông hiểu về thế đế, nhưng không gọi là thông hiểu về Đệ nhất nghĩa đế.
Thiện nam! Đó gọi là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp thông hiểu Thế đế.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát lại có đầy đủ mười pháp thông hiểu Đệ nhất nghĩa đế. Những gì là mười? Đó là:
1. Đầy đủ pháp không sinh.
2. Đầy đủ pháp không diệt.
3. Đầy đủ pháp không hoại.
4. Đầy đủ pháp không tăng, không giảm; không ra, không vào.
5. Đầy đủ pháp lìa cảnh giới.
6. Đầy đủ pháp vô ngôn thuyết.
7. Đầy đủ pháp không hý luận.
8. Đầy đủ pháp giả danh.
9. Đầy đủ pháp tịch tĩnh.
10. Đầy đủ pháp Thánh nhân.
Vì sao? Này thiện nam! Vì Đệ nhất nghĩa đế vốn chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng tan; chẳng hoại; chẳng tăng, chẳng giảm. Văn tự, chương cú chẳng thể diễn đạt, chẳng thể giải đủ, dứt hẳn mọi lý luận. Thiện nam! Đệ nhất nghĩa là không thể nói, không thể bàn, bản tánh thanh tịnh. Tất cả Thánh nhân tự tâm chứng biết. Chư Phật xuất thế hay không xuất thế, pháp tánh vẫn thường như vậy, không tăng không giảm.
Thiện nam! Vì pháp này mà tất cả Bồ-tát cạo bỏ râu tóc, mặc y hoại sắc, với tâm thiện lìa xa quyến thuộc, đến nơi thanh vắng, xuất gia cầu đạo, tinh tấn chịu khổ như cứu lửa cháy đầu, chỉ vì cấu chứng đắc pháp vi diệu này.
Thiện nam! Nếu không có Đệ nhất nghĩa đế này thì tu phạm hạnh cũng đều vô dụng, Phật xuất hiện ở đời cũng lại vô dụng.
Thiện nam! Do vậy, ông nên biết có Đệ nhất nghĩa đế. Có Đệ nhất nghĩa đế nên nói Bồ-tát thông hiểu về Đệ nhất nghĩa đế.
Thiện nam! Đó là Đại Bồ-tát đầy đủ mười pháp thông hiểu Đệ nhất nghĩa đế.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đầy đủ mười pháp thông hiểu mười hai nhân duyên. Những gì là mười? Đó là:
Các pháp hư rỗng, không thật, trói buộc, nguy hiểm, như trăng trong nước, như ảnh trong gương, như tiếng vang giữa khe núi, như mộng như huyễn, dao động không trụ, không tạm dừng nghỉ, nhờ nơi nhân duyên sinh. Bồ-tát nên biết các pháp là như vậy.
Bồ-tát quan sát những pháp này, tất cả đều hư rỗng, không chân thật, nguy hiểm như vậy, cho đến mượn nhân duyên sinh, thấy nó sinh, trụ, diệt.
Bồ-tát lại tư duy: “Do nhân duyên gì các pháp này sinh? Do nhân duyên gì các pháp này diệt?”
Sau khi quán như vậy, Bồ-tát liền biết vô mình làm nhân duyên sinh các pháp này. Vô minh là chỗ phát sinh. Vô minh là nguyên do. Vô minh là nguồn gốc. Do nương vô minh nên các hành phát sinh.
Hành duyên với thức.
Do nhân duyên thức giả nói danh sắc.
Danh sắc nhập rồi nên nói lục nhập.
Nhân nơi lục nhập nên xúc mới sinh.
Do nhân duyên xúc nên sinh ba thọ.
Do nhân duyên thọ nên phàm phu sinh khổ khát ái.
Nhân duyên khát ái nên có bốn thủ (dục thủ, kiến thủ, giới thủ, ngữ thủ).
Duyên nơi bốn thủ nên hữu sinh ra.
Do duyên hữu nên có sinh.
Do nhân duyên sinh nên có già, chết, ưu bi, khổ não...phát sinh, cùng nhau tụ tập thành đại khổ.
Do vậy, nên người trí thông minh phải chuyên cần, cầu diệt vô minh này.
Phá tan vô minh, nhổ gốc vô minh, làm cho không sinh lại.
Do vô minh diệt nên tất cả pháp nương nơi vô minh cũng diệt sạch không sót. Giống như mạng căn, khi mạng căn diệt, tất cả các căn theo đó hủy diệt. Khi vô minh diệt, tất cả các pháp nương vào vô minh cũng hoại diệt.
Do vô minh diệt nên phiền não không sinh.
Phiền não không còn nên không sinh nơi sáu đường. Vì sao? Vì nhân duyên sinh tử đã tận diệt nên chứng đắc Đại Niết-bàn Thường, Lạc, Ngã, Tịnh.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp thông hiểu mươi hai nhân duyên.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp biết nơi tự thân.
Thiện nam! Đại Bồ-tát nên quán sát: “Nay ta sinh đây thuộc chủng tánh nào? Thuộc dòng Bà-lamôn chăng? Dòng Sát-lợi chăng? Dòng đại gia cư sĩ chăng? Dòng thấp kém chăng? Dòng hạ tiện chăng?”
Nếu Bồ-tát sinh nơi nhà giàu sang cao quý thì chẳng nên cậy vào dòng tộc mà khởi kiêu mạn.
Nếu sinh nơi hà tiện, bần cùng thì nên nghĩ: “Do đời trước ta trồng nghiệp này nên khiến thọ quả báo bần cùng như vậy.” Nhờ nhân duyên ấy mà luôn tu hạnh chán bỏ. Do sinh chán bỏ nên thích cầu xuất gia.
Sau khi xuất gia, khởi sự quán sát: “Ta nay xuất gia làm điều gì chân chánh?” Bồ-tát liền biết xuất gia phải độ thoát mình, rồi mới có thể độ cho người khác. Do nhân duyên ấy nên không biếng trễ, không lười nhác.
Quán như vậy xong, lại nghĩ: “Ta đã xuất gia, những gì bất thiện chưa diệt tận?” Nếu diệt pháp này thì hoan hỷ sinh. Vì nhân duyên diệt pháp ấy nên dũng mãnh tinh tấn.
Lai nghĩ: “Những pháp thiện nào nên làm cho tăng trưởng?” Vì sự tăng trưởng nên hoan hỷ sinh. Vì nhân duyên tăng trưởng các pháp thiện nên tinh tấn dũng mãnh.
Lại nghĩ: “Nên nương vào những thầy nào để tất cả pháp thiện được tăng trưởng? Tất cả pháp bất thiện được tận diệt?”
Vì nhân duyên ấy nên y chỉ nơi các sư tăng, hoặc bậc đa văn, hoặc không đa văn, hoặc bậc trì giới, hoặc không trì giới, thường luôn sinh tưởng tôn kính vị ấy như chư Phật. Ở cạnh Hòa thượng, A-xà-lê cung kính tôn trọng, hết lòng phụng sự cũng lại như vậy. Và nghĩ rằng: “Nhờ uy lực của sư tăng và các pháp trợ đạo nên những chỗ chưa viên mãn liền được viên mãn, phiền não chưa diệt liền được diệt tận.” Gần những vị này nên sinh tưởng như Hòa thượng, hết lòng phụng sự, sinh đại hoan hỷ. Đối với pháp thiện, thuận theo tu hành. Đối với pháp bất thiện nên bỏ không làm.
Lại suy nghĩ: “Ai là thầy ta?” Quán như vậy liền biết: “Thầy ta là Nhất thiết trí nói hết thảy pháp, thương xót thế gian, có đại Từ bi, là ruộng phước lớn, làm thầy hàng trời, người.” Vì nhân duyên ấy nên sinh hoan hỷ.
Lại nghĩ: “Thật may mắn, thật may mắn! Ta nay đã được lợi lạc tối thượng, được chỉ cho học đạo chánh pháp, dù mất thân này cũng không dám phạm vào pháp đã thọ. Nếu không phạm tức là cúng dường chư Phật Như Lai.” Do vậy, thuận theo mà tu hành.
Lại nghĩ: “Ta nay nhận ai cúng dường ẩm thực? Nhà giàu sang hay nhà nghèo thiếu? Vì là cho những ai cúng dường ẩm thực được phước báo lớn, sinh lợi ích nên ta nhận sự cúng dường ẩm thực.”
Bồ-tát lại nghĩ: “Những thí chủ này hoặc giàu hoặc nghèo, đem những tâm gì cúng dường, cung cấp ẩm thực như vậy cho ta. Ta nên biết những thí chủ ấy.”
Nay nghĩ: “Chúng ta là người xuất gia, hành pháp Sa-môn, tác tưởng phước điền, tác tưởng trì giới, tác tưởng sinh thiện, tác tưởng diệt ác. Do vậy, ta nay không nên làm trái tâm họ; thọ trì giới luật, hành đức nghiệp Sa-môn, xuất gia làm ruộng phước cùng các công đức.”
Và nghĩ: “Vô thỉ sinh tử, ta phải độ họ. Ta nay đã được xuất gia nhập đạo, hành hạnh Sa-môn, tức là ta mới bắt đầu độ sinh tử. Ta nên tấn tu đức nghiệp Sa-môn, tức là ta độ sinh tử lần thứ hai. Ta nay dũng mãnh không giám bê trễ, chỉ vì đắc pháp thanh tịnh. Sự sinh tử từ vô thỉ, vô lượng như vậy, ta phải hóa độ.”
Thiện nam! Đó là Bồ-tát khởi sự quán sát biết được thân mình.
Thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp biết rõ thế gian. Những gì là mười? Đó là:
1. Sinh tâm khiêm cung đối với người cao ngạo.
2. Sinh tâm cung kính đối với người kiêu mạn.
3. Tự hành ngay thẳng đối với người quanh co.
4. Tự tu lời chân thật đối với dối trá.
5. Tự nói ái ngữ đối với người ác khẩu.
6. Tự tâm nhu hòa đối với người thô bạo.
7. Tu nhiều nhẫn nhục đối với người độc dữ.
8. Tu nhiều tâm Từ đối với người xấu ác.
9. Tu nhiều tâm Bi đối với người khốn khổ.
10. Tu nhiều Hỷ, Xả đối với người bỏn sẻn.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp biết rõ thế gian.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp sinh cõi Phật thanh tịnh. Những gì là mười? Đó là:
1. Giới phẩm thanh tịnh, không rạn nứt, không xen tạp, không bẩn, không tỳ vết.
2. Đối với các chúng sinh, khởi tâm bình đẳng.
3. Dụng công không hai, đầy đủ thiện căn lớn.
4. Lìa xa lợi dưỡng, cung kính, danh tiếng, tâm không nhiễm ô.
5. Tín căn thành tựu, tâm không nghi hoặc.
6. Dũng mãnh tin tấn, không chút biếng nhác.
7. Đầy đủ thiền định, tâm không tán loạn.
8. Đa văn phân biệt, không học tà luận.
9. Đầy đủ trí sáng, không sinh độn căn.
10. Tự nhiên nhiều lòng từ, không tập sân hận.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Đầy đủ mười pháp này mới sinh tịnh độ chăng? Nếu không đủ thì có được sinh chăng?
Phật bảo:
–Thiện nam! Đối với mười pháp này, giả sử có một pháp được đầy đủ: không nạn, không tạp, không nhơ, không tỳ vết, thanh tịnh, minh bạch, thì tất cả các pháp cũng đều đầy đủ. Vì sao? Vì đầy đủ mười pháp nơi được sinh tịnh độ, chẳng phải là không đủ.
Thiện nam! Như vậy, Bồ-tát đầy đủ mười pháp sẽ được sinh cõi Phật thanh tịnh.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp không thọ thai sinh nhiễm ô. Những gì là mười?
Đó là:
1. Tạo dựng hình tượng Như Lai.
2. Tu sửa tháp Phật hư hoại.
3. Thường cúng hương xoa nơi tháp miếu Phật.
4. Tắm rửa tượng Phật.
5. Quét dọn, rưới nước, tô điểm nơi tháp miếu Phật.
6. Giặt giũ, xoa bóp, cúng dường cha mẹ.
7. Cúng dường Hòa thượng, A-xà-lê, bạn lành bằng tâm không chút mong cầu.
8. Tu tập căn lành như vậy, hồi hướng nguyện: “Đem căn lành này, nguyện cho các chúng sinh không thọ thai sinh.”
9. Được sinh thanh tịnh.
10. Không sinh nhiễm ô bằng tất cả lòng thành kính của mình.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp không thọ thai sinh, chỉ trừ vì nguyện lực.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp ra khỏi nhà ở. Những gì là mười? Đó là:
1. Không luyến ái một gì, không trụ nơi hỗn tạp.
2. Quay lưng nơi cảnh tham.
3. Lìa xa khát ái, không nhiễm trần cấu.
4. Tùy thuận phụng hành nơi chánh pháp Phật.
5. Nỗ lực tinh tấn, khéo học biết đủ.
6. Sử dụng áo quần thích hợp, ăn uống thích hợp, đồ nằm thích hợp, thuốc thang thích hợp.
7. Không tích trữ bình bát, pháp phục, tiền tài, các vật...
8. Nơi các trần cảnh thường sinh lo sợ.
9. Hướng đến tịch tĩnh.
10. Tu đạo không bỏ.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp ra khỏi nhà ở.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp nuôi mạng mình thanh tịnh. Những gì là mười? Đó là:
1. Lìa xa tự cao, dua nịnh, lợi dưỡng.
2. Lìa xa mọi thứ hình tướng.
3. Lìa xa sự o bế.
4. Không cầu tiền của ngang trái.
5. Lìa tiền của phi pháp.
6. Lìa tiền của bất tịnh.
7. Không luyến đắm tiền của.
8. Không bị lợi dưỡng làm nhiễm ô.
9. Không mong cầu khát ái.
10. Đối với tiền của như pháp nên sinh biết đủ. Thiện nam! Bồ-tát lìa xa tự cao, dua nịnh lợi dưỡng như thế nào?
Đó là Đại Bồ-tát không vì lợi dưỡng mà hiện bày thân cao ngạo, miệng tự cao, tâm tự cao.
Thế nào là không hiện bày thân cống cao?
Như khi thấy đàn-việt thí chủ, Đại Bồ-tát không tự tạo oai nghi thân tướng khác thường: bước đi chầm chậm, hiện tướng tịch tĩnh, nhìn trước một tầm, dáng vẽ sầu khổ, hoặc làm công việc như chẳng hư dối. Thân cao ngạo, Bồ-tát đều không được làm.
Thế nào là không hiện bày khẩu cống cao?
Đại Bồ-tát không vì nhân duyên lợi dưỡng mà nói nhỏ nhẹ, từ từ, cho đến phát ra lời ái ngữ thuận theo lời nói của người. Đó là khẩu cao ngạo phải nên lìa xa.
Thế nào là tâm tự cao?
Như có thí chủ muốn đem tài vật cúng dường, Đại Bồ-tát ngoài miệng ra vẻ ít muốn mà trong lòng rất muốn lấy nhiều. Thiện nam! Đây gọi là lòng khao khát danh lợi, nghĩa là miệng nói không tham, nhưng tâm thật muốn được.
Thế nào là lìa xa mọi thứ hình tướng?
Như thấy đàn-việt, Đại Bồ-tát không nên tạo những tướng này: chỉ bày y bát của ta bị hư hoại nhiều, thiếu các loại thuốc men, hiện tại ta thiếu thốn, cầu xin sự bố thí... Đại Bồ-tát không được nói những lời ấy.
Thế nào là lìa xa sự o bế?
Như thấy Đàn-việt, Đại Bồ-tát không nên nói: “Này Đàn-việt! Nên bố thí cho ta vật ấy, ta đem ân đức báo đáp cho ông.” Bồ-tát không nên nói lời ấy ở trước thí chủ và làm cho họ biết ta trì giới, biết ta đa văn, biết ta thiểu dục. Ta vì từ bi mà thọ sự bố thí của người nên không được tạo phương tiện nhằm cổ động, tán dương.
Thế nào là Bồ-tát lìa sự mong cầu tiền của ngang trái?
Đại Bồ-tát không làm thân bị thương, không làm tâm bị thương để cầu tài vật. Nói thân bị thương nghĩa là vì tài vật nên không kiêng sợ lao nhọc, muốn người tứ phương hầu hạ thân bệnh một cách cấp tốc, trái với giới luật. Nói tâm bị thương nghĩa là sinh nhiều ganh ghét, giảm trừ lợi dưỡng đối với các bạn đồng học.
Thế nào là Bồ-tát xa lìa tiền của phi pháp?
Không dùng cân nhẹ, đong thiếu, lừa dối người, không dùng những việc giả dối thân quen và lừa đảo mà cầu tài vật.
Thế nào là Bồ-tát lìa tiền của bất tịnh?
Đối với những vật có liên quan như vật của tháp, vật của pháp, vật của Tăng, Bồ-tát không nên lấy. Người chẳng tùy hỷ thì không được thọ dụng.
Thế nào là Bồ-tát không luyến tham tài lợi?
Đại Bồ-tát nếu được tài vật, không nên cho là của ta, không tạo sự tích tụ tài vật ấy. Khi đó, nên đem nó bố thí cho cha mẹ, những người thân quen cùng các quyến thuộc... trong thời gian này, Bồ-tát cũng được thọ dụng. Khi được tài vật, Bồ-tát không sinh nhiễm đắm. Lúc không được tài vật, Bồ-tát cũng không hốt hoảng, cũng không khao khát. Đối với thí chủ, Bồ-tát không khởi tâm ác, không giữ lấy lỗi. Được tài vật như pháp, Bồ-tát cho chúng cùng hưởng thì được Phật khen ngợi, Bồ-tát Đại sĩ không chê cười, Thiên thần tán dương, bạn bè hoan hỷ. Bồ-tát dùng tài vật ấy với tâm biết đủ mà trụ.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp nuôi mạng mình thanh tịnh.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp tâm không mệt mỏi. Những gì là mười? Đó là:
1. Chỉ vì nhân duyên thiện là tạo lợi ích cho các chúng sinh, Bồ-tát trụ trong sinh tử không thấy mệt mỏi.
2. Vì tạo lợi ích cho chúng sinh, Bồ-tát thọ khổ nơi sinh tử không thấy mệt mỏi.
3. Vì khuyên chúng sinh gắng tu pháp thiện, Bồ-tát không thấy mệt mỏi.
4. Bồ-tát cùng các chúng sinh tạo các sự nghiệp không thấy mệt mỏi.
5. Vì chúng sinh Tiểu thừa, Bồ-tát nói pháp Thanh văn mà không thấy mệt mỏi.
6. Đối với hàng Thanh văn, Bồ-tát không oán ghét.
7. Tu pháp trợ đạo mà không mệt mỏi.
8. Vì đã thành tựu viên mãn hạnh Bồ-đề, Bồtát không sinh mệt mỏi.
9. Nguyện cầu Niết-bàn nhưng không thủ đắc Niết-bàn.
10. Hành hạnh Bồ-đề, tâm không tạm nghỉ.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp tâm không mệt mỏi.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp phụng hành lời Phật dạy. Những gì là mười?
Đó là:
1. Lìa xa tất cả sự phóng dật, trụ nơi không phóng dật.
2. Khéo tự thủ hộ thân, không tạo nghiệp ác.
3. Khéo tự thủ hộ miệng, không tạo nghiệp ác.
4. Khéo tự thủ hộ tâm, không tạo nghiệp ác.
5. Luôn sợ nẻo ác, lìa xa tất cả các pháp bất thiện.
6. Nói đạo lý chân thật, lìa các đạo phi pháp.
7. Luôn nói chánh pháp, bỏ mọi phi pháp.
8. Lìa xa nghiệp xấu, thuận theo đức nghiệp.
9. Không làm nhơ chánh pháp, giới luật của Như Lai. Lìa xa tất cả phiền não độc hại, rộng hộ trì Phật pháp.
10. Đối với pháp bất thiện, thường giữ tự tâm.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp phụng hành lời Phật dạy.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp khiến nét mặt tươi sáng, vui vẻ, không nhăn nhó.
Những gì là mười? Đó là:
1. Các căn vắng lặng.
2. Các căn thanh tịnh.
3. Các căn sáng suốt.
4. Các căn không nhiễm.
5. Các căn tinh khiết.
6. Lìa xa phẫn hận.
7. Lìa xa các sự sai khiến.
8. Không còn trói buộc.
9. Lìa các oán hại, hận thù.
10. Lìa các sự giận dữ.
Thiện nam! Như vậy Bồ-tát đầy đủ mười pháp khiến nét mặt tươi sáng, vui vẻ, không nhăn nhó.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Như con hiểu nghĩa Phật giảng nói, do các căn thanh tịnh nên Đại Bồ-tát có sắc diện tươi vui, do lìa phiền não nên mặt không nhăn nhó.
Phật nói:
–Đúng vậy, đúng vậy! Thiện nam! Đúng như lời ông nói! Do các căn thanh tịnh nên Đại Bồ-tát có sắc diện tươi vui, do lìa phiền não nên mặt không nhăn nhó.
Thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp đa văn viên mãn. Những gì là mười? Đó là:
1. Sinh tử mạnh mẽ, dâm dục rực cháy, Đại Bồtát biết rõ đúng như thật.
2. Sân hận rực cháy, Bồ-tát biết đúng như thật.
3. Ngu si loạn tâm, Bồ-tát biết đúng như thật.
4. Các hành vô thường, Bồ-tát biết đúng như thật.
5. Ba cõi đều khổ, Bồ-tát biết đúng như thật.
6. Thế gian hư rỗng, Bồ-tát biết đúng như thật.
7. Các pháp vô ngã, Bồ-tát biết đúng như thật.
8. Thế gian hư dối, chấp vào vọng tưởng, thọ sinh phân biệt, Bồ-tát biết đúng như thật.
9. Hết thảy các pháp nhờ nhân duyên sinh, Bồtát biết đúng như thật.
10. Niết-bàn tịch tĩnh, Bồ-tát biết đúng như thật.
Ba vô tánh này, Bồ-tát nghe, nghĩ, tu tuệ, Bồtát biết đúng như thật rồi, không nên phân biệt âm thanh, lời nói, danh từ. Tuy biết như vậy, nhưng phát tâm rộng lớn, hưng khởi đại Từ bi, thệ nguyện kiên cố, vì các chúng sinh mà tinh tấn dũng mãnh nhổ tận gốc rễ nơi khổ đau.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp đa văn viên mãn.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp thọ trì chánh pháp. Những gì là mười? Đó là:
1. Vào thời mạt pháp, sau năm trăm năm khi chánh pháp diệt, sẽ khởi lên sự tranh cãi về kinh giáo của Đức Như Lai.
2. Vô lượng chúng sinh tu hành tà đạo, đèn trí sắp diệt, không ai chỉ đường.
3. Tu-đa-la kinh sâu xa vi diệu, hết thảy pháp Ma-đức-lặc-già (Pháp mẫu) có đại oai đức, nghĩa lý rộng lớn, nhưng Bồ-tát vẫn có khả năng thọ trì, đọc tụng, tuyên thuyết, cung kính cúng dường.
4. Cũng hay vì người khác chỉ bày nghĩa ấy, giải thích sâu rộng, làm cho họ được dễ hiểu.
5. Đối với người hành pháp, Bồ-tát sinh đại hoan hỷ, khéo hộ niệm họ.
6. Tâm không mong cầu, ưa nghe chánh pháp.
7. Đối với người nói pháp, Bồ-tát sinh tưởng như Đức Thế Tôn.
8. Ở trong chánh pháp, Bồ-tát sinh tưởng về cam lồ, sinh tưởng về diệu dược.
9. Không tiếc thân mạng, cầu học chánh pháp.
10. Được chánh pháp rồi, nỗ lực tu hành.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp thọ trì chánh pháp.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp sinh Pháp vương tử. Những gì là mười? Đó là:
1. Dùng tướng trang nghiêm thân đầy đủ các vẻ tốt đẹp.
2. Tu chỉnh các văn viên mãn vi diệu.
3. Thuận theo đạo của Đức Như Lai tu hành.
4. Trụ ở nơi chốn thuộc cảnh giới Như Lai.
5. Hiểu thông suốt pháp không thoái chuyển của chư Phật.
6. Khéo giỏi cứu độ chúng sinh khổ nạn.
7. Khéo giỏi học tập quy tắc của chúng Thánh.
8. Khéo giỏi quán khắp bốn tâm Vô lượng.
9. Có khả năng chấn giữ thành Nhất thiết trí.
10. Ở chỗ Đức Như Lai, trụ xứ của chúng Phạm.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp sinh Pháp vương tử.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp được Thích, Phạm, Tứ Thiên vương cung nghênh.
Những gì là mười? Đó là:
1. Không thoái chuyển nơi tâm Bồ-đề.
2. Tất cả chúng ma không thể não loạn.
3. Không dao động nơi chánh pháp Phật.
4. Thâm nhập các pháp mật tạng vi diệu.
5. Tùy thuận tất cả pháp trí bình đẳng.
6. Ở trong pháp Phật không theo lời nói của người khác.
7. Ở trong pháp Phật được trí vô ngại.
8. Không cùng hạnh với tất cả Thanh văn, Duyên giác.
9. Đứng đầu nơi các thế gian.
10. Trụ nơi an ổn, nơi pháp nhẫn không sinh.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp được Thích, Phạm, Tứ Thiên vương cung nghênh.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp biết các căn tánh.
Đó là: Có các chúng sinh tánh dâm dục nhiều, Bồ-tát biết rõ như thật; hoặc tánh sân hận, hoặc tánh ngu si, hoặc tánh cang cường, hoặc tánh bình thường, hoặc tánh dịu hiền, hoặc tánh hung dữ, hoặc tánh nóng nảy, hoặc tánh chậm chạp... Bồ-tát đều biết một cách như thật. Như biết một người, cùng chúng sinh khắp các cõi, Bồ-tát cũng biết như vậy.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp nhận biết các căn tánh.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp khéo biết về chúng sinh thành thục. Những gì là mười? Đó là:
1. Như người cần được độ bằng sắc thân Phật, Bồ-tát liền thị hiện sắc thân Như Lai.
2. Hoặc người cần được độ bằng sắc thân Bồtát, Bồ-tát liền thị hiện sắc thân Bồ-tát.
3. Hoặc người cần được độ bằng thân Bích-chi Phật, Bồ-tát liền hiện thân Bích-chi Phật.
4. Hoặc người cần được độ bằng thân Thanh văn, Bồ-tát liền hiện thân Thanh văn.
5. Hoặc người cần được độ bằng thân Đế Thích, Bồ-tát liền hiện thân Đế Thích.
6. Hoặc người cần được độ bằng thân ma, Bồtát liền hiện thân ma.
7. Hoặc người cần được độ bằng thân Phạm, Bồ-tát liền hiện thân Phạm.
8. Hoặc người cần được độ bằng thân Bà-lamôn, Bồ-tát liền hiện thân Bà-la-môn.
9. Hoặc người cần được độ bằng thân vua dòng Sát-lợi, Bồ-tát liền hiện thân ấy.
10. Hoặc người cần được độ bằng thân trưởng giả, cư sĩ, Bồ-tát liền hiện thân trưởng giả, cư sĩ.
Thiện nam! Tùy theo nhân duyên nơi các loại phương pháp, vì làm cho chúng sinh được thành thục nên tùy theo nhân duyên ấy mà Bồ-tát thị hiện thân.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp khéo biết về chúng sinh thành thục.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp có thể thọ nhận chánh pháp. Những gì là mười? Đó là:
1. Ngay thẳng, mềm mỏng.
2. Tâm không dua nịnh, quanh co.
3. Khéo điều phục tâm.
4. Tâm không uế trược.
5. Nội tâm thanh tịnh.
6. Tánh không thô thiển.
7. Tâm không sân hận.
8. Lìa xa sự hung ác.
9. Tâm nhiều nhẫn nhục.
10. Đầy đủ điều kiện nhận lãnh ngôi vị Pháp vương tử.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp có thể cho nhận chánh pháp.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp cùng trụ nơi an lạc. Những gì là mười? Đó là:
1. Đầy đủ sự biết chân chánh.
2. Đầy đủ sự thấy biết thanh tịnh.
3. Đầy đủ giới phẩm.
4. Oai nghi thanh tịnh.
5. Hành động thích hợp.
6. Không trụ nơi cảnh giới phiền não.
7. Động, dừng luôn tinh tế.
8. Bạn bè hòa kính.
9. Mỗi việc có phần.
10. Hành đạo Nhất thừa, không ra ngoài khuôn phép.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp cùng trụ nơi an lạc.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát co đủ mười pháp khéo tu các Nhiếp pháp. Những gì là mười? Đó là:
1. Dùng sự bố thí lợi ích thâu nhận chúng sinh.
2. Dùng sự bố thí an lạc thâu nhận chúng sinh.
3. Dùng sự bố thí vô tận thâu nhận chúng sinh.
4. Giáng nói lợi ích.
5. Giảng nói thật nghĩa.
6. Giảng nói chánh pháp.
7. Giảng nói đạo lý.
8. Dùng các việc lợi ích.
9. Dùng việc cung cấp vật dụng cho đời sống.
10. Dùng tài vật lợi ích để thâu nhận chúng sinh.
Thiện nam! Bố thí lợi ích nghĩa là Bố thí pháp. Bố thí an lạc nghĩa là bố thí tài vật.
Bố thí vô tận nghĩa là chỉ dẫn về đạo lý chân chánh.
Nói lợi ích nghĩa là khuyên tu pháp thiện.
Nói nghĩa chân thật là không nói điên đảo.
Nói chánh pháp là nói pháp thâu nhận nhiếp phục thuận theo lời dạy của Đức Phật.
Nói đạo lý là không nói trái thực tế.
Các việc lợi ích nghĩa là tránh nơi bất thiện, làm cho an trụ nơi thiện.
Cung cấp vật dụng cho đời sống đó là đồ ăn, thức uống.
Tài vật lợi ích đó là vàng, bạc, lưu ly, trân châu, pha lê, hổ phách, san hô, mã não, voi, ngựa, xe và các vật cần dùng.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp khéo tu các kinh nhiếp thọ.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp đoan nghiêm hoàn hảo. Những gì là mười? Đó là:
1. Oai nghi rạng rỡ.
2. Nơi bốn oai nghi đều không giả dối.
3. Ai thấy cũng mến.
4. Giống như trăng mùa thu.
5. Ai thấy cũng sinh vui thích.
6. Ai thấy cũng không chán.
7. Làm vui lòng người.
8. Không một chúng sinh nào oán ghét.
9. Chúng sinh nhìn thấy, ai cũng hoan hỷ.
10. Chúng sinh nhìn thấy, ai cũng phát tâm thanh tịnh.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp đoan nghiêm hoàn hảo.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát gồm đủ mười pháp có khả năng làm nơi y chỉ cho chúng sinh. Những gì là mười? Đó là:
1. Bảo hộ chúng sinh nơi phiền não đáng sợ.
2. Dẫn dắt chúng sinh ra khỏi rừng rậm hoang dã sinh tử.
3. Tế độ chúng sinh nơi biển sinh tử.
4. Vì chúng sinh cô độc mà làm thân quyến.
5. Vì các chúng sinh mang bệnh phiền não mà làm Y vương.
6. Vì chúng sinh không ai cứu hộ mà làm người cứu hộ.
7. Vì chúng sinh không ai lo liệu mà làm người lo liệu.
8. Vì chúng sinh không nơi nương tựa mà làm nơi nương tựa.
9. Vì nơi không có đất sống mà làm đất sống cho chúng sinh.
10. Vì chúng sinh không có nơi hướng đến mà làm nơi hướng đến.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp có khả năng làm nơi y chỉ cho chúng sinh.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp dụ như cây thuốc lớn. Những gì là mười? Đó là:
Như cây thuốc lớn tên là Thiện kiến, chúng sinh bệnh tật tùy ý sử dụng: rễ, cành, nhánh, lá, vỏ, thân, hoa, quả... bằng cách hoặc thấy, hoặc ngửi, hoặc nếm, hoặc xúc phạm, mọi bệnh đều thuyên giảm.
Thiện nam! Bồ-tát cũng vậy, từ sơ phát tâm thấy các chúng sinh bị các loại bệnh tật phiền não, nên bố thí thuốc trị liệu như: giới, nhẫn, tinh tấn, thiền định, bát-nhã, hoặc được thấy, nghe công đức của Bồ-tát, được thân cận, hoặc được nếm vị thì mọi bệnh tật đều tiêu trừ.
Thiện nam! Như vậy, Bồ-tát đầy đủ mười pháp dụ như cây thuốc lớn.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp tương ưng với phước nghiệp. Những gì là mười? Đó là:
1. Ở chỗ Tam bảo, tùy theo sức của mình mà tu sửa.
2. Bố thí thuốc men cho những chúng sinh bệnh tật.
3. Bố thí vật thực cho những ai nghèo đói.
4. Bố thí sự ấm mát cho những chúng sinh bị lạnh, nóng bức bách.
5. Hết lòng cúng dường, cung kính, phụng thờ các bậc Hòa thượng, A-xà-lê.
6. Lễ bái, tiếp đón, đưa tiễn các bạn đồng học. Chắp tay thăm hỏi, tạo sự hòa kính.
7. Kiến tạo Già-lam và vườn cây cảnh khắp nơi.
8. Hợp thời bố thí lúa gạo, tài vật và các kho lẫm.
9. Bố thí vật thực, y phục, thuốc men và bảo hộ các nô tỳ, tôi tớ, thuộc hạ.
10. Thường luôn đến chỗ Sa-môn đa văn, trì giới thân cận, lễ bái.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát đầy đủ mười pháp tương ưng với phước nghiệp.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp khéo giỏi biến hóa. Những gì là mười? Đó là:
1. Nơi một cõi Phật không dao động, Bồ-tát có khả năng đi khắp các cõi Phật hầu chuyện với Đức Như Lai.
2. Tại một cõi Phật không dao động, Bồ-tát đi đến vô lượng các cõi Phật, nghe pháp được thành tựu.
3. Tại một cõi Phật không dao động, Bồ-tát đi đến vô lượng cõi Phật, cúng dường, hầu hạ Đức Thế Tôn ấy.
4. Tại một cõi Phật không dao động, Bồ-tát đi đến vô lượng cõi Phật, hành hạnh Bồ-đề khiến được viên mãn.
5. Tại một cõi Phật không dao động, Bồ-tát đi đến vô lượng cõi Phật, cúng dường, cung kính, lễ bái các Bồ-tát Đẳng giác.
6. Tại một cõi Phật không dao động, Bồ-tát đi đến vô lượng cõi Phật, tự thân thành Phật.
7. Tại một cõi Phật không dao động, Bồ-tát đi đến vô lượng cõi Phật chuyển bánh xe pháp.
8. Tại một cõi Phật không dao động, Bồ-tát đi đến vô lượng cõi Phật thị hiện nhập Niết-bàn.
9. Tại một cõi Phật không dao động, Bồ-tát đi đến vô lượng cõi Phật có các chúng sinh cần được độ, tạo các thần thông biến hóa, khiến chúng sinh đó được độ thoát.
10. Tuy tạo sự biến hóa như vậy mà không tư duy, cũng không phân biệt.
Bồ-tát Hàng Phục Nhất Thiết Chướng Ngại thưa:
–Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát tạo sự biến hóa? Thế nào là không tư duy? Thế nào là không phân biệt?
Phật bảo:
–Này thiện nam! Ta nay vì ông mà nói thí dụ: Ví như ánh sáng mặt trời, mặt trăng chiếu khắp bốn châu, làm lợi ích cho các chúng sinh, mà mặt trời, mặt trăng không có suy nghĩ, cũng không phân biệt: “Ta đem ánh sáng làm lợi ích cho chúng sinh.” Chỉ vì hành nghiệp nhân duyên quả báo quá khứ nên mặt trời, mặt trăng sinh việc lợi ích như vậy.
Thiện nam! Bồ-tát cũng thế, tuy tạo sự biến hóa đem lại lợi ích cho chúng sinh nhưng không suy nghĩ, không phân biệt, không dụng công, chỉ vận hành theo nghiệp. Vì sao? Vì những sự biến hóa này đều do Bồ-tát thành tựu nhân duyên của nghiệp thiện. Khi là Bồ-tát ở trong cõi người, đã phát thệ nguyện: “Đem sức từ bốn nguyện không suy nghĩ, cũng không phân biệt, tạo các sự biến hóa không thêm dụng công.
Này thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ mười pháp sớm chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng. Những gì là mười? Đó là:
1. Đầy đủ vạn hạnh như nói ở trước. Vạn hạnh là: đầy đủ sự bố thí, đầy đủ phẩm giới. Nói phẩm giới là không rạn nứt, không xen tạp, không uế trược, không tỳ vết, vượt hơn phẩm giới Thanh văn, Duyên giác.
2. Đầy đủ phẩm giới minh bạch, thanh tịnh.
3. Đầy đủ nhẫn nhục.
4. Đầy đủ tinh tấn.
5. Đầy đủ thiền định.
6. Đầy đủ thiện tuệ.
7. Đầy đủ phương tiện thiện xảo.
8. Đầy đủ thiện nguyện.
9. Đầy đủ các lực.
10. Đầy đủ chánh trí sâu xa vi diệu.
Đầy đủ diệu trí tu chứng, không cúng tất cả Thanh văn, Duyên giác. Vượt qua cảnh giới của họ. Vượt qua cảnh giới của Bồ-tát từ Địa thứ nhất cho đến Địa thứ chín.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát đầy đủ mười pháp sớm chứng đắc đạo quả Bồ-đề vô thượng.
Bấy giờ, Đức Phật bảo Bồ-tát Bảo Tích:
–Này thiện nam! Có bốn loại pháp làm thoái mất trí tuệ của Bồ-tát. Những gì là bốn?
Đó là:
1. Đối với chánh pháp Phật, tâm không tôn trọng, cũng không cung kính.
2. Làm người nói pháp mà bỏn sẻn đối với pháp. Giả sử có người đến cầu chánh pháp thì không giảng nói cho họ, tạo sự khó khăn cho người ưa pháp.
3. Che giấu lầm lỗi, tự tánh kiêu mạn.
4. Lại thêm hủy báng người nói chánh pháp.
Này Bảo Tích! Đó là bốn pháp làm thoái mất trí tuệ.
Thiện nam! Có bốn loại pháp làm tăng trưởng trí tuệ lớn của Đại Bồ-tát. Những gì là bốn? Đó là: 1. Kính trọng chánh pháp và người nói pháp.
2. Tùy chỗ nghe được chánh pháp vi diệu, vì người khác rộng nói, phân biệt.
3. Tâm không mong cầu, không cầu danh tiếng mà nói pháp. Siêng cầu chánh pháp như cứu lửa cháy đầu.
4. Tùy pháp nghe được, thọ trì kiên cố, tu hành chánh pháp, không chỉ nói danh tự suông.
Thiện nam! Đó là bốn pháp làm tăng trưởng trí tuệ lớn của Bồ-tát.
Thiện nam! Có bốn loại pháp làm thoái mất tâm đại Bồ-đề của Đại Bồ-tát. Những gì là bốn? Đó là:
1. Không thuận theo các bậc Hòa thượng, Axà-lê và tất cả phước điền.
2. Người không nghi mà làm cho nghi ngờ.
3. Thấy người hành Đại thừa, liền hủy báng họ.
4. Lừa dối tự tâm và lừa dối người.
Thiện nam! Đó là bốn pháp làm thoái mất tâm Bồ-đề.
Này thiện nam! Có bốn loại pháp khiến đời đời kiếp kiếp tâm đại Bồ-đề của Đại Bồ-tát tự nhiên hiện tiền, khoảng giữa không mất, cho đến khi ngồi nơi Bồ-tát đạo tràng. Những gì là bốn? Đó là:
1. Thà mất thân mạng chứ không bao giờ nói dối, cho đến nói đùa, cũng không nói lời hư vọng.
2. Đối với các chúng sinh, khởi tâm bình đẳng, tâm không tự dối, cũng không dối trá người.
3. Đối với các Bồ-tát, sinh tưởng Thế Tôn.
4. Không vui theo pháp Tiểu thừa.
Thiện nam! Đó là bốn pháp khiến đời đời kiếp kiếp tâm đại Bồ-đề tự nhiên hiện tiền, khoảng giữa không mất, cho đến khi an tọa nơi Bồ-đề đạo tràng. Thiện nam! Có bốn loại pháp làm cho tất cả thiện căn của Đại Bồ-tát không được sinh trưởng.
Những gì là bốn? Đó là:
1. Tự tánh kiêu mạn.
2. Siêng cầu học văn chương, chú thuật của thế gian.
3. Siêng cầu lợi dưỡng, tham đắm danh tiếng, lợi dưỡng.
4. Dùng tâm dối trá lừa dối kẻ khác.
Thiện nam! Đó là bốn pháp làm cho tất cả thiện căn của Đại Bồ-tát mãi mãi không tăng trưởng.
Thiện nam! Có bốn loại pháp làm cho tất cả thiện căn của Đại Bồ-tát đời đời kiếp kiếp tăng trưởng thù thắng, trong sáng, không còn thoái mất. Những gì là bốn? Đó là:
1. Xả bỏ tất cả pháp bất tịnh, siêng cầu tất cả chánh pháp thanh tịnh. Chánh pháp nghĩa là sáu pháp Ba-la-mật và pháp tạng của Bồ-tát.
2. Đối với các chúng sinh, tâm không kiêu mạn. Thọ ví như pháp, tự biết độ lượng.
3. Xả bỏ tất cả các tà mạn, an tâm biết đủ, trụ nơi Thánh chủng.
4. Không nói lỗi lầm hư thật của người, không tìm khuyết điểm của người.
Nếu đối với các pháp, tâm luôn thông đạt thì đời đời thiện căn cũng tăng trưởng, thù thắng, trong sáng, không còn thoái mất.
Thiện nam! Có bốn loại tâm dua nịnh, quanh co, Bồ-tát thường phải xả bỏ. Những gì là bốn? Đó là:
Đối với pháp của chư Phật, tâm sinh nghi hối, không tin chắc thật... tuy vậy đời đời không được hủy báng, phải nên nghĩ rằng: “Chỉ có Phật tác chứng, pháp Phật vô lượng, vì các chúng sinh, tùy theo căn cơ mà giảng nói, sâu xa, khó lãnh hội. Chỉ có Phật tự biết, chẳng phải chỗ ta hiểu được.” Do vậy, không sinh tâm trái nghịch.
Thiện nam! Đây là bốn pháp khiến các chúng sinh sinh tâm kiêu mạn, sân hận phiền não; đối với lợi dưỡng của người khởi tâm ganh ghét, mắng chửi, tiếng ác ấy lan rộng.
Thiện nam! Đó là bốn loại tâm tà nịnh, Đại Bồtát thường phải xả bỏ.
Thiện nam! Đại Bồ-tát có đủ bốn loại tướng chân thật. Những gì là bốn? Đó là:
1. Không bao giờ che giấu những tội đã phạm. Hướng đến người khác phát lồ sám hối, sửa đổi, tâm không còn che đậy, trói buộc.
2. Nếu dùng lời chân thật mà phải mất nước, mất mạng, mất tài vật... những việc quan trọng như vậy cũng không bỏ lời nói chân thật, cũng không tạo các nhân duyên cho lời nói khác.
3. Hoặc bị tất cả việc ác như: mắng chửi, hủy báng, đánh đập, trói buộc, các loại thương tích nguy hại... khi thọ những khổ này, chỉ tự trách mình đã tạo nghiệp từ quá khứ nên không sân hận người khác, không ôm lòng oán ghét người, khéo trụ nơi tín lực, tự tâm thanh tịnh.
4. Hoặc đối với pháp sâu xa của chư Phật, khó tin, khó hiểu, đều có khả năng tín thọ, đọc tụng, hành trì.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát có bốn tướng chân thật ngay thẳng.
Thiện nam! Có bốn loại pháp tạo hình ngang bướng, khó điều, khó phục. Những gì là bốn? Đó là:
1. Đọc tụng kinh điển để mà hý luận. Miệng tuy nói pháp nhưng không hành theo.
2. Trái nghịch, không tin những lời dạy bảo.
3. Không thể khiến tâm hoan hỷ, tùy thuận cung phụng cúng dường các bậc Hòa thượng, Xàlê và những phước điền; làm tổn giảm sự sung kính cúng dường của tín thí, tự trái với thọ nguyện xưa mà thọ tín thí.
4. Thấy các đức điều ngự và Bồ-tát Đại sĩ thì khởi tâm khinh khi, kiêu mạn, không cung kính.
Thiện nam! Đó là Bồ-tát có bốn loại pháp ngang bướng, khó điều phục.
Thiện nam! Bồ-tát có bốn tướng điều thuận.
Những gì là bốn? Đó là:
1. Khéo giảng nói pháp được nghe, hành theo lời nói, nương tựa nơi pháp, không nương nơi lời nói.
2. Phụng hành lời dạy của thầy, thông hiểu về ý nghĩa sâu xa.
3. Lời nói mạch lạc, việc làm đều thiện, không sai ý thầy, không thoái mất giới, định, tuệ. Dùng tâm điều thuận mà thọ sự cúng dường.
4. Thấy các điều thiện, cung kính, ưa thích, tín thuận bậc Đại sĩ. Thuận theo lời dạy thiện, thị trì đức hạnh.
Thiện nam! Đó là bốn tướng điều thuận của Bồtát.
Thiện nam! Bồ-tát có bốn sự sai lầm. Những gì là bốn? Đó là:
1. Người không nên tin mà cùng đồng ý với họ, là Bồ-tát sai lầm.
2. Nói pháp sâu xa cho chúng sinh chẳng phải là bậc pháp khí, là Bồ-tát sai lầm.
3. Người ưa giáo pháp Đại thừa mà nói pháp nhỏ cho họ, là Bồ-tát sai lầm.
4. Hoặc khi bố thí, chỉ bố thí cho người trì giới, người thiện, cúng dường mà không cho người ác, là Bồ-tát sai lầm.
Thiện nam! Đó là bốn sự sai lầm của Bồ-tát.
Thiện nam! Bồ-tát có bốn chánh đạo. Những gì là bốn? Đó là:
1. Sinh tâm bình đẳng đối với các chúng sinh.
2. Nương nơi Phật tuệ, tin tất cả chúng sinh bình đẳng.
3. Thuyết pháp cho các chúng sinh một cách bình đẳng.
4. Làm cho các chúng sinh đồng trụ nơi chánh hạnh một cách bình đẳng.
Thiện nam! Đó là bốn chánh đạo của Bồ-tát.
Thiện nam! Bồ-tát có bốn loại bạn chẳng phải là tri thức thiện, chẳng phải bạn lành. Những gì là bốn? Đó là:
1. Người cầu Thanh văn chỉ muốn tự lợi.
2. Người cầu Duyên giác tâm ưa việc nhỏ.
3. Người thích kinh điển ngoại đạo Lộ-già-dađà, trau chuốt văn chương.
4. Người ưa gần gũi những nơi làm tăng lợi ích thế gian, không thích lợi ích nơi pháp.
Thiện nam! Đó là có bốn loại bạn chẳng phải tri thức thiện, chẳng phải là bạn lành của Bồ-tát.
Thiện nam! Bồ-tát có bốn loại bạn lành, bốn tri thức thiện. Những gì là bốn? Đó là:
1. Các vị đến xin là tri thức thiện, vì nhân duyên hành đạo.
2. Người khéo nói pháp là tri thức thiện, vì tăng trưởng điều thiện.
3. Người khuyên ta xuất gia là tri thức thiện, vì vượt ra khổ của ba cõi.
4. Chư Phật, Bồ-tát là tri thức thiện vì làm tăng trưởng chánh pháp vi diệu.
Thiện nam! Đó là bốn loại bạn lành, bốn tri thức thiện của Bồ-tát.
Thiện nam! Bồ-tát có bốn hạng chẳng phải là
Bồ-tát mà tựa như Bồ-tát. Những gì là bốn? Đó là:
1. Tham cầu lợi dưỡng, không cầu chánh pháp.
2. Tham cầu danh tiếng, không cầu công đức.
3. Tham cầu tự vui, không cứu chúng sinh.
4. Dùng pháp diệt khổ nhưng thích tụ tập đồ chúng, không ưa tịch tĩnh.
Thiện nam! Đó là bốn hạng chẳng phải Bồ-tát mà tựa như Bồ-tát.
Thiện nam! Có bốn hạng Bồ-tát chân thật.
Đó là:
1. Khéo tin “pháp không”, nhưng cũng tin nghiệp báo.
2. Biết tất cả pháp không có ngã, ngã sở nhưng hay khởi tâm đại Bi đối với các chúng sinh.
3. Rất thích Niết-bàn, nhưng thường du hóa nơi sinh tử.
4. Bố thí khắp cho chúng sinh, không cầu quả báo.
Thiện nam! Đó là bốn loại công đức của Bồ-tát chân thật.
Thiện nam! Bồ-tát có bốn kho tàng lớn.
Đó là:
1. Như có Bồ-tát gặp Phật xuất thế, nhờ vậy mà được nghe sáu pháp Ba-la-mật và những nghĩa lý ấy.
2. Dùng tâm vô ngại hầu người nói pháp.
3. Tâm không biếng nhác, không một chút xao lãng.
4. Trụ nơi A-lan-nhã không hề phóng dật.
Thiện nam! Đó là bốn kho tàng lớn của Bồ-tát. Thiện nam! Bồ-tát có bốn loại pháp có thể hủy hoại việc ma.
Đó là:
1. Thường không xả bỏ tâm Bồ-đề.
2. Đối với các chúng sinh, tâm không vương vấn, ngăn ngại.
3. Đều giác tri những sự chấp trước.
4. Tâm không khinh chê tất cả chúng sinh.
Thiện nam! Đó là bốn loại pháp của Bồ-tát, có thể hủy hoại việc ma.
Này thiện nam! Bồ-tát có bốn loại hạnh nghiệp phước đức chẳng thể nghĩ lường. Những gì là bốn?
Đó là:
1. Dùng tâm thanh tịnh thực hành pháp thí.
2. Sinh tâm đại Bi đối với người phá giới.
3. Xưng dương tán thán tâm Bồ-đề đối với các chúng sinh.
4. Tu tập nhẫn nhục đối với người vô lực.
Thiện nam! Đó là bốn loại hạnh nghiệp phước đức chẳng thể nghĩ lường của Bồ-tát.
Thiện nam! Bồ-tát có bốn loại pháp phá tan trụ địa vô minh phiền não. Những gì là bốn? Đó là:
1. Giới phẩm thanh tịnh, chẳng vi phạm giới khinh, giới trọng.
2. Thâu giữ chánh pháp không sợ mệt nhọc.
3. Bố thí đèn sáng, cúng dường ruộng phước.
4. Xả thí tài vật không có thân sơ.
Đó là bốn loại pháp phá tan trụ địa vô minh phiền não.
Thiện nam! Đại Bồ-tát có bốn loại pháp đạt được trí vô ngại. Những gì là bốn? Đó là:
1. Thường hành pháp thí tâm không mong cầu.
2. Thọ trì chánh pháp tương ưng với lý.
3. Không sinh ganh ghét đối với lợi dưỡng của người khác.
4. Luôn tự thâu giữ tâm, không sinh kiêu mạn. Đó là bốn loại pháp đạt được trí vô ngại.
Thiện nam! Chẳng phải do danh tự gọi là Bồtát, mà phải khéo hành pháp thiện, hành tâm bình đẳng, mới gọi là Bồ-tát. Hoặc khéo thành tựu ba mươi hai pháp, cũng gọi là Bồ-tát. Ba mươi hai pháp là gì? Đó là:
1. Thường vì chúng sinh, hết lòng cầu pháp lạc.
2. Khiến tất cả chúng sinh được trụ trong Nhất thiết trí.
3. Thường tự xưng tán hàng pháp khí vô thượng.
4. Tâm không oán ghét trí tuệ người khác.
5. Phá trừ kiêu mạn, ham thích Phật đạo.
6. Tâm địa kiên cố, cung kính không dối.
7. Thân nhau trọn vẹn cho đến khi thành Phật.
8. Đối với người thân kẻ sơ, tâm thường bình đẳng.
9. Nói thường mỉm cười, biết lượng lời nói.
10. Khéo thăm hỏi trước, mặt không nhăn nhó.
11. Làm công việc trọn vẹn, không bỏ lỡ.
12. Rộng vì chúng sinh mà hành đại Bi bình đẳng, tâm không mệt mỏi.
13. Đa văn không chán.
14. Tự trách lỗi mình, không trách lỗi người.
15. Đối với người có tội, từ bi mà quở trách.
16. Dùng tâm Bồ. đề hành các oai nghi.
17. Đã hành bố thí không mong đền đáp.
18. Hành trì giới luật không cầu sinh Thiên.
19. Sinh nhẫn vô ngại đối với các chúng sinh.
20. Vì tu tất cả các thiện căn nên khuyên hành tinh tấn.
21. Bỏ Vô sắc giới, chọn nơi thiền định.
22. Hành tuệ phương tiện hợp với bốn Nhiếp pháp.
23. Tâm từ bình đẳng đối với người trì giới, phá giới.
24. Chí tâm nghe pháp, tâm ưa xa lìa tịch tĩnh.
25. Trụ nơi A-lan-nhã, không tham đắm các loại vinh hoa nơi thế gian.
26. Ở trong Đại thừa thấy lợi ích hơn.
27. Lìa tri thức ác, gần gũi bạn lành.
28. Thường vận hành bình đẳng bốn loại tâm thanh tịnh, hiện bày năm thần thông diệu dụng.
29. Thường nương nơi chân trí.
30. Đối với các chúng sinh tà hạnh, chánh hạnh đều không xả bỏ.
31. Lời nói chắc chắn, quý pháp chân thật.
32. Trong tất cả thiện căn, lấy tâm Bồ-đề làm thượng thủ.
Nếu ai đủ ba mươi hai pháp này gọi là ở quả vị Bồ-tát.
Thiện nam! Công đức của Bồ-tát vô lượng, vô biên, nên dùng nhân duyên thí dụ mới biết rõ.
Thiện nam! Ví như đại địa dung nạp các chúng sinh, tâm không phân biệt, không mong báo ân; Bồ-tát cũng vậy, từ lúc mới phát tâm cho đến khi an tọa nơi đạo tràng, tất cả chúng sinh đều được lợi ích, nhưng tâm Bồ-tát không phân biệt, không mong báo ân.
Thiện nam! Ví như nước nuôi sống tất cả trăm loại cây: lúa, cỏ thuốc, cây cối, rừng rậm... đều được tăng trưởng; Bồ-tát cũng vậy, tự tâm thanh tịnh, từ bi trùm khắp, xông ướp tất cả chúng sinh khiến cho tăng trưởng tất cả pháp thiện.
Thiện nam! Ví như lửa có khả năng hầm chín trăm loại lúa gạo, cỏ thuốc, hoa quả... trí tuệ Bồ-tát cũng lại như vậy, khéo làm thành thục tất cả thiện căn.
Thiện nam! Ví như phong luân có khả năng thành lập tất cả thế giới; quốc độ chư Phật; phương tiện của Bồ-tát cũng lại như vậy, khéo thành lập tất cả pháp thiện.
Thiện nam! Như mặt trăng mới mọc, ánh sáng ngày càng tăng trưởng rực rỡ; tâm tịnh của Bồ-tát cũng lại như vậy, tất cả pháp thiện ngày càng tăng trưởng.
Thiện nam! Ví như mặt trời mọc, cùng lúc phát sáng, rộng vì tất cả chúng sinh mà chiếu soi; Bồtát cũng vậy, phát ánh sáng trí tuệ chiếu khắp tất cả chúng sinh trong cùng một lúc.
Thiện nam! Như sư tử vương đi đến đâu cũng không kinh sợ; Bồ-tát cũng vậy, trì giới thanh tịnh, trí tuệ chân thật, ở bất cứ nơi đâu cũng không kinh sợ.
Thiện nam! Ví như đại tượng vương quý giá khéo được điều phục, chuyên chở đồ nặng mà tâm không mệt mỏi; Bồ-tát cũng vậy, khéo điều phục tâm, làm lợi ích lớn mà tâm không mệt mỏi.
Thiện nam! Ví như hoa sen sinh ở trong nước mà không bị nước làm nhiễm ô; Bồ-tát cũng vậy, sinh ở thế gian nhưng không bị các pháp thế gian làm ô nhiễm.
Thiện nam! Như người đốn cây, cây sinh trở lại; Bồ-tát cũng vậy, vì phương tiện lực, tuy đoạn kết sử nhưng còn ưa thích thiện căn nên sinh trở lại nơi ba cõi.
Thiện nam! Ví như các dòng nước ở khắp nơi chảy vào biển cả đều thành một vị; Bồ-tát cũng vậy; dùng đủ loại pháp môn, tu tập các căn lành, hồi hướng vì đạo quả Bồ-đề vô thượng đều thành một vị.
Thiện nam! Ví như Tu-di sơn vương là nơi y chỉ của chư Thiên trời Đao-lợi và Tứ Thiên vương; tâm đại Bồ-đề của Bồ-tát cũng lại như vậy, lấy Nhất thiết trí làm chỗ nương tựa.
Thiện nam! Như đại quốc vương dùng sức mạnh nơi quần thần để khéo làm việc nước; trí tuệ của Bồ-tát cũng lại như vậy, dùng lực của phương tiện khéo hành tất cả Phật sự.
Thiện nam! Ví như trời trong xanh, quang đãng, không có mây, chắc chắn không có tướng mưa. Người ít pháp nghe Bồ-tát nên không có chỗ hiểu biết, không nhắm thuần pháp vũ, cũng lại như vậy.
Thiện nam! Ví như trời có mây, chắc chắn có mưa, chúng sinh sung túc, mầm cây sinh trưởng; từ mây đại Bi, Bồ-tát phát khởi mưa pháp lớn tạo lợi ích cho chúng sinh cũng lại như vậy.
Thiện nam! Như Chuyển luân thánh vương, đến ở nơi nào cũng đủ bảy báo; Bồ-tát cũng vậy, đến ở nơi nào cũng hiện bày đầy đủ ba mươi bảy phẩm pháp nơi thế gian.
Thiện nam! Như chỗ có ngọc báu ma-ni thì có vô lượng vàng, bạc, châu báu...; Bồ-tát cũng vậy, đến ở nơi nào thì nơi đó có vô lượng trăm ngàn thứ báu là Thanh văn, Bích-chi-phật.
Thiện nam! Như chư Thiên cõi trời Đao-lợi vào vườn Tạp tạng, tùy ý sử dụng tự tại; Bồ-tát cũng vậy, nhờ tâm chân tịnh nên đối với các chúng sinh giáo hóa một cách bình đẳng.
Thiện nam! Ví như Phật nơi chú thuật, thuốc độc chẳng thể hại, Bồ-tát có kết sử cũng lại như vậy, nhờ lực của trí tuệ nên không bị đọa nơi cõi ác.
Thiện nam! Như nơi thải bỏ các thứ phân uế trong thành lớn, nếu trồng mía, nho,... vào trong ruộng ấy thì có lợi ích; Bồ-tát có kết sử cũng như vậy, chỗ tập khí còn lại vì Nhất thiết trí mà tạo nhân duyên.
Thiện nam! Ví như có người chưa từng học pháp binh khí thì không thể dụng võ; Bồ-tát cũng vậy, chẳng học tập tất cả các pháp thì không thể tính toán, chọn lọc, phân biệt, thọ trì, tu hành.
Thiện nam! Ví như thợ gốm đối với những đồ gốm chưa được nung thì không cho vào lửa lớn; Bồ-tát cũng vậy, đối với các chúng sinh có trí tuệ kém cõi, không thể lắng nghe pháp lớn của chư Phật thì không giảng nói cho họ. Giả sử người đó nghe được ắt sinh cuồng loạn.
Thiện nam! Đại Bồ-tát muốn học kinh Bảo Vân vi diệu thì thường phải tu tập pháp chánh quán đích thực.
Thế nào là chánh quán? Tư duy chân thật là pháp chánh quán. Không quán ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng, gọi là chánh quán chân thật, trung đạo.
Thiện nam! Quán chân thật nghĩa là quán sắc chẳng phải thường, cũng chẳng phải vô thường. Quán thọ, tưởng, hành, thức chẳng phải thường, cũng chẳng phải vô thường. Đó gọi là pháp quán chân thật, trung đạo. Vì sao? Vì thường là một bên, vô thường là một bên, chính giữa của hai bên thường với vô thường, không sắc, không hình, không mạng, không nhận biết. Đó gọi là pháp quán chân thật, trung đạo.
Ngã là một bên, vô ngã là một bên, chính giữa của hai bên ngã với vô ngã, không sắc, không hình, không mạng, không nhận biết. Đó gọi là pháp quán chân thật, trung đạo.
Thiện nam! Hoặc tâm có thật một bên, hoặc tâm chẳng phải thật là một bên. Hoặc không có tâm thức, không có tâm số, các pháp đại địa. Đó gọi là pháp quán chân thật trung đạo.
Như vậy, pháp thiện, pháp bất thiện; các pháp thế gian, pháp xuất thế gian; pháp có tội, pháp vô tội; hữu lậu, vô lậu; hữu vi, vô vi; cho đến có cấu, không cấu cũng lại như vậy; lìa hai bên, chẳng chấp giữ, cũng chẳng thể nêu bày. Đó gọi là pháp quán chân thật trung đạo.
Thiện nam! Có là một bên, không là một bên, chính giữa có không, không sắc, không hình, không nhận biết. Đó gọi là pháp quán chân thật trung đạo.
Thiện nam! Ta đã nói mười hai nhân duyên: vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên già, chết, ưu bi, khổ não. Nhân duyên như vậy là chiêu tập thành khối khổ lớn.
Nếu vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì lục nhập diệt, lục nhập diệt thị xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì già, chết, ưu bi, các khổ não lớn như vậy diệt.
Minh cùng vô minh không hai, không khác. Nếu biết như vậy gọi là pháp quán chân thật trung đạo. Như vậy, hành và phi hành, thức cùng đối tượng của thức, sinh sắc có thể thấy cùng không thể thấy, các lục nhập cùng phi lục nhập, xúc và đối tượng của xúc, thọ và thọ diệt, ái cùng ái diệt, thủ cùng thủ diệt, hữu cùng hữu diệt, sinh cùng sinh diệt, già chết và già chết diệt đều là không hai, không khác. Nếu biết như vậy gọi là pháp quán chân thật trung đạo.
Lại nữa, thiện nam! Xét quán chân thật, chẳng do quán “không” mà khiến các pháp “không.” Vì pháp vốn tánh tự là “không”, chẳng do quán vô tướng mà khiến pháp vô tướng. Vì thể tánh của pháp vốn tự là vô tướng; chẳng do quán vô nguyện mà khiến pháp vô nguyện. Chỉ vì tánh của pháp vốn tự là vô nguyện, chẳng do quán vô khởi, vô sinh, vô ngã, vô thủ, vô tánh. Chỉ vì xưa nay các pháp vốn là vô khởi, vô thủ, vô tánh. Nếu quán như vậy gọi là quán chân thật.
Lại nữa, thiện nam! Chẳng do vô nhân (người) gọi là “không”. Vì “không” tự nó vốn là “không”; khoảng trước, khoảng sau, khoảng giữa cũng “không.” Vì pháp vốn tự “không”, chẳng do sắc diệt thành “không.” Nên nương vào “không”, chớ nương vào người. Nếu do đạt được “không” mà nương vào “không” thì Phật gọi người này là thoái đọa.
Thiện nam! Thà khởi “ngã kiến” tích tụ như núi Tu-di, chớ nên chấp nơi “không kiến” rồi khởi tà mạn. Vì sao? Vì tất cả kiến chấp còn có “không” để đối trị, còn nếu khởi “không kiến” thì chẳng thể trị.
Thiện nam! Như lương y cho thuốc để trị bệnh mà giấu kín thuốc này, không đưa ra ngoài. Ý ông nghĩ sao? Như vậy người bệnh chắc được lành chăng?
Bồ-tát Bảo Tích đáp:
–Không, bạch Thế Tôn! Thuốc này không đưa ra ngoài thì bệnh ấy càng nặng.
Phật bảo:
–Thiện nam! Các kiến chấp như vậy chỉ “không” mới diệt được. Nếu khởi “không kiến” thì chẳng thể trị.
Ví như có người kinh sợ hư không đến nỗi kêu gào đấm ngực, nói như vầy: “Bỏ hư không ấy đi.” Ý ông nghĩ sao? Hư không như vậy có thể trừ bỏ chăng?
Bồ-tát Bảo Tích đáp:
–Không, bạch Thế Tôn!
Phật bảo:
–Thiện nam! Nếu sợ pháp “không” như vậy, thì ta nói người này là cuồng loạn, mất tâm. Vì sao? Vì thường đi trong “không” mà sợ “không.” Ví như thợ vẽ, tự tay vẽ tượng quỷ Dạ-xoa, khi thấy liền kinh sợ, bất tĩnh ngã xuống đất. Tất cả phàm phu cũng lại như vậy, tự tạo sắc, thanh, hương, vị, xúc nên qua lại sinh tử, thọ các khổ não không tự nhận biết.
Thiện nam! Ví như huyễn sư giả tạo mãnh hổ. Hổ hư huyễn thành, rồi trở lại ăn thịt huyễn sư. Samôn hành đạo cũng lại như vậy, pháp của đối tượng được quán đều “không”, đều vắng lặng, không có người thấy. Sự quán như vậy cũng “không.”
Thiện nam! Ví như hai cây, không có tướng lửa, dùng hai cây cọ nhau, từ trong phát sinh ra lửa, nhân đó thiêu cây ấy.
Thiện nam! Quán chân thật như vậy sẽ sinh trí tuệ của bậc Thánh. Thánh trí sinh rồi, nhân đó diệt bỏ thật quán.
Thiện nam! Ví như đốt đèn, tất cả ám tối đều tự không còn. Không từ đâu đến, cũng không đi về đâu; chẳng phải đến từ phương Đông, cũng chẳng đến từ phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng, thượng hạ, mà đèn sáng này cũng không nghĩ rằng: “Ta có thể diệt tối.” Nhưng vì pháp đèn sáng thì tự không có bóng tối. Sáng, tối đều “không”, không tạo tác, không giữ lấy.
Thiện nam! Trí tuệ chân thật như vậy sinh thì vô trí tự diệt. Trí cùng vô trí, hai tướng đều “không”, không tạo tác, không giữ lấy.
Thiện nam! Ví như nhà tối, ngàn năm chưa từng có ánh sáng, giả sử có người ở trong ấy đốt đèn, ý ông nghĩ sao? Chắc bóng tối nghĩ rằng: “Ta ở đây lâu nên không đi đâu.” Bồ-tát Bảo Tích đáp:
–Không, bạch Thế Tôn! Vì khi đốt đèn, bóng tối vô lực ắt phải diệt đi.
Phật bảo:
–Thiện nam! Như vậy, đối với nghiệp kết tích tập hàng trăm ngàn vạn kiếp lâu nay, dùng trí nhất quán liền có thể diệt trừ. Đèn ánh sáng ấy là dụ cho Thánh tuệ căn này. Ám tối ấy chỉ cho các nghiệp kết tụ.
Thiện nam! Ví như người gieo giống giữa hư không mà có thể tăng trưởng thì điều này không thể có. Bồ-tát thủ chứng cũng lại như vậy, làm tăng trưởng pháp Phật thì điều này không thể xảy ra.
Thiện nam! Ví như gieo giống ở nơi ruộng tốt thì có thể sinh trưởng, điều ấy có thể xảy ra. Bồ-tát cũng vậy, có thể tăng trưởng Phật pháp nơi thế gian uế tạp có các kết sử.
Thiện nam! Ví như những nơi lục địa, cao nguyên, không thể sinh hoa sen; Bồ-tát cũng vậy, ở trong vô vi không thể sinh Phật pháp.
Thiện nam! Ví như nơi nước đọng bùn nhơ mới sinh hoa sen; Bồ-tát cũng vậy; sinh trưởng pháp Phật nơi bùn nhơ sinh tử, nơi chúng sinh tà định.
Thiện nam! Ví như nước nơi bốn biển, là nơi đầy ắp muôn loài sinh sống, Bồ-tát có vô lượng các thiện căn hữu vi cũng lại như vậy.
Thiện nam! Ví như tách một sợi lông làm thành trăm phần, lấy một phần, nhúng vào một giọt nước biển, tất cả hàng Thanh văn có thiện căn hữu vi cũng lại như vậy.
Thiện nam! Ví như lỗ trống nơi con trùng, hạt cải, Thanh văn có trí tuệ hữu vi cũng lại như vậy.
Thiện nam! Ví như mười phương hư không là vô lượng, vô biên, Bồ-tát có trí tuệ hữu vi cũng lại như vậy.
Thiện nam! Ví như Chuyển luân thánh vương có đại phu nhân mang thai bảy ngày, đứa nhỏ ấy có đủ tướng Chuyển luân vương, được chư Thiên tôn trọng hơn những đứa con của người khác, dù thân lực đầy đủ. Vì sao? Vì thai vương tử này chắc chắn tiếp nối ngôi vị dòng Thánh vương tôn quý.
Thiện nam! Bồ-tát sơ tâm cũng lại như vậy, tuy chưa đầy đủ các tướng Bồ-tát, nhưng chư Thiên, các thần đều hết lòng tôn trọng như thai vương tử. Vì sao? Vì Bồ-tát như vậy là chắc chắn nối tiếp ngôi vị tôn quý, không đoạn hạt giống Phật.
Thiện nam! Ví như một hạt ngọc lưu ly tối thắng hơn thủy tinh; Bồ-tát cũng vậy, từ sơ phát tâm liền tối thắng hơn tất cả các loại chúng sinh.
Thiện nam! Ví như ngày phu nhân của đại vương sinh con, tiểu vương, quần thần đều đến bái kiến; Bồ-tát cũng vậy, lúc mới phát tâm, chư Thiên, người đời đều kính cẩn lễ bái.
Thiện nam! Ví như trên Tuyết sơn vương, các cây có thuốc hiện bày, không có chỗ nào chen chúc, không có chỗ phân biệt; tùy theo mỗi bệnh đều có thể trừ khỏi. Bồ-tát cũng vậy, tích tập trí được không có chỗ phân biệt, rộng vì chúng sinh mà cứu hộ bình đẳng.
Thiện nam! Như trăng mới mọc, chúng sinh ái kính còn hơn cả trăng tròn. Thiện nam! Chúng sinh như vậy tin điều Như Lai nói, ái kính Bồ-tát còn hơn Như Lai. Vì sao? Vì các Bồ-tát sinh ra Như Lai.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Bảo Tích:
–Này thiện nam! Đại Bồ-tát thường vì tạo lợi ích cho tất cả chúng sinh mà tu tập phạm hạnh công đức thanh tịnh, thiện căn vô thượng; dùng tâm bình đẳng thí cho chúng sinh được trí dược cùng khắp mười phương, trị liệu tất cả bệnh khổ, phiền não, khiến cho rốt ráo không còn tái khởi.
Thế nào gọi là trí dược của Bồ-tát? Đó là:
Quán Bất tịnh trị bệnh tham dục.
Dùng tâm Từ trị bệnh sân hận.
Dùng quán Nhân duyên trị bệnh ngu si.
Dùng quán Không trị các vọng kiến.
Dùng quán Vô tướng trị các ức tưởng phân biệt cảnh giới.
Dùng quán Vô nguyện trị tất cả nguyện sinh nơi tam giới.
Dùng bốn Phi điên đảo trị bốn điên đảo.
Dùng quán Vô thường trị bệnh chấp thường, điên đảo trong vô thường.
Dùng quán Khổ trị bệnh chấp vui điên đảo trong các khổ.
Dùng pháp Vô ngã trị bệnh chấp ngã điên đảo trong vô ngã.
Dùng Niết-bàn tịch diệt trị bệnh chấp tịnh điên đảo trong bất tịnh.
Dùng quán bốn Niệm xứ: Thân, thọ, tâm, pháp, để đối trị bốn loại điên đảo: Thuận quán tướng thân, không rơi vào ngã kiến. Thuận quán tướng thọ, không rơi vào ngã kiến. Thuận quán tướng tâm, không rơi vào ngã kiến Thuận quán tướng pháp, không rơi vào ngã kiến. Bốn Niệm xứ này có khả năng trị tất cả bệnh về thân, thọ, tâm, pháp, mở cửa Niết-bàn.
Dùng bốn Chánh cần có thể đoạn trừ các pháp bất thiện đã sinh. Các pháp bất thiện chưa sinh thì không cho sinh. Pháp thiện chưa sinh, làm cho sinh. Pháp thiện đã sinh, làm cho tăng trưởng. Nói tóm lại, những điều này có khả năng đoạn trừ tất cả các pháp bất thiện, thành tựu tất cả pháp thiện.
Dùng bốn Như ý túc sửa trị tướng thân tâm hiệp nhất, khiến được thần thông tự đại như ý.
Dùng năm Căn sửa trị vô tín, biếng nhác, thất niệm, loạn tâm, vô tuệ của tất cả chúng sinh.
Dùng năm Lực diệt sạch các phiền não.
Dùng bảy Giác phần sửa trị nghi, hối, sai lầm trong các pháp.
Dùng tám Chánh đạo sửa trị các tà đạo của tất cả luận sư.
Thiện nam! Đó là trí tuệ diệu dược rốt ráo, Bồtát thường phải tu tập, ân cần thực hành.
Thiện nam! Trong cõi Diêm-phù-đề, Y vương Kỳ-bà là tối thắng đệ nhất, Bồ-tát có khả năng làm cho tất cả chúng sinh trong tam thiên đại thiên thế giới đều như Kỳ-bà. Nhưng nếu có người hỏi về bệnh, mà còn nghi, hối, tà kiến, phiền não, kết sử trong tâm thì thuốc còn chẳng thể đáp ứng, huống nữa là có thể trị.
Do vậy, Bồ-tát trong lòng phải nên suy nghĩ: “Ta không nên dùng thuốc thế gian cho là đủ. Ta phải tu tập trí dược xuất thế, cũng tu tất cả phước đức thiện căn. Như vậy, Bồ-tát đã được trí dược biến khắp mười phương, trị các bệnh phiền não cho tất cả chúng sinh một cách rốt ráo.
Sao gọi là trí dược xuất thế gian của Bồ-tát? Là tin, biết các pháp từ duyên hợp sinh ra, tin tất cả pháp là vô ngã, vô nhân, vô chúng sinh, vô thọ mạng, vô trí kiến, không tác giả, cũng không kẻ thọ nhận, tin hiểu thông đạt không ngã và ngã sở. Đối với pháp không này, không có chỗ sở đắc, không kinh, không sợ, chuyên cần tinh tấn mà tìm tướng của tâm.
Đại Bồ-tát tìm tâm như vậy, tâm này là gì? Hoặc tâm tham dục chăng? Hoặc tâm sân hận chăng? Hoặc tâm ngu si chăng? Hoặc tâm quá khứ, vị lai, hiện tại chăng?
Nếu tâm quá khứ thì quá khứ đã diệt.
Nếu tâm vị lai thì vị lai chưa đến.
Nếu tâm hiện tại thì hiện tại không dừng.
Tâm này chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, cũng chẳng phải ở giữa.
Tâm này không màu sắc, không phân biệt, không hình tướng, không kiến, không tri, không có trụ xứ.
Tâm như vậy, mười phương ba đời tất cả chư Phật chẳng phải đã thấy, chẳng phải đang thấy, chẳng phải sẽ thấy. Nếu tất cả chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại đều không thấy thì tại sao nó đang hiện hữu? Chỉ vì nhân duyên vọng tưởng điên đảo nên sinh tâm các pháp mỗi mỗi sai khác.
Thiện nam! Tâm ấy như huyễn, nghĩ tưởng phân biệt, tạo các loại nghiệp, thọ các loại thân.
Thiện nam! Tâm đi như gió nơi phi cảnh giới, đi xa khó bắt.
Tâm như nước chảy, sinh diệt không dừng.
Tâm như đèn sáng, duyên hợp không có.
Tâm này như ánh chớp, sát-na không dừng.
Tâm như hư không, bị nơi phiền não khách trần ngăn che.
Tâm như khỉ vượn, luôn chuyền từ cành này sang cành khác khắp các cảnh giới.
Tâm như thợ vẽ, khéo tạo các loại nhân duyên nghiệp.
Tâm không tạm dừng, đeo đuổi các loại phiền não.
Tâm chỉ có một, không có hai.
Tâm như đại vương, làm chủ, tăng thượng tất cả các pháp.
Tâm thường độc hành, không bạn lữ.
Tâm như oan gia, hay tạo các khổ não.
Tâm như voi điên dẫm đạp trẻ con và các nhà đất.
Tâm hay hủy hoại tất cả các thiện căn.
Tâm này tham vướng như cá mắt câu, ở trong thọ khổ mà sinh tưởng vui.
Tâm này như mộng, ở trong vô ngã mà sinh tưởng ngã.
Tâm như ruồi xanh, ở trong bất tịnh mà khởi tưởng tịnh.
Tâm như kẻ nợ chủ, luôn sinh khổ sở.
Tâm như quỷ ác tìm chỗ sơ suất của người.
Tâm thường cao thấp, tham sân, bức não...
Tâm như trộm cướp đoạt mất thiện căn.
Tâm thường tham sắc, như con thiêu thân gieo mình vào lửa.
Tâm thường tham tiếng, như âm vang của trống trận.
Tâm thường tham hương, như heo ưa chỗ nhơ nhớp.
Tâm thường tham vị, như lạc đà thích mật.
Tâm thường tham xúc, như ruồi thích dầu.
Thiện nam! Bồ-tát cầu hướng tâm như vậy, nhưng chẳng thể đạt được.
Nếu chẳng thể đắc thì phi quá khứ, hiện tại, vị lai.
Nếu phi quá khứ, hiện tại, vị lai thì ra khỏi ba đời.
Nếu ra khỏi ba đời thì phi hữu, vô.
Nếu phi hữu vô thì không khởi. Không khởi tức là không tánh.
Nếu không tánh thì không sinh.
Nếu không sinh thì không diệt.
Nếu không diệt thì không lìa.
Nếu không lìa thì không đến, không đi, không lui, không sinh.
Nếu không đến, không đi, không lui, không sinh thì không có các hành.
Nếu không có các hành thì tức là vô vi.
Nếu được vô vi thì tức là làm tất cả các việc căn bản của chư Thánh. Trong ấy không có trì giới, phá giới.
Nếu không có sự trì giới và phá giới thì không làm, cũng không có gì là không làm.
Nếu không làm và không có gì là không làm thì không có tâm và tâm số pháp.
Nếu không có tâm và tâm số pháp thì không có nghiệp, cũng không có nghiệp báo.
Nếu không có nghiệp và báo thì không có khổ, vui.
Nếu không có khổ vui thì là tánh Thánh. Trong ấy không có nghiệp, cũng không khởi nghiệp; không có thân nghiệp, cũng không có ý nghiệp. Trong ấy, không có trên, dưới, sai khác. Tánh Thánh bình đẳng giống như hư không. Tánh này bình đẳng, không có hơn, kém. Tất cả các pháp đồng một vị. Tánh này bình đẳng, lìa xa tất cả tướng thân tâm. Tánh này lìa xa tất cả các pháp, thuận theo Niết-bàn. Tánh này thanh tịnh, lìa xa tất cả phiền não cấu uế. Tánh này không có ngã, ngã sở. Tánh này chân thật, thuận theo Như như. Tánh này tịch tĩnh, thường an lạc. Tánh này không có cao thấp, xuất ra từ bình đẳng. Tánh nay chân thật là Đệ nhất nghĩa. Tánh này vô tận, rốt ráo không sinh. Tánh này thường trụ, các pháp thường như vậy. Tánh này an lạc, là Niết-bàn đệ nhất. Tánh này thanh tịnh, lìa tất cả tướng. Tánh này vô ngã, cầu chẳng thể được.
Thiện nam! Các ông nên khéo quán sát bên trong, chớ chạy theo bên ngoài.
Thiện nam! Trong vị lai, Sa-môn như chó theo vật. Sao gọi là như chó theo vật? Ví như có một người dùng một vật ném trước mặt chó, nó liền bỏ người mà đuổi theo vật.
Như vậy, thiện nam! Có các Sa-môn, Thanh tín sĩ, Thanh tín nữ kinh sợ sắc, thanh, hương, vị, xúc, tuy trụ nơi A-lan-nhã thanh vắng, một mình không bè bạn, lìa mọi sự ồn náo, thân lìa năm dục nhưng tâm không xả bỏ. Người này vẫn nhớ về sắc, thanh, hương, vị xúc... tâm tham vướng nơi vui, không quán sát bên trong, không biết làm sao để lìa năm trần. Do không biết nên có lúc đi vào làng xóm, thành ấp, ở giữa mọi người bị năm dục trói buộc. Hoặc ở chỗ thanh vắng, trì giới hữu lậu, chết được sinh Thiên. Lại bị năm dục nơi cõi trời trói buộc, từ trên trời mạng chung, chẳng thoát khỏi ba đường ác: Địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Đó gọi là Sa-môn như chó theo vật.
Thiện nam! Thế nào là Sa-môn không như chó kia theo vật? Nếu có Sa-môn bị người mắng chửi mà không báo thù, chỉ tự trách lòng, tìm cách hàng phục tâm, nghĩ quán như vầy: “Người mắng là ai? Người thọ là ai? Người đánh là ai? Người hại là ai? Người hủy báng là ai? Người sân là ai?” Đó là Samôn không như chó si kia theo vật.
Thiện nam! Như người điều phục ngựa, nếu ngựa cứng đầu liền bị chế phục. Hành giả cũng vậy, tùy chỗ tâm hướng đến mà khéo thu nhiếp, không để phóng dật.
Thiện nam! Ví như người yết hầu bế tắt, liền có thể bị chết; cũng vậy, thiện nam! Tất cả các kiến chỉ có ngã kiến mới hay đoạn dứt mạng căn trí tuệ. Thiện nam! Ví như có người tùy theo chỗ trói buộc mà cầu giải thoát; cũng vậy thiện nam, tùy theo chỗ tâm đắc nhiễm mà cầu giải thoát.
Thiện nam! Người xuất gia có hai loại tâm ô nhiễm bất tịnh. Những gì là hai?
1. Đọc tụng các chú thuật ngoại điển, văn chương thế gian.
2. Chứa nhiều các loại phục sức, y bát tốt.
Lại người xuất gia bị trói chặt do hai loại.
Những gì là hai?
1. Bị trói buộc do chấp trước.
2. Bị trói buộc vì sự cúng dường.
Lại người xuất gia có hai loại chướng pháp.
Những gì là hai?
1. Thân cận với hàng bạch y.
2. Oán ghét bạn lành.
Lại người xuất gia có hai loại cấu uế. Những gì là hai?
1. Nhận chịu phiền não.
2. Mong cầu nơi các đàn-việt.
Lại người xuất gia có hai loại mưa gây hại.
Những gì là hai?
1. Hủy hoại thiện căn, trái nghịch chánh pháp.
2. Thân phá giới mà thọ nhân tín thí.
Lại người xuất gia có hai loại ung nhọt. Những gì là hai?
1. Ưa bày lỗi tội.
2. Tự che tội mình.
Lại người xuất gia bị hai loại thiêu đốt. Những gì là hai?
1. Dùng tâm cấu uế, ái chấp nơi pháp phục.
2. Giả làm người trì giới để nhận sự cúng dường.
Lại người xuất gia có hai loại bệnh. Những gì là hai?
1. Ôm giữ tâm thượng mạn mà điều phục tâm.
2. Phá hoại người khác phát tâm Đại thừa.
Thiện nam! Phàm là Sa-môn có bốn loại.
Những gì là bốn?
1. Sa-môn trá hiện hình tướng.
2. Sa-môn oai nghi giả dối.
3. Sa-môn cầu danh.
4. Sa-môn hành hạnh chân thật.
Sao gọi là Sa-môn trá hiện hình tướng? Đó là Sa-môn hình tướng đầy đủ pháp phục Tăng-già-lê, cạo bỏ râu tóc, mang bát, thành tựu tướng Sa-môn, nhưng nghiệp thân bất tịnh, không khéo hộ thân, xan tham, bê trễ, lòng ác phá giới... Đó gọi là Samôn trá hiện hình tướng.
Sao gọi là Sa-môn oai nghi giả dối? Đó là Samôn bốn oai nghi về thân đầy đủ: Đi, đứng, ngồi, nằm nhất tâm an tường, đoạn các mỹ vị, tu bốn Thánh chủng, lìa xa các chỗ ồn ào, nói năng mềm mỏng. Đức hạnh như vậy chỉ muốn dối trá, chẳng vì tịch tĩnh, đối với “pháp không” thấy có sở đắc, nơi không sở đắc mà sinh lo sợ như tưởng bị Sahầm. Đối với người thuyết pháp, sinh phẫn nộ như tưởng oán tặc. Đó gọi là Sa-môn oai nghi giả dối.
Sao gọi là Sa-môn cầu danh? Đó là Sa-môn ngụy tạo tướng mạo, ra vẻ trì giới, muốn để người khác nghe biết ta là đa văn. Một mình ở nơi thanh vắng, không có một chút ồn ào, muốn để người biết ta trụ nơi A-lan-nhã. Thiểu dục, tri túc, tú pháp xa lìa muốn để người biết ta tu hạnh chán bỏ. Tu hạnh như vậy chẳng vì tịch tĩnh, chẳng vì đắc đạo, chẳng vì Sa-môn, chẳng vì quả Niết-bàn tối thắng vi diệu.
Ấy gọi là Sa-môn cầu danh.
Thiện nam! Sao gọi là Sa-môn hành hạnh chân thật?
Đó là Sa-môn đối với mạng sống tự thân còn chẳng sinh tham, huống nữa là danh tiếng, lợi dưỡng... Nghe pháp Không, Vô tướng, Vô nguyện, lòng rất là vui mừng, thuận đạt chân như, hành theo lời nói, chẳng vì Niết-bàn mà tu phạm hạnh, lẽ nào ưa thích ba cõi là nơi chốn không an lạc.
Đối với pháp “Không” còn chẳng thấp, huống nữa là ngã kiến, chúng sinh, nhân kiến. Y chỉ nơi pháp mà cầu giải thoát, cầu giải thoát là không giong ruổi theo bên ngoài. Thấy tất cả pháp xưa nay vô cấu, rốt ráo thanh tịnh, chỉ nương tự thân, không nương người khác. Đối với Pháp thân Phật còn chẳng chấp trước, huống nữa là sắc thân.
Dùng “pháp không” xa lìa mà không thấy pháp, huống nữa là tham chấp nơi âm thanh, lời nói? Dùng pháp vô vi còn không thấy tăng, huống nữa là thấy có chúng hòa hợp. Ở trong các pháp không có chỗ đoạn trừ, không có chỗ tu hành, không sinh sự sinh tử, cũng không thủ đắc Niết-bàn, biết tất cả pháp xưa nay vốn tịch diệt, không thấy có chứng đắc, cũng không cầu giải thoát. Đó là Sa-môn hành hạnh chân thật.
Như vậy, thiện nam! Các ông nên học hạnh chân thật của Sa-môn, chớ chấp vào danh tự “không”, không có lợi ích.
Thiện nam! Ví như người bần cùng, hạ tiện cưỡng xưng là phú quý, ý ông nghĩ sao? Người bần tiện này xứng danh ấy chăng?
Bồ-tát đáp:
–Không, thưa Đức Thế Tôn!
Phật bảo:
–Cũng vậy, này Bảo Tích! Tuy là Sa-môn mà không có đức hạnh chân thật của Sa-môn thì khác nào người nghe mang danh tự hư giả.
Thiện nam! Ví như có người trôi nổi giữa biển, khát nước mà chết. Cũng vậy, này Bảo Tích! Có các Sa-môn tuy đọc tụng nhiều các loại kinh điển mà chẳng dứt cơn khát tham, sân, si; ở trong nước giáo pháp mà chết khát phiền não do đọa vào các nẻo ác.
Thiện nam! Ví như Y vương chứa nhiều các loại thuốc, tự thân mang bệnh mà chẳng thể trị. Người đa văn có bệnh phiền não cũng lại như vậy, tuy có đa văn nhưng chẳng dứt phiền não, làm sao có thể tự lợi?
Thiện nam! Ví như có người uống thuốc quý của vua, nhưng chẳng tiết chế nên bị thuốc não hại. Người đa văn có bệnh phiền não cũng lại như vậy, được pháp dược tốt mà chẳng thể tu hành, tự hại tuệ mạng.
Thiện nam! Ví như ngọc báu ma-ni rớt trong chỗ bất tịnh, chưa dùng liền được; cũng vậy, người đa văn tham đắm nơi lợi dưỡng thì chưa có thể làm lợi ích tất cả hàng trời, người.
Thiện nam! Ví như người chết tham đắm nơi vàng, bạc, anh lạc... người đa văn phá giới, mặc pháp phục, thọ sự cúng dường của người, cũng lại như vậy.
Thiện nam! Ví như con của trưởng giả, hoặc nam hoặc nữ, tự tắm rửa sạch, cắt bỏ móng tay, móng chân, xông ướp nước hương, mặc y phục báu mới sạch, tô điểm trang nghiêm thân đầu bằng tràng hoa. Cũng vậy, này Bảo Tích! Người đã văn thọ trì giới tịnh, mặc pháp phục, nhận sự cúng dường của người, cũng lại như vậy.
Thiện nam! Có bốn hạng người phá giới, tựa như khéo trì giới luật. Những gì là bốn? Đó là:
Hạng người giả như trì giới đầy đủ, trong tâm thường kinh sợ tội lớn, nhỏ; nghe giới pháp đều khéo thực hành, thân khẩu ý nghiệp đều minh bạch, chánh mạng thanh khiết. Người trì giới như vậy luận bàn giảng nói ngã. Đây là hạng phá giới thứ nhất, tựa như khéo trì giới luật.
Thiện nam! Lại có hạng người trì tụng giới luật, làm theo lời nói, nhưng không diệt trừ thân kiến. Đây là hạng phá giới thứ hai, tựa như khéo trì giới luật.
Thiện nam! Lại có hạng người trì giới đầy đủ, chấp dưỡng nơi tướng chúng sinh mà hành tâm Từ, nghe tất cả pháp xưa nay không sinh mà tâm rất kinh sợ. Đây là hạng phá giới thứ ba, tựa như khéo trì giới luật.
Thiện nam! Lại có hạng người tu mười hai hạnh Đầu-đà đầy đủ mà thấy có tướng của tội. Đây là hạng phá giới thứ tư, tựa như khéo trì giới luật.
Thiện nam! Trì giới là vô ngã, vô ngã sở, không tạo tác, phi không tác, phi không tác; không có pháp làm, cũng không có mười làm, vô hành, vô phi hành; vô thành, vô bất thành; vô thủ, vô xả, không thể lấy, không thể bỏ; không có chúng sinh; cũng không có tên chúng sinh; không có tâm, cũng không có tên tâm; không có thế gian, không gì là không thế gian; không y chỉ, không gì là không y chỉ; không vì trì giới mà tự cao ngạo, cũng không khinh chê người phá giới, cũng không nhớ tưởng phân biệt giới này.
Này Bồ-tát Bảo Tích, đây gọi là Thánh giới, giới vượt sinh tử, giới không chỗ nương, không chấp trước nơi ba cõi.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lập lại ý nghĩa này, nên nói kệ:
Người trì giới thanh tịnh
Không cấu, không sở hữu
Trì giới không kiêu mạn
Cũng không nương tựa đâu.
Trì giới không ngu si
Cũng không bị ràng buộc
Trì giới, không trần uế
Cũng không có sai trái.
Trì giới, tâm hiền thiện
Thường vắng lặng rốt ráo
Lìa xa tất cả sự
Nhớ tưởng các phân biệt.
Giải thoát các loạn niệm
Là tịnh trì giới Phật
Không tham tiếc thân mạng
Không dựng tạo các Hữu.
Tu tập các chánh hạnh
An trụ nơi chánh đạo
Đó gọi là Phật pháp
Trì giới tịnh chắc thật.
Trì giới không nhiễm đời
Cũng không nương pháp đời
Sớm được trí tuệ sáng
Không si ám, sở hữu.
Không ngã, không tưởng kia
Đã biết, thấy các tướng
Đó gọi là Phật pháp
Chân thật tịnh trì giới.
Không có bờ đây, kia
Cũng không có khoảng giữa
Ở trong không bỉ, thử
Cũng không có chấp trước.
Không trói, không các lậu
Cũng không có khi dối
Đó gọi là Phật pháp
Chân thật tịnh trì giới.
Tâm không đắm danh sắc
Không sinh ngã, ngã sở
Đó gọi là an trụ
Chân thật tịnh trì giới.
Tuy trì các giới hạnh
Nhưng tâm không tự cao
Cũng không cho là trên
Vượt giới cầu trí tuệ.
Đó gọi là chân thật
Trì giới tướng thanh tịnh
Không cho giới là trên
Cũng không quy Tam-muội.
Vượt hai việc này rồi
Tu tập nơi trí tuệ
Vắng lặng không sở hữu
Là các tánh Thánh hiền.
Người giới tịnh như vậy
Được chư Phật khen ngợi
Tâm thoát khỏi thân kiến
Trừ diệt ngã, ngã sở.
Tin hiểu nơi chư Phật
Thực hành pháp không tịch
Trì Thánh giới như vậy
Thì không ai sánh bằng.
Nương giới được Tam-muội
Tam-muội năng tu tuệ
Nhờ nương vào tu tuệ
Sớm được trí thanh tịnh.
Người đã được trí tịnh
Là đủ giới thanh tịnh.
Khi Đức Phật giảng nói pháp này, có năm trăm Sa-môn không còn thọ nhận nơi các pháp, tâm được giải thoát. Ba vạn hai ngàn người lìa xa trần cấu, được pháp nhãn tịnh. Năm trăm Sa-môn được thiền định, nghe pháp sâu xa này tâm không tin hiểu, không thể thông đạt, tâm không hội nhập, nên từ tòa đứng dậy trở về núi rừng.
Khi ấy, Đại Ca-diếp đến trước Đức Phật, thưa:
–Bạch Thế Tôn! Vì sao năm trăm Sa-môn này được thiền định, lại không thể tin hiểu, vào sâu nơi pháp, nên đứng dậy bỏ đi?
Phật dạy Đại Ca-diếp:
–Các Sa-môn này vì tăng thượng mạn, nghe giới tướng vô lưu thanh tịnh này không thể tin hiểu, thông đạt, thấu rõ. Phật đã nói kệ, nghĩa ấy sâu xa, nhưng họ chẳng thể lãnh hội. Vì sao? Vì Bồ-đề của chư Phật là rất thâm diệu. Nếu không có phước đức, chưa trồng thiện căn, chạy theo bạn ác thì chẳng thể tin thọ pháp sâu xa này một cách rốt ráo.
Này Trưởng giả Đại Ca-diếp! Vào thời Phật
Ca-diếp trong quá khứ, năm trăm người này là đệ tử của ngoại đạo, đi đến chỗ Phật muốn tìm lỗi Phật, nhưng nghe Phật giảng nói pháp liền được ít tín tâm, tự nghĩ: “Phật này hiếm có, thích nói Pháp diệu.” Nhân duyên là do tâm thiện, phước đức này nên sau khi mạng chúng sinh lên cõi trời Đạo Lợi. Từ cõi ấy, họ bị đọa xuống cõi Diêm-phù-đề, ở nơi pháp ta mà được xuất gia. Các Sa-môn này nhiễm sâu các kiến chấp nên nghe pháp thâm diệu không thể tin hiểu, không thể tùy thuận, không thể thông đạt. Nhưng nhờ lực của nhân duyên là được nghe pháp sâu xa, nên có được lợi ích lớn, không vì đời này mà bị đọa vào cõi ác. Họ sẽ dùng thân mà được nhập Niết-bàn.
Đức Thế Tôn liền bảo Trưởng lão Tu-bồ-đề:
–Ông đến chỗ các Sa-môn kia giảng nói chỉ dẫn để họ được giải thoát.
Trưởng lão Tu-bồ-đề thưa:
–Bạch Thế Tôn! Những Sa-môn ấy ở chỗ Phật giảng nói hãy còn chẳng tin thọ, há có thể tin thọ lời con nói chăng?
Khi ấy, Như Lai liền hóa làm hai vị đi theo đường của năm trăm Sa-môn kia. Các Sa-môn thấy hai người ấy mới hỏi rằng:
–Hai ông đi đâu?
Đáp:
–Chúng tôi muốn đến chốn A-lan-nhã, sống nơi núi rừng thanh vắng, tu tập thiền định. Vì sao? Vì Phật nói pháp thù thắng nhưng tôi không thể tin hiểu.
Các Sa-môn nói:
–Thưa Trưởng lão! Chúng tôi nghe Phật nói pháp cũng không thể hiểu được, nên muốn vào núi tu thiền định.
Hóa Sa-môn đáp:
–Chúng ta nên lìa tâm trái nghịch, tự cao, phải nên tìm cầu lãnh hội nghĩa lý Phật nói. Vì sao? Vì không cao ngạo, không tranh chấp là pháp của Samôn.
Các Sa-môn ấy hỏi:
–Thưa Trưởng lão! Như Niết-bàn mà Phật nói là “không”, không sở hữu, vậy ai đạt được Niếtbàn? Ở trong thân này lại có ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả, tác giả, sĩ phu, Phật-già-la... đạt được Niếtbàn chăng?
Hóa Sa-môn lại hỏi:
–Pháp gì gọi là Niết-bàn?
Các Sa-môn đáp:
–Thưa Trưởng lão! Tham, sân, si diệt tận nên gọi là Niết-bàn.
Hóa Sa-môn nói:
–Này các Trưởng lão! Tham, sân, si có thể diệt tận, vậy nay chúng ở nơi nào?
Các Sa-môn nói:
–Tham, sân, si này chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở giữa. Nếu không nhớ tưởng, phân biệt hư vọng thì tham, sân, si này sẽ không sinh.
Hóa Sa-môn nói:
–Này các Trưởng lão! Nếu vậy thì không nên phân biệt. Này các Trưởng lão! Nếu không phân biệt thì không tham, sân, si... Há sinh được chăng? Tham, sân, si này nếu không sinh thì gọi là tịch tĩnh, không là sinh tử, không là Niết-bàn.
Này các Trưởng lão! Nhờ giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát tri kiến nên không sinh không diệt. Này các Trưởng lão! Pháp bình đẳng như vậy hiển bày rồi về Niết-bàn. Các pháp bình đẳng này tánh tướng là “không” tịch, chẳng lấy, chẳng bỏ.
Này các Trưởng lão! Nên diệt cái tướng tưởng Niết-bàn ấy. Nếu nơi vô tướng mà tác tưởng hiểu biết, hoặc nơi có tướng mà tác tưởng hiểu biết, nơi có không này mà khởi tưởng thì gọi là trói buộc.
Này các trưởng lão! Phải nên nhập vào định Diệt thọ tưởng. Nếu một khi nhập được định Diệt thọ tưởng thì việc làm đã xong, đã viên mãn, không còn việc gì nữa.
Khi hóa Sa-môn giảng nói lời ấy, năm trăm Samôn không còn thọ nhận các pháp, tâm được giải thoát. Được giải thoát rồi, họ đi đến chỗ Phật, đầu mặt tác lễ, lui ra ngồi một chỗ.
Lúc đó, Trưởng lão Tu-bồ-đề hỏi các Sa-môn:
Các ông đã đi đến đâu? Nay từ đâu lại?
Các Sa-môn đáp:
–Thưa Trưởng lão! Phật giảng nói pháp không từ đâu đến, cũng không đi về đâu.
Hỏi:
–Sa-môn các ông làm sao nghe pháp?
Các Sa-môn đáp:
–Chẳng bị trói buộc, chẳng được giải thoát.
Hỏi:
–Sa-môn các ông tập hành pháp gì?
Đáp:
–Chẳng do được nên không bị mất.
Hỏi:
–Ai điều phục các ông?
Đáp:
–Thân không bền chắc, tâm không chỗ chấp, là hai yếu tố điều phục tôi.
Hỏi:
–Các ông làm sao được giải thoát?
Đáp:
–Không đọa vô minh, cũng không sinh minh.
Hỏi:
–Các ông là đệ tử của ai?
Đáp:
–Là đệ tử của vô chứng, vô giác.
Hỏi:
Các ông khi nào nhập Niết-bàn?
Đáp:
–Khi nào hóa nhân của Đức Như Lai tạo ra mà nhập Niết-bàn thì chúng tôi sẽ nhập.
Hỏi:
–Các ông đã được tự lợi chăng?
Đáp:
–Tự lợi chẳng thể thủ đắc.
Hỏi:
–Nẻo hành hóa của các ông đã thành chăng?
Đáp:
–Ngã và ngã sở đều chẳng thể thủ đắc.
Hỏi:
–Các ông tu phạm hạnh chăng?
Đáp:
–Ở trong ba cõi không hành, cũng chẳng có gì là chẳng hành, là phạm hạnh của chúng tôi.
Hỏi:
–Các ông phiền não đã tận chăng?
Đáp:
Tất cả các pháp đều rốt ráo tận diệt.
Hỏi:
Các ông phá trừ chúng ma chăng?
Đáp:
–Ấm ma chẳng thể thủ đắc.
Hỏi:
Các ông thừa sự Đức Như Lai chăng?
Đáp:
–Chẳng dùng thân tâm để thừa sự.
Hỏi:
–Các ông trụ nơi phước điền chăng?
Đáp:
Không có chỗ trụ.
Hỏi:
–Các ông đọa các sự sinh tử qua lại chăng?
Đáp:
–Không thường loạn.
Hỏi:
–Các ông đoạn các hành chăng?
Đáp:
–Giải thoát vô ngại đoạn trừ.
Hỏi:
Các ông rốt ráo sẽ đến chỗ nào?
Đáp:
–Tùy theo hóa nhân của Như Lai đến.
Khi Trưởng lão Tu-bồ-đề hỏi các Sa-môn thì năm trăm Sa-môn không còn thọ nhận các dòng chảy sinh tử, tâm được giải thoát. Ba vạn hai ngàn người lìa xa trần cấu, đắc Pháp nhãn thanh tịnh.
Bấy giờ, nơi pháp hội có Đại Bồ-tát tên là Phổ Minh, ở giữa đại chúng chắp tay cung kính bạch Phật:
Bạch Thế Tôn! Bồ-tát muốn học kinh Bảo Vân này, nên học như thế nào?
Đức Phật bảo:
–Này thiện nam! Ông nên chuyên tâm học kinh điển ấy. Vì sao? Vì chư Phật Như Lai giảng nói kinh điển Bảo Vân vi diệu này cho người có thiện căn, thực hành chân thật sẽ được lợi ích lớn.
Thiện nam! Ví như có người chèo thuyền bằng đất, muốn qua sông lớn. Thiện nam! Ý ông nghĩ sao? Người chèo thuyền bằng đất này dùng tinh tấn gì để qua được sông lớn như vậy?
Bồ-tát Phổ Minh thưa:
–Bạch Thế Tôn! Nên dùng sức tinh tấn đại dũng mãnh. Vì sao? Vì người này nghĩ: “Ta nay trôi chìm giữa bốn dòng nước, chớ để thuyền này rơi vào giữa mà bi tan hoại. Phải dũng mãnh tinh tấn mới qua được.”
Đức Phật bảo Đại Bồ-tát Phổ Minh:
–Bồ-tát cũng vậy, muốn học pháp này phải chuyên cần tinh tấn gấp bội hơn đây. Vì sao? Vì thân này là vô thường, không có chắc thật, khó tin, khó dưỡng, ắt sẽ tan hoại, chẳng được trụ lâu, cuối cùng đều biến, diệt. Chưa được pháp lợi, chớ để nữa chừng bị tan hoại. Vì độ chúng sinh nơi bốn dòng chảy, Như Lai ở giữa sông lớn thường tạo thuyền pháp, qua lại sinh tử độ các chúng sinh.
Bồ-tát tạo thuyền pháp như thế nào?
Là dùng tâm bình đẳng làm nhân duyên thuyền đối với các chúng sinh.
Lấy sự hành trì vô lượng thiện làm bền chắc.
Dùng giới hạnh thanh tịnh làm đồ vượt chướng ngại.
Lấy sự bố thí và quả bố thí làm vật trang sức.
Dùng tín tâm nơi Phật đạo làm các cây rừng.
Dùng tất cả phước đức làm đồ sửa chữa.
Lấy Từ, Bi, Hỷ, Xả làm dây cột chắc chắn.
Lấy sự nhớ nghĩ nhẫn nhục, nhu hòa làm đinh. Các Bồ-đề phần luôn tinh tấn kiên cường.
Các pháp diệu thiện tối thượng trong rừng sinh ra vô lượng thiền định, công đức, tuệ nghiệp... chẳng thể nghĩ bàn như vậy. Lấy sự khéo điều tâm vắng lặng làm thầy, thợ.
Hoàn toàn không hủy hoại tâm đại Bi thâu phục.
Dùng bốn Nhiếp pháp rộng độ sâu xa.
Dùng đao trí tuệ đề phòng các thứ giặc ác.
Khéo dùng phương tiện, quyền biến ra các loại pháp.
Gom tất cả sự phụng hành làm đồ trang sức.
Dùng bốn Chánh niệm xứ làm lầu gác.
Dùng hạnh bốn Chánh cần làm nhân lực.
Dùng bốn Như ý túc làm gió mạnh.
Lấy sự quán sát khéo léo của năm Căn làm thuyền sư.
Dùng năm Lực cường tráng làm đồ phòng bị.
Dùng sự giác ngộ về bảy Giác chi phá trừ giặc ma.
Dùng tám Chánh đạo ngay thẳng tùy ý đến bờ kia.
Lấy sự lìa pháp ngoại đạo, sự dừng chỉ làm sự điều ngự, chế phục.
Lấy sự quán sát làm lợi ích, không rơi vào nhị biên.
Dùng pháp nhân duyên đem lại an ổn rốt ráo.
Thông suốt pháp Đại thừa, biện tài vô tận, danh tiếng lưu khắp, cứu độ mười phương tất cả chúng sinh, tự xướng lên: “Các ông nên bước lên thuyền pháp của tôi, theo đạo an ổn, đến được Niết-bàn, vượt qua đoạn thường, đến bờ vô vi.”
Thiện nam! Đại Bồ-tát thường phải tạo tập thuyền pháp như vậy. Dùng vô lượng trăm ngàn vạn ức thuyền pháp này lướt đi trong a-tăng-kỳ kiếp sinh tử, độ thoát chúng sinh bị trôi dạt đắm chìm.
Phật lại dạy Đại Bồ-tát Phổ Minh:
–Này thiện nam! Lại có pháp hành có thể làm cho Bồ-tát sớm được thành Phật. Đó là các việc làm chân thật, không hư dối, tu tập pháp thiện sâu dày, thân tâm thanh tịnh, không bỏ tinh tấn, ưa gần ánh sáng, tu tập thiện căn, thường nhớ nghĩ chân chánh, ưa thích pháp thiện, không chán đa văn, đầy đủ trí tuệ, đập nát kiêu mạn, tăng ích trí tuệ, trừ diệt hý luận, đầy đủ công đức, thích sống nơi núi rừng, không có tranh giành, không ở nơi ồn ào, lìa các bạn ác, tìm cầu các pháp, quyết định nương vào Đệ nhất nghĩa, mong cầu trí tuệ, thông đạt các pháp tướng một cách chân thật, cầu việc làm chân chánh nơi “pháp không”, cầu sự xa lìa, hoàn thành tịch diệt.
Thiện nam! Như vậy là Bồ-tát sớm đạt được thần thông của chư Phật, nên học như vậy, tu hành như vậy.
Khi ấy, Trưởng lão Đại Ca-diếp lại bạch Phật:
–Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn! Kinh Đại thừa Bảo Vân như vậy là kinh điển vi diệu, là lợi ích cho vô lượng, vô biên tất cả hạng trời, người. Nếu thiện nam, thiện nữ nào đối với kinh điển Đại thừa Bảo Vân này mà thọ trì, đọc tụng, giảng nói cho người khác, hoặc tán thán, hoặc dùng các loại cờ phướn, hương hoa, đèn để cúng dường, cho đến đọc tụng một bài kệ bốn câu, hoan hỷ tín thọ, không hủy báng, thì người này được phước vô lượng, vô biên. Vì sao? Vì quả báo tài thí chỉ ở trong ba cõi, còn diệu lực của pháp thí vượt khỏi tam giới, không già, bệnh, chết, được vui Niết-bàn. Nếu người nữ nào hay đọc tụng kinh này thì liền lìa được bốn cõi ác, từ nay về sau vĩnh viễn không thân nữ, sau khi chuyển thân nữ được làm thân nam, thông minh trí tuệ, sinh nhà chánh tín, sẽ sớm được thành tựu Pháp thân Như Lai với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, thân kim cang chân thật, bất hoại.
[Mục lục bộ Kinh tập][426][427][428][429][430][431][432][433][434][435][436][437][438][439][440][441][442][443][444][445][446][447][448][449][450][451][452][453][454][455][456][457][458][459][460][461][462][463][464][465][466][467][468][469][470][471][472][473][474][475][476][477][478][479][480][481][482][483][484][485][486][487][488][489][490][491][492A][492B][493][494][495][496][497][498][499][500][501][502][503][504][505][506][507][508][509][510][511][512][513][514][515][516][517][518][519][520][521][522][523][524][525][526][527][528][529][530][531][532][533][534][535][536][537][538][539][540][541][542][543][544][545][546][547][548][549][550][551][552][553][554][555][556][557][558][559][560][561][562][563][564][565][566][567][568][569][570][571][572][573][574][575][603][604][605][606][607][608][609][610][611][612][613][614][615][616][617][618][619][620][621][622][623][624][625][626][627][628][629][630][631][632][633][634][635][636][637][638][639][639][640][641][642][643][644][645][646][647][648][649][650][651][652][653][654][655][656][657][658][659][660][661][662][663][664][665][666][667][668][669][670][671][672][673][674][675][676][677][678][679][680][681][682][683][684][685][686][687][688][718][719][720][721][721][722][723][724][725][726][727][728][729][730][731][732][733][734][735][736][737][738][739][740][741][742][743][744][745][746][747A][747B][748][749][750][751][752][753][754][755][756][757][758][759][760][761][762][763][764][765][766][767][768][769][770][771][772][773][774][775][776][777][778][779][780][781][782][783][784][785][786][787][788][789][790][791][792][793][794A][794B][795][796][797A][797B][798][799][800][801][802][803][804][805][806][807][808][809][810][811][812][813][814][815][816][817][818][819][820][821][822][823][824][825][826][827][828][829][830][831][832][833][834][835][836][837][838][839][840][841][842][843][844][845][846][847]