TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH
BỘ KINH TẬP (425-847)

SỐ 639-KINH NGUYỆT ĐĂNG TAM-MUỘI

Hán dịch: Đời Cao Tề, Tam tạng Na-liên-đề-da-xá, người nước Thiên Trúc.

MỤC LỤC

QUYỂN 1

QUYỂN 2

QUYỂN 3

QUYỂN 4

QUYỂN 5

QUYỂN 6

QUYỂN 7

QUYỂN 8

QUYỂN 9

QUYỂN 10


QUYỂN 1

Tôi nghe như vầy:

Một thời Bà-già-bà ở tại núi Kỳ-xà-quật, thuộc thành Vương xá, cùng với đại chúng Tỳ-kheo là năm ngàn người và tám mươi na-do-tha Bồ-tát, đều là những vị Nhất sinh bổ xứ, trong đó Bồ-tát Maha-tát A-thị-đa là đứng đầu. Vua Tứ thiên, vua Thích thiên, vua Đại Phạm thiên là chủ của thế giới Ta-bà cùng với chư Thiên phước đức tăng thượng khác, A-tu-la nương oai thế tăng thượng, Long vương, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, Khẩn-na-la, Ma-hầula-già, Nhân phi nhân... vây quanh trước sau chiêm ngưỡng Đức Như Lai.

Khi ấy trong chúng Bồ-tát có một Bồ-tát tên là Đồng tử Nguyệt Quang, ở trong quá khứ đã từng cúng dường chư Phật, trồng các căn lành, tự biết được kiếp trước, tin thích Đại thừa, an trụ Đại thừa, tương ưng với lòng đại Bi, từ chỗ ngồi đứng dậy bày áo vai phải, gối phải quỳ xuống đất, bạch Phật: –Bạch Thế Tôn! Nay con có điều muốn thưa hỏi, cúi mong Thế Tôn cho phép, để con được trừ bỏ nghi kết trong lòng.

Phật bảo:

–Này Đồng tử! Tùy ý ông cứ hỏi bất cứ điều gì, ta sẽ giải thích cho, để ông được hoan hỷ. Ta là Bậc Nhất Thiết Trí, Nhất Thiết Tri Kiến, ở trong tất cả pháp có sức vô úy, mà được tự tại và tương ưng với tri kiến giải thoát không chướng ngại.

Này Đồng tử! Như Lai không có điều gì mà không biết, không có điều gì mà không thấy, không có điều gì mà không chứng, không có điều gì mà không phân minh, biết được vô lượng, vô biên thế giới.

Này Đồng tử! chư Phật Thế Tôn đối với tất cả các chỗ thưa hỏi đều có thể tùy thuận giải đáp, khiến mọi người được hoan hỷ.

Bấy giờ Đồng tử dùng kệ để hỏi rằng:

Các Đức Phật làm những hạnh gì?
Vì hay thương đời phóng quang minh
Có thể đắc trí khó nghĩ bàn
Cúi mong cứu hộ giải thích cho.
Hạnh gì nói được pháp cao này?
Cõi người, Ngưu vương, Thiên cung kính
Trí tối thượng không thể đo lường
Mong Phật vì con khéo phân biệt.
Con vì tin sâu nên thưa hỏi
Chân thật không có tâm quanh co
Không ai có thể chứng biết con
Chỉ có Nhân Tôn mới thấy rõ.
Con có lạc tâm rộng thù thắng
Sư tử họ Thích biết hạnh con
Tâm con không vướng ngôn ngữ vậy
Mong Phật vì con nói trợ đạo.
Pháp gì hay đưa chư Phật đến
Mà được tăng trưởng trí vô biên
Nơi tất cả pháp đến bờ kia
Mong Phật vì con khéo tuyên nói.
Mong nói pháp hạnh con trưởng dưỡng
Khiến được thành tựu trí minh lợi
Thâm tâm trì giới không hủy phạm
Xa lìa tất cả các sợ hãi.
Làm sao nơi giới mà không bỏ?
Làm sao nơi tuệ mà không giảm?
Làm sao an trụ A-lan-nhã?
Làm sao để được tăng trí tuệ?
Làm sao vào được pháp thắng diệu,
Thích giữ cấm giới không hối hận?
Làm sao với giới không khuyết tổn?
Làm sao để được ba nghiệp tịnh?
Làm sao biết được tánh hữu vi,
Tâm không nhiễm uế, đến Phật đạo?
Làm sao để được thân nghiệp tịnh,
Làm sao trừ được miệng, ý ác?
Làm sao lìa được tâm tạp nhiễm?
Cúi mong Thế Tôn nói cho con.

Bấy giờ, Phật bảo Đồng tử Nguyệt Quang:

–Nếu Đại Bồ-tát tương ưng với một pháp thì mau chóng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, các pháp như vậy cũng đều được thành tựu tức khắc. Thế nào là một pháp? Nếu Đại Bồ-tát đối với chúng sinh khởi tâm bình đẳng, tâm cứu hộ, tâm vô ngại, tâm không độc. Đó là tương ưng với một pháp, mau chóng thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có thể đạt được sự lợi ích của công đức như vậy.

Khi ấy Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Nếu ai thọ trì một pháp này
Hay thuận Bồ-tát chánh tu hành
Do nhờ công đức của pháp này
Mau được thành tựu đạo Vô thượng.
Nơi tất cả xứ, tâm vô ngại
Bồ-tát dũng mãnh mới làm được
Không hề khởi tư tưởng yêu ghét
Như vậy sẽ được diệu công đức.
Nếu có thể tu tâm bình đẳng
Thì sẽ chứng được quả bình đẳng
Pháp hành như vậy đều bình đẳng
Sẽ được tướng bàn chân bằng phẳng.
Người tu bình đẳng lìa tâm sân
Hay trừ tất cả phiền não chướng
Do nhân duyên ấy bàn chân bằng
Nên được màu hoa sen dưới chân.
Một mình hiển hiện ở mười phương
Phước đức sáng ngời khắp cõi Phật
Thì được bước lên Tịch diệt địa
Điều phục vô lượng các chúng sinh.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát đối với tất cả chúng sinh khởi tâm bình đẳng, tâm cứu hộ, tâm vô ngại, tâm không độc, làm con mắt cho thế gian, chứng được Tam-muội, gọi là Tam-muội thể tánh các pháp bình đẳng không hý luận. Từ Tam-muội ấy thành tựu mười pháp. Những gì là mười?

1. Thân giới.

2. Khẩu giới.

3. Ý giới.

4. Nghiệp thanh tịnh.

5. Vượt qua các nhân duyên.

6. Hiểu rõ các ấm.

7. Được cõi nước bình đẳng.

8. Trừ các tướng nhập.

9. Đoạn diệt các ái.

10. Chứng được vô sinh.

Lại có mười pháp:

1. Nhập tánh các pháp.

2. Hiển bày các nhân.

3. Không hoại các quả.

4. Hiện thấy các pháp.

5. Tu tập chánh đạo.

6. Cùng Phật đồng sinh.

7. Trí tuệ sáng thông.

8. Nhận trí ưa thích của chúng sinh.

9. Đạt được Pháp trí.

10. Nhập trí vô ngại biện.

Lại có mười pháp:

1. Trí khéo biết văn tự.

2. Đã vượt qua các Pháp sự.

3. Đắc trí âm thanh.

4. Ở trong cõi giới bình đẳng.

5. Đắc cõi giới bình đẳng, tâm sinh vui thích.

6. Đắc nơi hỷ phần.

7. Được tâm không quanh co.

8. Oai nghi điều phục.

9. Được tâm chất trực.

10. Nhan sắc không sân hận.

Lại có mười pháp:

1. Mặt thường vui vẻ.

2. Lời nói hòa nhã.

3. Trước tiên luôn thăm hỏi.

4. Thường không làm biếng.

5. Cung kính bậc tôn trưởng.

6. Cúng dường bậc tôn trưởng.

7. Đời sống tri túc.

8. Tu điều thiện không chán.

9. Thanh tịnh sự tà mạng.

10. An trụ nơi thanh vắng.

Lại có mười pháp:

1. Trí an trụ khắp nơi.

2. Chánh niệm không quên.

3. Được trí ấm phương tiện.

4. Trí giới phương tiện.

5. Trí nhập phương tiện.

6. Chứng các thần thông.

7. Diệt các phiền não.

8. Đoạn trừ tập khí.

9. Tâm thường dũng mãnh.

10. Trụ nơi pháp quán bất tịnh.

Lại có mười pháp:

1. Biết phương tiện phạm.

2. Đoạn diệt dòng chảy các cõi.

3. Đoạn các kết sử.

4. Đã vượt qua các cõi.

5. Khéo biết kiếp trước.

6. Không nghi nghiệp quả.

7. Tư duy đối với pháp.

8. Mong cầu đa văn.

9. Được trí lanh lợi.

10. Được bậc điều phục.

Lại có mười pháp:

1. Không ỷ lại sự trì giới.

2. Không vọng tưởng phân biệt.

3. Không có khinh tháo.

4. Trụ nơi không thoái. 5. Xuất sinh pháp lành.

6. Nhàm chán pháp ác.

7. Không tạo phiền não.

8. Không xả bỏ sự học.

9. Phân biệt các thiền định.

10. Được trí ưa thích của tất cả chúng sinh.

Lại có mười pháp:

1. Khéo phân biệt sinh xứ.

2. Được trí cùng tận.

3. Trí khéo biết ngôn ngữ.

4. Xả bỏ duyên tục.

5. Nhàm chán ba cõi.

6. Không khởi tâm hạ liệt.

7. Không đắm trước các pháp.

8. Nhiếp thọ chánh pháp.

9. Thủ hộ chánh pháp.

10. Biết luật phương tiện.

Lại có mười pháp:

1. Diệt trừ các sự tranh cãi.

2. Không chống trái.

3. Không tranh tụng, đánh nhau.

4. Nhẫn bình đẳng.

5. Đắc nhẫn địa.

6. Tự thâu nhiếp nơi nhẫn.

7. Khéo chọn các pháp

8. Tâm thích giới đầy đủ.

9. Phương tiện quyết định, khéo hỏi và đáp.

10. Trí khéo phân biệt cú nghĩa.

Lại có mười pháp:

1. Trí phương tiện đối với pháp xuất sinh.

2. Phát sinh trí khéo biết nghĩa và phi nghĩa.

3. Trí về đời trước.

4. Trí về đời sau.

5. Trí hiện tại.

6. Trí ba đời bình đẳng.

7. Trí khéo biết tam luân.

8. Tâm an trụ.

9. Thân an trụ

10. Khéo gìn giữ oai nghi.

Lại có mười pháp:

1. Không hủy hoại oai nghi.

2. Phân biệt oai nghi.

3. Oai nghi đoan nghiêm, tao nhã.

4. Khéo hiểu và nói về nghĩa lý.

5. Đắc thế trí.

6. Thích bố thí, không xan tham.

7. Tự tay bố thí.

8. Thường bố thí không ngừng.

9. Cho tất cả.

10. Có tâm xấu hổ.

Lại có mười pháp:

1. Có tâm biết thẹn.

2. Xả bỏ tâm ác.

3. Không bỏ hạnh Đầu-đà.

4. Đối với đức tin không hề bị che lấp.

5. Thường hành hỷ hạnh.

6. Đem chỗ mình ngồi dâng cho các bậc tôn trưởng.

7. Xả bỏ tâm kiêu mạn.

8. Khéo nhiếp tâm.

9. Khéo biết tâm tương ưng.

10. Khéo biết tâm sinh khởi.

Lại có mười pháp:

1. Khéo biết nghĩa trí.

2. Khéo biết pháp trí.

3. Xa lìa vô trí.

4. Khéo nhập vào tâm vi tế.

5. Biết tự tánh của tâm.

6. Khéo biết pháp phương tiện tới lui.

7. Khéo biết tất cả trí ngôn ngữ.

8. Khéo đắc từ ngữ sai biệt vô ngại.

9. Đắc trí phương tiện quyết định nghĩa.

10. Xả bỏ điều chẳng phải nghĩa lý.

Lại có mười pháp:

1. Thân cận người lành.

2. Cùng làm việc với họ.

3. Nghe theo lời dạy của họ.

4. Xa lìa người ác.

5. Thông suốt việc tu thiền.

6. Không đắm trước thiền vị.

7. Thần thông du hý.

8. Đạt được trí thế gian.

9. Xa lìa sự phô trương giả danh.

10. Không chán lìa hữu vi.

Lại có mười pháp:

1. Được lợi không mừng.

2. Gặp suy thoái không buồn.

3. Được khen không vui.

4. Bị chê không lo.

5. Được tôn vinh vẫn không thích.

6. Bị hủy báng vẫn không nản.

7. Không khổ.

8. Không vui.

9. Không thân cận người tại gia.

10. Không ở trong Tăng chúng.

Lại có mười pháp:

1. Bỏ sự không cung kính.

2. Thực hành sự cung kính.

3. Đầy đủ lễ nghi.

4. Bỏ tâm không lễ nghi.

5. Không bị nhiễm ô nhà thế tục.

6. Gìn giữ Phật pháp.

7. Yên lặng, ít nói.

8. Lời nói, hành động không thô tháo.

9. Cung người đàm luận, khéo dùng phương tiện.

10. Hàng phục các oán thù.

Lại có mười pháp:

1. Khéo biết thời tiết.

2. Đối với các người phàm phu có tưởng không thể biết

3. Không khởi tâm khinh người nghèo hèn.

4. Có người xin liền cho.

5. Với các người nghèo khổ cứ để họ xin, đừng gây chướng ngại.

6. Không khởi tâm ghen ghét người phá giới.

7. Có ý nghĩ muốn cứu người khác.

8. Khéo biết việc mình làm.

9. Nhiếp thọ chánh pháp.

10. Xả bỏ của cải.

Lại có mười pháp:

1. Không kinh doanh, tích tụ.

2. Khen ngợi người trì giới.

3. Chê trách người phạm giới.

4. Cung kính sự phụng trì giới, không có tâm dối láo.

5. Tất cả vật sở hữu đều có thể đem cho.

6. Thành tâm khuyến thỉnh.

7. Nói thế nào làm thế ấy.

8. Tôn thờ người trí.

9. Đối với các pháp quyết định, hết lòng ưa thích tu hành.

10. Được trí ví dụ.

Lại có mười pháp:

1. Phương tiện đối với đời trước.

2. Lấy việc tu thiện làm đầu.

3. Có các phương tiện. 4. Đoạn trừ các tướng

5. Xả bỏ các tưởng.

6. Khéo biết sự tướng.

7. Hay diễn nói các kinh.

8. Khéo đắc phương tiện nơi các việc thuận, nghịch.

9. Quyết định đối với chân lý.

10. Chứng được giải thoát.

Lại có mười pháp:

1. Lời nói chân thật, ngay thẳng.

2. Hiển lộ trí tự tánh.

3. Lời nói không nghi ngờ

4. Đưa tưởng về không.

5. Tu nơi Vô tướng.

6. Biết tánh Vô nguyện.

7. Đắc bốn Vô úy.

8. Kiên cố đối với giới.

9. Nhập vào chánh đạo tròn đủ.

10. Đạt được trí tuệ.

Lại có mười pháp:

1. Buộc tư tưởng vào một duyên.

2. Ít bận tâm về người thân.

3. Không khởi tâm ô trược.

4. Xả bỏ các kiến.

5. Đắc Đà-la-ni.

6. Đắc trí.

7. Đắc sự sáng suốt.

8. An trụ.

9. Trụ trì.

10. Chánh cần.

Này Đồng tử! Đó gọi là Đại Bồ-tát từ Tammuội các pháp thể tánh bình đẳng không hý luận ấy, thành tựu các công đức lợi lạc như vậy.

Này Đồng tử! Tam-muội như vậy gọi là nhân, gọi là tương ưng, gọi là giáo huấn, gọi là pháp môn, gọi là làm, gọi là đạo hạnh, gọi là không nghi, gọi là Đạo sư, gọi là hành thuận nhẫn, gọi là nhẫn địa, gọi là trừ bỏ sự không nhẫn, gọi là trí địa, gọi là xa lìa vô tri, gọi là kiến lập nơi trí, gọi là phương tiện địa, gọi là Bồ-tát du hành, gọi là thân cận thắng trượng phu, gọi là xa lìa kẻ ác, gọi là Như Lai nói về Phật địa, gọi là người trí tùy hỷ, gọi là kẻ ngu vứt bỏ, gọi là Thanh văn khó biết, gọi là không phải địa vị của ngoại đạo, gọi là chỗ thâu nhiếp của Như

Lai, gọi là chỗ rõ biết của Đấng Thập Lực, gọi là chư Thiên cúng dường, gọi là Phạm vương lễ bái, gọi là Đế Thích đi theo sau, gọi là rồng, thần cúi lạy, gọi là Dạ-xoa tùy hỷ, gọi là Khẩn-đà-la khen ngợi, gọi là Ma-hầu-la-già xưng dương, gọi là chỗ tu của Bồ-tát, gọi là chỗ mong cầu của bậc trí, gọi là được đạo Vô thượng, gọi là chẳng phải bố thí tài vật, gọi là thuốc trừ bệnh phiền não của chúng sinh, gọi là kho trí, gọi là Biện tài vô tận, gọi là xuất sinh các lời dạy, gọi là trừ các bệnh khổ, gọi là biết ba cõi, gọi là thuyền bè đưa người, gọi là thuyền chở qua bốn dòng nước, gọi là phát sinh danh dự, gọi là Như Lai tán thán, gọi là sự lợi ích của Như Lai, gọi là hào quang khen ngợi của Đấng Thập Lực, gọi là xuất sinh đạo đức của Bồ-tát, gọi là lòng Từ diệt trừ sự tức giận, gọi là lòng Bi dứt trừ sự não hại, gọi là tâm hoan hỷ tịch tĩnh, gọi là người xả bỏ buồn rầu, gọi là hơi thở sống động của người Đại thừa, gọi là có thể rống tiếng sư tử, gọi là Phật đạo, gọi là tất cả Pháp ấn, gọi là dẫn đạo Nhất thiết trí, gọi là khu vườn du hý của Bồ-tát, gọi là sự phá tan ma quân, gọi là đường an toàn, gọi là thành tựu các nghĩa tốt lành, gọi là ngăn chận kẻ thù địch, gọi là dùng pháp hàng phục oán thù, gọi là sự vô úy chân thật, gọi là sức mạnh không vọng cầu như thật, gọi là cội gốc của mười tám Bất cộng pháp, gọi là trang nghiêm Pháp thân, gọi là oai lực của các hành, gọi là trang nghiêm Phật tuệ, gọi là bỏ các trói buộc của ái, gọi là trưởng tử của Phật vui mừng, gọi là trí Phật tròn đủ, gọi là không phải địa vị của Bíchchi-phật, gọi là tâm thanh tịnh, gọi là thân thanh tịnh, gọi là thành tựu giải thoát, gọi là không có các tạp dục, gọi là không có các tạp nhuế, gọi là không phải địa vị ngu si, gọi là trí A-hàm, gọi là có thể sinh khởi các kỹ thuật, gọi là trừ các vô minh, gọi là giải thoát tròn đầy, gọi là sự vui mừng của người thiền định, gọi là con mắt cần thiết để người thấy, gọi là thần thông du hý, gọi là có thể hiện bày thần túc, gọi là Văn trì Đà-la-ni, gọi là nhớ nghĩ và thọ trì không quên, gọi là sự gia trì của chư Phật, gọi là phương tiện của Đạo sư, gọi là sự không tương ưng, vi tế khó biết, gọi là xả bỏ văn tự, gọi là biết sâu nghĩa trí, gọi là trí của tri kiến, gọi là trí phân biệt, gọi là trí bất khả ngôn thuyết, gọi là trí có thể điều phục sự sai, gọi là trí người chất trực, gọi là trí thiểu dục, gọi là tinh tấn nhiếp trì, gọi là có thể gìn giữ không quên, gọi là có thể tiêu trừ các khổ, gọi là các pháp vô sinh, gọi là một lời diễn thuyết có thể biết được sự sinh diệt trong các loài. Đó gọi là Tam-muội tất cả pháp thể tánh bình đẳng không hý luận.

Khi Phật nơi pháp môn này, trong hội có tám mươi na-do-tha người, trời được Vô sinh pháp nhẫn, chín mươi hai na-do-tha trời, người được Nhẫn tùy âm thanh, bảy mươi sáu na-do-tha người, trời được Thuận nhẫn, sáu vạn người, trời được xa lìa trần cấu được Pháp nhãn thanh tịnh, một ngàn vị Tỳ-kheo hết các hữu lậu, tâm được giải thoát, hai trăm năm mươi Tỳ-kheo-ni hết các hữu lậu, tâm được giải thoát, năm trăm Ưu-bà-tắc được quả A-na-hàm, tám trăm Ưu-bà-di được quả Tư-dàhàm.

Bấy giờ tam thiên đại thiên thế giới chấn động sáu cách, đó là: Động biến động, đẳng biến động; dũng biến dũng, đẳng biến dũng; khởi biến khởi, đẳng biến khởi; hống biến hống, đẳng biến hống; chấn biến chấn, đẳng biến chấn; giác biến giác, đẳng biến giác.

Vọt lên ở Đông thì chìm mất ở Tây; vọt lên ở Tây thì chìm mất ở Đông; vọt lên ở Nam thì chìm mất ở Bắc; vọt lên ở Bắc thì chìm mất ở Nam; vọt lên ở giữa thì chìm mất ở một bên; vọt lên ở một bên thì chìm mất ở giữa. Nhờ pháp lực nên bỗng nhiên khởi lên ánh sáng chưa từng có, có thể chiếu sáng ở những nơi tăm tối xa xôi, cho đến địa ngục A-tỳ, không chỗ nào không rực sáng.

Lúc ấy, khoảng giữa núi Thiết vi của thế giới, chúng sinh tăm tối lại được thấy nhau, thảy đều kinh ngạc nói rằng:

–Tại sao ở đây bỗng nhiên có những người này?

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Ta nhớ kiếp xưa sáu vạn Phật
Vốn sống ở tại núi Kỳ-xà
Khi ta cầu đạo thời quá khứ
Theo các Thế Tôn nghe định này.
Lúc đó sáu ức Phật sau cùng
Vì thế gian nên phóng ánh sáng
Tên là Phật Ta-la Thọ Vương
Ta theo vị ấy hỏi định này.
Lúc ấy ta sinh dòng Sát-lợi
Là Bậc Tối Tôn giữa các vua
Có đến năm trăm các người con
Đầy đủ tất cả các tài nghệ.
Lúc ta là Vô Thượng Tôn ấy
Tạo dựng Già lam đến ức kiếp
Toàn dùng đại chiên-đàn thắng diệu
Xen lẫn vàng bạc và các báu.
Lúc ta làm vua, người yêu kính
Tên là vua Tỳ-sa-mô-đạt
Rộng bày nhiều thứ cúng dường Phật
Trọn một vạn tám trăm ức năm.
Lúc đó Lưỡng Túc Tôn tối thắng
Danh hiệu là Ta-la Thọ Vương
Trong suốt bảy ức sáu ngàn năm
Sống ở thế gian hoằng hóa đạo.
Có tám mươi ức các Thanh văn
Ba Minh, sáu Thông thường tại định
Thân cuối cùng ở trong lậu tận
Thánh chúng như vậy không hủy báng.
Ta dâng các thứ thật tối thắng
Cúng dường bậc độ các ác thú
Vì muốn lợi ích các người, trời
Cho nên mới cầu Tam-muội này.
Ta cùng vợ con đều xuất gia
Giữ lời Phật dạy không ai bằng
Trong một ngàn bốn vạn ức năm
Ta thường thưa hỏi Tam-muội này.
Tám vạn na-do kệ xưng tán
Kệ tụng khác nhau tám ức triệu
Phật ấy đem ra dạy mọi người
Một phẩm duy nhất luận định này.
Đầu, mắt, tay chân cùng vợ con
Các thứ trân bảo và ẩm thực
Tất cả của cải đều bỏ hết
Vì để cầu Tam-muội như vậy.
Nhớ xưa trăm ức các Như Lai
Lại có hằng hà sa số Phật
Chư Phật sống tại núi Kỳ-xà
Tuyên thuyết định thắng tịch như vậy.
Đồng một danh hiệu là Thích-ca
Con Phật đồng tên La-hầu-la
Thị giả đồng tên là Hoan Hỷ
Vương thành đồng tên Ca-tỳ-la.
Bậc trí tuệ đệ nhất ở đời
Đồng tên Mục-liên, Xá-lợi-phất
Thế giới cùng tên là Ta-bà
Chư Phật đều sinh đời ác trược.
Ta dùng phẩm vật dâng Thế Tôn
Vì muốn thực hành hạnh Bồ-đề
Các vật cúng dường đều dâng lên
Vì muốn trì tụng chánh định này.
Phát tu thắng hạnh được định này
Đắc định này hành dụng vô lượng
Bậc an trụ tất cả đức hạnh
Được Tam-muội này chẳng khó khăn.
Không đắm các vị, lìa náo động
Không gần thế tục, không ganh ghét
An trụ đại Bi, lìa sân hận
Được Tam-muội này chẳng khó khăn.
Xa tục không sợ mất lợi danh
Thanh tịnh tà mạng không phiền não
Với giới trong sáng không sợ hãi
Được Tam-muội này đâu khó khăn.
Tinh tấn, dũng mãnh thường không nghỉ
Ưa thích nhàn tịnh hành Đầu-đà
An trụ vô ngã, diệu pháp nhẫn
Được Tam-muội này đâu khó khăn.
Khéo điều phục tâm không hý luận
An trụ oai nghi, tất cả hạnh
Thích hành bố thí không keo kiệt
Được Tam-muội này đâu khó khăn.
Các tướng tốt đẹp của Như Lai
Cùng với mười tám pháp Bất cộng
Lực, Vô úy thảy được không khó
Bởi hay thọ trì định này vậy.
Mắt Phật nhìn thấy các chúng sinh
Giả sử một lúc đều thành Phật
Mỗi Đức Phật ấy có thọ mạng
Ngàn vạn ức kiếp khó nghĩ được.
Mỗi Phật đều có vô lượng đầu
Giống như số cát trong biển cả
Mỗi đầu đều có vô lượng lưỡi
Số lượng cũng như cát đại hải.
Cứ mỗi một lưỡi đều xưng dương
Công đức một bài kệ trì định
Nói một phần nhỏ không hết được
Huống chi biên chép và thọ trì.
Nếu có thuận định, đức Đầu-đà
Thiên, A-tu-la, Quỷ hộ trì
Và các vị vua thường theo hầu
Do trì tịch định khó thấy này.
Vì có vô biên vô ngại biện
Tuyên thuyết vô lượng trăm ngàn kinh
Trong mọi thời gian thường không dứt
Vì trì kinh này, nghe tạng này.
Nếu muốn được thấy Phật Di-đà
Cùng với thế giới an lạc kia
Sau này đời ác rất đáng sợ
Cần phải nghe trì Tam-muội này.
Ta nay vì ông mà phó chúc:
Nhân Trung Tôn ta, tự khuyên ông
Sau ta Niết-bàn, lúc mạt thế
Phải nên nghe, trì Tam-muội này.
Tất cả chư Phật ở mười phương
Trong đời quá khứ và hiện tại
Các vị đều học Tam-muội này
Được đến vô vi, Phật Bồ-đề.

Này Đồng tử! vì nghĩa này nên nếu có Đại Bồtát, muốn ở trong công đức chân thật của Như Lai mà khai thị biện thuyết nghĩa lý của danh hiệu không thể cùng tận. Tất cả những điều được Phật nói ra, nay ngươi phải nên đọc tụng thọ trì, vì người khác rộng nói Tam-muội như vậy.

Này Đồng tử! Sao gọi là công đức chân thật của danh hiệu Như Lai? Nếu Đại Bồ-tát trụ nơi thanh vắng, hoặc nơi nhàn tịnh dưới gốc cây, một mình ngồi im lặng, phải học như vầy: Đức Như Lai, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, tích tập công đức thắng diệu của Như Lai, tu các thiện căn mà không hoại mất, dùng sức đại nhẫn, được các tướng tốt và các vẻ đẹp để tự trang nghiêm thân, là sắc khả ái thuộc loại bậc nhất, người xem không chán, kính tin, yêu thích. Với các bậc trí tuệ không ai có thể hơn được, năng lực chẳng thể hoại, hóa độ các chúng sinh, là cha của Bồ-tát, vua của Hiền thánh, là Đạo sư hướng tới Niết-bàn, trí tuệ vô biên, biện tài vô lượng, Phạm âm thanh nhã, âm thanh lời lẽ thông suốt, tướng tốt hy hữu. Người có mắt chiêm ngưỡng, tùy ý quán nhìn, muốn không xem nữa nhưng vẫn không được. Được thân không ai bằng, không bị dục nhiễm, không bị sắc nhiễm, hơn cả vô sắc giới, xa lìa các khổ, vứt bỏ các pháp, giải thoát các cõi, chẳng nhập tương ưng, đoạn trừ các trói buộc, sạch hết khát ái, vượt qua bốn dòng sông, trí tuệ tròn đầy, an trú Niết-bàn, ở nơi thật tế.

Này Đồng tử! Đó là ta nói rõ công đức chân thật của Như Lai. Đại Bồ-tát trú nơi Tam-muội ấy thì có thể đạt được công đức chân thật của Như Lai. Nếu mở bày và diễn nói về danh nghĩa của nó thì không bao giờ cùng tận tất cả những điều chư Phật nói ra.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Nơi vô lượng số trong ngàn kiếp
Công đức Như Lai khó nói hết
Từ lâu huân tập nhiều thiện căn
Để cầu được thắng định như vậy.
Thân mỹ nữ trang nghiêm vi diệu
Sắc đáng yêu tối thượng lạ lùng
Xưa ta quyết thí, lòng không dối
Để cầu được thắng định như vậy.
Bỏ cả tài sản và tôi tớ
Ma-ni đại bảo và vàng bạc
Dùng tâm thắng thượng mà bố thí
Vì để cầu Tam-muội như vậy.
Dùng ngọc báu ma-ni, anh lạc
Mão trời, ấn tay và dây vàng
Xưa từng dâng thí các Đạo Sư
Để cầu được thắng định như vậy.
Các diệu hương hoa, vô lượng quả
Đều là hương Kiền-đà-bà-sư
Ta dùng hoa ấy rải tháp Phật
Tâm thắng diệu, thuần chí tăng thượng.
Ta dùng vô lượng các pháp thí
Hoan hỷ khai đạo các chúng sinh
Với các danh văn và lợi dưỡng
Ta không hề khởi tâm nơi ấy như vậy.
Xưa ta huân tập đức Đầu-đà
Một mình dưới cây, im không nói
Từ bi vô lượng thương chúng sinh
Để cầu quả Bồ-đề vô thượng.
Với người đồng giới không cạnh tranh
Thường nói yêu thương, giọng êm dịu
Ngôn từ nhỏ nhẹ, người thích nghe
Mọi người nhìn thấy không nhàm chán.
Sống ở Tha-xá-ly gia-xan
Vô lượng ức đời không ganh ghét
Hoan hỷ, thường tự đi khất thực
Các nơi mời thỉnh đều vứt bỏ.
Nếu ai nghe nhiều, hay thọ trì
Nơi bốn câu kệ Tam muội này
Như vậy tức là cúng dường ta
Đem tâm thù thắng mà tôn kính.
Xưa ta hành các thứ bố thí
Với giới mãi mãi không vi phạm
Dùng vô lượng thứ cúng dường Phật
Để cầu mong tịch định như vậy.
Ta ở trong vô lượng thế giới
Đầy ngọc Ma-ni đem thí khắp
Nghe Tam-muội này trì bài kệ
Phước ấy lớn hơn không thể lường.
Nếu có tất cả các loại hoa
Và các diệu hương rất hy hữu
Cúng dường tất cả các Như Lai
Thích tu thiện căn vô lượng kiếp.
Các kỹ nhạc có trên thế gian
Ẩm thực ngon bổ và y báu
Tâm tăng thượng trong vô lượng kiếp
Thường đem cúng dường các Thập Lực.
Nếu ai hưng khởi nguyện Bồ-đề
Sẽ được Đại Pháp vương vô thượng
Nếu ai với kinh Tam muội này
Nghe một bài kệ, phước hơn kia.
Trong dòng sông Hằng bao nhiêu cát
Bao nhiêu kiếp số nói lợi ấy
Phô diễn đức ấy không cùng tận
Nhờ thọ trì vô lượng phước định.

Này Đồng tử! Chính vì nghĩa này nên Đại Bồtát cần phải chí tâm thọ trì, đọc tụng, diễn thuyết cho người khác, phân biệt, hiển bày, giáo hóa rộng khắp, cho chúng sinh tu Tam-muội này.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Chỗ Phật kia ta nghe như vầy
Được lợi ích vô thượng thắng diệu
Cho nên nay ta nói cho ông
Thắng Tam-muội chư Phật từng nói.
Chỗ bảy ức ba ngàn vạn Phật
Thời quá khứ ta từng cúng dường
Tất cả các Đức Như Lai ấy
Cũng nói Tu-đa-la như vậy.
Nhờ đó mới vào tâm đại Bi
Cho nên nói rõ Tam-muội này
Nếu có người tập học, nghe nhiều
Được trí Như Lai sẽ không khó.
Nếu có thể vào thời mạt thế
Đạo sư thế gian đã diệt độ
Có kẻ báng pháp, Tỳ-kheo ác
Với người đa văn, không ưa thích.
Tuy nói giới pháp để mưu sinh
Nhưng mình không thích hành giới pháp
Tuy nói thiền định để mưu sinh
Nhưng mình không thích hành thiền định.
Tuy nói trí tuệ để mưu sinh
Nhưng mình không thích hành trí tuệ
Tuy nói giải thoát để mưu sinh
Nhưng mình không thích hành giải thoát.
Tuy nói tri kiến để mưu sinh
Nhưng mình không thích hành tri kiến
Như người miệng nói hương chiên-đàn
Là hương tối thượng trong các hương
Có người hỏi kẻ nói hương ấy:
“Ông biết thứ hương ông đã nói?”
Đáp rằng: “Tôi thật không nghe hương
Chỉ nhờ nói hương để mưu sống.”
Sau Phật diệt độ, đời ác thế
Có các Tỳ-kheo không giữ giới
Chỉ nói giới pháp để mưu sinh
Tự mình không thể hành giới pháp.
Sau Phật diệt độ, đời ác thế
Có các Tỳ-kheo không thiền định
Tuy nói pháp định để mưu sinh
Tự mình không thể hành pháp định.
Sau Phật diệt độ, đời ác thế
Có các Tỳ-kheo không pháp tuệ
Tuy nói pháp tuệ để mưu sinh
Tự mình không thể hành pháp tuệ.
Sau Phật diệt độ, đời ác thế
Có các Tỳ-kheo không giải thoát
Tuy nói giải thoát để mưu sinh
Tự mình không thể hành pháp giải thoát.
Sau Phật diệt độ, đời ác thế
Có các Tỳ-kheo không tri kiến
Tuy nói tri kiến để mưu sinh
Tự mình không hành pháp tri kiến.
Ví như kẻ nghèo bị người khinh
Sau đó phú quý người cung kính
Người, Trời, Rồng, Quỷ, Cưu-bàn trà
Quyết không cúng dường người không định.
Nếu được Tam-muội vi diệu địa
Bậc trí liền được kho trí rộng
Được các hàng trời, người cung kính
Hay dùng thượng thí, cho chúng sinh.
Ta nghe được lợi ích như vậy
Hết sức cao tột, Phật nói ra
Thân thuộc, tài sản đều xả hết
Vì muốn nghe nói Tam-muội này.
Đồng tử Nguyệt Quang tâm hoan hỷ
Chắp tay hướng Phật nói lời rằng:
“Sau khi Phật tiên đã diệt độ
Con xin hộ trì thắng pháp Phật.
Với thân mạng mình hay thí xả
Cùng các thú vui ở thế gian
Sau này đời ác thật hãi hùng
Con hộ trì định thắng diệu này.
Con thấy thế gian khổ vô lượng
Khởi tâm đại Bi mà cứu họ
Với họ, lại khởi tâm đại Bi
Nói họ nghe thắng Tam-muội này”.
Trong chúng, năm trăm người đều đứng
Cũng xin hộ trì Tam-muội này
Khi ấy Đồng tử là thượng thủ
Cùng trì Tam-muội thù thắng này.

Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Gọi Tam-muội ấy thế nào cho đúng?

Phật bảo:

–Này Đồng tử! Hãy lắng nghe! Hãy lắng nghe!

Ta sẽ nói cho. Đó là:

1. Có thể vắng lặng nơi tâm.

2. Tâm không khởi lên.

3. Trí không hòa hợp.

4. Bỏ gánh nặng xuống.

5. Được trí Như Lai.

6. Thành oai lực của Phật.

7. Điều trị sự đắm trước dục.

8. Diệt trừ sân nhuế.

9. Đoạn trừ ngu si.

10. Trụ tâm tương ưng.

11. Xả tâm không trụ

12. Ưa thích thiện pháp.

13. Tước đoạt hữu vi.

14. An trụ chánh tín.

15. Đêm vẫn tỉnh thức.

16. Không bỏ thiền định.

17. Tăng trưởng thiện căn.

18. Không thích sự sinh.

19. Không tạo các nghiệp.

20. Không chấp nội nhập.

21. Không chấp ngoại nhập.

22. Không khen thân mình.

23. Không chê người khác

24. Không ở nhà thế tục.

25. Giới hạnh thuần thục.

26. Không khinh chê ai.

27. Có đại phước đức.

28. Tự tri.

29. Không khinh tháo.

30. An trụ oai nghi.

31. Bỏ lời nói thô ác.

32. Không có tâm sân hận.

33. Cứu hộ mọi người.

34. Che chở Thiện tri thức.

35. Hộ trì lời bí mật.

36. Không sinh tâm độc hại đối với các chúng sinh.

37. Không não loạn người trì giới.

38. Luôn nói lời êm dịu.

39. Không nương vào ba cõi.

40. Thuận nhẫn nơi Nhất thiết trí.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Ta đã từng mở cửa cam lồ
Ta đã nói tự tánh các pháp
Ta đã chỉ lỗi lầm sinh tử
Ta mở bày lợi ích Niết-bàn.
Ta đã dạy lìa ác tri thức
Phải thường thân cận Thiện tri thức
Lìa các huyên náo, ở tịch tĩnh
Thường tu tâm Từ không gián đoạn.
Phải thường hộ trì giới thanh tịnh
Hoan hỷ ưa thích hạnh Đầu-đà
Nếu thường huân tập nơi tuệ xả
Được Tam-muội này sẽ không khó.
Người ấy hay được tịch diệt địa
Quyết không rơi vào hàng Thanh văn
Nhất định sẽ chứng trí tuệ Phật
Liền được vô lượng công đức Phật.
Thấy các chúng sinh có trí tuệ
Vì họ chỉ bày, thuyết Phật tuệ
Nếu ai hay cầu trí vô thượng
Được Tam-muội này đâu có khó.
Hoặc vì ăn, khởi tâm ganh ghét
Nên biết ăn rồi, thành bất tịnh
Dụng công vô lượng mới được thành
Nếu quán sâu vậy mới đắc định.
Không vật nào đem định này tới
Chỉ do tịnh giới mới sinh ra
Thể tánh chư pháp thường tịch diệt
Phàm phu vô trí không thể hiểu.
Nếu ai trụ tâm nơi tịch định
Người ấy luôn luôn thường có Phật
Nhân tôn hằng thấy các chúng sinh
Thường tu định tịch diệt như vậy.
Nhớ nghĩ tướng tốt, đức hạnh Phật
Hay khiến các căn không loạn động
Tâm không mê loạn hợp với pháp
Được nghe, được trí như biển cả.
Bậc trí trụ nơi Tam-muội này
Nhiếp niệm hành nơi chỗ kinh hành
Hay thấy ngàn ức chư Như Lai
Cũng gặp vô lượng hằng sa Phật.
Nếu người trong tâm có mê hoặc
Ở trong Phật pháp bị hạn lượng
Ở trong vô lượng không hạn lượng
Các Đức Như Lai khó nghĩ bàn.
Tất cả thế gian không ai bằng
Huống lại có người hơn người ấy
Các trí, các đức đều tương ưng
Người ấy không nghi sẽ thành Phật.
Được thân Như Lai sắc vàng tía
Tất cả đoan trang để gần đời
Duyên nơi tâm an trụ như vậy
Mới gọi là Bồ-tát đắc định.
Nhờ nương tướng Phật là hữu tác
Hay trừ tất cả tưởng hữu tướng
Sau đó an trụ nơi vô tướng
Mới thấu đạt được các pháp không.
Có thể an trụ nơi Pháp thân
Biết tất cả hữu nhưng vô hữu
Đã tu tập tướng vô hữu rồi
Sau đó quán Phật không sắc thân.
Nay ta vì ông nên khéo nói
Người người hướng đến chỗ như vậy
Nghĩa là giác biết các sự duyên
Vô lượng suy nghĩ thường không dứt.
Nếu ai hay sinh tâm như vậy
Niệm tướng tốt và trí tuệ Phật
Người có thể tu niệm như vậy
Một lòng hướng về không thoái chuyển.
Hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc kinh hành
Không nghi hoặc nơi trí chư Phật
Được không nghi rồi phát nguyện rằng:
Khiến con được Phật Tam Giới Tôn
Chắc sẽ gặp được các Như Lai
Vào trong Phật pháp được phân minh
Nơi Tam-muội này mà khởi lên
Cúi đầu đảnh lễ mười phương Phật
Thân, miệng và ý đều thanh tịnh
Tán thán chư Phật thường không dứt.
Thường tu như vậy nhớ tướng Phật
Ngày đêm hằng thấy các Như Lai.
Gặp lúc sắp chết, bệnh ngặt nghèo
Bệnh đau bức bách không chịu nổi
Niệm Phật Tam-muội thường không xả
Không để khổ thống đoạt nhất tâm.
Người ấy vì tự biết pháp này
Nên biết tất cả các pháp không
Nhờ trụ các giáo môn như vậy
Với Bồ-tát hạnh không chán ghét.
Được nghe lợi ích như vậy rồi
Cầu trí vô đẳng của Như Lai
Sau đó không sinh tâm hối tiếc
Bồ-đề tối thượng không đạt được.
Nay ta vì ông nói vô lượng
Ông đối pháp này nếu không thành
Như người tuy giữ thuốc diệu mầu
Tự thân mình bệnh không thể trị.
Cho nên cần phải biết lựa chọn
Nghĩa là cầu Tam-muội thù thắng
Giới, văn, bố thí thường tu tập
Được Tam-muội này sẽ không khó.

QUYỂN 2

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo đồng tử Nguyệt Quang:

–Vào thời quá khứ lâu xa, hơn a-tăng-kỳ kiếp vô lượng vô biên không thể nghĩ bàn, khi ấy có Đức Phật hiệu là Thanh Đức Như Lai, Bậc Ứng cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện ở đời.

Này Đồng tử! Bấy giờ Thanh Đức Như Lai Ứng Chánh Biến, hội chúng đầu tiên của Đức Phật ấy tập hợp tám ức Thanh văn, đều là các bậc A-lahán, lậu hoặc đã hết, đạt được tự lợi, sạch hết hữu kết, nương nơi chánh giáo, tâm khéo giải thoát, có thể đạt được tất cả tâm tự tại.

Hội chúng thứ hai gồm có bảy ức chúng, hội chúng thứ ba gồm có sáu ức chúng. Tất cả những vị đó đều là Đại A-la-hán, các lậu hoặc đã tận, đạt được tự lợi, sạch hết các kết, nương vào chánh giáo, tâm khéo giải thoát, có thể đạt đến tất cả tâm tự tại.

Này Đồng tử! Bấy giờ Đức Phật ấy thọ bốn vạn năm, lúc ấy Diêm-phù-đề được an ổn, giàu có, sung sướng, dân chúng phồn thịnh, khắp nơi sung mãn.

Này Đồng tử! Bấy giờ ở Diêm-phù-đề có hai vị đại vương, một vị tên là Kiên Cố Lực, vị thứ hai tên là Đại Lực. Hai vị đại vương này mỗi người thống lãnh một nửa cõi Diêm-phù-đề. Lãnh thổ của hai vua an ổn, giàu có, sung sướng, dân chúng phồn thịnh, khắp nơi sung mãn.

Khi ấy Như Lai Thanh Đức xuất hiện ở đời tại nước của vua Đại Lực. Này Đồng tử! Bấy giờ vua Đại Lực thỉnh Như Lai Thanh Đức và Tỳ-kheo tăng tròn một ngàn năm. Vị vua ấy đem tất cả sự tùy thuận thanh tịnh, không lỗi lầm, dùng tất cả y phục, ẩm thực, ngọa cụ, thuốc thang, mà cúng dường.

Này Đồng tử! Đức Như Lai Thanh Đức và Tăng chúng Thanh văn được nhiều lợi dưỡng, cung kính tán thán. Lúc đó có các Bà-la-môn, các trưởng giả, tịnh tín đối với Đức Như Lai Thanh Đức và Tỳkheo tăng liền phát ý dũng mãnh, học vua Đại Lực cách cúng dường. Nghĩa là dùng tiền của thế gian làm vật cúng dường thù thắng thì người ấy không biết cách thực hành cúng dường. Vậy thực hành cúng dường bằng cách nào?

–Đó là thọ trì năm giới, tám giới, xuất gia đi đến chỗ Đức Phật, thân cận thưa hỏi để thấy pháp nhẫn sâu xa.

Này Đồng tử! Lúc đó Như Lai Thanh Đức nghĩ như vầy: “Các chúng sinh này ý chí hạ liệt, không thể thọ trì năm giới, tám giới, xuất gia đến chỗ Phật thân cận, thưa hỏi để thấy pháp nhẫn sâu xa, tu các phạm hạnh tịch tĩnh, viễn ly, thọ giới cụ túc, được phần Tỳ-kheo và đem thiện căn rốt ráo thọ hành. Tịch diệt như vậy thì nhạc cụ, diệu lạc vô thượng thảy đều xa lìa, chỉ dùng của cải thế gian để cúng dường ta. Các chúng sinh này chỉ mong sự vui nhỏ mà cho là vui cùng tột. Các chúng sinh này chỉ trọng pháp hiện tại và pháp đời sau mà không thể yêu quý căn lành cứu cánh.

Sao gọi là coi trọng pháp hiện tại? Đó là ưa thích ngũ dục.

Sao gọi là quý trọng căn lành đời sau? Đó là ưa thích sinh lên trời.

Sao gọi là căn lành cứu cánh? Đó là sự thanh tịnh cứu cánh, tốt đẹp cứu cánh, phạm hạnh cứu cánh, cùng tận cứu cánh, tối hậu cứu cánh, Niếtbàn cứu cánh.

Nay ta muốn nói pháp như vậy khiến cho chúng này sinh hạnh bố thí, không vì sự cúng dường tối thắng cứu cánh, chỉ vì hạnh vô thượng mà cúng dường ta.”

Này Đồng tử! Lúc ấy Như Lai Thanh Đức muốn giác ngộ cho vua Đại Lực và các trưởng giả Bà-la-môn đó... nên nói bài kệ:

Nếu người hành bố thí tài thực
Còn tâm bỉ thử không kính nhau
Việc làm như vậy không đáng khen
Chư Phật, bậc Trí đã xa lìa.
Nếu nói bậc Trí tuệ vô ngã
Thắng nhân như vậy nên phụng sự
Nơi Thánh đế ấy tin bất động
Phụng kính như vậy Phật mới khen.
Nếu đem tài thực mà dâng thí
Chỉ được ít lợi nơi hiện tại
Có thể xa lìa thí như vậy
Người ấy thành tựu hạnh xuất gia.
Nếu ai hay khởi tâm không của
Lại hay hiển thị pháp không của
Cũng hay tịnh tín người không của
Người đó mau thành đạo Vô thượng.
Không có ở trong năm dục lạc
Với vợ và con sinh ái trước
Kẻ ngu mãi sống ở trong nhà
Người đó đâu hay được lậu tận.
Nhàm chán năm dục như hầm lửa
Hay lìa ái nhiễm với vợ con
Sợ hãi cư gia cầu ra khỏi
Thành tựu Bồ-đề mới không khó.
Không có chư Như Lai quá khứ
Cùng với hiện tại và vị lai
Thường ở tại gia, sống trong dục
Mà có thể đắc đạo thắng diệu.
Vứt bỏ ngôi vua như nước miếng
Sống nơi xa lìa, chỗ thanh nhàn
Đoạn trừ phiền não, hàng phục ma
Ngộ rõ đạo vô vi ly cấu.
Nếu hằng sa đời rất hùng mạnh
Ngàn vạn ức năm mà cúng dường
Có thể chán sợ ở tại gia
Công đức như vậy mới tối thượng.
Chẳng phải ẩm thực và y phục
Các diệu hoa hương và hương xoa
Những thứ như vậy cúng dường Phật
Như kẻ xuất gia phụng hành pháp.
Nếu ai thích cầu đạo Bồ-đề
Hay lợi chúng sinh, chán thế gian
Hướng đến không nhàn đi bảy bước
Phước báo như vậy mới tối thượng.

Này Đồng tử! Khi vua Đại Lực nghe Như Lai Thanh Đức, Bậc Ứng Chánh Biến Tri nói về nghĩa lợi của sự xuất gia tu hành như vậy xong, lại suy nghĩ rằng: “Như ta đã hiểu nghĩa lý lời Phật dạy, Đức Như Lai chẳng phải nói Đàn ba-la-mật để được thanh tịnh cứu cánh, tốt lành cứu cánh, phạm hạnh cứu cánh, tận cùng cứu cánh, tối hậu cứu cánh, Niết-bàn cứu cánh.”

Vua Đại Lực lại nghĩ như vầy: “Không phải sống tại gia mà có thể đắc sự tu hành vô thượng, đắc sự lợi lạc, tu hành vô thượng, nhưng ta hiện nay xa lìa hạnh này. Nay ta cần phải cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, xuất gia hành đạo!”

Này Đồng tử! Khi ấy vua Đại Lực cùng với quyến thuộc là tám vạn người vây quanh trước sau, đến chỗ Đức Phật Thanh Đức, đảnh lễ dưới chân, nhiễu bên phải ba vòng, rồi ngồi sang một bên.

Này Đồng tử! Bấy giờ Như Lai Thanh Đức biết vua Đại Lực cùng với quyến thuộc trong tâm có sự ưa thích liền vì họ phân biệt, chỉ bày, tuyên nói Tam-muội tất cả các pháp thể tánh bình đẳng không có hý luận.

Này Đồng tử! Khi vua Đại Lực nghe Tam-muội này, vui mừng khôn xiết, trong lòng hết sức yêu thích, liền ở chỗ Đức Phật Thanh Đức xả bỏ ngôi vua, chánh tín xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc ba pháp y. Khi vua đã xuất gia, thì có thể rộng nghe, đọc tụng, nhớ nghĩ, gìn giữ, phân biệt nghĩa lý, tu hành tương ưng với Tam-muội này. Nhờ căn lành này, nên ở trong hai ức kiếp không đọa ác đạo, tuần tự được lại gặp hai ức chư Phật, ở trong Phật pháp thường được xuất gia, ở nơi mỗi mỗi Đức Phật, vua thính thọ, đọc tụng, phân biệt nghĩa lý, tu hành tương ưng với Tam-muội này. Nhờ căn lành này nên tuần tự tròn một trăm ức kiếp được thành Phật đạo, hiệu là Như Lai Trí Dũng, Bậc Ứng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian

Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, làm lợi ích vô lượng, vô biên chúng sinh, sau đó mới nhập Bát-niết-bàn.

Này Đồng tử! Ông hãy quán thần lực của Tammuội này thì có thể khiến cho Bồ-tát chiêu cảm được trí Phật.

Này Đồng tử! Vua Đại Lực ấy đã dẫn tám vạn quyến thuộc đến nghe Tam-muội này, làm cho họ vui mừng vô hạn, tâm rất ưa thích. Họ cũng theo vua, chánh tín xuất gia, cạo bỏ râu tóc, thân mặc pháp y. Các người xuất gia ấy nghe Tam-muội này thì liền đọc tụng, thọ trì, phân biệt, giải thuyết, tu hành tương ưng. Nhờ căn lành này nên ở trong hai ức kiếp không đọa ác đạo. Trong mỗi mỗi kiếp họ gặp một ngàn vạn Đức Phật, ở chỗ các Đức Phật ấy thường được xuất gia. Đã xuất gia rồi nghe Tam-muội này thì đọc tụng, thọ trì, ứng dụng trong sự tu hành. Nhờ căn lành này nên sau đó tròn một trăm ngàn kiếp mỗi vị ở mỗi thế giới đều thành Phật đạo, đồng một danh hiệu là Như Lai Kiên Cố Dũng Kiện, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng

Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn, làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh rồi sau đó các Ngài mới nhập Vô dư Niết-bàn.

Này Đồng tử! Tam-muội này có đại oai lực như vậy, hay khiến cho các Bồ-tát đạt đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bấy giờ Đức Thế Tôn muốn nói lại nghĩa này nên nói bài kệ:

Ta nhớ đời quá khứ lâu xa
Chẳng nghĩ bàn kiếp có Đức Phật
Hay làm lợi lạc cho chúng sinh
Hiệu là Thanh Đức Đại Tiên Tôn.
Hội đầu tập chúng tròn tám ức
Đều là các đệ tử Thanh văn
Hội hai tập chúng số bảy ức
Hội ba sáu ức A-la-hán.
Đã sạch hết lậu, không phiền não
Các sức thần thông đã rốt ráo
Đức Phật sống đến bốn vạn tuổi
Thế giới quốc độ rất nghiêm tịnh.
Cõi Diêm-phù-đề có hai vua
Tên là Đại Lực, Kiên Cố Lực
Lãnh thổ của hai vị vua này
Mỗi vua thống lĩnh nửa Diêm-phù.
Phật sinh trong nước vua Đại Lực
Các vị trời, người dâng cúng dường
Nhà vua tịnh tín nơi Đức Phật
Cung kính cúng dường tròn ngàn năm.
Vô lượng dân chúng học theo vua
Cúng dường Đức Như Lai các thứ
Dùng của cải đời phi pháp cúng
Phật và Thanh văn đều đầy đủ.
Bấy giờ Thế Tôn mới nghĩ rằng:
“Ta nói pháp này để bỏ dục
Sẽ khiến nhà vua sinh nhàm chán
Ở trong pháp ta mà xuất gia”.
Khi ấy Nhân Tôn nói kệ rằng:
“Vứt bỏ pháp ác là Phật giáo
Tại gia lỗi nhiều, đủ các khổ
Tu hành như pháp là cúng Phật”.
Khi vua nghe nói kệ như vậy
Đến chỗ thanh vắng nghĩ như vầy:
“Nay ta không thể ở gia đình
Mà làm pháp cúng dường tối thắng”.
Liền bỏ ngôi vua như nhổ đàm
Cùng với tám vạn các quyến thuộc
Đồng lúc đi đến chỗ Đức Phật
Đầu mặt đảnh lễ đứng trước Phật.
Phật biết tâm họ đều ưa thích
Nên nói định tịch diệt khó thấy
Họ nghe, ái kính và vui mừng
Mọi người hoan hỷ liền xuất gia.
Khi xuất gia rồi với định này
Đọc tụng, thọ trì, rộng phân biệt
Lần lượt trong số hai ức kiếp
Chưa từng đọa lạc ba đường ác.
Vị ấy nhờ các thiện nghiệp này
Được thấy trăm ức các Như Lai
Ở trong Phật pháp thường xuất gia
Tuyên thuyết Tam-muội thù thắng này.
Về sau họ sẽ được thành Phật
Đồng hiệu: Kiên Cố Đại Tinh Tấn
Lợi ích vô lượng ức chúng sinh
Sau nhập Niết-bàn như lửa tắt.
Vào thuở xa xưa vua Đại Lực
Thành Phật từ lâu hiệu Trí Dũng
Lợi ích vô lượng trăm ức chúng
Chứng Bồ-đề rồi nhập Niết-bàn.
Đã nghe lợi ích lớn như vậy
Mạt thế trì kinh, Phật khen ngợi
Nếu hay phụng trì Phật pháp tạng
Họ sẽ mau chóng thành Thế Tôn.

Này Đồng tử! Đó là Đại Bồ-tát vì yêu thích định này nên phải tu tập định này trước tiên.

Này Đồng tử! Vì sao Bồ-tát đối với Tam-muội này phải tu trước tiên?

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát dùng tâm đại Bi làm đầu. Nếu Phật ở tại thế hay Phật đã diệt độ, thường xuyên cúng dường, đó là: Vòng hoa, hương bột, hương xoa, dù lọng báu, âm thanh, ca múa, hát xướng, kỹ nhạc, y phục, ẩm thực, thuốc thang, chữa bệnh. Dùng căn lành này đều để hồi hướng Tam-muội như vậy. Lại không mong cầu các việc khác mà để cúng dường Phật, không cầu sắc đẹp, không cầu tiền của, không vì sinh lên trời, không cầu quyến thuộc, chỉ niệm pháp Tam-muội này. Bồ-tát ấy vẫn ở trong pháp, không thấy có Phật, huống lại ngoài pháp mà thấy có Phật sao!

Cho nên, này Đồng tử! Đó là cúng dường Phật chân chánh mà cũng không thấy có Phật để thành, không chấp ngã tưởng, không cầu quả báo. Bồ-tát ấy Tam luân thanh tịnh, dùng vòng hoa, hương bột, hương xoa, phan, lọng, dù báu, âm thanh, ca múa, hát xướng, kỹ nhạc, y phục, ẩm thực, thuốc thang, chữa bệnh... cúng dường Đức Như Lai để hồi hướng quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nhờ căn lành này nên được công đức không thể nghĩ bàn, quả báo không thể nghĩ bàn. Được Tammuội này nên mau thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Nếu ai dâng hương Vô Biên Trí
Hay được vô lượng quả báo hương
Trong ngàn vạn kiếp lìa đường ác
Hoàn toàn không có các xú uế,
Trong ngàn vạn kiếp hành thắng hạnh
Cúng dường trăm vạn ức Như Lai
Thành Phật đạt được thắng giới hương.
Nếu lại rõ hiểu không chúng sinh
Thí hương, nhận hương cả hai không
Nếu hay khởi tâm thí như vậy
Sẽ được Thuận nhẫn thắng nhu nhuyến.
Nếu người tu nhẫn tăng thượng này
Bị người cắt thân giống như trước
Trong ngàn vạn ức hằng sa kiếp
Nhưng tâm kiên cố không thoái chuyển.
Vì sao mà được gọi là Nhẫn?
Vì sao lại gọi là Tùy thuận?
Vì sao được gọi Không thoái chuyển?
Vì sao lại gọi là Bồ-tát?
Tự tánh hân hoan không ngã chấp
Vì không ngã tưởng, không phiền não
Hay biết các pháp đều tận diệt
Do nhân duyên này gọi là Nhẫn.
Điều chư Phật học, tùy thuận học
Người trí như pháp thường tu hành
Biết pháp chư Phật không nghi hoặc
Cho nên được gọi là Tùy thuận.
Nếu tu hành lúc đời có ma
Hiện làm thân Phật nói lời rằng:
Phật đạo khó được, làm Thanh văn
Không chịu tín thọ là Không thoái.
Giác ngộ các chúng sinh ác kiến
Họ không thể chứng đạo cam lồ
Khuyên bỏ ác đạo, trụ thiện đạo
Cho nên được gọi là Bồ-tát.
Người nhẫn trụ nơi đạo tùy thuận
Nhờ không ngã pháp, khiến khai ngộ
Cho đến trong mộng không khởi niệm
Còn có chúng sinh, tưởng thọ mạng,
Nếu ma vô lượng như hằng sa
Hóa làm thân Phật đến chỗ ta
Hoặc nói trong thân có thần ngã
Liền nói Vô ngã, ngươi “phi Phật”.
Nhờ trí liễu đạt các pháp “Không”.
Biết rồi không sống cùng phiền não
Do hý luận nên nói là Có
Thấy rồi vắng lặng, hành thế gian.
Ví như người đời đã sinh con
Tùy ý của mình đặt tên gọi
Tìm tên khắp nơi cũng không có
Nên biết tên ấy không chỗ đến.
Lập danh Bồ-tát cũng như vậy
Bồ-tát khắp nơi không thể tìm
Cho đến thật tế cầu không được
Người biết như vậy gọi Bồ-tát.
Giả như trong biển đốt lửa cháy
Bồ-tát không hề khởi thân kiến
Bồ-tát được trụ sơ phát tâm
Đoạn sạch ác kiến, hết phiền não.
Không thấy có các pháp sinh diệt,
Gọi là Chúng sinh và Thọ mạng
Thể các pháp không, giống như huyễn
Việc này ngoại đạo không thể biết.
Hoặc sinh tham trước việc ăn uống
Khởi tâm luyến tiếc nơi y bát
Cùng với trạo cử và khinh tháo
Thì không thể biết Phật Bồ-đề.
Ham thích ngủ nghỉ và lười biếng
Gian ngụy, hung bạo không thu nhiếp
Không lòng tịnh tín nơi chư Phật
Thì không thể biết Phật Bồ-đề.
Hủy phá giới cấm không hổ thẹn
Ở trong Phật pháp không uy tín
Không kính các phạm hạnh đồng tu
Thì không thể biết Phật Bồ-đề.
Không hủy tịnh giới, có hổ thẹn
Ở trong Phật pháp rất ưa thích
Hay cung kính người đồng phạm hạnh
Thì mới biết được thắng Bồ-đề.
Lấy cảnh giới Thánh làm niệm xứ
Hoan hỷ chính là giường, ngọa cụ
Lấy thiền làm cơm, định làm canh
Như vậy mới biết Phật Bồ-đề.
Vô ngã, nhẫn là chỗ kinh hành
Ở trong rừng không hành chánh niệm
Hương hoa thất giác rất đáng yêu
Ngửi xong liền thành đạo Vô thượng.
Thể đạo Bồ-tát chỗ tu hành
Không phải việc làm của người khác
Gọi là Thanh văn và Duyên giác
Chỉ có người trí không tham đắm.
Ví thọ mạng ta rất lâu dài
Như cát sông Hằng, vô lượng kiếp
Nối sợi lông Phật đức vô tận
Chút đức của Phật nói không hết.
Nếu nghe lợi ích lớn như vậy
Không sợ những điều Thế Tôn nói
Mau tự dạy người giữ định này
Được Bồ-đề vô thượng không khó.

Này Đồng tử! Cho nên Đại Bồ-tát phải biết nhập vào ba pháp nhẫn một cách khéo léo. Đó là biết nhẫn thứ nhất, nhẫn thứ hai và nhẫn thứ ba. Trong nhẫn này phải biết một cách khéo léo. Lại đối với trí ấy cũng phải biết một cách khéo léo. Vì sao? Vì nếu Đại Bồ-tát đối với trong Nhẫn trí mà biết một cách khéo léo thì Đại Bồ-tát ấy mau được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Cho nên, này Đồng tử! Đại Bồ-tát nếu cầu mau chứng đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì cần phải thọ trì ba môn pháp nhẫn này, thọ trì rồi phân biệt, nói rộng cho người khác nghe, làm lợi ích an lạc vô lượng chúng sinh, cứu giúp thế gian, làm lợi ích an lạc chư Thiên và loài người.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn vì Đồng tử Nguyệt Quang liền nói câu kệ tụng pháp môn nhập vào ba nhẫn này:

Đối với chúng sinh không tranh cãi
Miệng không nói ra lời vô ích
Thường hay an trụ pháp lợi sinh
Gọi đó tên là Nhẫn đầu tiên.
Biết tất cả pháp giống như huyễn
Liền nơi tướng này không chấp thủ
Hay ở trong trí không tăng giảm
Nên gọi là Thắng nhẫn đầu tiên.
Đã tu học các Tu-đa-la
Trí và khéo nói hằng tương ưng
Không nghi hoặc trí Phật vô lượng
Đó gọi là Thắng nhẫn đầu tiên.
Nếu nghe tất cả, khéo thuyết pháp
Giống như Phật thuyết không có nghi
Hay tin tất cả, các pháp Phật
Đó gọi là Thắng nhẫn đầu tiên.
Với kinh liễu nghĩa thường tuyên diễn
Diễn thuyết như chỗ Phật đã nói
Nếu nói: Ngã, nhân và chúng sinh
Liền biết phương tiện mà tiếp dẫn.
Các dị kiến của nhiều ngoại đạo
Với họ, tâm Bồ-tát không đông
Lại đối vơi họ càng xót thương
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ hai.
Các Đà-la-ni đến trước mặt
Với môn Tổng trì không nghi hoặc
Những lời nói ra đều chân thật
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ hai.
Giả sử tướng bốn đại chuyển biến
Đó là đất, nước, gió và lửa
Với Bồ-đề Phật vẫn không lùi
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ hai.
Các nghề công xảo ở thế gian
Bồ-tát thảy đều khéo tu học
Không thấy có người giỏi hơn mình
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Sức Xa-ma-tha được điều phục
Núi Tỳ-bà-xá-na bất động
Tất cả chúng sinh không thể khinh
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Những lời nói ra thường tại định
Đi, đứng, nằm, ngồi luôn thanh tịnh
Chánh định kiên cố đến bờ kia
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Trụ nơi chánh định được thần thông
Đến nhiều cõi Phật để thuyết pháp
Sức thần túc bậc Trí không giảm
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Hoặc khi tu tịch định như vậy
Tất cả các loại quần sinh khác
Không thể biết ngằn mé tâm họ
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Giả sử các chúng sinh thế giới
Cùng lúc thành Phật diễn nói pháp
Người đó đều hay thọ lãnh hết
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phương phụ
Hai phương Trên, Dưới cũng như vậy
Ở trong các phương đều thấy Phật
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Có thể biến hiện vô lượng thân
Tất cả đều có sắc vàng ròng
Đến vô lượng cõi để thuyết pháp
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Các cõi Diêm-phù, thế giới Phật
Tất cả đều thấy hình Bồ-tát
Chư Thiên và người đều hay biết
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Trong pháp chư Phật, chỗ Phật hành
Có các oai nghi của Đạo sư
Bậc Trí có thể khéo tu tập
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Có các chúng sinh trong thế giới
Đều đến khen ngợi Bồ-tát này
Bồ-tát với họ tâm hân hoan
Là chưa tu học nơi trí Phật.
Có các chúng sinh trong thế giới
Mắng nhiếc, hủy báng Bồ-tát này
Với họ, nếu khởi tâm sân hân
Nên biết chưa tu học trí Phật.
Nếu được lợi dưỡng tâm không mừng
Khi bị chống trái không buồn khổ
Tâm mình an trụ giống như núi
Gọi là tướng Thắng nhẫn thứ ba.
Một là tùy thuận âm thanh nhẫn
Hai là tư duy tùy thuận nhẫn
Ba là nhẫn tu tập vô sinh
Học ba nhẫn này được Bồ-đề.
Nếu nơi ba Thắng nhẫn như vậy
Bồ-tát nào có thể đắc được
Thiện Thệ khi thấy Bồ-tát ấy
Liền thọ ký Vô thượng Bồ-đề.
Nếu ai một mình nghe thọ ký
Số ức chúng sinh không nghĩ bàn
Đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề:
Ta cần phải làm Nhân trung tôn.
Nghe nói tiếng thọ ký như vậy
Tức thời đại địa sáu chấn động
Hào quang chiếu khắp mười phương cõi
Mưa hoa thắng diệu nhiều vô lượng.
Nếu nơi ba Thắng nhẫn như vậy
Chỉ có Bồ-tát mới đạt được
Lại không còn thấy có chúng sinh
Nơi đó sinh diệt cũng như vậy.
Nếu nói ba Thắng nhẫn như vậy
Chỉ có Bồ-tát mới được vậy
Đã già, hiện già đều không thấy
An trú trong pháp được như vậy.
Bồ-tát biết rõ các thứ pháp
Thể tánh không tịch giống như huyễn
“Không” ấy cũng lại chẳng sinh diệt
Vì thể các pháp vốn không tịch.
Nếu có chúng sinh đến cung kính
Lễ bái, tôn trọng và cúng dường
Với họ Bồ-tát không ái kiến
Vì thâm đạt thể tánh thế gian.
Nếu có chúng sinh lại đánh mắng
Với họ, Bồ-tát không khinh ghét
Lại khởi lòng Từ với người ấy
Vì muốn khiến họ được giải thoát.
Nếu dùng dao gậy và ngói đá
Với họ trong lòng không tức giận
An trụ trong pháp nhẫn vô ngã
Bồ-tát không sợ, khởi sân hận.
Bồ-tát rõ biết vô số pháp
Thể tánh không tịch, giống như huyễn
Nếu hay an trụ trong pháp này
Làm Bậc cúng dường cho trời, người.
Có người tay cầm dao bén nhọn
Cắt đứt từng phần cơ thể ta
Tâm hay nhẫn chịu không tức giận
Thêm lớn tình thương, trước không hoại.
Khi dùng dao cắt từng chi tiết
Bồ-tát liền sinh ý nghĩ này:
“Nếu ngươi chưa chứng đạo Bồ đề
Ta nguyện chớ chứng được Niết bàn”.
Nhẫn lực như vậy tối vô thượng
Vì nhờ an trụ nhẫn vô ngã
Là đại danh xưng các Bồ tát
Tu tập vô lượng na-do kiếp.
Lại hơn số ấy như hằng sa
Vẫn chưa thể chứng được Bồ đề
Ngay trong lúc đó tu hạnh Phật
Huống là giác trí đâu thể nói.
Dù nói ức kiếp chẳng nghĩ bàn
Đức hiệu của Phật vô cùng tận
Khéo an trụ nơi nhẫn vô ngã
Là đại danh xưng các Bồ tát.
Nếu muốn hay biết được Bồ đề
Cần phải trụ nơi diệu trí tụ
Nếu tu pháp nhẫn chư Phật dạy
Được Thắng Bồ-đề sẽ không khó.

Bấy giờ, Đức Phật bảo Đồng tử Nguyệt Quang: –Vào thời quá khứ rộng lớn lâu xa hơn a-tăngkỳ kiếp, vô lượng vô số không thể nghĩ bàn, khi ấy có Đức Phật tên là Vô Sở Hữu Khởi Như Lai, Bậc Ứng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện ở đời. Sao gọi là Như Lai Vô Sở Hữu Khởi, Bậc Ứng Chánh Biến Tri?

Này Đồng tử! Khi Đức Phật này sinh ra thường bay trong hư không cao đến bảy cây Đa-la, bước bảy bước mà nói rằng: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu! Tất cả các pháp đều vô sở hữu!” Tiếng nói vang khắp tam thiên đại thiên thế giới. Khi ấy Địa thần từ từ loan truyền nhau biết. Cho đến trời Phạm thiên rằng: “Trong thế giới này có Phật ra đời, hiệu là Như Lai Vô Sở Hữu Khởi, Bậc Ứng Chánh Biến Tri. Lúc mới sinh, bước đi bảy bước ở trên hư không, nói rằng: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu!”

Này Đồng tử! Do nhân duyên đó nên hiệu của Phật là Vô Sở Hữu Khởi. Khi Đức Phật ấy thành Chánh giác, tất cả cây cối, rừng rậm, cỏ thuốc đều phát ra tiếng nói: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu!” Này Đồng tử! Thế giới lúc ấy đều phát ra các âm thanh cũng nói rằng: “Tất cả các pháp đều vô sở hữu!”

Này Đồng tử! Bấy giờ Đức Như Lai Vô Sở Hữu Khởi khi đang thuyết pháp có một vị vương tử tên là Tư Duy Đại Bi, hình mạo đoan chánh, ai cũng yêu thích, tâm hành điều hòa, nhu nhuyến.

Này Đồng tử! Khi ấy vương tử đi đến chỗ Đức Như Lai Vô Sở Hữu Khởi, đảnh lễ dưới chân, nhiễu quanh ba vòng, rồi lui về ngồi một bên. Bấy giờ Đức Như Lai Vô Sở Hữu Khởi biết vương tử Tư Duy Đại Bi thâm tâm ưa thích liền nói: “Tammuội thể tánh tất cả pháp bình đẳng không hý luận.” Vị vương tử nghe xong, được tâm tịnh tín, xuất gia hành đạo, cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa. Khi đã xuất gia, vương tử đọc tụng, thọ trì, vì người khác phân biệt, hiển bày rộng rãi Tam-muội này. Nhờ căn lành này nên vương tử ấy trong hai mươi kiếp không đọa ác đạo, cứ trong mỗi kiếp gặp được hai ức Đức Phật, hơn hai mươi kiếp thì được thành Phật đạo, hiệu là Như Lai Thiện Tư Nghĩa, Bậc Ứng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện ở đời.

Này Đồng tử! Ông nên quán thấy Tam-muội này có oai lực ấy có thể khiến cho Bồ-tát chiêu cảm được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát nên an trụ trong pháp Nhẫn sâu xa ấy. Vì sao Đại Bồ-tát có thể an trụ trong pháp Nhẫn sâu xa?

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát nên quán như vầy: Tất cả pháp giống như huyễn hóa, như mộng, như ngựa hoang, như tiếng vang, như ánh nắng, như trăng dưới nước, như tánh của hư không; nên biết như vậy.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát nếu quán như thật về tất cả pháp như huyễn hóa, như mộng, như ngựa hoang, như tiếng vang, như ánh nắng, như trăng dưới nước, như tánh của hư không. Đó gọi là Đại Bồ-tát an trụ Nhẫn sâu xa.

Nếu thành tựu được Nhẫn sâu xa, Bồ-tát ở nơi pháp nhiễm mà không nhiễm, ở nơi pháp sân mà không sân, ở nơi pháp si mà không si. Vì sao? Vì Bồ-tát này không thấy nơi pháp, cũng vô sở đắc, không thấy người ô nhiễm, không thấy nghiệp ô nhiễm, không thấy người sân, không thấy việc sân, không thấy nghiệp sân, không thấy người si, không thấy việc si, không thấy nghiệp si.

Đại Bồ-tát đối với pháp như vậy đều không chỗ thấy, đều không chỗ đắc. Đó là hoặc nhiễm, hoặc sân, hoặc si. Bồ-tát ấy vì không chỗ thấy, nên liền không chỗ bị nhiễm, không chỗ sân, không chỗ si. Bồ-tát ấy như thật không nhiễm, không sân, không si, nên tâm không điên đảo, được gọi là định, gọi là không hý luận, gọi là đáo bỉ ngạn, gọi là đất bằng, gọi là đến chỗ an ổn, gọi là đến chỗ vô úy, gọi là thanh lương, gọi là trì giới, gọi là bậc trí, gọi là bậc tuệ, gọi là phước đức, gọi là thần túc, gọi là nhớ nghĩ, gọi là thọ trì, gọi là trí tuệ, gọi là người ra đi, gọi là người hổ thẹn, gọi là người tín nghĩa, gọi là người công đức Đầu-đà, gọi là người không đắm trước nữ sắc, gọi là người không nhiễm trước, gọi là bậc Ưng cúng, gọi là người đã dứt sạch các lậu hoặc, gọi là người tự tại không phiền não, gọi là tâm người giải thoát, gọi là tuệ người giải thoát, gọi là người điều phục, gọi là Đại long, gọi là việc làm đã xong, gọi là không còn gì để làm nữa, gọi là xả bỏ gánh nặng, gọi là đã được tự lợi, gọi là sạch hết hữu kết, gọi là nương chánh giáo, tâm khéo giải thoát, gọi là đến tất cả tâm tự tại, gọi là Sa-môn, gọi là Bà-la-môn, gọi là người tắm rửa, gọi là người đã qua sông, gọi là bậc biết rõ ràng sáng suốt, gọi là người nghe, gọi là Phật tử, gọi là Thích tử, gọi là người vứt bỏ gai góc, gọi là người vượt qua hầm hố, gọi là người nhổ tên độc, gọi là người không nóng, gọi là người không còn bụi bặm, gọi là Tỳ-kheo không ngăn che, trói buộc, gọi là Trượng phu, gọi là Thiện trượng phu, gọi là Thắng trượng phu, gọi là Đại trượng phu, gọi là Sư tử trượng phu, gọi là Đại long trượng phu, gọi là Ngưu vương trượng phu, gọi là Khéo điều phục trượng phu, gọi là Dũng kiện trượng phu, gọi là Trượng phu gánh vác, gọi là Tinh tấn trượng phu, gọi là Hung dữ trượng phu, gọi là Như hoa trượng phu, gọi là Liên hoa trượng phu, gọi là Phân-đà-lợi trượng phu, gọi là Điều ngự trượng phu, gọi là Mặt trăng trượng phu, gọi là Mặt trời trượng phu, gọi là tác nghiệp trượng phu, gọi là Lưỡng túc trung thượng, gọi là tận cùng bờ trí, gọi là hơn bậc Đa văn tối thắng, gọi là đã tu phạm hạnh, gọi là việc làm rốt ráo, gọi là không nhiễm tất cả điều ác.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ tụng:

Khi kiếp tận, ta họa
Thế giới trở thành không
Như trước, sau cũng vậy
Ví các pháp cũng thế.
Xem khởi tạo thế gian
Đều như trụ trên nước
Như dưới trên cũng vậy
Các pháp cũng như thế.
Như bầu trời không mây
Bỗng nhiên nổi âm u
Biết nó từ đâu sinh
Các pháp cũng như thế.
Như Lai Niết-bàn rồi
Ý tưởng thấy hình Phật
Như trước, sau cũng vậy
Các pháp cũng như thế.
Giống như đống bọt nước
Bập bềnh trên dòng thác
Thấy nó không chắc thật
Các pháp cũng như thế.
Như trời mưa trên nước
Bọt nước nổi nơi nơi
Sinh đâu liền diệt đó
Các pháp cũng như thế.
Ví như trong ngày xuân
Ánh sáng chiếu rực rỡ
Bóng nắng giống như nước
Các pháp cũng như vậy.
Như bẹ thân cây chuối
Nếu chặt tìm chỗ cứng
Trong ngoài đều không chắc
Các pháp cũng như vậy.
Như huyễn, tạo nhiều thân
Là nam, nữ, voi, ngựa
Tướng ấy chẳng chân thật
Các pháp cũng như thế.
Ví như có đồng nữ
Đêm nằm mộng sinh con
Sống mừng, chết ưu khổ
Các pháp cũng như vậy.
Như người mộng hành dâm
Tỉnh giấc chẳng thấy gì
Ngu si trọn chẳng được
Các pháp cũng như vậy.
Như trăng sáng bầu trời
Bóng hiện nơi ao sạch
Mặt trăng đâu vào nước
Các pháp cũng như vậy.
Như người tự ưa thích
Lấy kiếng soi mặt mình
Bóng gương chẳng thể nắm
Các pháp cũng như vậy.
Như ngựa hoang thấy nước
Người ngu muốn đến uống
Không thật, sao cứu khát!
Các pháp cũng như vậy.
Như người ở hang núi
Tiếng ca khóc, nói cười
Tiếng vang chẳng thể cầm
Các pháp cũng như vậy.
Như bảng cấm các nước
Thiện ác theo đó làm
Không ngôn giáo chẳng có
Các pháp cũng như vậy.
Như người uống rượu say
Thấy mặt đất xoay chuyển
Kỳ thật đất chẳng động
Các pháp cũng như thế.
Pháp duyên khởi không có
Không có lại chẳng có
Người phân biệt có không
Tức là khổ không diệt.
Nơi “có” không phân biệt
Tranh luận tịnh, bất tịnh
Xa lìa hai bên ấy
Bậc Trí trụ trung đạo.
Quán thân lúc ban đầu
Nơi thân, không tưởng thân
Nếu hay biết như vậy
Chính là tánh vô vi.
Mắt, tai, mũi vô hạn
Lưỡi, thân, ý cũng vậy
Người phân biệt nơi căn
Thì không dùng Thánh đạo.
Với các căn vô hạn
Thể ngoan không, vô ký
Muốn mong vui Niết-bàn
Phải tu nghiệp Thánh đạo.
Diễn thuyết bốn Niệm xứ
Ngu bảo thân chứng mạn
Thân chứng không ngã mạn
Vì hay diệt các mạn.
Diễn thuyết về bốn Thiền
Ngu bảo đắc thiền hành
Người diệt mê không mạn
Nhờ tuệ quán đoạn mạn.
Diễn thuyết bốn Chân đế
Kẻ ngu bảo thấy Đế
Thấy thật thì không mạn
Thế Tôn nói như vậy.
Tuy đọc hết các kinh
Ỷ đa văn, hủy giới
Đa văn không thể cứu
Phá giới khổ địa ngục,
Tự thị việc trì giới
Mà không học đa văn
Phước báo trì giới hết
Trở lại thọ các khổ,
Đa văn cùng trì giới
Cả hai không ỷ lại.
Khinh mạn người phước mỏng
Do đó sinh các khổ
Mạn là gốc các khổ
Các Đạo sư đã nói
Có mạn khổ tăng trưởng
Lìa mạn khổ liền diệt.
Đời tuy tu Tam-muội
Mà không lìa ngã tưởng
Lỗi lầm lại khởi lên
Giống như Ưu-điệt-ca.
Nếu tu sự vô ngã
Trong đó sinh vui mừng
Là nhân vui Niết-bàn
Chẳng do pháp thế gian.
Như bị lũ giặc vây
Vì sống, muốn chạy trốn
Không chân, không thể chạy
Liền bị giặc giết hại.
Kẻ si phá giới vậy
Muốn ra khỏi thế gian
Không giới, không thể đi
Bị lão, bệnh, tử giết.
Như giặc mạnh cầm đao
Cướp giật hại khắp nơi
Phiền não cũng như vậy
Hại căn lành chúng sinh.
Nhiều người nói ấm không
Không biết ấm vô ngã
Nếu hỏi ấm có không
Nhăn mày, giận đối đáp.
Nếu biết ấm vô ngã
Nghe chửi, tâm không giận
Mê hoặc buộc, thuộc ma
Ngộ không, không phẫn nộ.
Như người bệnh, thân đau
Nhiều năm khổ bức não
Bệnh này qua nhiều năm
Muốn tìm thuốc chữa lành.
Người ấy hỏi nhiều nơi
Liền gặp được thầy hay
Thầy thương cho thuốc tốt
Bảo uống, sẽ lành bệnh.
Người ấy được thuốc hay
Không uống, bệnh không lành
Không phải lỗi thầy thuốc
Nên biết lỗi người bệnh.
Nơi pháp này xuất gia
Đọc tụng Đạo phẩm giáo
Nói và làm không giống
Làm sao được giải thoát?
Thể tánh các pháp không
Con Phật quán việc ấy
Tất cả hữu đều không
Ngoại đạo không hề có.
Trí ngu không tranh nhau
Dũng mãnh nên lìa bỏ
Bị mắng không trả thù
Pháp ngu ngươi chớ ghét.
Trí, không ngu qua lại
Khéo biết tánh huân tập
Tuy lại cùng thân nhau
Sau trở thành oán ghét.
Trí không thân với ngu
Biết chí họ không bền
Thể tánh tự phá hoại
Đừng làm bạn với ngu.
Nếu nghe lời như pháp
Người hủy giới không vui
Tự nhiên khởi sân hận
Nên biết là người ngu.
Người ngu hợp người ngu
Như phân trộn với phân
Trí với trí cùng ở
Như hợp hai đề hồ.
Không xét lỗi thế gian
Không tin vào nhân quả
Không tin lời Phật dạy
Ở đời bị xa lìa.
Bần cùng không của cải
Không sống, cầu xuất gia
Đã xuất gia pháp ta
Lại tham trước y, bát,
Họ gần ác tri thức
Phá hủy cấm giới ta.
Không tự quán việc mình
Trong tâm không an trú
Ngày đêm sống phi pháp
Làm ác không biết chán.
Thân tâm luôn phóng dật
Miệng thường nói lời thô
Luôn rình mò lỗi người
Thấy rồi nói người khác.
Tự che lỗi của mình
Là tướng rất ngu si
Người ngu ham ăn uống
Không thể biết độ lượng.
Nhờ Phật được ăn uống
Vẫn không tâm báo đền
Được món ăn thượng diệu
Không đúng với pháp ấy
Ngược lại ăn bị hại
Như voi ăn sen bùn.
Tất cả món thượng vị
Người trí tuy ăn vào
Căn vắng lặng không tham
Chọn món ăn như pháp.
Tuy có người trí sáng
Hỏi kẻ ngu đâu đến?
Không thân luyến với họ
Chỉ khởi lòng xót thương.
Người trí lợi kẻ ngu
Kẻ ngu làm suy tổn
Ta thấy lỗi này rồi
Như nai ở chỗ vắng.
Người trí thấy lỗi này
Không ở chung với ngu
Nếu lui tới kẻ ngu
Mất trời huống Bồ-đề.(Þ)

Þ Sinh Thiên còn khó huống chi được quả Bồ-đề.

Người trí thường Từ bi
Từ, Bi hợp với hỷ
Thường Xả tất cả hữu
Tu định, chứng Bồ-đề.
Ngộ đạo, trừ lo sợ
Thấy người già chết khổ
Nên khởi lòng xót thương
Nói lời hợp chân nghĩa.
Nếu người biết Phật pháp
Lìa ngôn thuyết Thánh đế
Nếu ai nghe pháp này
Lìa tham thực, Thánh thương.

Này Đồng tử! Vì nghĩa lý đó nên muốn được thành tựu hạnh kiên cố, Bồ-tát nên học như vậy. Vì sao? Này Đồng tử! Nhờ hạnh kiên cố nên Bồ-tát đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không khó khăn, huống gì là Tam-muội này vậy.

Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang bạch Phật:

–Hy hữu thay Thế Tôn! Như Lai, Bậc Ứng Chánh Biến Tri đã khéo nói về hạnh kiên cố này để nhập vào pháp Tam-muội ấy. Ngài đã khéo nói, khéo kiến lập tất cả sở học Bồ-tát. Đó chính là tất cả hành xứ của Như Lai, không phải là địa vị của Thanh văn, Bích-chi-phật làm được, huống gì là ngoại đạo!

Bạch Thế Tôn! Nay con sẽ trụ hạnh kiên cố này. Vì sao? Vì con muốn sở học như Phật. Nay con muốn học vì con muốn biết quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ấy. Con muốn phá hoại ma Ba-tuần và quyến thuộc của chúng. Con muốn giải thoát tất cả khổ cho chúng sinh. Cúi mong Đức Như Lai và Tỳ-kheo tăng cùng các quyến thuộc chứng minh, chấp nhận sự thỉnh cầu của con, là vì thương xót con.

Bấy giờ Đức Như Lai và Tỳ-kheo tăng im lặng chấp nhận. Đồng tử Nguyệt Quang thỉnh Phật và Tỳ-kheo tăng sáng ngày mai đến thọ thực và được Phật chấp nhận.

Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang đã được Đức Như Lai chấp nhận sự cúng dường nên vui mừng khôn xiết, hạnh sâu xa, liền từ tòa đứng dậy, bày áo vai bên phải, đảnh lễ dưới chân Đức Phật, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi cáo từ ra về.

Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang hướng về thành Vương xá để trở về nhà mình. Về đến nhà thì ngay đêm ấy liền chuẩn bị các thứ ẩm thực thượng vị nhiều vô số. Tại thành Vương xá, nơi nơi đều treo lụa năm màu, rải các loại hoa, dựng tràng phướn lọng, đốt các hương thơm, bố thí các mùng màn, quét sạch đường sá, vứt bỏ ngói gạch. Tại ngã tư đường rưới nước làm cho sạch sẽ, rải tung bột chiên-đàn và các loại quý báu khắp nơi; lại tung các loại hoa, các thứ hoa báu xen kẻ trên mặt đất giống như hình vẽ; lại dùng vô lượng vật dụng chạm trổ, trang nghiêm các nẻo đường. Trong thành, khắp nơi đều có hoa Ưu-bát-la, hoa Câu-vật-đà, hoa Bátđầu-ma, hoa Phân-đà-lợi. Ở trong nhà toàn dùng chiên-đàn ngưu đầu rải quanh, dùng các thứ trang nghiêm, giăng các trướng báu. Vì Đức Phật Thế Tôn mà Đồng tử bày những món ăn thượng vị.

Khi Đồng tử làm những việc trang nghiêm thành quách, đường sá, nhà cửa như vậy, bày các vật cúng dường suốt đêm đầy đủ đến lúc sáng sớm, cùng với tám mươi na-do-tha Bồ-tát, mà Bồ-tát Adật-đa-làm thượng thủ. Các vị ấy là Bồ-tát Quán Thế Âm, Bồ-tát Đại Thế Chí, Bồ-tát Hương Thượng, Bồ-tát Bảo Tràng, Bồ-tát Man Thắng, Đồng tử Bồ-tát Văn-thù Sư Lợi, Bồ-tát Dũng Kiện Quân, Bồ-tát Diệu Tý, Bồ-tát Bảo Hoa, Bồ-tát Bất

Hư Hiện. Các Đại Bồ-tát như vậy đối với các Bồtát khác làm bậc Thượng thủ, cùng các chúng Đại Bồ-tát như vậy, vây quanh trước sau, ra khỏi đại thành Vương xá, đến chỗ Đức Như Lai, sửa lại y phục, đầu mặt đảnh lễ, nhiễu quanh bên phải ba vòng, bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Đã đến giờ thọ thực, trai soạn đã dọn xong, mong Thế Tôn hạ cố vào thành Vương xá đến nhà con, vì lòng xót thương mà thọ nhận sự cúng dường của con.

Bấy giờ Đức Thế Tôn, trước đó đã đắp y, cầm bát, cùng Đại Tỳ-kheo cả thảy đến trăm ngàn vị, vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha Đại Bồ-tát, Trời, Rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già... vô lượng trăm ngàn vị đồng tử đã thiết lễ cúng dường, cung kính tán thán đại oai lực của Phật, đại thần túc của Phật, đại biến hiện của Phật, đại oai nghi của Phật, đã phóng ra trăm ngàn vạn ức na-do-tha ánh sáng, tấu lên trăm ngàn loại kỹ nhạc, mưa các thứ hoa trời. Vì thọ nhận sự cúng dường của Đồng tử Nguyệt Quang, nên Đức Phật vào thành Vương xá.

Đức Phật với sự tích tập vô lượng căn lành từ lâu, nên lúc bàn chân có bánh xe ngàn căm bước vào thành thì hiện ra vô số sự thần biến chưa từng có. Chư Phật Như Lai, nếu khi vào thành, pháp như vậy là đều hiện sự thần biến ấy. (Nay các ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì các ông mà nói).(Þ)

(Þ) Trong đoạn văn tường thuật lại xuất hiện câu thoại trực tiếp. (ĐT.15, p.559b).

Khi Đức Phật vào thành, có thần đức nói kệ tụng rằng:

Đại Tiên vào thành vua
Chân Ngài bước vào thành
Oai lực động đại địa
Chúng sinh đều hoan hỷ.
Các người thiếu ăn uống
Được lìa khổ đói khát
Thân ấy đều no đủ
Nhờ Phật vào cổng thành.
Người điếc, đui, câm, ngọng
Kẻ bần cùng, phước mỏng
Các căn đều đầy đủ
Nhờ Phật vào cổng thành.
Ngạ quỷ cõi Diêm-la
Ăn đờm, mủ, phân, tiểu
Được món ăn của trời
Nhờ Phật bước vào thành.
Các núi và núi báu
Các thứ hoa quả rừng
Khom mình hướng về Ngài
Nhờ Phật bước vào thành.
Biển cả, thành, tụ, ấp
Đất có sáu chấn động
Không bức não chúng sinh
Nhờ Phật bước vào thành.
Người, Trời, Cưu-bàn-trà
Hoan hỷ ở không trung
Cầm lọng báu che Phật
Phát tâm đại Bồ-đề.
Các âm nhạc không đánh
Tự nhiên phát tiếng hay
Mọi ngươi đều hoan hỷ
Nhờ Phật bước vào thành.
Trăm ngàn vạn ức cây
Dâng Phật đủ hoa quả
Chư Thiên đứng giữa không
Chẳng phải người bày cúng.
Trăm ngàn các Ngưu vương
Vua thú, sư tử rống
Voi, ngựa đều cúi lạy
Nhờ Phật bước vào thành.
Các đại vương trong nước
Thấy Thế Tôn Thập Lực
Đạo sư sắc thắng diệu
Hoan hỷ nên đảnh lễ.
Mọi người tâm mừng khen
Hoặc tung các diệu hoa
Chắp mười ngón tay lại
Khen Phật là đại Bi.
Hoặc tung các anh lạc
Ấn Cừ tý kim ngân
Hoặc tung lên sư tử
Phát tâm đại Bồ-đề.
Người nữ dâng tóc vàng
Hoặc rải các hoa thơm
Hoặc cởi vàng, anh lạc
Trang điểm nơi thân thể.
Có người tung hoa vàng
Các vật để trang sức
Tuy bỏ không một lòng
Mong cầu chư Phật đạo.
Dân chúng mặc y đẹp
Hoặc lại rải đảnh châu
Và giăng các lưới báu
Vì Phật vào cổng thành.
Nếu người bệnh khổ bức
Cung tên ưu sầu bắn
Tất cả đều an lạc
Nhờ oai đức Đạo Sư.
Câu-sí-la, anh võ
Khổng tước và Tần-già…
Các chim trong không trung
Phát tiếng hay, hòa nhã.
Các chim tâm vui mừng
Khi phát diệu âm này
Diệt được người tu hành
Phiền não, tham, sân, si.
Vô lượng ức chúng sinh
Nghe tiếng được thuận nhẫn
Làm Thánh thọ ký họ
Vị lai đều thành Phật.
Thấy thân Phật Thập Lực
Chúng sinh thích trí Phật
Con làm sao để được
Phật biết muốn thọ ký.
Mỗi lỗ chân lông Phật
Phóng trăm ngàn ánh sáng
Chiếu khắp các cõi Phật
Do Phổ Nhãn vào thành.
Trời, trăng bị khuất lấp
Lửa trời ma-ni báu
Các ánh sáng không hiện.
Vì Phật vào cửa thành.
Trăm ngàn hoa sen nở
Ngàn cánh ra khỏi bùn
Đấng Thập Lực bước lên
Cùng chúng dạo khắp thành.
Đường đi thật sạch sẽ
Toàn trải bằng hương quý
Khắp thành đốt hương thơm
Mùi thơm rất đáng yêu.
Đường sá thật tráng lệ
Trừ khử hết ngói, gạch
Nhờ công đức Thập Lực
Đủ các thứ hương hoa.
Trăm ngàn ác Dạ-xoa
Thấy thân Phật sắc vàng
Khởi tâm đại Bi mẫn
Tịnh tâm quy y Phật.
Các Thiên cung trống không
Đều đến chiêm ngưỡng Phật
Hư không mưa các hoa
Khi Phật vào thắng thành.
Nếu có người rải hoa
Chỗ đức Nhân Thiên Sư
Thành lọng hoa che Phật
Thân trang nghiêm tốt đẹp.
Người, Trời và Tu-la…
Thấy Phật, Bậc Thập Lực
Tâm hoan hỷ vui mừng
Chưa từng có nhàm chán.
Bên phải trăm ngàn Phạm
Bên trái trời Đế Thích
Vô số trời trong không
Cung kính Tam Giới Tôn.
Khi Phật thần biến xong
Khai thị thắng diệu pháp
Trăm ngàn chúng nghe xong
Phát tâm đại Bồ-đề.
Tướng tốt, hoa làm thân
Như sao đầy bầu trời
Phật đi đường của vua
Như trăng tròn trên trời.
Như báu tịnh ma-ni
Trong sạch, không tỳ vết
Phóng ánh sáng mười phương
Cõi Phật chiếu cũng vậy.
Các vị trời vây quanh
Nhân Tôn vào thành vua
Đi trên đất như vẻ
Vào nhà của Nguyệt Quang.
Thành quách đều trang nghiêm
Trăm ngàn ức phướn lọng
Chiên-đàn rải mặt đất
Tung hoa để trang nghiêm.
Đi Phật đi trên đường
Phát lòng thương rộng lớn
Miệng phóng vô lượng quang
Tỏa hương mà thuyết pháp.
Thấy thân Phật liền vui
Hoan hỷ chẳng nghĩ bàn
Khi nào chúng ta được
Cúng dường Bậc Pháp Vương.
Vô lượng người phát tâm:
“Sáng mai ta thỉnh Phật
Bậc thương đời cứu độ
Rất lâu khó gặp được”.
Hoặc dọn sạch đường thành
Thắng diệu tự trang nghiêm
Đủ các hoa, anh lạc
Cúng Phật, vì Bồ-đề.
Hoặc vòng hoa Chiêm-ba
Bà-sư, Mục-đa-già
Hoặc là giăng vải lụa
Phát chí tâm thuần nhất.
Hoặc tại gia, tâm tịnh
Y đẹp tự trang nghiêm
Dùng lụa đẹp, các hoa
Cúng dường chúng Tỳ-kheo.
Với hoa Ưu-bát-la
Lại tung hoa Diệu kim
Các thứ báu ma-ni
Hoặc tung bột chiên-đàn.
Hiện các việc hy hữu
Không thể tính số lượng
Khi Phật đi vào thành
Nhiều người phát tâm đạo.
Không phiền não thấy đế
Trời Thiện hiện, Thiện kiến
A-ca-ni ly dục
Tất cả đến xem Phật.
Thân ngọt ngào quả lớn
Trăm na-do-tha chúng
Như ma-ni chiếu sáng
Đều đến chiêm ngưỡng Phật.
Vô số Tịnh Thiên tử
Và các trời Thiểu tịnh
Vô lượng Tịnh Thiên tử
Đều đến xem Đại Tiên.
Các Thiên tử Thiểu quang
Và trời Vô lượng quang
Các Thiên tử Quang âm...
Cũng đều đến xem Phật.
Thiên tử trời Phạm phụ
Cùng với trời Phạm chúng
Các định tạng Đại phạm...
Đều đến xem Thế Tôn.
Tha hóa Thiên hoan hỷ
Hóa lạc Thiên thiện tâm
Chúng Đâu-suất, Diêm-ma
Thiên vương Tam thập tam,
Bốn phương bốn Thiên vương
Tài chủ Tỳ-lâu-lặc
Ác Nhãn Đề-lại-tra
Liền đến lễ kính Phật.
Vua Dạ-xoa đại lực
Cùng quyến thuộc tâm tịnh
Cùng thân tộc trên không
Mưa các diệu hoa trời.
Hằng Túy cầm hoa trời
Nắm các thứ vòng hoa
Cùng quyến tộc hoan hỷ
Cúng dường Thắng trượng phu.
Bách Khí Túc Dạ-xoa
Cùng vợ và quyến thuộc
Tự tấu âm nhạc hay
Cúng dường Đức Như Lai.
Vui mừng say sưa hát
Là vua Khẩn-na-la
Sống ở đỉnh Hương sơn
Vui mừng đến tập hội.
Bà-nhã Thiểm-bà-lợi
La-hầu Tỳ-ma-chất
Cùng đại oai đức khác
Mưa các loại vật báu.
Hơn vô lượng La-sát
Nhiều chúng đang vây quanh
Đều cầm các diệu hoa
Cung kính tung lên Phật.
Đại Long vương A-nậu
Nữ thiện học âm nhạc
Tấu trăm thứ tiếng hay
Thành tâm cúng dường Phật.
Năm trăm Nậu Long tử
Cầu trí Bồ-đề rộng
Cùng quyến thuộc vây quanh
Đều cúng Vô thượng tôn.
Long vương A-ba-la
Chắp tay hướng về Phật
Cầm trân châu Long thắng
Trên không cúng dường Phật.
Long vương Mục-chân-đà
Nỗi vui mừng khôn xiết
Tung các áo đẹp quý
Tịnh tâm mà cúng dường.
Họ khởi tâm kính Phật
Niệm vô lượng công đức
Các thân quyến vây quanh
Đều đến khen ngợi Phật.
Nan-đà, Bạt-nan-đà
Đức-xoa, Hắc-cù-đàm
Cùng quyến thuộc đến Phật
Quỳ gối lạy Thiện Thệ.
Long vương Y-la-bát
Trăm quyến thuộc khóc lóc
Nhớ nghĩ Phật Ca-diếp
Chán ghét sự thọ sinh.
Xưa ta mãi nghi hoặc
Phá Tiểu Y Lan Diệp
Nên sinh nơi nạn xứ
Không thể biết Phật pháp.
Rất ghét thân rắn này
Muốn mau bỏ loài rồng
Biết được pháp thanh lương
Đã đạt được đạo tràng.
Hằng ngàn Long vương khác
Hải long, Ma-na-tư
Đem áo rồng thượng diệu
Đến dâng Nhân Trung Tôn.
Điều-đạt ném đá Phật
Dạ-xoa trú hư không
Tên là Kim-tỳ-la
Cung kính đến trước Phật.
Thành A-tra Dạ-xoa
Đại Dạ-xoa Không Thiên
Giao hẹn cùng tập hội
Cúng dường Bậc Đại Tiên.
Dạ-xoa Khôi Mao Châm
A-tra-bà đáng sợ
Tuyết sơn, Đà-đa-sơn
Lừa Dạ-xoa quy Phật.
Các thân hình khác nhau
Mặc áo rách đáng sợ
Quỷ Đa-na-do-tha
Dâng vật quý cúng Phật.
Kim sí điểu Thực Hải
Biến thành Bà-la-môn
Mão báu tự trang nghiêm
Trên hư không lạy Phật.
Các thành ở Diêm-phù
Tất cả trời Đại lâm
Thần của thành đồng đến
Cúng dường Thế Gian Giải.
Vô lượng Lâm thiên đến
Cùng với các thọ thần
Cùng tất cả thần sông
Vân tập đến Pháp vương.
Thần núi Phong Nham Lãnh
Trời Đội Phụ cùng đến
Thần suối với ao hồ…
Cùng Hải thần vui đến.
Trời, Người, Quỷ, Tu-la
Ca-lâu với Cưu-bàn…
Ngạ quỷ, Phú-đơn-na
Đều đến cúng dường Phật.
Chư Thiên, chúng Tu-la
Ly mạn, đều cúng dường
Thấy Phật vào Vương thành
Nhìn mãi mà không chán.
Hơn tu Bồ-tát hạnh
Cúng dường Phật Thế Tôn
Phật làm tịnh nghiệp này
Chúng sinh nhìn không chán.
Núi Tu-di luân thảy
Và các núi Diêm-phù
Không thể làm chướng ngại
Chư Phật chiếu sáng khắp.
Các biển Ta-bà này
Đất đai đều bằng phẳng
Cõi Phật đều biến khắp
Rải các hoa khắp đầy.
Trăm ngàn các ánh sáng
Phóng dưới chân Pháp vương
Địa ngục đều mát mẻ
Trừ khổ được an lạc.
Đấng Thập Lực thuyết pháp
Trời, người được tâm tịnh
Vô lượng trăm ngàn chúng
Quyết định nơi Phật đạo.
Vô đẳng đẳng vào thành
Hiện sự thần biến này
Vô lượng trăm ngàn kiếp
Phật nói vãn không cùng.
Thắng đức tụ như vậy
Ngưu vương vượt bờ kia
Tất cả đức cứu cánh
Cúi lạy Phật phước điền.

Bấy giờ Đức Thế Tôn cùng các Tỳ-kheo vây quanh trước sau, đi đến chỗ ở của Đồng tử Nguyệt Quang, ngồi lên tòa đã đặt sẵn. Các Tỳ-kheo thứ lớp ngồi xong, khi ấy Đồng tử Nguyệt Quang biết Đức Phật, Bồ-tát, Tỳ-kheo đã ngồi xong, tự tay bưng dọn các món ăn tuyệt hảo. Đó là: Khư-thiềnni, Bồ-thiền-ni, Lê-kha-na, Chư-sa-ni... Lại đem nước uống, dùng thức ăn trăm vị, làm cho Đức Như Lai và đại chúng được no đủ. Khi thấy chư Tôn đã no đủ, Đồng tử vui mừng nhảy nhót, hết sức hân hoan.

Đức Phật và đại chúng đã thọ thực xong, cất bát, rửa tay. Đồng tử dùng y giá trị vạn ức dâng lên Như Lai. Chúng Tỳ-kheo tùy theo thứ lớp: Thượng, trung hay hạ, đồng tử đều thứ lớp dâng cúng. Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang dâng y lên Phật và Tăng xong, bày áo vai bên phải, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay đảnh lễ, đứng trước Đức Phật, im lặng, nói bài kệ để hỏi Đức Thế Tôn:

Bồ-tát, bậc Trí làm hạnh gì
Thường hay biết rõ các pháp tánh?
Làm sao thay vào nghiệp đã tạo?
Cúi mong Đạo Sư nói cho con.
Làm sao biết được kiếp quá khứ?
Làm sao không vào bào thai nữa?
Làm sao để được chúng không hoại?
Làm sao để được vô lượng biện?
Định tuệ Vô thượng Lưỡng Túc Tôn?
Như điều con hỏi xin Phật nói
Biết được tâm hạnh các chúng sinh
Với tất cả pháp không còn nghi.
Phật biết thể tánh tất cả pháp
Pháp lìa ngôn ngữ, dùng ngôn thuyết
Như sư tử hống, dã can sợ
Phật hàng ngoại đạo cũng như vậy
Biết việc làm của chúng sinh
Thông đạt các pháp đến bờ kia
Trí tuệ vô ngại, cảnh giới tịnh
Cúi mong Thế Tôn nói cho con
Biết đời quá khứ và vị lai
Với đời hiện tại Phật biết rõ
Trí vô ngại ba đời biết được
Cho nên con hỏi Thích sư tử
Các Phật pháp tất cả ba đời
Thế Tôn Pháp vương đều biết rõ
Với thể tánh pháp khéo giác ngộ
Cho nên con hỏi Đại trí hải
Hay lìa tất cả lỗi các pháp
Vì hay đoạn trừ tâm ô uế
Cắt đứt tất cả dây si uế
Mong Phật nói cho hạnh Bồ-đề
Mà Phật đạt được các pháp tướng
Như tướng sở đắc nói cho con
Con nghe pháp tương như vậy rồi
Nương tướng đã nghe hành Bồ-đề
Hành tướng chúng sinh nhiều sai biệt
Con làm hạnh gì để hiểu được?
Mong nói cho con pháp nhập hạnh
Con nhờ nghe được nên mới biết
Tất cả các pháp đều sai biệt
Thế thì không tịch, tánh xa lìa
Bồ đề làm sao hay biện chứng?
Mong nói cho con pháp mẫu này
Với tất cả pháp đến bờ kia
Ngôn thuyết pháp cú đã tu học
Chính mình không nghi trừ nghi người
Vì con hiển thị Bồ-đề Phật.

QUYỂN 3

Bấy giờ Đức Thế Tôn biết Đồng tử Nguyệt Quang trong lòng thầm nghĩ, nên nói kệ dạy rằng:

–Nếu Bồ-tát tương ưng với một pháp thì đều có thể đạt được công đức tối thắng, mau chóng thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sao gọi là một pháp? Này Đồng tử! Đó là, nếu Bồ-tát đối với thể tánh của tất cả pháp, mà rõ biết như thật.

Này Đồng tử! Sao gọi là đối với thể tánh tất cả pháp mà rõ biết như thật?

–Nghĩa là tất cả pháp xa lìa danh tự, xa lìa âm thanh, xa lìa ngôn ngữ, xa lìa văn tự, xa lìa sinh diệt, tướng của nhân, tướng của duyên, tướng của phan duyên. Đó gọi là vô tướng, xa lìa nơi tướng, chẳng phải tâm xa lìa nơi tâm mà biết các pháp.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Các pháp chỉ nói một
Đó là pháp vô tướng
Là bậc Trí nói ra
Như thật mà rõ biết.
Nếu nói pháp như vậy
Bồ-tát mới rõ biết
Liền được Vô ngại biện
Nói ức Tu-đa-la.
Được Đạo sư gia hộ
Hiển thị nơi thật tế
Không phân biệt giả danh
Không có điều để nói.
Dùng một biết tất cả
Dùng tất cả biết một
Tuy có các ngôn thuyết
Nhưng không khởi kiêu mạn.
Tâm ấy hay biết rõ
Tất cả pháp không tên
Tùy thuận học các tên
Mà diễn thuyết chân thật.
Các âm thanh nghe được
Biết rõ gốc âm thanh
Biết rõ nguồn gốc rồi
Không bị nhiễm âm thanh.
Biết ngằn mé âm thanh
Tướng các pháp cũng vậy
Nếu hay hiểu một pháp
Không còn đi đầu thai.
Tất cả pháp không sinh
Rõ biết vô sinh này
Biết sinh nói kẻ sinh
Thì biết được kiếp trước.
Nếu đối với kiếp trước
Biết được tạo nghiệp gì
Nếu thường biết nghiệp tạo
Được quyến thuộc kiên cố.
Nếu nơi pháp không này
Bồ-tát hay biết rõ
Không có gì không biết
Chẳng phải bờ phiền não.
Nơi cõi chẳng phiền não
Phàm phu vọng phân biệt
Cho nên trong ức kiếp
Mãi lưu chuyển sinh tử.
Không thể biết vọng tưởng
Giống như Đại Đạo Sư
Vì không tạo ác nghiệp
Nên không đọa ác đạo.
Vì các phàm phu này
Không thể biết nghĩa này
Mới khởi tâm hủy báng
Pháp diệt khổ như vậy.
Các pháp không thể được
Chẳng không các pháp tưởng
Nếu hay biết như vậy
Tưởng ấy cũng không thấy.
Ta biết tưởng như vậy
Phàm phu vọng phân biệt
Nơi pháp lìa phân biệt
Người trí không mê hoặc.
Đó là cõi bậc Trí
Chẳng phải cảnh giới ngu
Là việc làm Bồ-tát
Là không, không phân biệt.
Đó là Bồ-tát địa
Việc làm của Phật tử
Phật pháp diệu trang nghiêm
Gọi là tịch diệt không.
Tất cả Bồ-tát này
Đoạn tập khí các cõi
Không bị sắc hủy hoại
An trụ nơi Phật tánh.
Tất cả pháp không trụ
Vì không có trụ xứ
Nếu ai biết như vậy
Được Bồ-đề không khó.
Tu Thí, Giới, Văn, Nhẫn
Tập gần Thiện tri thức
Nếu ai biết nghiệp này
Mau chứng đạo Bồ-đề.
Người này thường được chư Thiên kính
Càn-thát, Dạ xoa và Ma-hầu
Rồng, Quỷ, La-sát, Khẩn-na la
Tất cả thường đến cúng Bồ-tát.
Hằng được chư Phật hết lời khen
Đem lại lợi ích các thế gian
Trí tuệ tương tục, thích tịch diệt
Bồ tát thắng diệu thương xót thân.
Nếu có Bồ-tát hay biết không
Lợi ích vô lượng ức chúng sinh
Trong chúng nhu hòa, diễn thuyết pháp
Người nghe vui thích nên ái kính.
Trí tuệ rộng lớn càng thêm sáng
Nhờ trí tuệ này hay thấy Phật
Cũng thấy cõi tịnh diệu trang nghiêm
Nghe nhận điều chư Phật thuyết pháp.
Biết tất cả pháp như huyễn hóa
Giống như hư không, tự tánh không
Hay biết thể tánh là không vô
Hành dụng như vậy, không ô nhiễm.
Có người tu hành Bồ tát hạnh
Ở trong các việc không đắm trước
Biết tất cả pháp như biến hóa
Nhưng với các cõi hiện biến hóa.
Hay vì chư Phật làm Phật sự
Thể tánh huyễn pháp không đến, đi
Tùy nguyện quá khứ được lợi ích
Là người hay an trụ Bồ đề.
Hằng nhớ ân tất cả Như Lai
Mong nối giống Phật, không đoạn tuyệt
Được thân tịnh diệu và sáng rỡ
Được thành tựu ba mươi hai tướng tốt.
Vô lượng thứ lợi ích khác nữa
Hành thắng Bồ đề sẽ đắc quả
Thành tựu đại lực, không thể động
Oai đức các vua không thể bằng.
Phước đức tròn đủ, rất đoan nghiêm
Phước và công đức, oai quang chiếu
Chư Thiên thấy oai không dám nhìn
Là người trí tuệ hành Phật pháp.
Trụ nơi tâm Bồ đề kiên cố
Cùng các chúng sinh làm bạn lành
Người ấy không còn các tối tăm
Hiển bày đạo Bồ-đề diệu thắng.
Lìa đường ngôn ngữ, không còn dục
Các pháp vắng lặng như hư không
Có người biết được nghiệp như vậy
Thành tựu vô lượng thắng biện tài.
Diễn thuyết trăm ngàn Tu-đa la
Chỉ bày nghĩa vi tế pháp ấy
Bậc Trí luôn thành vô ngại tuệ
Hay biết thể tánh pháp vi tế.
Thường khéo biết chúng sinh tín tâm
Học tập tất cả âm ngôn ngữ
Vì người chỉ bày lý nhân quả
Hay được việc thắng diệu như trên.
Trì đủ các lực không giảm thiểu
Bậc phạm hạnh vào chúng không sợ
Hằng nhớ gìn giữ không quên mất
Vì luôn khéo rõ biết pháp tánh.
Tai không nghe lời, không ái ngữ
Thường luôn nghe nhận tiếng an vui
Miệng thường tuyên nói lời đẹp lòng
Người đó khéo biết pháp tánh vậy.
Hằng niệm trí tuệ đều thành tựu
Trong lòng thanh tịnh không uế trược
Nói trăm ngàn kinh không ngừng trệ
Hễ có diễn thuyết không hư ngụy.
Phân minh câu chữ rồi tu học
Khéo hiểu ngàn ức các ngữ ngôn
Nghĩa thú, danh từ đều khéo hiểu
Nhờ ngộ pháp tánh, có đức ấy.
Dạ-xoa, La-sát, Thiên, Tu la
Ca-lâu, Khẩn na, Ma-hầu trà
Được tám bộ chúng thường kính yêu
Bởi nhờ ngộ giải pháp tánh vậy.
Chúng thần ác tâm Tỳ-xá xà
Uống máu, ăn thịt rất độc hại
Có người thọ trì tịch định này
Thì họ thường theo làm hộ vệ.
Nghe lời rộng lớn bậc Trí giả
Trong lòng hoan hỷ, lông dựng đứng
Với Bồ-đề ấy thường vui kính
Được phước rộng lớn khó nghĩ bàn.
Phước báo như vậy khó biết được
Trong trăm ngàn kiếp nói không hết
Hộ trì Pháp bảo tạng Thiện Thệ
Vô lượng vô biên vô số kể.
Liền đem cúng dường tất cả Phật
Các Thế Tôn quá khứ, vị lai
Cùng với hiện tại khắp mười phương
Vì có thể tuyên thuyết tịch định.
Nếu ai vì ưa thích phước đức
Cúng dường Đấng Thập Lực Đại Bi
Vô lượng vô số ức chư Phật
Thời gian như cát trong biển cả.
Lại có người khác thích phước đức
Nơi thắng nghĩa này trì bài kệ
Vào lúc kiếp tận thời ác thế
Phước đức như vậy rất thù thắng.
Nếu ai có thể nghe bài kệ
Người ấy liền cúng tất cả Phật
Vào đời sau cùng, thời ác thế
Đó là cúng dường trên tất cả.
Người ấy liền được lợi ích lớn
Thọ nhận cung kính của thế gian
Các Thập Lực sinh con tối thắng
Với Ngài mãi mãi đem cúng dường.
Ngài thấy ta ở núi Kỳ xà
Ta liền được thọ ký Bồ đề
Ta đã phó chúc Di-lặc Tôn
Phật kia cũng riêng thọ ký rằng:
Người ấy lại làm Phật Di đà
Vì nói vô lượng thắng lợi ích
Hoặc lại đi đến nước An lạc
Lại muốn thích thấy Phật A súc.
Vô lượng vô biên trăm ngàn kiếp
Người ấy không đọa các ác đạo
Nơi Bồ-đề này hành thắng hạnh
Thành tựu vô lượng các khoái lạc.
Công đức vô lượng, lợi ích lớn
Nay ta đã tuyên thuyết như vậy
Nếu muốn được công đức như ta
Nên trì kinh này đời sau cùng.

Này Đồng tử! Vì nghĩa lý ấy cho nên Đại Bồtát có thể biết thể tánh các pháp chẳng thể nghĩ bàn như vậy sẽ được công đức lợi lạc như thế, khen ngợi công đức chân thật của Như Lai, không hủy báng Như Lai là lời nói không chân thật. Vì sao? Vì Như Lai đã đắc các pháp là chỗ biết của đời, người này biết như thật đối với pháp ấy, cũng biết vô lượng công đức của Như Lai, có thể biết như thật về Phật pháp chẳng nghĩ bàn. Vì sao?

Này Đồng tử! Đức Phật có vô lượng, vô biên công đức không thể nghĩ bàn, xa lìa nơi tâm. Chính vì nghĩa này nên những người khác không thể nghĩ bàn, không thể so sánh. Vì sao?

Này Đồng tử! Vì tâm không có tánh, lại không có hình sắc, không thể nhìn thấy.

Này Đồng tử! Thể tánh của tâm như vậy, tức là thể tánh công đức của Phật, thể tánh công đức của Phật như vậy, chính là thể tánh của tất cả các pháp. Chính vì nghĩa ấy, này Đồng tử! Nếu Bồtát nói và rõ biết như thật về nghĩa thể tánh của tất cả pháp, đó là Bồ-tát vắng lặng nơi tâm, khéo hiểu ba cõi, xa rời thiện căn, biết rõ như thật, tri kiến như thật, nói như thật, không có nói khác, tùy theo lời nói mà thực hành, không có chấp trước, vượt qua tất cả cảnh giới các phiền não, vượt qua Dục giới, Sắc giới, giải thoát khỏi vô sắc giới, vượt qua cảnh giới của tên gọi, vượt qua cảnh giới âm thanh, khéo rõ biết và xa lìa pháp văn tự, khéo rõ trí phân biệt văn tự, khéo hiểu lìa pháp ngôn ngữ, rõ biết văn tự, giỏi về văn tự, khéo nơi văn tự trí sai biệt, rộng biết trí văn tự, khéo hiểu trí sai biệt tất cả pháp, khéo đối với tất cả pháp rộng lớn bằng trí sai biệt, khéo phân biệt tất cả xứ bằng trí về pháp, cùng tương ưng với Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, Ma vương Ba-tuần và các ma dân, không thể phá hoại.

Khi Đức Phật nói pháp này, có tám ức na-dotha các trời, người... được pháp Nhẫn tu vô ngại, tất cả đều được chư Phật thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trải qua bốn trăm tám mươi vạn a-tăng-kỳ kiếp chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, các thứ danh hiệu, quốc độ khác nhau, nhưng thọ mạng thì giống nhau. Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Nếu có các Bồ-tát trí tuệ
Hướng đến đạo Bồ-đề thắng diệu
Các ngôn thuyết giỏi nơi thắng nghĩa
Hay hành thể tánh tất cả pháp.
Miệng thường tuyên thuyết lời chân thật
Khen thật Đức Phật nên diễn nói
Hay biết tất cả pháp chư Phật
Ba cõi tôn kính không còn nghi.
Tất cả các pháp đồng một nghĩa
Nhờ pháp Không nên biết như thật
Chúng không có các tướng dị biệt
Với một nghĩa này đã tu học.
Không tưởng phân biệt, tưởng phân biệt
Tưởng chúng sinh, thọ mạng, ngã, nhân
Tưởng tận và vô tận như vậy
Đoạn các tưởng này không còn sót.
Không thấy Như Lai có sắc tướng
Bởi biết các pháp tự tánh không
Cũng không có tướng đẹp tùy hình
Vì đã đoạn tất cả điên đảo.
Tất cả chư Phật khó nghĩ bàn
Xa lìa nơi tâm, thể tịch diệt
Nếu ai có thể biết như vậy
Mới thấy Vô Thượng Lưỡng Túc Tôn.
Nếu ai hay biết tưởng thần ngã
Trong đó phát sinh thắng trí tuệ
Biết được các pháp như vậy rồi
Liền đắc cái gọi thanh tịnh nhãn.
Người ấy không có các chướng ngại
Đại trí biết rõ đạo xuất ly
Sung mãn, đầy đủ hai loại nhân
Không có tất cả các mong ước.
Với chỗ chân thật, thấy như thật
Không có tất cả lời không thật
Người ấy có đủ các ngôn luận
Tùy thuận tất cả pháp nghi thức.
Người trí vượt ra khỏi Dục giới
Vượt Sắc, Vô sắc, chốn phiền não
Hay lìa nhiễm trước nơi ba cõi
Hành ở thế gian, lợi chúng sinh.
Vượt lên tất cả các danh tự
Và vượt âm thanh thể tánh không
Tuy diễn thuyết pháp đã lâu xa
Đối với ngôn thuyết không nương trú.
Xa lìa các tưởng và hý luận
Đoạn trừ điên đảo các ác kiến
Đối với trí tuệ, khéo quyết định
Người ấy dũng mãnh hành như không.
Nếu ma nhiều ức na-do-tha
Vì để loạn ý nói lời rằng:
Ai hay chiếu sáng ma quân này
Không theo ma lực, tự tại nhiếp.
Vứt bỏ tất cả các việc ma
Giới hạnh thanh tịnh, không phiền não
Nếu ai vui sâu với Thiền lạc
Thì có thể biết thế gian Không.
Nếu nói ngũ ấm là thế gian
Đã biết pháp ấy thể không tịch
Đã không có diệt cũng không sinh
Tất cả các pháp như hư không.
Thà phải vứt bỏ thân mạng mình
Trọn không hủy phạm lời Như Lai
Hộ trì nơi giới đến bờ kia
Tùy theo sở nguyện được vãng sinh.
Du hành vô lượng các cõi Phật
Gặp nhiều na-do-tha ức Phật
Trọn không mong ước sinh lên trời
Xa lìa tất cả ước nguyện vui.
Người ấy không bỏ sự tinh tấn
Trong thời gian ngắn hành pháp hạnh
Ở trong mười phương chỗ chư Phật
Khéo hay ca vịnh và xưng tán.
Khi ấy thân Đồng tử Nguyệt Quang
Được nghe định tịch diệt như vậy
Vứt bỏ tất cả sự lợi dưỡng
Tu hành pháp chư Phật khen ngợi.
Nếu có muốn được trí tự nhiên
Ta vì tất cả người thế gian.
Cần phải học Thắng Tam-muội này
Nếu học như vậy hơn trời, người.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Đồng tử Nguyệt Quang:

–Này Đồng tử! Đại Bồ-tát đối với trí Tam-muội nói rõ này, cần phải khéo tu tập, vì người khác hiển bày.

Này Đồng tử! Thế nào là hiển bày? Đó là đối với tất cả pháp, khởi tâm bình đẳng, không có bỉ thử, không có phân biệt, không có không phân biệt, không tạo, không khởi, không sinh, không diệt, tất cả vọng tưởng phân biệt, nhớ nghĩ, khởi tưởng, thảy đều dứt trừ, chỗ tâm phan duyên, chỗ ý suy nghĩ và các giả danh cũng đều đoạn trừ, cũng đoạn trừ tất cả các giác quán ác, đối với ấm giới, nhập, không có tự tánh, đoạn trừ tham, sân, si. Đó gọi là: Niệm tuệ giải thoát, tàm, quý, kiên cố, nghi quỹ tu hành ứng hợp với hành xứ. Đó là chỗ không nhàn, chỗ trí tuệ, dứt hẳn đến, đi, tất cả sở học Bồ-tát, là tất cả hành xứ Như Lai, thành tựu tất cả công đức. Này Đồng tử! Đó gọi là hiển thuyết về Tammuội này vậy. Nếu ai có thể hiển thuyết về Tammuội như vậy, liền không xa lìa các định, tâm ấy không mất tất cả Tam-muội, không có mê hoặc, khởi tâm đại Bi, làm lợi ích vô lượng, vô biên chúng sinh.

Ngay lúc đó Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Bình đẳng, không hiểm trở
Tịch lặng mầu khó thấy
Đoạn trừ tất cả tưởng
Nên gọi là Tam-muội.
Không vọng tưởng phân biệt
Lìa kiến không thể giữ
Tâm ấy chẳng thể nắm
Đó gọi là Tam-muội.
An trụ định như thật
Không giữ tất cả pháp
Vì như thật không thủ
Nên nói định Tịch diệt.
Pháp không có mảy may
Cũng không chút khả đắc
Vì không chút khả đắc
Nên gọi là Tam-muội.
Hữu đắc hay vô đắc
Đó gọi là vọng tưởng
Lìa phân biệt nơi pháp
Nên gọi là Tam-muội.
Nhờ tiếng nên nói nghĩ
Tiếng này chẳng thật có
Giống như tiếng dội lại
Lại giống như hư không.
Chúng sinh vô sở trụ
Chỗ trụ bất khả đắc
Tiếng đắc cùng bất đắc
Tự tánh bất khả đắc.
Hoặc bỏ, hoặc đọa lạc
Bỏ đạo bất khả đắc
Tiếng bỏ cùng không bỏ
Nơi đạo biết như vậy.
Còn có định là thủ
Còn không định cũng vậy
Vô trước hành Bồ-đề
Chứng Thánh đạo cũng thế.
Địa bình đẳng lìa hiểm
Định tuệ này vô tướng
Phật tử tu tập nó
Khéo tu định tương ưng.
Văn tự chẳng có thể
Vào nghĩa thú sâu này
Bỏ các việc ngôn ngữ
Lược định vô sở thủ.
Bồ-tát được định này
Như nói trụ tương ưng
Dù lửa thiêu thế giới
Trong ấy không bị cháy.
Vô lượng kiếp hỏa thiêu
Như hư không, không cháy
Nếu biết pháp như không
Người ấy lửa không đốt.
Nếu khi thiêu cõi Phật
Trong định phát nguyện này
Diệt sạch hết lửa ấy
Người và đất không hoại.
Thần túc ấy vô biên
Đạo hư không không ngại
Tùy học định mà trụ
Bồ-tát gặt công đức
Hoặc sinh hoặc biến mất
Không khởi cũng không diệt
Nếu hay biết như vậy
Được định này không khó.
Thế gian có sinh diệt
Chỗ Như Lai đã nói
Nếu hay biết định này
Nên biết thân cận đời.
Nơi thế gian không nhiễm
Thế pháp không thể ngại
Thân nếu không chướng ngại
Qua lại cõi chư Phật.
Thường thấy nơi tịnh độ
Và thấy Đạo sư đời
Nên được nghe chánh pháp
Diễn thuyết tại các cõi.
Cũng không khởi vô tri
Vào lúc nói pháp tánh
Hay thông đạt các pháp
Như tùy theo pháp tánh.
Diễn thuyết trong ức kiếp
Biện tài không đoạn tuyệt
Hay biến làm nhiều thân
Các Bồ-tát khác nữa.
Biến hóa các Bồ-tát
Qua lại các cõi Phật
Trên hoa sen ngàn cánh
Kiết già mà an tọa.
Hiển thị Bồ-đề Phật
Tu-đa-la Tổng trì
Cùng hằng ức kinh khác
Nhờ tu tập Tịch định.
Chỉ trừ bất thoái chuyển
Người chẳng nghĩ bàn khác
Không thể hết biện tài
Hiển thị Bồ-đề Phật.
Bỏ đi các lầu gác
Các thứ báu nghiêm sức
Tung rải các diệu hoa
Hương thơm thật đáng ưa.
Tung rải các hương bột
Cùng đốt các hương thơm
Hoặc tung vô lượng báu
Vì chứng được Bồ-đề.
Bồ-tát bậc cứu tế
Vô lượng đức như vậy
Đoạn trừ các phiền não
Đạt thần túc thù thắng.
Không khởi sinh phiền não
Thanh tịnh thật chói sáng
Vô vi không thể hoại
Là cảnh giới Bồ-tát.
Tịch tĩnh, càng tịch tĩnh
Lìa não, không phiền não
Vượt qua sự hý luận
Thích pháp không hý luận.
Văn tự không thể vào
Vì các pháp vô tướng
Trí biết chỉ âm thanh
Cho nên gọi là định.
Thắng tịch diệt vô tận
Vô công dụng, không thấy
Tất cả cảnh giới Phật
Thật tế không nhà cửa.
Theo chư Phật tu học
Tự tánh tất cả pháp
Học công đức Phật này
Được công đức cứu cánh.
Chẳng đây cũng chẳng kia
Bản tế không phân biệt
Cho nên tất cả Phật
Đạt công đức bờ kia.
Với vị lai không bỏ
Vì đã biết pháp tánh
Vô công dụng hý luận
Đạt công đức bờ kia.

Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang bạch Đức

Phật:

–Hy hữu thay! Bạch Thế Tôn! Như Lai, Bậc Ứng Cúng Chánh Biến Tri, mới có thể khéo nói về thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp. Đó là nói về thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp mà Bồtát phải học. Nếu Bồ-tát có thể tu học Tam-muội đã được nói ra ấy, sẽ mau chóng chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bạch Thế Tôn! Con lại muốn nói! Bạch Như Lai! Con lại muốn nói. Bạch Thiện Thệ! Con muốn nói một phần nhỏ.

Đức Phật nói:

–Này Đồng tử! Nếu muốn nói cứ nói.

Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang, ở trước Đức Phật, chắp tay hướng về Đức Phật, xưng dương thật đức bằng bài kệ khen ngợi:

Thấy sinh, bị già, bệnh chết, khổ
Tham sân và si thường mê hoặc
Xưa Phật đã phát tâm Bồ-đề
Mong thành Chánh giác mở các trói.
Lành thay, vô lượng kiếp tu hành
Bố thí, điều phục, ngăn các lỗi
Trì giới, Nhẫn nhục, siêng Tinh tấn
Khéo tu Thiền định và Trí tuệ.
Vì không hy vọng, bỏ ngôi vua
Vợ con, của cải đều bỏ hết
Đầu, mắt, tay chân và thọ mạng
Tâm ấy ban đầu không mệt mỏi.
Cấm giới trong sáng, sạch không nhơ
Vứt bỏ thân mạng thường hộ trì
Khéo hay cấm chế thân, miệng, ý
Quy mạng Thiện Thệ, điều phục tâm.
An trụ trí tuệ trong sức nhẫn
Dù bị cắt thân, không phẫn nộ
Nhờ lòng từ máu biến thành sữa
Quy mạng Như Lai, rất kỳ đặc.
Thành tựu oai lực, trụ Thập lực
Dùng trí vô lượng rõ các pháp
Phật đem lòng thương đến thế gian
Cứu độ lợi ích các cõi khác.
Đã biết bản thể các pháp không
Thấy các thế gian đều hư vọng
Ngộ đạo khế hội tánh vô ngã
Biết giải thoát ấy, không chỗ thoát.
Xa lìa phiền não và phóng dật
Hàng phục ma lực và ma quân
Biết đạo vô cấu, trí vô ngại
Nói pháp thanh tịnh, vô ngại tịch.
Giả sử tinh tú trên trời rớt
Đất biển thành ấp đều hoại diệt
Hư không, vô vi tánh đổi khác
Như Lai hoàn toàn không nói dối.
Thấy sự khổ não các chúng sinh
An trụ, đắm trước trong phân biệt
Vì họ hiển bày lìa đắm trước
Gọi là tịch diệt, không thậm thâm.
Chẳng thể nghĩ bàn vô số kiếp
Đại hùng dũng mãnh, học từ lâu
Tu học tất cả, không đắm trước
Nên Phật không có các lỗi lầm.
Phật đã tu học tất cả pháp
Như pháp sở đắc vì người nói
Đó chẳng phải phàm phu, ngu si
Lại chẳng phải tất cả ngoại đạo.
Tâm thường an trụ nơi ngã tưởng
Gọi là các phàm phu lỗi lầm
Nếu hay biết được pháp vô ngã
Không có tất cả các lỗi lầm.
Đại hùng đã nói lời chân thật
Hằng thường an trụ nơi thật pháp
An trụ thật pháp như vậy rồi
Lại hay diễn thuyết lời chân thật.
Quá khứ từng tu hạnh chân thật
Mới hay xứng đáng nơi bản nguyện
Đạt được diệu quả báu chân thật
Nhờ vậy hay nói lời chân thật.
Đã hành hạnh chân thật đầy đủ
Khéo hay biết được chân thật tế
Đã tu hạnh chân thật như vậy
Quy mạng Nhân tôn đại trí tuệ.
Trí Ngài tối thắng không ai bằng
Trí tuệ đầy đủ, rất sáng rạng
Cuối cùng đạt được thắng trí tuệ
Quy mạng bậc Trí tuệ ngôn thuyết.
Hay cùng chúng sinh làm bạn hữu
Từ lâu tu tập tâm Từ bi
Hay khéo an trụ nơi bất động
Bất động giống như núi Tu-di.
Làm thầy trời, người, đầy đức lớn
Giáo thọ Đại chúng, các quần sinh
Thiện Thệ thắng trí tuệ thậm thâm
Trong chúng vô úy, làm chấn động.
Sư tử rống vô úy như vậy
Như vua sư tử oai hùng mãnh
Hàng phục tất cả các ngoại đạo
Giống như sư tử vồ chồn hoang.
Đại hùng điều phục kẻ không điều
Điều phục lại hay khéo điều ngự
Hay khiến thành tựu làm thiện hữu
An trụ kiên cố mà không hoại.
Thấy các chúng sinh kia khổ não
Nương vào hoàn toàn nơi ngã kiến
Vì họ diễn xướng pháp vô ngã
Không có tham ái và không ái.
Người phàm phu ngu si không học
Nương nơi hiểm nạn, đường không lành
Vì họ hiển thị đạo chân thật
Đó là hướng đến đường Niết-bàn.
Nếu ai đắm trước vào ngã tưởng
Người ấy liền sống rất khổ não
Bởi vì không hiểu pháp vô ngã
Là có thể diệt trừ khổ não.
Trong kiếp số chẳng thể nghĩ bàn
Đại trí từ lâu từng tu học
Tu học xa lìa đắm trước rồi
Cho nên không có các tội lỗi.
Diễn thuyết các pháp cú lìa tội
Thế Tôn xa lìa các lỗi lầm
Khéo nói lời chân thật vi diệu
Miệng thường giải thoát trăm điều sợ.
Vô lượng na-do trăm ngàn, ức
Thiên, Long, Dạ-xoa giữa hư không
Ưa thích pháp Tối thánh vô thượng
Người nghe ai cũng hợp nghĩa chân.
Lời Như Lai hoan hỷ, thiện mỹ
Ôn hòa, hợp thời, vừa lòng người
Tiếng hòa hợp, vi diệu vô lượng
Thương xót giải thoát vô số người.
Âm thanh kỹ nhạc. trăm ngàn loại
Một lúc tấu lên tiếng hòa hợp
Là tiếng vui thích ở cõi trời
Một tiếng Như Lai bao trùm khắp.
Các loại chim Ca-lăng-tần-già
Đồng lúc cùng phát tiếng vi diệu
Hay khiến người khác sinh vui thích
Gặp âm thanh Phật chẳng thể sánh.
Tấu lên âm nhạc của hoan hỷ
Khéo hợp tất cả các cung đàn
Thổi loa, trống, sáo, đàn, không hầu
Gặp âm thanh Phật, đều không hiện.
Tiếng ca múa vua Khẩn-na-la
Đã từng khéo học trăm ngàn nhạc
Nếu ai nghe được đều hoan hỷ
Gặp âm thanh Phật đều không hiện.
Tiếng Câu sí, Anh vũ, Xá-lợi
Khổng tước, Ai loan và Uyên ương
Có tất cả tiếng chim hay ấy
Gặp âm thanh Phật đều không hiện.
Tiếng mỹ diệu, vui thích, khả ái
Những ca vịnh hay ở thế gian
Dồn tất cả lại đồng tấu lên
Tiếng Phật Tối Thắng vượt hơn chúng.
Chư Thiên, Dạ-xoa, vua Tu-la
Tất cả quần sinh trong ba cõi
Thân Phật thượng diệu và tối thắng
Phật phóng hào quang liền che hết.
Sắc thân Như lai như hoa nở
Với tất cả tướng tốt rực sáng
Sinh ra quả phước rất thanh tịnh
Hào quang chiếu sáng khắp mười phương.
Tiếng ốc, tiếng trống và tiêu sáo
Tiếng hay đồng, bạc, sinh và tiêu
Các âm như vậy cùng hòa hợp
Không bằng một phần trăm tiếng Phật.
Càn-thát, Tu-la và Ma-hầu
Các tiếng hay ho của Dạ-xoa
Cùng với tiếng hay khắp ba cõi
Với Phật trăm phần không bằng một.
Tất cả ánh sáng của Phạm thiên
Và các thân sáng trời Hữu đảnh
Thế Tôn nếu phóng ánh hào quang
Sáng kia không bằng một phần trăm.
Thân, khẩu, ý nghiệp đều thanh tịnh
Vì Bố thí tịnh, đời không nhiễm
Bảo tụ công đức Nhân Trung Vương
Công đức tự nhiên không ai bằng.
Tán thán Thập Lực lời thật xong
Đồng tử vui mừng nói như vầy:
“Vì con cúng dường pháp vương, Phật
Nguyện phước này thành Thích-ca Văn”.
Phật biết tịnh hạnh tối thắng kia
Thiện Thệ bấy giờ liền mỉm cười
Di-lặc thấy Phật cười, thưa hỏi
Cúi mong Nhân Tôn nói duyên cớ.
Bấy giờ đại địa sáu chấn động
Trời, Rồng hoan hỷ giữa hư không
Hân hoan chiêm ngưỡng Lưỡng Túc Tôn
Xin Phật nói cho nhân duyên cười.
Trí tuệ chư Phật đã rõ biết
Chẳng phải Thanh văn đệ tử Phật
Nay an trú ai đạo Tối thắng?
Xin Ngài xót thương, nói cho con.
Ngoại trừ Đức Mâu-ni, từ bi
Tất cả thế gian, ai làm được
Có thể trao cho quả Pháp vương
Xin Phật thọ ký quả Bồ-đề.
Nay con khéo hỏi Thế Đạo Sư
Thích-ca, Ngưu vương, đại oai đức
Đã đến bờ, trí tuệ quang minh
Đoạn trừ tham, sân, si ô uế.
Không thể nghĩ bàn hằng sa ức
Kiếp số Đạo Sư đã tu hành
Để cầu hạnh Bồ-đề thắng diệu
Vì nhân duyên gì hiện mỉm cười?
Hay bỏ thân mình với tay chân
Vợ con, quyến thuộc người thân yêu
Thường hay tu hành Thắng hạnh này
Cho nên con hỏi Đấng Mâu-ni?
Voi, ngựa, xe cộ và trâu, dê
Nô tỳ, ma-ni, trân châu vàng
Không thấy sở hữu các vật báu
Khi hành Bồ-đề mà không bỏ.
Trí ấy tối thắng, đều hiển hiện
Biết các việc làm của chúng sinh
Tín tâm, tánh dục đã khéo biết
Xin nói duyên gì hiện mỉm cười?
Ai từng cúng dường Nhân Trung Tôn?
Nay ai thành tựu lợi lạc lớn?
Ai có thể hành việc Phật hành?
Vì ai mà hiện sự mỉm cười?
Mặt đất bấy giờ sáu chấn động
Ức hoa sen đẹp mọc từ đất
Hoa này chiếu sáng đủ ức cánh
Sắc vàng rực sáng thật khả ái.
Phật tử ngồi trên hoa sen kia
Bồ-tát đại thần thông bậc nhất
Vô lượng Pháp sư đến vân tập
Cho nên con mới hỏi như vậy.
Đánh trống, khua linh, thổi tù và
Kỹ nhạc ức số như hằng sa
Những loại âm nhạc nhiều như vậy
Trong đó, tiếng Phật tối thắng diệu.
Câu sí, Tần-già, ngỗng và hạc
Các chim cùng lúc đến vân tập
Đồng thời hót lên tiếng thật hay
Không thể sánh bằng âm thanh Phật.
Ai từng bố thí, trì giới cấm
Tu tập trong vô lượng ức kiếp
Ai lại cúng dường Nhân Trung Tôn?
Mâu-ni vì ai hiện mỉm cười?
Ai xưa khởi tâm đại cung kính
Đã từng thưa hỏi Lưỡng Túc Tôn
Nhờ nhân duyên gì được Bồ-đề
Mà nay hiện sự mỉm cười này?
Tất cả Đấng Thập Lực quá khứ
Ở đời hiện tại cùng vị lai
Đạo sư trời, người đều biết rõ
Cho nên con hỏi Bậc Nhân Trung.
Rõ biết thứ lớp tâm chúng sinh
Với thần túc Phật không suy giảm
Lại biết tâm ưa thích chúng sinh
Cho nên con hỏi Mâu-ni sư.
Tu hành hạnh tối thắng vô thượng
Nhờ pháp tương ưng đã khéo học
Đạo Bồ-đề Phật làm sao được?
Cho nên con hỏi Lưỡng Túc Tôn.
Các pháp vi tế khó thấy được
Không tịch khó gọi, khó nghĩ bàn
Tu hành sở hành của Thập Lực
Cho nên con hỏi Thế Đại Sư.
Có thể khéo tu tâm Từ bi
Nơi chỗ chúng sinh chẳng nghĩ bàn
Thường không khởi các chúng sinh tưởng
Cho nên con hỏi Lưỡng Túc Tôn.
Cảnh giới sở hành khó nghĩ bàn
Nơi ngằn mé ấy bất khả đắc
Đã vượt qua được cảnh giới tâm
Cho nên con hỏi Lưỡng Túc Tôn.
Bố thí, trì giới rốt ráo rồi
Bậc trí sáng trong rõ ba đời
Xa lìa tất cả các tội ác
Vì nghĩa lý gì hiện mỉm cười?
Xá-lợi, Mục-liên, Cư-luật-đa
Và đệ tử khác các Như Lai
Chẳng phải là việc làm của họ
Chỉ cảnh giới Phật tối vô thượng.
Nơi tất cả pháp đến bỉ ngạn
Sở học các cõi đã cứu cánh
Đạo Sư phát sinh lòng thương lớn
Tiếng tuyên xướng vi diệu bậc nhất.
Vô lượng a-tăng kiếp quá khứ
Cũng từng hỏi nghĩa lý như vậy
Được làm người thân Đấng Cứu Thế
Nay đã chứng quả nói cho con.
Dạ-xoa, La-sát, Rồng, Bàn-trà
Chiêm ngưỡng Lưỡng Túc Tôn tối thắng
Tất cả cung kính đứng chắp tay
Đều hỏi Thế Tôn vì sao cười.
Nhiều chúng Bồ-tát đều vân tập
Thần thông đầy đủ, nhiều ức cõi
Tâm Như Lai sinh Tối trưởng tử
Tất cả cung kính đều chắp tay.
Đạo Sư Thế Tôn chẳng duyên cớ
Trượng phu tối thắng hiện mỉm cười
Ngôn ngữ vi diệu, âm thanh trống
Vì nhân duyên gì hiện mỉm cười?
Bồ-tát Hương Tượng phương Đông đến
Từ thế giới của Phật A-súc
Vô số chúng Bồ-tát vây quanh
Vì hỏi Thích-ca nên đến đây
Lại nữa, Diệu thế giới An lạc
Bồ-tát Quán Âm, Đại Thế Chí
Vô số chúng Bồ-tát vây quanh
Đến hỏi Lưỡng Túc Thích Sư Tử.
Vô lượng ức chỗ Phật quá khứ
Cúng dường vô biên các Như Lai
Giống như số cát trong biển cả
Vì hành thắng Bồ-đề vô thượng.
Chỗ tất cả chư Phật khen ngợi
Công đức Bồ-tát đã cứu cánh
Mười phương thế giới đều nghe biết
Văn-thù-sư-lợi đứng chắp tay.
Du hành qua vô số cõi Phật
Đệ tử lớn như vậy khó thấy
Công đức Phật tử đã khéo học
Tất cả chắp tay đứng cung kính.
Căn, khí tối thắng không ai bằng
Bậc điều phục nhu nhuyến như vậy
Thọ trì tất cả tạng Phật pháp
Xin Phật tuyên thuyết lời hòa diệu.
Thế Tôn Đạo Sư đâu vô cớ
Trượng phu tối thắng hiện mỉm cười
Tiếng trống vi diệu xin diễn thuyết
Vì nhân duyên gì hiện mỉm cười?
Câu sí, chim yến, ngỗng, khổng tước
Tiếng rống Ngưu vương như sấm sét
Xin phát nhạc trời âm tuyệt diệu
Cúi mong diễn thuyết tiếng thêm vui.
Khéo tập Từ bi lìa các lỗi
Trí tuệ hiện tiền đoạn ngu si
Hiểu nghĩa chân thật lìa văn tự
Trong trăm ngàn kiếp đã tu trì.
Quyết định không tịch biết các hữu
Hiển bày các cú nghĩa khổ diệt
Phá hoại tất cả trí ngoại đạo
Không vô chúng sinh và thọ mạng.
Chư Phật tu hành trăm ngàn hạnh
Trăm ngàn thứ phước để trang nghiêm
Trăm ngàn chư Thiên đều khen ngợi
Trăm ngàn Phạm thiên cũng như vậy.
Dạ-xoa, La-sát đều tịnh tâm
Ma-hầu, Kim sí, Rồng hoan hỷ
Miệng thường tuyên thuyết không chướng ngại
Chỗ khởi của nghiệp quả tịnh diệu.
Tất cả chư Phật đã diệt độ
Cùng với hiện tại, đời vị lai
Rõ biết tất cả không chướng ngại
Từ chỗ sinh ra các công đức.
Đại hải, đại địa và các núi
Tất cả thảy đều sáu chấn động
Chư Thiên, Tu-la, Rồng, La-hầu
Rải các hoa hương rất thắng diệu.
Đoạn trừ tham, sân và hôn, mạn
Liễm thúc tâm ý đều thanh tịnh
Âm thanh tịch tĩnh, gọi vô tướng
Đại Thánh, sư tử rống như vậy.
Đầy đủ biện tài, danh xưng lớn
Nơi mắt nơi pháp khéo bình đẳng
Thế gian ai bằng, ai qua nổi
Cúi mong Đại Bi nói nghĩa cười?
Câu sí, Tần-già và Khổng tước
Mạng mạng các chim, âm thanh diệu
Cùng lúc hót lên thật khả ái
Chẳng thể bằng một âm của Phật.
Trống lớn, chiêng vàng, các trống nhỏ
Tù và, tiêu, sáo, đàn không hầu
Ngàn thứ âm nhạc đồng tấu lên
Một âm của Phật cũng hơn xa.
Ngàn thứ âm nhạc cõi trời hay
Và tiếng ca hay các Thiên nữ
Hợp lại cùng hát, người yêu thích
Một lời của Phật cũng hơn xa.
Đạo Sư của đời dùng một âm
Tùy sức tín tâm hiểu khác nhau
Tất cả đều bảo Phật vì mình
Mong đại Sa-môn nói duyên cười?
Diệu âm thinh chư Thiên và Rồng
Ca-lầu, Càn-thát, Tỳ-xá-xà
Chúng nó không thể diệt phiền não
Chỉ âm thanh Phật hay đoạn trừ.
Tuy lại khởi ái tâm, không nhiễm
Hành Từ liền được lìa lỗi sân
Hay sinh trí tuệ, lìa ngu si
Người được như vậy, lìa các cấu.
Tiếng Phật không thoát ra ngoài chúng
Hay đoạn trăm thứ các nghi ngờ
Với âm thanh ấy không cao, thấp
Diệu âm Mâu-ni tịch bình đẳng.
Giả sử cõi ba ngàn tan nát
Một niệm biển cả đều khô cạn
Trời, trăng có thể rơi xuống đất
Thế Hùng hoàn toàn không nói dối.
Sáu mươi loại ngữ ngôn thanh tịnh
Tiếng rống rất hay, không sợ hãi
Tiếng Phạm Như Lai xin nói cho
Tịch Tĩnh nhân gì hiện mỉm cười?
Tất cả quần sinh trong ba cõi
Có thể rõ biết việc làm ấy
Quá khứ, hiện tại và vị lai
Xin Nhân Tôn nói vì sao cười?
Tất cả Như Lai, Bậc Đại Bi
Ở trong các lực được cứu cánh
Nhan sắc Như Lai như trăng rằm
Đâu phải vô cớ hiện mỉm cười?

Ngay khi ấy Đức Thế Tôn nói bài kệ tụng để trả lời Đại Bồ-tát Di-lặc:

Đúng như Đồng tử Nguyệt Quang ấy
Tán thán Như Lai không ai bằng
Tán thán Như Lai như vậy rồi
Sau lại vì đời được khen ngợi.
Ngày xưa ở thành Vương xá này
Đã từng xem thấy nhiều ức Phật
Nơi chỗ Phật ấy thường thưa hỏi
Định tịch diệt, thắng diệu như vậy.
Khi tu hành đạo hạnh Bồ-đề
Trong tất cả đời làm con ta
Thường hay đầy đủ vô ngại biện
Thường hằng an trụ nơi phạm hạnh.
Người ấy lúc đời cuối, hãi hùng
Chỉ có Di-lặc mới chứng biết
Trong tất cả thời trụ phạm hạnh
Hay phân biệt rộng Tam-muội này.
Muốn cầu Tam-muội thù thắng này
Khen đạo đang hành, sẽ đạt được
Vô lượng ức Phật đều nhiếp thọ
Cúng dường Đại Đạo Sư tối thắng.
Ta ở trong trí nên ký thuyết
Nơi hạnh thù Thắng Nguyệt Quang này
Ở thời cuối cùng, không chướng ngại
Nơi phạm hạnh ấy và thọ mạng.
Biết được ngàn ức các Như Lai
Như xem quả xoài trong bàn tay
Lại trải qua hằng sa số ấy
Ở đời vị lai tu cúng dường.
Chư Thiên và Rồng có tám ức
Chúng Dạ-xoa có bảy ngàn ức
Vị lai cúng dường Lưỡng Túc Tôn
Bọn họ đều có thể hộ giúp.
Được nghe thọ ký như vậy rồi
Hoan hỷ, yêu thích đều sung mãn
Nguyệt Quang bay cao bảy Đa-la
Đứng trên hư không, lời hy hữu:
Ô hay, Phật nói không gì hơn
An trụ trí giải thoát thần thông
Nhờ an trụ thắng trí quyết định
Tất cả dị luận không thể phá.
Xa lìa hai bên, chứng giải thoát
Quán sát sự việc, không đắm trước
Ở trong ba cõi, trí vô ngại,
Hoàn toàn không có các hý luận.
Tất cả hý luận mà không nhiễm
Giác quán các kiến đều đoạn trừ
Khéo tu nơi đạo, không nương tựa
Không bị người phá, không chống người.
Lại nơi ba cõi không nương tựa
Đoạn trừ các kết, hành thanh tịnh
Dây ái trói buộc đều xa lìa
Các hữu tương tục đều diệt sạch.
Hiểu rõ tự thể tánh phi hữu
Thuyết pháp ly ngôn đều biết rõ
Kẻ vô trí nơi điên đảo ấy
Như sư tử rống bắt dã can.
Nay Phật vì hiện Diệu pháp tạng
Con nay đạt được Diệu bảo tụ
Đoạn trừ tất cả các đường ác
Nay con được định Phật không nghi.
Sắc vàng trăm phước, tay trang nghiêm
Xin đem tay báu xoa đầu con
Đối với trời, người trước đại chúng
Cúi mong Nhân Tôn quán đảnh con.
Con nhớ quá khứ lúc tu hành
Nơi cờ sư tử trong Phật pháp
Nơi có Tỳ-kheo rất thông duệ
Tên gọi Hiền Thí làm Pháp sư.
Con làm vương tử, tên Hiệt Tuệ
Thân gặp bệnh khổ rất nguy khốn
Lúc đức Hiền Thí làm Pháp sư
Nhu nhuyến, ngay thẳng, đầy đức tốt.
Năm trăm lương y, không giảm thiểu
Thảy đều đi đến trị cho con
Quyến thuộc, thân thích đều sầu lo.
Bấy giờ Đại Sư nghe con bệnh
Liền đến chỗ con mà thăm hỏi
Hiền Thí liền sinh tâm xót thương
Vì con mà thuyết Tam-muội này.
Con được nghe Tam-muội này rồi
Không cần của cải, tâm ưa thích
Nhờ rõ biết thể tánh các pháp
Lúc ấy bệnh khổ liền tiêu trừ.
Tỳ-kheo thực hành hạnh Bồ-đề
Được thành Phật đạo hiệu Nhiên Đăng
Khi xưa ta, vương tử Hiệt Tuệ
Nhờ Tam-muội này trừ khổ não.
Do nhân duyên ấy nên đồng tử
Ta nhớ việc này nên dặn ngươi
Nhẫn sự mắng nhiếc và hủy nhục
Thọ trì, đọc tụng định như vậy.
Tỳ-kheo mạt thế có vô lượng
Phóng dật, phá giới nhiều keo kiết
Đắm trước y bát, ưa làm ác
Khởi tâm bài báng Tam-muội này.
Tật đố, khinh tháo, thả các căn
Sống nhà thế tục vì tham lợi
Thường nương quán Sổ tức kiếm sống
Nên họ hủy báng Tam-muội này.
Buông tay, duỗi chân, mặc tình láo
Đi chạy nói cười tự ngắm bóng
Bạn bè múa tay, tùy theo đường đi
Nếu vào tụ lạc hiện tướng lạ.
Như vậy chẳng hợp nghi thức người
Ngày đêm đam mê nơi đồng nữ
Nơi sắc, thanh ấy, thường đắm trước
Dạo chơi thôn ấp hiện tướng này.
Tâm thường ưa thích sự ăn ngon
Cười đùa, ca múa và âm nhạc
Mua bán đổi chác thường cầu lợi
Ưa thích uống rượu và cỡi ngựa.
Ham thêm cất chứa nhiều ẩm thực
Chết rồi đọa lạc ba đường ác
Chuyên lo khai khẩn và cày ruộng
Bảo trì tự kỷ nơi trú xứ.
Nghe người khác dạy, truyền thơ tín
Vứt bỏ giới cấm và oai nghi
Thân cận bạch y, trái lời Phật
Hủy phá cấm giới, trụ ác đạo.
Làm Phật thường không khen ngợi nghiệp
Đó là lường cân, hay lừa dối
Tạo tác các nghiệp ác như vậy
Vì ác hạnh này, đọa ác đạo.
Có nhiều của cải vàng với ngọc
Vứt bỏ người thân mà xuất gia
Không thể an trụ tu tịnh giới
Trở lại mua bán, tạo nghiệp xấu.
Trâu, ngựa, đực mái cùng trứng sữa
Chỉ ỷ tiền, lúa là hơn hết
Vì sao xuất gia, cạo râu tóc
Mà không giữ giới và nghi thức?
Thời quá khứ ta hành Bồ-đề
Ở trong ngàn kiếp tu khổ hạnh
Để cầu định tịch diệt như vậy
Người ngu nghe vậy liền chê cười.
Hành phi phạm hạnh thích nói dối
Thường tham lợi dưỡng rơi ác đạo
Mặc áo phạm hạnh để dối đời
Hủy báng giới, định, nói phi pháp.
Đây, kia thay nhau cùng phá hoại
Không thể đúng pháp cầu lợi dưỡng
Chỉ muốn tìm lỗi lầm của nhau
Chết rồi đọa lạc ba đường ác.
Trong trăm ngàn người không được một
Là người có thể trụ nhẫn nhục
Bè đảng, đấu tranh, vô lượng người
Vứt bỏ nhẫn nhục, thường giận nhau.
Đều tự xưng tán là Bồ-tát
Muốn tiếng tăm mình lan các nước
Nếu được hư danh tự vui mừng
Còn không khéo làm, huống chi đạo!
Ta từng không nghe cũng không thấy
Người dục lạc không có tịnh hạnh
Bài báng pháp này, không hâm mộ
Sao thể đạt được đạo Bồ-đề?
Không mưu sinh, nên xuất gia
Không cầu tất cả Bồ-đề phật
Người ngu an trụ trong ngã kiến
Nghe nói vô ngã liền kinh sợ.
Đây, kia cùng nhau hằng tranh luận
Ngã mạn, tự cao, xâm lấn nhau
Tự cho mình đúng, người khác sai
Thường làm bất thiện, vọng hoan hỷ.
Thành tựu các công đức tịnh giới
An trụ tâm Từ, hành nhẫn nhục
Điều phục, nhu nhuyến và thuần thiện
Những thiện nhân ấy đều bị khinh.
Nếu ai đương lai khởi tâm ác
Hết sức chống lại điều bất thiện
Ưa thích đấu tranh, làm phi pháp
Bọn họ lúc đó được cúng dường.
Ta nay cùng khéo khuyên bảo ông
Với ta ông nên sinh tịnh tín
Chỗ Như Lai ấy đã thuyết giáo
Bọn người ác ấy chớ thân cận.
Kẻ lắm tham ái và sân nhiều
Người nhiều ngu si và hôn mạn
Không hổ, không thẹn, không điều phục
Với họ, ông mau khởi sức nhẫn.
Nay ta đã nói vô lượng đức
Tỳ kheo nơi đó không an trụ
Đâu phải miệng nói, được Bồ-đề
Cần phải kiên cố làm mới được.

QUYỂN 4

Bấy giờ Bà-già-bà, ở trong đại chúng chỉ giáo việc lợi lạc rồi, liền từ tòa đứng dậy, đi đến thành Vương xá vào núi Kỳ-xà-quật trải tòa mà ngồi. Các chúng Tỳ-kheo và chư Thiên, Long, Dạ-xoa, Cànthát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầula-già, vây quanh trước sau.

Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang cùng tám trăm ức người và Thiên, Long, tám bộ quỷ thần... với mười na-do-tha các chúng Bồ-tát ở thế giới khác, cầm các vòng hoa báu, hương xoa, hương bột, y phục, phướn hoa, các thứ âm nhạc, dựng lên dù lọng, treo các phướn lụa, ra khỏi thành Vương xá, hướng đến núi Kỳ-xà-quật, đi đến chỗ Đức Như Lai, đầu mặt đảnh lễ dưới chân, nhiễu quanh nhiều lần, dùng các hương hoa, y phục, bảo cái, tràng phan, tấu các âm nhạc, thiết bày sự đại cúng dường. Khi đã cúng dường xong, cúi đầu cung kính, vì để hỏi pháp, nên ngồi qua một bên.

Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang nói như vầy:

–Con đối với Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri có điều muốn thưa hỏi, cúi mong Như Lai cho phép.

Khi ấy Đức Thế Tôn bảo Đồng tử:

–Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, cho phép ông muốn hỏi gì cứ hỏi! Điều ông hỏi sẽ đem lại lợi ích cho vô lượng chúng sinh. Ta sẽ phân biệt, giải thích để tâm ông được hoan hỷ.

Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang được Phật cho phép liền bạch rằng:

–Đại Bồ-tát thành tựu bao nhiêu pháp, mới có thể được Tam-muội tất cả pháp thể tánh bình đẳng không hý luận như vậy?

Khi ấy Phật bảo Đồng tử Nguyệt Quang:

–Đại Bồ-tát thành tựu bốn pháp mới có thể được Tam-muội tất cả pháp bình đẳng không hý luận như vậy? Những gì là bốn?

1. Khéo học sự nhu nhuyến, đồng ở an ổn, đạt đến chỗ điều phục, có thể nhẫn được sự hủy nhục, thấy pháp, trừ ngã mạn, đó là pháp đầu tiên. Bồ-tát nếu có thể thành tựu như vậy thì liền có thể đạt được Tam-muội tất cả pháp thể tánh bình đẳng không hý luận như vậy.

2. Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát thành tựu, giới thiện, giới thanh tịnh, giới thanh tịnh thiện đệ nhất, giới không uế trược, giới không khiếm khuyết, giới không thủng lậu, giới không xen tạp, giới vô định sắc, giới tự tại, giới không chỗ nương thể chê trách, giới không thoái lui, rơi rớt, giới không nương tựa, giới không thủ trước, giới vô sở đắc, giới Thánh khen ngợi, giới bậc Trí khen ngợi. Này Đồng tử! Đó là pháp thứ hai, Bồ-tát đầy đủ pháp này, có thể đạt được Tam-muội thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp không hý luận.

3. Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát sợ ba cõi nên khởi tâm sợ hãi, vì nhàm chán ba cõi nên khởi tâm không nhiễm ô, vì không đắm trước ba cõi nên khởi tâm cấp bách, vì để giải thoát khổ ba cõi cho chúng sinh nên khởi tâm đại Bi, vì hướng đến quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên phát tâm đại tinh tấn. Này Đồng tử! Đó là pháp thứ ba. Bồtát thành tựu như vậy, mới có thể đạt được Tammuội tất cả pháp thể tánh bình đẳng không hý luận.

4. Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát cầu sự nghe nhiều, không bao giờ chán, vì tôn trọng pháp nên không cầu tài lợi, vì tôn trọng trí tuệ nên không cầu tiếng tăm, tùy theo chỗ nghe, rồi thọ trì, đem nói rộng cho người khác, hiển bày nghĩa lý ấy, vì lòng xót thương nên không vì người thân thuộc Bồtát lại nghĩ như vầy: “Làm sao trước hết có thể khiến chúng sinh nghe pháp thì đối với Vô thượng Bồ-đề, họ mau chóng được không thoái chuyển.” Đó là pháp thứ tư. Bồ-tát thành tựu như vậy có thể được Tam-muội thể tánh tất cả pháp bình đẳng, không hý luận.

Đồng tử nên biết! Pháp môn Tam-muội này được vô lượng chư Phật đã diễn thuyết, vô lượng chư Phật khen ngợi, vô lượng chư Phật hiển thị, vô lượng chư Phật tu tập.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Ta nhớ vô số, vô biên kiếp
Có Phật hiệu là Âm Thanh Thân
Đức Như Lai Âm Thanh Thân ấy
Ở đời thọ mạng sáu ngàn năm.
Tiếp theo Phật ấy lại có Phật
Tên Trí Tự Tại, đời mến yêu
Đức Trí Tự Tại, Chánh Biến Tri
Thọ mạng một vạn hai ngàn tuổi.
Tiếp theo Phật ấy có Đức Phật
Oai Đức Tự Tại, thế lực lớn
Đức Phật Oai đức, Nhân Trung Tôn
Thọ mạng bảy vạn sáu ngàn tuổi.
Tiếp theo Phật ấy lại có Phật
Hiệu Đại Tự Tại, trí Tự nhiên
Đức Đại Tự Tại, thầy, trời, người
Thọ mạng trọn cả ngàn vạn năm.
Tiếp theo Đức Phật lại có Phật
Tên Phật ấy là Phạm Thanh Sư
Đức Phật Phạm Thanh, Lưỡng Túc Tôn
Thọ mạng trọn cả một ức năm.
Tiếp theo Đức Phật lại có Phật
Hiệu Chúng Tự Tại, Tối Thắng Ly
Đức Chúng Tự Tại, Bậc Vô Tỷ
Thọ mạng trọn cả sáu ức năm.
Tiếp theo Đức Phật lại có Phật
Tên Phật ấy là Thanh Tự Tại
Đức Thanh Tự Tại, Bà-già-bà
Thọ mạng trọn cả ngàn vạn năm.
Tiếp theo Đức Phật lại có Phật
Hiệu là Thanh Thượng, đèn soi đời
Đức Phật Thanh Thượng, Thế Đạo Sư
Thọ mạng một vạn bốn ngàn năm.
Tiếp theo Đức Phật lại có Phật
Hiệu Mãn Nguyệt Diện, danh rộng khắp
Đức Mãn Nguyệt Diện, danh rộng khắp
Ở đời thọ mạng một ngày đêm.
Tiếp theo Đức Phật lại có Phật
Tên Phật ấy là Nhật Diện Mãn
Đức Phật Nhật Diện, Bậc Vô Tỷ
Thọ mạng một vạn tám ngàn năm.
Tiếp theo Đức Phật lại có Phật
Hiệu Phật ấy là Phạm Diện Thân
Đức Phạm Diện Thân, Lưỡng Túc Tôn
Thọ mạng hai vạn ba ngàn tuổi.
Tiếp theo Phật ấy lại có Phật
Tên Phật ấy là Phạm-bà-tâu
Đức Phạm-bà-tẩu, Thiên Nhân Sư
Thọ mạng một vạn tám ngàn tuổi.
Các Phật như vậy, cùng một kiếp
Con số hai trăm Thế Đạo Sư
Nay ông nghe ta nói tên Phật
Đều là bạn thân trong ba cõi.
Phật Vô Hủy Thân, Phật Phổ Âm
Phật Biến Oai Đức, Phật Biến Thanh
Phật Thanh Cúng Dường, Phật Danh Thanh
Phật Thanh Thân Dũng, Thanh Thân Tịnh.
Phật Trí Khởi, Trí Tri Thiện Thính
Trí Quang Ánh Tế, Trí Đẳng Khởi
Phật Trí Diễm Tụ, Phật Trí Dũng
Phật Phạm Thượng, Phạm Mạng, Phạm Thiện
Phật Thiện Phạm Thiên, Thắng Phạm Thanh
Phật Phạm Âm, Phạm Thiên, Phạm Thí
Phật Oai Lực, Oai Chủ, Thiện Oai
Phật Oai Đức, Tự Tại, Khởi Oai.
Phật Oai Đức Nhãn, Phật Thiện Thắng
Bố Thượng, Bố Tuệ, Thiện Khả Bố
Phật Khả Bố Diện, Phật Bố Khởi
Phật Khả Bố, Bố Thượng, Kiến Thật
Thiện Nhãn, Nguyệt Thượng, Thắng Đạo Sư
Phật Thâm Viễn Âm, Vô Biên Âm
Phật Tịnh Âm, Tự Tại Tịnh Âm
Phật Vô Lượng Âm, Thiện Hiện Thanh
Phật Ma Lực Âm, Hoại Thiện Nhãn
Phật Thiện Nhãn, Tịnh Diện, Tịnh Nhãn
Phật Vô Lượng Nhãn, Phật Phổ Nhãn
Phật Thiện Phổ Nhãn, Phật Thắng Nhãn
Phật Nhãn Ánh Tế, Phật Bất Hủy
Phật Điều Phục Thượng, Phật Điều Phục
Phật Thiện Điều Tâm, Phật Thiện Điều
Phật Tịnh Căn, Tịch Ý, Tịch Thượng
Tịch Đức, Cực Tịch, Đáo Bỉ Ngạn
Bậc Như Lai Tịch Tâm, Vô Thượng
Phật Trụ Biên Tịch, Thiện Điều Tâm
Phật Thiện Điều, Tịch Căn, Định Ý
Phật Tịch Thượng, Tịch Đức, Xí Thạnh
Phật Độ Tịch, Bỉ Ngạn, Định Dũng
Phật Chúng Nhân-đà-la, Vương Chúng
Phật Chúng Tự Tại, Ánh Tế Chúng.
Chúng Thắng Tịnh Trí, Đại Chúng Chủ
Phật Chúng Chủ, Dũng Kiện Đại Chúng
Chánh Biến Tri Thắng Chúng Giải Thoát.
Phật Kiến Pháp, Pháp Tràng, Pháp Khởi
Phật Pháp Thể, Tánh Khởi, Pháp Lực
Phật Pháp Phật, Diệu Pháp, Dũng Kiện
Phật Tự Tánh Pháp Khởi Quyết Định.
Như Phật Tự Tánh Pháp Khởi này
Gồm có tám ức, cùng một tên
Phật này xuất hiện kiếp thứ hai.
Các Như Lai này ta từng cúng.
Phật Tự Tánh Pháp Khởi, Quyết Định
Nếu ai được nghe tên của Ngài
Nghe xong, thọ trì, được tịnh nghiệp
Thì mau đạt được Tam-muội này.
Ta nay đã nói vua Mâu-ni
Sau Đức Phật đó có Phật khác
Vô số kiếp không thể nghĩ bàn
Phật hiệu Thiện Thắng, Phật Âm Vương.
Đức Thiện Thắng Vương Như Lai ấy
Thọ mạng bảy vạn sáu ngàn năm
Hội đầu tiên của Như Lai này
Có chúng La-hán ba mươi ức.
Sáu Thông, ba Minh, căn điều phục
Đủ đại oai đức, bốn Thần túc
Thọ thân cuối cùng hết các lậu
Không bị nhiễm ô bởi tám pháp.
Bấy giờ lại có chúng Bồ-tát
Gồm có cả thảy vạn vạn ức
Được sáu thần thông, đủ biện tài
Học không rốt ráo nơi các pháp.
Dùng sức thần thông, dạo ức cõi
Lần lượt giáo hóa hơn hằng sa
Hỏi các Như Lai chỗ hành đạo
Trở về trú nơi thế giới mình.
Thông suốt tất cả Tu-đa-la
Du hành thế giới làm đèn sáng
Đó là Phật tử đại thần lực
Vì lợi chúng sinh đi các nước.
Xa lìa xú uế, hành phạm hạnh
Không vì dục lạc tạo các ác
Thường làm chư Thiên được vui sướng
Ở trong các cõi không nương tựa.
Ở chỗ nhàn hạ thường khất thực
Ở nơi không tịch, hành Đầu-đà
Nghe nhiều, khéo nói, phước đức lớn
Ở nơi ba cõi không đắm trước.
Vui nơi thiền định, không sợ hãi
Nơi nghĩa quyết định, được biện tài
Nơi nghĩa câu, từ đã khéo học
Chỗ hỏi Phật tử điều rốt ráo.
Nhiếp hộ tất cả các nghiệp thiện
Nơi vô lượng kiếp tu hành xong
Thường được chư Phật đều khen ngợi
Diễn thuyết cú nghĩa đạo giải thoát.
Trì giới thanh tịnh, không ô nhiễm
Như xe trong nước không đắm trước
Ở nơi ba cõi thường nhàm chán
Không bị thế pháp làm nhiễm ô.
Tâm ấy thanh tịnh, nghiệp thanh tịnh
Ít muốn, biết đủ, đầy oai nghi
Tương lai an trụ trong Thánh đức
Cũng trụ ba Minh, đạo thù thắng.
Cần phải tu hành, không phải nói
Tự an trụ pháp, vì người nói
Vì các Như Lai khéo nhiếp thọ
Giao phó tất cả tạng Phật pháp.
Ở trong ba cõi sinh sợ hãi
Dùng tâm tịch tĩnh, thường tu định
Thường được gia hộ bởi chư Phật
Nói ngàn ức loại Tu-đa-la.
Nếu nói ức loại Tu-đa-la
Xa lìa tất cả thế gian giáo
Tin nơi không tịch, nói nghĩa sâu
Tiếng tăm vô lượng, đức như biển.
Đồng tử! Ta ở vô lượng kiếp
Thường khen ngợi họ không gián đoạn
Nay ta chỉ nói một phần nhỏ
Giống như giọt nước trong biển cả.
Khi ấy Phật Thiện Thắng Âm Vương
Nói định tối thắng tịch diệt này
Lúc đó cõi tam thiên đại thiên
Chư Thiên và người đều đông đủ.
Khi Đức Phật nói tịch định này
Lúc đó đại địa sáu chấn động
Số chúng trời, người như hằng sa
An trụ không thoái đạo Bồ-đề.
Có Nhân Trung Tôn, Vương tối thượng
Hiệu Công Đức Lực, đại oai thần
Có cả thảy năm trăm người con
Nhan mạo đoan chánh, rất đẹp đẽ.
Có tám ức phu nhân mỹ diệu
Đều là quyến thuộc trong cung vua
Vua Công Đức ấy sinh con gái
Cả thảy một ngàn bốn trăm ức.
Vua ấy, ngày mười lăm tháng tám
Liền muốn thọ trì Bát trai giới
Cùng với tám ức na-do người
Đồng thời đi đến chỗ Như Lai.
Cúi lạy Lưỡng Túc Tôn Vô Thượng
Liền ở trước Phật, ngồi một bên
Như Lai biết tâm vua ưa thích
Ngài liền nói Thắng Tam-muội này.
Đức vua nghe xong Tam-muội ấy
Vứt bỏ ngôi vua như nhổ dãi
Cùng bỏ tất cả người thân ái
Ở chỗ Đức Phật mà xuất gia.
Phu nhân hậu cung, con thuận thảo
Và các cung nữ đều xuất gia
Quyến thuộc hậu cung và thân tộc
Bảy mươi sáu vạn na-do-tha.
Vợ con đức vua đã xuất gia
An trụ dũng mãnh thường tinh tấn
Kinh hành không nghỉ tròn tám năm
Trong khi kinh hành thì mạng chung.
Đại Thánh Vương này mạng chung rồi
Sinh lại nước mình nơi cung vua
Bỗng nhiên hóa sinh, không thai nhiễm
Bấy giờ Như Lai còn tại thế.
Vua cha tên là Kiên Cố Lực
Mẹ vua tên là Đại Trí Tuệ
Nhà vua sinh rồi thưa phụ mẫu
Phật Thắng Âm Vương trụ thế chăng?
Khi ấy Như Lai Thắng Âm Vương
Từng nói cho ta Thắng Tam-muội
Chẳng phải nhân duyên, chẳng vô duyên
Ở trong các cõi chỉ nói một.
Là ấn khởi tánh tất cả pháp
Nói ra vạn ức Tu-đa-la
Tài sản vô thượng của Bồ-tát
Nay Phật vẫn nói Tam-muội chăng?
Thuyết pháp không hoại nơi nhân quả
Hay tu tám Thánh đạo tối thắng
Trí tuệ Như Lai thấy thế gian
Rõ biết các pháp nhập Thánh đế.
Thân nghiệp, khẩu nghiệp đều thanh tịnh
Ý nghiệp thanh tịnh, tri kiến tịnh
Vượt qua tất cả các phan duyên
Phật ấy vẫn nói Tam-muội chăng?
Hay biết các ấm, giới bình đẳng
Xa lìa tất cả tướng các nhập
Chứng nơi nhẫn tịch diệt, vô sinh
Phật này vẫn nói Tam-muội chăng?
Biện tài vô ngại, nhập tịch trí
Thấu hiểu văn tự, trí sai biệt
Có thể vượt lên các chấp trước
Phật ấy vẫn nói Tam-muội chăng?
Biết các âm thanh được hân hoan
Gặp chư Phật rồi vui khôn xiết
Được con đường Thánh thẳng, nhu nhuyến
Phật vẫn nói Tam-muội này chăng?
Không khởi sân hận, thường thuận hòa
Nói lời hay đẹp, luôn mỉm cười
Thấy các chúng sinh, trước an ủi
Phật vẫn nói Tam-muội này chăng?
Cung kính Tôn trưởng, không giải đãi
Lễ bái cúng dường mãi chiêm ngưỡng
Thân mình thanh tịnh, đủ bạch pháp
Pháp vương vẫn nói Tam-muội chăng?
Nơi các bạch pháp thường không chán
Sống nơi không nhàn lìa tà mạng
Nhớ nghĩ các địa không quên mất
Pháp vương vẫn nói Tam-muội chăng?
Nơi ấm, trí thiện xảo, thần thông
Xa lìa phiền não bậc điều phục
Hay đoạn phàm phu, nói lời đạo
Pháp vương vẫn nói Tam-muội chăng?
Thường hay siêng tu các thắng hạnh
Xa lìa phạm giới, biết trì, phạm
Và lìa tất cả các ái thân
Pháp vương vẫn nói Tam-muội chăng?
Vượt qua tất cả các hữu sinh
Tự biết kiếp trước lìa các nghi
Trong lòng kính pháp, nghe Tổng trì
Nay Phật vẫn nói Tam-muội chăng?
Pháp sinh thắng trí tuệ lợi lạc
Tin thích bất động như núi chúa
Được môn Tổng trì không thoái chuyển
Thế Thân vẫn nói Tam-muội chăng?
Thường cầu tất cả pháp bạch tịnh
Ở trong ác pháp thường xa lìa
Tâm không du nhập bạn phiền não
Như Lai vẫn nói pháp này chăng?
Các học cứu cánh, được tự tại
Nơi các thiền định đã cùng tột
Trí tuệ hay khiến tin, hoan hỷ
Mâu-ni vẫn còn thuyết pháp chăng?
Tăng trưởng trí Thắng trí, sinh trí
Trí tuệ vô lượng, trí bình đẳng
Trí tùy sinh biết nơi các thú
Vua Mâu-ni thuyết thắng pháp này.
Tín tâm xuất gia bỏ thế tục
Không đắm ba cõi, không nương tựa
Điều phục tâm mình khiến hân hoan
Là Phật nói Thắng Bồ-đề này.
Ở trong các pháp không chấp trước
Thường hay thọ trì tất cả pháp
Nơi các nghiệp quả tin bất động
Thế Tôn tối thắng nói pháp này.
Trí quả báo, giới luật trì, phạm
Diệt trừ tất cả các tranh luận
Hay nói không trái, không tranh cãi
Mâu-ni Lưỡng Túc, nói pháp này.
Thọ trì nhẫn nhục không sân hận
Thiện xảo nơi các sự hỏi đáp
Trí sai biệt biết các pháp cú
Thế Tôn Đại Bi nói pháp này.
Biết ngằn mé quá khứ, vị lai
Hay biết tánh Phật pháp ba đời
Trí phần đoạn biết được ba đời
Thế Tôn tự nhiên nói pháp này.
Thường hay trụ tâm vào một chỗ
Thường hay an thân nơi Thánh địa
Nơi các oai nghi thường không đổi
Nhân Trung Ngưu vương nói pháp này.
Có hổ, có thẹn, tự trang nghiêm
Biết được thế gian, đúng thời nói
Tất cả thường duỗi tay bố thí
Thế Thân Vô Thượng nói pháp này.
Thường hay nhiếp tâm có hổ thẹn
Cũng luôn xa lìa ác, bất thiện
Đầu-đà tùy thuận, thường khất thực
Bậc Mâu-ni Vương nói thắng pháp.
Tâm thường hổ thẹn, thường hân hoan
Cúng dường Thế Tôn, hằng cung kính
Xa lìa kiêu mạn, tu lễ bái
Như Lai nói pháp thắng diệu này.
Ngăn tâm hạ liệt, khiến an nhàn
Tự hay đo lường ngằn mé trí
Xa lìa vô tri, các chướng ngại
Thắng nhân như vậy nói pháp này.
Hay nhập tâm trí, ngôn ngữ trí
Quyết định hay biết các ngôn từ
Xa lìa tất cả việc không lợi
Như Lai Pháp Vương nói pháp này.
Thường được thân cận Thiện tri thức
Xa lìa tất cả người bất thiện
Thường được tin Phật, không phóng dật
Mâu-ni nói pháp Vô thượng này.
Biết đời giả danh, chỉ ngôn thuyết
Thường chán tất cả khổ thế gian
Với lợi, được, mất không mừng, lo
Mâu-ni nói pháp tối thắng này.
Nếu được cung kính, không tự cao
Không được cung kính, tâm buông xả
Nếu được xưng tán, tâm không mừng
Là Thế Gian Sư nói pháp này.
Thường bỏ tất cả các ác đạo
Không giao thông với người thế tục
Nơi chúng xuất gia không liên can
Bậc Trí Tự Nhiên nói pháp này.
Người dũng xa lìa chỗ làm sai
Thường an trụ nơi việc Phật làm
Đầy đủ oai nghi, tâm điều phục
Đó là gốc pháp Phật đã nói.
Thường xa tất cả pháp phàm ngu
Cũng lìa các pháp nhà ô uế
Thường hộ tất cả các Phật pháp
Pháp này được nói bởi Đại Trí.
Ít nói, tốt đẹp khéo tương ưng
Đối với người thường nói nhỏ nhẹ
Như pháp hàng phục các oán địch
Mặt trời giáo pháp Đại trí tuệ.
Biết thời, tiết lượng việc ăn uống
Cẩn thận chớ tin pháp phàm phu
Nếu gặp duyên khổ, tâm không buồn
Là giáo pháp thiện thắng của Như Lai.
Nếu thấy người tham được của cải
Thấy người phá giới khởi lòng thương
Dùng lòng Từ mẫn để khai hóa
Đó là Thắng pháp Như Lai dạy.
Thường dùng pháp nhiếp hóa chúng sinh
Và bỏ tất cả các tài sản
Đối với tám pháp không chứa nhóm
Như Lai Đại Thánh đã dạy vậy.
Khen người trì giới, trách phá giới
Kiên trì tịnh giới không dối trá
Không chứa của cải, thường xả bỏ
Là giáo pháp tối thắng Như Lai.
Hết lòng thưa hỏi các Sư trưởng
Tùy theo lời dạy đều làm theo
Thường hay thân cận các Pháp sư
Giáo pháp tối thắng Như Lai vậy.
Tâm thường ưa thích, hằng cung kính
Cũng thường an trụ nơi chánh kiến
Nơi các thiện nghiệp hay quyết định
Giáo pháp tối thắng Như Lai vậy.
Tạo các thiện hạnh là trên hết
Phương tiện thiện xảo, vứt bỏ tướng
Xa lìa nơi tưởng và việc tưởng
Giáo pháp vô thượng của Như Lai.
Với Tu-đa-la hay rõ biết
Cú nghĩa chân thật khéo tu học
Chứng trí giải thoát thường thiện xảo
Là tối thắng giáo của Như Lai.
Mở miệng nói ra lời chánh ngữ
Tâm, cảnh tương xưng lời quyết định
Tuyên nói điều gì không nghi ngờ
Là tối thắng giáo của Như Lai.
Thường nên tu tập các pháp không
An trụ sức giới, không sợ hãi
Du hành tất cả nơi tịch định
Là tối thắng giáo của Như Lai.
Không cầu thân ái và lợi dưỡng
Trong lòng không có các quanh co
Xa lìa tất cả các ác kiến
Là tối thắng giáo của Như Lai.
Nơi Đà-la-ni được thắng biện
Trí tuệ chiếu sáng, rộng vô biên
Thuyết pháp không dứt, biện tài tịnh
Là tối thắng giáo của Như Lai.
Nơi bốn pháp môn tụ tập lâu
Hay nhập vào hạnh tối hiền thiện
Với lời Phật dạy, vâng tu hành
Là tối thắng giáo của Như Lai.
Nơi lời Phật dạy tùy thuận nhẫn
An trụ nhẫn ấy lìa các lỗi
Xa lìa phi trí, trụ nơi trí
Là tối thắng giáo của Như Lai.
Nhờ trí trụ nơi phương tiện địa
Tụ tập hạnh thiện xảo Bồ tát
Làm chỗ tu hành của Trượng phu
Là tối thắng giáo của chư Phật.
Thường lìa phương tiện không đúng pháp
Như Lai nói đó là Phật địa
Nếu có trí tuệ, Phật tùy hỷ
Là tối thắng giáo của Như Lai.
Phật địa rộng lớn chẳng hai thừa
Phàm ngu không trí sinh hủy báng
Người trí được chư Phật nhiếp thọ
Là tối thắng giáo của Như Lai.
Như Lai khéo biết pháp môn này
Chư Thiên cung kính nên cúng dường
Ngàn ức Phạm chúng thường tùy hỷ
Như Lai vẫn nói Tam-muội chăng?
Vô lượng trời, rồng thường lễ bái
Khẩn-na, Kim sí thường tán thán
Dưới cây Bồ-đề đã chứng đắc
Như Lai vẫn nói Tam-muội chăng?
Thường vì chỗ người trí mong cầu
Chính là tài sản thiện thắng pháp
Chẳng phải tài thí vui bậc nhất
Như Lai vẫn nói Tam-muội chăng?
Kho tàng trí tuệ nói không cùng
Có thể nói ức kinh vi diệu
Khéo biết ba cõi trí như thật
Như Lai vẫn nói Tam-muội chăng?
Nói về thuyền bè qua bờ kia
Không bị bốn giòng làm trôi nổi
Khiến cho tiếng tăm được tăng trưởng
Cho nên nói định Tam-muội này.
Tán thán mười loại lực tối thắng
Và khen Nhân trung Đại Ngưu Vương
Công đức Bồ-tát nhiều vô tận
Chính nhờ được Tam-muội này vậy.
Nói về tâm Từ, trừ sân hận
Làm người đại Bi, đại Hỷ, Xả
Nơi bậc Đại thừa được sức sống
Chính nhờ nói Tam-muội này vậy.
Làm sư tử hống nói Thắng hạnh
Đó là trí Phật, thắng A hàm
Ấn thể tánh tất cả các pháp
Tam-muội như vậy Phật đã nói.
Chiêu tập trí Nhất thiết chủng trí
Là khu vườn người cầu Bồ đề
Nó hay phá hoại chúng ma quân
Gọi là Phật nói Định thắng tịch.
Hay sinh công đức của Chánh giác
Là Ấn tự tánh tất cả pháp
Ấn Diệu pháp, vô sinh, tịch diệt
Đạo Sư đã nói Thắng Tam-muội.
Với người trụ pháp làm đèn sáng
Ở trong oán thù mà không thù
Như pháp hàng phục các ma quân
Đạo Sư nói Thắng Tam-muội này.
Hiển thị sự biện tài vô ngại
Các Lực giải thoát và các Căn
Mười tám pháp Bất cộng tối thắng
Do Tam-muội ấy được pháp này.
Cầu mong thật pháp Bậc Thập Lực
Bản nhân thắng trí của chư Phật
Phật Đại Trượng Phu đã thuyết pháp
Vì xót thương, cứu hộ thế gian.
Phật tử tối thắng đã nhiếp thọ
Người cầu giải thoát còn dục lạc
Nghe tịch tĩnh này khó thấy định
Là điều yêu thích các Phật tử.
Các Phật đầy đủ sự trí tuệ
Trí tuệ Bồ-tát khởi tâm cầu
Trong tâm thanh tịnh không phiền não
Nên tu định tịch diệt như vậy.
Thân nghiệp thanh tịnh, miệng cũng vậy
Như Lai chỉ bày cửa giải thoát
Không có tạp uế, ái dục trói
Cần phải siêng tu Tam-muội này.
Không sinh tham ái và sân nhuế
Mau chóng đạt được Đại trí tuệ
Hay khởi ánh sáng diệt vô minh
Cho nên phải tu định tịch diệt.
Người cầu giải thoát được viên mãn
Người cầu Tam-muội liền đạt được
Lìa sự khen chê, mắt Như Lai
Cần phải tu tập Tam-muội này.
Thần thông du hành nhiều cõi Phật
Thần túc thấy công đức chư Phật
Đà-la-ni môn được không khó
Cần tu định thắng tịch như vậy.
Gia trì niệm căn, được Bồ-đề
Cũng hay gia trì thấy nhiều Phật
Dùng trí vi tế nói vô sinh
Tu Tam-muội này được không khó.
Hành không đúng pháp khó giác ngộ
Nhờ xa lìa tất cả văn tự
Không dùng âm thanh mà hiểu rõ
Không từng nghe định nên không biết.
Trí tuệ Bồ-tát đã hiểu rõ
Như Pháp Vương nói mà hay biết
Tịch diệt không hủy đo lường được
Chỉ vì cứu độ thế gian vậy.
Dũng mãnh, tinh tấn khéo gìn giữ
Kiên cố hộ niệm hằng không mất
Trí tuệ dứt khổ và diệt trí
Phật vẫn nói Tam-muội này chăng?
Diễn thuyết tất cả pháp không sinh
Cũng nói tất cả các cõi sinh
Chư Phật Như Lai diệu trí tuệ
Phật vẫn nói Tam-muội này chăng?
Pháp này Đồng tử đã hiển thị
Tám mươi ức ngàn na-do-tha
Được âm thanh nhẫn, thắng, tùy thuận
Không thoái chuyển với Thắng Bồ-đề.
Vua Kiên Cố Lực bảo con rằng:
“Đức Phật Thế Tôn nay vẫn còn”.
Vua hỏi Đồng tử như thế này:
“Con ở chỗ nào nghe pháp này?”
Con thưa: Lắng nghe Sát-lợi vương,
Con từng gặp được mười ức Phật
Cứ trong mỗi kiếp đều cúng dường
Thưa hỏi đầy đủ tịch định này.
Đã qua trong chín mươi bốn kiếp
Thường được hiểu rõ trí túc mạng
Từ đó không sinh trong bào thai
Chính nhờ tu sức Tam-muội này.
Ở chỗ Đức Phật hằng nghe pháp
Nghe rồi thâm tín mà tu tập
Con thường tin kiên cố như vầy
Chắc chứng Bồ-đề quyết không nghi.
Khi thọ trì, đọc tụng Tam-muội
Nếu có người đến hỏi với con
Cho đến trong mộng, không nghi hoặc
Cần phải thành tựu đạo Vô thượng.
Con nhờ đó được không tham ái
Tự biết quyết định sẽ thành Phật
Cũng thường sinh ưa thích như vầy:
Không biết khi nào được Bồ-đề?
Vì học thọ trì Thắng Tam-muội
Nếu có Tỳ-kheo dạy cho con
Con sinh cung kính với người đó
Cũng như cung kính với chư Phật.
Người kia dạy con một bài kệ
Khi tu hành thuận nhẫn Bồ-tát
Lòng thành chiêm ngưỡng như thầy hay
Khiêm hạ cung kính mà cúng dường.
Chỗ Tỳ-kheo trung niên, già, trẻ
Hổ thẹn, khiêm hạ sinh cung kính
Cung kính nơi ấy được danh xưng
Đời sau phước đức, đang tăng trưởng.
Với chuyện tranh cãi, không ưa thích
Lúc đó con an trụ thiểu sự
Rõ biết ác nghiệp sinh ác đạo
Biết được thiện nghiệp sinh thiện đạo.
Không nên nói pháp kẻ phóng dật
Với họ nghe toàn lời thô bỉ
Cũng tự suy tư nghiệp ác mình
Đã tạo nghiệp rồi không hề mất.
Lúc đó con không sân, không mạn
Phật nói nhẫn lực siêng tu hành
Chư Phật luôn luôn khen sự nhẫn
Tu nhẫn dễ được đạo Bồ-đề.
Con vốn trì giới luôn thanh tịnh
Cũng khiến chúng sinh trụ tịnh giới
Luôn luôn tán thán giới tối thượng
Do sống tịnh giới, người tín thọ.
Luôn luôn khen ngợi chỗ nhàn tịnh
Cũng tự an trụ trì tịnh giới
Khuyên người tu hành tám trai giới
Cũng lại dạy người học Bồ-đề.
Khuyên người tu tập tịnh phạm hạnh
Cũng lại dạy họ trụ nghĩa pháp
Vì họ hiển bày đạo Bồ-đề
Sau khi mạng chung thấy nhiều Phật.
Con nhớ khi ở kiếp quá khứ
Có Phật hiệu là Diệu Thanh Nhân
Trước Đức Phật ấy phát nguyện lớn
Hằng trụ sức nhẫn không lay động.
Khi xưa phát thề sâu như vậy
Trải qua tám ức bốn vạn năm
Khi ma hủy báng đến ma nhục
Tâm con như trước không biến động.
Bấy giờ hàng phục ma quân xong
Biết sức từ nhẫn con kiên cố
Đem tâm thanh tịnh lạy dưới chân
Năm trăm chúng phát tâm Bồ-đề.
Thời quá khứ con không keo kiệt
Luôn luôn tán thán hạnh bố thí
Giàu có của cải có tiếng tăm
Gặp thời đói kém làm thí chủ.
Nếu có Tỳ-kheo trì định này
Có thể tu tập, nói cho người
Liền tự thường hằng cúng dường họ
Nhờ có tâm này khiến thành Phật.
Lúc con có nghiệp vô thượng ấy
Thấy Phật Thế Tôn, Nhân Trung Tôn
Đời đời thường thọ giới Cụ túc
Được làm Tỳ-kheo, nghe Pháp sư.
Con thường thích tu hạnh Đầu-đà
Cũng ở rừng Lan-nhã không tịch
Không vì ăn uống mà dối láo
Được một phần nhỏ, đều thấy đủ.
Mọi lúc con không hề ganh ghét
Con thường không đắm trước tại gia
Không đắm trước nhà, không ganh ghét
Ưa thích nhàn tịnh, không thoái lui.
Lúc đó con luôn hành hạnh Từ
Nếu bị chửi mắng không sân hận
Dùng tâm Từ bi, khéo điều phục
Vòng hoa danh tiếng khắp mười phương.
Thường tập thiểu dục mà tri túc
Thích sự khổ hạnh, tu nhàn tịnh
Cũng thường khất thực, không mệt mỏi
Thệ nguyện kiên cố không lay động.
Tập hành tín tâm, thường thanh tịnh
Ở chỗ Như Lai tín thăng thượng
Bởi nhờ tin Phật có lợi lạc
Các căn không khuyết thường đoan chánh.
Như điều Phật nói liền thực hành
Thành tựu hạnh kiên cố như vậy
Hạnh kiên cố này có lợi gì?
Chư Thiên cúng dường vui khuyến thỉnh.
Con đã nói công đức diễn thuyết
Thượng đức thế gian và đức khác
Nếu có người trí nên tu học
Làm người hành đạo cầu Bồ-đề.
Nay con hằng nhớ hạnh khó làm
Mà thuở xưa kia thường tu tập
Nếu nay diễn thuyết thời gian lâu
Cùng họ theo đến chỗ Đức Phật.
Bồ-tát thắng trí đạt lợi này
Đạt được đầy đủ năm thần thông
Nhờ sức thần túc đến chỗ Phật
Cùng Phạm thiên vương cả ngàn vạn.
Vua Kiên Cố Lực tâm hoan hỷ
Cùng các quyến thuộc, ức vạn chúng
Đồng đi đến chỗ Đức Như Lai
Đảnh lễ dưới chân đứng trước Phật.
Khi Phật biết tâm vua hoan hỷ
Liền nói cho vua Tam-muội này
Đức vua nghe Tam-muội này xong
Vứt bỏ ngôi vua mà xuất gia.
Vua đã xuất gia, với định này
Thọ trì đọc tụng, nói cho người
Mãi về sau, hơn sáu mươi kiếp
Thành Phật hiệu là Liên Hoa Thượng.
Vua có sáu trăm ức quyến thuộc
Đồng lúc theo vua đến chỗ Phật
Họ nghe Thắng Tam-muội như vậy
Vui mừng vô hạn cũng xuất gia.
Họ xuất gia rồi, với định này
Thọ trì, đọc tụng, nói cho người
Hơn sáu mươi na-do-tha kiếp
Cùng trong một kiếp đều thành Phật.
Hiệu Phật Thiện Điều Phục Trí Thượng
Vô lượng người, trời cùng cúng dường
Mỗi một Đức Phật tiếng tăm lớn
Độ thoát chúng sinh hằng hà sa.
Vua Kiên Cố Lực là thân ta
Tu hành hạnh Bồ-đề thắng diệu
Thuở xưa ta có năm trăm con
Bọn họ sau này làm hộ pháp.
Nơi ngàn ức kiếp ta như vậy
Dũng mãnh tinh tấn, lìa giải đãi
Chuyên tâm cầu Thắng Tam-muội này
Chính là Vô thượng Bồ-đề vậy.
Đồng tử! Nếu có các Bồ-tát
Muốn đạt được như thắng định này
Tinh tấn, dũng mãnh, không tiếc mạng
Cần phải học ta siêng tinh tấn.

QUYỂN 5

Đức Phật lại bảo Đồng tử Nguyệt Quang:

–Nếu Đại Bồ-tát đối với kinh điển Tam-muội này mà thọ trì, đọc tụng, vì người giải thuyết như pháp tu hành thì sẽ được bốn công đức.

Những gì là bốn?

1. Thành tựu đầy đủ phước đức.

2. Không bị oan gia làm hại.

3. Thành tựu trí tuệ vô biên.

4. Thành tựu vô lượng biện tài.

Này Đồng tử! Nếu có Đại Bồ-tát có thể đối với kinh điển của Tam-muội này mà thọ trì, đọc tụng, hộ niệm, tư duy, rộng nói cho người khác thì sẽ đạt được bốn loại công đức như vậy.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Phước đức thành tựu hằng đầy đủ
Ở trong mọi lúc thường không đoạn
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Đạt được cảnh giới chư Như Lai.
Công đức dũng kiện được gìn giữ
Ở trong mọi lúc thường thành tựu
Tu hành định thắng tịch như vậy
Đạt được thắng Bồ-đề vô thượng.
Sẽ không có tất cả oán địch
Thường không bị oán địch làm hại
Thành tựu trí tuệ đều viên mãn
Ở trong mọi lúc thường không đoạn.
Người ấy thành tựu trí vô lượng
Cũng lại đầy đủ tuệ vô biên
Vô lượng, vô biên thắng biện tài
Vì nhờ thọ trì thắng định vậy.
Thành tựu đầy đủ phước đức tụ
Cũng thành hạnh Bồ-tát thắng diệu
Không có tất cả các oán địch
Nhờ trì thắng định tịch diệt này.
Trí tuệ rộng lớn thật vô biên
Cũng thành vô biên thắng biện tài
Âm thanh mỹ diệu thật đáng ưa
Nhờ nói thắng định như thế đó.
Được bậc trí bạn lành mến yêu
Có thể tuyên thuyết về tự nghĩa
Mọi người đều biết kho phước này
Nhờ tuyên thuyết thắng định như vậy.
Được lợi dưỡng lớn, y phục đẹp
Cũng được món ăn rất thắng diệu
Nhan mạo đoan chánh thật khả ái
Nhờ thọ trì tịch định như vậy.
Thấy nhiều chư Phật bạn thế gian
Dùng vật tuyệt hảo cúng chư Phật
Không có tất cả các chướng nạn
Nhờ trì thắng định như vậy đó.
Ở trước Đức Phật mà tán thán
Tâm vui nói hằng trăm diệu kệ
Nơi trí tuệ ấy không hao tổn
Vì nhờ nói tịch định như vậy.
Thế Tôn Thập Lực ngồi ở trước
Tướng tốt trang nghiêm thân khả ái
Trong sạch thanh tịnh như núi vàng
Nhờ tu thắng định như vậy đó.
Trí ấy chưa từng có tổn giảm
Trí tuệ đa văn cũng sung mãn
Thành tựu đại pháp tạng tối thắng
Nhờ nói Tam-muội như vậy đó.
Trí tuệ rộng lớn, không hạn lượng
Nhiều hằng trăm kiếp nói không hết
Nghe tịnh định sâu xa như vậy
Như lời Phật dạy mà an trụ.
Không sinh tất cả các nạn xứ
Phật tử như vậy luôn làm vua
Trị nước như pháp, thường an ổn
Nhờ thọ trì thắng định như vậy.
Vô lượng vô biên ức số kiếp
Thập Lực nói công đức lợi lạc
Dù nói phần nhỏ cũng không hết
Giống như giọt nước trong biển cả.
Bấy giờ Đồng tử rất hân hoan
Liền từ tòa, sửa y, đứng dậy
Chắp mười ngón tay hướng Đức Phật
Hết sức hoan hỷ tán thán rằng:
Thế Tôn, Đại Hùng rất kỳ đặc
Vì thân với đời, làm ánh sáng
Bậc Đại Mâu-ni nói công đức
Hiển thị thắng lợi ích như vậy.
Đại Thánh Thế Hùng nói cho con
Mong Phật xót thương cứu hộ con
Người nào có thể đời mạt thế
Lắng nghe Tu-đa-la như vậy?
Ca-lăng, Tần-già, tiếng diệu âm
Sấm sét sâu xa, tiếng hân hoan
Đầy đủ vô lượng thắng trí tuệ
Phật bảo Đồng tử Nguyệt Quang rằng:
“Nay ông lắng nghe, ta sẽ nói
Hạnh vi diệu, tối thắng, vô thượng
Nếu người muốn thọ trì nơi pháp
Lắng nghe kinh Tam-muội như vậy.
Hết lòng cúng dường tất cả Phật
Dùng tâm thanh tịnh cầu trí Phật
Lại nên tu tập tâm Từ bi
Lắng nghe Tu-đa-la như vậy.
Thành tựu Đầu-đà lìa lỗi lầm
Tu hạnh tịch tĩnh, rừng công đức
An trụ trí thượng diệu đại thắng
Lắng nghe thọ trì kinh Tam-muội.
Các chúng sinh làm điều ác hạnh
Cùng với người hủy phá cấm giới
Các bọn Tỳ-kheo ác như thế
Không thể nghe kinh Tam-muội này.
Dũng mãnh tu hành các phạm hạnh
Tâm ấy không có các uế trược
Thường được chư Phật đều gia hộ
Kinh này sẽ trao tay người ấy.
Nếu ai đối với vô lượng Phật
Hầu hạ, cung kính tu cúng dường
Người ấy khi sinh đời mạt thế
Kinh này sẽ đến tay người đó.
Nếu ai đối với đời quá khứ
Ở trong ngoại đạo, làm hạnh ác
Người ấy nghe Tu-đa-la này
Trong tâm không vui, sinh ganh ghét.
Ở trong Phật pháp được xuất gia
Không vì Niết-bàn cầu sinh sống
Vì tham, tật đố tự trói buộc
Nên mới bài báng kinh điển Phật.
Tham đắm nhà người, sinh keo kiệt
Nên bị ma Ba-tuần sai xử
Chuyên cầu lợi dưỡng phá cấm giới
Ở trong Phật pháp ắt không tin.
Bởi kiếp trước không trồng căn lành
Chưa được trí tuệ sinh kiêu mạn
Nương vào ngã kiến, phàm phu ngu
Tâm cũng không tin đời mạt thế.
Nơi thế gian này, trong thiền định,
Liền bảo đã được tưởng chứng quả
Cho mình La-hán, nhận cúng dường
Họ sẽ hủy báng thắng Bồ-đề.
Tất cả những chỗ ở Diêm-phù
Hủy báng tất cả tháp miếu Phật
Nếu ai hủy báng Bồ-đề Phật
Mắc tội to lớn hơn người kia.
Nếu ai sát hại A-la-hán
Tội ấy vô lượng, vô biên số
Nếu ai hủy báng Tu-đa-la
Mắc phải tội báo hơn người kia.
Ai hay với kinh, tâm dũng mãnh
Ở thời mạt thế trong ác trược
Khi chánh giới, chánh pháp hủy hoại
Nói rõ Tu-đa-la như vậy.
Đồng tử buồn khóc, rồi đứng dậy
Vòng tay, cúi đầu phát nguyện rằng:
Sáng nay con nơi Sư Tử Hống
Ở trước Pháp Vương, Bậc Tối Thắng,
Sau khi Đức Như Lai diệt độ
Con ở thời ác thế, mạt thế
Xả bỏ thân mạng không tiếc nuối
Hoằng dương Tu-đa-la như vậy.
Hay nhẫn kẻ ngu, nói lời đạo
Hủy báng không thật, rất tổn nhục
Chửi mắng, khinh khi và khủng bố
Dũng mãnh tinh tấn mà nhẫn thọ.
Trừ khử tất cả các nghiệp ác
Ở đời quá khứ đã tạo ra
Trong lòng không sinh sự sân hận
Ắt sẽ an trụ trong Phật pháp.
Tay sắc vàng Diêm-phù tịnh diệu
Xoa trên đảnh Đồng tử Nguyệt Quang
Như Lai phát ra tiếng hòa nhã:
“Đồng tử Nguyệt Quang đại oai đức”.
Nay ta đang gia hộ cho ông
Ở đời mạt thế về sau này
Không để ông bị các chướng nạn
Mạng khó phạm hạnh các chướng ngại.
Lại có người khác nhất thời khởi
Tỳ-kheo trì pháp tám trăm người
Tự nói: “Ta ở đời mạt thế
Ắt sẽ hộ trì kinh điển này”.
Bấy giờ nhiều ức Dạ-xoa, Rồng
Tức thì từ tòa mà đứng dậy
Lại có tám na-do-tha khác
Thưa thỉnh Thế Tôn lời như vầy:
Chúng con ở chỗ Tỳ-kheo này
Vừa nói từ tòa mà đứng dậy
Vào thời mạt thế, đời ác thế
Con quyết ủng hộ Tỳ-kheo ấy.
Nên biết khi nói kinh như vầy
Bởi nhờ thần lực Phật gia hộ
Tất cả hằng hà sa số cõi
Vô lượng cõi Phật đều chấn động.
Tùy chỗ chấn động các thế giới
Tùy chỗ ứng hóa thành nhiều Phật
Do Phật Thích-ca biến hóa ra
Diễn thuyết Tu-đa-la như vậy.
Tất cả hiện có các cõi Phật
Ức chúng sinh không thể nghĩ bàn
Đều được lắng nghe thắng pháp này
An trụ trí Như Lai chư Phật.
Ở trong cõi Phật, thế giới này
Số có chín ức chúng chư Thiên
Tất cả đều phát tâm Bồ-đề
Liền ở chỗ Phật rải diệu hoa.
Có các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Ưu-ba-bà-tố, Ưu-bà-di
Số đến bảy ức sáu ngàn vạn
Đều được nghe Tu-đa-la này.
Đức Mâu-ni vương thọ ký họ
Ắt sẽ thấy Lưỡng Túc Tôn ấy
Số lượng giống như hằng hà sa
Đều được tu tập hạnh Bồ-đề.
Cúng dường cung kính chư Phật ấy
Vì để cầu trí tuệ Như Lai
Đều hay ở chỗ chư Phật kia
Được nghe diệu kinh điển như vậy.
Trải qua trong số tám ức kiếp
Đều sẽ được thành Bậc Như Lai
Bậc phước đức ấy trong một kiếp
Độ thoát chúng sinh khiến an lạc.
Ở chỗ Đức Như Lai Di-lặc
Đặt bày thắng cúng dường vô thượng
Khéo trì chân diệu pháp Phật ấy
Đều được vãng sinh nước An lạc.
Đức Như Lai lìa cấu uế đó
Tên của Phật là A-di-đà
Nơi ấy rộng bày thắng cúng dường
Để cầu Bồ-đề vô thượng vậy.
Trải qua bảy mươi a-tăng-kỳ
Đầy đủ trong số kiếp như vậy
Không rơi vào tất cả ác đạo
Được nghe Thắng kinh điển như vậy.
Nếu ai về sau, đời vị lai
Lắng nghe Tu-đa-la như vậy
Nghe xong, khóc lóc mà rơi lệ
Ta đã cúng dường nơi người ấy.
Nay ta khuyên bảo cho tất cả
Những người hiện tại ở trước ta
Do đây nên được đạo Bồ-đề
Vì vậy phó chúc kinh điển này.

Cho nên, này Đồng tử! Đại Bồ-tát nếu muốn cầu Tam-muội như vậy, pháp chẳng nghĩ bàn chư Phật đã nói như vậy cần phải biết một cách khéo léo, đối với pháp Phật chẳng nghĩ bàn, cần phải thưa hỏi, cần phải thâm tín pháp Phật chẳng nghĩ bàn, cần phải thiện xảo, cầu pháp Phật chẳng nghĩ bàn. Nghe pháp Phật chẳng nghĩ bàn chớ ôm lòng sợ hãi, chớ tăng thêm sự sợ hãi, chớ luôn luôn sợ hãi.

Bấy giờ Đồng tử Nguyệt Quang thưa Đức Phật: –Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ-tát đối với pháp Phật chẳng nghĩ bàn cần phải biết một cách khéo léo? Thế nào là đối với pháp Phật chẳng nghĩ bàn cần phải cầu thỉnh, thưa hỏi? Thế nào là đối với pháp Phật chẳng nghĩ bàn cần phải thâm tín thanh tịnh? Thế nào là nghe pháp Phật chẳng nghĩ bàn không sinh sợ hãi, mãi không sợ hãi?

Bấy giờ có con của Càn-thát-bà tên là Ban-giáthi-khí, cùng với năm trăm người con khác của Càn-thát-bà, đồng lúc đem âm nhạc, nhiều loại nhạc khí, đi theo sau Đức Phật, muốn tấu lên cúng dường Đức Phật.

Bấy giờ Ban-giá-thi-khí, nghĩ như vầy: “Như ta trước đây đối với Đế Thích Kiều-thi-ca và trời Tam thập tam đã bày biện cúng dường. Nay ta nên đem ca vịnh, âm nhạc cúng dường Đức Như Lai, Bậc Thiên Trung Thiên, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri.”

Khi ấy Ban-giá-thi-khí, con của Càn-thát-bà, cùng với năm trăm người con khác của Càn-thátbà đều cùng lúc đánh đàn lưu ly, tấu lên lời ca vi diệu.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nghĩ như vầy: “Ta dùng thần lực du hý vô tác, khiến cho Đồng tử Nguyệt Quang ấy ở trong pháp Phật chẳng nghĩ bàn, được trụ nhất tâm. Lại khiến cho con của Càn-thát-bà là Ban-giá-thi-khí... nhạc khí và âm thanh ca hát của họ, làm cho hiện ra sự thù diệu.”

Khi ấy Đức Phật dùng thần lực nên khiến cho năm trăm âm nhạc, khéo tương xứng hòa nhã, phát ra âm thanh vô dục, âm thanh thuận với pháp, âm thanh phù hợp với pháp. Đó gọi là tương ưng với pháp Phật chẳng nghĩ bàn.

Bài kệ nói rằng:

Trên một sợi lông, hiện nhiều Phật
Con số giống như cát sông Hằng
Quốc độ cõi Phật cũng như vậy
Thể cõi Phật ấy: Không, Vô tướng.
Trên đầu sợi lông, hiện năm đường
Đó là: Địa ngục, các súc sinh
Với các ngạ quỷ và trời, người
Thảy đều mát mẻ, không bức não.
Nơi lỗ lông kia hiện biển, ao
Cùng các dòng sông và giếng, suối
Thảy đều không bức hại lẫn nhau
Gọi là Phật pháp chẳng nghĩ bàn.
Trên một đầu lông hiện các núi
Chiết-ca-bà-la và Tu-di
Mục-chân-lân-đà, Đại mục chân
Đó là Phật pháp chẳng nghĩ bàn.
Trên đầu sợi lông hiện địa ngục
Tiêu nhiệt, Hàn băng và Phẩn niệu
Có các chúng sinh sống ở đó
Thọ lãnh vô lượng sự khổ não.
Trên đầu sợi lông, hiện Thiên cung
Cung đẹp, rộng lớn, sáu mươi dặm
Lông chứa chư Thiên số vô lượng.
Chứa đủ chư Thiên rất khoái lạc
Trên đầu lông ấy, Phật xuất thế
Trong đó Phật pháp rất thạnh vượng
Người không trí tuệ không thể thấy
Túc nghiệp như vậy hành bất tịnh.
Trên đầu lông, nghe Phật Niết-bàn
Hoặc lại nghe rằng pháp diệt tận
Trên đầu sợi lông hoặc lại nghe
Nay Phật hiện tại đang thuyết pháp.
Hoặc lại có người trên sợi lông
Cho: Thọ mạng mình vô cùng tận
Hoặc trên đầu lông, nghe mạng yểu
Sinh ra liền diệt, chẳng lâu dài.
Hoặc lại nơi lông, tưởng như vầy:
Ta được thấy Phật, bày cúng dường
Phật cũng không hiện, không cúng dường
Nghĩ tâm mình tưởng mà hoan hỷ.
Giống như có người ở trong mộng
Đam mê năm dục, hưởng khoái lạc
Thức rồi không thấy sự dục lạc
Chỉ vì trong mộng, vọng thấy vậy.
Cái thấy, cái nghe, nhớ nghĩ pháp
Giống như mộng tưởng, không chân thật
Nếu ai chứng được Tam-muội này
Đều hay biết rõ pháp như vậy.
Ở trong thế gian hằng thọ lạc
Gọi yêu, không yêu, không tham trước
Thường hay ưa thích ở núi rừng
Hằng thọ cái vui như Sa-môn
Nếu ai không có các chấp trước
Xa lìa tất cả các ngã sở
Du hành thế gian như tê giác
Như gió trên trời không chướng ngại.
Tu tập nơi đạo, khởi thật trí
Tất cả các pháp không, vô ngã
Nếu ai hay tu pháp như vậy
Người ấy biện tài vô cùng tận.
Người này mãi thọ sự khoái lạc
Trong lòng không đắm việc thế gian
Tâm ấy giống như gió trên trời
Với yêu, không yêu, không đắm trước.
Với người không yêu, khó sống chung
Với người thân ái khó xa lìa
Vứt bỏ hai loại bạn như vậy
Chuyên cầu chánh pháp là người vui.
Nếu ai lắng nghe, tham ái khởi
Người ấy sẽ khởi tâm sân hận
Bị ngu, si, hôn, mạn trói buộc
Vì lực ngã mạn nên khổ não.
Nếu ai hay trụ nơi bình đẳng
Khéo hay khiêm hạ, không cao mạn
Yêu hay không yêu khéo giải thoát
Người ấy thường sống hạnh hoan hỷ.
An trụ nơi giới, khéo thanh tịnh
Nhờ tâm vô cấu, vui Thiền định
Hằng thường thích sống trong núi rừng
Người ấy mãi lìa các lưới nghi.
Nếu ai nghi hoặc, có điên đảo
Ngu si mãi thích các dục lạc
Giống như chim Thứu tham thi thể
Người ấy tự mình theo ma lực.

Khi nói kệ xong, Đồng tử Nguyệt Quang ở trong Phật pháp thậm thâm chẳng nghĩ bàn được an trụ nhất tâm, có thể diễn thuyết Tu-đa-la.

Bấy giờ Càn-thát-bà Ban-giá-thi-khí… được âm thanh Nhẫn tùy thuận, vô lượng, vô biên chúng sinh phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vô lượng chúng sinh ở trong trời, người đều được an ổn, lợi ích.

Bấy giờ Đức Phật bảo Đồng tử Nguyệt Quang:

–Đại Bồ-tát đối với các pháp lợi lạc công đức thiện căn cần phải khéo quyết định, không nên nhiều việc, nên lìa ác tri thức, cần nương vào Thiện tri thức khéo biết chỗ thưa hỏi thích ứng, vui thích nghe pháp không hề nhàm chán cần phải hoan hỷ, cần phải cầu pháp, thường nhiếp nơi pháp, nên nói chánh pháp, cần phải khéo léo thưa hỏi Bồ-tát, đối với Bồ-tát nên nghĩ đó là thầy của mình, đối với Pháp sư cần phải tôn trọng tưởng như thầy mình.

Này Đồng tử! Nếu có Bồ-tát có thể thọ trì và thực hành pháp này thì người ấy được đầy đủ biện tài chẳng nghĩ bàn, được niềm tin, thâm nhập vào biển Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, ở trong người và trời có thể làm đèn sáng.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Ở thời quá khứ nhiều ức kiếp
Không thể đo lường, chẳng nghĩ bàn
Bấy giờ có Phật, Lưỡng Túc Tôn
Hiệu Nhân-đà-la Phan Tràng Vương.
Lúc đó Phật nói Tam-muội này
Rằng không chúng sinh, không thọ mạng
Giống như bọt nước và điện chớp
Các pháp cũng như trăng dưới nước.
Thọ mạng chúng sinh chẳng thể nắm
Mất ở cõi này, sinh cõi khác
Những nghiệp đã làm không hề mất
Nghiệp báo trắng, đen cũng không mất.
Nhân quả tương ưng, thắng pháp môn
Cảnh giới Phật vi tế khó thấy
Văn tự, cú nghĩa chẳng thể nắm
Diệu Bồ-đề này Phật đã nói.
Đại trí tuệ tích tụ Tổng trì
Ức na-do-tha Kinh từ định xuất
Vô số chư Phật đã hành đạo Như
Tam-muội này là Phật nói. Khéo
hay hoại diệt các bệnh hoạn Chúng
Bồ-tát tích tập công đức Tất
cả chư Phật đều khen ngợi
Hằng ức chư Thiên đều cúng dường.
Nơi các phàm phu nói lời thật
Thường lìa tất cả pháp ngoại đạo
Chư Phật ngợi khen giới thù thắng
Như điện trong không khó nắm bắt.
Vô lượng ức chỗ Phật quá khứ
Bậc trí tu hành nơi giới, thí
Phải sớm xa lìa ác tri thức
Được của cha truyền thật vô thượng.
Nếu có Tỳ-kheo là Pháp sư
Tuệ Nhật Tử tu hành phạm hạnh
Nghe được pháp này mà tùy thuận
Phát tâm Bồ-đề thật tối thượng.
Đức Phật Nhân-đà-la Phan Tràng
Bảo Tỳ-kheo Pháp sư kia rằng:
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo! Khó thứ nhất
Đối với Bồ-đề phát tâm khó
Giữ giới giống như ngọc ma-ni
Thân gần bạn lành, thuận Bồ-đề
Với ác tri thức, luôn xa lìa
Mau được quả Vô thượng Bồ-đề.
Xưa kia ở cõi Diêm-phù này
Hai con trưởng giả không phóng dật
Ở trong Phật pháp mà xuất gia
Giống như tê giác sống núi rừng.
Đạt được bốn Thiền, có thần thông
Giỏi các kệ luận, không sợ hãi
Đất và hư không đều biết rõ
Đi trên hư không như chim bay.
An trụ ở trong chốn Hàn lâm
Rừng hoa tươi tốt, rất kỳ đặc
Tất cả chim lạ đều bay đến
Hai trưởng giả tử cùng nói chuyện.
Bây giờ có vua đang đi săn
Nghe tiếng nói chuyện liền đi đến
Đức vua cung kính lắng nghe pháp
Đối với Pháp sư thêm ái kính.
Đức vua cùng nhau đến thăm hỏi
Nói lời ấy rồi, ngồi ở trước
Nhà vua có rất nhiều quyến thuộc
Đi theo nhà vua sáu ức người.
Một trong hai vị là Pháp sư
Thấy vua bảo rằng: Hãy lắng nghe!
Chư Phật ra đời rất khó gặp
Cúi mong đại vương chớ phóng dật.
Thọ mạng quá nhanh, chẳng dừng lâu
Như nước trên núi đổ xuống biển
Bị già, bệnh, chết làm bức bách
Không ai cứu được, nghiệp như mình.
Cúi mong đại vương giữ chánh pháp
Kiến lập pháp chư Phật Thập Lực
Về sau mạt thế, đời ác trược
Cần phải trụ đó như bạn pháp.
Như vậy vô lượng, người thông tuệ
Vì lòng Từ nên nói với vua
Vua và sáu ức các quyến thuộc
Đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề.
Khi vua nghe Tịnh pháp cú này
Lời vi diệu, tịch diệt, nhu nhuyến
Thiện tâm vui sướng mà ái lạc
Đầu mặt lễ kính rồi tạ từ.
Khi ấy vô lượng Tỳ-kheo khác
Vì lợi dưỡng nên vào cung vua
Vua biết bọn họ hạnh không chánh
Với người có đức, không cung kính.
Pháp Đạo sư quá khứ khó diệt
Thời vị lai ác thế tăng trưởng
Con người đạo đức rất là ít
Có nhiều vô lượng kẻ phóng dật.
Các Tỳ-kheo cang cường, xan, mạn
Vì cầu lợi dưỡng, đắm các kiến
Ở trong Phật pháp không hiểu chánh
Đem các phi pháp nói cho vua
Cần phải giết chết Pháp sư kia
Vì nói với vua pháp Không, Đoạn
Khuyên vua và tôi tu Không, Đoạn
Chẳng chỉ cho vua chân Niết-bàn
Nơi nghiệp báo ấy đều tán hoại
Kẻ nịnh nói ấm vốn không vô.
Nếu có thể giết Pháp sư ấy
Sẽ khiến đại pháp được lâu dài
Bấy giờ thường có Thần hộ vua
Thiện tri thức quá khứ của vua.
Luôn luôn giúp vua lìa các ác
Trời ấy nói vua lời như vầy:
Vua cẩn thận chớ khởi tâm ấy
Lời ác tri thức rất đáng sợ.
Chớ đối với Pháp sư thông tuệ
Nghe lời người ác mà giết hại!
Đại vương lẽ nào chẳng nhớ lại
Tỳ-kheo giữa rừng đã nói rằng:
Về sau mạt thế, thời ác trược
Vua nên an trụ bạn như pháp
Trời vì đức vua nói lời thật
Nơi pháp chư Phật chớ xa lìa.
Nhà vua lại có người em ác
Ở tại biên cương giữ cõi nước
Lúc Tỳ-kheo ác đến giáo hóa
Bảo giết Pháp sư nói: Không, Đoạn.
Khuyến ta thuở xưa từng tu hành
Không muốn cho ta cầu Niết-bàn
Đại vương anh ngài rất ngu, ác
Trong lòng không muốn để ngài sống.
Có hai Tỳ-kheo là ác sư
Dùng sức thần thông bay lên không
Vì ta biết được sẽ đến đây
Nay đã nói hết cho đại vương.
Ngài nên giết ngay hai tà sư
Như vậy kịp thời, sau khỏi hối
Vương đệ tức thời liền cầm gậy
Theo lời người ác nên đến đó.
Cùng với tất cả các quân chúng
Đi đến trong rừng chỗ Tỳ-kheo
Ở rừng ấy có Rồng, Dạ-xoa
Biết em của vua ác tâm đến.
Mưa cát, gạch, đá rất hãi hùng
Vua và binh chúng đều chết sạch
Nay phải thấy lời ác tri thức
Diệt sạch chúng đại vương như vậy.
Nơi chỗ Pháp sư, khởi tâm sân
Trong sáu mươi đời đọa A tỳ
Khi ấy ác Tỳ kheo chấp trước
Khuyến hóa Sát-lợi vương như vậy.
Về sau suốt cả mười ức đời
Chịu vô lượng khổ ở địa ngục
Vị trời khuyên dẫn đức vua ấy
Và các người ủng hộ Pháp sư.
Thấy được hằng hà sa số Phật
Hầu Phật, cúng dường và tu hành
Quyến thuộc của vua đủ sáu ức
Đều đi theo vua để nghe pháp.
Và họ đã phát được đạo tâm
Thế giới khác nhau được thành Phật
Đức Phật thọ mạng nhiều ức năm
Trí tuệ vô đẳng, chẳng nghĩ bàn.
Chư vị đều tu Tam-muội này
Nói xong, thảy đều Bát-niết-bàn
Được nghe trí thắng diệu như vậy
Tích tập pháp công đức tịnh giới
Dũng mãnh, tinh tấn, không phóng dật
Thường xa tất cả ác tri thức.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát phải không đắm trước thân, có thể vứt bỏ mạng sống. Vì sao? Này Đồng tử! Nếu đắm trước thân thì tạo nghiệp bất thiện, cho nên, Bồ-tát phải biết sắc thân và Pháp thân. Vì sao? Vì Pháp thân của chư Phật chẳng thuộc về Sắc thân. Đức Phật dùng Pháp thân hiển hiện, chẳng phải Sắc thân vậy.

Này Đồng tử! Cho nên Đại Bồ-tát muốn hành hạnh Phật, muốn cầu thân của Như Lai, muốn cầu trí Như Lai, muốn biết thân Như Lai, muốn biết trí Như Lai, đối với kinh điển của Tam-muội này cần phải thọ trì, đọc tụng, rộng nói cho người khác, tu tập tương ưng.

Này Đồng tử! Thân của Như Lai xuất sinh vô lượng phước đức. Đức Như Lai chỉ nói một nghĩa, nghĩa là các pháp từ nhân sinh ra, là lìa các tướng, vì sâu xa vậy; pháp không hạn lượng, vì không ngằn mé vậy; pháp không có tướng, vì không tánh tướng; pháp không có tướng, vì lìa các tướng; pháp không lay động, vì khéo an trụ; pháp không có hai, vì chỉ có một tướng; pháp không thể thấy, vì vượt qua cảnh giới của mắt; pháp không thể suy nghĩ vì vượt qua lĩnh vực của tâm; pháp không động chuyển, vì lìa hý luận; pháp không thể nói, vì vượt qua âm thanh; pháp không có chỗ ở, vì lìa nhà cửa; pháp không có hang, nhà, vì lìa ngôn âm; pháp không có chỗ dựa, vì vượt qua các kiến; pháp không có các lậu, vì vượt qua các quả báo; vì tâm kiên cố, nên lìa các dục; vì tâm bất hoại, nên lìa các sân hận; nhờ chánh trí kiên cố, nên vượt qua các si mê; có điều để nói, vì các pháp là không; không có sinh, vì đoạn các sự sinh, vì vô thường, chỉ có ngôn thuyết; vì thoát ly khỏi âm thanh, nên tịch diệt nơi âm thanh; có âm thanh, vì tư tưởng vậy; đồng tư tưởng vì hòa hợp; lìa thế tục vì đệ nhất nghĩa đế; dùng sự mát mẻ mà lìa sự nóng bức não; vì Đệ nhất nghĩa đế, nên dùng lời như thật; không nhiệt não vì nhờ Niết-bàn vậy; nhờ không thể phá hoại, nên không ai hơn được; vì không thủ trước, nên diệt trừ nghĩa hý luận; vì không hý luận nên lìa phan duyên; vì không có ngằn mé, nên chỉ nói phước; vì không có vi trần nên nói vi tế; thứ lớp đại thần thông, do bản nghiệp xuất sinh, vì được năng lực tự do tự tại; không phá hoại được, vì nó kiên thật; vì không có ngằn mé, nên gọi là vô tận; vì to lớn nói đại Bi bản nghiệp vậy. Đó là thân của Đức Như Lai.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Nếu ai muốn thấy thế
gian thân Và biết thân
Phật làm thế nào? Với
Tam-muội này đã tu
tập Liền hay biết được
thân Như Lai. Phật từ
phước đức mà sinh ra
Thân Phật thanh tịnh rất
sáng rạng Tướng Phật bình
đẳng như hư không Các
thứ sai biệt, bất khả
đắc. Bồ-đề chư Phật
đã như vậy Tướng trạng,
diện mạo cũng như vậy
Tướng trạng, diện mạo không
thể được Thân tướng Như
Lai cũng như thế. Tướng
mạo Bồ-đề cùng với
thân Thế giới chư Phật
cũng như vậy Các lực,
các thiền, các giải thoát
Như vậy đều đồng chỉ
một tướng. Thể tánh chư
Phật là như đây Như
Lai Thế Thân cũng như
vậy Không ai có thể
thấy được Phật Mắt thịt
làm sao thấy Chánh giác?
Vô lượng số người nói
như vậy Ta từng được
thấy các Đức Phật Thân
tuyệt đẹp, sắc vàng tuyệt
diệu Đều chiếu sáng tất
cả thế gian. Được chư
Phật Như Lai gia bị
Nhờ sức Ngài nên có
thần thông Liền có thể
thấy được thân Phật Các
thứ tướng tốt tự trang
nghiêm. Tùy tướng cao lớn
mà thị hiện Thế gian
không thể thấy tướng Ngài
Nếu ai hay biết thân
tướng ấy Phật với thế
gian không sai khác. Nếu
ai hay biết thân lượng
Phật Nghĩa là tất cả
các Như Lai Thân Phật
không thân, không sai khác
Người và Tu-la cũng
như vậy. Tất cả các
tâm đều không tịch Thọ
các quả báo tướng cũng
vậy Tướng mạo danh sắc
đã như vậy Đầy đủ
thanh tịnh, có ánh sáng.
Không có ai hay biết
Tu định tịch tĩnh này
Chỉ Bậc Thế Gian Thân
Ức kiếp tu khó nghĩ.
Vô lượng pháp bạch tịnh
Từ Tam-muội này có
Nhờ sức báo định này
Không ai thấy thân ta.
Nếu có tâm như vậy
Danh sắc cũng như thế
Tâm loại không giống nhau
Tướng danh, sắc cũng vậy.
Nếu dùng tưởng thô lớn
Danh sắc tùy thuộc nó
Danh sắc hoặc thô, tế
Đều do tưởng nghĩ sinh.
Nếu người tưởng vi tế
Danh, sắc cũng như vậy
Danh sắc không đắm trước
Thân tâm ấy chiếu sáng.
Ta nhớ đời quá khứ
Bảy mươi a-tăng-kỳ
Ba loại ác tưởng này
Từ gốc chưa từng khởi.
Nhờ dùng tâm vô lậu
Ức kiếp chẳng nghĩ bàn
Vì lợi ích chúng sinh
Họ không thấy thân ta.
Nếu ai dùng vật này
Tâm ý được xả bỏ
Người này với vật kia
Liền không cùng hòa hợp.
Tâm ta được giải thoát
Trong tất cả vật dụng
Hay biết được tánh mình
Nên khởi sinh trí tuệ.
Với ngàn ức cõi Phật
Trong đó ta hiện hóa
Vì chúng sinh thuyết pháp
Cho nên không thể thấy.
Không tướng, không hình mạo
Giống như nơi hư không
Thân ta không thể nói
Vì đoạn đường ngôn ngữ.
Pháp thân rất hùng mãnh
Thân ấy từ pháp sinh
Chưa từng có sắc thân
Nói đó chính là Phật.
Nếu nói về thân này
Nghe xong liền hoan hỷ
Các ma Ba-tuần kia
Không thể làm gì được.
Nghe pháp thâm diệu này
Mà không sinh hoảng sợ
Không vì sự sinh sống
Phỉ báng Bồ-đề Phật.
Ngàn ức Tu-đa-la
Trí như thật diễn thuyết
Vì chúng sinh chiếu sáng
Nơi nơi đều đến đích.

Này Đồng tử! Đó là Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, nếu muốn biết nghiệp tướng sắc thân của Như Lai, hoàn toàn không thể biết được hoặc xanh, hoặc sắc xanh, hoặc tương tự xanh, hoặc tướng mạo xanh; hoặc vàng, hoặc sắc vàng, hoặc tương tự vàng, hoặc tướng mạo vàng; hoặc đỏ, hoặc sắc đỏ, hoặc tương tự đỏ, hoặc tướng mạo đỏ; hoặc trắng, hoặc sắc trắng, hoặc tương tự trắng, hoặc tướng mạo trắng; hoặc hồng tía, hoặc sắc hồng tía, hoặc tương tự hồng tía, hoặc tướng mạo hồng tía; hoặc pha lê, hoặc màu pha lê, hoặc tương tự pha lê, hoặc tướng mạo pha lê; hoặc lửa, hoặc sắc lửa, hoặc tương tự lửa, hoặc tướng mạo lửa; hoặc vàng bạc, hoặc sắc vàng, hoặc tương tự vàng, hoặc tướng mạo vàng; hoặc như điện chớp, hoặc sắc như điện chớp, hoặc tương tự điện chớp, hoặc tướng mạo như điện chớp; hoặc tươi sáng, hoặc sắc tươi sáng, hoặc tương tự tươi sáng, hoặc tướng mạo tươi sáng; hoặc Tỳ-lưu-ly, hoặc sắc Tỳ-lưu-ly, hoặc tương tự Tỳ-lưu-ly, hoặc tướng mạo Tỳ-lưu-ly; hoặc trời, hoặc sắc của trời, hoặc tương tự trời, hoặc tướng mạo trời; hoặc Phạm, hoặc sắc Phạm, hoặc tương tự Phạm, hoặc tướng mạo Phạm.

Này Đồng tử! Đó là thân của Như Lai. Tất cả thân tướng của Như Lai không thể lường được, vì không thể nghĩ bàn, cũng không thể nói được. Sắc thân đã thành tựu, chư Thiên, người đời không thể suy lường được, là dài, ngắn, rộng hẹp, tất cả loại như vậy, không có hạn lượng, bằng nhau, chẳng thể nghĩ bàn. Những loại như vậy, không thể đếm được.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài tụng:

Trong tất cả thế giới
Tất cả các vi trần
Cùng với nguồn ao suối
Bao nhiêu nước biển cả.
Dẫu toán thuật có giỏi
Không thể biết hết được
Cũng không biết số bụi
Cùng với số giọt nước.
Đức Như Lai Đạo Sư
Nói ví dụ ấy rồi
Số giọt nước vô hạn
Số bụi cũng như vậy.
Ta thấy các chúng sinh
Nhiều như số bụi ấy
Phát tâm và khởi tín
Trong một lúc đều biết.
Nếu nơi tự thân ta
Hiển hiện sắc da ngoài
Các chúng sinh tín dục
Không ví dụ biết được.
Hoặc tướng cùng với nghiệp
Sắc tượng ấy như vậy
Không ai biết được Phật
Tướng ta đúng như vậy.
Phật xa lìa nơi tướng
Hiển bày nơi Pháp thân
Thậm thâm, không hạn lượng
Là Phật, chẳng nghĩ bàn.
Chánh giác chẳng nghĩ bàn
Thân Như Lai cũng thế
Pháp thân không nghĩ bàn
Vì hiển bày Pháp thân.
Tâm nghiệp không thể biết
Thân này không thể nghĩ
Cùng với thân tướng ấy
Đều không thể đo lường.
Pháp ấy vô hạn lượng
Ức kiếp đã tu tập
Được thân khó nghĩ này
Phát ánh sáng thanh tịnh.
Chúng sinh không thể nắm
Nắm lấy không thể được
Cho nên thân Như Lai
Khó lường, không thể nghĩ.
Với các pháp vô lượng
Mà nắm nơi hạn lượng
Trong pháp không phân biệt
Phật không có phân biệt.
Nơi phân biệt hạn lượng
Nói về không phân biệt
Tuy nghĩ không phân biệt
Phật ấy không nghĩ bàn.
Vô hạn như hư không
Không thể đo lường được
Thân Phật cũng như vậy
Giống như bầu Thái hư.
Nếu có các Phật tử
Như thật biết thân ta
Thì sẽ được thành Phật
Chẳng nghĩ bàn trên đời.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát có bốn thứ ngôn luận không thể nghĩ bàn và sự diễn thuyết cũng không thể nghĩ bàn, khó thể cùng tận. Những gì là bốn?

1. Ngôn luận các hành không thể nghĩ bàn.

2. Ngôn luận quở trách hữu vi không thể nghĩ bàn.

3. Ngôn luận trợ giúp phiền não không thể nghĩ bàn.

4. Ngôn luận thanh tịnh không thể nghĩ bàn.

Này Đồng tử! Đó là bốn loại ngôn luận không thể nghĩ bàn của Bồ-tát và sự diễn thuyết cũng không thể nghĩ bàn, khó thể cùng tận.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại pháp.

Những gì là bốn?

1. Pháp các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Pháp quở trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Pháp phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Pháp thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại tương ưng. Những gì là bốn?

1. Các hành tương ưng chẳng thể nghĩ bàn.

2. Tương ưng sự trách mắng hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Tương ưng phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Tương ưng thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn cửa. Những gì là bốn?

1. Cửa các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Cửa chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Cửa phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Cửa thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại cửa.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại hành thuyết. Những gì là bốn?

1. Hành thuyết về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Hành thuyết về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Hành thuyết về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Hành thuyết về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại hành thuyết.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ âm thanh. Những gì là bốn?

1. Âm thanh về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Âm thanh chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Âm thanh về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Âm thanh về sự thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại âm thanh.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ tiếng.

Những gì là bốn?

1. Tiếng về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Tiếng chê trách về hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Tiếng phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Tiếng thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại tiếng.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại ngôn ngữ đạo. Những gì là bốn?

1. Ngôn ngữ đạo các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Ngôn ngữ đạo chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Ngôn ngữ về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Ngôn ngữ đạo về sự thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại ngôn ngữ đạo.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ mật thuyết quyền xảo. Những gì là bốn?

1. Mật thuyết quyền xảo về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Mật thuyết quyền xảo về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Mật thuyết quyền xảo về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Mật thuyết quyền xảo về sự thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại mật thuyết quyền xảo.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ biết về chư Thiên. Những gì là bốn?

1. Biết các hành chư Thiên chẳng thể nghĩ bàn.

2. Biết sự chê trách hữu vi chư Thiên chẳng thể nghĩ bàn.

3. Biết sự phiền não chư Thiên chẳng thể nghĩ bàn.

4. Biết sự thanh tịnh chư Thiên chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại biết về chư Thiên.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ thấy biết đối với người. Những gì là bốn?

1. Biết các hành của người chẳng thể nghĩ bàn.

2. Biết chê trách hữu vi đối với người chẳng thể nghĩ bàn.

3. Biết phiền não đối với người chẳng thể nghĩ bàn.

4. Biết sự thanh tịnh của người chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại biết đối với người.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ biết về danh tự.

Những gì là bốn?

1. Biết danh tự các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Biết danh tự về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Biết danh tự phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Biết danh tự về sự thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại biết về danh tự.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại biện tài. Những gì là bốn?

1. Biện tài về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Biện tài về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Biện tài về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Biện tài về sự thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại biện tài.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ quyết định. Những gì là bốn?

1. Quyết định các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Quyết định về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Quyết định về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Quyết định về sự thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại quyết định.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại nhập.

Những gì là bốn?

1. Nhập các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Nhập chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Nhập phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Nhập thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn thứ nhập.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ độ.

Những gì là bốn?

1. Độ các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Độ chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Độ phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Độ thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn thứ độ thoát.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Kim cang cú. Những gì là bốn?

1. Kim cang cú các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Kim cang cú sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Kim cang cú phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Kim cang cú thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại câu kim cang.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn chú thuật cú. Những gì là bốn?

1. Chú thuật cú về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Chú thuật cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Chú thuật cú về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Chú thuật cú về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại câu chú thuật.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ ra khỏi. Những gì là bốn?

1. Ra khỏi các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Ra khỏi sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Ra khỏi phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Ra khỏi thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn thứ ra khỏi.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ Tuđa-la cú. Những gì là bốn?

1. Tu-đa-la cú về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Tu-đa-la cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Tu-đa-la cú về phiền não chẳng thể nghĩ bàn. 4. Tu-đa-la cú về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại câu Tu-đa-la.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Từ cú.

Những gì là bốn?

1. Từ cú về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Từ cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Từ cú về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Từ cú về sự thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại Từ cú.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Thi thiết cú. Những gì là bốn?

1. Thi thiết cú về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Thi thiết cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Thi thiết cú về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Thi thiết cú về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại Thi thiết cú.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Minh cú. Những gì là bốn?

1. Minh cú về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Minh cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Minh cú về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Minh cú về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại Minh cú.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Tín nghĩa cú. Những gì là bốn?

1. Tín nghĩa cú về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Tín nghĩa cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Tín nghĩa cú về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Tín nghĩa cú về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại Tín nghĩa cú.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại hành cú. Những gì là bốn?

1. Hành cú về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Hành cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Hành cú về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Hành cú về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại Hành cú.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Bất tư nghì cú. Những gì là bốn?

1. Bất tư nghì cú các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Bất tư nghì cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Bất tư nghì cú về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Bất tư nghì cú về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại chẳng thể nghĩ bàn cú.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại vô biên cú. Những gì là bốn?

1. Vô biên cú về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Vô biên cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Vô biên cú về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Vô biên cú về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại Vô biên cú.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Vô hạn lượng cú. Những gì là bốn?

1. Vô hạn lượng cú về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Vô hạn lượng cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Vô hạn lượng cú về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Vô hạn lượng cú về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại Vô hạn lượng cú.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Vô cùng cú. Những gì là bốn?

1. Vô cùng cú về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Vô cùng cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Vô cùng cú về phiền não chẳng thể nghĩ bàn. 4. Vô cùng cú về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại vô cùng cú.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Bất khả xưng cú. Những gì là bốn?

1. Bất khả xưng cú về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Bất khả xưng cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Bất khả xưng cú về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Bất khả xưng cú về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại Bất khả xưng cú.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Atăng-kỳ cú. Những gì là bốn?

1. A-tăng-kỳ cú về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. A-tăng-kỳ cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. A-tăng-kỳ cú về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. A-tăng-kỳ cú về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại a-tăng-kỳ cú.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Vô lượng cú. Những gì là bốn?

1. Vô lượng cú về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Vô lượng cú về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Vô lượng cú về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Vô lượng cú về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại Vô lượng cú.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại câu không thể đo lường. Những gì là bốn?

1. Câu không thể đo lường về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Câu không thể đo lường về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Câu không thể đo lường về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Câu không thể đo lường về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại câu không thể đo lường.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại câu không hành. Những gì là bốn?

1. Câu không hành về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Câu không hành về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Câu không hành về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Câu không hành về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại câu không hành.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại câu trí. Những gì là bốn?

1. Câu trí về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Câu trí về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Câu trí về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Câu trí về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại câu trí.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí tụ.

Những gì là bốn?

1. Trí tụ về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí tụ về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí tụ về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Trí tụ về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại trí tụ.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí tánh. Những gì là bốn?

1. Trí tánh về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí tánh về chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí tánh về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Trí tánh về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại trí tánh.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại biện tụ. Những gì là bốn?

1. Biện tụ về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Biện tụ về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Biện tụ về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Biện tụ về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại biện tụ.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại biện tánh. Những gì là bốn?

1. Biện tánh về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Biện tánh về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Biện tánh về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Biện tánh về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại biện tánh.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Tuđa-la. Những gì là bốn?

1. Tu-đa-la về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Tu-đa-la về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Tu-đa-la về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Tu-đa-la về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại Tu-đa-la.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Tu-đala tụ. Những gì là bốn?

1. Tu-đa-la tụ về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Tu-đa-la tụ về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Tu-đa-la tụ về phiền não chẳng thể nghĩ bàn. 4. Tu-đa-la tụ về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại Tu-đa-la tụ.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Đa văn. Những gì là bốn?

1. Đa văn về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Đa văn về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Đa văn về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Đa văn về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại Đa văn.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ tài sản.

Những gì là bốn?

1. Tài sản về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Tài sản về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Tài sản về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Tài sản về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại tài sản.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ học.

Những gì là bốn?

1. Học về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Học về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Học về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Học về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại học.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ cảnh giới. Những gì là bốn?

1. Cảnh giới các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Cảnh giới sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Cảnh giới phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Cảnh giới thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại cảnh giới.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ nghiệp. Những gì là bốn?

1. Nghiệp về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Nghiệp về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Nghiệp về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Nghiệp về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại nghiệp.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ an trụ.

Những gì là bốn?

1. An trụ các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. An trụ sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. An trụ phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. An trụ sự thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại an trụ.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ tu đạo.

Những gì là bốn?

1. Tu đạo về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Tu đạo về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Tu đạo về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Tu đạo về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại tu đạo.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí đoạn phiền não. Những gì là bốn?

1. Trí đoạn phiền não về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí đoạn phiền não về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí đoạn phiền não về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Trí đoạn phiền não về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại trí đoạn phiền não.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ trí phiền não. Những gì là bốn?

1. Trí phiền não về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí phiền não về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí phiền não về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Trí phiền não về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại trí phiền não.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí ác đạo. Những gì là bốn?

1. Trí ác đạo về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí ác đạo về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí ác đạo về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Trí ác đạo về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại trí ác đạo.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí chẳng phải trí. Những gì là bốn?

1. Trí chẳng phải trí về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí chẳng phải trí về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí chẳng phải trí về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Trí chẳng phải trí về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại trí chẳng phải trí.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ trí tất định. Những gì là bốn?

1. Trí tất định về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí tất định về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí tất định về phiền não chẳng thể nghĩ bàn. 4. Trí tất định về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại trí tất định.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí không sai mất. Những gì là bốn?

1. Trí không sai mất về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí không sai mất về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí không sai mất về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Trí không sai mất về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại trí không sai mất.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí vô minh. Những gì là bốn?

1. Trí vô minh về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí vô minh về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí vô minh về phiền não chẳng thể nghĩ bàn. 4. Trí vô minh về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại trí vô minh.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại khổ trí. Những gì là bốn?

1. Khổ trí về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Khổ trí về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Khổ trí về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Khổ trí về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại khổ trí.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí lo buồn. Những gì là bốn?

1. Trí lo buồn về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí lo buồn về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí lo buồn về phiền não chẳng thể nghĩ bàn. 4. Trí lo buồn về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại trí lo buồn.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí về nghèo khổ. Những gì là bốn?

1. Trí nghèo khổ về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí nghèo khổ về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí nghèo khổ về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Trí nghèo khổ về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại trí nghèo khổ.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại sinh trí chẳng thể nghĩ bàn. Những gì là bốn?

1. Sinh trí về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Sinh trí về trách mắng hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Sinh trí về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Sinh trí về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại sinh trí.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại nội trí.

Những gì là bốn?

1. Nội trí về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Nội trí về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Nội trí về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Nội trí về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại nội trí.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại ngoại trí. Những gì là bốn?

1. Ngoại trí về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Ngoại trí về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Ngoại trí về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Ngoại trí về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại Ngoại trí.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí xấu hổ. Những gì là bốn?

1. Trí xấu hổ về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí xấu hổ về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí xấu hổ về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Trí xấu hổ về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại trí xấu hổ.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí thẹn thùng. Những gì là bốn?

1. Trí thẹn thùng về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí thẹn thùng về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí thẹn thùng về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Trí thẹn thùng về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại trí thẹn thùng.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại thật trí chẳng thể nghĩ bàn. Những gì là bốn?

1. Thật trí về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Thật trí về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Thật trí về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Thật trí về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại thật trí.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí tu tập. Những gì là bốn?

1. Trí tu tập về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí tu tập về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí tu tập về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Trí tu tập về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại trí tu tập.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ sự trí.

Những gì là bốn?

1. Sự trí về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Sự trí về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Sự trí về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Sự trí về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn. Đó là bốn loại sự trí.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí về Phú-già-la (Bổ-đặc-già-la). Những gì là bốn?

1. Trí Phú-già-la về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí Phú-già-la về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí Phú-già-la về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Trí Phú-già-la về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại trí Phú-già-la.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ trí chấp trước. Những gì là bốn?

1. Trí chấp trước về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí chấp trước về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí chấp trước về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Trí chấp trước về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Này Đồng tử! Đó là bốn loại trí chấp trước chẳng thể nghĩ bàn và sự diễn thuyết cũng chẳng thể nghĩ bàn, không thể nói hết.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí lìa ác đạo. Những gì là bốn?

1. Trí lìa ác đạo về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

Trí lìa ác đạo về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí lìa ác đạo về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí lìa ác đạo về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại trí lìa ác đạo.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại trí đoạn trừ vô minh. Những gì là bốn?

1. Trí đoạn trừ vô minh về các hành chẳng thể nghĩ bàn.

2. Trí đoạn trừ vô minh về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn.

3. Trí đoạn trừ vô minh về phiền não chẳng thể nghĩ bàn.

4. Trí đoạn trừ vô minh về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn.

Đó là bốn loại trí đoạn trừ vô minh.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn thứ Đà-lani chẳng thể nghĩ bàn và sự diễn thuyết cũng chẳng thể nghĩ bàn, nói không bao giờ hết.

Những gì là bốn?

1. Ngôn thuyết về các hành chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ nhất.

2. Ngôn thuyết về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ hai.

3. Ngôn thuyết hỗ trợ phiền não chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ ba.

4. Ngôn thuyết hỗ trợ thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ tư.

Đó là bốn loại chẳng thể nghĩ bàn, cùng với sự diễn thuyết cũng chẳng thể nghĩ bàn, nói không bao giờ hết.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại pháp Đà-la-ni. Những gì là bốn?

1. Pháp các hành chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ nhất.

2. Pháp chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ hai.

3. Pháp phiền não chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ ba.

4. Pháp thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ tư.

Này Đồng tử! Đó là bốn loại Đà-la-ni chẳng thể nghĩ bàn, cùng với sự diễn thuyết cũng chẳng thể nghĩ bàn, nói không sao hết.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại tương ưng Đà-la-ni. Những gì là bốn?

1. Tương ưng các hành chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ nhất.

2. Tương ưng sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ hai.

3. Tương ưng phiền não chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ ba.

Tương ưng thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ tư.

Này Đồng tử! Đó là bốn thứ Đà-la-ni chẳng thể nghĩ bàn, cùng với sự giảng thuyết chẳng thể nghĩ bàn, nói không bao giờ hết.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát lại có bốn loại Đà-lani môn. Những gì là bốn?

1. Môn về các hành chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ nhất.

2. Môn về sự chê trách hữu vi chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ hai.

3. Môn về phiền não chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ ba.

4. Môn về thanh tịnh chẳng thể nghĩ bàn, trí ở trong đó gọi là Đà-la-ni thứ tư.

Này Đồng tử! Đó là bốn loại Đà-la-ni môn chẳng thể nghĩ bàn và sự diễn thuyết cũng chẳng thể nghĩ bàn, nói không bao giờ hết, cho đến trí đoạn trừ vô minh, đều có bốn loại Đà-la-ni chẳng thể nghĩ bàn, cùng với sự diễn thuyết cũng chẳng thể nghĩ bàn, nói không bao giờ hết, giống như đã nói ở trên.

Này Đồng tử! Đà-la-ni này chính là trí tuệ. Trí tuệ như vậy có thể rõ biết tất cả các pháp, chỉ có danh tự, cho nên gọi là trí pháp vô ngại. Trí pháp như vậy, có thể thấu đạt ngôn nên gọi là Nghĩa vô ngại. Trí pháp như vậy, hay biết ngôn từ sai biệt của các pháp nên gọi là Từ vô ngại, hoặc nói văn tự ấy, hoặc hiển thị, hoặc thi thiết, hoặc thứ lớp không đoạn, hoặc mở rõ, hoặc rộng phân biệt, hoặc khai thị làm cho đơn giản, hoặc bình đẳng chỉ khắp, lời lẽ không bị nuốt, không rít rắm, không ú ớ, không khiếp nhược, lời nói không đắm trước, ngôn từ phóng khoáng, vượt trên sự phóng khoáng gọi là Nhạo thuyết vô ngại.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Chỗ hiện bày ngôn âm
Phát thanh cũng như vậy
Như sự xuất âm thanh
Trí Phật cũng như vậy.
Tất cả trí chư Phật
Tiếng nói ra cũng thế
Sự thi thiết như vậy
Ánh sáng tiếng cũng thế.
Ánh sáng tiếng như vậy
Tên giới cũng như thế
Danh tự giới như thế
Tên Phật cũng như thế.
Danh hiệu Phật như thế
Công đức Phật cũng vậy
Ta biết một chúng sinh
Biết họ bao tên gọi.
Vô lượng ngữ ngôn Phật
Trước ta đã tuyên thuyết
Tên giới cùng tên Phật
Tên chúng sinh cũng vậy.
Hữu vi nhiều lầm lỗi
Đức Niết-bàn cũng thế
Phật lợi ích như vậy
Dùng ví dụ hiển bày.
Có tất cả chúng sinh
Đã phát tâm hiển thị
Một sợi lông Đạo Sư
Phát ánh sáng cũng vậy.
Tất cả các chúng sinh
Danh hiệu và tín dục
Như Lai vượt trên chúng
Dùng tiếng, thân thuyết pháp.
Tên tất cả chúng sinh
Hiển thị một chúng sinh
Như vậy tên một người
Hiển thị các chúng sinh.
Tất cả bình đẳng nhập
Chánh giác dạy như vậy
Nói vô lượng danh tự
Vì các Bồ-tát vậy.
Sao nay ta có thể
Nói ức vô số kinh
Thọ trì kinh điển này
Hiển bày không khiếp nhược.
Nơi chúng vô ngại biện
Diễn thuyết ức kinh điển
Như hư không vô biên
Biện tài cũng như vậy.
Công đức Bồ-tát này
Thanh tịnh dẫn chúng sinh
Thọ trì kinh điển này
Thành được trí vô tận.
Luôn luôn hiển thị nói
Nơi pháp hay tín thọ
Tăng trưởng trí tuệ ấy
Giống như cây núi Tuyết.

Này Đồng tử! Bồ-tát này hành pháp vô ngại, ở nơi pháp thấy pháp mà được an trụ.

Này Đồng tử! Sao gọi là Đại Bồ-tát hành pháp vô ngại, ở nơi pháp thấy pháp nên được an trụ?

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát này biết chẳng phải sắc không khác với sắc mà nói pháp, biết chẳng phải sắc chẳng khác sắc mà có thể hay tu hành, biết chẳng phải sắc chẳng khác sắc mà cầu Bồ-đề, biết chẳng phải sắc chẳng khác sắc nên giáo hóa chúng sinh, biết chẳng phải sắc chẳng khác sắc mà thấy Như Lai, chỉ không hoại nơi sắc mà thấy Như Lai. Chẳng phải khác sắc, chẳng phải khác tánh sắc mà thấy Như Lai, sắc và tánh sắc cùng với Như Lai bình đẳng, không có hai. Nếu ai có thể thấy các pháp như vậy, gọi là hành pháp vô ngại; thức, tưởng, thọ, hành cũng lại như vậy.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Nhờ sắc hiển Bồ-đề
Nhờ Bồ-đề hiển sắc
Thì không có tương tự
Tối thắng đã nói rõ.
Phật nói sắc tướng thô
Tánh sắc rất thâm áo
Sắc ngang với Bồ-đề
Sai biệt không thể được.
Như Niết-bàn thậm thâm
Nhờ tiếng mà tuyên thuyết
Niết-bàn bất khả đắc
Nói năng cũng như vậy.
Âm thanh và lời nói
Cả hai bất khả đắc
Trong pháp không như vậy
Niết-bàn bất khả đắc.
Nói Niết-bàn tịch diệt
Tịch diệt không thể được
Tất cả pháp không sinh
Như trước sau cũng vậy
Thể tánh tất cả pháp
Niết-bàn cùng tương tự
Người biết chân xuất gia
Cùng tương ưng Phật pháp
Nếu thấy sắc thân Phật
Nói đã thấy Như Lai
Thân ta chẳng sắc tượng
Không thể thấy Ngài được.
Biết được tự tánh sắc
Sắc tướng ấy như vậy
Ai biết được tánh sắc
Là hiển thị thân lớn.
Các ngũ ấm như vậy
Ta đã biết tướng mạo
Đạt tự thể tánh pháp
An trụ nơi Pháp thân.
An trụ Pháp thân rồi
Thuyết pháp cho chúng sinh
Pháp vi diệu Như Lai
Không thể dùng lời nói.
Lý sâu không thể biết
Nghe Bậc Chánh Giác nói
Chỉ âm thanh ngôn ngữ
Ta đã được Sơ quả.
Nếu trừ tất cả tưởng
Xa lìa việc hý luận
Nếu không có hữu tưởng
Thì thấy Thế Đại Sư.
Nếu ai hay biết Không
Liền biết được sắc tướng
Không có khác nói không
Riêng có tự tánh sắc.
Nếu ai biết được sắc
Thì có thể biết Không
Nếu ai ngộ được Không
Thì biết được tịch diệt.
Nếu ai biết được sắc
Là sắc tướng như vậy
Không bị ức ma loạn
Thoái chuyển quả Bồ-đề.
Ai không biết đạo này
Đắm trước sẽ thoái bước
Phi vật chấp tưởng vật
Vật chấp tưởng phi vật.
Cuồng vì gần tài lợi
Thoái thất ở trong pháp
Phi quả chấp tưởng quả
Quên mất pháp Sa-môn.
Giải đãi, ít tinh tấn
Mà không trụ giới tụ
Không đúng người hành pháp
Đó là trái lời Phật.
Hoặc lại có người nói:
Tôi hành nơi Bồ-đề
Người không tuệ khó dạy
Chẳng cung kính lẫn nhau,
Mong cầu danh tiếng tốt
Không khéo trụ giới cấm
Mãi nghĩ lúc nào được
Danh tiếng lan khắp nơi.
Chỉ vì cầu lợi dưỡng
Tụ tập thật nhiều người
Ngạo mạn, cùng phóng dật
Chuyên tâm tìm cầu lợi
Ưa sống nhà bạch y
Vì cung kính lợi dưỡng
Tạo chùa và tháp miếu
Họ đều vì danh lợi.
Dựa vào tâm chấp trước
Thường thèm khát ái dục
Chuyên tạo nghiệp thế tục
Sống trong cảnh giới ma
Nói với người bạch y:
“Ái dục như lửa cháy”
Nếu vào nhà thế tục
Thường để ý người nữ.
Bạch y đối người này
Thường nghĩ là Đại sư
Rình mò việc người chồng
Cùng phụ nữ nhiễm hợp
Nhà ấy dùng đồ ngon
Cung cấp Tỳ-kheo này
Lại ở chỗ vợ người
Tưởng như vợ của mình.
Bạch y ở chỗ vợ
Vẫn không sinh ganh ghét
Mà Tỳ-kheo xuất gia
Sinh ganh ghét vợ người.
Người tục ở nhà mình
Khéo gìn giữ năm giới
Huống đã được xuất gia
Bỏ tất cả giới cấm.
Nhạc cụ của âm nhạc
Dùng để cúng dường ta
Hành cúng dường tối thắng
Mạt thế chẳng thành tựu.
Tự phá các cấm giới
Thấy người trì giới luật
Nói với người thế gian
Người ấy nào khác ta.
Nghe khen người giữ giới
Phá giới, làm việc ác
Nghe nói chân Phật pháp
Bảo chẳng phải Phật nói.
Tâm không có hổ thẹn
Đánh mất của Sa-môn
Nếu khuyên lời chân thật
Bài báng lời ta nói.
Giới không được trọn vẹn
Vứt bỏ đạo giáo ta
Hủy báng nơi chánh pháp
Ngục A-tỳ là nhà.
Ta chưa từng thấy nghe
Tu tập hạnh như vậy
Ngu si sống kẻ ác
Hay đạt được trí Phật.
Các người gièm pha ấy
Nhiều quanh co dối trá
Ta biết rõ người ấy
Trí biết hằng không dứt.
Nếu ta trong một kiếp
Nói các lỗi lầm họ
Tự cho là Bồ-tát
Chỉ nói được phần nhỏ.
Đồng tử! Ông nên biết
Ác nào họ cũng làm
Về sau đời mạt thế
Cẩn thận chớ làm bạn.
Dùng tâm không loạn động
Dẫn dắt cùng trò chuyện
Vâng làm mà cúng dường
Vì để cầu Phật đạo.
Nên hỏi sự buồn lo
Nếu là bậc Kỳ túc
Nên cúng dường cung kính
Đầu mặt lạy dưới chân.
Chớ tìm lỗi của người
Họ sẽ đến đạo tràng
Chớ sinh ý sân hận
Thường khởi tâm Từ bi.
Nếu thấy lỗi vị ấy
Đừng đối mặt nói lỗi
Thường nghĩ việc đã làm
Sẽ được quả như thế.
Nếu ở chỗ trẻ, già
Lúc nói thường mỉm cười
Phát ngôn, trước thăm hỏi
Diệt trừ tâm ngạo mạn.
Y phục và ẩm thực
Thường đem dâng cúng dường
Làm tâm thí như vậy
Tất cả sẽ thành Phật.
Nếu thỉnh hỏi Trưởng túc
Vì mong cầu pháp thí
Trước nên nói như vầy:
“Tôi học tập ít ỏi”.
Rồi lại nói như vầy:
Các vị, bậc Trí tuệ
Ở trước bậc Đại nhân
Tôi đâu dám tuyên thuyết.
Khi nói chớ vội vàng
Xem pháp khí hay không
Đã thấy căn khí rồi
Không hỏi cũng cứ nói.
Nếu ở trong đại chúng
Thấy người phá giới cấm
Chớ khen đức trì giới
Nên khen hạnh bố thí.
Nếu thấy người thiểu dục
Cùng trì giới tương ưng
Nên khởi tâm đại Từ
Khen thiểu dục, trì giới.
Nếu phá ít cấm giới
Người trì tịnh giới nhiều
Được bè bạn tối thắng
Liền khen ngợi trì giới.
Trước quán sát đại chúng
Đều ưa các pháp lành
Có bao nhiêu thiện pháp
Nên khen ngợi tất cả.
Thí, giới, đa văn, nhẫn
Tinh tấn và thiểu dục
Tri túc, hạnh viễn ly
Hiển thị pháp như vậy.
Tán thán pháp như vậy
Nói rõ đạo thế tục
Các việc không xót thương
Lòng từ chớ sân hận.
Ở chỗ không, thiền lạc
Xa lìa chúng huyên náo
Ngươi nên khen đức ấy
Tên gọi Tổng trì môn.
Thường thích chỗ không nhàn
Chớ chuyên làm nghiệp thí
Một lòng tu an tọa
Chớ bảo giới tối thắng.
Đã trụ tịnh giới rồi
Hay tích tập đa văn
Vì cầu Tam-muội này
Thường cúng dường xá-lợi.
Hay dùng lọng tràng phan
Vòng hoa, hương xoa, bột
Vì cầu tịch định này
Nên cúng dường chư Phật.
Dùng kỹ nhạc tuyệt diệu
Ca hay cùng hòa tấu
Để cúng xá-lợi Phật
Tâm dũng kiện oai mãnh.
Tất cả các vòng hoa
Tất cả hương, y phục
Đều đem cúng dường Phật
Để cầu trí Phật vậy.
Các phước phần chúng sinh
Bình đẳng thí tất cả
Để cầu trí vô ngại
Là chư Phật vô thượng.
Ta từng ở trước Phật
Đặt bày cúng vô số
Dùng tâm không thiên lệch
Để cầu tịch định này.
Phật ra đời khó gặp
Được thân người cũng khó
Tín Phật pháp cũng khó
Xuất gia đủ giới khó.
Nay ngươi được gặp Phật
Đã phát tâm Bồ-đề
Chớ bỏ nguyện kiên cố
An trụ nơi hạnh lành.
Nếu thọ trì kinh này
Vào thời sau mạt thế
Mau được vô ngại biện
Thọ trì không quên mất.
Thọ trì một bài kệ
Phước tụ khó nghĩ bàn
Huống lại thọ trì hết
Như nghĩa thọ đầy đủ.
Chúng sinh đều thành Phật
Dũng mãnh đều cúng dường
Cung kính và tôn trọng
Hết số kiếp chúng sinh.
Nếu ở Tam-muội này
Thọ trì một bài kệ
So với công đức trước
Mười sáu không bằng một.
Ta biết trí tuệ Phật
Lợi ích chẳng nghĩ bàn
Thọ trì Tam-muội này
Sở hành tất cả Phật. (*)

* Số kinh 639 này gồm 10 quyển, trong tập LSPBĐTK 60: từ Q.1-5; tập LSPBĐTK 61: từ Q.6-10.

QUYỂN 6

Bấy giờ Đức Thế Tôn lại bảo Đồng tử Nguyệt Quang:

–Đại Bồ-tát cần phải thành tựu phương tiện quyền xảo. Này Đồng tử! Sao gọi là Đại Bồ-tát thành tựu phương tiện thiện xảo?

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát này đối với tất cả chúng sinh nên khởi tưởng thân quyến. Các chúng sinh này có bao nhiêu điều thiện thì đều sinh tâm tùy hỷ. Ngày đêm sáu thời, đối với phước đức của họ nên sinh tâm tùy hỷ nhờ duyên Nhất thiết trí, duyên Nhất thiết trí nên sinh ra phước đức ở nơi tất cả chúng sinh. Vị Bồ-tát này nhờ căn lành này nên mau được Tam-muội này, thành tựu Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bấy giờ Đức Phật liền nói bài kệ:

Xem các chúng sinh là thân quyến
Nếu có tất cả các phước đức
Ngày đêm sáu thời với việc thiện
Thường khởi tâm tùy hỷ với họ.
Ta tùy hỷ thọ trì giới tịnh
Cho đến mạng chung không làm ác
Bồ-tát đầy đủ thanh tịnh tín
Bao nhiêu phước đức đều tùy hỷ.
Tùy hỷ tin thích các Đức Phật
Đối với Pháp, Tăng tin cũng vậy
Tùy hỷ hay thờ kính Như Lai
Vì cầu Vô thượng Bồ-đề vậy.
Tùy hỷ họ không có ngã kiến
Không chúng sinh kiến và thọ mạng
Tùy hỷ người không khởi ác kiến
Nghe pháp thắng không thêm yêu thích.
Ở trong Phật pháp sinh tùy hỷ
Được xuất gia rồi thọ cụ giới
Ít muốn, biết đủ, sống giữa rừng
Ôm lòng từ mẫn như cây kiếm.
Tùy hỷ độc nhất, không bạn lữ
Ở rừng giống như đao trong vỏ
Tịnh mạng thường hay ít mong cầu
Không có lừa dối với bạn thân.
Tùy hỷ nơi tịnh, lìa huyên náo
Không có ái luyến với thân thuộc
Ở trong ba cõi thường sợ hãi
Du hành thế gian không nhiễm trước.
Tùy hỷ xa lìa người hý luận
Nhàm chán tất cả sự sinh tử
Không có tranh cãi, hành tịch tĩnh
Được Tam-muội này đâu có khó.
Tùy hỷ sự biết người thiện, ác
Thường lìa tất cả việc tranh luận
Đi đến rừng cây chỗ không nhàn
Cầu Thánh giải thoát, chân Phật tử.
Tùy hỷ thường ở chỗ không nhàn
Không tự khen mình, chê kẻ khác
Tùy hỷ ưa thích sự công đức
Ở trong Phật pháp không phóng dật.
Nếu có các công đức trợ đạo
Nhờ không phóng dật làm căn bản
Nếu có Bồ-tát lìa phóng dật
Được Tam-muội này sẽ không khó.
Được gặp Phật pháp Tạng thứ nhất
Và được xuất gia Tạng thứ hai
Tịnh tín không uế, Tạng thứ ba
Được Tam-muội này tạng thứ tư.
Nghe nơi cảnh giới Phật Đại Không
Nghe không hủy báng là Thắng tạng
Nếu được biện tài là Đắc tạng
Được Tam-muội này cũng Thắng tạng.
Ta đã nói các thiện pháp ấy
Là Giới, Văn, Xả và Nhẫn nhục
Nhờ không phóng dật làm căn bản
Phật nói đó là Tạng tối thắng.
Nếu có Bồ-tát không phóng dật
Liền được đầy đủ các biện tài
Với trí tuệ Phật, không nghi hoặc
Được Tam-muội này sẽ không khó.

Này Đồng tử! Vì nghĩa này cho nên ông phải trụ nơi hạnh không phóng dật, các Bồ-tát này nên tu học. Vì sao? Vì người không phóng dật sẽ chứng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, huống gì Tam-muội này.

Này Đồng tử! Vì sao Bồ-tát trụ không phóng dật? Này Đồng tử! Bồ-tát này thành tựu tụ Thiện tịnh giới.

Này Đồng tử! Vì sao thành tựu tụ Thiện tịnh giới? Này Đồng tử! Bồ-tát này không bỏ tâm Nhất thiết trí, học sáu pháp Ba-la-mật.

Này Đồng tử! Nếu Bồ-tát không bỏ tâm Nhất thiết trí, hành sáu pháp Ba-la-mật sẽ được các lợi ích, ông hãy lắng nghe, ta sẽ vì ông mà nói.

Này Đồng tử! Bồ-tát tin thích Bố thí ba-la-mật, được mười lợi ích. Những gì là mười?

1. Hàng phục phiền não keo kiết.

2. Tu tập tâm xả liên tục.

3. Cùng với chúng sinh đồng hưởng tài sản và của cải, nhiếp thọ kiên cố cho đến diệt độ.

4. Sinh nhà giàu có.

5. Dù sinh ở đâu vẫn có tâm thí hiện tiền.

6. Thường được bốn chúng yêu thích.

7. Đối với bốn chúng không khiếp, không sợ.

8. Tiếng tốt lan khắp mọi nơi.

9. Tay chân mềm mại, lòng bàn chân bằng phẳng.

10. Cho đến cây đạo (thành đạo) không lìa Thiện tri thức. Là đệ tử Thanh văn, Bồ-tát của chư Phật.

Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát tin thích bố thí được mười thứ lợi ích.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Hàng phục sự keo kiết
Tăng trưởng tâm bố thí
Giữ tâm thí kiên cố
Sinh vào nhà giàu có.
Ngay tại chỗ sinh ra
Hay phát khởi tâm xả
Bỏ nhà đi xuất gia
Các chúng sinh yêu mến.
Nếu vào trong đại chúng
Không sợ không khiếp nhược
Tiếng tốt lan khắp nơi
Khắp thành ấp, tụ lạc.
Tay chân thường mềm mại
Thành tựu tướng đầy đủ
Gặp được Thiện tri thức
Thanh văn, Bồ-tát, Phật.
Thường ôm lòng tuệ thí
Chưa bao giờ tiếc lẫn
Được chúng sinh kính yêu
Đó là bỏ lợi dưỡng.
Sinh vào nhà giàu có
Tâm thường ưa bố thí
Nhiếp thọ xả kiên cố
Là vui nơi bố thí.
Ở trong các đại chúng
Tiếng tốt lan khắp nơi
Tay chân đẹp, mềm mại
Là lợi ích lạc thí.
Được gặp Thiện tri thức
Là Phật và Bồ-tát
Thấy rồi đến cúng dường
Là lợi lạc bố thí.

Này Đồng tử! Bồ-tát giữ tịnh giới có mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

1. Đầy đủ Nhất thiết trí.

2. Học theo những điều chư Phật đã học.

3. Không bị người trí hủy báng.

4. Không thoái lui thệ nguyện.

5. An trụ tu hành.

6. Vất bỏ sinh tử.

7. Ưa thích Niết-bàn.

8. Được tâm không trói buộc.

9. Được thắng Tam-muội.

10. Không thiếu tài sản tín tâm.

Đó là mười loại lợi ích của tịnh giới.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Đầy đủ Nhất thiết trí
Như Phật đã tu học
Người trí tuệ không chê
Thường không có sợ hãi.
Thệ nguyện không thoái chuyển
Hay an trụ Thắng hạnh
Tránh khỏi chỗ sinh tử
Ưa thích đến Niết-bàn.
An trụ không chướng ngại
Mau được Thắng Tam-muội
Trụ nơi tịnh giới tụ
Xa lìa sự bần cùng.
Trí ấy thường thanh tịnh
Tu tập sở học Phật
Không bị Thánh quở trách
Nhờ giới thanh tịnh vậy.
Người trí thề không lui
Dũng mãnh trụ Thiện hạnh
Thấy đời các thứ lỗi
Tránh đời, hướng diệt đạo.
Tâm ấy không chướng ngại
Nhờ sức trụ tịnh giới
Mau được định, lìa não
Đó là lợi tịnh giới.

Này Đồng tử! Bồ-tát trụ nơi Từ nhẫn có mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

1. Lửa không thể đốt.

2. Dao không thể cắt.

3. Độc không thể trúng.

4. Nước không thể trôi.

5. Được phi nhân che chở.

6. Được thân tướng trang nghiêm.

7. Đóng kín các ác đạo.

8. Tùy theo sự ưa thích, sinh nơi Phạm thiên.

9. Ngày đêm thường an ổn.

10. Thân thể luôn luôn hỷ lạc.

Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát thành tựu mười thứ lợi ích của Từ nhẫn.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Người này lửa không đốt
Dao gậy không tổn thương
Thuốc độc không thể trúng
Nước lớn không thể trôi.
Phi nhân thường hộ vệ
Đủ ba hai tướng tốt
Đóng kín các đường ác
Đều là lợi Từ nhẫn.
Đế Thích và Phạm thiên
Muốn được đâu có khó
Thường ở chỗ an lạc
Hoan hỷ khó nghĩ bàn.
Dao, gậy, lửa không hại
Nước độc chẳng tổn hại
Thiên, Long, Dạ-xoa giúp
Trú Nhẫn được lợi này.
Thân ba hai tướng tốt
Không sợ nơi ác đạo
Chết được sinh Phạm thiên
Lợi lạc trú Từ nhẫn.
Ngày đêm thường an ổn
Toàn thân được vui vẻ
Nơi chúng, thân thanh tịnh
Không có các chướng nạn.

Này Đồng tử! Bồ-tát tinh tấn có mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

1. Người khác không thể chiết phục.

2. Được Phật nhiếp thọ.

3. Được phi nhân hộ vệ.

4. Nghe pháp không quên.

5. Điều chưa nghe được nghe.

6. Tăng trưởng biện tài.

7. Được tánh Tam-muội.

8. Ít bệnh ít não.

9. Ở đâu cũng được ăn uống, ăn xong tiêu hóa tốt.

10. Như hoa Ưu-bát-la hiếm có.

Này Đồng tử! Đó là mười thứ lợi ích của sự Tinh tấn.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Thành tựu khó chiết phục
Tâm ấy không hối nhiệt
Được phi nhân hộ vệ
Thường nhìn thấy chư Phật.
Tăng trưởng Thắng biện tài
Đạt đến trí vô tận
Đạt được tánh Tam-muội
Không còn các bệnh não.
Ăn uống các ẩm thực
Vào bụng tiêu hóa tốt
Như hoa sen dưới nước
Cứ tăng trưởng dần dần.
Pháp được nghe như vậy
Nghe rồi được tăng trưởng
Đêm ngày thường nhớ nghĩ
Không bao giờ bỏ qua.
Như Lai luôn dũng mãnh
Nhiều kiếp luôn tinh tấn
Hàng phục chúng ma quân
Chứng đạo, trừ lo sợ.
Bồ-tát cứu các cõi
Không luyến tiếc thân mạng
Tinh tấn khởi Pháp tạng
Ta hiển bày đức ấy.
Tinh tấn khó hàng phục
Được chư Phật nhiếp thọ
Nếu ai được lợi này
Sẽ mau được chứng đạo.
Không quên mất điều nghe
Được nghe điều chưa nghe
Tăng trưởng sức biện tài
Là lợi ích tinh tấn.
Mau được Tam-muội này
Không có các bệnh não
Tùy theo sự ăn uống
Tiêu hóa được an lạc.
Ngày đêm tăng thiện pháp
Thường siêng không giải đãi
Không lâu được Bồ-đề
Nhờ vững tâm tinh tấn.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát tương ưng với thiền có mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

1. An trụ nghi thức.

2. Thực hành cảnh giới Từ.

3. Không có các nhiệt não.

4. Thủ hộ các căn.

5. Được hỷ lạc vô tham.

6. Xa lìa ái dục.

7. Tu thiền bất không.

8. Giải thoát lưới ma.

9. An trụ cảnh Phật.

10. Hoàn toàn giải thoát.

Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát tương ưng với thiền định có mười thứ lợi ích.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Họ không sống phi pháp
An trụ nơi nghi thức
Du hành cảnh phương tiện
Xa lìa phi cảnh giới.
Trong tâm không nóng bức
Khéo điều phục các căn
Thọ thiền định thắng lạc
An tọa lìa các duyên.
Xa lìa dục khát ái
Ăn món ăn thiền định
Giải thoát cảnh giới ma
An chỉ hành xứ Phật.
Thích sống giữa rừng cây
Cho là phương tiện tốt
Tu giải thoát chân thật
Diệt trừ các khổ não.
An tâm, pháp thanh tịnh
Xa lìa không nghi thức
Trụ cảnh, lìa phi cảnh
Sống Thiền được lợi lạc.
Tâm không sinh nóng bức
Chứng Thánh lạc vô thực
Thân tâm thường mát mẻ
Thiền tương ưng lợi lạc.
Nơi “không”, căn vắng lặng
Trong tâm lìa tạp loạn
Đạt được thiện hơn người
Nhờ phương tiện lìa dục.
Tâm không dục nhiễm tạp
Thường xa cảnh giới ma
An chỉ hành xứ Phật
Họ hoàn toàn giải thoát.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát thực hành Bát-nhã bala-mật có mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

1. Tất cả đều xả, không thủ giữ tưởng bố thí.

2. Trì giới không thiếu sót, nhưng không chấp mê vào giới.

3. Trụ nơi sức nhẫn, nhưng không trụ tưởng chúng sinh.

4. Thực hành tinh tấn, nhưng lìa thân tâm.

5. Tu thiền nhưng không chỗ trụ.

6. Ma vương Ba-tuần không thể nhiễu loạn.

7. Đối với ngôn luận người khác, tâm không lay động.

8. Có thể ra khỏi biển sinh tử.

9. Đối với chúng sinh, tăng khởi lòng thương.

10. Không thích đạo Thanh văn, Bích-chi-phật.

Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát thực hành Bát-nhã ba-la-mật, thành tựu mười thứ lợi ích như vậy.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Dũng mãnh bỏ tất cả
Nhưng không chấp tưởng thí
Hộ trì giới không khuyết
Cũng không có câu nệ.
Trí tuệ, tu nhẫn nhục
Nhưng không thấy chúng sinh
Dũng mãnh siêng tinh tấn
Xa lìa nơi thân tâm.
Tu tập thắng Thiền định
Không nương vào ba cõi
Chế ngự các ma mị
Công đức của tín tuệ.
Đối với các ngoại đạo
Trong tâm không lay động
Đến tận cùng sinh tử
Công năng của tín tuệ.
Với chỗ các chúng sinh
Thường khởi tâm đại Bi
Bậc Thanh văn, Duyên giác
Tâm chưa từng ưa thích.
Với xả tâm không chấp
Trì giới cũng không thủ
Nhẫn nhục lìa tưởng sinh
Là công năng tín tuệ.
Tinh tấn, mà xa lìa
Tu thiền không đắm trước
Không bị ma chế ngự
Là công năng tín tuệ
Không động ngôn luận người
Đạt tận cùng sinh tử
Thương chúng sinh vô hạn
Là công năng tín tuệ.
Đạo Thanh văn, Duyên giác
Không khởi tâm ưa thích
Là công đức học Phật
Là công năng tín tuệ.

Này Đồng tử! Bồ-tát Đa văn có mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

1. Biết sự tiếp tay của phiền não.

2. Biết sự trợ lực của thanh tịnh.

3. Xa lìa nghi hoặc.

4. Sự thấy ngay thẳng.

5. Xa lìa phi đạo.

6. An trụ đường chánh.

7. Mở cửa cam lồ.

8. Gần Bồ-đề Phật.

9. Làm ánh sáng cho các chúng sinh.

10. Không sợ ác đạo.

Này Đồng tử! Đó là mười thứ lợi ích của Đa văn.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Đồng tử! Mười lợi này
Hiển bày nơi Đa văn
Là chư Phật Thế Tôn
Đã rõ biết như thật.
Phiền não và thanh tịnh
Thật biết hai trợ lực
Hay vứt bỏ phiền não
An trụ trong thanh tịnh.
Trí tuệ trừ nghi hoặc
Thấy tâm họ chánh trực
Thường xa lìa ác đạo
Dừng chân nơi đường chánh.
Khai mở cửa cam lồ
Gần nơi Bồ-đề Phật
Làm ánh sáng chúng sinh
Mà không sợ ác đạo.
Biết các phiền não giúp
Và thanh tịnh hỗ trợ
Dũng mãnh lìa phiền não
Nương vào pháp thanh tịnh.
Trừ các thứ nghi hoặc
Làm người khác chánh kiến
Vất bỏ đường hiểm ác
Đa văn trụ đường thiện.
Hay mở cửa cam lồ
Kiên cố gần Bồ-đề
Như ánh sáng chúng sinh
Mãi không sợ ác đạo.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát thực hành Pháp thí có mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

1. Vứt bỏ việc ác.

2. Hay làm việc thiện.

3. Trụ pháp thiện nhân.

4. Thanh tịnh cõi Phật.

5. Đi đến đạo tràng.

6. Bỏ việc tham ái.

7. Hàng phục phiền não.

8 Đối với chúng sinh thí phần phước đức.

9. Tu tập tâm Từ đối với các chúng sinh.

10. Thấy pháp, được sự hỷ lạc.

Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát thực hành pháp thí có mười thứ lợi ích.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Thực hành Thí tối thắng
Với pháp không tham tiếc
Mười thứ lợi lạc ấy
Đạo Sư đã nói rõ.
Vứt bỏ các việc ác
Thường thực hành nghiệp thiện
An trụ pháp thiện nhân
Tâm tu hành bố thí.
Hay tịnh các cõi Phật
Như Đức Phật đã nói
Đi đến nơi đạo tràng
Là kết quả Pháp thí.
Vất bỏ tất cả việc
Tu học với Pháp vương
Hàng phục các phiền não
Họ được đạo không khó.
Lòng Từ cho chúng sinh
Tất cả phần phước đức
Không khởi kết ganh ghét
Được niềm vui hơn người.
Bậc Trí lìa việc ác
Dũng mãnh làm việc thiện
Trụ pháp Thiện trượng phu
Bậc Pháp thí đạt được.
Thanh tịnh quốc độ Phật
Khởi thiện pháp trợ đạo
Đi gần đến đạo tràng
Đó là lợi pháp thí.
Với việc không tham ghét
Hay rõ việc tự tướng
Giải thoát các chấp trước
Việc ái không chướng ngại.
Bậc Trí phát tâm này
Khiến chúng sinh có phước
Lòng Từ không ganh ghét
Được vui trong thiện pháp.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát, an trụ nơi không, được mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

1. Đứng nơi chỗ Phật đứng.

2. Tu thiền không chấp trước.

3. Không thích tất cả sự thọ sinh.

4. Đối với giới không chấp thủ.

5. Không hủy báng Hiền thánh.

6. Không tranh cãi đối với tất cả chúng sinh.

7. Không làm việc chúng sinh.

8. Trụ vào sự xa lìa tất cả việc ác.

9. Không hủy báng chư Phật.

10. Nhiếp thủ tất cả pháp bạch tịnh.

Này Đồng tử! Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào Không nên được mười thứ lợi ích.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Chỗ trụ Bậc Thiên Nhân
Là Đạo Sư Thế Thân
Dũng mãnh hay an trụ
Đó là không thọ mạng.
Đạt được vui thiền định
Không đắm trước thế gian
Tâm không mong thọ sinh
Nhờ biết được pháp tánh.
Với giới nếu không chấp
Thành tựu giới vô lậu
Không sinh trong ác đạo
Thường an trụ dòng Thánh.
Trụ nơi không đấu tranh
Nhu nhuyến với thế gian
Biết rõ tất cả việc
Đúng thể tánh như thật.
Cho đến bỏ thân mạng
Không bài báng Như Lai
Quyết định nơi không pháp
Thân chủng không sợ hãi.
Thân tất cả thế gian
Phật đạo khó nghĩ bàn
Hay giữ nơi Phật đạo
Không nghi ngờ pháp Không.
Là chỗ Nhân Tôn trụ
Không phải chỗ ngoại đạo
Không nương thiền định lạc,
Không chúng sinh, thọ mạng.
Chưa bao giờ dừng nghỉ
Không y vào Thiền lạc
Biết pháp không thọ mạng
Luôn có tâm vô nguyện.
Khéo biết tự tánh pháp
Không nương các phiền não
Tin thích Phật Thắng Nhân
Tâm chưa từng chấp trước.
Thường không có đấu tranh
Quán việc, tu hành xả
An trụ đạo Chánh giác
Thọ trì pháp Như Lai.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát trụ nơi an tọa có mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

1. Tâm không ô trược.

2. Trụ nơi không phóng dật.

3. Được chư Phật thương nhớ.

4. Tin giác hạnh chân chánh.

5. Không nghi trí Phật.

6. Biết ân.

7. Không hủy báng chánh pháp.

8. Khéo hay phòng hộ giới cấm.

9. Đạt đến địa vị điều phục.

10. Chứng bốn vô ngại.

Này Đồng tử! Đó là Đại Bồ-tát trụ nơi an tọa có mười thứ lợi ích.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Trong tâm không uế, loạn
Xa lìa các phóng dật
Giữ hạnh không phóng dật
Cảnh giới của an tọa.
Niệm sáng chiếu soi đời
Tăng trưởng sự tin thích
Trí Phật khó nghĩ bàn
Phương tiện không nghi hoặc.
Hay biết ân chư Phật
Không bài báng chánh pháp
An trụ Thiện luật nghi
Đạt đến chỗ điều phục.
Được biện tài vô ngại
Thích sống ở giữa rừng,
Bỏ lợi dưỡng cung kính
Cảnh giới của an tọa.
Tâm họ không uế, loạn
Chưa bao giờ phóng dật
Kẻ trí thường cẩn thận
Đó là lợi tịch tĩnh.
Vô úy, thường ái niệm
Tin nơi việc Phật làm
Không nghi ngờ trí Phật
Đó là lợi tịch tĩnh.
Thường nhớ ân Như Lai
Không bài báng chánh pháp
Trụ phương tiện Luật nghi
Đó là lợi tịch tịnh.
Họ đã được điều phục
Mau chứng vô ngại biện
Diễn thuyết trăm ngàn kinh
Thường hành không trì trệ.
Mau được Bồ-đề Phật
Hộ trì các Phật pháp
Hàng phục các tà luận
Rộng làm Bồ-đề Phật.
Bồ-tát khi mạng chung
Vãng sinh nước Cực lạc
Phật Di-đà thuyết pháp
Mau được Nhẫn vô sinh.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát ưa thích sự không nhàm chán có mười thứ lợi ích. Những gì là mười?

1. Thức tỉnh việc đời.

2. Xa lìa các huyên náo.

3. Không có tranh cãi.

4. Sống chỗ không phiền não.

5. Không tăng hữu lậu.

6. Không sinh sự tranh tụng.

7. An trụ sự yên lặng.

8. Tùy thuận giải thoát tương tục.

9. Mau chứng giải thoát.

10. Ra sức tu hành để được Tam-muội.

Này Đồng tử! Đó là Đại Bồ-tát ưa thích sự không nhàn nên được mười thứ lợi ích.

Bấy giờ Đức Phật liền nói bài kệ:

Thành tựu sự ít việc
Xa lìa các huyên náo
Thành tựu không tranh cãi
Độc tịnh vui thanh nhàn.
Trong lòng không sân não
Không tăng trưởng hữu lậu
Thường hòa, không tranh tụng
Là lợi sống thanh nhàn.
Tâm an, sống tịch diệt
Thường ưa hạnh xa lìa
Tùy thuận không hệ lụy
Mau chứng đạo giải thoát.
Nơi rừng, tập thiền định
Vứt bỏ lỗi huyên náo
Lại không khởi tranh cãi
Là lợi sống núi rừng.
Thường xa lìa hữu vi
Thế gian, không ưa thích
Các lậu không tăng trưởng
Sống trong rừng có lợi.
Không sinh lỗi đấu tranh
Tâm thường thích tịch tĩnh
Khéo giữ thân, khẩu, ý
Trụ không, có lợi này.
Tùy thuận sự giải thoát
Mau được không chướng ngại
Thường ưa sống điềm tịnh
Là lợi ích thanh nhàn.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát ưa sống Đầu-đà, thường đi khất thực, có mười thứ lợi. Những gì là mười?

1. Xô cờ ngã mạn.

2. Không cầu thân ái.

3. Không mong danh tiếng.

4. Ở trong dòng Thánh.

5. Không dua nịnh, không lừa dối, không hiện tướng lạ lại không kích động.

6. Không tự cao.

7. Không hủy báng người khác.

8. Đoạn trừ yêu, giận.

9. Nếu vào nhà người, không phải vì ăn uống, nhưng vì hành pháp thí.

10. Người tu hành đầu-đà, nếu khi thuyết pháp được người tin thọ.

Này Đồng tử! Đó gọi là Đại Bồ-tát thích tu hạnh Đầu-đà, đi khất thực có mười thứ lợi ích.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Người ấy không ngã mạn
Không mong cầu thân hữu
Lợi, suy, tâm bình đẳng
Nhờ sống hạnh Đầu-đà.
Không hoại hạt giống Thánh
Không lừa cũng không dối
Tự thân không cống cao
Cũng không khinh khi người.
Vất bỏ tâm yêu, giận
Thuyết pháp không mong cầu
Khi nói người tín thọ
Là lợi lạc khất thực.
Không cầu thân danh lợi
An trụ trong dòng Thánh
Ngay thẳng, không dua nịnh
Là lợi lạc Đầu-đà.
Không khen mình, chê người
Được khen không vui mừng
Nghe chê không áo não
Là lợi vui Đầu-đà.
Thí pháp không vì ăn
Vì không cầu cung kính
Lời nói, người tín thọ
Là lợi lạc Đầu-đà.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát an trụ các công đức lợi ích như vậy, ở chỗ không nhàn được thấy Phật tạng, đạt được Pháp tạng, đạt được Trí tạng, được tạng trí tuệ quá khứ, vị lai, hiện tại.

Này Đồng tử! Thế nào là được Phật tạng?

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát thích hạnh viễn ly, trụ nơi không nhàn, được năm thần thông. Những gì là năm?

1. Thiên nhãn.

2. Thiên nhĩ.

3. Biết tâm người khác.

4. Biết được đời trước.

5. Cảnh giới thần thông.

Bồ-tát này dùng Thiên nhãn giới, thanh tịnh hơn người thường, vô lượng vô số các Đức Phật Thế Tôn ở phương Đông. Phương Nam, phương Tây, phương Bắc cũng thế, bốn phương phụ, phương trên và dưới, cũng thấy vô lượng vô số chư Phật, thường được nhìn thấy, chưa từng xa lìa. Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát được thấy Phật tạng. Này Đồng tử! Sao là Đại Bồ-tát đạt được Pháp tạng?

Này Đồng tử! Đó là Đức Phật Như Lai nếu có thuyết pháp, vị Bồ-tát ấy dùng Thiên nhĩ giới thanh tịnh hơn người thường nghe được. Tất cả Bồ-tát này thường được nghe pháp, mà không xa lìa. Này Đồng tử! Đó là Bồ-tát đạt được Pháp tạng.

Này Đồng tử! Sao là Bồ-tát đạt được Trí tạng?

Này Đồng tử! Nhờ trí tuệ này, có thể thọ trì các pháp, đối với tất cả chúng sinh lấy tâm đại Bi làm đầu, dùng tâm không si mê mà thuyết pháp, biết được Pháp tạng. Này Đồng tử! Đó là Đại Bồ-tát đạt được Trí tạng.

Này Đồng tử! Sao là Đại Bồ-tát đạt được Trí tạng của quá khứ, vị lai và hiện tại?

Này Đồng tử! Bồ-tát này biết như thật tâm hạnh của các chúng sinh, chỉ do tâm hành thứ lớp khởi lên, quán pháp tự tâm để không loạn tưởng, tu tập phương tiện, như tự tâm hành. Các loại khác cũng vậy, tùy theo sắc được thấy, tiếng được nghe, có tâm ưa thích, hay không ưa thích đều biết như thật. Này Đồng tử! Đó gọi là Bồ-tát được Trí tạng của quá khứ, hiện tại và vị lai.

Này Đồng tử! Nay ta lược nói trụ công đức như vậy, Đại Bồ-tát được tất cả Phật pháp, không phải địa vị của các Thanh văn và Bích-chi-phật, huống chi tất cả dị luận của ngoại đạo.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Ta nhớ vô lượng kiếp quá khứ,
Có Phật Như Lai đại danh xưng
Hiệu là Phật Oai Đức Chúng Vương
Được các trời, người đến cúng dường.
Mười ức Tỳ-kheo đủ thần thông
Đạt được biện tài, được tự tại
Sống hạnh Đầu-đà, tâm điều phục
Phật ấy đầy đủ chúng như vậy.
Có bảy ức sáu ngàn vạn thành
Thành ấy chu vi hai ngàn dặm
Bấy giờ thế giới Diêm-phù-đề
Được làm bằng bảy báu tối thắng.
Thành ấy vi diệu rất mỹ lệ
Trăm vườn, nhà đẹp, được trang nghiêm
Khu vườn rừng ấy rất trùng điệp
Thường có các thứ hoa và quả.
Sinh trưởng các loại rừng cây lạ
Cây xoài và cây chuối Diêm-phù
Ca-ni, Chiêm-ba, Tất-lạc-xoa
Ni-câu, Tất-bát, các chim đậu.
Tần-già, Câu sí và Khổng tước
Nga vương, Xá-lợi rất hoan lạc
Các thứ tiếng chim rất kỳ lạ
Ca hót vui chơi trong trăm vườn.
Đề-đầu lại-tra, Thắng Võ vương
Tiếng chim Na-la, Câu phong, Hạc
Lông chim đẹp muôn màu muôn vẻ
Ở trên hoa sen, hót tiếng hay.
Có các loại khác sinh bằng trứng
Hót tiếng hòa nhã làm người vui
Nô đùa trong vườn tự vui chơi
Cùng nhau vui mừng kêu gọi nhau.
Hoa Mục-đa-bà-sư, Thâu-ca
Ba-lợi-da-đa Câu-la-bà
Cây Ta-ha-ca như mây phủ
Bát-đầu, Phân-đà, Câu-mâu-đầu.
Trong nước có nhiều các loại hoa
Trang điểm cho ao đẹp vi diệu
Các hoa hương lạ cùng trang sức
Khu vườn rừng ấy rất khả ái.
Ở Diêm-phù-đề có vị vua
Hiệu Kiên Cố Đức, chủ loài người
Nhà vua có đủ năm trăm con
Nhu nhuyến, đoan chánh học đủ nghề.
Quốc gia giàu có rất an ổn
Không có các lỗi thường hoan lạc
Mặt đất trải bằng các hương hoa
So với Thiên cung nào sai khác.
Vào lúc ấy, Pháp vương Mâu-ni
Tuyên xướng, định tịch diệt như vậy
Nói đạo các cõi như mộng huyễn
Không có sinh ra và kết thúc.
Thọ mạng chúng sinh bất khả đắc
Tất cả các pháp đều hư vọng
Như điện chớp trong không huyễn hóa
Lại như ngựa hoang, trăng trong nước.
Không có pháp sinh diệt đời này
Cũng không hướng đến việc đời sau
Nghiệp đã tạo ra không hoại mất
Quả trắng, đen ba đời không mất.
Không có đoạn, thường nơi các hành...
Không tập nơi nghiệp, không trụ hữu
Không tự tạo nghiệp đến tự thọ
Cũng không tự tác người khác thọ.
Không có đến cũng không có đi
Chúng sinh chẳng có cũng chẳng không
Không kiến thủ và ác kiến tụ
Cũng không chúng sinh và tịnh hạnh.
Vô tướng cú tịch diệt, vô sinh
Cảnh giới Phật, công Đức Như Lai
Đà-la-ni, mười Lực, biện tài
Là chỗ Thắng hạnh Phật Như Lai
Toàn pháp bạch tịnh công đức tụ
Lực Tổng trì trí đức tối thắng.
Thần túc biến hiện sức vô biên
Sáu Thông, biện tài nhờ đó có
Nơi tự tánh ấy chưa từng giảm
Hành cái vô hành, chẳng pháp hành.
Trong pháp giới này chẳng có đi
Hạnh này chẳng hành, chân pháp hành
Tánh chẳng âm thanh nhập tự tánh
Về nơi tự tánh Vô sở trụ.
Tự tánh hành không trụ, không y
Cảnh giới Phật ly trần tịch diệt
Định tối thắng định hành thắng định
Có chỗ trụ thắng hành tự tánh.
Thường có tự tánh, thường tùy thuận
Vi tế khó thấy câu bất động
Nó thường an rú, mà bất động
Trú vô sở trú, trú pháp tánh.
Không thể nói được trụ tự tánh
Là hành bất động trụ nơi pháp
Dùng âm thanh nói đạo không lời
Thể đạo âm thanh là pháp đạo.
Chẳng phân biệt tiếng có chỗ trụ
Tánh hạnh như vậy là pháp hạnh
Âm thanh nói ra, chẳng sinh hạnh
Thể tánh pháp ấy chân nghĩa hạnh.
Dùng âm thanh nói hạnh chúng sinh
Âm thanh chúng sinh hạnh vốn không
Trong đó văn tự không chỗ nhập
Trí tuệ rộng lớn, nghĩa cũng vậy.
Theo đạo Phật khen mà tu hành
Pháp lý sáng rạng, hạnh vi tế
Lìa hết trần cấu, tạng trí tuệ
Nếu có thể trụ không gì hơn.
Thường rưới mưa pháp thí thắng diệu
Là đạo chân nghĩa đệ nhất không
Xa trần, thanh tịnh, câu thứ nhất
Tịch diệt, thắng tịnh, lìa cấu nhiễm.
Không thủ, phân biệt và hý luận
Là câu tịch diệt Phật đã nói
Chẳng trụ đầu, giữa và sau cùng
Chẳng có, chẳng không, chẳng nơi chốn.
Đã biết tự tánh hành như vậy.
Là pháp vô đẳng Phật đã nói
Vua Kiên Cố Đức lúc ấy nghe
Lưỡng Túc Thế Tôn nói pháp định.
Cùng tám mươi ức na-do chúng
Hoan hỷ, kính tín đến chỗ phật
Nhà vua cúi lạy Nhân Trung Hùng
Với hết lòng tin cung kính Phật.
Thọ giáo rồi lui về một chỗ
Kính tâm chiêm ngưỡng chắp hai tay
Phật biết đức vua hạnh thuần tịnh
Căn, thức tự tại đến rốt ráo.
Thế Tôn biết tâm vua ưa thích
Nên nói Thắng Tam-muội như vậy
Đức vua nghe nói Đệ nhất nghĩa
Liền phát tâm tin vui vào Thánh đạo.
Vất bỏ tất cả bốn thiên hạ
Lìa vui ngũ dục để xuất gia
Đức vua nhờ đó xuất gia rồi
Thâm tín chắc chắn nơi Phật đạo
Tất cả mọi người Diêm-phù đề
Thảy đều lìa dục đi xuất gia
Tỳ-kheo tăng, ni thích tập định
Đồ chúng Như Lai nhiều vô lượng.
Tất cả tự nhiên từ đất lên
Chư Thiên đều đến để hầu hạ
Pháp phục ca-sa từ cây sinh
Thanh tịnh vô cấu thật khả ái.
Cắt may, chằm vá đúng theo pháp
Là nhờ oai lực công Đức Phật
Đồng tử! Người nên xem vua ấy
Bỏ nhà xuất gia, bỏ thiên hạ.
Xem ba cõi này như cái máy
Để cầu vui lớn đại Bồ-đề
Vào đời vị lai, thời mạt pháp
Không thể bỏ nhà nghèo hèn ấy.
Gông cùm kèm kẹp khổ vô cùng
Nơi Thắng pháp này không niềm tin
Tuy bị phạt gông cùm, roi, gậy
Chửi mắng, hủy nhục, trăm ngàn cách.
Bị vua bức bách đều nhẫn chịu
Khốn khổ bần cùng, không bỏ nhà
Tiền của thiếu thốn, thọ mạng yểu
Uổng công cay đắng không phước báo.
Ngu si không học các nghề nghiệp
Người ấy thường sống nơi phàm tục
Bức bách vô nghĩa, hung, bạo ác
Tham lam giàu có đoạt của người.
Vui đùa, cười giỡn chê người thiện
Tự xưng đã phát tâm Bồ-đề
Yêu vợ người ta, đoạt của người
Xan tham, tật đố, nhiều phóng dật.
Lìa tâm thương xót, hướng ác đạo
Cũng tự cho rằng: Ta làm Phật
Thấy người khổ não sinh vui thích
Phá giới, bạo ngược, ôm lòng ác.
Không nhớ báo ân, phá hoại người
Đại đức vì ta nói pháp hạnh
Nghe người nói họ hành Bồ-đề
Lại đối vị ấy sinh sân hận.
Nếu thấy Pháp sư ít lỗi lầm
Phóng đại nói thêm trăm ngàn thứ
Đồng tử! Nay ngươi nghe ta nói
Với hạng người ấy chớ thân cận.
Nếu muốn cầu chứng đạo Bồ-đề
Cho đến trong mộng chớ gần chúng
Trong hạnh Đầu-đà vô lượng đức
Nơi vô biên kiếp mà diễn thuyết.
Với đức như vậy không an trụ
Không bao giờ chứng đạo Bồ-đề
Tâm ấy thanh tịnh luôn khéo nói
Tịnh giới, tâm hòa, lời thiện diệu.
Chỗ chư tôn trưởng thường tịnh tâm
Không lâu liền được Tam-muội này
Không theo ngã mạn sinh uế ác
Tâm ấy thanh tịnh thường thành tựu.
Vứt bỏ kiêu mạn và sân nhuế
Hay được Thắng Tam-muội như vậy
Thường nhớ công đức tụ chư Phật
Da Phật sắc vàng, vô lượng đức.
Các tướng tự trang nghiêm thân Phật
Như các sao đêm thu yên tĩnh
Tràng phan, dù lọng và trướng đẹp
Hương xoa, hương bột và vòng hoa
Cúng dường tối thắng Bậc Vô Đẳng
Không lâu sẽ được Tam-muội này
Chiên-đàn trầm thủy và hương bột
Đèn dầu tô lạc, vô lượng thứ.
Đem cúng hằng sa tháp miếu Phật
Không lâu sẽ được Tam-muội này
Tỳ-bà, không hầu, tiếng trống hay
Sáo, địch tấu lên cùng tán thán.
Vô số tiếng hay trăm ngàn vạn
Cúng dường Bậc Tối Thắng lìa ác
Tạo tác vô lượng hình tượng Phật
Điêu khắc thật đẹp các thứ báu.
Bậc Tối Thắng đoan chánh mỹ diệu
Không lâu sẽ được Tam-muội này
Thường sống giữa rừng, thích tịch tĩnh
Vứt bỏ tụ lạc, lìa tâm đắm.
Thích sống một mình giống như kiếm
Không lâu sẽ được Tam-muội này
Ta là Pháp vương, ngươi con ta
Tùy thuận học ta hạnh Tam-muội.
Xưa ta được Bậc Đại Danh Xưng
Danh hiệu ngài là Kiên Cố Vương
Xưa ta cúng dường vô lượng Phật
Hằng mong hộ trì giới thanh tịnh.
Ở chỗ Thập Lực lòng cung kính
Để cầu được thắng định như vậy
Ngày xưa ta từng bỏ vợ con
Bỏ đầu, tay chân, mắt và tai.
Chưa từng khởi sinh tâm hạ liệt
Để cầu Tam-muội thắng tịch này
Voi ngựa xe cỡi vô lượng thứ
Châu báu nhà cửa thí tất cả.
Trong tâm không hề có hối tiếc
Để cầu được thắng định như vậy
Nô tỳ, lúa thóc nhiều vô số
Các thứ y phục và ẩm thực.
Đem cho tất cả người đến xin
Để cầu được thắng định như vậy
Ma-ni, trân châu và vàng bạc
Lưu ly kim cang, tiền, ngọc báu.
Tất cả sở hữu đều đem cho
Để cầu được thắng định như vậy
Ta bỏ châu báu điểm tô thân
Anh lạc, ấn tay, sư tử điều.
Mão trời lụa báu hơn trăm thứ
Để cầu được thắng định như vậy
Y phục vi diệu nhiều trăm ức
Lúc ấy ta hoan hỷ đem cho.
Vải trắng, bình bát, độc-câu-la
Để cầu Thắng Tam-muội như vậy
Xưa thấy kẻ bần cùng bế tắc
Tên Dịch Lực cầu mong thoát khổ.
Đối với người ấy ta rộng thí
Để cầu Thắng Tam-muội như vậy
Voi ngựa, trâu dê và nhà cửa
Vườn tược, xe cộ báu trang nghiêm.
Ta cho trăm ngàn kẻ nghèo khổ
Để cầu thắng Tam-muội như vậy
Ức na-do-tha rừng và vườn
Các báu trang nghiêm đều đem cho.
Khi thí vui mừng khởi lòng thương
Để cầu được thắng định như vậy
Thành ấp kinh đô và tụ lạc
Tất cả đất đai đều bỏ hết.
Cho xong, hay sinh vui tăng thượng
Để cầu được thắng tạng như vậy
Cứ mỗi kho báu như Tu-di
Y phục trên thân cũng như vậy.
Ta đều đem cho kẻ bần cùng
Để cầu được thắng định như vậy
Giàu có, vô lượng kẻ bần cùng
Đều đến nơi ta cầu che chở.
Chúng sinh khổ não được an lạc
Để cầu được thắng định như vậy
Xưa ta giàu nhất trên đời này
Thấy các thế gian rất khổ não.
Vứt bỏ ngôi vua, các sở hữu
Hết lòng thương yêu mong chúng vui
Đồng tử! Xưa ta làm việc này
Trong vô lượng kiếp, làm việc khó.
Ngôn ngữ có nói không thể hết
Ta nói ức kiếp khó cùng tận
Nếu ta nói ra, chúng mê hoặc
Với điều Phật làm không thể tin.
Trải đủ vô lượng các việc khổ
Để cầu được Tam-muội như vậy
Nay ta khuyên ông, này Đồng tử!
Ong hết lòng tin nơi lời ta.
Thiện Thệ hoàn toàn không nói dối
Phật Tối Thắng đại Bi, thật ngữ
Ngoài ra việc khổ trăm ngàn thứ
Xưa ta lãnh thọ thân khô kiệt.
Làm sao hay được Tam-muội này
Nếu giải thoát người trăm ngàn khổ
Ở trong sát-na chứng định này
Liền được đạo trí tuệ chân thật.
Ta gặp na-do-tha Đức Phật
Hơn cả mười phương cát sông Hằng
Đạt Thần túc thù thắng, như ý
Hay đến trăm ngàn các cõi Phật.
Đến đó thưa hỏi Bậc Tối Thắng
Luận hỏi trang nghiêm trăm ngàn loại
Khi Phật vì ta mà tuyên thuyết
Trả lời như điều ta thưa hỏi.
Ta đều có thể lãnh thọ hết
Cho đến không quên một câu, chữ
Đã được nghe pháp chân thật vậy
Rộng đặt vô lượng trăm điều hỏi.
Diễn nói câu tịch tĩnh lìa trần
An vô lượng chúng, trí tuệ đạo
Ta trụ thắng Tam-muội như vậy
Trong vô lượng kiếp học pháp này.
Ngày xưa vô lượng các chúng sinh
An trú đạo vô thượng, tối thắng
Nếu ai xưa nay không thấy Phật
Với thắng pháp này chưa từng nghe.
Kẻ ấy hoàn toàn không tin ưa
Định chân thật nghĩa không đệ nhất
Người trí nào có thể hiểu rõ
Đạt công đức chân thật, thậm thâm.
Nghe Đệ nhất nghĩa không sợ hãi
Nghe rồi sinh tâm rất hoan hỷ
Người ấy hay giữ đạo Bồ-đề
Tức là chân Phật tử Như Lai.
Hiếm có giống như hoa Ưu-đàm
Ta đã nhiều kiếp tu khổ hạnh
Người ấy không sợ đọa ác đạo
Thường được xa lìa nơi tám nạn.
Thường thấy vô lượng, vô số Phật
Có thể tin Thắng Tam-muội này
Cũng như Di-lặc không bạn lữ
Ở chỗ chúng sinh được tịnh trí.
Kinh Tam-muội này trong tay họ
Ta đã thọ ký như Di-lặc
Người ấy thành tựu niệm trí tuệ
Nghe, giữ rốt ráo đạo tăng thượng.
Biện tài tịch tĩnh không sầu não
Định này vì trong tay người ấy
Cho nên thường được trời cúng dường
Lại được mọi người đến lễ kính.
Luôn được quỷ thần đến hộ vệ
Bởi nhờ thọ trí Tam-muội này
Không bị lửa, độc làm thương tổn
Tất cả dao gậy không thể hại.
Vào trong nước lớn không bị chìm
Bởi nhờ thọ trì Tam-muội này
Người ấy hằng ở trong rừng núi
Được các chư Thiên đến hầu hạ.
Vô lượng Dạ-xoa đến cúng dường
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Trí tuệ rộng lớn như biển cả
Nói công đức Phật không chướng ngại.
Diễn xướng đức chân thật Như Lai
Nhờ thọ trì thắng định như vậy
Điều người ấy nghe vô cùng tận
Giống như hư không, không bờ mé.
Cầm đuốc trí tuệ trừ tối tăm
Nhờ người ấy trì định như vậy
Lời đúng nghĩa nhu nhuyến, mỹ diệu
Giữa chúng, diễn thuyết người trí thích.
Nói như nước chảy không cùng tận
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Giống như y vương cho thuốc hay
Lại cho chúng sinh nơi để ở.
Thường phóng ánh sáng cho chúng sinh
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Người ấy không có tâm ái dục
Ưa thích tịch tĩnh được thiền lạc.
Nói về tịch tĩnh lời hay đẹp
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Người ấy lìa tướng, ý không nhiễm
Nơi tất cả tướng đều lựa chọn.
Tâm thường tịch tĩnh mà kinh hành
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Người ấy được mắt lìa cấu uế
Có thể thấy vô lượng Như Lai.
Được mắt Trượng phu thấy vô biên
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Tiếng hay Khổng tước hợp tịch tĩnh
Tiếng Ca-lăng-tần-già vui lòng.
Các nhạc hòa hợp phát diệu âm
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Thành tựu tiếng sấm sét vang xa
Chim ngỗng, chuông, trống âm mỹ diệu.
Hòa hợp trăm thứ thắng kỹ nhạc
Vô lượng, vô số tăng-kỳ kiếp
Thành tựu tiếng hòa nhã như vậy.
Những lời nói ra như cam lộ
Bởi do thọ trì Thắng Tam-muội
Đồ ăn ngon bổ không tham trước
Đối với y bát không đắm trước.
Ít muốn, biết đủ, khéo điều phục
Bởi nhờ thọ trì Tam-muội này
Đối với tự thân không cao mạn
Đối với người khác không khinh chê.
Tâm thường nhu nhuyến thích thiền định
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Thường tự quán sát việc mình làm
Không thấy lỗi lầm của người khác.
Vui với mọi người, không tranh cãi
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Tâm thường thích hành hạnh bố thí
Không thể ô nhiễm tánh keo kiệt.
Không bị cảnh giới làm nhiễu loạn
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Đoan chánh thù đặc người ưa thích
Da dẻ trong thân sắc vàng ròng
Ba mươi hai tướng để trang nghiêm
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Công đức sắc tướng đều vi diệu
Nhiều người kính yêu thường gìn giữ.
Nam nữ lớn nhỏ nhìn không chán
Chư Thiên, Long thần, chúng Dạ-xoa
Đối với người này điều hoan hỷ.
Đi đến nơi đâu cũng hoan hỷ
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Phạm vương, Đế Thích, trời Tự tại
Cùng chư Thiên khác đến cúng dường.
Trong tâm hoàn toàn không ngã mạn
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Xa lìa tất cả các đường hiểm
Không có chướng nạn và ác đạo.
Giải thoát tất cả các sợ hãi
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Hay nghe Phật nói pháp vi diệu
Không còn tất cả các nghi hoặc.
Tùy thuận nhập vào pháp thậm thâm
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Nếu nghe pháp vi diệu Hiền thánh
Sẽ đều hiểu rõ được rốt ráo.
Do lực nhân duyên kiếp quá khứ
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Như Lai nói ra lời như vậy
Khéo được không khởi tâm lợi dưỡng.
Nhờ nhân duyên đó được Tổng trì
Bởi do đạt được Tam-muội này
Người ấy đến khi lúc mạng chung
Phật A-di-đà, tuệ dũng mãnh.
Phật vì người ấy hiện trước mặt
Được thấy Thập Lực như cầu mong
Và các Thanh văn đứng ở trước.
Quyết định sinh về nước An dưỡng
Nhờ thọ trì Tam-muội như vậy
Giả như khiến tất cả chúng sinh
Một lúc thành Phật không biên tế.
Một người trong đó đều cúng dường
Lại qua hằng hà vô số kiếp
Nếu ở đời sau, thời mạt thế
Được nghe định này không ai khinh.
Thường nơi định này khởi tùy hỷ
Công đức hơn trước chẳng thể tính
Đồng tử nên biết, đạo tịch tĩnh
Là Tam-muội nghĩa không đệ nhất
Hoặc chép, đọc tụng và thọ trì
Người ấy gọi là trì Pháp tạng.

Này Đồng tử! Vì ý nghĩa này nên Đại Bồ-tát nếu muốn biết tất cả tiếng nói của chúng sinh và biết tất cả các căn sai biệt của chúng sinh, trước sau không đồng mà thuyết pháp cho phù hợp.

Này Đồng tử! Người đó đối với Tam-muội này nên phải thọ trì, đọc tụng, rộng nói cho người khác, lại vì nhiếp thọ tất cả chúng sinh, nên phải tu tập phương tiện tương ưng.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Nếu ai từng thấy vô lượng Phật
Cũng từng học hỏi Tam-muội này
Là người thắng trí trì định này
Trụ đệ nhất thiện mà không động.
Được Thượng diệu lạc trên trời, người
Thường được người khác Thắng cúng dường
Lại được vui thiền định, Niết-bàn
Nhờ không phóng dật, trì định vậy.
Nghe người khen mình, không hân hoan
Hoặc bị mắng chửi cũng không giận
Vào pháp bất động giống như núi
Thích cầu giải thoát nhờ trì định.
Miệng không hề nói lời vô nghĩa
Lìa sân, ngạo mạn và tranh luận
Nhẫn nhục điều phục, tâm hoan hỷ
Nhờ không phóng dật, trì định vậy.
Lời nói êm dịu và chắc thật
Nét mặt vui vẻ trước hỏi thăm
Thấy các chúng sinh thường mỉm cười
Nhờ trì Tam-muội thắng tịnh vậy.
Tâm thường điều phục, không phiền người,
Khéo nhiếp năm căn trì tịnh giới
Chân thật ít lời, lợi đáng yêu
Nhờ thọ trì Tam-muội thắng tịnh.
Thường bố thí rộng, tâm không tiếc
Khiến chúng sinh đói khát no đủ
Tự ăn không vui, cho người vui
Người thiện nghiệp nhờ trì định này.
Được nhiều trăm chư Thiên mến
Dạ xoa, Tu-la, Rồng cung kính
Riêng ở trong rừng hằng gìn giữ
Nhờ dũng mãnh trì thắng định này.
Thích ở tịch tĩnh, lìa âm nhạc
Rồng, A-tu-la, thường thân cận
Tất cả không ai làm cho sợ
Nhờ trì định không phóng dật vậy.
Tiếng nói giống như tiếng Phạm thiên
Lại như Thiên nga, tiếng thật hay
Cũng như năm trăm tiếng mỹ diệu
Danh tiếng lan khắp các thế gian.
Tất cả các vi trần đại địa

Công đức nhiều hơn vi trần ấy, Tạng công đức lợi ích chúng sinh Nhờ tu tịch định như vậy đó.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát tâm sinh ưa thích: “Ta đối với tất cả pháp tự tánh làm sao được biết.”

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát đối với Tam-muội này phải nên thọ trì đọc tụng, nói rộng cho người khác, phương tiện tương ưng để tu tập, vì nhiếp phục tất cả chúng sinh vậy.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Người trí không giận, thương
Lại không khởi ngu si
Phiền não thêm sức mỏng
Nhờ biết pháp thắng tịch.
Giới Phật không khuyết phạm
Không buông lung nữ sắc
Kiên tâm cầu định này
Biết pháp lìa trần cấu.
Trí tuệ và thần thông
Thấy Phật đến nhiều cõi
Tổng trì đến bờ kia
Nhờ biết được định này.
Mau thành Bậc Lưỡng Túc
Dùng tịch trị phiền não
Khéo nhổ tên ác, độc
Nói câu không cấu tịch.
Nếu họ là lương y
Khéo biết nguyên nhân bệnh
Học trí quyết định này
Giải thoát hại chúng sinh.
Học lý được tự tại
Không đắm việc cúng dường
An lạc không mong cầu
Nhờ hiểu biết tịnh pháp.
Nhân sư tử nhẫn nhục
Đánh chửi không sân hận
Cắt đứt thân không sầu
Vì biết ấm là không.
Sức nhẫn như Tu-di
Vẫn không chấp nhẫn tưởng
Cho đến Phật không còn
Nhờ biết vô thường, không.
Ba cõi vô lượng tưởng
Ba đời đều hiểu rõ
Hay hiển lý vô lượng
Nhờ học pháp vô úy.
Nơi sự không thủ tưởng
Yêu, ghét đều không chấp
Biết pháp thường không tịch,
Nhờ được thắng tịch diệt.
Nếu nói thắng định này
Không lâu thấy Bồ-đề
Khéo liễu đạt cảnh Thánh
Bố thí quả báo nhiều.
Nói ức Tu-đa-la
Trình bày không trở ngại
Biện tài không đoạn tuyệt
Nhờ biết pháp rộng lớn.
Nếu ai vô số kiếp
Định tuệ như hư không
Thuyết pháp không cùng tận
Nhờ biết tịch định này.
Biện tài không nghĩ bàn
Cầu đạo nhất định được
Nói vô biên ức kinh
Biết danh tự pháp tướng.
Phật nói pháp vô thượng
Nghe, giữ khiến sung mãn
Trong đó không nghi hoặc
Biết pháp đều phi hữu.
Ái ngữ thường hành thí
Khéo xả, thích sống nghèo
Đời sống vẫn sung mãn
Vì thương xót thế gian.
Thường làm vua Diêm-phù
Thương chúng sinh, không giận
Mọi người khởi từ, kính
Vì nhờ biết pháp Không.
Đoan chánh, vợ, nam, nữ
Ngôi vua, thân đều bỏ
Quyết định không hối tiếc
Nhờ biết được không tịch.
Nếu ai cắt thân thể
Mộng mị cũng không sân
Từng cúng vô lượng Phật
Nhờ thọ trì pháp Không.
Cúng dường Mâu-ni Phật
Ba đời không mệt mỏi
Đại tín tâm bất động
Là biết pháp Không vậy.
Khéo giữ tạng Phật pháp
Trụ thắng Đà-la-ni
Không lâu được thành Phật
Nhờ trì thắng kinh vậy.
Đời đời không điếc đui
Nhiều kiếp các căn đủ
Thường xa lìa tám nạn
Hết lòng với kinh này.
Làm phước lìa ác đạo
Tướng đoan chánh trang nghiêm
Tâm tịnh trụ thần thông
Nhờ đó Phật hiện tiền.
Các thứ ứng hóa thân
Độ chúng sinh các cõi
Nếu được thấy vị ấy
Bồ-đề tâm quyết định.
Người trí nghĩ không buồn
Năng lực tinh tấn khởi
Cứu cánh trong thắng pháp
Mạt thế nhờ trì kinh.
Thân phóng ngàn ức sáng
Ánh sáng hơn trời, trăng
Nếu tu tập không định
Không lâu được thành Phật.
Ta cầu cảnh giới tịch
Ngàn ức tăng-kỳ kiếp
Không bỏ tâm tinh tấn
Được Nhiên Đăng thọ ký.
Kẻ trí trì kinh này
Nói Phật pháp tối thắng
Ngu si, ngoại đạo mất
Mạng chung, địa ngục đốt.
Thọ khổ rất kịch liệt
Vô số kiếp mới hết
Nhiều kiếp đã hết tội
Mới được nhận cam lồ.
Thời mạt thế đáng sợ
Gần với đạo Vô thượng
Hộ trì Pháp tạng ta
Thọ ký trì kinh này.

QUYỂN 7

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát nên thường thích tu thần thông bản nghiệp. Thế nào là Đại Bồ-tát tu đại thần thông bản nghiệp?

–Đó là nhiếp tất cả thiện pháp, không thủ giới tụ, không trước định tụ, đối với trí tuệ tụ cũng không hý luận, nơi giải thoát, giải thoát tri kiến tụ cũng không chấp trước.

Này Đồng tử! Đó là Đại Bồ-tát tu đại thần thông bản nghiệp. Nếu thành thần thông bản nghiệp liền được đại thần thông. Nếu Đại Bồ-tát đối với tất cả việc mà biến hiện tự tại liền có thể vì tất cả chúng sinh thuyết pháp để đưa họ vào Đại thừa. Bồ-tát ấy đối với đại thần thông này phải thường tu học.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Thần thông bản thắng nghiệp
Hiển thị không quả báo
Mong quả tu các hạnh
Thủ ngã tưởng, không trừ.
Đã nói bậc Thần thông
Trí Phật chẳng nghĩ bàn
Nếu trụ nơi chấp trước
Người ấy không trí tuệ.
Các pháp chẳng nghĩ bàn
Dùng âm thanh hiển thị
Nếu chấp nơi âm thanh
Không đạt phương tiện thuyết.
Không hiểu dạy phương tiện
Không biết phương tiện thuyết
Phi pháp nói là pháp
Nơi pháp dẫu hiểu rõ.
Trong thế giới ba ngàn
Khi ta nói các kinh
Một nghĩa, vô số vị
Không thể nói hết được.
Chư Phật ở mười phương
Nói rõ vô lượng pháp
Nghĩ kỹ nghĩa Nhất cú
Liền hiểu được tất cả.
Tất cả pháp vô ngã
Nếu ai học pháp này
Lúc đó học Nhất cú
Hiểu Phật pháp không khó.
Các pháp là Phật pháp
Nếu ai học nghĩa này
Như pháp mà hiểu rõ
Liền thuận theo pháp không.
Các lời là lời Phật
Tất cả âm thanh không
Cầu khắp cả mười phương
Lời Phật chẳng thể nắm bắt.
Lời Phật tối đệ nhất
Lời Phật không ai bằng
Việc vi tế đều không
Là lời nói tối thượng.
Pháp ấy tối vô thượng
Hiển hiện, không đoạn tuyệt
Không có mảy vi trần
Điều chư Phật tuyên nói.
Các pháp chẳng thể nắm
Không có pháp để chứng
Biết về pháp như vậy
Mới hiểu Phật Bồ đề.
Nếu ai ngộ pháp này
Liền chuyển được pháp luân
Ngay khi chuyển pháp luân
Tuyên dương thắng cam lồ.
Bồ-tát mới hiểu được
Bồ-đề Phật vô thượng
Phật là Bậc Vô Đẳng
Khiến người ngộ trí Phật.
Không tu và không nguyện
Vô tướng tức là không
Như bốn pháp môn này
Phật dạy là giải thoát.
Mắt, tai và mũi, lưỡi
Thân, ý với các căn
Thể tánh chúng là không
Kiều-trần-như mới thấy.
Nếu đối với pháp này
Biết thể tánh như thật
Chẳng tranh luận mọi người
Nhờ hiển đạt pháp tướng.
Là cảnh giới dũng mãnh
Bậc Bồ-tát cứu hộ
Đều không có nghi hoặc
Nhờ hiểu thể pháp không.
Hay đạt tánh các pháp
Nên được gọi là Phật
Vì khó lường pháp giới
Giác ngộ kẻ đáng độ.
Được sự nghiệp chư Phật
Đều do giới thân tạo
Lời Phật và tiếng giới
Đều cùng tướng bình đẳng.
Đã nói các âm thanh
Là âm thượng, trung, hạ
Bình đẳng đều một tướng
Phật thường chỉ dạy pháp.
Phật pháp không chỗ trụ
Cũng không ở các nơi
Không sinh cũng không diệt
Cho nên gọi vô lậu.
Không mới cũng không cũ
Không tan cũng không hợp
Không xanh cũng không vàng
Không trắng cũng không đen.
Khó nói, không thể nắm
Hết lời mà tuyên dương
Âm thanh không làm nỗi
Trí thông Phật thiện xảo.
Đó là pháp vô lậu
Pháp này không chỗ nương
Chẳng ở tại mười phương
Pháp ấy Phật đã nói.
Sau khi Phật diệt độ
Nhớ nghĩ thân tướng Phật
Liền thấy được thân Phật
Nhờ thần lực của Phật.
Lại không có chúng sinh
Chứng đắc quả tịch diệt
Khi nói nơi pháp này
Vô lượng chúng diệt độ.
Ví như mặt trời, trăng
Ảnh hiện nơi trăm sông
Đều thấy bóng của chúng
Tướng các pháp cũng vậy.
Nếu biết tánh các pháp
Cũng giống như ảnh tượng
Quyết chẳng lấy sắc thân
Để thấy được chân Phật.
Các pháp không hình tướng,
Cầu tướng không thể được
Pháp không hình như vậy,
Chính là Pháp thân Phật.
Nếu ai thấy Pháp thân
Chính là thấy Đạo Sư
Pháp thân là Chánh giác
Như vậy là thấy Phật.
Không được mà hiện được
Không được mà nói được
Nếu muốn cầu Sa-môn
Cần phải biết đạo này.
Ta đã nói chân hạnh
Biết chúng sinh ưa thích
Nếu nhập bí mật giáo
Họ liền không chấp trước.
Nếu bảo có chỗ đắc
Họ liền chẳng được gì,
Họ chẳng được đạo quả
Nên gọi phi Sa-môn.
Pháp này rất thâm áo
Chưa đạt, nói lời này
Giáo pháp ấy sâu xa
Khó có thể tuyên bày.
Việc năm chúng đều không
Đều do hư vọng khởi
Không có người khởi sinh
Và bạn pháp năm chúng.
Tánh tướng của năm pháp
Là tướng tất cả pháp
Phật nói tướng như vậy
Tướng ấy chẳng thể nắm.
Như hư không không vật
Các pháp cũng như vậy
Trước sau và hiện tại
Quán như thật ba đời.
Lời nói như hư không
Hư không không thể nắm
Thể tánh pháp như vậy
Vô thủ như hư không.
Diễn nói pháp như vậy
Chưa từng có sở thuyết
Với pháp không sở kiến
Đó là chẳng nghĩ bàn.
Pháp này không tự tánh
Pháp thể bất khả đắc
Ngộ được Phật Bồ-đề
Cảnh giới của định diệt.
Nếu có thể biết vậy
Với pháp liền không chấp
Nếu không chấp trước pháp
Người ấy hiểu tướng pháp.
Bồ-tát trong mọi lúc
Vứt bỏ tất cả tưởng
Nếu ai vứt bỏ tưởng
Sẽ không chấp Phật pháp.
Nơi ấy không thể nắm
Mới gọi là thật tế
Nơi đó mà hiểu rõ
Ức kiếp vẫn không chấp.
Vọng phân biệt bản tế
Ngu si mãi sinh tử
Tìm kiếm khắp mười phương
Bản tế bất khả đắc.
Vì tất cả pháp không
Bồ-tát không chấp trước
Hành dụng vì Bồ-đề
Hành ấy bất khả đắc.
Như chim bay trên không
Không để lại dấu vết
Tánh Chánh giác như vậy
Bồ-tát hay biết rõ.
Như người khéo huyễn thuật
Giả tạo ra các vật
Cũng hiện các sắc vật
Thật sự bất khả đắc.
Nếu chấp vào được mất
Nó liền không sở đắc
Trí ấy giống như huyễn
Nhưng không đồng với huyễn.
Đối với chỗ pháp không
Kẻ ngu vọng phân biệt
Hành ở trong phân biệt
Kẻ ấy vào đường ác.
Chúng sinh sinh rồi già
Lưu chuyển mãi không thôi
Đắm chìm trong sinh tử
Khổ não không hạn lượng.
Thế gian sinh khổ não
Do ngu vọng phân biệt
Chưa trừ phân biệt ấy
Mãi nổi trôi sinh tử.
Vừa vui liền tương ưng
Huân tập quả báo dục
Chưa thể bỏ chấp thủ
Vì trụ nghiệp phiền não.
Nghiệp chúng sinh không cùng
Phiêu lưu trong biển dục
Luôn luôn bị thọ sinh
Mãi mãi bị chết chóc.
Không trí, bị ma khiến
Tạo tác các nghiệp ác
Thọ sinh ở nơi đâu
Liền bị quả báo chết.
Phàm phu ngu tăm tối
Nên phải bị sinh tử
Bần cùng lại khổ sở
Rơi vào đường bất thiện.
Bị đao, roi và gậy
Thay nhau làm tổn hại
Tạo tác việc ác này
Tăng trưởng các khổ não.
Con tôi và của tôi
Phàm phu vọng phân biệt
Vọng phân biệt như vậy
Tăng thêm các hữu lậu.
Tăng trưởng sự sinh tử
Tức là kẻ phàm phu
Lưu chuyển trong các cõi
Nên gọi là phàm phu.
Họ vứt bỏ Phật pháp
Tăng thêm các pháp ác
Nên không được giải thoát
Bị lưới ma trói buộc.
Kẻ ngu vì ái dục
Theo nữ sắc ô uế
Hướng sống chỗ ô uế
Rơi vào các đường ác.
Nhiễm dục, Phật không khen
Và thân cận nữ sắc
Các lưới đáng sợ này
Lưới nữ sắc sợ nhất.
Bồ-tát thường xa lìa
Giống như sợ rắn độc
Thường không thân nữ sắc
Biết không phải Phật đạo.
Tu học đạo Bồ-đề
Như xưa Phật tu tập
Đã tu học Phật đạo
Mau thành đạo Vô thượng.
Phật đạt Tối vô thượng
Làm tháp miếu thế gian
Trí tuệ không ai hơn
Thành Bậc Thiên Trung Thiên.
Bảo người tu tám giới
Giới thân không cấu uế
Các ức chúng vô lượng
Khuyên dạy tu Bồ-đề.
Làm lợi ích cho chúng
Thương yêu khắp tất cả
Bậc Trí tuệ dũng kiện
Đánh lên tiếng trống pháp.
Chấn động cung Ma vương
Cùng với quyến thuộc ma
Vô lượng các ức ma
Khuyên bảo tu Bồ-đề.
Hàng phục các dị luận
Vượt trên các ngoại đạo
Chấn động cả đại địa
Biển cả và núi cao.
Biến hiện làm nhiều thân
Vô số các loại khác
Đại trí hay thị hiện
Trăm ngàn các thần biến.
Chấn động vô lượng cõi
Giống như cát sông Hằng
Hàng phục các ma quân
Liền ngộ đạo Vô thượng.
Lại hóa làm cây lạ
Các thứ báu trang sức
Hoa quả lạ, tươi tốt
Mùi thơm thật khả ái.
Hoặc hóa làm đài cây
Vọng đài và cung điện
Biến hóa thật dũng mãnh
Ao hoa rất trong sạch.
Đầy nước tám công đức
Trong mát không uế trược
Nếu có chúng sinh uống
Diệt trừ ba thứ khát.
Nếu ai uống nước này
Liền được quả không thoái
Hay được trí Vô thượng
Làm Bậc Thế Đạo Sư.
Đạo Vô thượng tịch diệt
Hành giả phải nên biết
Không đạt đạo này vậy
Đó gọi là ngoại đạo.
Nếu ai thân cận họ
Hành trì theo lời dạy
Rơi vào chỗ đại ác
A-tỳ khó cứu thoát.
Chịu khổ não cùng cực
Không thể nói hết được
Chỉ có ta biết rõ
Và Bồ-tát Đại Thắng.
Sâu xa khó thấy được
Chẳng phải phàm phu ngu
Vì họ bị đắm trước
Với pháp này sinh nghi.
Biến hóa rất trang nghiêm.
Vô lượng thứ khả ái
Tất cả đều trải qua
Các cõi Phật vô thượng.
Tất cả các cõi Phật
Đều hiện các sắc lạ
Đại thần lực Bồ-tát
Tất cả đều thị hiện.
Đại lực, đại dũng mãnh
Mặc áo giáp kiên cố
Cầm chày đại Kim cang
Nơi pháp không diệt trừ.
Chỗ phóng xuất tự thân
Vô số ánh sáng lớn
Nhiều như cát sông Hằng
Trừ tăm tối thế gian.
Họ không nhiễm nữ sắc
Cũng không tùy thuận chúng
Nên lìa tư tưởng này
Nữ tưởng rất xấu ác.
Cõi Phật thường bất không
Là chỗ trụ dũng mãnh
Các ác ma Ba-tuần
Không thể đến nhiễu loạn.
Kẻ sống bằng ác kiến
Không thể gặp chư Phật
Bị sân hận chế ngự
An trụ nơi xan tham.
Chúng là ma Ba-tuần
Sinh Thiên và giải thoát
Bị chúng làm chướng ngại
Nên phải đọa ác đạo.
Quán sát tất cả tưởng
Mà sống xa lìa tưởng
Người ấy mới biết được
Vô thượng trí chư Phật.
Hay biết đời trước sau
Cùng với đời hiện tại
Diễn thuyết nghĩa như thị
Trong đó không sở thuyết.
Lời hòa hợp, giả danh
Bồ-tát biết như vậy
Lợi ích các chúng sinh
Vô lượng khó nghĩ bàn.
Tưởng ấy lường biết nghĩa
Hiển bày sự nắm giữ
Tướng đó không thể nắm
Liền chỉ nghĩa tịch diệt.
Không tịch diệt là tưởng
Tịch diệt chính là trí
Nếu biết tự tánh tưởng
Liền lìa bỏ các tưởng.
Nếu có tưởng sai khiến
Thì trở lại có tưởng
Hành tưởng ấy hý luận
Người ấy không lìa tưởng.
Nếu ai khởi tâm này:
“Tưởng ấy do ai khởi?
Tưởng này ai chứng được?
Ai diệt được tưởng này?”
Người khởi lên tưởng pháp
Không thể gặp chư Phật
Ngay chỗ đó liền có
Vô ngã, lìa chấp trước.
Nếu tâm ấy không sinh
Do đâu có khởi tưởng
Nếu tâm được giải thoát
Chúng không do đâu khởi.
Nếu chứng được giải thoát
Tâm ấy khó nghĩ bàn
Vì tâm khó nghĩ bàn
Thành tựu khó nghĩ bàn.
Xưa ta nghĩ như vậy:
Nên an trụ tâm địa
Vứt bỏ tất cả tâm
Nguyện thành chẳng nghĩ bàn.
Quả báo pháp bạch tịnh
Nhìn thấy nơi vô vi
Một niệm đều rõ biết
Tất cả niệm chúng sinh.
Chúng sinh tức tâm này
Tâm tức là Như Lai
Chư Phật chẳng nghĩ bàn
Hiểu rõ được tâm này.
Nếu ai nghĩ như vậy
Làm sao được xả tâm
Suy nghĩ nơi vô tâm
Xa lìa tất cả tâm.
Nếu vào lúc chết chóc
Tâm theo tưởng mà chuyển
Người ấy khởi tâm nghĩ
Khiến tâm không giải thoát.
Kẻ ngu tưởng nữ sắc
Liền khởi lên ái dục
Nếu diệt trừ tưởng ấy
Liền không có ái dục.
Nếu nghĩ pháp vô thượng
Suy nghĩ ấy rộng lớn
Nhờ suy nghĩ các pháp
Đạt được tâm chân thật.
Tâm nhớ nghĩ vô cùng
Nên mãi mãi phan duyên
Nhớ nghĩ các tà đạo
Tâm nghĩ không cùng cực.
Gọi là pháp tâm tận
Trong cùng tận không trí
Trí tuệ chẳng cùng tận
Vì pháp vô tận vậy.
Tạm mượn lời nói đạo
Quên lời mà diễn thuyết
Pháp này không sai khác
Trí tuệ không cùng tận.
Không sinh cũng không diệt
Không tướng mạo, hình dạng
Thường ở trong ức kiếp
Hiển hiện pháp vô tướng.
Quán sát tất cả hữu
An trụ trong phi hữu
Chưa từng thấy hữu khác
Cũng không thấy không khác.
Tạm gọi có ngôn thuyết
Hiển thị chẳng có không
Song với tất cả Phật
Có, không không chỗ thấy.
Tất cả pháp hữu vi
Hiển thị nơi phi hữu
Nếu hay biết pháp này
Liền thấy được phi hữu.
Thường không có sở chứng
Vì rốt ráo không có
Nếu có sự chứng đắc
Liền gọi là thế gian.
Nếu khởi tâm như vầy:
“Ta ở đời, thành Phật
Còn có khởi tưởng này
Trọn không ngộ Bồ-đề”.
Bậc Bồ-tát vô úy
Nơi pháp không cầu mong
Tự nhiên không phiền não
Đó gọi là Bồ-đề.
Mọi người nói lời này:
“Ta hướng nơi Bồ-đề
Vì không biết đạo này
Nên xa Phật Bồ-đề”.
Dùng âm thanh nói pháp
Tất cả các hành không
Tự tánh thể âm thanh
Tinh vi không thể thấy.
Thị hiện đại thần thông
Nói Tu-đa-la này
Lợi ích các Bồ-tát
Điều chư Phật sáng tỏ.
Đoạn trừ các đối trị
Là tất cả phiền não…
Phật trụ đại thần thông
Khéo tu bốn Thần túc.
Đã thấu đạt giới luật
Với không đã rốt ráo
An trụ nơi thần thông
Thần túc chẳng nghĩ bàn.
An trụ trí vô nguyện,
Tu trí rất thanh khiết
Cầu trí không mệt mỏi
Vô lượng chẳng nghĩ bàn.
Trong Tam-muội thần thông
Rõ vận không công dụng
Quả ấy hằng không tịch
Tất cả thường tịch diệt.
Năng lực thần túc ấy
Trải qua ức thế giới
Thấy Phật đèn soi đời
Giống như cát sông Hằng.
Người ấy nơi sinh diệt
Tùy tâm được tự tại
Nhờ tâm tự tại rồi
Nên thân được thanh tịnh.
Trong các đệ tử Phật
Nếu tu sức thần thông
Quả báo thần thông này
Không được phần mười sáu.
Tất cả các chúng trời
Không thể thấy thân họ
Ngoại trừ Phật Thế Tôn
Và những vị đồng chứng.
Vị ấy thân không bệnh
Không tóc bạc da nhăn
Cũng không già ốm yếu
Lâm chung không khổ não.
Không có các nghi ngờ
Cùng với các nghi hoặc
Ngày đêm hằng diễn thuyết
Trăm ức Tu-đa-la.
Với tất cả phiền não
Đoạn hết các tập khí
Đối với các chúng sinh
Thường khởi tâm bình đẳng.
Với trăm ngàn Tam-muội
Không uế, được tự tại
Tu tập trí tuệ lớn
Diễn thuyết cho mọi người.
Với hai căn nam nữ
Xa lìa tất cả tưởng
An trụ phi hữu tưởng
Hay nói chân quyết định.
Dùng trí tuệ thanh tịnh
Diễn thuyết pháp như thật
Đúng với pháp tùy thuận
Cảnh giới của định, tuệ.
Nhờ tu các định ấy
Không bị sự đình trệ
Thường dùng lời chân thật
Thuyết pháp điều lợi ích.
Nên khéo được thân người
Xa lìa tất cả nạn
Hay báo ân chư Phật
Vì thường thích kinh này.
Nên trong vô lượng kiếp
Xả bỏ nơi thế gian
Nếu nơi kinh điển này
Cho đến trì (một) bài kệ.
Đã từng thấy chư Phật
Luôn luôn đến cúng dường
Vì ưa thích kinh này
Mau ngộ Bồ-đề Phật.
Nên liền thấy chư Phật
Thường ở núi Kỳ xà
Sẽ được Phật thọ ký
Sẽ thấy Phật Di lặc.
Nhờ thấy Phật Di lặc
Hoặc ở thời mạt thế
Người thọ trì kinh này
Được tâm thượng ái lạc.
An trụ trong thật tế
Thành tựu chẳng nghĩ bàn
Nơi chẳng nghĩ bàn này
Không có các nghi hoặc.
Người ấy không nghi ngờ
Không có vi tế hoặc
Nơi lời Phật quyết định
Bồ-đề đâu khó được.
Đời mạt thế hãi hùng
Khó có thể tu hành
Nếu được nghe kinh này
Liền được vô tận biện.
Ai ưa thích kinh này
Tạng Phật pháp vô thượng
Phật và các Thanh văn
Liền đi đến cúng dường.
Người chuyên đọc kinh này
Chính là trì Pháp tạng
Trong các sự cúng dường
Cúng dường pháp cao nhất.
Nếu hay trì kinh này
Bồ-đề Phật khó nghĩ
Là trí Phật vô thượng
Được trí ấy đâu khó.
Trước khi Phật xuất thế
Từng trì kinh điển này
Cho đến đời mạt thế
Lại được gặp kinh này.
Đi đến các cõi Phật
Cất tiếng rống chấn động
Tiếng rống sư tử lớn
Tiếng Phật chẳng nghĩ bàn.
Ở chỗ ức Đức Phật
Việc làm Thích sư tử
Hay dùng vô lượng biện
Diễn thuyết không sợ hãi.
Loại công đức ngọt ngào
Được chư Phật thọ ký
Và đời sau mạt thế
Hay hộ Bồ-đề Phật.
Sắc đẹp đều đầy đủ
Tướng tốt tự trang nghiêm
Thần lực mau đến được
Thấy được vô lượng Phật.
Thần lực hóa thành hoa
Đẹp đẽ và thơm phức
Thường dùng thủy tinh, bạc
Cùng với các lưu ly…
Tất cả các của báu
Từ lòng tay hiện ra
Vì cầu được Bồ đề
Cúng dường tất cả Phật.
Vô lượng thứ cúng dường
Âm nhạc và ca tán
Phát từ lỗ chân lông
Giống như cát sông Hằng.
Hằng ức loại chúng sinh
Nếu được nghe tiếng này
Liền được không thoái chuyển
Trí tuệ Phật vô thượng.
Được Đức Phật khen ngợi
Khắp nghe danh hiệu Phật
Các phương truyền danh ấy
Cũng tự được nghe thấy
Nếu ai nghe được danh
Được diệt hết các tưởng.
Đã diệt hết tưởng rồi
Được thấy vô lượng Phật
Có trí tuệ như vậy
Hành nơi hạnh Bồ-đề.
Vì lợi ích chúng sinh
Nên cầu đức Bồ-đề
Người hành trí tuệ ấy
Được lợi ích như vậy.
Lại được lợi ích khác
Bởi hay trì kinh này
Nếu có các phụ nữ
Nhờ nghe, trì kinh này.
Liền chuyển khỏi thân nữ
Hay nói pháp cam lồ
Lại không còn thọ nữa
Thân nữ nhân như vậy.
Đầy đủ các sắc đẹp
Thành tựu tướng trang nghiêm
Nếu nơi thắng kinh này
Hiển bày công đức ấy.
Sẽ được diệu quả đó
Mau chóng chứng Bồ-đề
Thường trong tất cả đời
Thành tựu không sợ hãi.
Nếu ai với kinh này
Cảnh giới của Bồ-tát
Thắng Tam muội vô tận
Mẹ tất cả Bồ tát.
Để mau chứng Bồ-đề
Phải nên trì kinh này
Họ được thân cận Phật
Cũng gần Phật Bồ-đề.
Lâu ngày thọ kinh này
Được tịch diệt thắng diệu
Bậc dũng kiện chỗ này
Cõi Bồ-tát an trụ
Thấy đèn đời chiếu sáng
Giống như cát sông Hằng.
Vua Chuyển luân hay tạo đại lực
Thấy Phật Thập Lực tâm tịch định
Vô lượng trăm kệ để khen ngợi
Được Thắng Tam-muội, Ly cấu địa.
Bày vật vô đẳng cúng dường Phật
Đại danh hiệu Đấng Nhân Trung Thượng
Vứt bỏ ngôi vua như nhổ dãi
Để tu Thắng phạm hạnh tối thượng.
Xuất gia nơi Phật pháp thù thắng
Được định Ly cấu tịch diệt này
Đắc lời nói thù thắng, vi diệu
Diễn thuyết nhiều ức kinh không ngớt.
Pháp vi tế Không, Vô tướng, Nguyện
Tịch thắng, Ly cấu, không các lậu
Tự tánh không tịch, dứt ngôn ngữ
Xuất định, thuyết pháp cho mọi người.
Trí tuệ thậm thâm thường vô lượng
Trí tuệ rộng lớn, nghĩa vô biên
Đắc Tam-muội thậm thâm này rồi
Hay làm đèn sáng cho thế gian.
Thường tu phạm hạnh, luôn trong sạch
Không có tanh tao và ô uế
Khiến vô lượng chúng sinh an trụ
Khiến được tịch định, lìa các cấu.
Thường được biện tài, chóng thông lợi
Đa văn như biển, tuệ vô lượng
Nói năng thượng diệu, đạt các pháp
Nhờ trì thắng kinh tịch định này.
Rõ biết các nghiệp và công xảo
Thấy rõ luận lý và y dược
Đạt đến tất cả bờ dũng kiện
Nhờ trì tịch định Ly cấu này.
Nơi các kệ luận và cười đùa
Giỏi việc ca múa đến tột đỉnh
Thường làm Pháp sư cho thế gian
Nhờ trì tịch định Ly cấu này.
Thường có các quyến thuộc thượng diệu
Thường được tất cả thượng cúng dường
Hay tu hạnh Bồ-đề thắng diệu
Nhờ trì tịch định Ly cấu này.
Tên độc buồn phiền bức bách tâm
Bậc trí tuệ ấy không phiền này
Luôn không bệnh tật, thường an ổn
Nhờ trì tịch định Ly cấu vậy.
Có các bệnh hoạn ở thế gian
Tất cả bệnh thân và bệnh tâm
Người ấy thường không bệnh hoạn ấy
Nhờ trì tịch định Ly cấu này.
Tất cả thân đau và tâm đau
Hoặc là răng đau hay đầu đau
Người trí thường không thống khổ này
Nhờ trì tịch định Ly cấu này.
Tâm có vô lượng khổ đau khác
Từ ý ấy khởi thiêu đốt thân
Họ không khi nào khởi phiền não
Nhờ trì tịch định Ly cấu này.
Giống như hư không không cấu nhiễm
Tự tánh vô cấu thường thanh tịnh
Tâm người ấy tịnh cũng như vậy
Nhờ trì tịch định Ly cấu này.
Cũng như ánh sáng của trời, trăng
Phá trừ tăm tối thường thanh tịnh
Tâm họ trong sáng cũng như vậy
Nhờ trì tịch định Ly cấu này.
Như người cầm nắm các màu sắc
Vẽ lên hư không, không thể được
Người ấy tâm tịnh như hư không
Nhờ trì tịch định Ly cấu này.
Giống như gió thổi khắp mười phương
Du hành các cõi không đắm trước
Tâm họ du hành giống như gió
Không nhiễm thế gian được giải thoát.
Gió thổi mau chóng không thể thấy
Không bị lưới giăng, không trói buộc
Chí ý người ấy sâu khó thấy
Nhờ trì tịch định ly cấu này.
Ảnh hiện trên vách không thể nắm
Bóng hiện trong nước làm sao cầm
Khi thân đạt được Tam-muội này
Không ai biết được tâm người ấy.
Chúng sinh trong mười phương thế giới
Bao nhiêu lời nói vẫn tính được
Khi thân đạt được Tam-muội này
Không ai biết được tâm người ấy.
Đạt được định tịch diệt như vậy
Tâm họ không cấu, không nhiễm trước
Chúng sinh ba cõi không ai bằng
Chỉ trừ chư Phật, Tam giới tôn.
Lìa tham ái dục, không nhiễm sắc
Không bị tâm ngu đắm nữ nhân
Khi đạt được thắng định như vậy
Chứng thắng tịch diệt, không ô nhiễm.
Đối với nam, nữ không luyến ái
Không nhiễm vợ con và quyến thuộc
Khi đạt được thắng định tịch diệt
Tu hành thiện tịch không đắm nhiễm
Đối với của cải không tham đắm
Không mong sinh Thiên, không tiếc của
Tâm ấy thanh tịnh không vọng tưởng
Do được định này, nhiều lợi ích.
Không vì sinh Thiên, tu phạm hạnh
Người trí bố thí không mong báo
Chỉ vì Bồ-đề tu phạm hạnh
Nhờ được tịch định Ly cấu vậy.
Không cầu ngôi vua, tu giới hạnh
Nhiều người do đó tu phạm hạnh
Vì lợi chúng sinh cầu Bồ-đề
Dốc lòng thành tựu định này vậy.
Đã bỏ các dục, tâm không não
Hằng không mong cầu việc dâm dục
Đoạn trừ dâm dục và cao mạn
Do đạt được tịch định như vậy.
Họ thường không bị sân nhuế hại
Uế tâm sân não không hề sinh
Thường dùng lòng Từ trừ sân hận
Nhờ được thắng tịch định như vậy.
Họ thường không bị ngu che tâm
Chính nhờ trí tuệ đoạn vô minh
Đạt được vô lượng vô ngại trí
Đạt được lợi ấy nhờ định này.
Dùng quán bất tịnh trừ ái dục
Tâm Từ trừ sạch hết lòng sân
Trí tuệ đoạn trừ lưới vô minh
Được diệu định này soi thế gian.
Không có ngủ nghỉ và giải đãi
Không khởi phiền não và sân hận
Hằng được giải thoát không tạp uế
Được Tam-muội ấy có lợi này.

Không bị xan tham làm bức não

Tâm thường ưa thích việc tuệ thí
Xả bỏ tất cả, ban niềm vui
Nhờ người ấy hay trì Tam-muội.
Đầy đủ oai thế không ai bằng
Tất cả thường có lực đại thân
Tất cả thế gian không ai bằng
Nhờ Bồ-tát trì thắng định ấy.
Cũng lại hay làm vua Chuyển luân
Đầy đủ bảy báu, đi trên không
Lúc đó tất cả đều quy phụng
Bậc trí tuệ ấy được quả này.
Sinh nhà hào quý, hiền tối thắng
Của cải quyến thuộc đều giàu có
Voi ngựa, xe cộ cùng xe báu
Vàng bạc dồi dào đủ các báu.
Hằng sinh quý tộc nhà giàu có
Lần lượt như vậy sinh chỗ tốt
Với Phật, Pháp, Tăng càng tin thích
Sinh ở đâu người cũng kính yêu.
Người không tín tâm ở Diêm-phù
Thảy đều làm cho sinh chánh tín
Khiến cho kiến lập tâm Bồ-đề
Cũng lại khiến họ được đạo quả.
Họ được Vô thượng Bồ-đề rồi
Chuyển nói vô thượng diệu pháp luân
Nếu ai biết được pháp họ thuyết
Thảy đều đạt được Nhẫn vô sinh.
Bồ-tát thường hành tâm từ ái
Đều hay trưởng dưỡng các chúng sinh
Hằng làm vô lượng thắng lợi ích
Mở mắt chúng sinh, trừ tăm tối.
Nếu Phật dạy dỗ một Bồ-tát
Vô lượng trăm ngàn ức chúng sinh
Đã trồng gốc thiện ở trong đó
Nghe xong liền phát tâm Bồ-đề.
Quốc độ lúc ấy chẳng luống qua
Vì bậc trí phụng trì Phật pháp
Phật tử Bồ-tát tùy chỗ ở
Lợi ích vô lượng các chúng sinh.
Hộ giới vô đẳng trì phạm hạnh
Trong vô lượng kiếp tịnh Tam muội
Với thiền giải thoát thường quyết định
Bồ-tát như vậy là Phật tử.
Họ thường tu tập thắng thần túc
Hay đến vô lượng các cõi Phật
Đã nghe chánh pháp nơi Như Lai
Tùy chỗ nghe được đều nhớ nghĩ.
Nếu có Bồ-tát trụ Tổng trì
Hay nói vô lượng Tu đà-la
Lại biết các chúng sinh quá khứ
Vị lai, hiện tại cũng như vậy.
Hiểu rõ sinh tử các hàm thức
Cũng lại liễu đạt sự vị lai
Không ai từ đó hướng theo kia
Tìm hiểu đôi phần cũng không được.
Một khi nghiệp chưa đến
Tìm cầu cũng khó được
Bồ tát đại danh xưng
Có thể hiểu rõ nó.
Bậc tâm tịnh tối thắng
An trụ nơi không tịch
Nhờ Đại thừa vô lượng
Chuyên chở các phẩm hạnh.
Họ không thể nhớ nghĩ
Còn có chúng sinh tưởng
Bậc đại danh dự ấy
Hãy ngộ pháp vô sinh.
Dù vị ấy có nói
Không chấp chúng sinh tưởng
Ngộ được cảnh giới không
Trụ nơi trí kiên cố.
Nói rõ Tam-muội này
Chỗ trụ của Phật pháp
Không khởi nơi tư tưởng
Là các nam và nữ…
Quán sát các người nữ
Mà ngồi nơi đạo tràng
Đã ngồi nơi đạo tràng
Phá hoại các ma quân.
Nơi ma không chỗ thấy
Hàng phục các ma quân
Không thấy ma nữ đến
Mà đến nơi ngã sở.
Khi ngồi ở đạo tràng
Trừ sạch tất cả tưởng
Nhờ đoạn tất cả tưởng
Chấn động khắp đại địa.
Tu di và biển cả
Mười phương cũng như vậy
Nơi mười phương cõi ấy
Đều biết chúng sinh đó.
Thần thông lực Bồ-tát
Chấn động nơi đại địa
Khi chấn động sáu cách
Thì chứng đạo Bồ-đề.
Tất cả pháp hữu vi
Cùng với pháp vô vi
Pháp ấy đều liễu đạt
Chỉ có tiếng thuyết pháp.
Không có ai biết được
Đó là đạo chư Phật
Nếu ai biết đạo này
Gọi là Thế Gian Giải.
Vì nhân duyên pháp sinh
Vì nhân duyên pháp diệt
Thể tánh của nhân duyên
Đều thấu rõ như thật.
Nếu học tất cả pháp
Hiểu pháp không rốt ráo
Liền biết đạo các pháp
Cùng tận tất cả pháp.
Vị ấy hành pháp đạo
Bồ-tát cầu không được
Vị ấy biết đạo này
Chánh giác chẳng nghĩ bàn.
Nếu biết tất cả đạo
Liền đạt được cứu cánh
Xa lìa nơi ác đạo
Rõ biết tướng các pháp.
Đã ngồi nơi đạo tràng
Rống tiếng Đại sư tử
Vô biên ức thế giới
Ngôn âm đều trùm khắp.
Lại rung động cõi ấy
Thế Hùng Đại Danh Xưng
Khéo độ các chúng sinh
Là Thánh Điều Ngự Sĩ.
Đã chứng Thượng Bồ-đề
Dưới cội cây Bồ-đề
Vô lượng ức chúng sinh
Người đáng độ đã độ.
Sau đó mới biến hóa
Hóa thành vô biên Phật
Đi đến các cõi Phật
Lợi ích các chúng sinh.
Chư Phật hay an lập
Vô lượng ức chúng sinh
Các Như Lai ứng hóa
Để thuyết pháp tối thắng.
Đó là chân Đại thừa
Gọi là trí Như Lai
Khởi tín cho chúng sinh
Để làm nhân thành Phật.
Đó là chân Đại thừa
Như Lai Tối diệu thừa
Cung kính Đức Như Lai
Càng cung kính Bồ-tát.
Càng cung kính chư Phật
Với Pháp, Tăng cũng vậy
Muốn chứng thắng Bồ-đề
Tâm ấy không hạ liệt.
Kính phụng các Bồ-tát
Tôn trọng Bậc dũng mãnh
Mau được lên Chánh giác
Không lâu thành Như Lai.
Ở trong ngàn thế giới
Bồ-tát đều đi đến
Thấy được Bậc Mâu-ni
Bồ-tát không sợ hãi.
Dùng các vật quý báu
Rải cúng Bậc Đại Hùng
Cùng với Mạn-đà-la
Vì vui cầu Bồ-đề.
Trang nghiêm nơi pháp giới
Để cầu công đức Phật
Lưới báu dùng để che
Cùng khắp cả mười phương.
Treo các phướn thắng diệu
Dựng ức cờ lọng báu
Vô lượng thứ trang nghiêm
Trang hoàng nơi thế giới.
Biến làm đài gác đẹp
Và dùng cung điện đẹp
Hành lang rất tráng lệ
Các báu vật xen kẽ.
Cửa lầu và cung thất
Đều làm hình bán nguyệt
Với bình bằng tạp hương
Đều dùng ngọc báu chế.
Vô số các lò hương
Đều tỏa đài mây đẹp
Ở trong ngàn thế giới
Hương xông rất đáng ưa.
Nơi ấy mây hương khắp
Mưa thứ mưa hương hoa
Nếu có ai ngửi được
Thành Phật Đại Đạo sư.
Liền bỏ gai ái dục
Cũng trừ bỏ sân não
Đập nát lưới si mê
Xa lìa các tăm tối.
Đạt được thắng thần thông
Cùng với Căn, Lực, Giác
Các Thiền cùng giải thoát
Đáng thọ của tín thí.
Trải ra ức sàng tọa
Dùng diệu y rải khắp
Lưới báu che lên trên
Dùng vòng hoa trang nghiêm.
Các Bồ-tát vô úy
Đại sĩ dũng mãnh ngồi
Thân đủ tướng trang nghiêm
Đầy đủ các vẻ đẹp.
Dùng các giường ngọc báu
Trang nghiêm ở cõi này
Biến làm các ao hoa
Đầy nước tám công đức.
Nếu ai uống nước ấy
Xa lìa các hiểm nạn
Mau xa lìa khát ái
Là phước đức thế gian.
Lại có thế giới khác
Đại sĩ đến tập hội
Khen ngợi công đức Phật
Đạo sư Thích Sư Tử.
Nếu ai được nghe tiếng
Hay thành Thế Đạo Sư
Được sự chẳng nghĩ bàn
Hay hiển thị kinh này.
Hoa sen vàng sắc đẹp
Cả ức cánh tròn đủ
Bậc Diệu Giác tối tôn
Ngồi đài hoa sen ấy.
Cành lá bằng lưu ly
Nhụy hoa bằng vàng ròng
Giữa, ma-ni đức tạng
Biến làm hằng ức hoa.
Tỏa ra các hương thơm
Người ngửi đều ưa thích
Diệt trừ tất cả bệnh
Sáu căn đều hoan hỷ.
Tham ái và sân si
Một lúc đều sạch hết
Đã trừ các phiền não
Quyết định được thành Phật.
Hoa này phát tiếng hay
Tán thán công đức Phật
Cùng với Pháp và Tăng
Tiếng lan khắp mười phương.
Không môn và Vô tướng
Và dùng pháp Vô nguyện
Các chúng sinh nghe xong
Đều được quả không thoái.
Các âm thanh phát ra
Lan đến ức thế giới
Vô lượng chúng nghe được
Liền phát tâm Bồ-đề.
Hồng hạc và Khổng tước
Anh võ và Uyên ương
Phát ra tiếng thật hay
Âm thanh Phật tối thượng.
Dùng cây báu thắng diệu
Biến hiện nơi cõi này
Đoan nghiêm tối đệ nhất
Treo vòng ngọc khắp nơi.
Đầy đủ sự trang nghiêm
Tất cả các cõi Phật
Trong đó rất thù thắng
Hiện ra ở cõi này.
Đầy y báu, anh lạc
Treo cây, các âm nhạc
Hoa đẹp khiến tâm vui
Tất cả luôn tung rải.
Các diệu trang nghiêm này
Chúng sinh được an lạc
Chỗ Thích-ca trụ trì
Do thần lực của Thánh.
Chỉ lược nói như vậy
Công đức Thích Sư Tử
Bồ-tát đại danh xưng
Nơi trí ấy không nghi.
Nếu ai sinh tín tâm
Hạnh ấy chẳng nghĩ bàn
Tăng trưởng nơi trí tuệ
Như sông đổ ra biển.
Muốn biết lượng biển cả
Ai biết số bao nhiêu
Ta nói pháp Bồ-tát
Đều là chẳng nghĩ bàn.
Các Bồ-tát khó nghĩ
An trụ như cõi này
Diễn thuyết lời mỹ diệu
Giống như cát sông Hằng.
Trong vô lượng các kiếp
Bồ-tát thường không chấp
Nếu đoạn trừ chấp tướng
Được gần gũi Bồ-đề.
Giả sử pháp diệt tận
Vẫn không hủy tịnh giới
Nơi hạnh không tàn hại
Đứng đầu chúng Bồ-tát.
Chính là do ái dục
Khiến giới bị khuyết lậu
Đoạn trừ nơi dục tướng
Đạt được định không thoái.
Thường hành định tịch diệt
Không đắm mùi vị định
Không chấp, không phóng dật
Không bị ô nhiễm đời.
Vượt lên trên thế gian
Hay đến các nước Phật
Gọi là An lạc quốc
Được thấy Phật Di-đà.
Lại thấy các Bồ-tát
Đầy đủ tướng trang nghiêm
Đến bờ thần thông ấy
Môn Tổng trì cứu cánh.
Du hành ức thế giới
Đầu mặt lạy chân Phật
Lại hay chiếu ánh sáng
Vô lượng các cõi Phật.
Để trừ các tai hoạn
Và phá các phiền não
Đoạn trừ các trói buộc.
Nhất sinh bổ xứ Phật.
An lạc các chúng sinh
Mãi không đọa ác đạo
Các chúng sinh cõi ấy
Đoạn trừ các ác đạo.
Phật Di-đà cứu hộ
Tu trì thế giới Phật
Tu tập không phóng dật
Số kiếp chẳng nghĩ bàn.
Các ngươi chớ hoài nghi
Sức tự tại Phật ấy
Hay sinh tín tăng thượng
Mau được sinh cõi ấy.
Người nữ nghe tán thán
Hay sinh tín tăng thượng
Được chuyển thân nam tử
Hãy đến ức cõi Phật.
Na-do-tha ức cõi
Bao nhiêu vật cúng dường
Đều cúng tất cả Phật
Không bằng một phần Từ.
Thường tu hành giới định
Vô lượng thiền giải thoát
Tu ba môn giải thoát
Mau thành Nhân Trung Thượng.
Trong đời ác mạt pháp
Nếu Bồ-tát trì giới
Cúng Phật, thường từ bi
Cúng ấy là tối thắng.
Người này cúng chư Phật
Quá khứ và hiện tại
Bậc Tối Thắng vị lại
Người trì giới đời ác.
Mười phương Phật đều thấy
Bồ-tát đời mạt pháp
Hộ trì cấm giới Phật
Người lành hay hộ pháp.
Người nữ nghe khen cõi Phật kia
Nếu sinh ý tín lạc tăng thượng
Liền được thân nam tử thông tuệ
Hay du hành đến ức cõi Phật.
Trong na do-tha ức cõi Phật
Có bao nhiêu thứ cúng dường Phật
Đều đem hết cúng dường chư Phật
Không bằng phần nhỏ của tâm Từ.
Tu trì giới cấm và Tam-muội
Tu tập các Thiền bốn Vô lượng
Cũng tu ba thứ môn giải thoát
Mau chóng thành tựu Thế Vô Thượng.
Cúng dường chư Phật thường thương thân
Như cúng Phật này, đời khó sánh
Nếu có Bồ-tát không bỏ giới
Vào thời ác thế đời sau cùng.
Người này cúng dường tất cả phật
Chư Phật quá khứ và hiện tại
Cùng với Bậc Tối Thắng vị lai
Người trì cấm giới đời ác thế.
Chư Phật mười phương thấy người ấy
Nếu Bồ-tát đời sau ác thế
Trì giới thanh tịnh Phật ngợi khen
Đó là đệ tử hay hộ pháp.

Bấy giờ Đức Phật bảo Đồng tử Nguyệt Quang:

–Vào thời quá khứ, vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp lâu xa, lúc ấy có Đức Phật hiệu Thanh Đức Như Lai, bậc Ứng Cúng,

Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Này Đồng tử! Như Lai Thanh Đức ấy an trí vô lượng chẳng thể nghĩ bàn số chúng sinh hướng về quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, khiến cho chúng trời, người tu theo hạnh Phật, sau đó nhập Vô dư Niết-bàn.

Này Đồng tử! Lúc đó có vị vua tên là Đức Âm. Vị vua ấy vào lúc sau khi Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri nhập Niết-bàn, vì để cúng dường Đức Như Lai Thanh Đức nên lập tám mươi bốn ngàn vạn ức tháp. Trước mỗi tháp thắp trăm ngàn vạn na-do-tha đèn sáng, dùng tất cả kỹ nhạc, hương hoa vòng hoa báu, hương xoa hương bột, lại dùng tất cả y phục, lọng báu, tràng phan đặt ở trước tháp để cúng dường chư Phật Như Lai.

Bấy giờ vua Đức Âm, ở chỗ tháp xá-lợi của Như Lai cúng dường xong, vì cúng dường tất cả nhạc cụ cho tám mươi trăm ngàn vạn ức na-do-tha chúng Đại Bồ-tát tập hội. Các Bồ-tát này đều là bậc Đại Pháp sư, khéo hay thuyết pháp, được vô lượng biện tài, khéo hay thị hiện vô lượng các pháp công đức chân thật.

Này Đồng tử! Bấy giờ ở trong chúng có một Tỳ-kheo tên là An Ẩn Đức, ngồi ở trong hội ấy, tuổi còn rất trẻ, mặt đẹp tóc đen, trụ trong hạnh đồng chân hiền diệu, chưa từng hưởng thọ thú vui sắc dục, mới thọ cụ giới đầu mùa hạ.

Này Đồng tử! Bấy giờ vua Đức Âm thỉnh chúng Đại Bồ-tát vì muốn đầy đủ sáu pháp Ba-lamật Bồ-tát tạng đại Đà-la-ni, phương tiện thiện xảo, tự tại vô ngại. Cho nên vào lúc nửa đêm, thỉnh chúng đại Bồ-tát, ở trước Đức Phật để làm pháp hội.

Khi ấy, trăm ngàn vạn na-do-tha ngọn đèn đều được thắp sáng, quét dọn nhà cửa, rải các thứ hoa, trải các y đẹp. Bấy giờ, vua Đức Âm cùng với cung phi, hoàng hậu thể nữ, ở hậu cung và các phụ tướng, dân chúng và các quyến thuộc ở thành ấp, dùng các kỹ nhạc, cầm nắm hương xoa, hương bột, tràng hoa, y phục, tràng phan, bảo cái đều đem đến cúng dường tháp Phật. Khi cúng dường xong, vua cùng với tám vạn cung nhân đều lên điện cao để nghe pháp.

Bấy giờ có vô lượng trời, người đến tập hội để nghe pháp. Khi ấy Tỳ-kheo An Ẩn Đức thấy trăm ngàn ức đèn cháy, chiếu sáng nơi nơi, nhìn thấy đại chúng hội, liền nghĩ rằng: “Ta cũng tu theo Đại thừa, mong cầu Tam-muội tất cả pháp thể tánh bình đẳng không hý luận. Nếu nay ta muốn được Tam-muội này, ta phải cúng dường tháp miếu của Đức Phật ấy. Nay ta nên làm sự cúng dường như vậy, khiến cho chúng Trời, Người, A-tu-la... sinh ra ý tưởng kỳ lạ, vui mừng nhảy nhót được ánh sáng pháp, khiến cho vật cúng dường của ta chiếu sáng, che khuất những vật cúng dường của vua ấy, làm cho nhà vua và các cung nhân quyến thuộc của vua thấy ta cúng dường thảy đều hoan hỷ.”

Bấy giờ Bồ-tát An Ẩn Đức thấy đại chúng đứng ở trước tháp để nghe pháp, rồi liền ngay đêm đó ở trước tháp Phật lấy y quấn vào tay phải và lấy dầu xoa rồi đốt lên để cúng dường Phật.

Khi ấy Bồ-tát An Ẩn Đức, trụ nơi đức tin tăng thượng vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên đã đốt tay bên phải mà tâm vẫn bất động, nhan sắc không thay đổi.

Này Đồng tử! Lúc Tỳ-kheo An Ẩn Đức đốt cánh tay thì đại địa chấn động, ánh sáng chiếu khắp vô lượng trăm ngàn, làm cho các ngọn đèn không còn chiếu sáng, vì ánh sáng của cánh tay đốt cháy chiếu khắp mười phương.

Bấy giờ Bồ-tát An Ẩn Đức hết sức vui mừng nơi Tam-muội tất cả pháp thể tánh bình đẳng không hý luận, dùng ngôn từ lời lẽ biện chánh, mỹ diệu, hòa nhã mà ca tụng, khiến cho các đại chúng thảy đều nghe rõ.

Khi ấy ở trong chúng, một vạn hai ngàn Thiên tử của cung trời Đao-lợi sinh tâm hoan hỷ bày các thứ cúng dường, đều đến hội này để nghe pháp.

Bấy giờ vua Đức Âm ở trên lầu cao cùng với cung phi hoàng hậu, thể nữ ở hậu cung, thấy Tỳkheo An Ẩn Đức thiêu cánh tay phải, lửa hồng chiếu khắp mười phương, thấy rồi trong tâm suy nghĩ: “Tỳ-kheo này chắc đã có thần túc mới hiện sự thần biến hy hữu như vậy nên đối với thân mạng không hề luyến tiếc.”

Khi ấy vua Đức Âm thấy Tỳ-kheo An Ẩn Đức có sự thần biến như vậy nên tâm sinh yêu mến, đem tâm tịnh tín và sức thiện căn đã huân tập của chính mình, cùng với hoàng hậu, cung phi tám vạn thể nữ, từ lầu cao ngàn tầm phóng mình xuống đất, vì muốn ra mắt Tỳ-kheo Bồ-tát này. Nhờ sức thiện căn cung kính nên được quả báo hiện tại, liền được Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Calâu-la, Ma-hầu-la-già hộ trì không để rơi xuống. Nhờ lực hộ trì của Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thátbà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Ma-hầu-la-già vậy nên vua Đức Âm và hậu phi, thể nữ, tuy rơi từ điện cao mà thân tâm vẫn không bị tổn thương, không mệt không sợ.

Khi ấy vua Đức Âm, hai tay ôm cánh tay của Tỳ-kheo mà khóc lóc, kêu gào, tất cả đại chúng cũng lại như vậy. Vì họ thấy Tỳ-kheo An Ẩn Đức đốt cánh tay trông như vòng hoa Chiêm-ba. Cánh tay ấy lại nhỏ dài giống như mũi của voi chúa. Tất cả mọi người thấy rất kỳ lạ, nên không ai mà không than thở, khóc lóc, rơi lệ.

Bấy giờ Tỳ-kheo An Ẩn Đức thấy vị Đại vương này cùng với mọi người thảy đều buồn khóc, áo não, nên nói với vua:

–Này Đại vương! Tại sao lại buồn bã rơi lệ và mọi người đều khóc lóc như thế?

Khi ấy vua Đức Âm dùng bài kệ để trả lời:

Đại trí An Ẩn Đức
Thông tuệ, Pháp sư giỏi
Thấy ngài đốt thân phần
Vì vậy nên buồn khóc.
Dung nhan ngài đoan trang
Giống như đống lửa cháy
Thấy ngài hủy thân phần
Nên tôi càng sầu não.
Khi ngài đốt tay phải
Chiếu sáng mười phương cõi
Che khuất ánh các đèn
Sao, trăng cũng không hiện.
Đại địa đều chấn động
Tâm ngài không lay động
Tâm tôi càng cung kính
Biết ngài bậc siêu phàm.
Trên điện cao ngàn thước
Cùng tám vạn cung nhân
Chính tôi tự nhảy xuống
Toàn thân chẳng hề gì.
Lành thay! Bậc Tịnh trí
Lành thay! Ý vô thượng
Lành thay! Bậc Tinh tấn
Lành thay! Bậc Đại tín.
Lúc ngài đốt cánh tay
Tâm ngài không lay động
Đã phát tâm hoan hỷ
Lại còn nói diệu pháp.
Giống như mặt trăng rằm
Như mặt trời trên không
Như núi chúa Tu-di
Đoan nghiêm cũng như vậy.
Tôi phát nguyện như vậy
Đầy đủ đại tinh tấn
Nên bỏ thân luyến ái
Vì lợi ích chúng sinh.
Yêu pháp nên thương khóc
Vui mừng được vô cấu
Ngài đã hủy thân thể
Nên tôi rất buồn rầu.
Trời người đã cúng dường
Vô biên thắng biện tài
An Ẩn Đức bảo vua
Liền nói bài kệ này:
Chẳng vì thân không tay
Gọi là thân khiếm khuyết
Nếu ai không trì giới
Gọi là thân khiếm khuyết.
Dùng thân xú uế này
Tôi cúng dường Như Lai
Phước điền khó nghĩ bàn
Thắp tất cả thế gian.
Ba ngàn cõi có người
Bảy báu nhiều như cát
Ở chỗ Phật Thế Tôn
Vì Bồ-đề nên thí.
Tuy có việc cúng thí
Cúng pháp lại cao hơn
Nếu ai biết pháp không
Mới xả bỏ thân mạng.
Nay tôi nói lời thật
Xin Đại vương lắng nghe
Cùng với chúng hội này
Tất cả nghe tôi nói.
Nếu tôi quyết định rõ
Được thành Bậc Vô Thượng
Thật như vậy không dối
Mặt đất sáu chấn động.
Khi nói lời này rồi
Đại địa liền chấn động
Thấy việc hy hữu ấy
Chư Thiên rất hoan hỷ.
Trời, người vui mừng xong
Liền phát tâm Bồ-đề
Chúng vô lượng khó nghĩ
Đều hướng Vô thượng trí.
Tỳ-kheo An Ẩn Đức
Lợi ích tất cả chúng
An trí ức chúng sinh
Nơi trí Phật vô thượng.
Dùng lời thật pháp này
Biết nó đều không thật
Lời ấy nếu không dối
Tay tôi lành như trước.
Nếu thấy pháp này thật
Tên An Ẩn cũng không
Tìm kiếm khắp mười phương
Vì không bất khả đắc.
Các pháp như tiếng vang
Tiếng phát ra trong ấy
Tìm tiếng không thể có
Biết các pháp như vậy.
Người liễu đạt cứu cánh
Nơi không, không sợ sệt
Người ấy nói chân thật
Tướng lửa không thể đốt.
Các chúng sinh thế gian
Trời, Người, Dạ-xoa, Rồng
Oai lực Nhất thiết trí
Đều khiến ngộ tịch định.
Hoặc người hoặc là trời
Bao khổ nạn thế gian
Oai đức không thoái chuyển
Tất cả mau hủy hoại.
Khi nói lời ấy rồi
Tay ngài lành như trước
Tỳ-kheo An Ẩn Đức
Thân tướng rất trang nghiêm.
Ngàn ức số chư Thiên
Đứng ở trên hư không
Tín tâm, dùng hoa Mạn
Rải trên thân Tỳ-kheo.
Hoa rơi cao hơn người
Lan khắp cõi Diêm-phù
Ức na-do Thiên nữ
Kỹ nhạc, các ca vịnh.
Tỳ-kheo An Ẩn Đức
Rống tiếng Đại sư tử
Bậc Như Lai Mâu-ni
Khiến hằng ức cõi Phật.
Mỗi vị ở cõi mình
Đại sĩ thanh tịnh ấy
Tỳ-kheo An Ẩn Đức
Truyền nói tên của họ.
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Nam, nữ Thanh tín sĩ
Trời, Rồng và Dạ-xoa
Càn-thát và Khẩn-la.
Họ nghe nghiệp quyết định
An Ẩn được ly cấu
Người tín tâm cầu đạo
Số lượng như hằng sa.
Tỳ-kheo An Ẩn Đức
Thông tuệ, được tự tại
Vì đối với trí Phật
Đốt tay không lo sợ.
Người ấy nơi ngàn cõi
Biến thân như hằng sa
Tay rực sáng chiếu khắp
Giống như lửa kiếp tận.
Mưa các thư hương bột
Biến khắp tất cả cõi
Rơi xuống nơi đại địa
Chư Thiên đều tập hội.
Tất cả vật cúng dường
Trang nghiêm nơi cõi này
Mặt đất đầy trân châu
Cúng dường An Ẩn Đức.
Tất cả các hoa báu
Trang nghiêm nơi cõi này
Rồng mưa trân châu đẹp
Cúng dường An Ẩn Đức.
Lại dùng tất cả báu
Trang sức nơi cõi này
Rồng mưa báu trang nghiêm
Để cúng An Ẩn Đức.
Thích Sư Tử tối thắng
Ở tại núi Kỳ-xà
Ở trước các Tỳ-kheo
Rống lên tiếng sư tử.
Ta là An Ẩn Đức
Đức Âm là Di-lặc
Trong ngàn ức kiếp ấy
Cùng tu hạnh Bồ-đề.
Khi thấy người trì giới
An Ẩn Đức, trí tuệ
Vô lượng các người nữ
Đều biến làm người nam.
Chư Phật đều thọ ký
Hoàn toàn không hồ nghi
Họ mau được thành tựu
Chứng Thế trí tự nhiên.
Nghe được kinh này xong
Nói công đức quyết định
Nơi mình không chấp trước,
Nên học pháp như vậy.

QUYỂN 8

Này Đồng tử! Do đó Đại Bồ-tát vì muốn cầu Tam-muội này nên cần phải tu thiện căn, thực hành Pháp thí, hoặc Tài thí. Nhờ sự bố thí này, dùng bốn sự hồi hướng để hồi hướng.

Những gì là bốn?

1. Phương tiện thiện xảo của chư Phật quá khứ nên chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, con cũng nguyện được phương tiện quyền xảo ấy, dùng căn lành này hồi hướng quả Bồ-đề. Đó là sự hồi hướng thứ nhất.

2. Ở chỗ Thiện tri thức nghe nói về phương tiện thiện xảo như vậy nên thọ trì, đọc tụng rồi tu học theo. Nhờ phương tiện này khiến cho con được thành tựu Bồ-đề vô thượng. Con nguyện luôn luôn được gặp Thiện tri thức và dùng căn lành ấy để hồi hướng. Đó gọi là sự hồi hướng thứ hai.

3. Con nguyện tất cả của cải có được đều cùng thọ dụng với tất cả chúng sinh và dùng căn lành này để hồi hướng. Đó gọi là sự hồi hướng thứ ba.

4. Nguyện cho thân con trong lúc sinh ra bất cứ nơi đâu được tiền của, được Pháp bảo để nhiếp hộ, lợi ích tất cả chúng sinh, con nguyện thường được thân hình như vậy và dùng căn lành này để hồi hướng. Đó gọi là sự hồi hướng thứ tư.

Này Đồng tử! Vì bốn sự hồi hướng này nên đem tất cả căn lành để hồi hướng.

Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát vì cầu Tammuội này, hoặc tại gia hay xuất gia, dùng tâm không dua nịnh quanh co, phụng sự người trì giới. Nếu ai hay trì Tam-muội này, hoặc xuất gia hay tại gia, nếu người ấy gặp kẻ bệnh khổ khốn đốn, thì đem máu thịt trong thân mình để làm cho họ hết khổ. Nếu có người thành tựu tín tâm tăng thượng, thì Bồ-tát dùng tâm bất động và tâm thanh tịnh để cấp thí cho họ.

Này Đồng tử! Về thời quá khứ a-tăng-kỳ, vô lượng vô biên không thể xưng không thể lường số kiếp rộng lớn, chẳng thể nghĩ bàn, bấy giờ có một Đức Phật hiệu là Bất Khả Tư Nghì Nguyện Thắng Khởi Vương Phật Như Lai, Ứng Cúng Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Đức Phật Như Lai Ứng Chánh Biến Tri ấy, ngay ngày hôm đó thành bậc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Phật biến ra vô lượng vô biên ứng hóa thân Chư Phật mà thuyết pháp, khéo điều phục vô lượng chúng sinh, an trí họ nơi đạo A-la-hán vô lậu, cũng lại kiến lập vô lượng chúng sinh nơi quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được không thoái chuyển. Bất Khả Tư Nghì Nguyện Thắng Khởi Vương Phật

Như Lai ấy, ngay ngày hôm đó tuổi thọ đã tận, liền nhập Vô dư Niết-bàn. Chánh pháp trụ ở thế gian tám vạn bốn ngàn ức na-do-tha trăm ngàn năm.

Này Đồng tử! Đức Phật Bất Khả Tư Nghì Nguyện Thắng Khởi Vương ấy, sau khi chánh pháp diệt, vào thời mạt thế có vô lượng Tỳ-kheo chấp kiến. Các Tỳ-kheo ấy dối với các Tu-đa-la như vậy mà không ưa, không thích, không sinh lòng tin, phỉ báng, chê bai. Nếu có ai thọ trì được những kinh như vậy, liền bị các kẻ ác ấy bức não nơi thân, buông lời chê trách, thậm chí còn bị giết chết. Các ác Tỳ-kheo ấy, vì tham đắm lợi dưỡng và sự cung kính cho nên giết chết hai vạn Tỳ-kheo thọ trì kinh này.

Này Đồng tử! Bấy giờ trong cõi Diêm-phù-đề này có một vị quốc vương tên là Trí Lực. Ông ta đã từng thọ trì chánh pháp, hộ trì chánh pháp, nguyện xưa thành tựu, đã từng ở chỗ các Đức Phật đời trước trồng các căn lành.

Này Đồng tử! Thuở xưa ở trong Diêm-phù-đề này có một vị Pháp sư tên là Thật Ý, thọ trì kinh điển Tam-muội như vậy, đi vào cung vua làm bậc Thiện tri thức. Vì có lòng đại Bi nên hay cứu tế, lợi ích và thương xót chúng sinh. Vị vua ấy rất thích gặp Tỳ-kheo này để nghe lời pháp ngữ không bao giờ chán, nên đi đến chỗ Tỳ-kheo để phụng sự, thân cận và cúng dường, thưa hỏi thỉnh vấn những điều khó nghe, nói và vua có thể thọ trì, có thể trả lời khéo léo.

Khi ấy, vị Tỳ-kheo này khéo hiểu ý nghĩa rộng rãi và tóm lược về tướng thu nhiếp oai nghi các hạnh thảy đều đầy đủ; khéo hay thông đạt về ấm, giới, các nhập; khéo biết tất cả chúng sinh về sự hòa hợp, phân ly, ly rồi lại hợp; cũng biết oai nghi, các hạnh, tập tánh ưa thích của chúng sinh; khéo biết về căn lực, tinh tấn của chúng sinh; khéo biết tập tánh trí tuệ sai biệt; khéo biết sự tương ưng, bất tương ưng, ngôn ngữ thù đáp với nghĩa quyết định, biện tài thâm diệu; cũng hay khéo biết điều phục chúng sinh, mỉm cười trước khi nói, ai thấy cũng ưa thích, xa lìa sự rối rắm, trong lòng rộng rãi, an trụ nơi tâm đại Bi tương ưng với bốn Vô lượng tâm như vậy, tất cả dị luận không thể phá hoại.

Này Đồng tử! Bấy giờ vua Trí Lực có một người con gái tên là Trí Ý, tuổi mới mười sáu, nhan mạo tuyệt vời, hình sắc thù diệu, tư dung tròn đầy, chẳng thiếu thứ gì.

Vị Tỳ-kheo Thật Ý là Đạo sư của vua, khi ấy, tứ đại của Tỳ-kheo này không được điều hòa, trên đầu gối chân mặt của Tỳ-kheo sinh một cái mụt đen nguy hiểm, khó trị cho lành, tất cả thầy thuốc đều bó tay. Khi ấy vua Trí Lực thấy vị Tỳ-kheo bị bệnh rất khốn khổ, sợ vị này bị chết nên khóc lóc rơi lệ. Các cung phi, hoàng hậu và tám vạn thể nữ cùng nhân dân trong thành ấp của nước, thái tử, các quan, quân chúng, tướng soái, lính giữ cửa và nô tỳ đi theo hai bên vua và đại chúng khác, thấy Tỳkheo này thảy đều khóc lóc.

Này Đồng tử! Bấy giờ vua Trí Lực trước đây có người thân quyến mạng chung được sinh lên trời, trong giấc mộng hiện ra khuyên vua, nói rằng: –Vị Tỳ-kheo bị bệnh ấy cần phải lấy huyết tươi của đồng nữ chưa giao cấu mà rửa và thoa lên mụt, lại dùng thịt của đồng nữ ấy mà nấu canh, dùng các mùi vị trộn đều, rồi ăn với cơm thì bệnh sẽ lành. Nếu không có thứ thuốc ấy thì nhất định khó lành được.

Khi vua Trí Lực thấy mộng như vậy, thức giấc thì trời sáng, liền đứng đậy đi vào hậu cung, tập họp các cung nhân lại, nhà vua nói rõ giấc mộng ấy rằng:

–Ta thấy mộng ấy, ai là người có thể cho thuốc này cho Tỳ-kheo bị bệnh để vị Thiện tri thức này – bậc nói về thiện đạo được lành bệnh?

Này Đồng tử! Bấy giờ tất cả cung nhân thể nữ trong và ngoài đều không dám hy sinh. Lúc ấy Trí Ý, nghe vua cha nói như vậy biết Tỳ-kheo bị bệnh đó cần thứ thuốc như vậy, nên hoan hỷ nghĩ rằng: –Như lời cha ta đã nói, hiện nay thân ta chưa từng giao hợp nên đem máu thịt tươi này dâng cho

Tôn giả. Ở trong nội cung, ta là người nhỏ tuổi nhất, hết sức kính trọng vị Pháp sư A-xà-lê này, thân, khẩu, ý thanh tịnh, cầu trí vô nhiễm, nên đem máu thịt thân này dâng cho Pháp sư Vô Trước, rồi đem thịt của thân mình trộn đều với các mùi vị khác. Ta nên dâng thuốc cho Tỳ-kheo bị bệnh này để Đại sư của ta bệnh khổ tiêu trừ, bình phục như cũ.

Bấy giờ công chúa Trí Ý liền dùng dao bén, hết lòng trụ nơi pháp, cắt thịt bắp vế của mình, máu tươi chảy ra, đem thịt tươi ấy, điều hòa các vị để nấu canh thịt, dùng bát vàng đựng máu trên thân, dâng cho vua. Nhà vua cho người mời vị Tỳ-kheo bệnh vào cung, ngồi trên ghế. Trước vua cha, cô ta lấy máu rửa mụt xong, lại thoa lên mụt cho vị Tỳkheo. Công chúa lại đem thứ thịt của mình hòa với các vị ngon khác nấu thành canh; vì để được phước nên dâng cúng cho Pháp sư.

Khi ấy vị Tỳ-kheo này không biết, không hay, không nghi là có tội nên liền ăn vào. Vị Tỳ-kheo bệnh khi ăn món ăn ấy vào liền hết khổ hoạn. Bệnh khổ của Pháp sư đã hết, thân được an lạc nên vì vua Trí Lực nói diệu pháp thù thắng.

Vì cầu Tam-muội này nên khiến cho một vạn ba ngàn các thể nữ ở trong cung vua... phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ vua Trí Lực liền nói bài kệ hỏi công chúa:

Từ đâu con được thứ thuốc này
Thịt người tươi ngon và máu nóng
Để nấu canh ngon cho người bệnh
Khiến Tỳ-kheo này được an lạc.
Con bảo người nào đi giết ai
Mà được thứ thịt tươi như thế
Dùng các vị khác để hòa hợp
Lại được máu sạch để thoa rửa.
Khi Pháp sư ăn món ăn ấy
Và dùng máu tươi thoa đắp mụt
Trị lành tai hoạn ác như vậy
Khiến cho Tôn giả được vui mừng.
Nhờ vị Thiên thần bà con xưa
Nói trong mộng ta lời như vầy:
Nếu kiếm được thứ thuốc như vậy
Mới chữa được bệnh Tỳ-kheo ấy.
Phải dùng máu nóng nơi thân người
Đắp rửa mụt độc của Pháp sư
Điều hòa thịt người thật thơm ngon
Rồi dâng lên cho vị ấy dùng.
Tỳ-kheo chỉ dùng phương thuốc ấy
Bệnh hoạn lập tức được tiêu trừ
Chỉ có thuốc ấy mới cứu được
Vua nên kiếm mau chớ chậm trễ.
Ta tỉnh giấc rồi từ giường dậy
Liền vào hậu cung nói lời ấy
Tất cả cung nhân nghe nói xong
Thảy đều lo sợ đứng im lặng.
Lúc ấy ta lại bảo cung nhân
Nếu ta làm được việc như vậy
Bỏ máu thịt tươi của thân mình
Hòa quyện với các vị ngon khác.
Dùng thức ăn ấy dâng cho ngài
Lại lấy máu sạch để rửa đắp
Mụt ác tánh ấy của Tỳ-kheo
Chỉ phương thuốc ấy mới trị lành.
Nếu không dùng thứ thuốc như vậy
Để trị mụt độc của Tỳ-kheo
Pháp sư chắc chắn phải bị chết
Bởi vì không có thứ thuốc ấy.
Khi đó cung nhân nghe vậy rồi
Thảy đều im lặng không dám nói
Không ai làm được tuệ thí ấy
Phương thuốc bằng máu thịt như vậy.
Cho đến tất cả người ba cõi
Đều không thể bỏ thịt thân mình
Trong cung, lời ta đã vang khắp
Im lặng không một ai hưởng ứng.
Lòng ta kính trọng Tỳ-kheo này
Mọi người ai cũng yêu thân mình
Bởi họ luyến tiếc thân của họ
Không thể cắt bỏ máu thịt mình.
Lành thay! Con kiếm thuốc ở đâu
Khi ta nghe rồi tâm hoan hỷ
Nghe cha tôn trọng lời thắng diệu
Tâm vua dũng mãnh không khiếp nhược.
Đồng nữ Trí Ý thưa cha rằng:
Mong cha lắng lòng nghe con nói
Nhờ không ái luyến thân của mình
Cũng không chấp trước nơi ngã tưởng
Nên mới dũng mãnh bỏ thân mình
Để cầu Vô thượng Bồ-đề vậy.
Cúi mong vua cha lại lắng nghe
Muốn kiếm thịt người không thể có
Nên con liền cắt thịt đùi mình
Điều hòa các vị dâng Pháp sư.
Không giết người khác chẳng tử thi
Cắt thân để làm lợi ích lớn
Tỳ-kheo đã được hết bệnh khổ
Con cũng sẽ được vô lượng phước.
Vua liền hỏi: Khi con cắt thân
Không thể chịu nỗi khổ bức bách
Con mau đem thuốc đắp vết thương
Chớ để thân mình bị thống khổ.
Nghe lời vua cha, xót lòng nói:
Cúi mong Đại vương hãy lắng nghe
Nghe ân sâu ấy hành chánh pháp
Nghiệp quả như vậy chẳng nghĩ bàn.
Con nghe cha nói lời vị trời
Nên không luyến tiếc thân mạng mình
Dùng tâm tín kính mà dâng cúng
Cho nên tự cắt máu thịt tươi.
Đem thân thể mình làm lợi ích
Để trừ bệnh độc của Tỳ-kheo
Nay con đã được vô lượng phước
Đổi thân mong manh lấy thân chắc.
Công chúa lại nói lời như vầy:
Cúi mong phụ vương lại lắng nghe
Nghe được thật pháp nguyện thọ trì
Quán nghiệp quả ấy chẳng nghĩ bàn.
Thuở xưa đã tạo nghiệp bất thiện
Chúng sinh do si đọa ác đạo
Thịt thân tiêu hết lành trở lại
Cho nên nghiệp báo khó nghĩ bàn.
Ban đầu chỉ có xương cốt tiêu
Nháy mắt thịt thân hiệp trở lại
Huống lại tạo tác các nghiệp thiện
Tùy tâm mong muốn đều toại nguyện.
Tuy cắt thịt thân không thấy đau
Vết thương chảy máu cũng không khổ
Nếu khi cắt đứt cả thân phần
Nhờ trụ nơi pháp nên không đau.
Con rất yêu thích nơi chánh pháp
Cho nên cắt thịt để hiến dâng,
Tất cả hữu vi giống như mộng
Vết thương lành lại giống như xưa.
Giống như hoa Ưu-đàm-bát-la
Trải vô lượng kiếp mới xuất hiện
Pháp sư Tỳ-kheo cũng như vậy
Cõi Diêm-phù-đề một lần thấy.
Chói sáng như đống vàng Diêm-phù
Có ai ngắm nhìn mà thấy chán
Pháp sư thật ý cũng như vậy
Trời, người chiêm ngưỡng không biết chán.
Ví như uống được ly nước mát
Liền hết nóng bức vì khát nước
Pháp sư Tỳ-kheo cũng như vậy
Tiêu trừ khát ái cho chúng sinh.
Con đem thịt mình dâng Pháp sư
Và thí máu tươi nơi thân mình
Trừ khổ tứ đại của Pháp sư
Những điều con làm Phật khen ngợi.
Bậc Thánh thành tựu đức tương ưng
Và trụ vào định tối thắng ấy
Con đã cúng dường Tỳ-kheo kia
Mong phước thiện này được thành Phật.
Như hương thơm phức thật đáng yêu
Hương tùy thuận thời hơn chiên-đàn
Diệu hương xông khắp đâu cũng có
Người trì giới định cũng như vậy.
Giống như Tu-di rất đoan nghiêm
Chiếu khắp mười phương thật khả ái
Rực sáng mặt đất và hư không
Pháp sư trì giới cũng như vậy.
Nếu ai thanh tịnh và tin thích
Xây dựng bảo tháp rất thắng diệu
Lại có người khác đến cúng dường
Người tạo càng thêm phước tối thắng.
Pháp sư thuyết pháp cũng như vậy
Con nhờ tịnh tâm được an ổn
Bỏ thịt, máu tươi của thân mình
Nay con đã tạo tháp Chánh pháp.
Nếu có tháp miếu sắp đổ nát
Bậc trí gìn giữ không lay động,
Nếu có người đến cúng dường tháp
Khiến cho người ấy được thắng phước.
Tỳ-kheo biết tháp pháp cũng vậy
Con dùng thuốc hay trị bệnh ngài
Ngài hay diễn thuyết pháp thắng diệu
Dẫn chúng sinh đến đạo Vô thượng.
Nếu như Tỳ-kheo Pháp sư chết
Pháp ấy làm sao mà được nghe?
Phụ vương nên biết Tỳ-kheo chết
Liền mất đi Tam-ma-đề này.
Pháp sư cũng như đèn tịnh diệu
Trị lành phiền não của chúng sinh
An trụ Tam-ma-đề rộng lớn
Cứu tế chúng sinh trong đường ác.
Việc làm Tỳ-kheo không thể lường
Thường luôn an trụ tâm rộng lớn
Đã khéo học cú nghĩa quyết định
Các dị luận không thể phá hoại.
Ở trong vô lượng ức số kiếp
Vĩnh viễn không còn thọ thân nữ
Như Phật đã nói phải kính pháp
Con đã cung kính vị Pháp sư.
Thế giới Phật ấy như hằng sa
Đầy khắp vật báu dâng Như Lai
Nếu ai tịnh tâm cúng ngón chân
Phước này hơn kia rất tối thắng.
Như vậy nữ nhân sau khi chết
Liền được trông thấy ngàn ức Phật
Ở chỗ Phật ấy được xuất gia
Thọ trì Thắng Tam-muội như vậy.
Ở chỗ chư Phật Lưỡng Túc Tôn
Cho đến sau khi Bát-niết-bàn
Tất cả như vậy thường xuất gia
Phật tử thanh tịnh không ô nhiễm.
Cũng ở chỗ Như Lai Đăng Minh
Trong pháp Phật đó tu phạm hạnh
Lúc đó con được chuyển thân nữ
Làm Đại Pháp sư nói thắng pháp.
Vua Trí Lực ấy là Di-lặc
Thường luôn dũng mãnh hộ trì pháp
Pháp sư chính là Phật Nhiên Đăng
Vương nữ thuở xưa là thân ta.
Hay bỏ thân mình không luyến tiếc
Công đức cúng dường Bậc Tự Tại
Luôn luôn xa lìa tâm siểm khúc
Để cầu được Tam-muội như vậy.
Thấy Tỳ-kheo ấy bị bệnh khổ
Lúc đó bao nhiêu người khóc lóc
Tất cả thảy đều được không thoái
Rốt ráo xa lìa các đường ác.
Người ấy không còn các phiền não
Xa lìa hủy báng và bệnh khổ
Đầy đủ năm căn không tàn khuyết
Tâm cũng không có các ưu sầu.
Tất cả đều đoan nghiêm thù diệu
Công đức oai thần thường chiếu sáng
Ba hai tướng, trăm phước trang nghiêm
Đều nhờ cúng dường người bệnh vậy.
Ở trong pháp ta đều xuất gia
Vào thời mạt thế sau cùng này
Nếu thọ trì tạng Chánh pháp ta
Họ sẽ được thấy ngàn ức Phật.
Thọ trì cung kính pháp của ta
Đó là nhiếp trì giống Bồ-đề
Lợi ích rộng rãi các chúng sinh
Sẽ thấy được Đức Phật A-súc.
Nghe ta hành hạnh Thắng Bồ-đề
Liền đạt được điều Thánh mến yêu
Tất cả việc trang nghiêm thuở xưa
Dâng hiến cúng dường các Như Lai.
Tỳ-kheo đa văn trì cấm giới
Thấy rồi tịnh tâm mà phụng sự
Lại hay xa lìa các sân, mạn
Hằng làm phước lớn thật tối thắng.
Xa lìa tất cả sân, mạn rồi
Cúng dường con ta, người hộ pháp
Vô lượng ức kiếp lìa tăm tối
Quyết không đọa vào các ác đạo.
Tâm tranh tụng phải đọa ác đạo
Tuy trì cấm giới và đa văn
Cúng dường chư Phật rộng bố thí
Yên tịnh thiền định chẳng ích gì.

Bấy giờ, Trưởng lão A-nan từ tòa đứng dậy bày áo vai phải, gối phải quỳ xuống đất, chắp tay hướng Phật thưa rằng:

–Bạch Thế Tôn! Con ở chỗ Đức Như Lai Ứng Chánh Biến Tri, có điều muốn thưa hỏi, mong Đức Như Lai cho phép; tùy theo sự thưa hỏi xin giải thích cho.

Bấy giờ Phật bảo A-nan:

–Ông hãy ngồi lại chỗ mình, Như Lai Bậc Ứng Chánh Biến Tri cho phép ông tùy ý hỏi, ta sẽ giải đáp để tâm ông được hoan hỷ.

Khi ấy Trưởng lão A-nan bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con xin vâng lời Bậc Tu-giàđa, con xin vâng lời Bậc Bà-già-bà đã cho phép con thưa hỏi.

Bấy giờ Trưởng lão A-nan vui mừng thưa rằng: –Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mỗi một Bồ-tát hành hạnh Bồ-tát bị chặt tay chân và cắt tai, mũi, hay móc hai mắt, chặt từng phần trong thân thể, gặp các thứ khổ như vậy thảy đều nhẫn chịu, mà không thoái chuyển quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác?

Phật bảo:

–Này A-nan! Nếu ông biết ta vì cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nên chịu đựng biết bao thống khổ thì ông không nỡ mở miệng huống chi là hỏi.

Này A-nan! Giả sử có người từ chân đến đầu bỗng nhiên bốc cháy, lại có người khác đi đến chỗ người ấy mà nói rằng: “Này Trượng phu! Với thân thể bị lửa bốc cháy như vậy, vẫn hưởng thụ năm dục lạc, tùy ý thọ nhận ca múa vui chơi.” Phật bảo:

–Này A-nan! Ý ông thế nào? Thân người ấy bị lửa bốc cháy hừng hực thì có thể tùy ý mà hưởng thọ sự ca múa, vui cười, đùa giỡn với năm thứ dục lạc chăng?

A-nan bạch Phật:

–Thưa không, bạch Thế Tôn!

Đức Phật bảo:

–Này A-nan! Lửa trên thân người ấy chưa tắt mà vẫn có thể hưởng thọ thú vui ngũ dục, ca múa, vui chơi. Như Lai thì không như vậy. Thuở xưa, lúc hành Bồ-tát hạnh, ta thấy chúng sinh ở ba đường ác thọ khổ và các nghèo nàn hoàn toàn chẳng có sự vui sướng.

Này A-nan! Nếu thời quá khứ khi Bồ-tát tu hạnh Bồ-tát thành tựu giới không khuyết, giới không thủng, giới không lỗi, giới không tạp, giới không thủ, giới không động, giới không ô trược, giới không hoại, giới không thô thiển, giới không hiện tướng, giới không trái ngược, giới chánh trực, giới như lời thề trọng yếu, giới nhiếp hộ chúng sinh.

Này A-nan! Đại Bồ-tát tu Bồ-tát hạnh Thành tựu các giới như vậy, không gặp sự chặt tay chân, cắt tai, mũi, chặt đầu, móc mắt và các bộ phận khác trong thân, cũng không thọ lãnh các khổ, mau chóng được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này A-nan! Về thời quá khứ a-tăng-kỳ kiếp rộng lớn vô lượng, chẳng thể nghĩ bàn, không thể xưng, không thể lường, không có ngằn mé, lúc ấy có một Đức Phật hiệu là Bảo Liên Hoa Nguyệt Tịnh Khởi Vương Phật, Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.

Này A-nan! Đức Phật Bảo Liên Hoa Nguyệt Tịnh Khởi Vương ấy thọ đến chín mươi chín ức na-do-tha trăm ngàn kiếp. Đức Phật ấy trong suốt thời gian đó độ chín mươi ức trăm ngàn chúng sinh an trụ không thoái chuyển nơi Phật pháp.

Này A-nan! Sau khi Đức Như Lai Bảo Liên Hoa Nguyệt Tịnh Khởi Vương Ứng cúng Chánh Biến Tri đã Bát-niết-bàn, lúc chánh pháp đã diệt, trong thời mạt pháp đối với Tu-đa-la này có vô lượng chúng sinh chán ghét, có vô lượng chúng sinh vứt bỏ, lúc ấy hết sức hãi hùng, lúc ách nạn lớn, lúc không có mưa, hay mưa nhiều, mưa không đúng thời, lúc đói kém, lúc tà kiến, lúc cầu mong ngoại đạo thuyết giáo, lúc ác thú, Dạ-xoa, lúc sấm sét, mưa đá, lúc hủy hoại Bồ-đề của Phật có bảy ngàn Bồ-tát ở thành ấp, đô thị của vua, tụ lạc của nhân dân, từ đó ra đi đến an trụ trong rừng Phổ Hiền, cùng với Pháp sư Thiện Hoa Nguyệt. Khi ấy vị Tỳ-kheo kia nói pháp môn Đà-la-ni cho mọi người nghe.

Này A-nan! Pháp sư Thiện Hoa Nguyệt ấy vào một thời ở riêng một mình, tĩnh tọa, dùng Thiên nhãn giới, thanh tịnh hơn người thường, thấy nhiều ức Bồ-tát, trồng các căn lành ở thế giới của Đức Phật khác, lúc chết lại sinh chỗ này, nếu họ được nghe pháp môn Đà-la-ni này liền được không thoái chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Nếu họ không được nghe pháp môn Đà-la-ni này, liền bị thoái thất quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Khi ấy Pháp sư Thiện Hoa Nguyệt nghĩ như vậy xong liền từ Tam-muội đứng dậy đi đến chỗ chúng Đại Bồ-tát ấy nói rằng:

–Này các thiện nam tử! Nay tôi muốn đến thành ấp, tụ lạc diễn nói pháp yếu cho chúng sinh.

Bấy giờ chúng Đại Bồ-tát bạch Pháp sư Thiện Hoa Nguyệt:

–Tất cả các Bồ-tát chúng tôi không muốn Nhân giả ra khỏi khu rừng này đi đến tụ lạc, thành ấp, đô thị của vua ấy. Vì sao? Vì có rất nhiều Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di ngã mạn trong thời tượng pháp, muốn sát hại người.

Khi ấy Pháp sư Thiện Hoa Nguyệt thưa với chúng Bồ-tát:

–Nếu tôi luyến tiếc thân mạng thì không thể gìn giữ các Phật pháp ở quá khứ, vị lai và hiện tại.

Khi ấy Pháp sư liền nói bài kệ:

Luôn luôn không trụ nơi ngã tưởng
Mới hộ trì được pháp Như Lai
Thắng Bồ-đề rộng lớn chư Phật
Trong đời ác thế hay thị hiện.
Nếu lìa tất cả chấp ngã tưởng
Cũng lìa chúng sinh và thọ mạng
Với các sắc, thanh, hương, vị, xúc
Hãy sớm xa lìa hộ Phật pháp.
Nếu cúng trăm ức na-do Phật
Tín tâm thanh tịnh thí vật ngon
Cũng thí đèn, vòng hoa, phướn lọng
Cho đến hằng sa nhiều ức kiếp.
Nên lúc mạt thế chánh pháp suy
Khi Phật pháp sắp diệt như vậy
Có thể hộ pháp một ngày đêm
Công đức như vậy hơn người kia.
Ta là Thánh sư tử loài người
Lúc chánh pháp diệt mà không hộ
Không thể gọi là cúng dường Phật
Cũng không thể gọi kính Đạo sư.
Các ngươi an lạc, tự lợi ích
Khéo biết hộ vệ nơi thân mình
Trong chánh pháp luật chớ phóng dật
Nên thường an trụ, tu hạnh Từ.
Hộ trì chánh giới không tạp loạn
Thanh tịnh sáng ngời, không cấu uế
Đó là cúng dường tất cả Phật
Các Như Lai quá khứ, hiện tại.
Bố thí pháp bảo, luôn tu nhẫn
Tập định chỗ vắng, khéo điều phục
Lìa các đấu tranh, hành nhân tốt
Đi đến thành ấp, cứu chúng sinh.
Thắng Tiên đại trí sắp Niết-bàn
Có người thương khóc hoặc đảnh lễ
Mong thấy rừng cây hương khả ái
Bậc Trí chớ đi, cứu chúng tôi.
Thuở xưa Đạo sư khắp mười phương
Các căn tịch tĩnh, khéo điều phục
Đi đến núi rừng chỗ tịch tĩnh
Thẳng tới vô thượng thắng Bồ-đề.
Lại hay khéo hành nhân Bồ-đề
Tu tập phước đức và trí tuệ
Ở rừng tùy thuận mà học tập
Mong Đại Thánh oai đức chớ đi.
Thân người tướng tốt thật vi diệu
Đầu tóc xanh đen thật khả ái
Da dẻ sáng ngời như núi vàng
Chiếu diệu rực rỡ nơi đại địa.
Tướng lông giữa mày rất khả ái
Giống như ngọc báu ánh sáng trắng
Chớ khiến người khác sinh đố kỵ
Mất mạng vì Quốc chủ, Đại thần.

Này A-nan! Lúc đó Pháp sư Thiện Hoa Nguyệt liền nói bài kệ với chúng Bồ-tát ấy:

Các Như Lai ở thời quá khứ
Bậc Nhất thiết chủng trí lậu tận
Thảy đều lợi ích cho ba cõi
Chứng quả Vô thượng thắng Bồ-đề.
Vì cầu Bồ-đề tu nhân tốt
Chứa nhóm phước đức và trí tuệ
Học tập như vậy, thường tu hành
Vì muốn cứu độ các chúng sinh.
Tất cả nhiễu quanh Trí thần tiên
Cúi đầu sát chân mà kính lễ
Ngưỡng mộ, tán thán đều kêu gào
Lớn tiếng khóc than rất bi thảm.
Có người trên cao rơi xuống đất
Chết ngất giống như cây lớn ngã
Không nghe lời ngài, bị thoái chuyển
Phước tiên vì lợi các chúng sinh.
Tiên cầm y bát muốn giã từ
Giống như sư tử chúa hùng mãnh
Chẳng hề lưu tâm chuyện mất còn
Bởi vì an trụ nơi pháp tánh.
Chớ bảo ta sống trong núi rừng
Tổn giảm căn lành của chúng sinh
Ngài liền đi đến thành ấp ấy
Vì muốn lợi ích các chúng sinh.

Này A-nan! Bấy giờ Pháp sư Thiện Hoa Nguyệt liền đi đến thôn xóm, thành ấp, vì chúng sinh mà thuyết pháp. Vị Tỳ-kheo ấy vào lúc sáng sớm, khiến cho chín ức chúng sinh đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác trụ bất thoái chuyển. Sau đó, ngài thứ lớp du hành đi đến thành vua Trân Bảo, ngồi dưới cây Tất-bát-la. Khi vị Tỳkheo này ngồi thiền từ đêm cho đến sáng thì đi vào trong thành, làm cho ba mươi sáu ức chúng sinh đều không thoái chuyển ở nơi Phật pháp.

Bấy giờ vị Tỳ-kheo ấy một ngày nọ không ăn, đi ra khỏi thành vua đến tháp thờ móng tay Phật, đứng tại đó một cách cung kính trong một ngày một đêm thì đến sáng sớm của đêm thứ hai Tỳkheo ấy vẫn chưa ăn, lại vào thành vua Trân Bảo, làm cho hai mươi ba ức chúng sinh an trụ trong Phật pháp không thoái chuyển. Ngày thứ hai vị ấy vẫn không ăn lại ra khỏi thành vua, đến tháp thờ móng tay Phật đứng suốt đêm ngày, khi đêm đã tàn, ngày sắp sáng, qua ngày thứ ba vẫn chưa ăn, lại vào thành vua an trí cho chín ức trăm ngàn chúng sinh ở trong Phật pháp được không thoái chuyển. Đến ngày thứ ba vị ấy vẫn không ăn, lại ra khỏi thành vua, đến tháp thờ móng tay Phật đứng suốt ngày đêm, hết đêm đến sáng, đến ngày thứ tư vẫn không ăn, lại vào thành vua Trân Bảo, an trí cho chín mươi trăm ngàn chúng sinh trụ nơi Phật pháp được bất thoái chuyển. Vào ngày thứ tư bỏ ăn, ra khỏi thành đến tháp thờ móng tay Phật đứng suốt ngày đêm, hết đêm đến sáng. Đến ngày thứ năm vẫn chưa ăn, lại vào thành vua, an trí cho tất cả người trong cung của Đại vương và dân chúng trong tụ lạc, thành ấp ấy ở trong Phật pháp mà không thoái chuyển. Ngày thứ năm không ăn, lại ra khỏi thành vua đến tháp thờ móng tay Phật, đứng suốt ngày đêm, hết đêm đến sáng. Đến ngày thứ sáu vẫn chưa ăn, khiến cho một ngàn người con của vua đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đều không thoái chuyển, ngày thứ sáu không ăn, lại ra khỏi thành vua Trân Bảo, đến tháp thờ móng tay Phật đứng suốt ngày đêm, cung kính hết đêm đến sáng; đến ngày thứ bảy vẫn không ăn, đến cửa thành của vua.

Bấy giờ có vị vua tên là Dũng Kiện Đắc, khi ấy nhà vua từ hậu cung đi ra, bước lên xe vàng, lan can bằng bạc trắng, chiên-đàn thật tốt làm càng xe, tỳ-lưu-ly làm bánh xe, bên trên có treo phướn, lọng, trang sức bằng phan báu, cây báu trang nghiêm. Các hàng lưới báu treo trên xe, có những tua lụa thòng xuống, có tám trăm đồng nữ nắm dây báu mà kéo xe báu. Các cô gái ấy đoan chánh, nhan sắc đẹp tuyệt vời, kẻ ngu thì say đắm, nhưng người trí thì không mê. Có tám vạn bốn ngàn Sát-lợi, quý tộc giàu có theo hầu ở sau xe, lại có tám vạn bốn ngàn Bà-la-môn quý tộc và tám vạn bốn ngàn trưởng giả quý tộc đều theo hầu ở sau, cũng có năm trăm ngọc nữ, đeo các ngọc báu trang nghiêm đi phía trước vua. Các cô gái ấy đồng lúc thấy vị Tỳkheo này nên được không thoái chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sáu trăm tám mươi vạn cung nhân đều thấy vị Tỳ-kheo này nên cũng được không thoái chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bấy giờ mọi người đều cởi các thứ anh lạc và giày da báu, bày áo vai phải, quỳ gối phải xuống đất, đều chắp tay hướng về phía Tỳ-kheo ấy đảnh lễ cung kính đứng phía trước. Khi ấy có một người nữ, nhờ đời trước đã trồng căn lành, liền xuống xe báu, bày áo vai phải, sửa lại y phục, quỳ gối phải xuống đất, chắp tay kính lễ vị Tỳ-kheo ấy xong liền nói bài kệ:

Hôm nay hào quang chiếu cùng khắp
Ở tại đô thành vua Trân bảo
Chính là Tỳ-kheo đi vào thành
Mọi người thảy đều đứng chiêm ngưỡng.
Đoạn trừ tất cả lỗi ái dục
Cũng lìa sân nhuế và ngu si
Các trói buộc ganh ghét, vọng tưởng
Tất cả thảy đều đoạn diệt hết.
Bấy giờ đại vương Dũng Kiện Đắc
Đang lúc dạo chơi không ai thấy
Các con cùng với các quyến thuộc
Tất cả không ai đi theo vua.
Tỳ-kheo ở giữa chúng Đại vương
Đoan nghiêm đặc biệt không ai bằng
Giống như ngày rằm trăng tròn sáng
Tất cả các sao đều vây quanh.
Thân như khối vàng ròng trang nghiêm
Lại như thợ giỏi làm tượng khéo,
Giống như hoa đẹp cây báu nở
Tỳ-kheo đoan nghiêm cũng như vậy.
Lại như Đế Thích đại oai đức
Thiên chủ ngàn mắt dạo hư không
Đảnh núi Tu-di vua Đao-lợi
Tỳ-kheo vào thành cũng như vậy.
Giống như Phạm vương giữa Phạm chúng
Lại như vua sinh Hóa lạc thiên
Dạ-ma Dục giới rất đoan nghiêm
Tỳ-kheo vào thành cũng như vậy.
Như mặt trời chiếu diệu hư không
Ngàn luồng ánh sáng trừ tăm tối
Chiếu khắp tất cả mười phương cõi
Tỳ-kheo vào thành cũng như vậy.
Vô lượng kiếp đến rộng bố thí
Hằng thường giữ giới không tạp uế
Tu hành nhẫn nhục không ai bằng
Dùng tướng nghiêm thân đẹp như vậy.
Hay sinh tinh tấn, Thánh khen ngợi
Thắng tâm dũng mãnh tu bốn Thiền
Khởi trí đoạn trừ lưới phiền não
Cho nên Tỳ-kheo chiếu thế gian.
Phật hùng tối thượng giữa loài người
Quá khứ đã từng mưa thắng pháp
Vị lai, hiện tại cũng như vậy
Đó là con thật của Pháp vương.
Mong Tỳ-kheo này thường còn mãi
Sắc thân chiếu sáng tất cả đời
Thấy ngươi oai đức và tiếng tăm
Che khuất uy vua không thể hiện.
Chính tự thân ngươi chứng nơi pháp
Thọ hành lời Phật khắp thế gian
Chúng tôi mong bỏ thân nữ này
Cũng sẽ được như Tỳ-kheo kia.
Tất cả cô gái đều chắp tay
Nói kệ, tung rãi các trang sức
Vòng vàng thắng diệu, ngọc anh lạc
Bông tai và kiềng vàng đeo cổ.
Mạnh như Luân vương xem đại địa
Dạo bốn thiên hạ, nghĩ đến con
Sát-lợi, quốc vương và tứ tánh
Đem tâm bình đẳng không thương ghét.
Tỳ-kheo đã học Đà-la-ni
Phân biệt căn lực học chánh đạo
Giống như trăng rằm giữa các sao
Cũng như mặt trời sáng chiếu diệu.
Quy mạng Thập Lực, Bậc Điều Phục
Dù cả trăm kiếp khen không hết
Nói cả vô lượng ngàn ức kiếp
Không thể được phần đức nhỏ.
Nếu chuyển pháp luân, câu trí tuệ
Khó thấy pháp vi tế, vô cấu
Sa môn, Ma, Phạm, Bà-la-môn
Kính lễ y vương, không ai bằng.
Cô nói kệ xong, người hoan hỷ
Tung rải vàng ngọc, trải y báu
Kế châu, anh lạc giá trăm ức
Dâng cúng Tỳ-kheo vì Bồ-đề.

Bấy giờ vua Dũng Kiện Đắc nghĩ rằng:

–Tâm các cung nhân này đều thay đổi đã chống lại ta. Vì sao biết được? Vì tất cả họ đều cỡi ấn đeo tay và ngọc anh lạc, bày áo vai phải, gối phải quỳ xuống đất, chắp tay đảnh lễ Tỳ-kheo ấy.

Khi ấy vua Dũng Kiện Đắc thấy Tỳ-kheo Thiện Hoa Nguyệt, dung mạo đoan chánh, tự thấy thân mình không sánh bằng, liền kinh sợ, lo vị ấy đoạt ngôi vua, nên hết sức phẫn nộ.

Lúc ấy vị Tỳ-kheo này đứng trên đường của vua, bị bụi bay vào mắt, làm mắt chớp nháy.

Khi ấy vua Dũng Kiện Đắc nghĩ như vầy: “Tỳkheo này có tâm ô nhiễm, đắm trước cung nhân của ta, nên nháy mắt hò hẹn, vậy ai có thể giết Tỳ-kheo này?” Lúc ấy vua Dũng Kiện Đắc có một ngàn con trai theo hầu ở sau, ông liền gọi đến bảo:

–Này các con có thể giết Tỳ-kheo kia chăng?

Ngàn người con trai của vua vì kính vị Tỳ-kheo

ấy nên không nghe lời vua cha.

Nhà vua suy nghĩ như vầy: “Các con vẫn không nghe theo lệnh của ta, nay ta một mình, không có bạn bè, vậy ai có thể giết được Tỳ-kheo kia?”

Khi ấy nhà vua có người Chiên-đà-la tên là Nan-đề, thường hay tàn sát độc hại, hung bạo, chẳng biết thương tiếc. Nhà vua thấy Nan-đề nên hân hoan vui mừng nghĩ rằng: “Chắc chắn người này sẽ vì ta mà giết Tỳ-kheo kia, liền gọi đến.”

Bấy giờ Nan-đề liền đến chỗ vua. Nhà vua bảo rằng:

–Nay ngươi có thể giết Tỳ-kheo kia chăng? Nếu ngươi giết được người ấy ta sẽ phong chức, trọng thưởng.

Nan-đề thưa:

–Xin vâng, tâu Đại vương, Thần xin theo lệnh của vua, có thể giết được người ấy.

Ngay ngày hôm đó Nan-đề liền giết vị Tỳ-kheo ấy.

Nhà vua bảo với Nan-đề:

–Ngươi nên biết rằng nay đã đúng lúc nên cầm dao bén cắt tay, chân, xẻo tai, mũi Tỳ-kheo kia, vì ông ta đã dùng tâm ô nhiễm ngắm nhìn cung nhân của ta. Hãy lấy móc sắt móc mắt ông ta.

Khi ấy Nan-đề liền theo lệnh vua cầm dao bén chặt tay, xẻo tai, mũi và móc hai mắt của Tỳ-kheo. Nhà vua giết vị Tỳ-kheo xong liền vào vườn cây.

Bấy giờ mọi người kêu khóc thảm thiết, lại đi vào trong thành vua Trân Bảo.

Khi ấy vua Dũng Kiện Đắc, trong bảy ngày ở tại khu vườn, trong lòng không vui, không có cười giỡn, cũng không vui chơi, qua bảy ngày, nhà vua từ khu vườn đi ra, rồi lại vào thành, trên đường vua đi thì thấy thây của Tỳ-kheo này đã chết bảy ngày nằm ở trên đường, đã bảy ngày rồi mà hình sắc vẫn không thay đổi.

Bấy giờ vua Dũng Kiện Đắc liền nghĩ: “Tỳkheo này chết đã bảy ngày rồi mà thần sắc vẫn không thay đổi, vậy đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chắc chắn đã được không thoái chuyển. Không còn gì phải nghi nữa, ta đã tạo nghiệp ác, chắc chắn phải đọa vào địa ngục thọ khổ, không còn lâu nữa.” Khi nghĩ như vậy, có tám vạn bốn ngàn chư Thiên ở trên hư không, cùng nói: –Đúng vậy, này Đại vương, như điều vua nghĩ, như điều vua nói, vị Tỳ-kheo ấy đúng là vị không thoái chuyển đối với quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Khi vua nghe lời ấy thì kinh hãi, run sợ, lông trên người dựng đứng, trong lòng hối hận. Bấy giờ vua Dũng Kiện Đắc trong lòng ưu sầu khổ não, tâm sinh hối hận, nên nói bài kệ:

Ta bỏ ngôi vua và thành ấp
Kim ngân, trân châu, ngọc ma-ni
Ngu si không trí tạo nghiệp ác
Ta nên cầm dao bén tự sát.
Lúc xưa Pháp sư Thiện Hoa Nguyệt
Ba hai tướng tốt rất trang nghiêm
Vào thành vua, ánh sáng chiếu khắp
Giống như trăng tròn, vua các sao.
Ta bị ái dục làm hoặc loạn
Thể nữ vây quanh ra khỏi thành
Bước lên xe báu, Sát-lợi hầu
Mắt đẹp đoan chánh ngài đi đến.
Thể nữ thấy Tỳ-kheo hoan hỷ
Với tâm hoan hỷ rải vòng vàng
Tất cả người nữ đều chắp tay
Nói kệ ca ngợi Tỳ-kheo ấy.
Khi ta vui thích đi dạo chơi
Sát-lợi vây quanh, ngồi xe báu
Bỗng gặp người mắt đẹp đoan chánh
Là Như Lai tử, đại oai đức.
Khi ta thấy ngài, sinh ý ác
Ganh ghét, sân hận tâm muốn hại
Vì thấy Tỳ-kheo vào thành vua
Các cung nữ nhìn ngài hoan hỷ.
Hào quang chiếu khắp cả bốn phương
Như trăng ra khỏi đám mây mù
Mọi người đều phát tiếng nói lớn
Thể nữ thấy ngài đều hoan hỷ.
Lúc trước ta nói lời thô ác
Ra lệnh cho cả ngàn người con
Giết gấp Tỳ-kheo làm điều quấy
Chính là đại oan gia của ta.
Tất cả đồng tử đều trì giới
Xót thương, ái niệm Tỳ-kheo ấy
Thảy đều không theo lệnh của ta
Lúc đó thân ta càng áo não.
Thấy Tỳ-kheo trì tịnh giới ấy
Trí tuệ tương ưng như cha lành
Lúc đó ta giận nên bảo giết
Không nghĩ A-tỳ, sau hối hận.
Khi thấy Nan-đề đứng trên đường
Làm người khổ não và độc hại
Ta ra lệnh ác cho người đó
Giết chết Tỳ-kheo như vòng hoa.
Ở rừng Phổ Hiền rất đoan trang
Các Tiên cao vót, hương thơm phức
Các đại chúng ấy mất Pháp sư
Giống như đứa con đã mất mẹ.
Tỳ-kheo liền đến ở Hiền lâm
Để lợi ích lớn cho mọi người
Nay người đã vào thành vua này
Mọi người đi theo đều khóc lớn.
Hoa đẹp, tràng phan để bên phải
Bên trái đoan nghiêm cũng như vậy
Dùng các y đẹp trải trên đường
Tỳ-kheo liền đứng nói diệu pháp.
Ngài vào thành vua đã lâu rồi
Đồ chúng chắc phải buồn thương lắm
Lúc Phật pháp ngài chưa tận diệt
Không để đoạn mất mạng của ngài.
Giả sử có người oai thần lớn
Tiếng tăm vang khắp cả mười phương
Đầy đủ thế lực hơn đại địa
Hào quang che khuất ba ngàn cõi.
Thoát mũi tên khổ, lìa ưu sầu
Được Thánh hoan hỷ, tương ưng pháp
Hoặc họ thấy nghe còn ưu não
Huống các thế gian không mê mờ.
Pháp sư Hoa Nguyệt như núi chúa
Ba hai tướng tốt thật trang nghiêm
Như các cô gái tranh vòng hoa
Làm cho đứt ra từng khúc đoạn.
Ta tạo nghiệp bất thiện cực ác
Đọa ngục A-tỳ không thể cứu
Đã xa lìa chỗ của chư Phật
Bởi vì cắt đứt thân Tỳ-kheo.
Con cái, thân nhân chẳng cứu ta
Phục tướng, quý tộc và tôi tớ
Ta đã tạo nghiệp ác nặng ấy
Tất cả mọi người không thể cứu.
Tất cả Phật quá khứ, vị lai
Và cả mười phương hiện bây giờ
Đạo sư thập Lực lìa phiền não
Tâm như Kim cương, con quy y.
Thấy Tỳ-kheo ấy dứt từng phần
Chư Thiên kêu khóc và sầu não
Đến bảo các chúng Bồ-tát kia
Tỳ-kheo Hoa Nguyệt bị vua giết.
Bậc Pháp sư thông minh trí tuệ
Đủ đại oai đức, tiếng vang lừng
Bồ-tát an trú Đà-la-ni
Nay bị giết chết ở thành vua.
Trải vô lượng kiếp rộng bố thí
Hộ giới bất động, không tạp uế
Hay tu nhẫn nhục không ai bằng
Nay bị giết chết ở thành vua.
Từ vô lượng kiếp thường tinh tấn
Thắng tâm tăng thượng tu tứ thiền
Bậc trí tuệ hay đoạn phiền não
Nay bị giết chết ở thành vua.
Vứt bỏ tất cả thân yêu mến
Cũng không quyến luyến về thọ mạng
Từ rừng Phổ Hiền ngài đi ra
Nay bị giết chết ở thành vua.
Đại chúng trong rừng vào thành vua
Lớn tiếng buồn khóc và kêu gào
Thấy thân Tỳ-kheo đứt từng đoạn
Tất cả chết ngất nằm dưới đất.
Các Tỳ-kheo ấy hỏi vua rằng:
Đại vương, Pháp sư có lỗi gì?
Trì giới không khuyết tiếng tăm lớn
Hay biết vô biên việc đời trước.
Đối với Tổng trì được cứu cánh
Khéo hiểu thế gian đều không tịch
Vì các chúng sinh hiển vô tướng
Xả bỏ tất cả các nguyện tưởng.
Diễn thuyết tiếng vi diệu khả ái
Các căn tịch tĩnh khéo điều phục
Biết rõ quá khứ, việc đời trước
Vượt trên tất cả các thế gian.
Sẽ được trí tự nhiên của Phật
Hết sức hy hữu với thế gian
Mắt tịnh thấy rõ không chướng ngại
Chính vì lòng Từ nên chiếu soi.
Tham ái dâm dục rất ô uế
Hay sinh khổ não, không lên trời
Nếu người tạp dục lìa đa văn
Gọi là người tổn giảm trí tuệ.
Đam mê ái dục là người mù
Hay làm thương hại cha mẹ mình
Cũng lại hay hại người trì giới
Cho nên cần phải vứt bỏ dục.
Đại vương nếu huân tập ái dục
Liền mất oai đức thắng tự tại
Sẽ vào địa ngục thật độc ác
Sinh nơi cực khổ rất hãi hùng.
Giết hại Pháp sư, giỏi thông tuệ
Tạo tác nghiệp ác lớn như vậy
Nếu ai dốc chí cầu Bồ-đề
Thì phải xa lìa ác như vậy.
Sắc, thanh, hương, vị, xúc thù thắng
Tâm ấy dũng mãnh hay vứt bỏ
Thân, ý đều không, như huyễn hóa
Mắt, tai, mũi, lưỡi cũng như vậy.
Tu tập Thí, Giới không ai bằng
Nhẫn nhục, Tinh tấn cũng như vậy
Đã đạt Thiền định, Trí rốt ráo
Hay làm lợi ích các chúng sinh.
Tất cả thế gian các trời, người
Hay đem lòng từ quán Như Lai
Và mắt hay trừ tăm tối lớn
Ngộ hiểu thượng Bồ-đề tối thắng.
Hoan hỷ, tín tâm bỏ lầu gác
Voi ngựa, xe cộ và giường chõng
Tất cả xe tốt và trâu dê
Các thành ấp, tụ lạc trong nước.
Vứt bỏ ngôi vua và vàng bạc
Trân châu, pha lê và san hô
Đầu, mắt, vợ, con đều đem thí
Để cầu Vô thượng Bồ-đề vậy.
Hoan hỷ cúng dường không ai bằng
Hoa đẹp, hương xoa và hương bột
Các thứ tràng phan và phướn lọng
Tiếng ca mỹ diệu các kỹ nhạc.
Ở trong các hữu lìa nguyện tưởng
Vì biết rõ ba cõi là không
Đó là tướng mười Lực trang nghiêm
Hào quang chiếu khắp cả mười phương.
Hai cõi Sắc, Dục, không tham đắm
Cùng với vô số sắc cũng vậy
Nếu trụ Tổng trì của Bồ-tát
Phải bỏ ba cõi như da rắn.
Không có tưởng ngã, tưởng chúng sinh
Cũng không tưởng nam và tưởng nữ
Chuyên tu phạm hạnh không ô uế
Vì Bồ-tát an trụ Tổng trì.
Đều không tưởng việc có, việc không
Tưởng an, không an cũng như vậy
Chẳng phi số tưởng, chẳng số tưởng
Vì trụ Tổng trì của Bồ-tát.
Chẳng có, có tưởng thảy đều không
Chẳng có mạng tưởng, chúng sinh tưởng
Chẳng có tưởng thôn và tưởng thành
Vì Bồ-tát an trụ Tổng trì.
Chẳng phi tưởng tham, chẳng tưởng tham
Chẳng phi tưởng sân, chẳng tưởng sân
Chẳng phi tưởng si, chẳng tưởng si
Vì trụ Tổng trì Bồ-tát vậy.
Nơi các căn và các lực ấy
Đạo phẩm thiền định đều không đắm
Có thể vứt bỏ hết ba cõi
Vì Bồ-tát an trụ Tổng trì.
Không bị ô nhiễm bởi tham sân
Cũng không si loạn, không dua nịnh
Gặp Phật Thập Lực đem cúng dường
Bậc Trí không mong sinh lên trời.
Nghe pháp thâm diệu từ người khác
Không sinh tất cả các nghi hoặc
Như đồ đựng đầy dầu thanh tịnh
Tướng tận, vô tận lý cũng vậy.
Chính vì tham luyến nên sinh ái
Cho nên gọi là đại phiền não
Cũng vì sân hiềm nên sinh ghét
Cho nên gọi là ác khủng bố.
Bậc Trí xa lìa nhị biên này
Cho nên hướng đến thắng Bồ-đề
Được làm Thập Lực, Nhân Ngưu Vương
Vượt lên tất cả các thế gian.
Bỏ hết tất cả việc trong ngoài
An trụ trong pháp tánh thật tế
Hộ trì cấm giới thật thanh tịnh
Không thủng, không thuyết, không uế trược.
Đối với tịnh giới không xen tạp
Cũng lại không pháp yết ma ấy
Người trí vứt bỏ cả nhị biên
Mới ngộ đại Bồ-đề vô thượng.

QUYỂN 9

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Vào thuở xưa, lúc ta tu hành
Làm vua hiệu là Dũng Kiện Đắc
Bấy giờ có thành tên Trân bảo
Nhà vua ra thành ngắm vườn cây.
Ngồi trên xe báu gặp Tỳ-kheo
Đoan chánh, đặc biệt rất vi diệu
Ba hai tướng tốt tự trang nghiêm
Ánh sáng chiếu khắp cả mười phương.
Hiệu Thiện Hoa Nguyệt, đến các thành
An trụ Từ bi, làm lợi ích
Vì cứu chúng sinh nên vào thành
Công đức, oai lực rất đoan nghiêm.
Lúc đó sắc ta không bằng ngài
Liền khởi tâm ghen ghét tăng thượng
Bị ái dục vô minh trói buộc
Sợ Tỳ-kheo ấy đoạt ngôi vua.
Thuở ấy ta có ngàn người con
Ngồi trên xe báu tháp tùng ta
Dùng các mão quý để trang nghiêm
Đi như các Thiên tử Đao-lợi.
Năm trăm Thiên tử trong số ấy
Đều mang hài ma-ni diệu bảo
Trang nghiêm bằng mão báu anh lạc
Có lưới vàng phủ lên trên xe.
Có tám vạn thể nữ quyến thuộc
Thảy đều tuyệt đẹp, thật diễm lệ
Ngồi trên xe báu thấy Tỳ-kheo
Đoan chánh giống như núi Tu-di.
Họ thấy đều tưởng như cha mình
Đồng phát tâm Vô thượng Bồ-đề
Theo ngài để tu hạnh thanh tịnh
Cởi ngọc anh lạc dâng Tỳ-kheo.
Ta liền sinh tâm càng ganh ghét
Và sinh tâm tức giận, uế trược
Nhà vua mê loạn bảo các con:
“Hãy giết Tỳ-kheo trước mặt ta”.
Các con nghe cha bảo như vậy
Hết sức buồn rầu thưa với cha:
“Xin cha chớ nói lời như vậy
Chúng con không thể giết vị ấy.
Dù ai có giết hại chúng con
Trải qua hằng sa nhiều ức kiếp
Cũng không thể giết Pháp sư này
Bởi nhờ ngài nên phát tâm đạo.
Chính nhờ ngài con phát tâm này
Con nguyện thành Phật Nhân Trung Thắng
Người đến Bồ-đề không làm ác
Chúng con đều là con của Phật.”
Vua nghe các con nói như vậy
Liền bảo kẻ hầu gọi Chiên-đà
Gấp bảo đao phủ giết Tỳ-kheo
Người đứng ở trước trong cung ta.
Tức thì dẫn kẻ sát nhân vào
Tên là Nan-đề rất bạo ác
Tay cầm dao bén giết Tỳ-kheo
Chặt thân của ngài thành tám khúc.
Tỳ-kheo bị chém, thân không máu
Chỗ chặt phóng ra ngàn ánh sáng
Lại có vòng công đức cát tường
Bỗng nhiên hiện ra trong thịt ngài.
Khi làm điều cực ác vậy rồi
Lúc đó ta đi dạo vườn cây
Những việc ca múa đều không thích
Vì nghĩ đến Pháp sư Hoa Nguyệt.
Lúc ấy ta liền ra khỏi vườn
Ta lại đi vào thành Trân bảo
Khi ta lên xe đi đến đó
Là chỗ giết chết vị Tỳ-kheo.
Liền nghe tiếng gào trên không trung
Vô lượng chư Thiên đang kêu khóc
Đều bảo: “Vua ác tạo nghiệp nặng
Chết đọa A-tỳ chịu khổ đau.”
Khi vua nghe tiếng của chư Thiên
Ôm lòng sầu não rất lo sợ
Ta đã làm vô lượng tội nặng
Bởi vì giết Tỳ-kheo Thiện Hoa.
Như Lai đầy đủ vô lượng trí
Ngài là con Phật, Bậc Tối Thắng
Điều phục các căn, tâm tịch diệt
Ta vì ái dục nên giết ngài.
Có người thọ trì pháp Như Lai
Khi Tạng chánh pháp bị hoại diệt
Hay vì thế gian đốt đèn trí
Ta vì ái dục, giết vị ấy.
Là bậc Y vương của thế gian
Trị bệnh phiền não cho chúng sinh
Lại dùng cam lồ cứu thế gian
Ta vì ái dục nên giết ngài.
Đạo sư nắm giữ tạng Thắng pháp
Chúng sinh tăm tối, thắp đèn sáng
Bậc Pháp vương trì Đà-la-ni
Ta vì ái dục nên giết ngài.
Vì đời diễn nói thắng diệu pháp
Thậm thâm vi diệu khó thấy được
Nói rõ con đường đến đạo tràng
Ta vì ái dục nên giết ngài.
Trí ngài thanh tịnh, không uế tạp
Ngưng tịnh, tịch diệt, hằng tại định
Mắt mù ái dục, nên giết ngài
Dục là nhân khổ cần phải bỏ.
Các Đức Phật quá khứ, vị lai
Và Nhân Trung Tôn ở hiện tại
Công đức vô lượng như biển cả
Mọi người chắp tay quy mạng ngài.
Chết vào đường ác, ngục A-tỳ
Không ai có thể cứu ta được
Đã tạo tội, không tin nghiệp quả
Bởi vì giết hại Đại Pháp sư.
Than ôi! Tâm ác tạo nghiệp khổ
Than ôi! Ngôi vua tự ngạo mạn
Rốt cùng ngôi vua đâu chắc thật
Hãy bỏ tất cả sống một mình.
Trước không dục nhiễm, tu tịnh nghiệp
Từ bi, ái ngữ, đúng con Phật
Chỉ vì thương đời lìa các lỗi
Ngài Thiện Hoa Nguyệt đi về đâu.
Than ôi! Bậc Thánh đầy sức nhẫn
Than ôi! Diệu sắc, đức tương ưng
Không hề hý luận công đức tụ
Nay ngài bỏ con đi về đâu?
Nay con mới biết lời Đại tiên
Thế gian vì dục nên bị hại
Thân tâm nóng bức, nhân đường ác
Biết như vậy rồi bỏ dục hành.
Chết vào đường ác, trong địa ngục
Không ai có thể cứu ta được
Tạo ra nghiệp ác thật nặng nề
Bởi vì giết hại Tỳ-kheo ấy.
Bỏ ngôi vua lao nhọc, sợ hãi
Phụng trì cấm giới tu phạm hạnh,
Nay con nhờ ngài được tự tại
Hoan hỷ, tịnh tâm dựng tháp lớn.
Cúng dường bậc Trí tuệ vô não
Kho tàng trí tuệ bậc tàm quý,
Chớ để con đọa ba ác đạo
Xa lìa tiếng ác và hủy báng.
Phi, hậu, cung nhân, các thân thích
Tể tướng tối cao và nô tỳ
Sát-lợi, Trưởng giả cùng các quan
Lúc đó vua khóc, nói họ rằng:
Các khanh vì ta mau sửa soạn
Các thứ hương hoa thật tốt tươi
Y phục thượng diệu và dầu sữa
Dùng để hỏa táng Tỳ-kheo này.
Bây giờ các khanh mau chất lên
Tất cả củi thơm thật thắng diệu
Chiên-đàn theo mùa, nước trầm hương
Tô-tỳ-lực-ca và long não.
Trăm ngàn y phục tẩm dầu sữa
Thảy đều quấn vào thân Tôn giả
Ta dùng tín tâm thật tối thượng
Dâng các vật quý báu cúng ngài.
Nghe sắc lệnh đại vương ban bố,
Tể tướng đệ nhất, dân trong thành
Dùng các dầu thơm, tẩm gỗ hương
Các thứ hương bột thật thắng diệu.
Lấy nước hương bột rửa sạch ngài
Lại dùng các hương tẩm thân ngài
Dùng y dầu sữa quấn quanh thân
Để thân ngài lên các gỗ thơm.
Thân vi diệu Mâu-ni thuở xưa
Ba hộc và sáu đấu xá-lợi
Nhà vua đã làm tháp thắng diệu
Cúng dường các thứ, luôn lễ bái.
Vòng hương xoa, bột, trăm lời khen,
Treo các linh đẹp và dù lọng
Phi hậu, cung nhân và con cháu
Từ đó ra thành đến chỗ ngài.
Nhà vua mỗi ngày cúng ba lần
Sau đó mới từ tháp trở về
Vòng hoa tươi tốt để cúng dường
Trang nghiêm bằng tràng phan, bảo cái.
Bởi vua ngu si tạo các tội
Ngay chỗ tháp ấy thành tâm sám
Trải qua chín mươi lăm ức năm
Luôn luôn sám hối không mệt mỏi.
Trí tuệ có được rất thanh tịnh
Kiên trì cấm giới không sứt mẻ
Suốt ngày đêm thọ tám trai giới
Hộ trì thanh tịnh không hủy phạm.
Vua bị ngăn che bởi ái dục
Tự thân tạo ra nghiệp bất thiện
Thân hoại mạng chung đọa địa ngục
Ở trong A-tỳ chịu cực khổ.
Từ trước đến nay không được gặp
Chín mươi lăm ức các Như Lai
Trong chín mươi lăm ức kiếp ấy
Sinh ra ở đời thường bị mù.
Sáu mươi hai ức na-do kiếp
Tuy có mắt sáng lại bị hư
Lại trong một ức na-do kiếp
Dù có mắt sáng lại bị mù.
Cũng lại luôn bị chặt tay chân
Và bị cắt tai, mũi, môi, lưỡi
Sinh trong loài người na-do kiếp
Sinh các chỗ khác, cũng như vậy.
Nhà vua đã tạo vô lượng tội
Ở các thế gian thường bị khổ
Nếu ai muốn được sự an lạc
Hãy nhớ đừng làm nghiệp ác nhỏ.
Nhà vua tuy đã sám hối rồi
Mà vẫn không thoát nghiệp đã tạo
Đã tạo nghiệp ác như vậy rồi
Sau chết phải đọa ngục A-tỳ.
Chặt hết thân đầu và tứ chi
Lại bị cắt tai và xẻo mũi
Móc hai con mắt, nói không hết
Vô lượng ức kiếp vì dục vậy.
Tạo nhiều nghiệp ác, lúc mạng chung
Sau bị xẻ thân, thí cho người
Đó là chặt đầu và tay chân
Bỏ vua, bỏ con vì Bồ-đề.
Bỏ vợ thương yêu nhiều tiền của
Cung nhân, thể nữ, voi và ngựa
Xe chạy, thuyền chèo, các báu vật
Vô lượng ức đời vì đại đạo.
Vua Dũng Kiện Đắc là thân ta
Xưa ngàn người con, Phật Hiền kiếp
Phật Liên Hoa Thượng là Nguyệt Thị
Đao phủ chính là Phật Tịch Vương.
Cung nhân, phi hậu và dân thành
Thân thích, bạn hữu và nô bộc
Sát-lợi thắng diệu cùng chủ thành
Tất cả người ấy, quyến thuộc ta.
Nếu ai theo ta trì cấm giới
Dùng tâm kính tín để cúng dường
Tất cả thảy đều Bát-niết-bàn
Nhờ tấm lòng tốt, chứng Bồ-đề.
Đồng tử! Xưa ta vô lượng kiếp
Được thấy Phật Ly Cấu Vô Não
Tu theo hạnh Bồ-đề vô thượng
Xưa kia còn chịu khổ như vậy.
Nếu có Bồ-tát trụ Tổng trì
Khéo tu hạnh Từ, luôn bất động
Kẻ ấy không đọa các chỗ ác
Cúng dường Phật Ly Cấu Vô Não.
Nếu muốn thành Phật, làm Pháp vương
Ba hai tướng tốt tự trang nghiêm
Cần phải giữ giới không ô uế
Luôn luôn thuyết pháp, trụ Tổng trì.

Này Đồng tử! Nếu Bồ-tát nghĩ như vầy: “Nay ta làm sao có an lạc để chứng đắc quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác? Các Bồ-tát ấy nên an trụ vào tịnh giới tụ, đối với tất cả Bồ-tát khởi lên ý tưởng xem như thầy mình.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Nếu có Bồ-tát trụ giới tụ
Dùng tâm lợi ích hành Bồ-đề
Người ấy mau được sự lợi lạc
Hay được Thượng nhẫn, làm Pháp vương.
Thường dùng tâm hòa an, bất động
Hằng thường tạo tác các nghiệp vui
Sau đó được gặp nhiều Đức Phật
Mau được Bồ-đề, lìa lưới nghi.
Nghe ta dạy sự tối thắng ấy,
Thấy các Tỳ-kheo trì tịnh giới
Dùng tâm ngay thẳng để phụng sự
Sau đó không lâu được định này.
Nếu dùng hằng sa kho cất giấu
Tràn đầy bảy báu ở trong đó
Kho tàng ấy rộng lớn như vậy
Giống như vô lượng hằng sa cõi.
Nếu có Bồ-tát thích tuệ thí
Suốt cả ngày đêm không gián đoạn
Dũng mãnh bố thí không ngừng nghỉ
Trải qua vô lượng hằng sa kiếp.
Nhưng ai nghe được Tam-muội này
Liền giữ tất cả kho Mâu-ni
Đó là vô lượng khối phước đức
Hơn bố thí trước, khó nghĩ bàn.
Phước đức như vậy rộng vô biên
Hay diệt trừ được khổ thế gian
Đó là công đức tụ tối thượng
So với bố thí phước vô cùng.
Tùy thuận Bồ-đề đệ nhất tạng
Bồ-tát trí tuệ hay thọ trì
Nếu ai nắm giữ Tam-muội này.
Đủ của cải thù thắng Bồ-đề
Đó là biển đa văn Phật pháp
Phước đức người ấy khó cùng tận
Với pháp thắng diệu khó nghĩ này
Gọi là Bồ-tát chân hộ trì,
Nếu ai hay nói định tịch diệt
Bồ-đề người ấy liền tăng trưởng
Chỉ trừ Thế sư Điều Ngự Sĩ
Đầy đủ đại Bi, Tự nhiên trí.
Hay được vô lượng các công đức
Phước đức thành tựu, ngày càng tăng
Trong cõi tam thiên đại thiên ấy
Không ai có thể so sánh được.
Phước đức vị kia không ai bằng
Bậc Trí khen ngợi cũng như vậy
Nếu ai nghe được Tam-muội này
Có thể thọ trì và đọc tụng.
Vì cầu thắng Bồ-đề chư Phật
Những người như vậy mới sánh bằng
Phát sinh đa văn, giống như biển
Phước đức người ấy không lường được.
Thọ trì đọc tụng Tam-muội này
Những người như vậy được phước đức
Này Đồng tử! Nếu phước là sắc
Tất cả thế giới không chứa hết.
Cho nên, Đồng tử! Nếu Bồ-tát
Mà muốn cúng dường tất cả Phật
Bậc thanh tịnh, quá, hiện, vị lai
Phải nên thọ trì Tam-muội này.
Đó là Thắng Bồ-đề chư Phật
Đồng tử! Ông nên tin lời ta
Như Lai đã nói không thể khác
Tất cả chư Phật không nói dối.
Thuở xưa, khó nghĩ trong trăm kiếp
Ta vì việc ấy, thân hao mòn
Thường tu hạnh Bồ-đề thắng diệu
Vì cầu được thắng định như vậy.
Cho nên người phải thọ Pháp tạng
Vô số kinh điển từ đó ra
Phước đức ấy lớn khó nghĩ bàn
Có thể đạt được trí chư Phật.
Tất cả kinh điển, nó đứng đầu
Sinh ra vô lượng các nghiệp lành
Nói kinh này luôn luôn không sợ
Ngằn mé pháp ấy bất khả đắc.
Đập nát tam thiên thành ra bụi
Có thể biết được số vi trần
Thường nói trăm ngàn kinh khó nghĩ
Không ai đo lường được người ấy.
Các chúng sinh trong cõi Phật này
Hơi thở vào ra có thể biết
Bồ-tát thường diễn thuyết kinh này
Không ai biết được đâu ngằn mé.
Nếu quốc độ Phật như hằng sa
Sáu đường chúng sinh ở trong đó
Có thể biết được tâm của họ
Điều kinh ấy nói ai biết được.
Vô lượng các ức cõi thế giới
Các biển cả, sông hồ cõi ấy
Có thể biết vô số cát ấy
Các pháp Ngài nói ai biết được.
Chẻ một sợi lông thành trăm phần
Đếm số giọt nước nhiều ức cõi
Biết các biển nước trên thế giới
Các lời Ngài nói không thể biết.
Vô lượng ức kiếp trong thế giới
Có bao nhiêu chúng sinh tất cả
Nhiều như cát bụi vẫn biết được
Điều kinh ấy nói không thể biết.
Điều Ngài diễn thuyết không đoạn tuyệt
Tất cả chúng sinh trong mười phương
Âm thanh của họ đều tính được
Không thể biết số Tu-đa-la.
Ngôn từ cú nghĩa đã khéo học
Lại hay diễn thuyết tất cả pháp
Trí tuệ rộng lớn và thông lợi
Rõ biết thật pháp cùng hỏi đáp.
Trí tuệ thông đạt nghĩa sâu rộng
Ngài thường biết tâm chẳng nghĩ bàn
Biết hết tự thể tánh âm thanh
Cho nên Ngài nói không chướng ngại.
Gọi là Đại Pháp sư vô ngại
Thuyết pháp cho đời không đắm trước
Khéo học tập, hỏi đáp, giải thích
Vì hiểu rõ Đệ nhất nghĩa đế.
Trong một câu, giải thích nhiều nghĩa
Nói chẳng nghĩ bàn, không trở ngại
Đã học về cú nghĩa vô ngại
Diễn thuyết giữa chúng không bế tắt.
Nếu ai thường trụ Tam-muội này
Thành tựu vô úy không động chuyển
Đã được pháp lực hành thắng hạnh
Lợi lạc vô lượng ức chúng sinh.
Như núi Tu-di đứng bất động
Dẫu cho gió lớn vẫn không hoại
Tỳ-kheo Pháp sư cũng như vậy
Tất cả dị luận chẳng lung lay.
Ba ngàn cõi đại thiên thế giới
Bao nhiêu núi non ở trong đó
Tất cả gió thổi có thể lay
Tỳ-kheo trụ không, luôn bất động.
Nếu ai cũng tương ứng với không
Là chỗ trụ xứ Phật quyết định
Nếu ai định biết các pháp không
Tất cả dị luận không thể hơn.
Các tà thuyết khác không thể động
Tất cả ngoại luận không thể hoại
Không ai xâm lăng, hủy nhục được
Nhờ nói định tịch tĩnh như vậy.
Người ấy cùng tận nơi pháp không
Luôn luôn an trụ trí vô thượng
Với tất cả pháp không nghi ngờ
Nhờ trì Tam-muội tối thắng này.
Được đạo phẩm, các lực không khó
Thần túc với biện tài vô ngại
Đạt được Thánh thông cũng như vậy
Nhờ thọ trì, tụng niệm kinh này.
Chết đây sinh kia đâu có khó
Hay thấy trí tối thắng vô thượng
Chẳng nghĩ bàn ức na-do Phật
Ai trì kinh này đều thấy hết.
Đối với tất cả chỗ chư Phật
Được nghe định Ly cấu như vậy
Thành tựu trí tối thắng tương ưng
Đạt được tận cùng bốn biện tài.
Nơi các cõi ba ngàn thế giới
Từ chỗ thấp nhất đến đỉnh cao
Chư Thiên mến yêu chiếu Ma-ni
Cùng với bảy báu thật sung mãn.
Mười phương vô lượng các cõi Phật
Từ dưới đất thấp đến đảnh cao
Đều dẫy đầy vàng Diêm-phù-đàn
Đem các báu này dâng Mâu-ni.
Tất cả báu vật trong thế gian
Qua vô lượng kiếp đem bố thí
Dâng cúng Như Lai mãi không thôi
Thâm tín là vì cầu Bồ-đề.
Nếu có Tỳ-kheo yêu thích không
Một lòng chắp tay mà lạy Phật
So với phước đức rộng thí trước
Phước ấy không bằng một phần nhỏ.
Nếu ai có được nhiều của cải
Tín tâm vì phước nên bố thí
Để cầu Bồ-đề Phật vô đẳng
Ta rõ thế gian mới so sánh.
Nếu ai đối với Tam-muội này
Nghe xong thọ trì bốn câu kệ
Người ấy đã nhóm các công đức
Phước trước trăm phần không bằng một.
Bồ-tát tối thắng hành bố thí
Chưa thể mau thành đạo Vô thượng
Nếu nghe được định thù thắng này
Mau chóng được Bồ-đề vô thượng.
Nếu ai đạt được tạng trân bảo
Đầy khắp vô lượng hằng sa cõi
Vô số báu vật thật sung mãn
Bồ-tát không cho là giàu có.
Nếu đoạn khát ái, tu công đức
Lại hay đạt được Tam-muội này
Liền đủ tất cả vật để sống
Kho tàng đầy ắp, của cải nhiều.
Cho dù có được bốn thiên hạ
Bậc trí chẳng lấy đó làm vui
Nếu như được định ly cấu này
Hoan hỷ, vui mừng, lợi chúng sinh.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Di-lặc với đầy đủ áo mão, liền khen ngợi sự lợi ích của Tam-muội này, cũng vì Bồ-tát thời tương lai mà thọ trì, đọc tụng Tammuội này thì sẽ được hoan hỷ, vì nó giúp thêm năng lực cho họ. Bồ-tát Di-lặc nói bài kệ rằng:

Nếu ai hay trì pháp người trí
Bậc công đức oai thế cứu hộ
Có thể thọ trì nơi chư Phật
Pháp nhãn thật vi diệu rộng lớn.
Đời ác mạt thế nhiều tham sân
Bỏ bất phóng dật, thường buông lung
Đầy đủ thật nghĩa thắng kinh điển
Người nào có thể thọ trì được.
Với các giới định, nhẫn, văn, tài
Khéo học oai nghi để trang nghiêm
Ưa thích pháp trí, cây giải thoát
Thường mặc áo tàm quý tối thượng.
Trì đại trí tuệ, thích xuất ly
Chính là pháp Sơn vương đại địa
Nhìn thấy thế gian không Đạo sư
Dẫn họ đi đến Bồ-đề Phật.
Họ đã điều phục, tâm tịch diệt
Người ấy hướng đến Nhất thiết trí
Không hướng chúng sinh, khiến điều phục
Con Bậc Nhất Thiết Trí tối thắng.
Tự chứng giải thoát, khiến đến bờ
Nơi cành nhánh cây ái mà giải thoát
Chúng sinh thường thùy miên, phóng dật
Có thể khiến họ được giác ngộ.
Với họ thường thích khéo điều phục
Cũng thường ưa thích nơi pháp thí
Không tương ưng với tâm tật đố
Ưa làm tuệ thí, không keo kiết.
Thấy các chúng sinh nghèo khốn khổ
Thường khiến no đủ, sống dồi dào
Đầy đủ công đức đệ nhất đạo
Bậc Trí, tất cả luôn tu tập.
Trống đại pháp Thắng diệu hết thảy
Dùng tâm hoan hỷ đánh vang rền
Đoạn trừ lưới nghi, rõ diệu pháp
Trí tuệ kiên cố như Kim cương.
Ở trong chúng trụ thắng Thánh pháp
Luôn biết tâm ái dục chúng sinh
Diễn thuyết pháp cam lồ tối thượng,
Nghĩa là Tu-đa-la cốt yếu.
Mỗi một tự trụ Thắng thần thông
Hay cho thế gian mắt Tối thắng
Trừ bỏ tối tăm như mặt trời
Hay sinh trí tuệ cũng như vậy.
Hiển bày chân thật trừ sợ hãi
Trí tuệ tăng thượng, tu thiền định
Ngài nói pháp vi tế tối diệu
Gọi lá tịch diệt thắng xuất ly.
Mỗi một nghe nhận, kính người trí
Kiến lập tín nghĩa, phước tăng thượng
Luôn biết Tạng thắng pháp thế gian
Luôn luôn tuyên thuyết lời hay đẹp.
Ngôn ngữ khéo léo đạt nghi thức
Pháp này – chỗ nương đèn phát sáng
Thường dùng thiện tâm lợi chúng sinh
Tu hành pháp vi diệu tối thượng.
Ngài trụ pháp đạo lìa trần nhiễm
Và dùng tín tịch tĩnh lợi ích
Lấy pháp giáo hóa các thế gian
Được làm Đại Pháp vương tối thắng.
Hay làm bậc Pháp vương Vô thượng
Trụ nơi đệ nhất thật cung kính
Thường hay hộ trì diệu chánh pháp
Tùy thuận chuyển vận thắng pháp luân.
Với kẻ ngu si tự phóng túng
Xem thấy chúng sinh ái như vậy
Thấy tâm mê loạn rơi đường hiểm
Vào con đường ác khó thoát khỏi.
Khởi tâm thanh tịnh đại Từ bi
Nhờ đó hay trừ khổ thế gian
Diễn thuyết đạo vi diệu tối thắng
Đó là con đường tám Chánh đạo.
Pháp ấy rất rộng và kiên cố
Tạo ra thuyền Thắng pháp vô thượng
Hay ở biên sinh tử phiền não
Tế độ các thế gian sợ hãi.
Quán đạo phẩm Không là áo giáp
Làm vị thuyền trưởng rất dũng kiện
Xa lìa sợ hãi thường an lạc
An trí chúng sinh thắng xứ ấy.
Họ đã trì chú, hành oai nghi
Giải thoát tất cả khổ bức bách
Đạt đến thuật sáng, trí cứu cánh
Bậc Trí hay biết dục chúng sinh.
Thấy bệnh phiền não không chỗ về
Các ác, tai hoạn não thế gian
Liền đem pháp dược để điều trị
Như pháp vì họ mà cứu chữa.
Dùng các thắng thuyết trừ dị luận
Ngôn từ vi diệu mà tự tại
Biết các ngôn ngữ, đạt pháp nghĩa
Dũng mãnh trụ nơi thắng trí địa.
Sức nhẫn nhục, trí tuệ đầy đủ
Mặc áo giáp Từ bi kiên cố
Bậc Thánh dùng tuệ vui người trí
An trụ trong pháp không quanh co.
Ngài là Bậc Tối Thắng ba cõi
Đối với chúng sinh, được tự tại
Thấy các chúng sinh theo đường ma
Mê mờ đối với đường chân chánh.
Đường ấy tối thượng, Thánh vô cấu
Có thể hiển bày sự vô úy
Vô lượng trăm ngàn na-do chúng
Đi đến đường ấy, không buồn lo.
Các ngài là đèn sáng cho đời
Chỗ cứu, chỗ nương, là nhà cửa
Chúng sinh sợ hãi, thí vô úy
An ủi tất cả các chúng sinh.
Thấy họ hằng trăm khổ bức bách
Giống như người mù chẳng thấy gì
Đốt lên đuốc pháp rất tối thắng
Diễn thuyết hiển bày nghĩa chân thật.
Họ học nghề hay, lợi chúng sinh
Hay được tiếng tăm và công đức
An trụ nghề nghiệp đúng như pháp
Khiến các chúng sinh được an lạc.
Tất cả đều được đến bỉ ngạn
Có thể làm Đạo sư Tối thắng
Vì thương chúng sinh hướng Bồ-đề
Khiến họ an trụ nơi vô úy.
Mâu-ni luôn luôn không nhàm chán
Đó là trí tuệ và phước đức
Đã đến bờ Giới, Nhẫn, Thiền định
An trụ pháp thậm thâm vi diệu.
Đối với tha nhân không nhàm chán
Diễn thuyết pháp tịch diệt tối thắng
Giống như trời mưa khắp mặt đất
Mưa pháp tràn đầy cũng như vậy.
Nếu có chúng sinh đến chỗ ngài
Cầu hiểu pháp sâu và danh nghĩa
Được ở chỗ ngài nghe pháp báu
Hay trừ vô lượng vô biên khổ.
Các nghi hoặc họ thật to lớn
Liền dùng đao pháp mà cắt đứt
Đến bờ Giới, Nhẫn và Tam-muội
Biết chỗ ưa thích của chúng sinh.
Đại sĩ đã đạt trí cứu cánh
Đã khéo hiểu biết dục quần sinh
Quán sát tâm sở hành chúng sinh
Như tâm sở hành nhất định biết.
Nếu ai nghe lời bậc trí tuệ
Khiến vô số chúng được tịnh nhãn
Vượt qua bờ Thiền định, giải thoát
Hay được an trụ đường chân thật.
Hàng ức vô số các chúng ma
Không thể biết được tâm hạnh họ
Giống như dấu chim giữa hư không
Mọi người đều không thể biết được.
Điều phục tịch diệt, sức trí tuệ
An trụ tối thượng trong Thánh pháp
Tự tại đập phá các ma quân
Ngộ hiểu thắng Bồ-đề tối thượng.
Thường được đạt đến bờ thần thông
Mau chóng đi đến trăm ngàn cõi
Thấy được vô số ức Đức Phật
Số lượng cũng như cát sông Hằng.
Mắt tịnh không có các chướng ngại
Đều thấy các Đạo sư mười phương
Gìn giữ các căn không ô nhiễm
Tự tại đi đến vô lượng cõi.
Vì khiến mười phương các chúng sinh
Một lúc đều thành bậc Đạo sư
Ở trong vô lượng vô số kiếp
Luôn luôn khen ngợi không đoạn tuyệt.
Biện tài vô ngại không cùng tận
Đức được khen ngợi cũng không cùng
Với định Ly cấu vô đẳng này
Nhờ trì tại tâm nên được vậy.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn lại muốn hiển bày lợi ích công đức của Tam-muội này và nói về công hạnh ngày xưa của Bồ-tát, cũng để hiển hiện năng lực tăng trưởng của Đồng tử Nguyệt Quang, nói về bản duyên của chính mình bằng bài kệ:

Đồng tử! Nay ông hãy lắng nghe
Sở hành của ta trăm ngàn kiếp
Cúng dường trăm ngàn các Như Lai
Để cầu tịch định thù thắng vậy.
Ở kiếp quá khứ khó nghĩ bàn
Như số cát bụi hàng trăm cõi
Ông nên biết điều ta vừa nói
Có Phật hiệu là Chúng Tự Tại.
Phật Như Lai ấy có quyến thuộc
Đầy đủ sáu mươi ức ngàn người
Thảy đều lậu tận, không phiền não
Với tám giải thoát khéo quyết định.
Lúc ấy tất cả các đại địa
An ổn, giàu có, không ô trược
Tất cả mọi người đều an lạc
Du hành qua lại đầy vui thích.
Giàu có của cải thật sung mãn
Hưởng thọ các thú vui cõi trời
Trì giới, điều phục, phiền não nhỏ
Nhan sắc đoan chánh thích nhẫn nhục.
Giống như Thiên tử ở cung trời
Bậc Trí trì giới đủ công đức
Vào lúc ấy có một vị vua
Tiếng tăm vang lừng, tên Thiện Hoa.
Khi ấy nhà vua có các con
Cả thảy năm trăm, đủ niệm tuệ
Bấy giờ nhà vua ở chỗ Phật
Xả bỏ sáu trăm vạn vườn rừng.
Cây, hoa, quả đẹp thật trang nghiêm
Cúng Phật – Bậc Đại Bi tròn đủ
Dựng chùa cả thảy sáu trăm vạn
Chỗ kinh hành, sàng tọa cũng vậy.
Ca-sa, y phục, ức trăm ngàn
Trải chỗ kinh hành, nơi nghỉ ngơi
Như vậy vô lượng trăm ngàn thứ
Dâng cúng đầy đủ cho Sa môn.
Bấy giờ đức vua lòng tín kính
Thảy đều dâng cúng Đấng Thiện Thệ
Thành tựu tất cả phước đức lực
Hình sắc đoan nghiêm thật khả ái.
Đức vua thường tu Thập thiện đạo
Chính mình và người đều an trụ
Có trăm ngàn na-do-tha người
Đi theo đức vua đến chỗ Phật.
Tay cầm hoa đẹp và hương xoa
Bảo cái, tràng phan và âm nhạc
Cúng Phật, Bậc Thế Tôn tối thắng
Chắp tay tại đỉnh mà đứng thẳng.
Ngàn chúng Tỳ-kheo đứng im lặng
Người, Trời, Tu-la, Rồng, Dạ xoa
Thảy đều cung kính mà nhìn Phật
Lành thay! Đức Phật nói pháp gì?
Mâu-ni Thế Tôn biết họ muốn
Cũng biết tâm tối thượng đức vua
Phật hay biết rõ đức tin họ
Nên mới tuyên thuyết Tam-muội này.
Khi Thiện Thệ diễn thuyết lời ấy
Các núi, đại địa đều chuyển động
Giây lát hư không mưa các hoa
Trăm ngàn hoa sen mọc từ đất.
Đã khéo rõ biết câu diệu nghĩa
Phật biết họ muốn nên ký thuyết
Vì vua nói định tịch diệt này
Xưa kia ngươi nghe chỗ phân biệt.
Tất cả có, không do vọng tưởng
Không như ngựa hoang, như bọt nước
Như mây, điện xẹt đều không có,
Tất cả vô ngã, vô chúng sinh.
Pháp quá khứ, vị lai cũng không
Không đi, không ở lìa xứ sở
Thường không chắc thật, như huyễn thuật
Tất cả thắng định như hư không.
Không xanh, không vàng, không trắng đỏ
Tên gọi không có như tiếng vang
Nơi tâm lìa tâm, không tâm tánh
Lìa các âm thanh mà không vô.
Diễn thuyết cú nghĩa mà không chấp
Tuy lúc không nói, chữ chẳng không
Văn tự cũng không đến các nơi
Cũng lại không từ các nơi đến.
Chữ ấy vô tận, kho vô tận
Hoặc nói, hoặc không luôn vô tận
Thường nói cú nghĩa mà bất tận
Ai biết như vậy được vô tận.
Nếu biết pháp này là vô tận
Họ thường hay nói pháp vô tận
Tuy nói ngàn loại Tu-đa la
Hằng biết các pháp lìa văn tự.
Trăm ngàn chư Phật đời quá khứ
Cũng từng nói về trăm ngàn pháp
Với tất cả pháp đều vô tận
Pháp vô sở đắc nên vô tận.
Nếu ai thuyết pháp cho người nghe
Mà không chấp trước vào văn tự
Pháp vốn vô ngã, vô chúng sinh
Họ có thể thuyết đến vô tận.
Bậc Trí diễn thuyết tất cả lời
Không bị ngôn ngữ biến đổi tâm
Biết các lời lẽ như tiếng vang
Nên với lời nói không chấp trước.
Dùng các ngôn âm nói pháp này
Lời ấy khoảnh khắc liền tiêu diệt
Các lời lẽ ấy tướng như vậy
Tướng tất cả pháp cũng như vậy.
Các pháp không tướng cũng lìa tướng
Luôn luôn không tướng, tướng không tịch
Không tịch, không dục, không thủ xả
Cho nên tịch định bất khả đắc.
Hữu vi, vô vi đều xa lìa
Đại Tiên như vậy không phân biệt
Xa lìa tất cả đường ác kiến
Hiểu rõ các nẻo đều vô vi.
Luôn luôn không nhiễm, không sân si
Vì vậy tâm thể luôn tịch diệt
Nhờ sức tối thượng Tam-muội này
Cho nên biết được pháp ấy không.
Như hư không, núi sông, hang suối,
Nghe nói âm thanh vang thắng diệu
Hữu vi lưu chuyển do duyên khởi
Tất cả đời không, giống như huyễn.
Trí lực ưa thích pháp công đức
An trụ trí tuệ Tiên thần thông
Phát ra ngôn ngữ rất thiện xảo
Hay nói định tịch diệt như vậy.
Chỗ nói giác quán, chỉ vọng tưởng
Thế gian không thể đến cùng tận
Bản tế xưa nay không có tướng
Nhưng vì đạo nhân duyên vị lai.
Tạo nghiệp không vì có chỗ sinh
Tùy thượng, trung, hạ mới có sinh
Tự tánh pháp này không hay biết
Pháp Không, vô ngã cần phải biết.
Nghiệp báo đen, trắng không hoại diệt
Tự mình tạo tác mình tự nhận
Nghiệp không thể đến ở nơi quả
Nhưng nghiệp hay làm nhân tạo ra.
Chư Phật diễn thuyết pháp Thế đế
Quán hữu vi, vô vi như vậy
Không có chân thật và ngã nhân
Tướng tất cả thế gian như vậy.
Tất cả các cõi đều hư vọng,
Giống như huyễn hóa, trăng trong nước
Không vô cũng như đống bọt nước
Dùng tiếng hiển thuyết luôn tịch diệt.
Tất cả đều bỏ, không đắm trước
Trì giới, oai nghi cũng không chấp
Không chấp nhẫn lực các chúng sinh
Hành giả như vậy được tịch định.
Tùy theo sự ưa thích của vua
Như Lai ứng cơ mà diễn thuyết
Vua nghe Thế Tôn thuyết pháp rồi
Nên cùng quyến thuộc đều thọ giới.
Đức vua được nghe Tam-muội này
Vui mừng, nhảy nhót nói như vầy:
“Lành thay, Bậc nói Tam-muội này
Nên con quy y Phật Thế Tôn.”
Lúc đó có tám vạn nhân chúng
Nghe thể tánh pháp tối thắng này
Diễn nói nghĩa chân thật bậc nhất
Thảy đều chứng được Nhẫn vô sinh.
Chúng sinh không có sự sinh diệt
Các pháp không sinh vốn không tịch
Vua và quyến thuộc biết như vậy
Thảy đều đạt được Nhẫn vô sinh.
Bấy giờ Thiện Hoa bỏ ngôi vua
Nương theo Phật pháp mà xuất gia
Nhà vua có đến năm trăm con
Thảy đều theo cha mà xuất gia.
Khi vua và các con xuất gia
Ngoài ra người khác nhiều vô lượng
Tất cả vì cầu mong Phật pháp
Cũng theo Phật pháp mà xuất gia.
Như Lai tự tại dạy cho họ
Đầy đủ cả thảy hai ngàn năm
Vua với các con và quyến thuộc
Trong hai ngàn năm tu pháp hạnh.
Trải qua số năm tháng như vậy
Đức Phật Thế Tôn nhập Niết-bàn
Khi các Thanh văn đều diệt độ
Chánh pháp về sau rất suy vi.
Đức vua Thiện Hoa có con ngoan
Tên là Phước Tuệ, đủ chánh tín
Vua có Pháp sư làm Đạo sư
Thọ trì định thắng tịch như vậy.
Thông minh trí tuệ có niệm lực
Vô lượng trăm ngàn người cúng dường
Trăm ức chư Thiên đều theo hầu
Đi đến nơi nào cũng khen ngợi.
Lời nói êm dịu không thô tháo
Điều phục, học giới khéo phòng hộ
Âm thanh hòa nhã, lời khả ái
Trí lực, Tổng trì đều đầy đủ.
Được ca-sa đẹp cả trăm ức
Tỳ-kheo hiệu là Danh Xưng Quang
Phước lực vị ấy không ai bằng
Vô lượng Tỳ-kheo sinh đố kỵ.
Đầy đủ phước đức và sắc lực
Cũng đủ trí tuệ và thần thông
Hộ trì tịnh giới, sức thiền định
Chỗ khởi sinh pháp lực Tỳ-kheo.
Tại gia, xuất gia và bốn chúng
Mọi người chiêm ngưỡng cùng yêu mến
Nếu trong Phật pháp được niềm tin
Kính tâm ái trọng mà cúng dường.
Thuở xưa con quý vua Thiện Hoa
Tên là Phước Tuệ, bậc tịnh tín
Biết Tỳ-kheo ấy khởi tâm ác
Ở bên thầy mình để hộ vệ.
Thì có năm mươi vạn quân chúng
Đều mặc áo giáp tay cầm cung
Thường theo ủng hộ Pháp sư ấy
Diễn thuyết Bồ-đề, hạnh tịch diệt.
Ở trong đại chúng nói pháp này
Là không, không ngã, không thọ mạng
Nếu ai còn có sự chấp ngã
Họ sẽ không thích Pháp sư nói.
Chúng Tỳ-kheo không tin pháp không
Tức thì đứng dậy tay cầm đao
Rằng ngài nói dối, là phi pháp
Giết đi sẽ được phước đức lớn.
Pháp sư thấy dao không sợ hãi
Nhờ ngài tư duy đến pháp Không
Chẳng có chúng sinh để giết chết
Không có ngã nhân, như vách đá.
Tỳ-kheo Pháp sư liền chắp tay
Mở miệng nói rằng: “Nam-mô Phật”
Nếu nơi pháp Không thật không dối
Khiến đao trở thành hoa Mạn-đà.
Vì bậc hộ giới muốn như vậy
Vừa nói, không trung liền mưa hoa
Các núi, đại địa đều chấn động
Đao liền biến thành hương hoa đẹp.
Bấy giờ kẻ chấp kiến, cầm đao
Chúng Tỳ-kheo ấy đều xấu hổ
Khiến tay cầm đao không cử động
Kinh hãi, hoảng sợ, rất hãi hùng.
Còn ai có niềm tin nơi Phật
Những người ưa thích nơi pháp Không
Khóc lóc kêu gào tiếng thật lớn
Tất cả y phục đều dâng cúng.
Tỳ-kheo Pháp sư khởi lòng Từ
Ở trước đại chúng nói lời rằng:
“Nếu ai sân hận đối với ta
Ta sẽ vì họ hành Bồ-đề.”
Bạn bè theo pháp rất là ít
Pháp sư luôn bị họ xâm hại
Nghe xong những lời không vui ấy
Năng lực nhẫn nhục càng thêm mạnh.
Khi vị Pháp sư tám mươi tuổi
Diễn thuyết tạng pháp Không Như Lai
Vô lượng trăm ngàn Tỳ-kheo ác
Nhờ sức của vua khiến thoái lui.
Vị Pháp sư ấy vào lúc khác
Lợi ích vô lượng trăm ngàn chúng
Suy xét giới hạnh không sứt mẻ
Tức thì đi đến chỗ Phước Tuệ.
Vua thấy Pháp sư rất cung kính
Liền hỏi Tỳ-kheo ấy lời rằng
Đừng để bậc Đại sư của ta
Tâm bị não loạn, không hoan hỷ.
Ngài liền tâu rằng: Xin vua nghe
Chỗ khởi sinh nhẫn lực chư Phật
Nếu ở chỗ tôi nói lời ác
Liền khởi thắng Từ tâm tăng thượng.
Đã qua vô lượng trăm ngàn kiếp
Trong thời quá khứ tu nhẫn nhục
Tỳ-kheo Xưng Quang, chính là tôi
Như Lai Thích-ca nói như vậy.
Vào thuở xưa, vương tử Phước Tuệ
Người ủng hộ Pháp sư Xưng Quang
Luôn cả ngàn đời là bạn ta
Ta đã thọ ký làm Từ tôn.
Thuở xưa cúng dường Phật tự tại
Người tạo chùa tháp thật thắng diệu
Lúc đó vua Thiện Hoa xuất gia
Được Phật gọi là Liên Hoa Thượng.
Ta ở vô lượng trăm ngàn kiếp
Thọ trì pháp tối thắng Như Lai
Ta đã tích tập năng lực nhẫn
Đồng tử! Ông nên tùy thuận học.
Khi ta đã Bát-niết-bàn rồi
Về sau khi chánh pháp diệt tận
Tỳ-kheo ưa thích sách ngoại đạo
Họ bèn hủy báng Thắng pháp ta.
Thô tháo, vui đùa, không hổ thẹn
Tham lam ăn uống không sợ tội
Lại còn đắm trước nơi y bát
Kẻ ấy hủy báng Thắng pháp ta.
Thường thích đấu tranh, không biết ân
Những kẻ bần cùng, dòng hạ liệt
Ở trong pháp ta đi xuất gia
Họ không ưa thích pháp tịch diệt.
Thuận theo ý ma, mê chúng sinh
Theo ma tự do mà chấp trước
Kẻ phàm phu buông lung, tham dục
Họ không thích nơi không, tịch diệt.
Tại gia, xuất gia, cả bốn chúng
Dua nịnh, ngu si, sinh tâm ác
Tùy thuận những bạn ác như vậy
Kẻ ấy mạt thế chê pháp không.
Đồng tử! Ông đã nghe ta dạy
Nên thường cúng dường Tăng Lan-nhã
Bởi họ ưa thích sự không tịch
Những người như vậy giữ Phật pháp.
Trong Phật pháp ta chấp nhận họ
Xuất gia thọ giới và Bồ-tát
Tín thí đáng cúng, lìa ô nhiễm
Người như vậy mới giữ Bồ-đề.
Thậm chí vứt bỏ cả thân mạng
Tu tập pháp Không, thích tịch diệt
Nơi pháp Không ấy tâm tương ưng
Thích ở Lan-nhã như nai rừng.
Dùng tràng phan, lọng và hương hoa
Đem đến cúng dường chỗ chư Phật
Cúng dường Bậc công đức vô đẳng
Mới mau đạt được Tam-muội này.
Xây dựng tháp miếu đẹp vô cùng
Dùng các vàng bạc mà sơn phết
Tạo vô lượng thứ các hình tượng
Vì nhân Bồ-đề khởi lòng Từ.
Có bao nhiêu vật để cúng dường
Bậc Tịnh diệu trong cõi trời, người
Ông nên cầu mong cúng dường Phật
Để cầu được trí Phật vô thượng.
Phải nên như pháp quán chư Phật
Là các Như Lai ở mười phương
Bậc trụ pháp hiện tiền vô lượng
Tất cả Phật tử cần chứng biết.
Tâm thường lợi ích, thích bố thí
Trì giới thanh tịnh, trụ sức nhẫn
Thích hành nhẫn nhục và viễn ly
Hay biết tất cả các pháp Không
Tinh tấn, dũng mãnh, không giải đãi
Siêng tu thiền định, giới, đa văn
Trí tuệ hiểu rõ, thường thanh tịnh
Không lâu thành bậc Đại từ bi.
Dùng quán bất tịnh trừ tham nhiễm
Sức từ đối trị được sân hận
Dùng pháp nhân duyên phá ngu si
Liền được đạo tối thắng vô thượng.
Quán thân giống như đống bọt nước
Tất cả đều không, chẳng chắc thật
Quán thấy ngũ ấm đều là không
Sẽ mau thành được trí tối thắng.
Lìa chấp của tất cả ác kiến
Không nương thọ mạng và ngã nhân
Rõ biết tất cả các pháp Không
Mau được thành bậc vua Mâu-ni.
Với các lợi dưỡng không tham trước
Không được lợi dưỡng cũng không buồn
Nghe người khen chê tâm bất động
Như núi Tu-di không lung lay.
Bởi vì cầu pháp nên cung kính
Chớ nên nghe xong, vội đáp lại
An trụ tất cả hành xứ Phật
Mau được du hành trăm thế giới.
Với các thế gian đều bình đẳng
Chớ sinh tâm sai biệt ghét, thương
Cẩn thận chớ cầu lợi danh tiếng
Mau được thành Bậc Thiên Nhân Sư.
Luôn luôn khen ngợi công đức Phật
Dùng câu, ngôn từ khen như thật
Chúng sinh nghe lời khen ngợi ấy
Nơi công đức Phật, sinh ưa thích.
Cha mẹ sư trưởng và chúng sinh
Tất cả như vậy đều cung kính
Nhưng không tùy thuận theo ma lực
Liền được ba mươi hai tướng tốt.
Thường lìa tất cả nơi huyên náo
Sống nơi rừng tịch tĩnh không nhàn
Đã được tự lợi còn lợi tha
Vì cầu giải thoát, mau hành đạo.
Thường thích tu tập tâm Từ, Bi
Đối với Hỷ, Xả cũng như vậy
Điều phục, tịch diệt nên khen ngợi
Mau được thành tựu lợi thế gian.
Nếu ai muốn được định tịch diệt
Hướng về đạo Vô thượng Bồ-đề
Cẩn thận chớ gần ác tri thức
Luôn luôn thân cận với người thiện.
Cũng đừng mong muốn quả Thanh văn
Cũng chớ thích sự tu hành ấy
Chí dũng mãnh thích công đức Phật
Mau được thành Phật cũng như ta.
Luôn nói lời thanh tịnh chân thật
Cẩn thận chớ nói dối, lời ác
Thường nói lời khả ái, tốt đẹp
Hay được Bồ-đề Phật tối thắng.
Đối với thân mạng chớ luyến ái
Cẩn thận chớ khen mình, chê người
Hãy tự nhớ nghĩ công đức mình
Chớ nhìn hành vi của kẻ người.
Thường thích quán không và giải thoát
Ở trong sáu đường chớ ưa thích
Bỏ tất cả tướng, không còn gì
Tâm thường an trụ nơi vô tướng.
Thường hãy xa lìa với nhị biên
Chớ có phân biệt có cùng không
Quán các chúng sinh do nhân duyên
Nếu ai biết vậy là Đại sư.
Vứt bỏ tất cả hạnh ái dục
Đoạn trừ tất cả tâm uế trược
Cắt đứt tất cả sự si ám
Được gọi Nhân sư tử tịch diệt.
Luôn thích quán sát sự vô thường
Lìa sự khổ vui trong các cõi
Ô uế, bất tịnh và vô ngã
Người tu như vậy là Nhân tôn.
Phật là đèn sáng ở thế gian
Nên nói chánh pháp thù thắng này
Ngài cũng hàng phục các ma lực
Đã đến thắng Bồ-đề vô thượng.
Các công đức ta mới vừa nói
Chỉ bày vô lượng trăm ngàn lối
Cần phải bỏ lỗi, tu công đức
Đồng tử! Như vậy sẽ thành Phật.

QUYỂN 10

Này Đồng tử! Cho nên Bồ-tát cần phải có đầy đủ sự tu học thân giới. Sao gọi là Bồ-tát đầy đủ thân giới?

Nếu Bồ-tát đầy đủ thân giới thì đối với tất cả pháp được trí vô ngại, đó là thân khéo tu hành. Nếu thân khéo tu hành thì đối với tất cả pháp được trí vô ngại cho nên gọi là Bồ-tát đầy đủ thân giới.

Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Bồ-tát đầy đủ thân giới, có thể thành tựu ba mươi hai tướng Đại nhân, được mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Trí vô ngại, mười tám pháp Bất cộng của Như Lai.

Này Đồng tử! Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ thân giới. Lại nữa, này Đồng tử! Bồ-tát đầy đủ thân giới có thể đạt được ba giải thoát môn. Những gì là ba? Đó là Không giải thoát môn, Vô tướng giải thoát môn và Vô nguyện giải thoát môn. Đó gọi là đầy đủ thân giới.

Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Bồ-tát đầy đủ thân giới có thể được đầy đủ bốn phạm trú. Những gì là bốn? Đó là niệm Từ đối với tất cả chúng sinh; với tâm Bi, Hỷ và Xả cũng lại như vậy. Đó gọi là Bồtát đầy đủ thân giới.

Lại nữa, này Đồng tử! Sao gọi là Bồ-tát tu thân thiện hạnh? Đó là bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác phần, tám Thánh đạo phần. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ thân giới.

Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Bồ-tát đầy đủ thân giới có thể được bốn Thiền và bốn Chánh thọ, hay trụ vào đại Bi, được thiện giác quán, được giác quán tịch tiệt. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ thân giới.

Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Bồ-tát có đầy đủ thân giới thì luôn xa lìa sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, nói hai lưỡi, nói lời ác, nói thêu dệt, tham, sân, tà kiến, mười nghiệp bất thiện, xa lìa sự lường cân trao đấu, lời nói điêu ngoa, lừa đảo về y phục. Đó là nguyên do đưa đến quan lại đâm chém, giết hại, trấn áp cột trói. Những tội tà ngụy, quanh co, hư vọng ấy, cùng đi đôi với lòng tham. Vậy phải xa lìa tất cả nghiệp ác, tự mình phải phòng hộ ngăn cấm, không tham, không thủ, đoạn trừ tất cả. Giống như chặt đứt đầu cây đa-la, làm cho đời vị lai không còn khởi sinh trở lại.

Đồng tử nên biết! Bồ-tát hành pháp ấy là có đầy đủ thân giới.

Này Đồng tử! Vào thuở quá khứ, trải qua số kiếp, chẳng thể nghĩ bàn, rộng lớn vô lượng vô biên, hai lần a-tăng-kỳ, bấy giờ có Đức Phật hiệu là Trí Quang Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật sống đến sáu mươi ức năm. Bấy giờ có một vị vua hiệu là Thắng Tư Duy, cùng với tám vạn ức quyến thuộc đi đến chỗ Đức Như Lai Trí Quang, đảnh lễ dưới chân, nhiễu quanh bên phải ba vòng rồi lui về ngồi một chỗ.

Bấy giờ Đức Như Lai Trí Quang liền dùng bài kệ nói về thân luật nghi:

Giống như hư không, không cấu uế
Tự tánh sáng trong, rốt ráo tịnh
Thân giới trong sạch cũng như vậy
Không thể dùng âm thanh diễn nói.
Âm thanh và Không, không thể biết
Cả hai như vậy cùng một tướng
Nói về hư không, không tướng mạo
Tướng ấy liền đồng với thân giới.
Nếu biết giới ấy chỉ một tướng
Họ liền đầy đủ giới luật nghi
Trí tánh vô sinh, cảnh cũng tịch
Trong chân vô lậu, hết vọng tưởng.
Cũng không tham trước và ái dục
Không khởi khát ái nơi tài sắc
Nếu không thấy được các lỗi lầm
Không bao giờ biết thân giới ấy.
Nếu ai biết được giới vô lậu
Họ liền không còn tái sinh nữa
Nên biết pháp La-hán như vậy
Không phải ngoại đạo mà biết được.
Ở nơi ba cõi tâm sợ hãi
Với dục mưu sinh không tham ái
Không thích ngôi vua và của cải
Họ mới đầy đủ thân giới này.
Nay ta nói nghĩa thân giới ấy
Nghĩa này Thanh giáo không thể nói
Nếu ai biết được mẹ pháp này
Người ấy thường hay trụ thân giới.
Bậc Trí ưa thích nghĩa gốc này
Vì thích nghĩa này nên ta nói
Xa lìa nghĩa sai là nghĩa đúng
Họ được gọi là trụ thân giới.
Trong pháp chư Phật nói nghĩa gì?
Làm sao khéo léo biết nghĩa ấy?
Nếu có thể biết nghĩa tương ưng
Đó mới chính là trụ thân giới.
Nếu ai quán sát nơi vô tướng
Tất cả vô ngã, thảy đều không
Người ấy không thể gọi không giới
Vì họ tu học nơi chân lý.
Xem tất cả hữu là phi hữu
Người ấy thường trụ nơi phi hữu
Nơi tất cả hữu, không đắm trước
Người ấy hay chứng định Vô tướng.
Nếu ai biết được pháp vô ngã
Tự thể không vô, tánh phi hữu
Không thể gọi người ấy không giới
Vì đã học chân thật quyết định.
Nếu ai biết được ngũ ấm không
Các pháp tịch diệt, không thần ngã
Người ấy được gọi bậc trì giới
Thân họ không còn làm nghiệp ác.
Người chấp tướng, không có luật nghi
Vì còn ngã tưởng, tâm chấp trước
Nếu thủ sắc tướng, người chấp trước
Khởi sinh ái dục không luật nghi.
Nếu thường tu học nơi thật tế
Người ấy rốt ráo chân diệu pháp
Họ không còn khởi sinh ái dục
Không còn phạm giới đọa đường ác.
Con kiến có thể động hư không
Rung chuyển núi Tu-di kiên cố
Nếu có người khéo học thật pháp
Diệu sắc chư Thiên không thể động.
Có thể dùng màu vẽ hư không
Bàn tay có thể nắm thái hư
Tất cả ái dục của các ma
Không ai có thể làm lay động.
Âm thanh nói ra có thể bắt
Đá chìm dưới nước làm cho nổi
Người học như vậy nơi giới thân
Không ai biết được tâm niệm họ.
Có bao nhiêu âm thanh tất cả
Thảy đều chứa được trong hộp nhỏ
Nếu ai trụ giới thân như vậy
Không ai biết được chỗ họ ở.
Bao nhiêu sấm sét và điện chớp
Ánh mặt trời, trăng đều bắt được
Nếu ai an trụ nơi thân giới
Không ai biết tự tánh thân họ.
Bao nhiêu vòng gió ở bốn phương
Giăng lưới, bủa câu bắt lại được
Nếu ai an trụ nơi thân giới
Không ai biết được thân lượng họ.
Nếu ai an trụ chế ngự tâm
Chẳng phải cảnh giới các chúng sinh
Ai khéo tu tập nơi thân giới
Giống như hư không không thể nhiễm.
Đường đi của gió khắp bốn phương
Dấu chim hư không có thể thấy
Thân lượng vị ấy không thể biết
Và tâm sở hành cũng như vậy.
Nếu ai trụ thân giới như vậy
Họ không có các điều tội ác
Xa lìa tất cả các phiền não
Là nhờ học thân giới như vậy.
Trụ nơi định tịch diệt thanh tịnh
Không bị dao, lửa làm hại được
Thân họ không thể nắm bắt được
Là nhờ thường tu học thân giới.
An trụ như vậy, không sợ hãi
Tâm không lay động, không ganh ghét
Xa lìa tất cả các hiểm nạn
Nhờ tu học thân giới như vậy.
Không sợ dao lửa và thuốc độc
Cũng không sợ bị nạn nước lửa
Xa lìa tất cả các nguy nạn
Là nhờ tu học thân giới vậy.
Không sợ mưa đá và trộm cướp
Bao nhiêu tất cả những độc hại
Nhờ họ lìa tất cả ngã tưởng
Nhờ đã lìa tưởng nên không sợ.
Xa lìa sợ hãi và âu lo
Nhờ không sợ hãi, tâm bất động
Tâm không động chuyển, nên không sợ
Hằng ức chúng ma cũng không sợ.
Nếu ở chỗ thân giới Bồ-tát
Diễn thuyết, khai mở và hiển bày
Nếu ai tu học thân giới này
Hằng ức ma binh không thể động.
Nếu ai muốn biết pháp chư Phật
Nên biết trong đó không giới hạn
Nếu ai tu học về thân giới
Người ấy làm tháp của ba cõi.
Nếu ai muốn biết Phật pháp này
Chẳng thể nghĩ bàn chúng tịch diệt
Nếu ai học thân giới như vậy
Công hạnh kiên cố, mau thành Phật.
Nếu ai muốn được pháp Đại tiên
Được mười Lực Phật chẳng nghĩ bàn
Nếu ai học thân giới như vậy
Tu tập Phật lực đâu có khó.
Mười tám pháp Bất cộng tối thắng
Chỗ chư Phật Như Lai an trụ
Nếu ai tu thân giới này
Họ được pháp ấy đâu có khó.
Nếu ở chỗ bảy Giác chi báu
Cùng với Thần túc và Biện tài
Nếu ai tu học thân giới này
Được diệu quả ấy đâu có khó.
Đối với Phạm trụ và Tứ thiền
Cùng với ba thứ môn giải thoát
An trụ giác quán và tịch diệt
Người trụ thân giới được không khó.
Bốn Niệm xứ cùng với Chánh cần
Năm Căn, năm Lực của Đại tiên
Cùng tám Chánh đạo vật báu Thánh
Người trụ thân giới được không khó.
Bao nhiêu pháp khác của chư Phật
Không thể nghĩ bàn, không hạn lượng
Họ được pháp ấy không khó khăn
Nhờ học được thân giới như vậy.
Được nghe thân giới như vậy rồi
Vua đạt được lợi lạc tối thắng
Hoan hỷ, nhảy nhót và vui sướng
Trong Phật pháp ấy liền xuất gia.
Xuất gia trải qua mười ức năm
Tu hành phạm hạnh rất thanh tịnh
Luôn luôn tu hành bốn Phạm trụ
Lợi ích thế gian các trời, người.
Khéo tu phạm trụ thanh tịnh rồi
Liền được thân giới thù thắng vậy
Lại thấy mười phương ức ngàn Phật
Tu hành hạnh Bồ-đề như vậy.
Xuất gia trong thắng pháp ấy rồi
Tu hành tịnh phạm hạnh tối thắng
Đầy đủ đa văn, diệu biện tài
Gọi là Đại Pháp sư thông tuệ.
Kiên trì cấm giới không khuyết lậu
Giới thân thanh tịnh, không ô uế
Đó là Thánh giới, vô lậu giới
Nên biết Thánh giới là thường trụ.
Đồng tử! Xưa ta tu Bồ-đề
Bấy giờ hóa làm vua Thắng Tư
Ông chớ có nghi là ai khác
Nên biết chính là thân của ta.
Đồng tử! Ông nên tùy thuận học
An trụ thân giới thù thắng vậy,
Nên đem tuyên thuyết cho mọi người
Không lâu cũng sẽ được như ta.

Này Đồng tử! Cho nên Bồ-tát phải tu hành thân nghiệp thanh tịnh. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát tu hành tịnh nghiệp, không sợ đọa vào địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ và cảnh giới của ma; cũng không sợ bị khổ ách nơi năm đường, tám nạn; lại cũng không sợ tai nạn nước, lửa, đao binh, thuốc độc, sư tử, cọp, beo, chồn, cáo, tê giác, voi, gấu; không bị tất cả ác thú, trùng độc ăn thịt; cũng lại không sợ nạn Nhân phi nhân làm hại.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát tu hành thân hạnh thanh tịnh, nếu muốn dùng tay nâng tam thiên đại thiên thế giới này lên cao từ một cây đa-la cho đến mười cây đa-la thì tùy theo ý muốn đều làm được cả.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát tịnh thân hạnh có thể đạt đến bờ kia, thần thông rốt ráo. Nhờ họ đạt được sức mạnh phước đức, thần túc nên được định tịch diệt, vô nhiễm tùy thuận, viễn ly, nhiếp thủ. Nhờ có thể nhập vào và nương nơi định này nên được vô lậu, thành tựu được con mắt vô ngại nơi tất cả thế gian.

Sao gọi là Thần túc?

Nghĩa là tùy theo ý nghĩ mà có thể tạo ra oai lực tự tại, hiểu rõ không bị ngăn trệ, tùy theo ý muốn mà đều có thể thành tựu nên gọi là Thần túc. Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát trụ Thần túc có thể làm các việc thần biến. Đó là một có thể biến thành nhiều, nhiều có thể biến thành một, ẩn hay hiện đều tự tại; có thể đi xuyên qua vách đá, núi non, không bị trở ngại, như gió đi trên hư không; ngồi kiết già trên không trung giống như chim bay, đi dưới nước như đi trên đất; ẩn hay hiện trong đất như ở trong nước không khác; thân phát ra khói lửa, giống như đống lửa lớn; mặt trời mặt trăng có đại oai đức mà có thể sờ mó được và muốn làm thân to lớn, tự tại, vô ngại cho đến trời Phạm thiên.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Thần thông tự tại dạo mười phương
Ở nơi vách đá và núi non
Tùy ý xuyên qua không trở ngại
Giống như chim bay theo chiều gió.
Đi trên mặt đất như dưới nước
Ẩn hiện tự tại, không chướng ngại
Đi trên mặt nước không bị chìm
Cũng giống như đi trên đất cứng.
Một thân có thể hiện ngàn thân
Nhiều thân vô lượng hiện thành một
Tùy ý hiển hiện đủ màu sắc
Bậc Trí vì độ các chúng sinh.
Du hành không trung như chim bay
Thân phun khói lửa như đống lửa
Lại có thể toàn thân lưu xuất
Nước hương thơm thanh tịnh mát mẻ.
Bậc Trí ngồi thẳng trên mặt đất
Có thể dùng tay sờ trời, trăng
Đến chỗ Phạm thiên trong một niệm
Diễn nói thắng pháp cho Phạm chúng.
Ngàn vạn Phạm chúng nghe pháp xong
Thích cầu vô thượng, được lợi lạc
Lại hay đến các cõi trời khác
Diễn thuyết pháp tối thắng cho họ.
Nếu lúc vị ấy muốn thuyết pháp
Liền làm chấn động đại thiên giới
Lại khiến vô lượng ức cõi Phật
Âm thanh vi diệu vang khắp nơi.

Này Đồng tử! Cho nên Bồ-tát cần phải tu học thân hành thanh tịnh. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát tu hạnh thân hành thanh tịnh, với thiên nhĩ giới thanh tịnh nghe âm thanh xa hơn cõi người, hoặc địa ngục, súc sinh, cõi Diêm-ma-la, Thiên thượng và nhân gian, hoặc gần, hoặc xa đó gọi là Thiên nhĩ thông.

Này Đồng tử! Bồ-tát cần phải tu học thân hành thanh tịnh. Vì sao? Vì Đại Bồ-tát tu hành thân hạnh thanh tịnh thường có thể biết được tâm người khác, nếu họ có tâm dục thì như thật biết có tâm dục, nếu họ không có tâm dục thì như thật biết là không có tâm dục; nếu có tâm sân thì như thật biết là có tâm sân, nếu không có tâm sân thì như thật biết là không có tâm sân; nếu có tâm si thì như thật biết là có tâm si, nếu không có tâm si thì như thật biết là không có tâm si; có tâm chấp thủ thì như thật biết là có tâm chấp thủ, không có tâm chấp thủ thì như thật biết là không có tâm chấp thủ; nếu có tâm điên đảo thì như thật biết là có tâm điên đảo, còn nếu không có tâm điên đảo thì như thật biết là không có tâm điên đảo; nếu có tâm nhỏ nhoi thì như thật biết là có tâm nhỏ nhoi, nếu không có tâm nhỏ nhoi thì như thật biết là không có tâm nhỏ nhoi; nếu họ có tâm to lớn thì như thật biết là có tâm to lớn, họ không có tâm to lớn thì cũng như thật biết là họ không có tâm to lớn; nếu họ có tâm trong sáng thì như thật biết có tâm trong sáng, nếu họ không có tâm trong sáng thì như thật biết họ không có tâm trong sáng; nếu họ có tâm vô lượng thì như thật biết họ có tâm vô lượng, nếu họ có tâm hữu lượng thì như thật biết họ có tâm hữu lượng; nếu họ có tâm thu nhiếp thì như thật biết họ có tâm thu nhiếp, nếu họ không có tâm thu nhiếp thì như thật biết họ không có tâm thu nhiếp; nếu tâm họ loạn thì như thật biết tâm họ loạn, nếu tâm họ không loạn thì như thật biết tâm họ không loạn; nếu tâm họ định thì như thật biết tâm họ định, nếu tâm họ không định thì như thật biết tâm họ không định; nếu họ có tâm hướng thượng thì như thật biết tâm họ hướng thượng, nếu họ không có tâm hướng thượng thì như thật biết họ không có tâm hướng thượng; nếu họ có tâm giải thoát thì như thật biết họ có tâm giải thoát, nếu họ không có tâm giải thoát thì như thật biết là không có tâm giải thoát; nếu tâm họ vô học thì như thật biết tâm vô học, nếu tâm có học thì như thật biết tâm có học.

Này Đồng tử! Đó gọi là Bồ-tát hiểu biết như thật về tâm chúng sinh khác.

Lại nữa, này Đồng tử! Bồ-tát cần phải tu học thân hành thanh tịnh.

Sao là Bồ-tát thân hành thanh tịnh?

Đó là nhớ biết vô số việc kiếp trước, hoặc một đời, hai đời, ba đời cho đến mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, trăm đời, ngàn đời, vạn đời, mười vạn đời, trăm vạn đời, ngàn vạn đời, vạn vạn đời.

Lại biết sự việc một kiếp, trăm kiếp cho đến ngàn vạn kiếp, biết kiếp thành, biết kiếp hoại, biết kiếp thành hoại, cho đến sự việc vô lượng kiếp thành hoại và biết trong kiếp ấy từng có chúng sinh tên như vậy, họ như vậy, sinh xứ như vậy, ăn uống như vậy, trường thọ như vậy, chết yểu như vậy, trụ lâu như vậy, kết thúc như vậy; biết sự chịu khổ như vậy, thọ vui như vậy, hoặc chết chỗ này, sinh chỗ kia, chết chỗ kia, sinh chỗ này, dáng mạo như vậy, quốc độ như vậy. Những việc kiếp trước như vậy thảy đều nhớ biết hết, đó gọi là Bồ-tát có Túc mạng trí thông.

Lại nữa, này Đồng tử! Bồ-tát cần phải tu học thân hành thanh tịnh.

Sao là Bồ-tát thân hành thanh tịnh?

Đó là Thiên nhãn giới thanh tịnh thấy xa hơn người thường, thấy các chúng sinh sống chết qua lại, hoặc sắc đẹp, hoặc sắc xấu, hoặc đến đường thiện, hoặc đến đường ác, hoặc trụ thiện đạo, hoặc trụ ác đạo, hoặc khổ, hoặc vui, hoặc hơn, hoặc kém, như nghiệp tự mình tạo ra thảy đều biết rõ. Vì các chúng sinh này thành tựu thân ác hạnh, thành tựu khẩu ác hạnh, thành tựu ý ác hạnh, hủy báng Hiền thánh, do nhân duyên nghiệp tà kiến nên khi thân hoại mạng chung nên phải đọa vào địa ngục.

Các chúng sinh nào nếu thành tựu thân thiện hạnh, thành tựu khẩu thiện hạnh, thành tựu ý thiện hạnh, không hủy báng Hiền thánh, nhờ có chánh kiến, nên khi thân hoại mạng chung, đi đến chỗ lành, sinh lên cõi trời.

Này Đồng tử! Đó gọi là Bồ-tát có Thiên nhãn giới thanh tịnh thấy xa hơn người thường, thấy các chúng sinh sống chết qua lại, hoặc sắc đẹp, hoặc sắc xấu, hoặc đến đường lành, hoặc đến đường ác, hoặc ở trên đường lành, hoặc ở trên đường ác, hoặc khổ, hoặc vui, hoặc hơn hoặc kém, như nghiệp của chính mình thảy đều biết rõ. Đó gọi là Thiên nhãn thông.

Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Đại Bồ-tát tu hành thân hạnh thanh tịnh thì trong một niệm, trí tuệ tương ưng với ba đời, những điều hoặc biết, hoặc thấy, hoặc đắc, hoặc chứng cần phải rõ biết. Tất cả những điều ấy đều biết, đều thấy, đều đắc, đều chứng, thảy đều thấy rõ. Pháp ấy thế nào? Đó là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên lão tử ưu bi khổ não. Mười hai nhân duyên như vậy, nên biết, nên thấy, nên đắc, nên chứng cần phải rõ biết. Như vậy do vô minh diệt nên hành diệt, hành diệt nên thức diệt, thức diệt nên danh sắc diệt, danh sắc diệt nên lục nhập diệt, lục nhập diệt nên xúc diệt, xúc diệt nên thọ diệt, thọ diệt nên ái diệt, ái diệt nên thủ diệt, thủ diệt nên hữu diệt, hữu diệt nên sinh diệt, sinh diệt nên lão tử diệt, ưu bi khổ não tất cả đều diệt, phải thấy biết như thật, chứng đắc như thật, giác biết như thật. Đối với bốn Thánh đế cũng biết rõ như thật. Đó gọi là Lậu tận thông.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Bồ-tát đã hiện bày
Thứ lớp các thần thông
An trụ trong Tam-muội
Có thể tùy ý đến.
Khéo tu về nhĩ căn
Được Thiên nhĩ siêu việt
Tai họ nghe tất cả
Pháp Đạo sư nói ra.
Hay biết tâm chúng sinh
Có dục hay lìa dục
Có sân hay không sân
Có si hay không si.
Biết rõ việc kiếp trước
Thuở xưa sống ở đâu
Suốt cả ngàn ức kiếp
Kho trí đều chiếu thấu.
Khéo tu nơi nhãn căn
Được Thiên nhãn siêu việt
Dùng mắt xem chúng sinh
Chết đây sinh ở kia.
Một niệm đều biết hết
Tâm niệm các chúng sinh
Đều rõ biết như vậy
Trí ấy khó nghĩ bàn.

Này Đồng tử! Sao gọi là khẩu giới?

–Nếu Đại Bồ-tát thành tựu khẩu giới thì được sáu mươi thứ âm thanh mỹ diệu, vô ngại, thanh tịnh, không thể nghĩ bàn. Đó gọi là khẩu giới.

Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Đại Bồ-tát có đầy đủ khẩu giới thì nói bất cứ điều gì cũng được mọi người tín thọ. Đó gọi là khẩu giới.

Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát đầy đủ khẩu giới, được ba mươi hai tướng của Đại nhân, được mười Lực của Như Lai. Đó là trí lực về thị xứ, phi xứ; trí lực biết về nghiệp xứ nhân quả của các chúng sinh ở quá khứ, vị lai và hiện tại, biết các thiền định giải thoát Tam-muội chánh thọ; trí lực biết có phiền não, không phiền não; trí lực biết thọ mạng của người khác, biết căn tánh sai biệt các chúng sinh; trí lực biết chúng sinh có nhiều dục; trí lực biết vô lượng tâm tánh các chúng sinh; trí lực biết con đường đến tất cả xứ; trí lực biết túc mạng; trí lực biết sự sinh tử tất cả chúng sinh; trí lực biết lậu tận.

Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ khẩu giới có thể được bốn Vô úy, mười tám pháp Bất cộng. Đó gọi là đầy đủ khẩu giới.

Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ khẩu giới được ba giải thoát môn, được bốn Phạm trụ, đó gọi là đầy đủ khẩu giới.

Lại nữa, này Đồng tử! Nói tóm lại, Đại Bồ-tát đầy đủ khẩu giới, là được bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác phần và tám Thánh đạo phần. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ khẩu giới.

Lại nữa, Đồng tử! Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ khẩu giới sẽ được đại Bi phạm trụ, được đại Xả phạm trụ, được an ổn giác, được tịch diệt giác. Đó là Bồtát đầy đủ khẩu giới.

Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát đầy đủ khẩu giới thì được xa lìa vọng ngữ, nói hai lưỡi, nói lời ác, nói thêu dệt; đối với cha mẹ, sư trưởng, không nói lời thô lỗ, tất cả những lời xấu ác Bồ-tát thảy đều xa lìa. Bồ-tát còn rõ biết một cách như thật âm thanh như tiếng vang, như giấc mộng, như huyễn, như hóa, như sóng nắng, như bóng sáng; đối với tiếng vang cho đến bóng sáng này thảy đều không sở đắc, không phân biệt, không nắm giữ, không duyên theo, không chấp trước. Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ khẩu giới.

Này Đồng tử! Đại Bồ-tát khẩu giới thanh tịnh, được tất cả lời Phật, được tất cả thần túc Phật, được tất cả thần thông Phật.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài tụng:

Nếu người tương ưng cùng khẩu giới
Các Bồ-tát ấy sẽ đạt được
Trí vô ngại tất cả các pháp
Gọi là đầy đủ nơi khẩu giới.
Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới
Đạt được ba hai tướng Đại nhân
Được mười Lực Phật, Bất cộng pháp
Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới.
Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới
Sẽ được tất cả các Phật pháp
Là pháp chư Phật ta đã nói
Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới.
Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới
Sẽ được Phạm trụ và biện tài
Được pháp hy hữu chẳng nghĩ bàn
Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới.
Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới
Được bốn Niệm xứ và Chánh cần
Đủ bốn Thần túc, Căn và Lực
Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới.
Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới
Sẽ được đại Xả, không sợ sệt
Được lòng đại Bi, thanh tịnh trụ
Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới.
Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới
Sẽ được an ổn giác thanh tịnh
Và đạt được giác quán tịch tĩnh
Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới.
Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới
Xa lìa nói dối và hai lưỡi
Lại lìa ác khẩu và thêu dệt
Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới.
Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới
Không bao giờ phỉ báng chánh pháp
Cũng không hủy báng Đức Như Lai
Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới.
Nếu ai tương ung cùng khẩu giới
Đối với cha mẹ và sư trưởng
Không làm phi pháp, lời thô ác
Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới.
Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới
Miệng không bao giờ nói lời lỗi
Họ đều lìa hết mọi lỗi lầm
Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới.
Nếu ai tương ưng cùng khẩu giới
Sẽ biết tiếng nói như tiếng vang
Biết rõ âm thanh giống như mộng
Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới.
Biết rõ vô ngã và thọ mạng
Duyên khởi, hư vọng giống như mộng
Người hay biết ngôn ngữ như vậy
Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới.
Diệt đế không thật giống như mộng
Bản thể Niết-bàn tánh như mộng
Bồ-tát biết nói người như vậy
Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới.
Các ngôn ngữ khác bất khả đắc
Không có phân biệt, không chấp trước
Không có phan duyên, không chấp thủ
Gọi là bậc đầy đủ khẩu giới.

Này Đồng tử! Sao gọi là ý giới?

Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ ý giới, sẽ được tất cả Phật pháp, được tất cả thần thông, tâm được giải thoát bất động. Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ ý giới, sẽ được định Kim cang Tam-muội. Đó gọi là thành tựu ý giới.

Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ ý giới sẽ được ánh sáng rực rỡ, đó gọi là đầy đủ ý giới. Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ ý giới sẽ được sáu mươi thứ âm thanh tương ưng mỹ diệu, đó gọi là đầy đủ ý giới.

Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ ý giới, sẽ được ba mươi hai tướng của Đại nhân, mười Lực, bốn Vô úy, Vô ngại trí, mười tám pháp Bất cộng. Đó gọi là đầy đủ ý giới.

Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát đầy đủ ý giới, sẽ được ba môn giải thoát Không, Vô tướng và Vô nguyện. Đó là đầy đủ ý giới.

Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát đầy đủ ý giới sẽ được bốn Phạm trụ: đại Từ, đại Bi, đại Hỷ và đại Xả. Đó gọi là đầy đủ ý giới.

Lại nữa, này Đồng tử! Đại Bồ-tát đầy đủ ý giới sẽ được bốn Niệm xứ, bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, năm Căn, năm Lực, bảy Giác phần và tám Chánh đạo phần. Đó gọi là đầy đủ ý giới.

Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Đại Bồ-tát đầy đủ ý giới được trụ nơi đại Bi, trụ nơi đại Xả, được giác an ổn, được giác tịch diệt, được lợi ích, được oai nghi, được thắng hạnh. Đó gọi là đầy đủ ý giới.

Lại nữa, này Đồng tử! Nếu Đại Bồ-tát vứt bỏ tà kiến, không tương ưng với tà kiến, đoạn trừ sân nhuế, không tương ưng với sân nhuế, đoạn trừ xan tham, không tương ưng với xan tham, vứt bỏ giải đãi không tương ưng với giải đãi; đối với cha mẹ, sư trưởng, không khởi tâm quanh co, dua nịnh, tâm tham, sân, si; cũng không tương ưng với những tâm lý ấy, không bỏ tâm Bồ-đề, không bỏ tâm tín nhạo, tâm giác quán các xấu ác khác thảy đều xả ly, cũng không tương ưng với chúng. Đó gọi là đầy đủ ý giới.

Bồ-tát phải khéo biết các pháp như huyễn thuật, như giấc mộng, như biến hóa, như sóng nắng, như tiếng vang, như bóng ánh sáng, không đến, không đi; cũng lại biết sự khổ như mộng, biết sự vô ngã như mộng, biết sự vô thường như mộng, biết chúng sinh như mộng, biết cái không như mộng, ý không sở đắc, không phân biệt, không dính mắc, không phan duyên, không chấp trước. Này Đồng tử! Đó gọi là Bồ-tát đầy đủ ý giới. Nếu Bồ-tát đầy đủ pháp ý giới thanh tịnh, liền xa lìa tất cả các nạn, được tất cả các Phật pháp chẳng thể nghĩ bàn, được tất cả thần thông của chư Phật, được tâm giải thoát bất động.

Này Đồng tử! Đó gọi là đầy đủ ý giới.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài tụng:

Một lòng lắng nghe chớ loạn tưởng
Đã nói ý giới tịnh không uế
Được nghe pháp xong, khởi các hạnh
Liền mau chứng ngộ được Bồ-đề.
Bậc Trí nếu thọ trì ý giới
Tịch tĩnh bậc nhất, luôn bất động
Pháp Phật siêu việt chưa từng có
Đó mới gọi là ý giới tịnh.
Bậc Trí nếu thọ trì ý giới
Tâm được giải thoát, thường bất động
Được định tối thắng như Kim cang
Đó mới gọi là ý giới tịnh.
Bậc Trí nếu phát khởi như vậy
Khen ngợi, diễn thuyết, rộng lợi ích
Đạt được sáu mươi tiếng vi diệu
Đó mới gọi là ý giới tịnh.
Ý giới bậc Trí, thật cao tột
Được ba hai tướng bậc Đại nhân
Được mười Lực Phật, các công đức
Đó mới gọi là thắng ý giới.
Bậc Trí nếu thọ trì ý giới
Đạt được biện tài và vô úy
Được pháp siêu việt rất hy hữu
Đó mới gọi là thắng ý giới.
Bậc Trí nếu thọ trì ý giới
Được bốn Niệm xứ và Thần túc
Lại được Chánh cần và Căn, Lực
Đó là nói về thắng ý giới.
Bậc Trí nếu thọ trì ý giới
Hay được bảy Giác chi thanh tịnh
Cũng hay đạt được tám Thánh đạo
Đó là nói về thắng ý giới.
Bậc Trí nếu thọ trì ý giới
Đạt được sự xả ly tối thắng
Cùng với đại Bi tịnh vô cấu
Đó là nói về thắng ý giới.
Bậc Trí nếu thọ trì ý giới
Được giác an ổn tịnh vô cấu
Được giác viễn ly, các công đức
Đó là nói về thắng ý giới.
Bậc Trí nếu thọ trì ý giới
Không tương ưng tất cả tà kiến
Luôn luôn không khởi sân vô minh
Đó mới gọi là ý giới tịnh.
Nếu ai được đầy đủ ý giới
Thậm chí khoảnh khắc không dua nịnh
Không dối láo với cha mẹ, sư
trưởng Đó là nói về ý giới
tịnh. Bậc Trí nếu đầy đủ ý
giới Các việc tham, sân đều xa
lìa Pháp ngu si cũng đều đoạn
trừ Đó là nói về thắng ý
giới. Bậc Trí nếu đầy đủ ý
giới Luôn luôn không bỏ tâm Bồ
đề Trí tâm quyết định không thể
hoại Đó là nói về thắng ý
giới. Bậc Trí nếu đầy đủ ý
giới Nếu có tất cả các xấu
ác Thảy đều xa lìa, không tương
ưng Đó là nói về thắng ý
giới. Tâm có thể vào pháp như
huyễn Giống như giấc mộng và sóng
nắng Cũng như bóng sáng và tiếng
vang Đó là nói về thắng ý
giới. Biết việc khổ não giống như
mộng Cũng như vô thường, không, vô
ngã Tâm ý hay biết việc vậy
Đó là nói về thắng ý giới.
Biết không chúng sinh, không thọ mạng
Hiểu nhân duyên như bánh xe lăn
Không từ đâu đến, chẳng về đâu
Đó là nói về thắng ý giới.
Tìm cầu ý ấy không thể được
Cũng không phân biệt, không dính mắc
Không có phan duyên, không chấp thủ
Đó là nói về thắng ý giới.
Đệ nhất nghĩa đế giống như mộng
Quán biết Niết-bàn cũng như vậy
Bậc Trí nếu biết ý như vậy
Đó là nói về thắng ý giới.

Này Đồng tử! Sao gọi họ là nghiệp thanh tịnh? –Vì họ thấy ba cõi giống nhu mộng tưởng, nên họ nhàm chán ba cõi, không khởi tham ái. Đó gọi là nghiệp thanh tịnh.

Sao gọi họ vượt qua phan duyên?

–Vì họ biết ấm, giới và nhập giống như huyễn, nên xa lìa chúng.

Sao gọi là biết rõ các ấm?

–Nghĩa là vì biết rõ các ấm giống như sóng nắng.

Sao gọi là được các giới bình đẳng?

–Nghĩa là vì biết giới... như biến hóa nên xả bỏ chúng.

Sao gọi là trừ bỏ các nhập?

–Nghĩa là vì các nhập như bóng ánh sáng nên trừ bỏ đi.

Sao gọi là đoạn trừ khát ái?

–Nghĩa là vì đối với tất cả pháp không có sự phan duyên.

Sao gọi là chứng Vô sinh nhẫn?

–Vì đối với tất cả pháp không có sở đắc.

Sao gọi là biết các nghiệp?

–Nghĩa là vì phát khởi tinh tấn, đoạn trừ các khổ.

Sao gọi là hiển thị các nhân?

–Nghĩa là ấm như tiếng vang, không có sinh vậy.

Sao gọi là không hoại đối với quả?

–Nghĩa là vì nghiệp quả giống như mộng nên không có hoại.

Sao gọi là hiện thấy các pháp?

–Nghĩa là vì trong các pháp được Nhẫn vô sinh. Sao gọi là tu tập nơi đạo?

–Nghĩa là đối với tất cả pháp không có cái để tu.

Sao gọi là gặp được chư Phật?

–Nghĩa là vì đầy đủ tất cả giới hạnh của chư Phật.

Sao gọi là trí tuệ sáng suốt?

–Nghĩa là vì đối với tất cả pháp, được Nhẫn vô sinh.

Sao gọi là vào các dục lạc của chúng sinh?

–Nghĩa là vì biết căn tánh trước sau các chúng sinh sai biệt.

Sao gọi là đắc pháp trí?

–Nghĩa là đối với tất cả pháp vô sở đắc.

Sao gọi là trí Vô ngại biện?

–Nghĩa là hay đạt được pháp thức như thật.

Sao gọi là trí sai biệt khéo biết văn tự?

–Nghĩa là nhờ biết ba thứ ngôn ngữ sai biệt.

Sao gọi là vượt qua các việc?

–Nghĩa là nhờ hiểu rõ vô sự.

Sao gọi là biết về âm thanh?

–Nghĩa là nhờ trí nhập vào âm thanh như tiếng vang.

Sao gọi là được hoan hỷ?

–Nghĩa là đối với tất cả pháp mà vô sở đắc, xa lìa khổ não, vứt bỏ gánh nặng mà được ra khỏi.

Sao gọi là được sự ái hỷ?

–Nghĩa là đối với kẻ đi xin, khiến cho họ được hoan hỷ, biết lúc bố thí nên thấy được lợi ích.

Sao gọi là giữ tâm ngay thẳng?

–Nghĩa là hay hiểu rõ về bốn Chân đế.

Sao gọi là oai nghi ngay thẳng?

–Nghĩa là điều hòa thân quân bình.

Sao gọi là xa lìa sắc tức giận?

–Nghĩa là đoạn trừ các lỗi sân hận.

Sao gọi là sắc mặt thường vui vẻ?

–Nghĩa là khéo giữ giới cùng trú an ổn.

Sao gọi là âm thanh mỹ diệu?

–Nghĩa là nói sự lợi ích cho người khác.

Sao gọi là trước tiên nói lời an ủi?

–Nghĩa là trước tiên nói: “Lành thay!”, liền đứng dậy để nghênh tiếp.

Sao gọi là không giải đãi?

–Nghĩa là không bỏ sự siêng năng.

Sao gọi là cung kính bậc tôn trưởng?

–Nghĩa là kính nể bậc tôn trưởng, tưởng như là Thiện tri thức.

Sao gọi là cúng dường bậc tôn trưởng?

–Nghĩa là theo lời dạy bậc tôn trưởng mà hầu hạ cúng dường.

Sao gọi là sinh ra liền biết đủ?

–Nghĩa là đối với tất cả nhu cầu sinh sống đều không đắm trước.

Sao gọi là cầu pháp thiện không chán?

–Nghĩa là chứa nhóm các thiện pháp.

Sao gọi là đời sống thanh tịnh?

–Nghĩa là tùy nghi mà được, liền sinh lòng biết đủ, nếu không biết đủ liền sinh tâm quanh co, dua nịnh, khoa trương, dụ dỗ, sách động người khác, lấy lợi cầu lợi, những việc như vậy đều xả bỏ hết.

Sao gọi là không lìa việc sống ở A-lan-nhã?

–Nghĩa là không bỏ sự siêng năng, thích ở một cách nhàn hạ và ở tòng lâm, hang núi, khe suối, ưa thích đối với pháp, không giao du với người tại gia và xuất gia, không thích lợi dưỡng, đoạn trừ khát ái và cảm thọ sự hỷ lạc của thiền định vậy.

Sao gọi là trí trụ xứ từng địa vị, cấp bậc?

–Đó là trí ở quả Thanh văn, trí ở quả Bích-chiphật, trí trụ xứ Bồ-tát địa vậy.

Sao gọi là nhớ mãi không quên?

Nghĩa là nhớ vô thường, khổ, không và vô ngã.

Sao gọi là được trí thiện xảo về ấm?

–Nghĩa là biết sự sai biệt của ấm, giới, nhập mà vô sở đắc.

Sao gọi là chứng thần thông?

–Nghĩa là được bốn Thần túc, nên có thể biến hiện được.

Sao gọi là diệt các phiền não?

–Nghĩa là đoạn trừ tham, sân, si.

Sao gọi là đoạn trừ tập khí?

–Nghĩa là nhàm chán hành động ngu si quá khứ, không thích địa vị Thanh văn và Bích-chiphật.

Sao gọi là Chuyển Thắng hạnh?

–Nghĩa là hay khởi lên bốn Vô ngại biện, năng lực vô úy của Như Lai.

Sao gọi là tu tập nhân?

–Nghĩa là đoạn trừ sự thương, ghét.

Sao gọi là biết phương tiện phạm?

–Nghĩa là biết Ba-la-đề-mộc-xoa, biết Tỳ-ni, biết giới.

Sao gọi là đoạn trừ các sự hối hận?

–Nghĩa là đối với các tội lỗi, phải chí thành sám hối, không còn tạo tội nữa, tu các thiện pháp.

Sao gọi là đoạn trừ ái luyến?

Nghĩa là nhổ sạch cành nhánh khát ái của ba cõi, phát sinh điều thiện chưa sinh, với điều thiện đã sinh đừng cho tiêu mất.

Sao gọi là vượt qua các cõi?

–Nghĩa là đối với ba cõi mà không sở đắc, lại không hoài niệm, gọi là vượt qua các cõi.

Sao gọi là minh đạt túc mạng?

–Nghĩa là nhớ biết sự việc đời quá khứ.

Sao gọi là không nghi ngờ đối với nghiệp quả?

–Nghĩa là lìa các chấp thường, chấp đoạn.

Sao gọi là tư duy về pháp?

–Nghĩa là suy nghĩ về pháp như thật.

Sao gọi là huân tập đa văn?

–Nghĩa là tu tập, thọ trì tạng Thanh văn, tạng Bích-chi-phật, tạng Bồ-tát.

Sao gọi là được trí tuệ lanh lợi?

–Nghĩa là quán trí vô sinh giống như giấc mộng.

Sao gọi là ưa thích nơi trí?

–Nghĩa là thường huân tập trí tuệ.

Sao gọi là trí tuệ thông đạt?

–Nghĩa là khởi sinh Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Sao gọi là được địa vị điều phục?

–Nghĩa là chỗ Bồ-tát đã tu học.

Sao gọi là giống như núi?

Đó là không bỏ tâm Bồ-đề.

Sao gọi là bất động?

–Đó là vì không phân biệt nên không bị phiền não xâm đoạt.

Sao gọi là không lay động?

–Đó là đối với tất cả tướng, không duyên nơi niệm.

Sao gọi là tướng không thoái?

–Đó là đối với sáu pháp Ba-la-mật không bị tổn giảm, luôn luôn được thấy quốc độ chư Phật.

Sao gọi là sinh ra pháp lành?

–Đó là thân cận Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Sao gọi là nhàm chán nghiệp ác?

–Đó là kiên trì cấm giới, không còn khởi ra điều ác.

Sao gọi là không hành phiền não?

–Đó là không khởi vô minh, hữu ái và sân hận. Sao gọi là không xả bỏ giới?

–Đó là nhờ tin nhân quả, nên cung kính Như Lai.

Sao gọi là phân biệt các thiền?

–Đó là rõ biết tâm và thường dùng phương tiện thiện xảo để được nhất tâm.

Sao gọi là biết tất cả dục lạc của chúng sinh?

–Đó là biết căn tánh sai biệt.

Sao gọi là trí khéo phân biệt chỗ sinh?

–Đó là biết sự sai khác của năm đường.

Sao gọi là trí vô biên?

–Đó là tự nhiên biết về pháp thế gian và xuất thế gian.

Sao gọi là trí thứ lớp về ngôn ngữ?

–Đó là có thể biết về ngôn thuyết quyền xảo bí mật của Đức Như Lai.

Sao gọi là vứt bỏ duyên tục?

–Đó là thân tâm xa lìa mà xuất gia.

Sao gọi là không thích ba cõi?

–Đó là đối với ba cõi, thấy sự khổ đau tại đó một cách như thật.

Sao gọi là không dùng tâm hạ liệt?

–Đó là không vứt bỏ tâm, cho dù lúc nhập chánh thọ, vẫn không bỏ tâm.

Sao gọi là đối với các pháp không chấp trước?

–Đó là xả bỏ tâm ái dục đối với tất cả pháp.

Sao gọi là nhiếp thọ chánh pháp?

–Đó là hộ trì kinh điển như vậy của Phật thì gọi là nhiếp thọ chánh pháp.

Sao gọi là thủ hộ chánh pháp?

–Đó là đối với những chúng sinh hủy báng chánh pháp thì dùng pháp để hàng phục họ, gọi là hộ pháp.

Sao gọi là tin nơi nghiệp báo?

–Đó là đối với các nghiệp ác phải biết xấu hổ, xa lìa và tu tập thiện pháp.

Sao gọi là biết luật phương tiện?

–Đó là biết tự tánh phạm hay không phạm, biết phạm tánh tội hay không phạm.

Sao gọi là diệt trừ các sự tranh cãi, chống trái?

–Đó là vứt bỏ các việc huyên náo.

Sao gọi là không chống trái?

–Đó là không thích tất cả ngôn ngữ thế gian.

Sao gọi là nhẫn địa?

–Đó là nhẫn chịu sự bức não của thân tâm.

Sao gọi là nhiếp thọ nơi nhẫn?

–Đó là đối với những lời nói thô ác của kẻ khác thảy đều có thể nhẫn nhục, xả bỏ, không nghĩ đến. Sao gọi là lựa chọn nơi pháp?

–Đó là biết sự sai biệt của ấm, giới, nhập, biết trợ đạo hữu lậu và trợ đạo thanh tịnh, vì đối với pháp ấy là vô sở đắc.

Sao gọi là đối với pháp quyết định thiện xảo?

–Đó là đối với tất cả pháp, không có ngôn thuyết.

Sao gọi là trí khéo biết sự sai biệt của cú nghĩa?

–Đó là thông đạt tất cả các pháp.

Sao gọi là trí thiện xảo xuất sinh pháp cú?

–Đó là nói về pháp như thật.

Sao gọi là trí biết về sự sai biệt của nghĩa và phi nghĩa?

–Đó là biết pháp tánh không tăng không giảm.

Sao gọi là trí tiền tế? –Đó là trí về nhân.

Sao gọi là trí hậu tế?

–Đó là trí về duyên.

Sao gọi là trí bình đẳng ba đời?

–Đó là đối với tất cả pháp sự, hiểu rõ không có sai biệt, an trụ pháp vô sự.

Sao gọi là trí sai biệt về ba đời?

–Đó là đối với pháp ba đời, không sở đắc, cũng không nhớ nghĩ.

Sao gọi là tâm trụ?

–Đó là không sở đắc nơi tâm.

Sao gọi là thân trụ?

–Đó là niệm xứ về thân, gọi là thân trụ.

Sao gọi là gìn giữ oai nghi?

–Đó là oai nghi không có thác loạn.

Sao gọi là không hoại oai nghi?

–Đó là che giấu việc thiện.

Sao gọi là không phân biệt oai nghi?

–Đó là lìa bỏ sự ưa thích tâm ác.

Sao gọi là các căn đoan nghiêm?

–Đó là nhờ tư lương về hướng đi của pháp có thể biết thời tiết mà nói pháp tương ưng, đối với pháp như thật, diễn thuyết như thật.

Sao gọi là trí về thế đế?

–Đó là khéo biết pháp quá khứ, vị lai, nên gọi là Thế trí.

Sao gọi là giải thoát xả?

–Đó là tùy theo tài sản có được mà sử dụng, không che giấu, không keo kiết.

Sao gọi là thường đưa tay bố thí?

–Đó là khéo sống với người cùng giới.

Sao gọi là không có tâm keo kiết?

–Đó là tín tâm, hết lòng bố thí.

Sao gọi là xấu hổ?

–Đó là xấu hổ về các việc bạo ác.

Sao gọi là thẹn thùng?

–Đó là hổ thẹn về các việc ngu si, độc hại.

Sao gọi là ghét bỏ tâm ác?

–Đó là biết pháp ngu si thì vứt bỏ, không tương ưng.

Sao gọi là không bỏ hạnh Đầu-đà?

–Đó là cần phải kiên cố, không thoái chuyển.

Sao gọi là thọ trì tín nghĩa?

–Đó là làm đúng như sở thuyết.

Sao gọi là khởi hạnh hoan hỷ?

–Đó là nhớ nghĩ sự lợi ích của pháp thiện.

Sao gọi là sống gần bậc tôn trưởng?

–Đó là vứt bỏ sự kiêu mạn, xa lìa sự giải đãi.

Sao gọi là hàng phục tâm kiêu mạn?

–Đó là vì không có ngã nên không phan duyên. Sao gọi là nhiếp phục tâm?

–Đó là trí nhớ nghĩ đến tất cả pháp lành nên không mất trí lợi ích.

Sao gọi là tâm trí siêng năng?

–Đó là trí biết quả báo của sự tinh tấn nên trí không thoái thất.

Sao gọi là trí biết biện nghĩa?

–Đó là trí thông đạt như thật.

Sao gọi là biết rõ về trí?

–Đó là biết pháp thế gian, pháp xuất thế gian.

Sao gọi là trí xa lìa phi trí?

–Đó là đối với pháp như thật, xa lìa sự chấp giữ.

Sao gọi là trí nhập tâm?

–Đó là trí không sinh diệt.

Sao gọi là trí thiện xảo phân biệt từng bộ phận?

–Đó là trí phân minh sáng rõ.

Sao gọi là trí biết các tiếng nói?

–Đó là trí chỉ bày pháp như thật.

Sao gọi là trí biết xứ sở?

–Đó là trí nhập vào chỗ như thật.

Sao gọi là trí phương tiện, quyết định nghĩa?

–Đó là phụng sự tất cả chư Phật, Bồ-tát và Thanh văn.

Sao gọi là vứt bỏ sự phi nghĩa?

–Đó là khéo vượt qua các cõi.

Sao gọi là thân cận người lành, cùng người lành làm việc?

–Đó là thân cận chư Phật, Bồ-tát và Thanh văn.

Sao gọi là xa lìa người ác?

–Đó là xa lìa sự chấp ngã, giải đãi.

Sao gọi là tu thiền phát sinh thông suốt?

–Đó là lìa gia ái dục, không bỏ sự vui của thiền.

Sao gọi là không đắm vào thiền vị?

–Đó là muốn lìa ba cõi.

Sao gọi là thần thông tự tại?

–Đó là trụ vào năm thông khó nghĩ bàn của Phật pháp mà hiển bày vì người khác.

Sao gọi là hiểu giả danh?

–Đó là hiểu rõ danh không cứu cánh.

Sao gọi là rõ biết sự trình bày của lời nói?

–Đó là biết danh số, văn tự của thế tục đế.

Sao gọi là vượt qua giả danh?

–Đó là hiểu rõ trí không có ngôn thuyết.

Sao gọi là lìa thế gian?

–Đó là trước hết phải quán sát sự xấu ác của thế gian.

Sao gọi là không thích danh lợi?

–Đó là tự tánh thiểu dục.

Sao gọi là không đắm tham lợi dưỡng?

–Đó là không có các tham lam, mong cầu, xa lìa dục ác.

Sao gọi là nghe người mắng chửi, không sinh tâm ghét giận?

–Đó là biết bản thể các ấm và giới.

Sao gọi là nghe khen thật đức của mình không sinh tâm vui mừng?

–Đó là che giấu công đức thiện pháp, biết sự tội lỗi của lợi dưỡng.

Sao gọi là không mong cung kính?

–Đó là biết rõ bản thể nhân quả.

Sao gọi là không được cung kính, tâm không giận ghét?

–Đó là không xả bỏ tâm thiền định.

Vì sao bị hủy nhục mà không giận?

–Đó là quán sát thế gian, rõ biết nhân quả.

Vì sao nghe khen ngợi mà không tự cao?

–Vì xuất gia cầu pháp lành.

Sao gọi là không có các lợi dưỡng, tâm không buồn rầu?

–Đó là quan sát nghiệp đã làm ở kiếp trước.

Sao gọi là không giao du với người đời?

–Đó là không thích mưu sinh.

Sao gọi là không thích ở chung với người xuất gia làm điều phi pháp?

–Đó là thân cận với người sống như pháp, chứ không thân cận với người phi pháp.

Sao gọi là xa lìa chỗ phi cảnh giới?

Đó là vứt bỏ năm cái (năm sự ngăn che).

Sao gọi là trụ cảnh giới sở hành?

–Đó là tu bốn Niệm xứ.

Sao gọi là thành tựu pháp thức?

–Đó là hộ trì pháp thức.

Sao gọi là xa lìa phi pháp?

–Đó là tự hộ trì thiện pháp.

Sao gọi là không làm ô uế nhà người khác?

–Đó là xa lìa thân quyến vì biết lỗi lầm.

Sao gọi là hộ pháp?

–Đó là đầy đủ sự cầu pháp, như pháp mà hành động.

Sao gọi là ngồi im lặng, ít nói?

–Đó là được trí tịch diệt.

Sao gọi là thiện xảo việc hỏi và đáp?

–Đó là trí tuệ tùy theo sự hỏi đều có thể trả lời tất cả.

Sao gọi là hàng phục oán thù?

–Đó là phân biệt, hiển thị pháp như thật, xa lìa việc chấp trước.

Sao gọi là biết thời?

–Đó là có thể phân biệt để biết năm tháng ngày giờ.

Vì sao không thân cận với kẻ phàm ngu?

–Đó là vì thấy pháp phàm ngu là tội lỗi.

Vì sao không khinh chê kẻ bần tiện?

Vì đối với tất cả chúng sinh, khởi tâm bình đẳng.

Vì sao phải dùng tiền của bố thí mau chóng cho kẻ nghèo khổ?

–Vì có người đến xin liền dùng tài thí và pháp thí.

Vì sao đối với người bần cùng có thể dùng thí vô ngại?

–Đó là vì đối với các chúng sinh ấy, khởi lòng thương xót, theo ý người xin mà thí vật trong thân và ngoài thân.

Vì sao phải cứu giúp kẻ phá giới?

–Vì để họ trừ bỏ nghiệp phạm giới, an trụ trong tịnh giới.

Sao gọi là làm việc lợi ích?

–Vì hay trưởng dưỡng chúng sinh.

Sao gọi là bi trí?

–Vì hay thấy sự khổ não của chúng sinh ở đời vị lai.

Sao gọi là nhiếp thọ nơi pháp?

–Vì hay khiến chúng sinh nhập vào pháp như thật.

Sao gọi là xả bỏ tài sản?

–Đó là xả bỏ các ấm vì tài sản làm lớn mạnh chúng.

Vì sao không kinh doanh tích tụ?

Vì nhàm chán đời sống, thấy sự chấp giữ là tội lỗi.

Vì sao phải khen ngợi sự trì giới?

–Vì khéo biết quả báo của sự trì giới.

Vì sao lại chê trách sự phá giới?

–Vì hiểu rõ lỗi lầm của sự phạm giới.

Vì sao dùng tâm không gièm pha để phụng sự người trì giới?

–Vì đối với người trì giới phải sinh tưởng nghĩ là khó gặp.

Sao gọi là xả bỏ tất cả?

–Vì khéo tín nhạo vậy.

Sao gọi là thành tâm khuyến thỉnh sự tăng thượng tín?

–Vì mong cầu sự lợi ích cho chúng sinh.

Vì sao gọi là làm đúng như nói?

–Vì đầy đủ sự tin nghe khéo léo, nên liền thực hành.

Sao gọi là phụng sự Tỳ-kheo trí tuệ?

–Vì để thưa hỏi việc thiện.

Vì sao cùng người bàn luận, có thể sinh ra sự ưa thích?

–Vì có chứng trí và giáo trí.

Sao gọi là trí thí dụ?

–Vì dùng thí dụ để hiểu rõ gốc ngọn của pháp tướng.

Sao gọi là thiện xảo về tiền tế?

–Vì tự biết được sự nghe nhiều của kiếp trước. Sao gọi là lấy thiện căn làm đầu?

–Vì để khởi đức tin tăng thượng đối với Bồ-đề, vì để khuyến khích người khác.

Sao gọi là thiện xảo phương tiện?

–Đó là sám hối, tùy hỷ, khuyến khích những căn lành đã tạo thảy đều hồi hướng.

Sao gọi là đoạn trừ hữu tướng?

–Đó là quán sát các việc, thấy các pháp như mộng.

Sao gọi là đoạn trừ đối với tưởng?

–Đó là xa lìa tưởng điên đảo.

Sao gọi là khéo quán sự tướng?

–Đó là được trí vô tướng.

Sao gọi là khéo nói các kinh?

–Đó là hay hiển thị, ví dụ việc ấy là pháp thiện hay chẳng phải thiện.

Sao gọi là phân biệt đối với đế?

–Đó là đã diệt trừ vô minh rồi thì danh sắc không khởi lên.

Sao gọi là chứng sự giải thoát?

–Đó là được Kim cang Tam-muội, bất động, không phân biệt.

Sao gọi là chỉ nói một lời?

–Đó là nhàm chán ngoại đạo, chứng được trí vô sinh.

Sao gọi là được sự vô úy?

–Đó là biết sức mạnh của Phật pháp.

Sao gọi là an trụ nơi giới?

–Đó là giới Ba-la-đề-mộc-xoa ngăn cấm thân và miệng.

Sao gọi là nhập vào Tam-muội?

–Đó là không nhiễm ba cõi.

Sao gọi là được trí tuệ?

–Đó là khéo được trí vô công dụng.

Sao gọi là thích ở một mình chỗ thanh vắng?

–Đó là xa lìa lỗi lầm của sự ồn ào, thường không xả bỏ sự không nhàn.

Sao gọi là thích ít bạn bè?

–Đó là thiểu dục tri túc.

Sao gọi là tâm không ô trược?

–Đó là nhờ nhập thiền định, trừ các ngăn che.

Sao gọi là xả bỏ các kiến?

–Đó là xa lìa kiến chấp thủ.

Sao gọi là được Đà-la-ni?

–Đó là tùy theo pháp thấy được mà hiển bày như thật, không quên.

Sao gọi là được trí tuệ sáng?

–Đó là biết nhập tự tánh.

Sao gọi là xứ?

–Đó là xứ sở của tâm.

Sao gọi là an trú?

–Đó là chỗ ở của tín tâm.

Sao gọi là hạnh?

–Đó là trụ pháp tín hạnh.

Sao gọi là biện trí?

–Đó là biết biện luận về đạo.

Sao gọi là nhân?

–Đó là do vô minh sinh ra các hành.

Sao gọi là tương ưng?

–Đó là thích ứng với pháp giải thoát.

Sao gọi là pháp?

–Đó là đoạn trừ sự khát ái.

Sao gọi là môn?

–Đó là đoạn trừ các lỗi lầm.

Sao gọi là đạo?

–Đó là trí về vô thường, khổ, không, vô ngã.

Sao gọi là địa?

–Đó là mười loại cấp bậc vô nguyện.

Sao gọi là xa lìa sự sinh?

–Đó là pháp đoạn trừ sự sinh.

Sao gọi là trí địa?

–Đó là trí không quên.

Sao gọi là xả bỏ sự vô tri?

–Đó là đoạn trừ ngu si.

Sao gọi là an trụ nơi trí?

–Đó là trí vô sở trụ.

Sao gọi là phương tiện địa?

–Đó là tu ba mươi bảy pháp trợ Bồ-đề.

Sao gọi là cảnh giới của Bồ-tát?

–Đó là hành sáu pháp Ba-la-mật.

Sao gọi là thân cận người lành?

–Đó là gần gũi chư Phật.

Sao gọi là xa lìa người ác?

–Đó là xa lìa chấp kiến của ngoại đạo.

Sao gọi là sở thuyết Như Lai?

–Đó là trụ nơi trí lực Như Lai vì tự tánh giải thoát.

Sao gọi là Phật địa?

–Đó là được tất cả pháp thiện.

Sao gọi là bậc Trí tùy hỷ?

–Đó là sự tùy hỷ của chư Phật, Thanh văn, Bích-chi-phật ở quá khứ, vị lai và hiện tại.

Sao gọi là sự hủy báng của kẻ ngu?

–Đó là tất cả kẻ ngu không thể biết được.

Sao gọi là Thanh văn không thể biết?

–Đó là sự chẳng thể nghĩ bàn của Phật pháp.

Sao gọi là ngoại đạo?

–Đó là cái thấy phương tiện ngã mạn của ngoại đạo.

Sao gọi là thu nhiếp về Như Lai?

–Đó là điều khó có thể được của bậc Đại y vương.

Sao gọi là mau được mười Lực?

–Đó là siêng tu phương tiện.

Sao gọi là tất cả chư Thiên cúng dường?

–Đó là khéo có thể sinh ra tất cả sự vui.

Sao gọi là Phạm vương lễ bái?

–Đó là từ vị ấy sinh ra giải thoát.

Sao gọi là rồng lễ bái?

–Đó là có thể đoạn trừ tất cả ác đạo và các kiến chấp.

Sao gọi là Dạ-xoa tùy hỷ?

–Đó là ngăn che các đường ác.

Sao gọi là Chân-đà-la tán thán?

–Đó là hay đạt được sự hoan hỷ giải thoát.

Sao gọi là Ma-hầu-la khen hay?

–Đó là đoạn trừ sự sinh tử.

Sao gọi là sự tu của Bồ-tát?

–Đó là hay đạt được Nhất thiết trí.

Sao gọi là chỗ mong cầu của bậc Trí?

–Vì mong được địa vị không thoái chuyển.

Sao gọi là được của cải vô thượng?

–Đó là hay được quả báo của trời, người và sự giải thoát.

Sao gọi là chẳng phải tài thí?

–Đó là hay trừ tất cả bệnh phiền não.

Sao gọi là thuốc hay để trị bệnh hoạn?

–Đó là tiêu diệt tai hoạn tham, sân, si.

Sao gọi là kho tàng trí tuệ?

–Đó là thường thích tu tập trí tuệ.

Sao gọi là vô tận biện?

–Đó là thấy được trí như thật.

Sao gọi là xa lìa sự ưu sầu?

–Đó là biết khổ là hư vọng, nên trừ bỏ vì ngộ được vô ngã.

Sao gọi là biết ba cõi?

–Đó là biết rõ ba cõi như huyễn mộng.

Sao gọi là ghe thuyền đưa qua bờ bên kia?

–Đó là trí ưa thích nhập Bát-niết-bàn, tu vô thường, khổ, không, vô ngã.

Sao gọi là vượt qua bốn dòng sông?

–Đó là mau được Niết-bàn.

Sao gọi là mong cầu danh tiếng?

–Đó là được pháp rộng lớn.

Sao gọi là tán dương công đức của Như Lai?

–Đó là khen ngợi Bậc bố thí pháp được vô lượng công đức.

Sao gọi là khen ngợi danh xưng của Đức Như Lai?

–Đó là Bậc thí chủ bố thí tất cả công đức, giải thoát, an vui.

Sao gọi là tán thán mười Lực?

–Đó là khen ngợi bậc Đại pháp bảo chủ bố thí những pháp khó được.

Sao gọi là công đức của Bồ-tát?

–Đó là vị hay học pháp Tam-muội của kinh này.

Sao gọi là lòng Từ diệt sân hận?

–Vì đó là pháp đối trị sân hận.

Sao gọi là Bi?

–Đó là pháp diệt trừ khổ não của tất cả chúng sinh.

Sao gọi là Hỷ?

–Đó là đối với tất cả chúng sinh khởi sinh sự hoan hỷ.

Sao gọi là Xả?

–Đó là lòng bi vô duyên (không điều kiện), có thể làm được điều Phật làm.

Sao gọi là an ủi người Đại thừa?

–Đó là sở thích cầu tất cả Phật pháp, thảy đều có thể ban bố đầy đủ.

Sao gọi là phát hạnh sư tử hống?

–Đó là hay đạt được pháp tối thượng.

Sao gọi là con đường trí tuệ của Phật?

–Đó là không có chấp trước đối với tất cả pháp lành, mà vẫn được thiện pháp.

Sao gọi là giải thoát tất cả chúng sinh?

–Đó là có thể biết từ bờ bên này đến bờ bên kia. Sao gọi là đạt được trí Nhất thiết trí?

–Đó là đoạn trừ tất cả pháp bất thiện, tập hợp tất cả pháp thiện và tất cả pháp giải thoát.

Sao gọi là vườn hoa của Bồ-tát?

–Đó là vị hay được sự hỷ lạc, tự thân an lạc, cũng khiến tất cả chúng sinh được an lạc.

Sao gọi là hàng phục ma quân?

–Đó là bậc hay được tất cả lực, hay diệt trừ tất cả phiền não.

Sao gọi là an ổn hành dụng chú thuật?

–Đó là hay dứt sạch tất cả khổ nạn.

Sao gọi là thành tựu sự tốt đẹp?

–Đó là hay đạt được tất cả quả báo.

Sao gọi là ngăn ngừa oán địch?

–Đó là đoạn trừ tất cả tà kiến và chấp thủ kiến. Sao gọi là hàng phục oan gia?

–Đó là dùng chánh pháp để hàng phục các ngoại đạo.

Sao gọi là được sự vô úy?

–Đó là đối với tất cả pháp, hay khéo quán sát, huân tập.

Sao gọi là cầu sức mạnh như thật?

–Đó là cầu pháp lực không điên đảo.

Sao gọi là tướng đầu tiên của mười tám pháp Bất cộng?

–Đó là làm tất cả thiện pháp.

Sao gọi là trang nghiêm Pháp thân?

–Đó là được ba mươi hai tướng trang nghiêm.

Sao gọi là thích sự giải thoát?

–Đó là được pháp thiện phần đầu, phần giữa và phần cuối.

Sao gọi là trưởng tử đáng yêu?

–Đó là có thể đạt được các tài sản khác của cha lành chư Phật.

Sao gọi là đầy đủ Phật trí?

–Đó là chỉ nuôi lớn tất cả pháp thiện.

Sao gọi là chẳng phải địa vị Bích-chi-phật?

–Đó là có thể đạt được Phật pháp vô biên, tối thượng.

Sao gọi là tâm thanh tịnh?

–Đó là hay đoạn trừ tất cả sự cấu uế.

Sao gọi là thân thanh tịnh?

–Đó là diệt trừ tất cả bệnh hoạn.

Sao gọi là thành tựu giải thoát môn?

–Đó là quán sát vô thường, khổ, không, vô ngã và tịch diệt.

Sao gọi là lìa các dục ô uế?

–Đó là hay được pháp cú cam lồ.

Sao gọi là lìa sự sân hận?

–Đó là đạt được đại Từ, đại Bi.

Sao gọi là chẳng phải hạng ngu si? –Đó là được sự sáng suốt như thật.

Sao gọi là trí A-hàm?

–Đó là trí biết nghiệp đã tạo của tất cả thế gian và xuất thế gian.

Sao gọi là hay phát khởi sự sáng suốt?

–Đó là tư duy, nhớ nghĩ hướng đến tất cả đường lành.

Sao gọi là đoạn trừ vô minh?

–Đó là tất cả sự nhớ nghĩ đưa đến phi thiện.

Sao gọi là đầy đủ giải thoát?

–Đó là được pháp của bậc Đại Thánh.

Sao gọi là người tu thiền hoan hỷ?

–Đó là có thể đạt được sự hỷ lạc nhất tâm.

Sao gọi là mắt thấy?

–Đó là thấy cái thật nghĩa không thể thấy.

Sao gọi là Thần thông biến hiện?

–Đó là khéo tu pháp không chướng ngại.

Sao gọi là Thần túc hiện tiền?

–Đó là hay được trí không phân biệt, không có chướng ngại của tất cả pháp.

Sao gọi là thích nghi Đà-la-ni?

–Đó là hiểu rõ tất cả pháp, ở trong tất cả pháp có thể hướng đến Niết-bàn bình đẳng.

Sao gọi là trì niệm?

–Đó là diệt trừ tất cả tự tánh của phan duyên...

Sao gọi là Như Lai trú trì?

–Đó là trí tuệ sinh ra các công đức, không thể hủy hoại.

Sao gọi là Đạo sư phương tiện quyền xảo?

–Đó là khiến cho người khác hướng đến đại thành, an ổn, khoái lạc.

Sao gọi là trí vi tế, giống như đầu sợi lông?

–Đó là rõ biết điều khó có thể suy lường.

Vì sao khó biết, khó có thể tương ưng?

–Đó là điều từ xưa chưa từng có.

Vì sao xa lìa văn tự?

–Vì con đường ngôn ngữ là chẳng thể nắm bắt được.

Sao gọi là âm thanh khó biết?

–Đó là tất cả pháp không thể nghĩ bàn.

Sao gọi là người trí mới có thể biết?

–Đó là biết pháp là bảo vật vô giá.

Sao gọi là đã biết điều phục, trí sở tri?

–Đó là nói đúng như làm.

Sao gọi là biết về thiểu dục?

–Vì biết lỗi của đa dục.

Sao gọi là dũng mãnh tinh tấn?

–Vì biết không xả bỏ thời gian cần thiết.

Sao gọi là ghi nhớ Tổng trì?

–Vì tùy theo việc làm mà vẫn không mất.

Sao gọi là cùng tận sự khổ?

–Vì đoạn trừ tham, sân, si.

Sao gọi là tất cả pháp không sinh?

–Vì diệt hết tất cả thức, tất cả nguyện.

Sao gọi là một lời diễn thuyết có thể biết tất cả các đường sinh tử?

–Vì quán tất cả pháp giống như mộng huyễn, nên không chấp thủ.

Này Đồng tử! Đó gọi là giải thích nghĩa ba trăm cú pháp xong.

Này Đồng tử! Đó là Tam-muội không hý luận, thể tánh bình đẳng của tất cả các pháp.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Trí Phật pháp vô lượng
Diễn thuyết vô cùng tận
Nói rộng các pháp xong
Được tất cả công đức.
Rộng lớn như hư không
Pháp tướng ấy như vậy
Là bảo vật cứu cánh
Nên gọi là Phương Quảng.
Hạnh chúng sinh vô biên
Nên thuyết pháp cũng nhiều
Nghĩa A-hàm vô tận
Nên gọi là phương tiện.

Khi Đức Thế Tôn nói pháp này, vô lượng chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vô lượng chúng sinh đối với Bồ-đề được không thoái chuyển, vô lượng chúng sinh phát tâm Bích-chi-phật, vô lượng chúng sinh chứng được ba quả.

Lại nữa, cõi tam thiên đại thiên thế giới này chấn động sáu cách, trời mưa hương lạ, tung rải hoa trời, tấu lên trăm ngàn vạn thứ âm nhạc của chư Thiên trong hư không, mưa các Thiên y, từ từ rơi xuống, có tiếng nói như vầy:

–Các chúng sinh này nhờ nghe pháp ấy nên được sự lợi ích lớn. Vì các chúng sinh ấy đối với vô lượng Đức Phật đã gieo trồng căn lành, nên nghe pháp này liền hoan hỷ, thọ trì, đọc tụng, biên chép, giải nói cho người khác, làm ruộng phước tối thượng thành tựu lợi ích cho tất cả chúng sinh. Tất cả chúng sinh này không đoạn mất hạt giống Phật. Các chúng sinh này quyết định có thể vì con đường Bồ-đề trước nhất, nghe pháp môn này khởi hạnh như thật.

Bấy giờ Phật bảo A-nan:

–Ông nên thọ trì pháp môn như vậy rồi đọc tụng, biên chép, rộng nói cho người khác.

A-nan bạch Phật:

–Kinh này tên gọi là gì và phụng trì như thế nào?

Phật bảo A-nan:

–Kinh này gọi là Nhập Vào Đại Bi, ông nên thọ trì. Lại có tên Tam-muội Bình Đẳng Tất Cả Pháp Thể Tánh Bình Đẳng Vô Hý Luận, ông nên thọ trì. A-nan bạch Phật:

–Như lời Phật dạy, con xin thọ trì pháp môn ấy. Khi Phật nói kinh này xong, Đồng tử Nguyệt Quang vui mừng nhảy nhót. Bồ-tát A-dật-đa cùng với tám mươi ức na-do-tha Bồ-tát, Trưởng lão Anan và bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bàtắc, Ưu-bà-di, Thiên tử trời Tịnh cư, Phạm thiên vương, chủ thế giới Ta-bà, với Thiên Đế Thích, Tứ Thiên vương... chư Thiên nhân loại, chúng A-tula, nghe Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.


[Đầu trang]


[Mục lục bộ Kinh tập][426][427][428][429][430][431][432][433][434][435][436][437][438][439][440][441][442][443][444][445][446][447][448][449][450][451][452][453][454][455][456][457][458][459][460][461][462][463][464][465][466][467][468][469][470][471][472][473][474][475][476][477][478][479][480][481][482][483][484][485][486][487][488][489][490][491][492A][492B][493][494][495][496][497][498][499][500][501][502][503][504][505][506][507][508][509][510][511][512][513][514][515][516][517][518][519][520][521][522][523][524][525][526][527][528][529][530][531][532][533][534][535][536][537][538][539][540][541][542][543][544][545][546][547][548][549][550][551][552][553][554][555][556][557][558][559][560][561][562][563][564][565][566][567][568][569][570][571][572][573][574][575][603][604][605][606][607][608][609][610][611][612][613][614][615][616][617][618][619][620][621][622][623][624][625][626][627][628][629][630][631][632][633][634][635][636][637][638][639][639][640][641][642][643][644][645][646][647][648][649][650][651][652][653][654][655][656][657][658][659][660][661][662][663][664][665][666][667][668][669][670][671][672][673][674][675][676][677][678][679][680][681][682][683][684][685][686][687][688][718][719][720][721][721][722][723][724][725][726][727][728][729][730][731][732][733][734][735][736][737][738][739][740][741][742][743][744][745][746][747A][747B][748][749][750][751][752][753][754][755][756][757][758][759][760][761][762][763][764][765][766][767][768][769][770][771][772][773][774][775][776][777][778][779][780][781][782][783][784][785][786][787][788][789][790][791][792][793][794A][794B][795][796][797A][797B][798][799][800][801][802][803][804][805][806][807][808][809][810][811][812][813][814][815][816][817][818][819][820][821][822][823][824][825][826][827][828][829][830][831][832][833][834][835][836][837][838][839][840][841][842][843][844][845][846][847]


[Mục lục tổng quát]