TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH
BỘ KINH TẬP (425-847)

SỐ 657-KINH PHẬT THUYẾT HOA THỦ (NHIẾP CHƯ THIỆN CĂN)

Hán dịch: Đời Hậu Tần, Tam tạng Pháp sư Cưu-mala-thập, người nước Quy tư.

MỤC LỤC

QUYỂN 1

Phẩm 1: Mở đầu

Phẩm 2: Nói về thần lực

Phẩm 3: Bồ-tát Võng Minh

Phẩm 4: Nói về tướng như

Phẩm 5: Nói về sự bất tín

QUYỂN 2

Phẩm 6: Nói về Niệm xứ

Phẩm 7: Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân

Phẩm 8: Thể hiện sự biến hóa

Phẩm 9: Diệu lực của Như Lai

Phẩm 10: Nói về công đức

Phẩm 11: Nói về phát tâm

QUYỂN 3

Phẩm 12: Nói về Bồ-tát Vô Ưu

Phẩm 13: Trung thuyết

Phẩm 14: Tổng tướng

QUYỂN 4

Phẩm 15: Thế giới thượng thanh tịnh

Phẩm 16: Tung rải hoa cúng dường

QUYỂN 5

Phẩm 17: Thế giới chúng tướng

Phẩm 18: Các phương khác

QUYỂN 6

Phẩm 19: Các pháp Tam-muội

Phẩm 20: Cầu pháp

Phẩm 21: Ca ngợi công đức

Phẩm 22: Chứng nghiệm tâm Bồ-tát

QUYỂN 7

Phẩm 23: Vương tử đắc niệm

Phẩm 24: Chánh kiến

Phẩm 25: Ca ngợi sự chỉ giáo

Phẩm 26: Nói về sự hủy hoại tâm Bồ-tát

QUYỂN 8

Phẩm 27: Nói về nhiều thứ pháp

Phẩm 28: Các pháp thâm diệu

Phẩm 29: Nói về sự nghịch, thuận

QUYỂN 9

Phẩm 30: Không thoái chuyển

Phẩm 31: Cầu pháp

Phẩm 32: Ca ngợi chúng hội

Phẩm 33: Thượng kiên đức

QUYỂN 10

Phẩm 34: Pháp môn

Phẩm 35: Dặn dò, giao phó


QUYỂN 1

Phẩm 1: Mở đầu

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật ở tại vườn trúc Ca-lan-đà, thuộc thành Vương xá. Nơi ấy là chốn thanh vắng, tịch tĩnh, thuận tiện cho công việc tu tập, xa lìa phiền não, cũng là nơi an trụ thích hợp để Đức Thế Tôn thực hiện các pháp định về Không, Vô tướng, Vô nguyện.

Lúc này, đã quá trưa, Tôn giả Tuệ mạng Xálợi-phất liền ra khỏi cảnh giới thiền định, đi đến chỗ Phật, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật rồi lui ra ngồi một bên. Các vị Tôn giả Đại Mục-kiềnliên, Ma-ha Ca-chiên-diên, Ma-ha Câu-hy-la, Maha Kiếp-tân-na, Ma-ha Quân-đà, Tu-bồ-đề, Ma-ha La-xà-ba-kỳ-xá, Nan-đà, Nan-đề-già Bạt-nan-đà, A-nan, Kim-tỳ-la, Na-la-đà Bà-tư-sá, Ma-hê-la, Ưu-ba-ly… các bậc Tỳ-kheo như vậy có đến năm trăm vị. Vào lúc quá trưa, thảy đều xuất định, cùng đi tới chỗ Đức Phật, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật rồi lui ra, theo thứ tự ngồi qua một bên.

Cùng lúc, lại có các vị Tỳ-kheo Danh Văn, Tỳkheo Hộ Quốc, Tỳ-kheo Thiên Kính, Tỳ-kheo Lạc Danh Văn, Tỳ-kheo Lạc Chúng, Tỳ-kheo Lạc Dục… các vị Tỳ-kheo như thế có đến năm trăm người đều thực hiện xong công việc an cư kiết hạ ở nước Xá-vệ, lên đường đi tới thành Vương xá, đến vườn trúc chỗ Đức Phật, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật rồi lui ra ngồi một bên.

Lúc bấy giờ Bồ-tát Di-lặc cùng với ba vạn vị Bồ-tát đã hoàn tất công việc an cư kiết hạ ở nước Chiêm-bà nên cùng trở về vườn trúc, chỗ Đức Phật, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật rồi lui ra ngồi một bên. Các vị Bồ-tát như Bồ-tát Bạt-đà-bàla, Bồ-tát Bảo Tích, Bồ-tát Đạo Sư, Bồ-tát Tinh Đắc, Bồ-tát Na-la-đạt, Bồ-tát Nhân-đà-đạt, Bồ-tát Thủy Thiên, Bồ-tát Phạm Thiên, Bồ-tát Thiện Lực, Bồ-tát Đại Ý, Bồ-tát Thắng Ý, Bồ-tát Tăng Ý, Bồtát Bất Hư Kiến, Bồ-tát Thiện Phát, Bồ-tát Đại Lực, Bồ-tát Thường Tinh Tấn, Bồ-tát Bất Hưu Tức, Bồ-tát Nhật Tạng, Bồ-tát Trì Thế, Bồ-tát Trì Địa, Bồ-tát Trì Cam Lộ Vị, Bồ-tát Thiện Trụ Ý, Bồ-tát Vô Lượng Ý, Bồ-tát Kiên Ý, Bồ-tát Việt Tam Giới, Bồ-tát Vô Biên Lực, Bồ-tát Vô Lượng Lực, Bồ-tát Kim Cang Lực, Bồ-tát Vô Đẳng Lực, Bồ-tát Vô Động Lực, Bồ-tát Tật Biện, Bồ-tát Lợi Biện, Bồ-tát Thâm Biện, Bồ-tát Vô Biên Biện, Bồtát Vô Lượng Biện, Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi, Pháp vương tử Hoa Đức Tạng, Bồ-tát Đàm-vôkiệt, Bồ-tát Bảo Thủ, Bồ-tát Trì Bảo, Bồ-tát Chuyển Vô Lượng Kiếp Trang Nghiêm, Bồ-tát Chuyển Nữ Tướng Nguyện, Bồ-tát Chuyển Nam Tướng Nguyện, Bồ-tát Chuyển Chúng Sinh Tướng Nguyện, Bồ-tát Vô Biên Tự Tại, Bồ-tát Vô Lượng Tự Tại, Bồ-tát Hoại Tự Sinh Duyên Tự Tại,… các vị Bồ-tát ấy đều có thể tùy thuận theo vô lượng chúng sinh mà thể hiện các hạnh nguyện nhằm độ thoát họ. Mỗi vị đều ở nơi trú xứ của mình hoàn tất công việc an cư kiết hạ, đi dạo qua nhiều nước, cùng gặp nhau ở giữa đường và đều đến nơi chỗ Phật, cung kính đảnh lễ rồi lui ra ngồi một bên.

Khi ấy, Đức Thế Tôn biết rõ là các chúng đệ tử thảy đều vân tập đến chỗ mình nên dùng diệu lực thần thông khiến cho các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, từng ở lâu nơi nước Ma-giàđà, đều cùng đi tới vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật và lui ra ngồi một phía.

Bấy giờ Trưởng lão Đại Ca-diếp đang ở nơi núi Vi-đề-ha, trong hang đá Đế Thích, cùng với năm trăm vị Tỳ-kheo dừng nghỉ ở đấy. Các vị đều tu hạnh Đầu-đà, mặc nạp y, khất thực, luôn vâng giữ pháp ngồi xếp bằng bên những gốc cây, ít ham muốn, biết đủ, vui với hạnh xa lìa mọi thứ phiền não trói buộc. Lúc này, Trưởng lão Đại Ca-diếp, do thần lực của Đức Phật nên hốt nhiên rời khỏi hang đá mà hiện ra ở vườn trúc, đi đến chỗ Đức Phật. Đức Thế Tôn từ xa trông thấy bèn nói với các vị Tỳ-kheo rằng:

–Các vị hãy xem kia! Đó là Trưởng lão Đại Cadiếp đã từ chỗ ấy đến đây. Trưởng lão đó thường tu theo hạnh thanh tịnh tịch tĩnh, mặc nạp y khất thực, luôn dùng ba loại y thô xấu, thường ở những nơi chốn xa xôi hẻo lánh, ít ham muốn, biết đủ, an vui với hạnh xa lìa. Đối với tất cả các pháp, tâm không vướng mắc, đức hạnh của bậc Thanh văn thảy đều gồm đủ. Về hạnh Đầu-đà ấy, trong hàng đệ tử của ta không ai có thể bằng Trưởng lão Đại Ca-diếp. Các vị nên biết! Trưởng lão Đại Ca-diếp ấy hãy còn không thích cùng với chư Thiên nói năng bàn luận, huống chi là đối với con người.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn ngay từ xa đã bảo Trưởng lão Đại Ca-diếp rằng:

–Hãy lại đây, Trưởng lão Đại Ca-diếp! Lâu lắm rồi mới được gặp nhau. Trưởng lão hãy đến ngồi vào nửa tòa của Như Lai đây này!

Lúc Đức Phật nhích người ra thì cả đại thiên thế giới đều hiện đủ sáu cách chấn động, có vầng ánh sáng lớn chiếu tỏa khắp các cõi cùng với âm thanh nghe vang khắp nơi như tiếng chuông vàng được gióng lên. Trưởng lão Đại Ca-diếp liền vắt một vạt y, để trần vai bên phải, đầu gối phải chạm sát đất, quỳ mọp, chắp tay cung kính thưa Đức Thế Tôn:

–Phật là Bậc Đại Sư, con là hàng đệ tử. Sở hữu của Phật là y, bát và chỗ ngồi. Là đệ tử theo đúng pháp tất không được thọ dụng. Vì sao? Bởi rằng y của Đức Như Lai đã được hết thảy chư Thiên và mọi người trong thế gian cúng dường, cung kính hết mực như đối với tháp miếu của tổ tông vậy. Con từ trước theo Phật, được nhận y Tăng-già-lê, luôn cung kính tôn trọng, chưa dám mặc. Từ đấy trở đi, con không hề dấy sinh cảm giác về tham dục, về giận dữ, hay về buồn phiền. Cũng không sinh những thứ lửa về ham muốn, giận dữ, si mê để tự thiêu đốt những phiền não của mình.

Kính bạch Thế Tôn! Con xin tỏ bày những lời thâm thiết nhất. Từ lúc được dự vào hàng đệ tử tu học, con nhận được tấm y của Đức Thế Tôn, do luôn dốc lòng kính lễ, tôn quý mà liền được quả vị A-la-hán. Con vì thuận theo lời Phật dạy mà nhận tấm y của Đức Như Lai, nhưng thật tình là không dám dấy tâm cao thấp, chỉ dùng tay để cầm nắm giữ gìn chứ thân chưa hề được gần gũi. Nếu tay chưa được rửa sạch thì cũng không dám cầm lấy, lẽ đâu dám khinh mạn mà dùng làm gối lót đầu sao! Tấm y đó luôn ở bên mình con, chưa từng xa lìa, con giữ gìn nó quý kính như đối với xá-lợi vậy.

Phật đã cho con tấm y ấy và con không dám mặc, từ khi được giữ gìn tấm y, tâm con luôn nhớ nghĩ đến Phật, chỉ trừ những khi nhập định. Những lúc nhập định ấy, không còn có hình tướng của bốn đại là địa, thủy, hỏa, phong. Cũng không có hình tướng của đời này hay đời sau. Đối với các sở hữu về nghe, thấy, tiếp xúc nhận biết ở đấy đều là sự biến chuyển của tâm, trong đó không có tưởng, cũng không vô tưởng.

Bạch Thế Tôn! Các hành vô tưởng và định vô tưởng luôn vượt qua các hành tưởng, vượt qua các định tưởng cùng nhiều hành tưởng. Con ở trong cảnh giới ấy không còn thấy có sự phân biệt giữa hàng tu học và hàng đã chứng quả; không còn thấy Như Lai hay pháp của Như Lai, cũng như hạnh của Như Lai. Ví như hư không có vô vàn tên gọi và gọi là hư không, hư dối, không chắc chắn, cũng không thực có. Không bám giữ, không lìa bỏ, không tranh cãi, không thọ nhận. Lại có tên là như thật, cũng được gọi là thanh tịnh. Nó không sắc, không hình, không thể thấy được. Tuy dùng bao nhiêu là tên chữ như thế để gọi, như tên chữ Hư không mà hình tướng của hư không thì chẳng có thể nêu bày được. Hoặc lớn, hoặc nhỏ, hoặc cao, hoặc thấp, có biên vực hay không biên vực.

Kính bạch Thế Tôn! Trí tuệ của bậc Thánh gọi là có thể thông tỏ hết thảy, nhưng trí tuệ bậc Thánh ấy cũng không thể thông tỏ hết thảy mọi giới vực số lượng của hư không với từng ấy hình sắc cùng mọi hình tướng duyên hợp như thế.

Kính bạch Thế Tôn! Như Lai cũng vậy. Hoặc tôn xưng là Phật hay Bậc Đại Sư, lại tôn xưng là Thế Tôn, là ngọn đuốc ngọn đèn soi sáng, là chỗ để quay về, để cứu độ, là chốn nghỉ ngơi của thế gian, là bậc đem ánh sáng soi tỏ khắp chốn, là bậc dẫn đường dẫn dắt mọi loài, là bậc trị lành các bệnh của chúng sinh, là bậc khai thị, giảng dạy về đạo giác ngộ, là bậc đã đạt tới cứu cánh của mọi nẻo đường, là bậc có được Nhất thiết trí. Có thể dùng rất nhiều ngôn từ giả danh của thế tục như vậy để xưng tán Như Lai. Con ở trong cảnh giới ấy không còn thấy có các pháp, không nhận, không được. Vì sao như thế? Vì hết thảy các pháp tự nó vốn là không. Ví như nhà ảo thuật huyễn tạo ra phép quán đảnh cho bậc Chuyển luân thánh vương, có đầy đủ bốn thứ binh chủng, bảy món châu báu, dạo khắp bốn cõi thiên hạ. Nhưng dân chúng ở đấy nhận thấy có vô số sự khác nhau về hình tướng cũng như ngần ấy ngôn ngữ, âm thanh.

Kính bạch Thế Tôn! Vị Chuyển luân vương ấy chẳng suy nghĩ rằng: “Ta là bậc tôn quý thống lĩnh bốn thứ binh chủng, cai quản cả bốn châu thiên hạ.” Còn bốn thứ binh chủng kia thì cũng lại không nghĩ là: “Vua là bậc chủ của ta, ta phải tuân theo.” Tuy có chỗ làm mà không tâm niệm.

Kính bạch Thế Tôn! Hình tướng của các pháp

ấy cũng là như thế. Không có Như Lai, cũng không có hàng Thanh văn hoặc còn tu học hay đã chứng quả. Không có Bích-chi-phật cũng như không phàm phu.

Kính bạch Thế Tôn! Trong hình tướng của các pháp ấy, hoặc các pháp của Như Lai, cùng với hình tướng của Như Lai thảy đều không thể đạt được, cũng không thể thông tỏ, không được chấp giữ. Pháp của Bích-chi-phật, hình tướng của Bích-chiphật cũng như pháp và hình tướng của Thanh văn, tâm pháp và nhân tướng của phàm phu đều không có thể đạt được, cũng không thể biết rõ, không được chấp giữ. Ở trong hình tướng của các pháp ấy, sắc tướng và sắc pháp đều không thể đạt được, không biết rõ, không nắm giữ. Bốn tuần: thọ, tưởng, hành, thức cũng như thức pháp, thức tướng cũng không thể đạt được, không biết rõ, không nắm giữ.

Kính bạch Thế Tôn! Lại nữa, ở trong hình tướng của các pháp ấy, chỗ gọi là sắc–không chính là do các sắc vốn là không. Mà cái nơi chốn của sắc–không ấy đều không có thể đạt được. Thọ, tưởng, hành, thức là không, do chúng vốn là không. Mà nơi chốn của thức-không ấy cũng không có thể đạt được.

Kính bạch Thế Tôn! Ở trong hình tướng của các pháp ấy gọi là “Như Lai Không”, chính vì chúng vốn là không, cho đến nơi chốn không ấy cũng đều không thể đạt được. Kể cả phàm phu, phàm phu pháp không là do chúng vốn là không, cho đến nơi chốn không đó cũng đều không thể đạt được. Giống như cảnh huyễn hóa về bậc Chuyển luân thánh vương cùng bốn thứ binh chủng, kỳ thật trong ấy không có Chuyển luân thánh vương, không có bốn thứ binh chủng, không có việc tạo tác từ huyễn ảo, không có địa và địa chủng, không có thủy, hỏa, phong cũng như thủy chủng, hỏa chủng và phong chủng. Không có thức về hư không và thức chủng về hư không.

Kính bạch Thế Tôn! Con quán tưởng các pháp thảy đều cũng như thế. Con từ trước đến nay chưa từng vướng chấp vào các pháp, ở trong các pháp ấy cũng không có sự phân biệt. Con chỉ dùng pháp ấy để nhớ nghĩ đến công đức của Phật, đó gọi là chánh đạo.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu như thiện nam, thiện nữ nào, đối với đạo như vậy mà thực hiện các pháp kia, thuận theo lời thầy, kính tin theo giáo pháp, tức là có được chánh kiến nên không còn bị lệ thuộc vào sinh tử.

Kính bạch Thế Tôn! Con đối với pháp ấy không còn có chỗ nghi ngờ. Con đã hội nhập vào nẻo ấy và thông tỏ hết thảy các pháp đều cùng một tướng. Chỗ gọi là “ly tướng” tức không có nơi chốn nhận lấy các tướng. Con đang an trụ ở trong hang đá Đế Thích, vâng theo lời dạy của Thế Tôn nên đi đến vườn Trúc này, muốn đối với Phật pháp xin được bày tỏ chỗ nghi vấn. Mà nay được Đức Như Lai thương tưởng chỉ dạy chia cho chỗ ngồi, khiến cho đại thiên thế giới hiện đủ sáu thứ chấn động. Nên con xin thưa rằng: Như Lai đúng là bậc hy hữu, đã thành tựu được pháp lớn lao thâm diệu thanh tịnh, đã tự mình không đi theo con đường của những người đi trước mà giác ngộ được pháp vô thượng, an trụ nơi cõi từ bi rộng lớn mà bẻ gãy mọi thứ dấy khởi của kiêu mạn. Hôm nay lại thể hiện lòng thương tưởng đối với đệ tử mà chia cho chỗ ngồi. Như một người nghèo hèn đem tâm tôn kính khi được gặp vị Chuyển luân vương, lúc vị Chuyển luân vương ấy bảo mình cùng ngồi chung, và người nghèo hèn đó sinh tâm hy hữu. Đối với con, được gặp vị Thánh vương hãy còn là điều khó khăn, huống chi lại được chia cho chỗ ngồi để cùng ngồi! Phật cũng như vậy. Là bậc có được Nhất thiết trí với uy đức lớn lao, là bậc Pháp vương không thầy tự mình đạt đến giác ngộ. Hết thảy các hành Thanh văn cùng Bích-chi-phật không ai có thể hơn được, huống chi là trong thế gian, tất cả trời người, A-tu-la lại có thể sánh bằng? Con nay được gặp gỡ, gần gũi, hỏi han… đã là điều lợi ích lớn rồi, huống chi lại còn thấy có lời bảo ban, chia chỗ ngồi để cùng ngồi? Thật là hết sức hy hữu! Con có suy nghĩ như thế này: “Như Lai là bậc thể hiện đầy đủ, sâu rộng của tâm đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả, không hề kiêu căng cao ngạo tự cho mình là đấng tối tôn, hơn hết trong thế gian. Công đức lớn lao của Như Lai cứ tự hiển hiện. Đó gọi là tính chất “Bất cộng” đối với tất cả các hàng Thanh văn, Bích-chi-phật vậy.”

Bấy giờ Đức Thế Tôn khen ngợi Trưởng lão Đại Ca-diếp rằng:

–Lành thay! Lành thay! Như chỗ Trưởng lão đã bày tỏ, Như Lai là bậc Vô lượng vì đã thành tựu được các pháp lớn vô lượng, gọi là không thể lường tính được. Như về lãnh vực bố thí là Bố thí ba-la-mật, trì giới là Giới ba-la-mật, nhẫn nhục là Nhẫn ba-la-mật, tinh tấn là Tinh tấn ba-la-mật, thiền định là Thiền định ba-la-mật, trí tuệ là Trí tuệ ba-la-mật. Về các pháp Tam-muội cũng là Tammuội ba-la-mật. Về công đức cũng là Công đức bala-mật. Về hạnh nguyện cũng là Hạnh nguyện bala-mật. Về phương tiện cũng là Phương tiện ba-lamật. Về giải thoát cũng là Giải thoát ba-la-mật.

Này Trưởng lão Đại Ca-diếp! Như Lai đã thành tựu bốn thứ trí tuệ không gì sánh bằng, nên đối với đại chúng, lời nói của Như Lai chính là tiếng rống của sư tử.

Những gì gọi là bốn thứ không gì sánh bằng.

Đó là:

1. Giới phẩm không gì sánh bằng.

2. Định phẩm không gì sánh bằng.

3. Tuệ phẩm không gì sánh bằng.

4. Phật pháp không gì sánh bằng.

Đấy gọi là bốn thứ trí tuệ không gì sánh bằng của Như Lai.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn muốn làm rõ những ý nghĩa ấy nên nói bài kệ:

Trí chư Phật tột bực
Đời khó thể nghĩ bàn
Nẻo tâm luôn thanh tịnh
Chính tiếng rống Sư tử.
Tạo nên tiếng rống ấy
Chúng ngoại đạo kinh sợ
Nghe pháp Phật thâm diệu
Ắt rơi xuống hầm sâu.
Nếu kẻ chấp tướng ngã
Cùng chấp tướng chúng sinh
Kẻ ấy đối Phật pháp
Ta nói là ngoại đạo.
Nếu người bám tướng pháp
Bám tướng ngã, ngã sở
Người ấy đối Phật pháp
Ta nói là ngoại đạo.
Nếu kẻ tham vướng giới
Cùng mọi thứ công đức
Cậy biết nhiều, khinh mạn
Ta nói là ngoại đạo.
Nếu người chấp ít dục
Biết đủ, hạnh xa lìa
Cùng nạp y thô xấu
Ta nói là ngoại đạo.
Như cõi không vô ngại
Bụi bặm chẳng thể bám
Ta nói pháp Sa-môn
Dứt nhiễm cũng như thế.
Như người đem hoa đẹp
Hương xoa cùng hương đốt
Cúng dường nơi hư không
Hư không chẳng sinh vui.
Như đem bụi bặm nhiễm
Tánh hư không chẳng ố.
Do bản tánh vốn tịnh
Pháp Sa-môn cũng vậy.
Như miệng nêu lời ác
Hư không nào giận dữ
Pháp Sa-môn dứt nhiễm
So sánh cũng như thế.
Nếu người đối pháp ấy
Đã học, nay đang học
Tâm ý không tham vướng
Đó đúng bậc Sa-môn.
Như cõi không vô ngại
Bụi bặm nào nhiễm được
Pháp Sa-môn như vậy
Gốc tịnh không biến đổi.
Như trăng nơi không trung
Ánh sáng tỏa chiếu khắp
Mọi niệm không dấy khởi
Nẻo sáng ta tỏa rực
Tỳ-kheo vào nhà người
Tám pháp đời chẳng nhiễm
Cũng như trăng dứt niệm
Ta cũng luôn dứt nhiễm.
Tỳ-kheo vào nhà người
Chẳng nên dấy kiêu mạn
Tâm cũng chẳng cao ngạo
Nếu sinh đều nên diệt.
Nên đem tâm Từ bi
Dứt dục, không tham cầu
Nói pháp tạo lợi ích
Sống tịnh nơi cõi đời.

Phẩm 2: Nói về thần lực

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Trưởng lão Đại Cadiếp:

–Trưởng lão hãy an tọa và cứ nêu ra chỗ nghi vấn của mình. Ta sẽ vì Trưởng lão mà giảng giải để có được sự thấu đạt vui vẻ.

Trưởng lão Đại Ca-diếp liền từ chỗ đang quỳ đứng dậy cung kính đảnh lễ ngang chân Phật rồi theo thứ tự mà ngồi xuống.

Lúc này Đức Thế Tôn lại thể hiện thần lực, khiến cho các quốc độ ở đây có bao nhiêu vị Tỳkheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thảy đều vâng theo diệu lực của Phật mà cùng đến vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật rồi lui ra ngồi một bên. Bấy giờ bốn bộ chúng là Trời, rồng, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-đàla, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân đều đến và vào nơi vườn Trúc. Tất cả đều thấy chốn này rộng lớn mênh mông không chút ngăn ngại. Đức Thế Tôn lại dùng thần lực khiến cho khắp tam thiên đại thiên thế giới này với các vị như Tứ Thiên vương, Đế Thích, Phạm vương, Quang âm chư thiên, Biến tịnh thiên, Quảng quả thiên, Vô cuống thiên, Vô nhiệt thiên, Hỷ kiến thiên, Thiện kiến thiên, A-canị-tra thiên… thảy vâng theo Thần lực của Phật mà cùng đến thành Vương xá, tới nơi vườn Trúc, cung kính chắp tay lễ Phật rồi lui ra đứng một bên.

Đức Thế Tôn lại dùng thần lực khiến cho các vị Long vương như Sa-già-la Long vương, Kiềnđà Long vương, Nan-đà Long vương, Bạt-nan-đà Long vương, Ma-na-tư Long vương, Đức-xoa-ca Long vương, Tôn-đà-la Long vương, Y-la-bát Long vương… có tới hàng ngàn vị Long vương như vậy, đã nương theo Thần lực của Phật cùng đến vườn Trúc cung kính đảnh lễ ngang chân Phật rồi lui ra đứng một bên.

Bấy giờ, trong khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới, các bộ chúng Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thátbà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-đà-la, Ma-hầu-lagià… trên đến cõi trời A-ca-nị-tra thảy đều vâng theo Thần lực của Phật cùng đến nơi vườn Trúc họp lại thành nhóm, an tọa nơi phía trước chúng Bồ-tát. Các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thảy đều tỏ ra vui vẻ, chuẩn bị để được nghe pháp, không cảm thấy có gì bị ngăn ngại.

Lúc này, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Mục-kiềnliên:

–Tôn giả hãy cùng với Như Lai bày biện, sắp đặt lại tòa cao này. Hôm nay ta sẽ thuyết giảng về kinh Dứt Trừ Mọi Mối Nghi Vấn Của Chúng Sinh, tất biết rõ về thân tâm của hết thảy các loài, khiến cho mọi người nghe đều hoan hỷ mà được hội nhập vào biển chánh pháp mênh mông; cũng là nói về các hạnh của chư Đại Bồ-tát cùng với các cõi Phật thanh tịnh nhằm hóa độ các nẻo nghiệp của chúng sinh. Cũng lại nói về sự thành tựu của các pháp Bala-mật Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định và Trí tuệ ba-la-mật. Và sự thành tựu trong việc thực hiện các pháp môn, từ đấy có thể biết rõ các căn cùng xứ, phi xứ của hết thảy các loài khiến cho bốn chúng đệ tử là Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưubà-tắc, Ưu-bà-di; cũng như tám bộ chúng là Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-đà-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… thảy đều được hoan hỷ. Ta ở thời quá khứ đã tạo nhiều nghiệp duyên cũng như thọ nhận những quả báo cùng sở nguyện của tâm mình, nên biện tại trí tuệ không còn bị ngăn ngại, sẽ vì các vị mà thuyết giảng một ít.

Khi ấy, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, rồi vâng theo lời Phật dạy mà sắp đặt, bày biện tòa ngồi, cao tới cõi Phạm thiên. Lại ở trong không trung tạo ra chốn kinh hành, trang nghiêm bằng bảy thứ châu báu mềm mại, óng ánh như Calăng-già, dài tới hàng ngàn do-tuần, rộng bảy trăm do-tuần. Chỗ ngồi của nơi kinh hành ấy đều có các loại cửa sổ bảy lớp theo từng hàng, bảy lớp cửa thông hơi quý giá, bảy lớp lan can, bảy lớp lưới báu giăng mắc chung quanh. Bên phải, bên trái tòa ngồi ấy có những cây báu đứng thành hàng được tạo thành bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê. Thân cây là vàng thì lá là bạc, pha lê là hoa, lưu ly là quả. Còn thân cây là bạc thì lá là vàng, lưu ly là hoa, pha lê là quả. Nếu thân cây là lưu ly thì lá là bạc, hoa là vàng, pha lê là quả. Nếu thân cây là pha lê thì lá là vàng, hoa là bạc và lưu ly là quả. Nơi khoảng giữa của những cây báu kia đều có ao tắm rửa, trong ấy đầy ấp nước gồm đủ tám thứ công đức. Bốn phía quanh ao có bốn bậc thềm quý do vàng, bạc, lưu ly, pha lê tạo thành. Đáy ao thì có những cát vàng. Các đóa hoa sen đủ màu sắc xanh, vàng, đỏ, trắng xen nhau phủ khắp cả mặt nước ao.

Chim uyên ương và nhiều thứ chim khác cùng hòa hợp trong giọng hót lảnh lót. Những màn lưới được làm bằng bảy món châu báu giăng kín trên cao nơi các ao ấy. Lại còn dựng nhiều cờ phướn đốt các loại hương quý. Ở chỗ “chốn kinh hành” các thứ hoa chen nhau dày đến bảy nhẫn. Trên các đóa hoa ấy đều hiện ra các vị Tỳ-kheo, thảy giống như Tôn giả Mục-liên.

Lúc này, Tôn giả Mục-liên dùng diệu lực thần thông hóa hiện đầy đủ nơi tòa ngồi xong, liền trở về nơi chỗ Đức Phật, thưa với Đức Thế Tôn rằng:

–Con đã bày biện, sắp đặt tòa ngồi xong, đúng như lời dạy bảo của bậc Thánh Trí.

Đức Phật bảo Tôn giả Mục-liên:

–Tuy Tôn giả bày biện tòa ngồi ấy nhưng Như Lai sẽ không ngồi trên tòa biến hóa đó vì đại chúng mà thuyết pháp.

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Thị Vô Lượng Duyên:

–Bồ-tát hãy vì Như Lai mà sắp đặt bày biện pháp tòa. Hôm nay ta sẽ an tọa ở đấy mà thuyết giảng kinh Dứt Trừ Mọi Mối Nghi Vấn Của Chúng Sinh.

Lúc này, Bồ-tát Thị Vô Lượng Duyên vâng lời Phật dạy, sắp sửa, bày biện pháp tòa, thì ngay lúc ấy các vị Bồ-tát trong khắp tam thiên đại thiên thế giới, mỗi vị đều đem tấm y của mình dâng lên, chất thành tòa cao. Đức Như Lai liền suy nghĩ: “Ta nay sẽ thể hiện diệu lực thần thông, khiến cho các vị Bồ-tát tự biết rõ về sở nguyện phát tâm hành đạo, đem lại sự thanh tịnh cho các cõi Phật, thành tựu trong việc hóa độ chúng sinh, cho đến khi thành Phật với quốc độ trang nghiêm thanh tịnh. Chúng Bồ-tát, Thanh văn số lượng như vậy, diễn nói về chánh pháp độ người như vậy, thọ mạng của Phật pháp ngắn dài như vậy. Mọi hình sắc, tướng tốt hành hóa chân chánh như vậy. Sau khi Phật diệt độ, đạo pháp được trụ ở đời lâu dài, gần gũi. Lại khiến cho các vị Bồ-tát, mỗi vị ở trong tấm y của mình được trông thấy sự việc như vậy mà dứt được chỗ nghi vấn.

Thế rồi Đức Thế Tôn thong thả, từ tốn đứng dậy, đi đến pháp tòa cao nhập pháp Tam-muội Phật. Pháp Tam-muội ấy gọi là Thị vô lượng duyên. Lúc này các vị Bồ-tát, mỗi người ở nơi tấm y của mình tự nhận thấy được quốc độ trang nghiêm thanh tịnh, thành đạo Vô thượng. Chúng Thanh văn, Bồ-tát số lượng đông nhiều như vậy, thọ mạng ngắn dài, hình sắc tướng trạng như vậy, hành hóa chân chánh tinh tấn đạt được những công đức như vậy. Sau khi diệt độ, xá-lợi được phân bố khắp chốn như vậy, đạo pháp được trụ ở đời lâu dài, gần gũi, không bị hủy hoại như vậy. Mỗi vị Bồ-tát ở nơi y của mình thấy rõ các việc như vậy.

Khi ấy, các vị Bồ-tát cùng cất lời đọc bài kệ:

Bậc tịnh hạnh, tôn quý
Tự tại trong các pháp
Đem công đức trang nghiêm
Lực thiền định không ngại
Thánh chủ dứt dối trá
Kiêu mạn cùng cợt đùa
Đạt giải thoát nẻo Thánh
Trụ Tam-muội thâm diệu
An trụ Tam-muội Phật
Hiện thần lực vô lượng
Với trí tuệ vô ngại
Tất hiện rõ vị lai
Chúng con đã tự thấy
Tâm an định dứt động
Nên vì nơi đạo tràng
Tam-muội đủ hàng ma.
Chúng con liền đạt được
Phật nhãn vốn vô thượng
Do được Phật nhãn ấy
Rõ các pháp đều không
Gọi là Nhãn vô ngại
Gọi kiến và vô kiến
Thấu các pháp vô ngại
Nên gọi Vô thượng nhãn
Mọi tâm nơi hữu vô
Nhân ấy đạt Phật nhãn
Nên ở trong ba cõi
Thấy khắp, chẳng chướng ngại.
Phật nhập pháp Tam-muội
Khiến con được Phật nhãn
Cùng các môn Tổng trì
Hội nhập tất cả pháp.
Chúng con từ trước nay
Biết Phật trí vô ngại
Gốc tu tập vô lượng
Đạt đúng nẻo thanh tịnh
Nếu Thí, Giới, Tuệ ít
Sao được phước báo ấy?
Nên nơi tòa Sư tử
Hào quang chiếu mười phương
Khiến chư Thiên, long, thần
Đều rõ con làm Phật
Tất cũng biết chúng con
Nẻo nhân duyên hành hóa.
Phật nơi tòa vô úy
Thuyết pháp trừ mọi nghi
Cũng như Sư tử vương
Chốn rừng vang tiếng thét
Gốc từ vô lượng kiếp
Trí tuệ dốc tu tập
Nay dùng lực Tam-muội
Khiến khắp trời, người rõ.
Do vốn cầu lợi lớn
Tu Thí, Giới vô lượng
Nhẫn nhục, Tấn, Định, Tuệ
Dốc hành vì muôn loài
Chính từ nhân duyên đó
Nên nơi tòa Sư tử
Nay chúng con cung kính
Xin nguyện dứt mọi nghi
Thân cận trong pháp trụ
Nẻo sáng pháp khiến đạt
Tất dứt hết lưới ngờ
Thông đạt tất cả pháp.

Lúc này trong chúng hội có vị Pháp vương tử tên là Hoa Đức Tạng, liền rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy, vắt một vạt y để trần vai bên hữu, đầu gối bên phải chạm sát đất, chắp tay cung kính hướng về Đức Phật mà bày tỏ những suy nghĩ của mình rằng:–Con muốn được đến nơi Phật để hỏi về các pháp môn như Kim cang cú môn, Trùng cú môn, Bất đoạn cú môn, Tu tập nhất thiết chư pháp cú môn… Nếu có hàng thiện nam, thiện nữ nhân tu học cú môn ấy ở trong tất cả các pháp môn thì sẽ đạt được nhãn lực và trí tuệ phương tiện vô ngại. Kính mong Như Lai hãy xem xét về đời trước của con, ở chỗ vun trồng căn lành cũng như dốc chí phát tâm cầu đạo trang nghiêm lớn lao?

Bấy giờ Đức Như Lai liền xem xét về đời trước của vị Bồ-tát ấy, từ lúc mới phát tâm, chỗ vun trồng căn lành, cũng như thân tâm dốc chí cầu đạo trang nghiêm lớn lao xong, bèn ngoảnh lại nhìn khắp chúng hội, từ trong miệng phát ra luồng hào quang kỳ diệu tỏa sáng như ánh lửa rực rỡ, chiếu khắp vô lượng, vô biên thế giới, khiến cho núi rừng, tường vách, nhà cửa, đất nước gió lửa cùng cả cõi hư không thảy đều một màu vàng óng. Tám phương và phương trên, dưới lan tỏa thông suốt.

Khi ấy, hết thảy mọi chúng sinh trong khắp tam thiên đại thiên thế giới đều tự thấy thân mình óng ánh như màu vàng ròng. Những chúng sinh thường bị lửa dục thiêu đốt thì tự biết nơi thân mình ý tưởng dâm dục đã dứt. Những chúng sinh luôn bị ngọn lửa giận dữ, ngu si thiêu đốt thì cũng đều tự biết nơi thân mình ý tưởng giận dữ và ngu si đều dứt. Những chúng sinh đang chịu bao khổ não nơi địa ngục lớn trong khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới này, nhờ ở diệu lực thần thông và bản nguyện của Phật mà liền được dứt chịu sự thống khổ. Cùng lúc, trong khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới, các chúng sinh đang bị bao thứ nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng phủ che, nhờ ở thần lực của Phật cùng với diệu lực nơi bản nguyện của Bồtát Hoa Đức Tạng mà đều liền được xua tan hết.

Lúc này từ những lỗ chân lông nơi thân tướng của Đức Như Lai liền phóng ra những luồng ánh sáng nêu bày về nghiệp báo nhằm khiến cho chúng sinh tăng trưởng các căn lành. Những luồng ánh sáng ấy tỏa chiếu về phương Đông, vượt qua vô lượng, vô biên hằng hà sa số a-tăng-kỳ quốc độ. Các phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và trên, dưới cũng lại như thế.

Đức Phật phóng hào quang xong, liền cất tiếng cười nhẹ nhàng, âm thanh ấy khắp tất cả thế giới đều được nghe biết.

Phẩm 3: Bồ-tát Võng Minh

Bấy giờ, về phương Đông, trải qua vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ thế giới, có quốc độ tên Dân nhất cái, trong ấy có Đức Phật hiệu là Nhất Bảo Nghiêm, hiện tại đang thuyết pháp. Đức Phật ấy thọ ký cho Đại Bồ-tát Võng Minh sẽ thành tựu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác với lời ấn chứng rằng: “Kế sau ta, vị Đại Bồ-tát này sẽ thành Phật.”

Lúc này, Bồ-tát Võng Minh thưa với Đức Phật Nhất Bảo Nghiêm rằng:

–Hiện có ánh hào quang tỏa chiếu và âm thanh lớn vang vọng là do vị nào tạo ra?

Đức Phật bảo:

–Về phương Tây, cách xa cõi này vô lượng atăng-kỳ quốc độ có thế giới gọi là Ta-bà. Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hiện tại đang vì chúng Bồ-tát mà thuyết giảng về Bồ-tát tạng kinh “Thâu nhiếp hết thảy các pháp nhằm dứt mọi mối nghi vấn của chúng sinh, khiến cho mọi người đều được hoan hỷ.” Nơi chúng hội đó có vị Bồ-tát tên là Hoa Đức Tạng, muốn hỏi Đức Phật Thíchca Mâu-ni về việc thâu nhiếp hết thảy các pháp có thể làm phát khởi vô lượng pháp môn công đức. Bồ-tát Võng Minh nên biết rằng, tất cả các vị Bồtát trong thế giới Ta-bà ấy đều phát hạnh nguyện lớn lao vô hạn, các vị đó cùng vân tập đông đủ nơi chúng hội ấy. Ở các thế giới khác, ít đâu có được cảnh giới trang nghiêm lớn lao như thế. Chúng Bồtát ở các thế giới kia nếu được nghe, biết đến danh hiệu thôi, hãy còn đạt được lợi ích to lớn, huống chi lại được cúng dường hay gần gũi để tham vấn học hỏi.

Bồ-tát Võng Minh thưa với Đức Phật Nhất Bảo Nghiêm:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đến nơi thế giới Ta-bà ấy để cúng dường, lễ bái, hầu cận Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, cùng được thấy cõi đó với đầy đủ sự trang nghiêm của các chúng Bồ-tát ở đấy.

Đức Phật Nhất Bảo Nghiêm đáp:

–Bồ-tát đã tự biết thật đúng lúc! Phải nên nhất tâm để được đi đến cõi ấy. Vì sao? Vì chư Bồ-tát ở cõi đó uy đức lớn lao, khó ai có thể hơn được.

Đức Phật Nhất Bảo Nghiêm trao những đóa hoa sen cho Bồ-tát Võng Minh và nói:

–Bồ-tát hãy đem những hoa này đến cúng dường Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng nói thay ta lời kính mừng thăm hỏi, cầu chúc ít phiền, ít bệnh, ăn uống ngủ nghỉ có luôn được thư thái nhẹ nhàng, khí lực luôn an ổn chăng?

Bồ-tát Võng Minh cung kính đảnh lễ ngang chân Phật rồi đi nhiễu quanh theo phía phải ba vòng, liền cùng với vô số đại chúng Bồ-tát trước sao vây quanh Đức Phật. Chỉ trong khoảnh khắc như sự co giãn cánh tay của vị đại lực sĩ, hốt nhiên Bồ-tát Võng Minh biến khỏi quốc độ mình, hiện đến thế giới Ta-bà, đi đến vườn Trúc, cung kính đảnh lễ Đức Phật Thích-ca Mâu-ni và thưa với Đức Phật rằng:

–Kính bạch Thế Tôn! Con là Võng Minh!

Đức Phật nói:

–Lành thay! Hiện Bồ-tát vẫn được an ổn.

Bồ-tát Võng Minh cung kính đảnh lễ xong, lui ra đứng một bên và thưa với Đức Thế Tôn:

–Phật Nhất Bảo Nghiêm xin gởi lời vấn an Đức Thế Tôn, thăm hỏi mong cầu ít phiền, ít bệnh, ăn uống nghỉ ngơi có luôn được thư thái, khí lực luôn được an ổn chăng? Lại đem những đóa hoa sen này dâng lên Đức Thế Tôn.

Đức Phật Thích-ca liền nhận lấy hoa rồi giao cho Bồ-tát Di-lặc. Bồ-tát Di-lặc nhận lấy rồi gọi Bồ-tát Bạt-đà-bà-la cùng năm trăm vị Bồ-tát và nói:

–Này chư Thiện tri thức! Đức Như Lai trao cho ta những đóa hoa sen này, giờ ta trao lại cho các vị.

Lúc này, các vị Bồ-tát như Bồ-tát Bạt-đà-bà-la, Bồ-tát Bảo Tích, Bồ-tát Đạo Sư, Bồ-tát Tinh Đắc, Bồ-tát Thủy Thiên, Bồ-tát Thiện Lực, Bồ-tát Đại Ý, Bồ-tát Thắng Ý, Bồ-tát Tăng Ý, Bồ-tát Bất Hư Kiến, Bồ-tát Trụ Ý, Bồ-tát Quá Lực, Bồ-tát

Thường Tinh Tấn, Bồ-tát Bất Hưu Tức, Bồ-tát Nhật Tạng, Bồ-tát Trì Thế, Bồ-tát Trì Địa, Bồ-tát Việt Tam Giới, Bồ-tát Vô Lượng Lực, Bồ-tát Kim Cang Lực, Bồ-tát Kiên Ý, Bồ-tát Vô Biên Tự Tại… đại thể có tới năm trăm vị Bồ-tát như vậy đều theo Bồ-tát Di-lặc nhận lấy hoa sen xong, liền thưa với Đức Thế Tôn rằng:

–Kính bạch Thế Tôn! Bản nguyện của chúng con là: Nếu có chúng sinh nào được nghe tên cùng được thấy chúng con thì thảy đều được pháp không thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Kính bạch Thế Tôn! Bồ-tát Di-lặc đã trao cho chúng con những hoa này, hôm nay chúng con sẽ dùng để tung rải dâng lên chư Phật thời quá khứ, hiện tại, vị lai ở phương Đông, cũng dùng để cúng dường chư Phật ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai ở các phương Nam, Tây, Bắc cùng bốn hướng, hai phương trên, dưới. Nguyện cho chỗ hoa được tung rải cúng dường này sẽ bay đến khắp mười phương vô lượng thế giới. Mọi chúng sinh ở những nơi ấy nếu được trông thấy những hoa đó, hay nhận biết mùi hương của hoa thì sẽ thuận theo nẻo gốc chí nguyện của chúng con mà từ thâm tâm dấy khởi hành động theo đạo pháp, thể hiện sự lìa bỏ hết thảy nghiệp lực của chúng sinh, do đó mà tất cả đều đạt được quả vị Vô thượng Bồ-đề.

Bấy giờ, các vị Bồ-tát đem những đóa hoa sen ấy sắp sửa tung rải khắp mười phương thì Đức Phật bèn dùng tay xoa nhẹ lên mỗi mỗi đóa hoa. Từ trong mỗi đóa hoa đó thảy hiện ra thân tướng Đức Phật và chư Phật hóa hiện ấy từ cõi không đi đến, cùng nói rằng:

–Nếu có chúng sinh nào không tin tưởng các pháp là không, như huyễn hóa, vô tướng, vô duyên, thì những chúng sinh ấy, Phật không còn là vị thầy, mà họ cũng không phải là đệ tử của Phật.

Các vị Phật hóa hiện liền đọc bài kệ:

Các pháp không, vô tướng
Không thủ, không sở duyên
Hết thảy như huyễn hóa
Cũng như trăng trong nước
Chẳng do không, nên không
Tánh vốn luôn như vậy
Đó chính chỗ Phật dạy
Pháp vi diệu tối thượng.
Các pháp không, vô tướng
Cũng lại không có ngã
Nếu người hiểu như vậy
Ắt dứt mọi tham tranh.
Nếu người vui pháp ấy
Phật chính là bậc Thầy
Chúng con nhờ Phật lực
Sẽ đi khắp mười phương.

Các vị Phật hóa hiện, mỗi vị nói xong bài kệ ấy liền biến hiện đến khắp mười phương. Bồ-tát Võng Minh thưa với Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Các vị Bồ-tát ấy bản nguyện thanh tịnh thật là điều chưa từng có, có thể khiến cho chúng sinh đang chịu bao khổ não trong cõi này cùng với chúng sinh cũng đang bị bao thứ phiền não bức bách ở những thế giới khác, được nghe danh hiệu của các vị mà đều đạt pháp không thoái chuyển đối với đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đúng ra thì Như Lai cùng các vị Bồtát chẳng nên sinh ở thế giới tạp ác này. Vì sao? Ví như ngọc báu Ma-ni vô giá có thể dứt trừ hết thảy mọi suy nhược, buồn phiền của chúng sinh, giúp họ có được an ổn vui vẻ. Nếu có người trí khéo nhận biết hình tướng của ngọc báu ấy, được nghe ngọc báu kia có công năng rất lớn, nên luôn tâm niệm nhớ nghĩ, đi khắp nơi tìm kiếm, thấy ngọc báu ở nơi hầm đầy những thứ uế tạp, nhơ bẩn. Có những người thợ giỏi nhưng là hạng bần cùng, hạ tiện, xấu ác, đi đến dừng lại bên mép miệng hầm ấy, họ hãy còn không biết được ngọc báu kia, huống hồ lại có thể biết được công năng vốn có của ngọc báu? Bấy giờ người đi tìm ngọc báu thấy sự việc như vậy, liền nói rằng: “Ngọc báu này đáng ra không nên ở nơi chốn uế tạp như vậy.” Lúc này những người bần tiện bèn nói với người kia rằng: “Những gì là ngọc báu hiện có ở chỗ này?” Thế là người đi tìm ngọc báu đưa tay chỉ viên ngọc cho mấy người kia thấy, nhưng những người ấy là hạng vô trí nên không biết hình tướng của ngọc báu, bèn nói: “Ông tuy ca tụng ngọc báu ấy như thế, nhưng chúng tôi chỉ thấy công năng của ngọc báu ấy ra sao! Ông nói không thực thì ai có thể tin lời ông được!” Lúc này người đi tìm ngọc báu liền lấy ngọc báu ra khỏi chỗ đó và mang đi. Từ đấy về sau, những người bần tiện kia luôn gặp bao việc suy kém, buồn phiền, tật bệnh, tranh tụng, cùng bao thứ khổ sở bất an.

Kính bạch Thế Tôn! Thế giới Ta-bà cũng giống như vậy, thảy đều tàn hại, bần cùng hạ tiện, tạo nên các pháp xấu ác. Cũng như ngọc báu, nơi chốn có nó lại đầy dẫy những thứ cấu uế, ác xấu. Kính bạch Thế Tôn! Ngọc báu Ma-ni kia có công năng dứt trừ mọi thứ suy nhược, buồn phiền, đem lại cho muôn người sự an lạc, nên hiểu đó là Phật cùng với thế giới gồm đủ các chúng Bồ-tát trang nghiêm. Những người bần cùng hạ tiện từng đứng chung quanh miệng hầm có chứa viên ngọc báu ấy, nên biết đó là những chúng sinh tạo nghiệp ác nơi thế giới Ta-bà. Còn những kẻ nam, nữ được nghe nói về công năng lớn lao của ngọc báu bèn đi tìm kiếm và thấy nó ở nơi chỗ uế tạp, nên nói rằng: “Ngọc báu này đúng ra không nên ở nơi như vậy!”, thì đấy chính là chúng con từng được nghe chư Phật hiện tại trong mười phương quốc độ tán dương, ca ngợi Thế Tôn cùng với thế giới gồm đủ chúng Đại Bồtát trang nghiêm. Do vậy nên mới tìm đến để được trông thấy cùng kính lễ, vấn an. Nhưng mà thấy cõi này, chúng sinh với bao nỗi khổ não uế trọc, tội ác cấu nhiễm, phước báo mỏng manh, thật là đầy dẫy những thứ như thế!

Kính bạch Thế Tôn! Như ngọc báu kia ở nơi chốn cấu uế thì ánh sáng rực rỡ không hiện ra. Cũng như Đức Như Lai cùng với chúng Bồ-tát hết mực trang nghiêm hiện nay đang ở cõi này thì công đức cũng không hiển hiện. Như ngọc báu Ma-ni tuy ở nơi chốn cấu uế cũng có thể đem lại một ít lợi ích đối với những kẻ bần tiện, như hiện nay Thế Tôn ở nơi thế giới này chỉ mỗi hiện ra ánh hào quang lớn, còn hào quang với sắc tướng chân thực của Đức Như Lai cùng mọi dụng lực công đức, thần thông tự tại, diệu lực của bản nguyện… thảy đều không hiện ra.

Kính bạch Thế Tôn! Chúng sinh ở cõi này căn lành vốn mỏng manh, ít ỏi, hãy còn không thể tin chỗ hiện ra ánh hào quang công đức của Như Lai, huống chi lại có thể tin được nơi công đức của các vị Đại Bồ-tát sao? Chắc chắn là không có việc ấy.

Kính bạch Thế Tôn! Như người đi tìm ngọc báu, từ nơi chốn bất tịnh lấy được ngọc báu ấy và mang đi, từ đấy về sau những người bần tiện kia luôn gặp phải những sự suy kém buồn phiền, bệnh tật, tranh tụng cùng bao nỗi khổ sở bất an. Sau khi Phật diệt độ, những người đọc tụng, tu tập theo kinh điển như vậy thì không nên sinh vào cõi ấy. Vì ở trong thế giới đó có quá nhiều sự suy kém, buồn phiền, thống khổ, cho đến không được nghe cả tên gọi Phật pháp. Vì sao? Vì các chúng sinh ấy đã vui thích với nơi chốn có nhiều pháp ác xấu cũng như tàn hại lẫn nhau, chìm đắm trong vô vàn thứ suy nhược buồn chán, không có các nẻo hành động tạo tác thanh tịnh, phước đức, trí tuệ, nên chẳng có được những lợi ích lớn lao.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu các thiện nam, thiện nữ muốn tìm cầu và mau chóng thành tựu Phật đạo thì chẳng nên sinh ở cõi ấy. Cầu đạt quả vị Thanh văn hãy còn không nên sinh vào thế giới đó, huống hồ là Bồ-tát! Vì sao? Như ở các địa ngục A-tỳ, Đẳng hoạt, Hắc thằng, Đại nhiệt, Tiểu nhiệt… chúng sinh ở các chốn ấy không hề có được chút giây lát an vui.

Kính bạch Thế Tôn! Ở cảnh giới của Như Lai cùng với các vị Bồ-tát mà nhìn thấy chúng sinh nơi thế giới Ta-bà đó, khác nào ở nơi các chốn địa ngục kia phải nhận lấy bao thứ khổ não! Chúng sinh ở nơi cõi nọ, khi sinh ra liền được an lạc, nếu con nói với họ điều ấy, vì họ chưa từng trải qua nên không thể tin được.

Kính bạch Thế Tôn! Con vì muốn được nghe pháp và hội nhập vào pháp môn thanh tịnh nên tìm đến chỗ Phật, chứ không phải nhằm đề cao cõi nọ là chốn an lạc. Vì sao? Vì hết thảy mọi sự khổ vui thảy đều là vô thường, không còn hình tướng quyết định. Chúng con muốn được nghe nói về không khổ không lạc; vô thường, chẳng phải thường; vô tưởng phân biệt; vô tu, chẳng phải tu; vô vi, chẳng phải vi; vô thuyết, chẳng phải thuyết; không có thế gian và xuất thế gian; vô lậu, chẳng phải lậu; không thật không hư; không có Bồ-đề cùng Bồ-đề phần; không lực, chẳng phải lực; không mờ không sáng; không đạo, chẳng phải đạo; không quả, chẳng phải quả; không khởi; không trụ; không có nơi chốn để đến.

Kính bạch Thế Tôn! Chúng con hôm nay muốn được nghe các pháp ấy. Vì sao? Vì tất cả sự vui đều từ phước đức hư vọng do nhân duyên hợp tạo. Hiện ra nơi thế gian, các pháp của Như Lai là không, vô hình, vô tướng, không có mười Lực, cùng bốn Vô sở úy, không có các thứ thần thông, cũng không thuyết pháp, không khổ không lạc, lìa mọi niệm động cùng nẻo hành của tâm, đạt được tướng như vậy, cho nên gọi là Như Lai. Đối với kẻ theo niệm động, thì là thật là hư, là lậu vô lậu, là tên thế gian xuất thế gian, là giới chẳng phải giới, là lực chẳng phải lực, là úy vô úy, là phước điền của bậc Thánh, là chẳng phải phước điền, là tên gọi Như Lai, là chúng Bồ-tát, là chư Thanh văn, là Bích-chi-phật, là thông là nguyện. Như Lai tất dứt trừ mọi thứ hý luận ấy, do vậy mà đạt được diệu lực vô ngại, vô úy, nên ở nơi đại chúng tạo được tiếng rống của Sư tử hiện rõ âm thanh lớn lao của Phật.

Kính bạch Thế Tôn! Như Lai cũng có thể ở trong chốn chán ghét việc ác mà phát sinh tưởng không chán ghét, ở trong cõi tịnh không chán mà dấy lên tưởng chán lìa, lại có thể cùng lìa, xả hạnh nhất tâm, đó gọi là hạnh của Phật, hạnh của bậc Thánh tự tại, hạnh không cùng chung với hàng Thanh văn và Bích-chi-phật.

Kính bạch Thế Tôn! Hạnh “bất cộng” ấy không ai có thể có được, mà cũng không gì có thể hủy hoại được. Vì sao? Vì ngoài hạng người trí lực thì không ai có thể hiểu được. Chư Phật Thế Tôn nói với các hạnh cùng bao nhiêu phần số như vậy, sâu xa như vậy, nhân duyên như vậy, tịch diệt như vậy, an lạc như vậy.

Kính bạch Thế Tôn! Các hành của Như Lai là vô hành, là chỗ chúng sinh không thể hành, do vậy, bạch Thế Tôn! Các hành của Như Lai, hết thảy hàng Thanh văn và Bích-chi-phật đều chẳng phải chỗ có thể hành được. Chẳng phải chỗ hành ấy là chẳng phải hành, cũng chẳng phải bất hành, tất cả hàng Thanh văn cùng Bích-chi-phật ở trong pháp ấy vốn không có diệu lực của hành. Vì vậy, Thế Tôn! Chỗ hành của Như Lai có tên là Vô biên hành. Hành vô biên ấy, chư Phật Như Lai với bản nguyện nhằm đem lại sự an lạc tột bậc, không còn có giới hạn.

Kính bạch Thế Tôn! Pháp ấy không thể dùng ngôn ngữ, văn tự để diễn nói. Dùng ngôn ngữ văn tự diễn nói tức là đã lìa hành ấy. Pháp đó có tên là Pháp môn nghĩa thú, có thể khai mở sáu vạn sáu ngàn pháp môn, thảy đều được soi sáng.

Kính bạch Thế Tôn! Đức Phật Nhất Bảo Nghiêm thường vì chúng sinh mà thuyết giảng pháp môn ấy. Lúc nói xong pháp môn ấy có đến bảy vạn bảy ngàn các chúng Bồ-tát đều đạt được pháp môn vô ngại đó, nên có thể tùy thuận một cách thích hợp với hành của Như Lai.

Các vị Bồ-tát ấy cùng cất tiếng thưa rằng: “Chúng con hôm nay đã tiếp cận đúng nẻo Vô thượng Chánh giác.” Có đến sáu vạn chúng sinh đều phát tâm Vô thượng Bồ-đề, tức thì họ đều được Đức Như Lai thọ ký. Lại có tới tám trăm vạn nado-tha chúng sinh ở nơi các Pháp nhãn thanh tịnh. Cũng lại có ba vạn chúng Tỳ-kheo-ni không thọ nhận các pháp, các lậu được dứt sạch, tâm ý thông mở.

Bấy giờ Đức Phật Thích-ca mỉm cười, phóng ra ánh hào quang lớn chiếu khắp các thế giới, đại địa chấn động. Tôn giả A-nan liền rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy, vắt một vạt y, để trần vai bên hữu, đầu gối bên phải chạm sát đất, cung kính thưa với Đức Thế Tôn:

–Kính bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà Thế Tôn mỉm cười và phóng ánh hào quang lớn tỏa chiếu khắp thế giới, đại địa lại chấn động?

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Vì Bồ-tát Võng Minh đã nói về pháp môn ấy, nói về trường hợp bảy vạn bảy ngàn các chúng Bồtát đều đạt được pháp môn đó. Bồ-tát Võng Minh ở nơi thế giới ấy, trong một phần của hư không, đã từng theo tám vạn nơi chốn của chư Như Lai, được nghe pháp môn ấy, nghe xong thì đạt được pháp môn vô ngại đó và nhờ đạt được nên mới có thể du hóa vô lượng cõi Phật.

Phẩm 4: Nói về tướng như

Lúc bấy giờ ở phương Đông, trải qua bảy trăm tám vạn a-tăng-kỳ quốc độ, có thế giới tên là Nhất bảo tụ. Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Bảo Lực, hiện đang được vô lượng đại chúng cung kính vây quanh để nghe Phật thuyết pháp. Đức Phật Vô Biên Bảo Lực ấy đang thọ ký cho Đại Bồ-tát Bất Hư Hạnh Lực quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác với lời ấn chứng rằng: “Hiện nay là Bồtát nhưng lần lượt tiếp sau ta sẽ được thành Phật.”

Lúc này, Bồ-tát Bất Hư Hạnh Lực đang ở nơi đại chúng nhìn thấy ánh hào quang lớn cùng nghe âm thanh vang động, liền thưa với Đức Phật Vô Biên Bảo Lực:

–Ánh hào quang và âm thanh vang động ấy là của Đức Phật nào vậy?

Phật Vô Biên Bảo Lực nói:

–Về phương Tây, cách xa cõi này, trải qua bảy trăm tám vạn a-tăng-kỳ quốc độ, có thế giới tên là Ta-bà, Đức Phật ở cõi ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì các vị Bồ-tát đại trang nghiêm mà thuyết giảng về Bồ-tát tạng kinh “Dứt trừ mọi nghi vấn của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ.”

Bồ-tát Bất Hư Hạnh Lực thưa với Đức Phật:

–Con muốn đi đến thế giới Ta-bà ấy để cúng dường, kính lễ, hầu cận Đức Phật Thích-ca Văn, cùng được hội kiến với các chúng Bồ-tát gồm đủ sự trang nghiêm lớn lao ở cõi đó.

Đức Phật Vô Biên Bảo Lực bảo:

–Bồ-tát đã tự biết thật đúng lúc! Phải nên nhất tâm để đi đến thế giới ấy. Vì sao? Vì các vị Bồ-tát ở đấy đều có uy đức lớn, khó có ai bằng. Bồ-tát hãy đem lời ta xin vấn an Đức Phật Thích-ca Văn, mong cho ít phiền, ít bệnh, mọi sinh hoạt luôn được thư thái nhẹ nhàng, khí lực có luôn an ổn chăng?

Và dùng những đóa hoa sen này cúng dường Phật. Khi ấy, Bồ-tát Bất Hư Hạnh Lực liền rời khỏi chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ ngang chân Phật, đi nhiễu quanh theo hướng tay phải ba vòng, rồi ở nơi bảy vạn tám ngàn vị Bồ-tát, hốt nhiên biến khỏi cõi Phật ấy và có mặt ở thế giới Ta-bà, khiến cho mọi quốc độ trong khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới, các thứ cây cối tuy trái mùa mà đều đơm hoa kết quả trĩu cành. Lại tung rải xuống như mưa các thứ hoa quý, hương thơm xông ngát, rồi các loại kỹ nhạc thượng diệu cùng lúc hòa tấu vang lừng. Bồtát Bất Hư Hạnh Lực đi thẳng đến vườn Trúc, cung kính đảnh lễ, đưa tay xoa lên chân Phật và ba lần xưng thưa:

–Con là Bồ-tát Bất Hư Hạnh Lực.

Đức Phật Thích-ca Văn nói:

–Thôi được, ta đã rõ sự chí thành của Bồ-tát.

Bấy giờ, Bồ-tát Bất Hư Hạnh Lực cung kính đảnh lễ xong, liền thưa với Đức Phật:

–Phật Vô Biên Bảo Lực có lời vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn có được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt luôn được thư thái an nhiên, khí lực tươi khỏe chăng? Lại gởi những đóa hoa sen này để cúng dường Đức Thế Tôn.

Đức Phật nhận lấy những đóa hoa và tỏ lời thăm hỏi:

–Đức Phật Vô Biên Bảo Lực luôn được an ổn vô sự, khí lực khang kiện chăng?

Bồ-tát Bất Hư Hạnh Lực thưa:

–Phật của chúng con luôn được an ổn, ít phiền, ít bệnh, tự tại vô vi.

Đức Phật bèn đem những đóa hoa sen ấy trao cho Bồ-tát Di-lặc. Lúc này, Bồ-tát Di-lặc tay ôm bó hoa và nói:

–Do những đóa hoa sen này mang đủ diệu lực từ nhân duyên của các căn lành phước đức nên khiến cho thiện nam, thiện nữ nào phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề thì đạt được cõi thanh tịnh, thành tựu trong sự hóa độ chúng sinh. Vì sao? Vì nếu các chúng sinh không vun trồng căn lành thì khó có thể giáo hóa. Căn lành không gồm đủ cũng khó có thể giáo hóa. Chỉ vui với các pháp nhỏ cũng khó có thể giáo hóa. Vì sao mà nói như thế? Vì từ trong những đóa hoa này, nếu người nào muốn được trông thấy mười phương chư Phật thì liền được thấy, cũng có thể được trông thấy Đức Phật Vô Biên Bảo Lực cùng thế giới Bảo trụ và các vị Bồ-tát ở đấy. Đã được nhìn thấy cõi ấy thì đồng thời cùng được giải thoát với ba thứ ánh sáng vô lậu, sáu thần thông của chúng đại Thanh văn.

Kính bạch Thế Tôn! Những đóa hoa sen này là do phước báo từ nhân duyên của những căn lành sâu xa sinh ra. Bởi vậy, con hôm nay xin dùng hoa cúng dường Phật, khiến cho mọi chúng sinh, ai đã phát tâm cầu Phật đạo thì luôn dứt mọi thứ chướng ngại. Kẻ nào chưa phát tâm cũng khiến cho phát tâm. Cũng như Đức Như Lai thông đạt các pháp, thấy được thật tướng không hề bị hủy hoại của chúng mà đạt đến đạo Vô thượng. Con xin đem tâm ấy cầm lấy những đóa hoa này dâng lên cúng dường.

Bấy giờ Đức Phật bảo Bồ-tát Bạt-đà-bà-la:

–Pháp ấy gọi là pháp gì? Có phải Như Lai do thông đạt tính chất bất hoại của pháp ấy mà chứng đắc đạo Vô thượng?

Bồ-tát Bạt-đà-bà-la thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Không có pháp ấy. Như Lai đã từ tính Như thông đạt lẽ bất hoại mà chứng đắc Phật đạo. Vì sao? Vì Như Lai không đạt được hình tướng các pháp ấy. Nếu Phật không đạt được thì không gọi là pháp hay chẳng phải pháp.

Kính bạch Thế Tôn! Trong sự vô sở đắc ấy, nếu như có pháp tức là Như Lai đã dấy khởi hình tướng của các pháp ấy. Vì sao? Vì nơi sinh của các tướng đều từ lục nhập. Như Lai hãy còn tự mình lìa bỏ sự chi phối của các Nhập, huống chi trong sự vô đắc mà lại bị vướng ở hình tướng sao? Nhưng nếu có quán tưởng như vậy thì liền lại vướng vào tướng. Vì thế mà Phật dạy: Hết thảy các pháp là không giữ, không bỏ, cũng không thuận theo, nên hành theo tướng Như, và do đạt được tướng ấy nên gọi là Như Lai. Vì sao? Vì chỗ Phật mong muốn làm rõ các pháp đều ở trong Như. Nếu cố giữ lấy các pháp thời là hủy hoại Như. Như là không Như Lai mà tạo nhân ở Như ấy nên gọi là Như Lai. Như ấy là vô tướng, tạo nhân nơi vô tướng ấy nên gọi là Như Lai. Như ấy là vô tận, tạo nhân nơi vô tận ấy nên gọi là Như Lai. Như ấy là chẳng hủy hoại, tạo nhân nơi bất hoại ấy nên gọi là Như Lai. Chư pháp vốn như thật, tạo nhân nơi như thật ấy nên gọi là Như Lai. Vì vậy, bạch Thế Tôn! Tất cả các pháp Như tức là Như Lai; Như Lai tức là hết thảy pháp Như. Bạch Thế Tôn! Vì thế mà chốn “Vô sở trụ” chính là diệu nghĩa Như Lai. Ở nơi sự thông đạt đúng đắn thì cũng không vướng mắc. Do vậy, Phật đã nói: “Nếu người ở nơi pháp không giữ, không bỏ, không thuận, không tranh, thì đó gọi là phước điền của tất cả thế gian.”

Đức Phật bảo Bồ-tát Bạt-đà-bà-la:

–Bồ-tát đã trụ ở chốn nào để có thể diễn đạt như vậy?

Bồ-tát thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Hết thảy mọi trú xứ nơi thế gian, con đều trụ ở đấy mà nêu bày những điều trên. Kính bạch Thế Tôn! Con không tham đắm, vướng mắc như sự trụ của hàng phàm phu. Vì sao? Vì chỗ trụ của phàm phu tức là tham đắm vào hình tướng luôn bị hủy hoại của các pháp. Nếu vướng ở tướng hoại ấy thì người đó đã hủy hoại tính chất biến đổi. Kính bạch Thế Tôn! Tướng thật của các pháp không như sự chấp của thế gian. Bậc Hiền thánh ở nơi hình tướng trong thế gian đó không tranh, không nhị kiến, nên gọi là trụ nơi thế gian. Hàng phàm phu ở đấy không có chốn hành. Thế gian như ánh lửa vượt qua trước sự kết hợp của căn trần. Thế gian luôn vô thường theo nhân duyên phát sinh. Thế gian cấu uế do dấy khởi các nghiệp ác. Vì vậy mà đối với thế gian, trú xứ của thế gian, tướng hoại của thế gian, thảy đều trụ ở nơi “Vô sở trụ.” Do thế mà con trụ ở trong pháp vô nhị để có thể diễn đạt những điều trên.

Đức Phật bảo Bồ-tát Bạt-đà-bà-la:

–Bồ-tát đã trụ ở nơi pháp ấy mà nêu bày chăng? Bồ-tát đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Pháp mà Phật đạt được là tự lìa bỏ, Như Lai không thể nêu bày được. Không thể nói rằng: Bạt-đà-bà-la! Ta đã đạt được pháp gì? Kính bạch Thế Tôn! Phật an tọa nơi đạo tràng và chỗ đạt được pháp ấy, là pháp chẳng phải pháp và không có chỗ đạt được ấy.

Đức Phật bảo Bồ-tát Bạt-đà-bà-la:

–Lành thay! Lành thay! Như chỗ Bồ-tát nói, pháp mà Như Lai đạt được ở đạo tràng là pháp, chẳng phải pháp, cũng chẳng phải là “phi pháp.”

Ta ở nơi pháp ấy trí không thể hành, mắt không thể thấy, không có xứ hành, chỗ tuệ không thông, sự sáng không thể tỏ, hỏi không có đáp. Ở nơi pháp ấy không nhận, không giữ, không uế, không sạch. Nếu như ta nói là chính mình đã đạt được pháp ấy, nếu đem hành tướng mà thực hiện pháp ấy thì thảy đều là mê lầm.

Này Bồ-tát Bạt-đà-bà-la! Ta ở nơi pháp ấy, chỉ trừ chư Phật, còn không ai có thể chứng đạt được! Cả đến các hàng Bồ-tát hiện thân, Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ, ở nơi pháp của ta cũng không thể chứng được. Được nghe pháp như vậy hãy còn mang lòng kinh sợ, huống chi là hạ thấp nó xuống để có thể chứng minh.

Phẩm 5: Nói về sự bất tín

Đức Phật bảo Bồ-tát Bạt-đà-bà-la:

–Về đời vị lai, sẽ có các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheoni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, chẳng tu thân, chẳng tu tâm, giới–tuệ cũng chẳng tu, nghe kinh này nói chư Phật đối với sự giác ngộ là không được không mất, không có phân biệt, không uế, không sạch, thuận theo ở nơi như chỗ Phật giao phó dặn dò mà dấy sự hoảng hốt nghi ngờ, lo sợ bị rơi xuống hầm sâu lớn, nên suy nghĩ nói rằng: “Như Lai được gọi là

Bậc Nhất Thiết Trí, mà nay ở kinh này nói là trí không hành, tuệ chẳng có thể thông, ánh sáng chẳng có thể tỏ, hỏi không có lời đáp, không thể biết được tướng.” Những con người ấy thấy có lời đọc tụng, giảng nói về kinh này, tất sẽ càng thêm lòng thương xót, hoặc sinh giận dữ, kiêu mạn, dấy tâm oán lại.

Này Bồ-tát Bạt-đà-bà-la! Bồ-tát hãy xem về đời sau này, nếu có kẻ điên đảo trái nghịch với ta, ấy thì đó chính là giặc trong pháp, chớ có nên tôn quý. Cho dù những kẻ ấy có thể giảng Như Lai là bậc Trí tuệ chân chánh, vẫn nên khinh rẻ, không được dừng chân trú nơi tăng phòng tinh xá. Ta đạt được pháp ấy là tự nhiên, không theo lối mòn của thầy, ở trong đại chúng đã tạo nên tiếng rống của Sư tử. Nhưng những kẻ xấu ác kia không biết Như Lai và pháp của Như Lai. Do chẳng biết nên trong việc đáng chê thì lại dấy ý tưởng ca ngợi, trong việc đáng nên ca ngợi thì lại sinh ý tưởng chê trách. Thế nào gọi là đáng chê trách? Như người đối với các pháp có chỗ tham vướng giữ chặt, kể cả các pháp lành, thì đó chính là chỗ Như Lai chê trách. Người ấy đem chỗ đáng chê trách đó mà tạo thành sự ca ngợi, thì đấy đúng là giặc trong hàng Sa-môn, là kẻ hủy hoại Tăng chúng, là thứ trấu cặn của đại chúng, chạy theo ngoại đạo, chấp sâu vào nẻo đoạn thường, luôn dấy tâm tham vướng, phân biệt đối với các pháp.

Này Bồ-tát Bạt-đà-bà-la! Như Lai thường nói về chánh kiến trong thế gian, kể cả pháp hý luận là nhằm thuận theo lẽ sinh tử, muốn khiến cho chúng sinh biết rõ các nẻo nghiệp, quả báo. Những kẻ ngu si ấy ở trong pháp đó lại dấy tưởng thứ nhất.

Này Bạt-đà-bà-la! Kiết Phát Phạm chí cũng giảng nói về tội phước nhân duyên ở thế gian. Nếu như hiểu biết những điều ấy được gọi là giác ngộ thì vị Phạm chí kia đáng được gọi là giác ngộ đấy!

Này Bạt-đà-bà-la! Như vị Phạm chí ấy, sau khi ta diệt độ, tự mình ở nơi chỗ hiểu biết mà nhận ra những sai lầm sinh tâm chán ghét, lìa bỏ, đối với pháp của ta mà cầu xuất gia tu học. Đã xuất gia rồi thì có thể thông đạt Phật pháp.

Này Bồ-tát Bạt-đà-bà-la! Bồ-tát hãy xem về đời sau này, những kẻ ngu si ấy hãy còn không thể bằng hàng Phạm chí thờ lửa. Như kẻ ngu si đó sẽ như đám ông Mạt-ca-lê Phú-lan-na đấy! Đem chỗ ta thường nói về chánh kiến ở thế gian, thuận theo lẽ sinh tử, nghiệp duyên quả báo, kể cả pháp hý luận mà cho là trí tuệ tối thượng, thì chính kẻ ấy là người hủy báng Như Lai cùng pháp của Như Lai, không thể nhận ra nẻo chính yếu để vượt khỏi sinh tử. Ta nói: “Người ấy chẳng phải là kẻ gánh vác nổi sự nghiệp đạo pháp.” Vì sao? Vì người ấy, đối với ta, trong vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp tu tập Phật pháp, đã đem nhân duyên nhỏ nhặt mà hủy hoại căn lành kia. Người ấy đúng là sống với Như Lai mà còn hơn là giặc của Như Lai vậy.

Này Bồ-tát Bạt-đà-bà-la! Những người nào được gọi là xưng tán Như Lai, thuận theo ý của Như Lai mà thuyết pháp? Như đối với các pháp không tham, không tranh, không dấy khởi, không tạo tác, vô tướng, vô vi, vượt qua ba đời mà diễn nói các pháp, thì người đó đúng là đã xưng tán Như Lai, thuận theo ý mà hành hóa, đúng là con Phật, từ nơi miệng Phật sinh ra, từ nơi pháp mà sinh hóa. Này Bồ-tát Bạt-đà-bà-la! Người ấy tức có thể đọc tụng, hỏi đáp các kinh như thế. Đấy chính là kẻ theo ý mà hành động, đúng như pháp mà thuyết giảng, thuận theo pháp mà giáo hóa. Ta luôn đem thần lực gia hộ. Người ấy từ xưa trước từng thọ nhận lời dạy bảo của ta. Chỗ ta nhằm khuyến thỉnh ấy là có thể dựng lên ngọn cờ pháp, thổi vang tiếng còi chánh pháp, giống lên tiếng trống chánh pháp lớn lao, giăng bày những phướn, lọng đạo pháp, là nẻo tri thức của chư Như Lai. Người ấy chính là kẻ đã mang được vòng hoa công đức, an trụ ở chốn thường lạc, hàng phục các thứ ma oán, là điều ít có ở thế gian, ai trông thấy cũng đạt được lợi ích, là người có đủ sức nhận lãnh, gánh vác, giữ gìn đạo Vô thượng, là chỗ nhớ nghĩ của chư Phật và chư Bồ-tát. Có thể đạt được Pháp nhãn thanh tịnh, đối với hết thảy các pháp không còn bị ngăn ngại. Có thể khiến cho Phật được vui thích. Phật cho phép người ấy luôn gần gũi, thờ kính, lễ bái, tham vấn thọ nhận chánh pháp, đem các công đức đó mà tự trang nghiêm, có được trí tuệ sâu xa, vì các hàng tu học mà tạo ra trận mưa pháp lớn lao, làm cho Phật pháp tăng trưởng, khiến cho hoa Giác ý nở ra kết thành quả giải thoát, chỉ rõ con đường giác ngộ ấy cho chúng sinh, có thể diễn đạt pháp thí làm thỏa mãn ước nguyện của chúng sinh.

Này Bồ-tát Bạt-đà-bà-la! Ta nay chỉ nói sơ lược về công đức của người ấy, nếu có người nào nói rộng ra, dù nói ít cũng có thể tin tưởng thọ nhận. Người đó đúng danh là kẻ ca ngợi Như Lai, tán dương Phật pháp ấy.

Này Bạt-đà-bà-la! Như người chưa thấy ao Anậu-đạt, nếu chỉ thấy những ao khác, tất sẽ nói như thế này: “Ao A-nậu-đạt kia cũng bằng các ao lớn này chứ không có khác gì!” Người đó tuy muốn ca ngợi cái ao A-nậu-đạt mà lại trở thành kẻ làm giảm giá trị của ao ấy. Này Bồ-tát Bạt-đà-bà-la! Những kẻ ngu si ấy không có công đức đó, không có pháp như thị, không có trí tuệ như thị, chỉ đem những chánh kiến thuộc loại hữu lậu thế gian còn tham đắm trong vòng sinh tử mà xưng tán ra, nói rằng: “Trí tuệ của Như Lai đối với các pháp ấy không còn bị ngăn ngại.” Tuy muốn tán dương ta mà kỳ thực là hủy nhục.

Lại như kẻ ngu si nghe nói đến sắc vàng của kim loại vàng, sau nghe người khác nói về vàng cõi Diêm-phù-đàn, hình tướng màu sắc của nó hơn hẳn, khác lạ thì chẳng chịu tin nhận, mà còn bảo người kia: “Ngươi hãy dừng lại, chớ có nói nữa. Cái màu sắc vàng đúng của kim loại vàng chẳng như ngươi nói sao?”

Những kẻ ngu si ấy cũng giống như thế, vì mắt không thấy nên mù mờ. Hoặc nghe người ta nói về tên Phật, tên Pháp, lại nghe người khác nói là Như Lai có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, sinh trong gia đình vương giả, quyến thuộc đông đúc, xuất gia học đạo, giới định gồm đủ, chớ không nghe nói về thân tướng chân thật của Phật Pháp cùng hình tướng thật của các pháp. Chỉ dùng mỗi pháp ấy mà gọi là Nhất thiết trí, gọi là Như Lai. Cũng lại chẳng được nghe Như Lai giảng nói về hình tướng thế nào mà các pháp chẳng phải là pháp. Những người ấy hoặc có lúc được nghe các kinh điển nói về chân thân của Phật cùng hình tướng như thật của các pháp thì tất sinh nghi ngại, cho rằng: Có pháp ấy sao? Là như thế chăng? Như người mù mắt nọ, nghe nói về màu vàng ánh của kim loại vàng, sau lại được nghe người ta nói đến vàng của Diêm-phù-đàn liền sinh nghi, chẳng tin, cho rằng: Có thứ vàng đặc biệt quý giá như vậy sao?

Lại như kẻ ngu được nghe nói về biển lớn, ước lượng rộng tới những ba vạn do-tuần và sâu đến tám vạn bốn ngàn do-tuần, trong biển có vô lượng châu báu và nước biển chỉ thuần một vị mà không tăng không giảm. Người ngu kia chẳng tin, lại suy nghĩ bảo rằng: “Các dòng sông, suối đều đổ về biển, làm sao mà ở đó lại không tràn trề?” Sâu rộng như thế, tuy có nhiều thứ châu báu nhưng ai có thể lấy được, bèn cho là biển lớn không có công năng như vậy.

Những kẻ ngu si cũng thế. Chỉ nghe người ta nói về tên Phật, tên pháp chứ không được nghe về trí tuệ công đức thâm diệu cùng hình tướng chân thật của các pháp, hoặc được nghe người khác nói về những kinh điển như vậy, cùng cứu cánh Niếtbàn, Pháp bảo vô lượng, đạt đến giải thoát, khiến cho chúng sinh có được Phật nhãn vô ngại, đối với các pháp không tăng không giảm, tất cả trí tuệ đều vượt quá mọi bờ bến, giới mốc, công đức thâm diệu sâu xa hết mực, hết thảy các loài không thể nào lường tích nỗi, cũng không gì có thể hủy hoại được. Ví như biển lớn không lưu giữ thây người. Phật pháp cũng thế, những kẻ xấu ác, tà kiến, không có trí tuệ… đều không có chỗ đứng trong Phật pháp. Lại như biển lớn cùng một vị mặn, Phật pháp cũng vậy, đồng hướng tới Niết-bàn trong một vị giải thoát. Những người ngu si nghe như thế chẳng thể tin và hiểu, cho rằng: Không có việc ấy, cũng chẳng phải là pháp chân thật!

Này Bồ-tát Bạt-đà-bà-la! Quán sát những kẻ ngu si ấy, hãy còn chẳng tự biết sinh ra là từ đâu tới, rồi chết thì đi đến chốn nào. Ở thời xa trước đã từng tạo tác những gì, không biết về nghiệp duyên, chẳng rõ về quả báo. Đối với đời sau này sẽ làm theo pháp nào để có quả báo ra sao, làm theo con đường của trí hay thức? Như những kẻ ngu si ấy thì đối với pháp lại sinh ra tưởng chẳng phải pháp. Pháp bị ta chê trách thì lại dấy tưởng cho là chân thật. Cho nên, sau khi ta diệt độ, những kẻ đó không thể y chỉ nơi các kinh điển như vậy.

Này Bạt-đà-bà-la! Ta thường nói trong kinh: Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có kẻ hủy báng Phật, Pháp, Tăng thì các vị chẳng nên giận dữ, lo buồn, mà phải suy nghĩ như thế này: “Chúng ta nếu sinh tâm giận dữ thời không phải là hàng Sa-môn, không đúng theo pháp của Sa-môn, chẳng thuận hợp với đạo. Nếu là Sa-môn mà không theo đúng pháp thì trọn đời cũng không thể có được sự tin hiểu, thông đạt pháp Vô thượng Chánh đẳng

Chánh giác!”

QUYỂN 2

Phẩm 6: Nói về Niệm xứ

Đức Phật bảo Bồ-tát Bạt-đà-bà-la:

–Bấy giờ những người thiện ở đời nên suy nghĩ như thế này: “Chúng ta sẽ tự nương theo bốn Niệm xứ.” Bốn Niệm xứ ấy đối với Thánh pháp, có thể xem tất cả các pháp đều là niệm xứ. Vì sao? Vì tất cả các pháp tự tánh của chúng là thường trụ, không gì có thể hủy hoại được. Đó là cửa niệm xứ, là cửa an trụ của các pháp, là cửa bắt đầu hội nhập với pháp, là cửa gồm tám con đường của bậc Thánh, là cửa của ba nẻo giải thoát. Nẻo giải thoát ấy là dùng pháp bất nhị để xa lìa nhị biên, đạt đến cảnh giới giải thoát của bậc Thánh. Pháp bất nhị đó là không chốn có. Đã không chốn có tức là vô tận. Đây chính là chánh kiến, xa lìa nhị biên. Biên là tự không, không có chân thật.

Này Bồ-tát Bạt-đà-bà-la! Bồ-tát nên biết rằng, Như Lai không dùng tới cái tri kiến về biên để đạt được sự lìa biên, mà vốn không có biên, cho nên mới gọi là lìa biên. Chư Phật Thế Tôn luôn lìa hết thảy các pháp. Chỗ lãnh hội của kẻ trí không như hàng phàm phu.

Này Bồ-tát Bạt-đà-bà-la! Cầu tìm chân tướng của các pháp thực chất là bất khả đắc, vì thế nên gọi là lìa. Pháp ấy là hư vọng, không được không mất.

Này Bồ-tát Bạt-đà-bà-la! Diệu nghĩa chính là ở đấy. Ngày trước, từng có vị trời đến hỏi ta rằng: “Sa-môn vui vẻ chăng?” Ta liền đáp: “Ta có được việc gì mà vui vẻ?” Lại hỏi: “Lo buồn chăng?” Ta lại đáp: “Vì mất việc gì mà phải lo buồn?” Lại hỏi: “Chẳng vui chẳng buồn chăng?” Đáp: “Đúng như vậy!”. Vị trời ấy nói: “Lành thay! Chẳng vui chẳng buồn!” Ta bèn hỏi vị trời: “Ông lãnh hội được ý gì nơi tôi?” Vị trời ấy đáp: “Tôi cho rằng Sa-môn an xứ tịch diệt.”

Này Bồ-tát Bạt-đà-bà-la! Bồ-tát hãy xem vị trời ấy đã mau chóng thấu đạt pháp của ta! Vị trời thời xa xưa ấy, hiện nay ở trong chúng hội này đã thông tỏ hết thảy các pháp bản tánh vốn tịch diệt. Nên biết rằng, vị trời ấy từ xưa đã từng cúng dường năm trăm vị Phật, do vậy mà đối với pháp của ta đã mau chóng thông đạt. Vì thế Phật thường nói: Không vun trồng căn lành, căn lành chưa thuần thục thì đối với các pháp của hàng Thanh văn hãy còn chưa thể lý giải, huống hồ nơi pháp của ta lại có thể mau chóng thông đạt được?

Này Bồ-tát Bạt-đà-bà-la! Nếu được nghe pháp

ấy mà có thể mau chóng thông hiểu thì công đức đó ít nhất cũng như ở nơi ngàn vị Phật mà vun đắp gốc các điều lành. Vì sao? Vì căn lành vốn rất là rộng lớn, cho đến có thể thông đạt được trí tuệ thâm diệu.

Bấy giờ Bồ-tát Bạt-đà-bà-la cùng với các vị

Bồ-tát như Bồ-tát Bảo Tích, Bồ-tát Đạo Sư, Bồ-tát Tinh Đắc, Bồ-tát Na-la-đạt, Bồ-tát Đế Thiên, Bồtát Thủy Thiên, Bồ-tát Thiện Lực, Bồ-tát Đại Ý, Bồ-tát Ích Ý, Bồ-tát Tăng Ý, Bồ-tát Bất Hư Kiến, Bồ-tát Thiện Trụ Ý, Bồ-tát Quá Lực, Bồ-tát Thường Tinh Tấn, Bồ-tát Bất Hưu Tức, Bồ-tát Nhật Tạng… có tới năm trăm vị Bồ-tát, mỗi vị đều dùng những đóa hoa tung lên cúng dường Đức Phật và thưa rằng:

–Kính bạch Thế Tôn! Nếu có chúng sinh cầu tìm những kinh ấy và đều được nghe thì nên khiến họ có được sự không thoái chuyển đối với con đường giác ngộ của Phật, Bồ-tát. Lại nhờ nhân duyên ấy nên khiến cho chư Phật hiện tại trong mười phương được cung thỉnh trụ thế lâu dài cùng thuyết pháp nhằm đem lại cho chúng sinh đầy đủ các pháp trợ giúp sự giác ngộ.

Lúc này Đức Phật hỏi Bồ-tát Bạt-đà-bà-la:

–Chúng sinh đối với Bồ-tát thì có được những lợi ích gì mà có thể vì đấy để phát đại nguyện kia, cũng như cung thỉnh Phật trụ thế lâu dài để thuyết pháp, khiến cho chúng sinh có đầy đủ các pháp trợ giúp con đường giác ngộ?

Bồ-tát Bạt-đà-bà-la đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Chẳng phải do chúng sinh làm tổn giảm hay tăng ích cho con mà còn phát nguyện về sự trang nghiêm. Con không suy nghĩ như thế này: “Do những chúng sinh ấy đem lại lợi ích cho ta, nên khiến Phật pháp được thường trụ. Còn như đem đến những tổn giảm cho ta thì chẳng khiến cho Phật pháp được thường trụ.” Các vị Bồ-tát khác cũng không có sự phân biệt như thế trong việc phát nguyện trang nghiêm. Ví như Đức Thế Tôn, hồi ở nơi cây Ba-lê-chất-đa Câu-ni-la, hoa lá tươi tốt, chư Thiên ở cõi trời Đao-lợi trông thấy cảnh cây sum suê ấy, tâm hết mực hoan hỷ, thường ở nơi bóng mát cây đó mà cùng nhau vui với năm thứ vui thú.

Kính bạch Thế Tôn! Chư Thiên cõi trời Đaolợi ở nơi cây Thụ vương ấy có những tổn giảm hay tăng ích gì mà khiến cho họ sinh tâm yêu mến, vui thích, thường đi đến nơi cây đó để cùng vui? Chỉ vì trông thấy cây ấy là liền có được sự hỷ lạc, không gì có thể sánh kịp. Chư Bồ-tát cũng vậy, chẳng do chúng sinh có lợi ích hay bị tổn giảm mà Bồ-tát mới phát tâm trang nghiêm. Bồ-tát chỉ tâm niệm rằng: “Đến lúc nào thì mình có được đầy đủ trí tuệ như Phật, làm chỗ quy ngưỡng cho vô lượng chúng sinh trong mười phương thế giới, như cây Thiên thụ kia, hoa đó nở rộ làm chỗ vui thích của chư Thiên vậy. Sẽ khiến cho chúng sinh lấy năm căn của Phật làm pháp hoan hỷ để tự an vui, như cây Thụ vương kia đã khiến chư Thiên đến nơi bóng mát mà cùng vui với năm thứ an lạc.”

Lại nữa, kính bạch Thế Tôn! Nếu lìa chúng sinh mà phát nguyện trang nghiêm thì chẳng có được chúng sinh, giống như do lìa bỏ ta mà phát nguyện trang nghiêm thì cũng chẳng có được ta vậy. Do lìa bỏ pháp mà phát nguyện trang nghiêm thì chẳng có được các pháp. Lìa bỏ ấm mà phát nguyện trang nghiêm thì chẳng thể có được các ấm. Lìa bỏ giới mà phát nguyện trang nghiêm thì chẳng có được các giới. Lìa bỏ nhập mà phát nguyện trang nghiêm thì chẳng có được các nhập.

Kính bạch Thế Tôn! Trong sự trang nghiêm ấy không có các quả, là do sự trang nghiêm luôn xa lìa hết thảy. Do từ quả không ấy nên đối với các pháp, không lấy không bỏ, để từ đấy mà phát nguyện trang nghiêm.

Kính bạch Thế Tôn! Tướng trang nghiêm như thế là bất khả đắc. Xứ trang nghiêm đó cũng như chốn làm nên sự trang nghiêm đều là bất khả đắc.

Kính bạch Thế Tôn! Nếu có chỗ được ấy, thì đó là được cái ngã. Do vậy mà Bồ-tát không tham, không nhận, dù là ngã hay vô ngã. Nếu nhận vô ngã thì đó là ngã rồi. Còn nếu không gọi là vô ngã thì cũng không có nơi chốn để thọ nhận.

Kính Thế Tôn! Theo ý nghĩa như thế thì đó là sự trang nghiêm lớn lao xuất hiện ở thế gian. Trong sự trang nghiêm ấy không còn tướng đây kia.

Đức Phật bảo Bồ-tát Bạt-đà-bà-la:

–Sự trang nghiêm như thế xét ra có lợi ích thế nào?

Bồ-tát Bạt-đà-bà-la đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Con phát nguyện trang nghiêm không còn thấy có hạng phàm phu và người tu học đạo pháp. Đối với con là xa, nhưng đối với Phật pháp là gần. Con cũng không còn thấy các pháp Phật ấy là pháp Phật như thế.

Kính bạch Thế Tôn! Con phát nguyện trang nghiêm ấy thì ở trong đó không còn thấy có lợi ích hay bị tổn giảm. Trang nghiêm như vậy và đem cái hình tướng ấy mà xuất hiện nơi thế gian.

Bấy giờ, các vị Bồ-tát đã tung hoa cúng dường Phật liền hiện diệu lực thần thông đi đến khắp mười phương để cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sinh, khiến họ luôn vững trong Phật pháp.

Phẩm 7: Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân

Bấy giờ, ở phương Đông, cách xa thế giới này, trải qua vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ quốc độ có thế giới tên là Tướng đức tụ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Tướng Âm, hiện đang thuyết pháp, đã vì Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân thọ ký đạo Vô thượng Bồ-đề và nói rằng: “Vị Bồ-tát này nối tiếp sau ta sẽ đạt quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Lúc này, Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân trông thấy ánh hào quang lớn cùng âm thanh vang động, liền thưa với Đức Phật Vô Tướng Âm rằng:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh hào quang và âm thanh ấy là của Đức Phật nào tạo ra?

Phật Vô Tướng Âm nói:

–Về phương Tây cách xa cõi này trải qua vô lượng a-tăng-kỳ quốc độ, có thế giới tên là Ta-bà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Mâu-ni, là vị Phật đã phóng hào quang cùng âm thanh ấy. Đức Như Lai đó hiện nay đang vì các vị Bồ-tát mà thuyết giảng Bồ-tát tạng kinh về “Sự dứt trừ mọi mối nghi vấn của chúng sinh, khiến mọi loài đều hoan hỷ.” Các vị Bồ-tát ở đấy đều đã thành tựu đầy đủ vô lượng trang nghiêm.

Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân liền thưa với Đức Phật Vô Tướng Âm rằng:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn đi đến thế giới Ta-bà ấy để cúng dường, kính lễ Đức Phật Thíchca Mâu-ni cùng đông đảo các vị Đại Bồ-tát. Vì sao? Vì các bậc Đại sĩ ấy hãy còn khó được thấy, huống hồ là được gần gũi thân tình. Đức Phật Vô Tướng Âm bảo:

–Bồ-tát đã tự biết thật đúng lúc!

Lúc này Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân đã được Đức Phật Vô Tướng Âm chấp thuận, nên rời chỗ ngồi đứng dậy, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, đi nhiễu quanh theo phía tay phải rồi lui ra. Đức Phật Vô Tướng Âm trao một đóa hoa sen cho Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân và nói:

–Bồ-tát hãy mang hoa này dâng lên Đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Trong đóa hoa sen đó sẽ thấy Phật Vô Tướng Âm vốn là vị Bồ-tát với công đức tu tập. Hoa ấy như thế là sẽ hóa hiện khắp thế giới Ta-bà, khiến cho mọi chúng sinh đều được thọ dụng.

Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân nhận lấy đóa hoa do Phật trao rồi đi đến thế giới Ta-bà. Bấy giờ ở thế giới này mọi thứ cây cỏ, hoa lá, quả trái, cho đến những thứ cây cỏ nhỏ nhất thảy đều từ trong tay của Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân hiện ra. Còn những chúng sinh nào có các thứ âm thanh thì cùng phát ra những tiếng Pháp âm về vô thường, khổ, không, vô ngã, Căn, Lực, Giác, Đạo, thiền định, giải thoát cùng các pháp Tammuội.

Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất liền thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Lúc này lại thấy Như Lai thể hiện diệu lực thần thông.

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Đấy không phải là thần thông của ta. Từ đây về phương Đông trải qua vô lượng a-tăng-kỳ quốc độ, có thế giới tên là Tướng đức tụ, Đức Phật ở cõi ấy hiệu là Vô Tướng Âm, hiện đang thuyết pháp. Có vị Bồ-tát tên là Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân, đang từ thế giới ấy đi đến thế giới Ta-bà. Bản nguyện của vị Bồ-tát đó là có được phước báo về diệu lực thần thông.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân ở đời quá khứ đã từng vun trồng căn lành gì mà có được phước báo về thần lực như vậy?

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Lành thay! Lành thay! Tôn giả đã dùng Phật lực để có thể hỏi Như Lai về Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân từng theo Phật thời quá khứ vun trồng căn lành. Vậy Tôn giả hãy nhất tâm lắng nghe.

Vị Bồ-tát đó ở đời quá khứ, về chỗ gây dựng gốc công đức, như đối với mười phương chư Phật an tọa nơi đạo tràng lúc mới thành Phật, bấy giờ vị Bồ-tát ấy, hoặc là vị Phạm vương, Chuyển luân thánh vương hay Tiên nhân có được năm thần thông, luôn lui tới đạo tràng cúng dường chư Phật, cung thỉnh chư Phật chuyển pháp luân, số lần cung thỉnh ấy hoặc nhiều, hoặc ít. Này Tôn giả Xá-lợiphất! Như ta hồi mới chứng đắc đạo Vô thượng, có vị Phạm thiên vương đến cung thỉnh ta rằng: “Kính bạch Thế Tôn! Xin hãy chuyển pháp luân vì có những chúng sinh ở đời quá khứ đã tạo được những công hạnh sâu xa đối với các pháp lành, căn cơ thông lợi, trí tuệ phát triển, có thể lãnh hội ý của Phật. Nếu những người ấy không được nghe chánh pháp thời sẽ bị mất hết.”

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân ấy luôn khuyến thỉnh Phật chuyển pháp luân. Các công đức đó không cho ai làm thay mình, chỉ dốc lòng khuyến thỉnh Phật chuyển pháp luân thôi.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ta nay sẽ nêu thí dụ để làm sáng tỏ ý nghĩa ấy. Kẻ trí thông qua thí dụ sẽ lãnh hội dễ dàng. Giả sử tam thiên đại thiên thế giới với trăm ức mặt trời mặt trăng, bốn trăm ức biển lớn, trăm ức bốn châu thiên hạ, bốn trăm ức na-do-tha các nước nhỏ thuộc bốn châu thiên hạ, trăm núi ức Tu-di, trăm ức núi Thiết vi… thảy đều làm một thứ đồ vật có hình dạng như hốc biển sâu, ở đấy đầy những hạt cải hay hạt mè, hạt gạo. Có vị đại lực sĩ đem hết sức mình nắm giữ chặt lấy rồi vẩy nước tung tóe khắp bốn phương. Gió lớn thổi lên khắp nên khiến cho một hạt cải rơi xuống một thế giới. Vậy thì theo ý Tôn giả thế nào? Những hạt cải rơi xuống khắp các thế giới ấy nên cho là nhiều chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Hết sức nhiều, không thể lường tính hay nêu ra số lượng được.

Đức Phật nói:

–Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ta nay vì Tôn giả mà nêu rõ sự việc ấy. Tôn giả đã lãnh hội về số lượng hạt cải rơi xuống khắp các thế giới. Bây giờ hợp làm một vật dụng dài rộng cùng bằng nhau, chiều cao cũng như vậy, các vách luôn chắc chắn. Cái vật dụng lớn lao như thế bên trong chứa đầy cát mịn. Như dùng thúng, hộc để đong lường đống bột gạo vậy. Như vậy thì số lượng cát ấy nên gọi là nhiều chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Hết sức nhiều, không thể nêu ra số lượng được.

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Số lượng những cát ấy hãy còn có thể nhận biết về số lượng. Còn vị Bồ-tát kia công việc có thể đến đạo tràng khuyến thỉnh chư Phật chuyển pháp luân nhằm độ thoát chúng sinh thì chẳng thể nào biết được số lượng. Những căn lành được vun trồng ấy hầu như không hồi hướng về quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vị Bồ-tát kia lại còn đem những vòng ngọc làm bằng bảy thứ báu dâng lên Phật để khuyến thỉnh chuyển pháp luân, số lượng ấy càng thêm nhiều. Lại đem những vòng hoa làm bằng các thứ châu báu dâng lên cúng dường Phật để khuyến thỉnh chuyển pháp luân, số lượng đó lại càng gấp bội. Rồi dùng vòng hương quý dâng lên cúng dường Phật để khuyến thỉnh chuyển bánh xe chánh pháp, số lượng này lại càng nhiều hơn nữa. Huống chi vị ấy còn dùng vàng, bạc, lụa quý vẽ hình vòm cây dâng lên cúng dường chư Phật để cung thỉnh chuyển pháp luân. Mà sự vun trồng căn lành ấy cũng không hồi hướng về Phật đạo giác ngộ, chỉ dốc vào việc khuyến thỉnh Phật chuyển bánh xe chánh pháp thôi.

Lại nữa, Tôn giả Xá-lợi-phất! Sau đấy có Đức Phật hiệu là Quá Trí Lực xuất hiện ở đời. Bấy giờ có vị Chuyển luân thánh vương tên là Danh Văn Lực, uy đức tự tại, thế lực tiếng tăm vang khắp đại thiên thế giới. Trong cung, vườn cảnh lầu gác, đền đài luôn nhộn nhịp với năm thứ dục lạc vui thích. Đám thể nữ ca hát xưng tán theo cảnh dục lạc ấy, nhưng tự nhiên các thứ tiếng đó lại phát ra những âm thanh vô thường, khổ, không, bất tịnh. Nhà vua nghe vậy liền lo sợ và sinh tâm chán lìa. Lúc này nhà vua bèn đi đến chỗ Đức Phật Quá Trí Lực. Đức Phật liền khuyên nhà vua tự nhớ lại về cái gốc mình đã từng vun trồng căn lành. Vua nghe lời Phật nói, bèn suy nghĩ: “Chư Phật Như Lai có trí tuệ vô ngại, thật là chưa từng có, khiến ta được biết về chỗ đã vun trồng bao căn lành nơi bao nhiêu Đức Phật. Ta chỉ vì buông thả trong năm thứ dục lạc mà tâm bị che lấp, lại phải lo chuyện trị nước yên dân với bao thứ công việc buộc ràng, hãy còn chẳng thể tự biết chỗ vun trồng các căn lành nơi một vị Phật. Ta từ xưa tuy theo chư Phật để gầy dựng gốc các điều lành nhiều như thế mà chẳng hồi hướng công đức ấy về Phật đạo Vô thượng, khiến cho bao căn lành đó ở trong trường hợp bất định. Ta nay sẽ dùng chỗ tạo hợp các căn lành ấy, vì đạo Vô thượng mà đem lại lợi ích cho chúng sinh, từ nơi chốn mình sinh trưởng, du hóa khắp các cõi Phật. Ở đấy mọi thứ ngôn ngữ của chúng sinh có được đều là những âm thanh thể hiện các pháp vô thường, khổ, không, vô ngã, cũng như các thứ cỏ cây, rừng núi, hoa lá, quả hạt nơi các thế giới đó thảy đều phát ra âm thanh vô thường, khổ, không, vô ngã. Ta xin đem những căn lành này trao cho chúng sinh để cùng được hưởng, nhờ đấy mà sẽ có được trí tuệ như Đức Phật Quá Trí Lực hiện nay đã đạt được.” Suy nghĩ như vậy rồi, vị vua ấy liền rời chỗ ngồi đứng dậy, đến đứng phía trước Phật, cung kính bày tỏ:

–Kính bạch Thế Tôn! Nay con xin đem hết thảy quốc độ của mình dâng lên Phật cùng Tăng chúng, mong được Đức Thế Tôn thọ dụng.

Sau khi phụng hiến xong, nhà vua liền xuất gia học đạo. Bốn thứ binh chủng được nghe biết việc này cũng theo nhà vua xuất gia. Đám thể nữ đến bốn chục na-do-tha người thảy đều xin xuất gia theo vua. Còn dân chúng thì có tám mươi ức nado-tha kẻ cũng xin theo nhà vua mà xuất gia học đạo. Bốn chúng đệ tử của Đức Phật Quá Trí Lực lúc này đã tăng lên rất nhiều. Các vị xuất gia ấy đều chứng đắc năm thứ thần thông. Mỗi vị đều dùng thần lực để đi đến hằng sa cõi Phật ở phương Đông khuyến thỉnh vô lượng chư Phật đang an tọa nơi đạo tràng chuyển bánh xe chánh pháp tôn quý nhằm độ thoát chúng sinh. Các phương, Nam, Tây, Bắc, bốn hướng cùng phương trên, dưới cũng đều khuyến thỉnh vô lượng hằng sa chư Phật chuyển bánh xe chánh pháp để hóa độ muôn loài. Nhà vua Danh Văn Lực từ đó về sau không còn sinh ra theo ngã thọ thai, cũng không sinh vào các quốc độ bất tịnh. Thế giới mà ông đến du hóa, ở đấy chúng sinh cùng với cây cỏ, rừng núi thảy đều phát ra các âm thanh vô thường, khổ, không, vô ngã.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả cho rằng nhà vua Danh Văn Lực thời bấy giờ ở nơi Đức Phật Quá Trí Lực tự xét biết về đời trước đã từng vun trồng căn lành nên xuất gia học đạo, chứng đắc năm thứ thần thông, du hóa khắp vô lượng thế giới trong mười phương để khuyến thỉnh chư Phật chuyển bánh xe chánh pháp hóa độ chúng sinh ấy, há là người xa lạ sao? Vị ấy hiện nay chính là Bồtát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân vậy.

Phẩm 8: Thể hiện sự biến hóa

Bấy giờ Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân đi đến thành Vương xá, tới thẳng nơi vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật rồi lui ra đứng một bên, thưa với Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Đức Phật Vô Tướng Âm xin gởi lời thăm hỏi vấn an Đức Thế Tôn có được ít phiền, ít bệnh, mọi sinh hoạt đều được thư thái, khí lực an lành chăng? Lại xin đem đóa hoa sen lớn này dâng lên Đức Thế Tôn.

Đức Phật liền nhận lấy hoa rồi nói rằng:

–Đức Phật Vô Tướng Âm có được an ổn trong mọi công việc cũng như sự giáo hóa luôn thuận hợp chăng?

Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Phật Vô Tướng Âm khí lực luôn khang kiện, chúng sinh dễ độ. Vì sao? Vì nơi thế giới ấy, trong những lúc đại chúng được tập hợp đông đúc luôn có được bốn pháp thanh tịnh, đó là:

1. Căn lành thanh tịnh, vì sự giác ngộ.

2. Vô lượng giới thanh tịnh, luôn phát nguyện chân chánh.

3. Vô lượng tri kiến thanh tịnh, chẳng vướng chấp các pháp.

4. Chỗ quán tưởng thanh tịnh, không giữ chặt lấy tướng.

Kính bạch Thế Tôn! Nơi chúng hội ấy không có ai là kẻ hủy phá giới luật cùng uy nghi, cũng chẳng có tên gọi về ba thứ hủy phá kia. Chúng hội ở quốc độ ấy xem chúng sinh trong thế giới Ta-bà này như thể cảnh tra khảo đánh đập ở chốn ngục tù. Con nay xin được trở về, kính mong Đức Như Lai đến thăm thế giới của con.

Đức Phật bảo Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân:

–Hãy khoan! Này bậc thiện nam! Đi đến thế giới ấy là nhằm làm công việc gì? Ta nay ở đây đang lo giáo hóa chúng sinh.

Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân đã ân cần cung thỉnh ba lần:

–Kính mong Đức Như Lai đến thăm thế giới ấy. Nếu chẳng chiếu cố quan tâm thì con sẽ xin đem thần lực có được do phước báo tiếp thế giới này, chỉ trong khoảng một niệm đem đặt liền nơi cõi kia, cũng trong phần hư không chẳng khác.

Lúc này Đức Phật im lặng, lắng nghe vị Bồ-tát

ấy nói về việc sẽ thể hiện diệu lực của thần thông tự tại, nhằm khiến cho chúng sinh có được đầy đủ các căn lành, cũng là nhằm thị hiện diệu lực của mức độ tri kiến. Và vị Bồ-tát ấy liền dùng tay phải dứt mạnh lấy cõi tam thiên đại thiên thế giới, giống như người thợ đồ gốm dùng cây gậy để quay bánh xe, cứ việc giữ chặt lấy mà bước đi.

Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất nhận biết khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới này đều đang bị dao động lớn nên thưa với Đức Thế Tôn:

–Hãy giữ chặt lấy thế giới này cùng với chúng ta! Hãy giữ chặt lấy thế giới này cùng với chúng ta!

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn dùng âm thanh thuận theo trí tuệ, vừa êm dịu vừa hòa nhã, có thể đem lại sự vui thích cho mọi người, đầy đủ sự sâu xa, không cao không thấp, gọn đủ điều cốt yếu, không rối rắm để có thể chỉ rõ ý nghĩa, đáp lại Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Chẳng phải do ta tạo ra!

Tiếng nói ấy khắp đại thiên thế giới đều cùng được nghe. Lúc này có những chúng sinh vốn tham đắm nơi cái ta, tâm ta, dựa theo những điều nghe thấy nên hết sức kinh sợ mà có được tâm chán lìa. Ngoài ra thì bốn chúng đệ tử chỉ thấy Đức Như Lai được các vị Bồ-tát vây quanh và đang vì họ mà thuyết pháp, như vị Chuyển luân vương đang ngồi ngay ngắn nơi tòa ở chốn an ổn, các vị Đại phạm vương đang ở giữa chúng Phạm thiên.

Bấy giờ Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân đều đem vô lượng thế giới trong mười phương tập hợp lại ở một nơi để cho chúng sinh được thấy rõ. Lúc này Đức Thế Tôn dùng diệu lực thần thông khiến cho gió lớn dấy lên thổi khắp các thế giới, hỗ trợ cho việc lấy tay đánh mạnh vào làm vỡ tung ra và thảy đều tan biến. Đức Phật thể hiện thần lực như thế, các vị Đại phạm vương cùng các vị Phạm thiên, đối với kiến văn của mình luôn chấp các pháp là thường, chẳng bị hoại, nhất là ở chốn cung điện cùng ngôi vị Phạm vương, nay đều tự thấy cung điện tan hoại nên hết mực kinh hoàng, sinh tâm chán lìa, mỗi vị đều suy nghĩ: “Những cung điện này đã được xây dựng từ trước mà nay thảy đều bị phá vỡ, hủy hoại, như nước dấy sóng lớn đập vào sóng nhỏ thành bọt nước tung tóe lên cao. Nếu nước khô cạn, mặt trời dọi ánh nắng và gió thổi lên thì thảy tan hết! Thế thì đúng là chúng ta cùng chịu sự vô thường.” Suy nghĩ như vậy nên các vị đó đều cùng run rẩy sợ hãi, chắp tay lễ Phật. Lúc này Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:–Ta từ trước đến nay luôn vì Tôn giả mà nói rằng: Thế gian hư vọng, không có chân thực. Ví như có người cùng với cái không tranh luận. Thế gian là như thế đấy. Chỉ theo sự nhớ tưởng phân biệt nên cho là có. Không chắc, không bền, chẳng khác gì bọt nước tụ lại trong chốc lác. Thế gian như ảo, có thể lừa dối chúng sinh. Thế gian như ánh lửa rực sáng, thể tướng nó là không thật, kể cả sự khát khao yêu mến. Thế gian như bóng hình, chẳng thể cầm giữ được. Thế gian như tiếng vang, hư dối, khiến các loài khởi nghiệp. Thế gian như thật chính là tánh dứt điên đảo.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ta ngồi nơi đạo tràng đã thông đạt được điều như thật, biết hình tướng thế gian là không, không chốn có, không chốn nương tựa, dùng cái không bị ngăn ngại để đạt được hình tướng thế gian.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Xưa nay ta đã từng biết rõ về vị của thế gian, về nỗi lo ở thế gian cũng như việc ra khỏi thế gian, không tự mình tuyên bố là ta đã được Phật đạo. Chỉ khi ta đã nhận ra tướng như thật của thế gian cùng nguyên nhân gây nên bao nỗi khổ ở thế gian, nhận biết sự diệt khổ ở thế gian và con đường diệt khổ đó, thì mới tự mình tuyên bố rõ là ta đã đạt được Phật đạo.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Thế nào gọi là thế gian và những gì là năm ấm ở trong thế gian ấy? Năm ấm đó là sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm, hành ấm và thức ấm. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Thế nào là sắc ấm? Hoặc như có chúng sinh suy nghĩ rằng: “Nếu như quá khứ ấy không gọi tên là sắc; vị lai, hiện tại không gọi tên là sắc, vì thế mà Phật bảo mọi sở hữu là sắc. Nếu ở nơi quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc trong hoặc ngoài, hoặc thô hoặc tế, hoặc đẹp hoặc xấu, hoặc gần hoặc xa, đều được gọi tên là sắc ấm, mà sắc ấm ấy thật không có hình tướng. Ví như không ấm, phong ấm, hỏa ấm, thủy ấm, địa ấm, chỉ có tên gọi thôi. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức ấm lại cũng như vậy, nên dùng sự tương hợp của nhân duyên ấy để nói về các ấm.”

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Hàng phàm phu ngu si tối tăm luôn tham đắm nơi thân mình, không biết rõ về hình tướng của sắc, cho là sắc là ta, là sở hữu của ta, để giữ lấy hình tướng phân biệt mà sinh ra tâm tham đắm. Thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ta an tọa nơi đạo tràng, ở trong các sự việc ấy không cho là có, không cho là không, mà phát sinh Pháp nhãn. Hàng phàm phu ở những trường hợp không có pháp sở hữu, sinh tâm khao khát yêu mến, cho là pháp bị tan hoại bèn dấy sự buồn khổ lo phiền. Kẻ tham đắm sâu nặng ấy do bị mất chỗ mình tham đắm nên càng thêm mê muội, lầm lạc, liên tiếp tạo các nghiệp xấu ác. Như dùng gạch đá, gậy gộc, gươm giáo, đủ thứ binh khí để sát hại lẫn nhau, do si mê lầm lạc nên khởi tạo nghiệp dữ, gây ra tội lỗi như thế. Như Lai thông đạt các pháp đều bình đẳng, mọi tri kiến cũng bình đẳng nên thuyết giảng chánh kiến. Gọi là chánh kiến tức là bình đẳng, chánh trực, không có cao thấp, đó là hành đạo chân chánh, tu tập chính đáng, giải thoát chân chánh, đạt được những tri kiến ấy nên gọi là chánh kiến.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Phật nói về chánh kiến, chẳng thể chỉ dùng ngôn ngữ vì các vị mà nói suông, phải nên thuận theo lời nói để tu tập.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Các vị đều phải theo đúng pháp tu tập sẽ có được trí tuệ vô lượng, vô biên, đó chính là tám vạn bốn ngàn các Pháp tạng trong một cửa Pháp tạng. Đó gọi là những dấy khởi tạo tác chẳng phải tướng dấy khởi tạo tác.

Lúc Đức Như Lai nói về cửa Pháp tạng ấy, có đến bảy vạn bảy ngàn na-do-tha các vị Phạm thiên vương ở trong các pháp xa lìa bụi bặm phiền não, đạt được Pháp nhãn thanh tịnh. Chư Thiên ở cõi Dục giới có tới tám vạn bốn ngàn na-do-tha vị ở trong các pháp đều lìa bỏ phiền não cấu uế, đạt được Pháp nhãn thanh tịnh; cùng với vô lượng người khác, cũng đối với các pháp xa lìa bụi bặm và có được Pháp nhãn thanh tịnh. Có đến trăm ngàn vạn ức các vị Bồ-tát ở trong trăm ức cõi Diêm-phù-đề, đều ở nơi chúng hội này đạt được pháp Nhẫn vô sinh, cùng với vô lượng, vô biên chúng sinh khác thảy đều phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bấy giờ Đức Thế Tôn thu lại thần lực. Bốn bộ chúng cùng với chư Thiên ở các cõi trời Phạm thế,

Phạm trụ, Phạm chúng và trong cõi Dục giới, Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Calâu-la, Khẩn-đà-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… thảy đều tự nhận ra thân mình, trở lại thế giới ấy.

Phẩm 9: Diệu lực của Như Lai

Bấy giờ, Tôn giả Mục-kiền-liên từ nơi chỗ ngồi đứng dậy, vắt một vạt y, để trần vai bên phải, chắp tay cung kính hướng về phía Đức Phật, thưa rằng:

–Kính bạch Thế Tôn! Thật là điều chưa từng có! Vị Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân ấy đã có thần lực lớn lao đưa thế giới Kham nhẫn này, kể cả Đức Như Lai, đem đặt trong khoảng thuộc thế giới khác.

Bạch Thế Tôn! Mang con đi đến cõi ấy rồi trở lại nơi này, lúc bấy giờ con thật sự là thần hãy chẳng còn, nói chi tới thông. Con lại suy nghĩ: “Hiện vị Bồ-tát ấy đã có đầy đủ thần thông lớn lao, đưa con đi đến rồi trở về, mà con đều chẳng rõ là chậm, nhanh, hay gần xa ra sao!” Con lại suy nghĩ tiếp: “Vị Bồ-tát ấy hiện chưa thành tựu Phật đạo mà đã có thần lực như thế, huống chi là đến lúc thành Phật!”

Đức Phật bảo Tôn giả Mục-liên:

–Tôn giả đã cho rằng Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân ấy có thể đưa Như Lai trong việc đi đến và trở về chăng? Chớ có ý nghĩ đó. Vì sao? Vì ta chẳng hề thấy có Sa-môn, Bà-la-môn, A-la-hán, Bích-chi-phật, cùng với bao loài chúng sinh, cả Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tula, Ca-lâu-la, Khẩn-đà-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân… chưa ai có thể làm lay động nổi một góc y của Như Lai, huống chi lại có thể đưa bổng đến thế giới khác, rồi đặt trở lại nơi cũ. Không có chuyện ấy đâu!

Này Tôn giả Mục-liên! Hết thảy trời, người đều được đặt yên nơi thế gian này. Nếu như cõi tam thiên đại thiên thế giới này với mọi chúng sinh hiện có, có hình sắc, không có hình sắc, có tưởng, không có tưởng, chẳng phải có tưởng, chẳng phải không có tưởng, hoặc có thể trông thấy, hoặc không thể trông thấy, giả như khiến trong một lúc đều được làm thân người, do tin tưởng, xuất gia, đều chứng đắc A-la-hán, gồm đủ sáu thứ thần thông, giống như Tôn giả Mục-liên vậy. Vậy thì theo ý của Tôn giả thế nào? Trong trường hợp này, với thần thông trí lực có được ấy, nên cho là lớn chăng?

Tôn giả Mục-liên thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Hết sức lớn.

Đức Phật bảo Tôn giả Mục-liên:

–Các vị A-la-hán ấy dùng tay đưa cõi tam thiên đại thiên thế giới đi khắp hằng sa quốc độ trong mười phương. Giả như Như Lai dùng một hạt cải đem đặt nơi không trung, thì chúng A-la-hán có thần thông lớn lao ấy hãy còn không thể làm lay động như một vật bé xíu có thể làm được.

Này Tôn giả Mục-liên! Vả lại, việc đặt để của những thứ thần thông lớn lao kia, giả như một người có được thần lực lớn, Phật lắng nghe người ấy nói là có thể dùng một hơi thổi, thổi vỡ tung cả cõi đại thiên tan ra, khiến các vi trần tung bay khắp vô lượng hằng sa thế giới. Lại dùng một hơi thổi khiến các vi trần kia hợp trở lại thành cõi tam thiên đại thiên thế giới. Này Tôn giả Mục-liên, vậy thì theo ý của Tôn giả thế nào? Người ấy có đầy đủ thần lực lớn lao chăng?

Tôn giả Mục-liên đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Hết sức lớn!

Đức Phật bảo:

–Này Tôn giả Mục-liên! Giả sử có người đều được diệu lực thần thông lớn lao như vậy và số người ấy đầy cả cõi tam thiên đại thiên thế giới này, cũng như những rừng cây, đồng ruộng với lúa, mè, mía… hết thảy đều cùng một lòng thể hiện hết thần lực, hãy còn không thể làm lay động được một góc tấm y của Như Lai, huống hồ là nâng Như Lai đem đặt nơi thế giới khác rồi lại đem trở về!

Này Tôn giả Mục-liên! Ta đang ngồi nơi tòa này, có thể làm lay động vô lượng, vô biên chẳng thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ cõi ở phương Đông, trong ấy mọi chúng sinh đều không hề tự biết, kể cả cảm tưởng về việc đi lại của mình. Các chúng sinh ấy cũng không thể biết được về các trường hợp thành hoại cũng như tận diệt của thế gian.

Này Tôn giả Mục-liên! Nên biết rằng, Như Lai khi thể hiện thần lực là tùy theo chỗ thích ứng của chúng sinh để vì họ mà thuyết pháp. Hoặc có chúng sinh nên hiện thân Phật để họ được hóa độ. Hoặc có chúng sinh nên hiện thân chư Thiên để họ được hóa độ. Hoặc có chúng sinh nên hiện thân rồng để hóa độ họ. Hoặc có chúng sinh nên hiện thân Dạxoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-đà-la, Ma-hầu-la-già… để hóa độ họ. Hoặc có chúng sinh nên hiện thân nam, thân nữ để hóa độ họ. Hoặc có chúng sinh nên hiện thân lớn hay nhỏ để hóa độ họ. Này Tôn giả Mục-liên! Như Lai vốn có diệu lực thần thông vô sở úy tự tại, nên biết là chúng thảy đều được thu nhiếp trong kinh này. Các phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng cùng hai phương trên, dưới cũng đều như thế cả.

Này Tôn giả Mục-liên! Tôn giả nếu được thấy Như Lai hành hóa, nhất là thể hiện thần lực lớn lao thì Tôn giả đã chẳng có những lời hỏi đáp vừa rồi. Này Tôn giả Mục-liên! Ta đã dạy Tôn giả Anan pháp môn Đà-la-ni là nhằm để thọ trì mười hai bộ kinh Tu-đa-la, Kỳ-dạ, Xà-ca-la-na, Già-đà, Ưubà-na, Ni-đà-na, A-ba-đà-na, Y-đế-mục-đa-già, Xà-đa-già, Quảng kinh, Vị tằng hữu kinh và Ưubà-đề-xá, khiến cho không bị quên mất. Mà hiện nay Tôn giả A-nan hãy còn chẳng có thể biết được thần lực của Như Lai. Vì sao? Vì Như Lai đã dùng từng lời, từng chữ, từng câu để nêu bày giảng nói. Tất cả hàng Thanh văn, Bích-chi-phật hoặc ở trong một kiếp hay trăm ngàn vạn kiếp, cho tới vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, hãy còn không thể đọc tụng thọ trì, suy nghĩ, diễn nói hết được, huống chi lại có thể biết hết được chỗ thần thông diệu lực lớn lao mà Như Lai đã thể hiện. Không có sự việc ấy!

Này Tôn giả Mục-liên! Như Lai đã từng thể hiện vô số nhân duyên, vô số uy nghi, vô số pháp môn, nẻo đường để giáo hóa chúng sinh cùng diễn nói chánh pháp. Chỉ vào lúc mang y, hết thảy hàng Thanh văn và Bích-chi-phật hãy còn không thể biết trong ấy số lượng chúng sinh tăng lên là bao nhiêu và thuyết pháp như thế nào, huống hồ là có thể biết hết các nẻo hành hóa của Như Lai cũng như thần thông và trí tuệ của Như Lai. Không hề có việc ấy!

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn theo Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân nhận lấy đóa hoa sen xong, liền gọi các vị Bồ-tát Bạt-đà-bà-la, Bồ-tát Bảo Tích, Bồ-tát Đạo Sư, Bồ-tát Tinh Đắc, Bồ-tát Nala-đạt, Bồ-tát Đế Đắc, Bồ-tát Thủy Thiên, Bồ-tát Thiện Lực… là những bậc có thể hộ trì Pháp tạng ở đời sau, nói rằng:

–Này các vị thiện nam! Các vị có thể hộ trì kho tàng chánh pháp của Như Lai, có thể khéo thông tỏ, tin tưởng nơi con đường hành hóa của Như Lai để diễn thuyết chăng?

Các vị Bồ-tát thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Chúng con đều có thể làm được việc ấy.

Đức Phật nói:

–Các vị kể từ nay nếu có thuyết giảng thì trước hết hãy xem nẻo chốn hành hóa, ý hướng cùng các pháp môn hội nhập của Như Lai, sau đấy mới thuyết giảng. Nếu như có người bảo rằng: “Thế nào gọi là trí tuệ đầy đủ của Phật?”, thì các vị nên dựa vào những kinh như thế này cùng quan sát nẻo hành hóa của Như Lai, sau đó mới trả lời. Các vị nếu được nghe những chỗ nói về các pháp môn thì đều nên quan sát ý hướng hành động của Như Lai, vì sự việc ấy nên mới thuyết giảng pháp như vậy. Các vị nếu nhận thấy chỗ hành động của chúng sinh thì cũng phải xem nơi Pháp tạng của Như Lai để biết rằng các chúng sinh đã có những hành độ như vậy và Phật đã dùng sự hành hóa đó là nhằm để làm cho chuyển biến dứt trừ. Mọi nẻo hành động của chúng sinh có đến chín vạn chín ngàn các căn, Như Lai tất biết rõ. Đó là nhiều kẻ do tham dục mà có căn như thế. Nhiều kẻ do giận dữ mà có căn như vậy. Nhiều kẻ do ngu si mà có căn như thế. Kẻ gần như nhiều dục mà có căn như vậy. Kẻ gần như nhiều giận dữ mà có căn như vậy. Kẻ gần như có nhiều si mê mà có căn như vậy. Kẻ gần như nhiều tham giận mà có căn như thế. Kẻ gần như nhiều tham si mà có căn như vậy. Kẻ gần như nhiều sân si mà có căn như thế. Kẻ gần như nhiều tham sân si mà có căn như vậy… Các căn như thế là có thể lãnh hội đạo pháp thanh tịnh, cũng như có thể khởi mọi sự việc. Các căn như vậy là gốc từ nhân duyên sinh và từ nơi “tập” mà hành động, thu đạt. Có căn tạo tác nghiệp thì hoặc dấy nghiệp xấu ác hay tạo nghiệp thiện tốt, hoặc tạo cả nghiệp thiện, nghiệp ác. Căn ấy thuận với đạo, căn ấy thuận với định, căn ấy thuận với tuệ, đó là sự thuận hợp hết mực với trí. Thuận với trí vô sinh là sự tùy thuận của căn. Đạt đến tận cùng trí vô sinh là chân lý thuận hợp với căn.

Này các vị thiện nam! Ở trong hai vạn các căn ấy hòa hợp với sức mạnh của nhân duyên đời trước nên có thể khởi các nghiệp, hoặc nghiệp dữ, nghiệp lành. Do từ nghiệp duyên ấy mà có được đủ loại hình sắc, hoặc đen, hoặc trắng, hoặc chẳng đen chẳng trắng, hoặc ở trên hoặc xa lìa. Các thứ hình sắc như thế có hai vạn căn, có thể sinh ra các thân, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc thô hoặc tế, hoặc chẳng dài–ngắn, chẳng thô tế. Có hai mươi vạn căn có thể biểu lộ hình tướng bên trong như ở trong mắt, tai, mũi, lưỡi, thân. Nhận biết đó là người có tâm tham, đó là người có tâm sân, đó là người có tâm si, đó là người lìa tham, đó là người lìa sân, đó là người lìa si. Có ba vạn căn tạo nên những nghiệp báo sai biệt, như lúc người chết thì tình thức mê muội, hình sắc biến đổi, tay chân co quắp, các căn thác loạn, các chi phần cùng lìa nhau. Gặp lúc hơi tuôn ra, biết đó là các căn phải bị đọa vào địa ngục hay ngạ quỷ, súc sinh; hay là căn ấy được sinh nơi cõi người, trời, được sinh nơi cõi Phật. Ở phương khác được thấy chư Phật. Căn ấy nên dứt sự tương tục của sinh tử, không còn phải nhận lấy thân sau. Có bảy vạn căn, do tin hiểu được sức mạnh của căn mà thu nhiếp được gốc thiện. Có hai vạn các căn thu nhiếp pháp bất thiện, vào lúc chết có thể nhận biết.

Này các vị thiện nam! Đó gọi là diệu lực của Phật, là nẻo hành hóa của Như Lai, cũng là kho tàng chánh pháp của Như Lai. Như Lai an trụ ở đấy để có thể diễn nói các pháp không tăng không giảm.

Phẩm 10: Nói về công đức

Lúc bấy giờ trong chúng hội có một vị Bồ-tát tên là Kiên Ý, từ chỗ ngồi đứng dậy cung kính chắp tay thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Con đối với pháp môn ấy đã đạt được pháp sáng tỏ, vì thế mà con sẽ dốc tu tập theo pháp môn ấy, khiến cho được đầy đủ. Vì sao? Vì con hiện nay sẽ xin tạo nên sự trang nghiêm như vậy, để tìm cầu học hỏi hành động đầy đủ pháp ấy, trước sau không chút biếng trễ hay dừng nghĩ, và vào đời vị lai sẽ trở lại được nghe Pháp tạng của Như Lai.

Đức Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Lành thay! Lành thay! Ông đã có thể dốc lòng cầu chư Phật Như Lai trong vô lượng, vô biên atăng-kỳ kiếp, về chỗ tập hợp các pháp lớn.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Nếu như cõi tam thiên đại thiên thế giới này có những chúng sinh, hoặc có hình sắc, không hình sắc, có tưởng, không có tưởng, hoặc chẳng phải có tưởng, chẳng phải không có tưởng… giả như trong một thời, hết thảy đều được thân người. Nếu có hàng thiện nam, thiện nữ cung cấp cho hết thảy chúng sinh ấy đầy đủ tất cả mọi thứ an lạc, tùy theo chỗ cầu về sắc, hương, vị, tiếp xúc mà đều có thể chu toàn. Rồi đem hết thảy chúng sinh đó đặt gọn trong lòng bàn tay, hoặc hơn một kiếp, hoặc ít hơn một kiếp. Lại dùng tay kia để trừ bỏ, xua đuổi mùi hôi hám nhơ bẩn đi xa tới chốn khác. Này Bồ-tát Kiên Ý! Theo ý của Bồtát thì thế nào? Chỗ làm của người ấy nên cho là lớn lao chăng?

Bồ-tát Kiên Ý thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Hết sức lớn lao.

Đức Phật bảo:

–Này Bồ-tát Kiên Ý! Nếu lại có người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, hoặc vào lúc Phật tại thế hay sau khi Phật diệt độ, có thể cầu được hỗ trợ các pháp Bồ-đề cùng các kinh tạng Bồtát như vậy và suy nghĩ: “Ta tu tập theo pháp Đại thừa này, vì chúng sinh mà thuyết giảng về sự đoạn trừ tham lam, sân hận, si mê, xa lìa sinh, già, chết với bao nỗi lo buồn khổ não.” Lúc mong cầu như vậy, nếu có được một bài kệ bốn câu của kinh này, có thể vì chúng sinh mà đọc tụng, giải thuyết, thì so với công đức ở trước, trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn phần hãy còn chẳng bằng một, kể cả việc dùng thí dụ cũng không thể đủ để diễn tả. Bồtát như vậy là đem nhân duyên cầu các pháp thâm diệu ấy mà có thể tạo được lợi ích lớn lao cho hết thảy chúng sinh.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Đối với sự việc đó, ai là người có thể tin tưởng? Chỉ có chư Phật là thông tỏ một cách rốt ráo. Cũng như các đệ tử của bậc Thánh cùng với những vị phát tâm cầu Phật đạo thì mới có thể tin tưởng, thọ nhận. Vì sao? Vì các vị Bồ-tát lúc mới bắt đầu phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tự nguyện sẽ vì những chúng sinh không được cứu độ mà tạo sự cứu giúp họ, không có nơi trú ngụ thì tạo chỗ trú ngụ, không biết đến đạo giác ngộ thì chỉ rõ con đường ấy. Ta sẽ tu tập theo pháp Đại thừa ấy, là trí tuệ của Phật sẽ khiến cho vô lượng, vô số chúng sinh đứng vững trong pháp vô lậu.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Giả sử như người ấy, từ lúc sớm đến lúc bữa ăn dùng các thứ châu báu tích chứa như núi Tu-di cùng với mỗi mỗi người, giữa buổi, vào quá trưa, vào lúc bắt đầu, sau, giữa đêm, dốc hết sức lực của mình, ngày đêm sáu thời đem số lượng châu báu tích chứa ấy cấp cho chúng sinh. Này Bồ-tát Kiên Ý! Theo ý của Bồ-tát thì thế nào? Tâm của chúng sinh ấy có được thỏa mãn đầy đủ chăng?

Bồ-tát Kiên Ý thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Không được thỏa mãn đầy đủ.

Đức Phật nói:

–Hoặc do cái nhân ấy nên bị đọa vào ba nẻo đường dữ, Bồ-tát suy nghĩ rằng: “Ta sẽ dốc cầu pháp thâm diệu vô thượng, cùng khiến cho mọi chúng sinh xem sự tích chứa các thứ châu báu trong tam thiên đại thiên thế giới cũng như nước mắt, nước bọt, chỉ sinh tâm lo sợ. Bậc Bồ-tát đại trí xem sự tích chứa châu báu ấy đều là ba thứ độc gây nên bao phiền não cho chúng sinh, là gốc của mọi nẻo sinh tử, qua lại các cõi địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ cùng những khổ não trong cõi người. Lúc mong cầu là gốc của khổ. Có được, giữ gìn lấy là gốc của khổ. Oán ghét, tranh cãi, dấy khởi các nghiệp, gây ra tội lỗi cũng chính là gốc của bao nỗi khổ.” Như thế thì Bồ-tát đối với sự tích tụ châu báu lớn lao nên sinh tâm chán lìa. Lại suy nghĩ rằng: “Đấy không phải là nơi chất chứa châu báu mà chỉ là sự tích chứa bao nỗi khổ não nơi các nẻo ác.”

Hoặc có chúng sinh do tham đắm nên bị đọa vào ba nẻo dữ. Này Bồ-tát Kiên Ý! Như đem cả cõi tam thiên đại thiên thế giới này cùng với mọi chúng sinh hiện có, cả chúng sinh trong vô lượng hằng hà sa số quốc độ khắp mười phương, hoặc có hình sắc, không hình sắc, có tưởng, không có tưởng, hoặc chẳng phải có tưởng, chẳng phải không có tưởng; giả như trong một lúc đều khiến trở thành thân người hết. Nếu có một người phát tâm cung cấp cho tất cả đủ mọi sự an lạc, tùy theo chỗ cần về sắc, thanh, hương, vị, thảy đều chu toàn; hoặc đặt ở trên đầu, hoặc dùng vai để gánh vác, trải qua hơn một kiếp hay giảm một kiếp, tùy ý mà ngồi, nằm, lại cũng dùng một tay để xua trừ các mùi hôi nhớp đi xa khỏi chốn khác. Này Bồ-tát Kiên Ý! Theo ý của Bồ-tát thì sao? Công việc làm của người ấy nên cho là nhiều chăng?

Bồ-tát Kiên Ý đáp:

–Hết sức nhiều, kính bạch Thế Tôn!

Đức Phật bảo:

–Này Bồ-tát Kiên Ý! Ta nay bảo Bồ-tát lời chân thành này: Nếu có hàng thiện nam, thiện nữ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mong làm được sự hỗ trợ cho các pháp Bồ-đề cùng các kinh tạng Bồ-tát như thế. Chỉ mới bắt đầu thực hiện mà phước đức thật không thể lường, cho tới khi đạt quả vị Vô thượng Bồ-đề cũng không thể hết phước đức ấy, so với công đức trước thì đối với trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn phần còn không bằng một, kể cả việc dùng thí dụ cũng không đủ để diễn tả. Vì sao? Vì người đem lại sự an lạc đầy đủ ở trước thì đó là những kết sử thuộc nhân duyên hữu lậu, không thể lìa bỏ được sự khổ, đạt đến an ổn một cách trọn vẹn. Các vị Bồ-tát mong có được nhân duyên thuận hợp cho các pháp là nhằm làm tăng trưởng ba thứ giới, định, tuệ, cũng có thể thiện hiện đầy đủ hết thảy các pháp Phật, đạt được vô lượng không thể nghĩ bàn diệu lực của các phương tiện, thành tựu công việc hóa độ chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật. Này Bồ-tát Kiên Ý! Vì thế mà Phật nói về nhân duyên cầu pháp của Bồ-tát là nhằm đạt quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lại nữa, Bồ-tát Kiên Ý! Nếu như ở bốn châu thiên hạ trong ấy có vô số các Bậc Như Lai đông nhiều như thể những rừng cây, cánh đồng với lúa, mè, mía. Nếu như có một người dốc hết sức lực chính mình cúng dường y phục, đồ để nằm, thuốc men, cùng đủ thứ, đủ loại cần dùng cho các vị Như Lai ấy. Và sau khi các Bậc Như Lai nhập Niết-bàn, đã tôn tạo bảo tháp bằng bảy thứ châu báu, vuông vức mỗi chiều là một do-tuần. Hình dáng bên ngoài của bảo tháp rất trang nghiêm, luôn có hoa, hương, cờ phướn, dù, lọng, đèn đuốc thắp sáng để cúng dường, hoặc đến một trăm kiếp hay hơn nữa.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Theo ý của Bồ-tát thì sao? Người ấy có được phước đức nên cho là nhiều chăng?

Bồ-tát Kiên Ý đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Hết sức nhiều. Thật là vô lượng, vô biên!

Đức Phật nói:

–Này Bồ-tát Kiên Ý! Ta nay bảo Bồ-tát lời chân thành này: Người ấy cúng dường cho vô số các vị Như Lai như thế, lại tôn tạo từng ấy ngôi tháp và luôn trong bao nhiêu kiếp cúng dường đủ thứ đủ loại. Nếu như có hàng thiện nam, thiện nữ phát tâm cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mong được hỗ trợ cho các pháp Bồ-đề cùng tạng kinh Bồ-tát để thọ trì đọc tụng, thì so với phước đức ở trước, trong trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn phần hãy còn không bằng một, cho đến dùng thí dụ cũng không thể diễn tả hết. Vì sao? Vì trong các sự bố thí, pháp thí là hạng nhất; trong các việc cầu mong, cầu chánh pháp là hạng nhất. Vì thế, này Bồ-tát Kiên Ý! Các vị nên biết là trong khoảng năm trăm năm về sau này, nếu thọ trì đọc tụng các kinh như thế thì chỗ công đức đạt được là vô lượng, vô biên, cho đến lúc đạt quả vị Vô thượng Bồ-đề cũng không thể hết.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Ta nay muốn dùng thí dụ để làm sáng tỏ sự việc này và Bồ-tát sẽ tin tưởng, thọ nhận. Ví như các quốc độ trong khắp cõi tam thiên đại thiên này được dùng làm một đồ vật, trong ấy chứa đầy những hạt cải như hạt mè đen, hạt gạo. Thế thì theo ý của Bồ-tát, số lượng hạt cải được chứa trong đồ vật ấy là bao nhiêu?

Bồ-tát Kiên Ý đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Hết sức nhiều, không thể tính được số lượng.

Đức Phật nói:

–Này Bồ-tát Kiên Ý! Giả sử cũng số lượng hạt cải như thế trong khắp cõi đại thiên thế giới hợp làm một đồ vật, trong ấy chứa đầy cát nhỏ, thì số lượng cát nhỏ đó là bao nhiêu?

Bồ-tát Kiên Ý đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Hết sức nhiều! Thật là vô lượng, vô biên!

Đức Phật nói:

–Này Bồ-tát Kiên Ý! Nếu có người với sức mạnh phi thường, mang số lượng cát nhỏ ấy tung rải khắp bốn phương. Bấy giờ gió lớn nỗi lên thổi tung đám cát kia, mỗi mỗi hạt cát rơi xuống trong một thế giới. Thế thì theo ý Bồ-tát, các thế giới đó số lượng là bao nhiêu? Bồ-tát Kiên Ý đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Hết sức nhiều, thật là vô lượng, vô biên chẳng thể nêu lên số lượng được!

Đức Phật bảo:

–Này Bồ-tát Kiên Ý! Ta nay nói cho Bồ-tát được thông tỏ, Như Lai có đầy đủ vô lượng thần thông từ diệu lực của việc trì giới, thiền định và trí tuệ, có thể dùng một bước vượt qua hết từng ấy thế giới, mà ở nơi chỗ từng ngồi thì oai nghi, bất động, đối với diệu lực thần thông cũng chẳng thể hiện hết.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Như Lai dùng một hạt cát này làm một kiếp, dùng số lượng kiếp ấy làm một ngày, dùng số lượng ngày đó làm một tháng, dùng số lượng một tháng ấy làm một năm, dùng một ngàn năm như vậy để đi về phương Đông, không hề dừng nghỉ. Các phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và hai phương trên, dưới cũng lại như thế. Nếu có hàng thiện nam, thiện nữ muốn nghe kinh này và thọ trì, đọc tụng, chỉ mới bắt đầu thực hiện thì chỗ công đức đạt được ấy, giả sử có hình sắc đối với từng ấy quốc độ mà Như Lai vượt qua như đã nói ở trên cũng không thể dung nạp hết. Như Lai chỉ biết rằng người ấy có được phước đức quả là vô lượng, vô biên không thể nghĩ bàn. Này Bồtát Kiên Ý! Phước đức ấy không thể dùng văn tự, toán số để nhận thức và diễn đạt được. Phước đức đó được thu nhiếp ở trong vô lượng số.

Phẩm 11: Nói về phát tâm

Bấy giờ về phương Đông trải qua a-tăng-kỳ quốc độ, có thế giới tên là Đại danh văn, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tu-di Kiên, hiện tại đang vì Bồ-tát Quang Minh Uy Đức Tụ thọ ký quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, và nói rằng: “Bồtát Quang Minh Uy Đức Tụ ấy sẽ lần lượt sau ta mà thành Phật.”

Bấy giờ Đức Phật Tu-di Kiên được đại chúng vây quanh và vì họ mà thuyết pháp. Bồ-tát Quang Minh Uy Đức Tụ ấy lúc này đang ở nơi chúng hội, nhìn thấy luồng ánh sáng lớn chiếu tỏa, nghe tiếng nói vang vang, cùng thấy đại địa có sự chuyển động, liền hỏi Phật Tu-di Kiên:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng và âm thanh ấy là do Đức Phật nào tạo ra vậy?

Đức Phật Tu-di Kiên đáp:

–Về phương Tây, cách xa cõi này trải qua atăng-kỳ quốc độ, có thế giới tên là Ta-bà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Mâu-ni, hiện đang thuyết giảng về tạng kinh Bồ-tát. Các vị Bồ-tát ở chúng hội ấy đều gồm đủ sự trang nghiêm lớn lao, hiện nay đối với hằng sa quốc độ trong mười phương, ít có nơi nào có được các vị Đại Bồ-tát như thế. Nếu có người được nghe tên của các vị Bồ-tát ấy hãy còn được lợi ích lớn, huống hồ là tận mắt được nhìn thấy và gần gũi cúng dường.

Tức thì Bồ-tát Quang Minh Uy Đức Tụ thưa với Đức Tu-di Kiên:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đi tới thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Mâuni, lễ bái, cúng dường, cũng nhằm được thấy chúng Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm ấy.

Đức Phật Tu-di Kiên nói:

–Bồ-tát muốn đi đến cõi ấy, xin cứ tùy ý.

Rồi Đức Phật Tu-di Kiên trao cho Bồ-tát Quang Minh Uy Đức Tụ bảy cành hoa sen và bảo:–Bồ-tát hãy đem hoa này dâng lên Đức Phật Thích-ca Mâu-ni cùng chuyển lời ta vấn an thăm hỏi Đức Phật: Có được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt có được thư thái, khí lực luôn khang kiện chăng?

Bồ-tát Quang Minh Uy Đức Tụ liền nhận lấy hoa, đảnh lễ ngang chân Phật, đi nhiễu quanh Đức Phật Tu-di Kiên rồi lui ra. Và chỉ trong một khoảnh khắc chớp mắt, hốt nhiên biến khỏi cõi Phật này, đến thế giới Ta-bà, đi tới thành Vương xá, thẳng đến vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Mâu-ni, lui ra đứng một bên, thưa với Phật rằng:

–Phật Tu-di Kiên gởi lời vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn có được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt có được thư thái, khí lực luôn được an khang chăng? Lại gởi hoa sen này cúng dường Đức Thế Tôn.

Lúc này Đức Phật Thích-ca Mâu-ni nhận lấy hoa và hỏi Bồ-tát Quang Minh Uy Đức Tụ:

–Phật Tu-di Kiên có được ít bệnh, ít phiền, khí lực luôn được an khang chăng?

Bồ-tát Quang Minh Uy Đức Tụ đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Phật Tu-di Kiên ở thế giới ấy luôn được mọi sự an lành.

Đức Phật đem hoa vừa nhận, trao cho Bồ-tát Di-lặc và nói:

–Này A-dật-đa! Bồ-tát nên mang hoa này để vun trồng nhân duyên căn lành cho sự hỗ trợ Phật đạo.

Bấy giờ Bồ-tát Di-lặc nhận lấy hoa từ chỗ Phật trao cho các vị Bồ-tát: Bồ-tát Bạt-đà-bà-la, Bồ-tát Bảo Tích, Bồ-tát Đạo Sư, Bồ-tát Tinh Đắc, Bồ-tát Na-la-đạt, Bồ-tát Đế Đắc, Bồ-tát Thủy Thiên, Bồtát Thiện Lực, Bồ-tát Nhật Tạng, Bồ-tát Trì Thế, Bồ-tát Trì Địa, Bồ-tát Trụ Ý, Bồ-tát Vô Biên Ý, Bồ-tát Việt Tam Giới Hành, Bồ-tát Vô Biên Hành, Bồ-tát Vô Lượng Lực, Bồ-tát Phổ Hiện Duyên, Bồ-tát Kiên Ý, Bồ-tát Vô Biên Lực, Bồ-tát Bất Hư Lực, Bồ-tát Sư Tử Lực, Bồ-tát Tật Biện, Bồ-tát Lợi Biện, Bồ-tát Thâm Biện, Bồ-tát Vô Biên Biện, Bồtát Vô Lượng Biện, Pháp vương tử Văn-thù-sư-lợi, Pháp vương tử Hoa Đức Tạng, Bồ-tát Vô Biên Thủ, Bồ-tát Vô Trước Thủ, Bồ-tát Bảo Thủ, Bồ-tát Bảo Tý, Bồ-tát Bất Hư Đức, Bồ-tát Bất Động Hạnh, Bồ-tát Vô Ưu, Bồ-tát Ly Ưu, Bồ-tát Phát Vô Phân Biệt Hành, Bồ-tát Ly Chư Nạn, Bồ-tát Ly Nam Tướng, Bồ-tát Ly Nữ Tướng, Bồ-tát Ly Chúng Sinh Tướng, Bồ-tát Võng Minh, Bồ-tát Bất Nhập Thai, Bồ-tát Phật Hoa Thủ, Bồ-tát Hoa Thủ, Bồ-tát Hương Tượng, Bồ-tát Thành Lợi, Bồ-tát Thượng Đức, Bồ-tát Bảo Đức, Bồ-tát Châu Anh, Bồ-tát Châu Kế, Bồ-tát Hoa Nhĩ, Bồ-tát Vân Âm, Bồ-tát Tất Cánh Tư, Bồ-tát Vô Biên Xả, Bồ-tát Thiện Tư Hành, Bồ-tát Bất Hư Nguyện, Bồ-tát Quá Nguyện, Bồ-tát Chuyển Nguyện, Bồ-tát Thâm Hạnh Nguyện, Bồ-tát Nguyện Ly Nạn, Bồ-tát Diễn Hoa, Bồ-tát Bảo Hoa, Bồ-tát Bất Hư Xưng, Bồ-tát Bất Hư Tán, Bồ-tát Phổ Nguyện, Bồ-tát Chư Đạo Bất Loạn, Bồ-tát Thường Hỷ Nghiêm, Bồ-tát Thường Bi Nghiêm, Bồ-tát Hóa Vô Tri Nguyện, Bồ-tát Cụ Giới Nguyện, Bồ-tát Chấp Cự, Bồ-tát Lạc Chúng, Bồ-tát Thiện Chúng, Bồ-tát Lạc Hạnh, Bồ-tát Ái Thiên, Bồ-tát Lạc Phật, Bồ-tát Nguyện

Bất Ly Phật, Bồ-tát Nguyện Chuyển Pháp Luân, Bồ-tát Nguyện Chuyển Vô Ngại Pháp Luân, Bồtát Nguyện Xả Nhất Thiết, Bồ-tát Nguyện Vô Xan, Bồ-tát Nguyện Vô Sai Biệt, Bồ-tát Nguyện Thiệu Phật Chủng, Bồ-tát Nguyện Bất Loạn, Bồ-tát Nguyệt, Bồ-tát Pháp, Bồ-tát Đức Hải, Bồ-tát Thiện Giới, Bồ-tát Đạo Sư, Bồ-tát Đại Đạo Sư, Bồ-tát Thượng Chúng, Bồ-tát Tăng Thượng, Bồ-tát Bảo Nghiêm, Bồ-tát Phổ Lợi, Bồ-tát Phổ Đức, Bồ-tát Ca-sa Tướng, Bồ-tát Vô Nhiễm, Bồ-tát Diệt Tướng, Bồ-tát Tịch Diệt, Bồ-tát Thiện Ý, Bồ-tát Hỷ Kiến, Bồ-tát Lạc Thắng, Bồ-tát Thượng Nghiêm, Bồ-tát Thường Thắng, Bồ-tát Thắng Chúng, Bồ-tát Thắng Số, Bồ-tát Hoại Ma, Bồ-tát Hoại Oán, Bồ-tát Thắng Oán, Bồ-tát Phổ Danh Văn, Bồ-tát Nhật Bảo, Bồ-tát Chuyển Pháp, Bồ-tát Tăng Pháp, Bồ-tát Thiện Tri Thức, Bồ-tát Thiên Thiện Hữu, Bồ-tát Tăng Hữu, Bồ-tát Nhất Cái, Bồtát Bảo Cái, Bồ-tát Thiện Túc Vương, Bồ-tát Tinh Tú, Bồ-tát Pháp Thiên, Bồ-tát Tịnh Môn, Bồ-tát Tịnh Dũng, Bồ-tát Dũng Hành, Bồ-tát Vô Biên Hạnh, Bồ-tát Bất Hư Hạnh, Bồ-tát Hương Đức, Bồ-tát Trí Đức, Bồ-tát Vô Biên Nhãn, Bồ-tát Đế Đức, Bồ-tát Phạm Thượng, Bồ-tát Trì Pháp, Bồ-tát Pháp Đức, Bồ-tát Tự Tại Lực, Bồ-tát Vô Tích Hành, Bồ-tát Thiện Hành, Bồ-tát Đẳng Hành… cùng với bảy vạn bảy ngàn các vị Bồ-tát như thế, và nói với các vị Bồ-tát ấy:

–Chư Thiện tri thức! Tôi từ chỗ Đức Phật nhận được hoa này, nay xin đem trao cho các vị. Các vị hãy giữ lấy hoa này để làm công việc hỗ trợ cho Phật đạo, đều nên nhất tâm cùng phát nguyện lớn.

Lúc này bảy vạn bảy ngàn các vị Bồ-tát cầm lấy hoa sen đó và ngay lúc ấy đều phát nguyện lớn về phương tiện hành hóa độ sinh, rồi trở lại dâng lên Đức Phật. Đức Phật với nét Từ bi hiện rõ, đã nhận lấy hoa và bảo Bồ-tát Di-lặc:

–Ta nay thật hết sức hoan hỷ, vì đã khiến cho các vị vun trồng căn lành lớn lao. Này Bồ-tát Adật-đa! Chư Phật thật khó được gặp, mà chư Bồtát thì cũng vậy. Vì sao? Vì chánh pháp mà ta đạt được, tất cả đều từ hạnh của Bồ-tát mà có. Theo ý của Bồ-tát thì sao? Nếu Như Lai từ gốc đã không phát tâm cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì sẽ có được mười Lực xuất thế gian chăng?

Bồ-tát Di-lặc đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Không thể có được.

Đức Phật hỏi:

–Này Bồ-tát A-dật-đa! Theo ý của Bồ-tát thì sao? Nếu Như Lai từ gốc đã không phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề thì sẽ có được bốn Vô sở úy xuất thế gian chăng?

Bồ-tát Di-lặc đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Không thể có được.

Đức Phật bảo:

–Này Bồ-tát A-dật-đa! Nếu Như Lai từ gốc đã không phát tâm cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì sẽ có được bốn Tâm vô lượng là đại Từ, đại Bi, đại Hỷ, đại Xả xuất thế gian chăng?

Bồ-tát Di-lặc đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Không thể có được.

Đức Phật hỏi:

–Nếu Như Lai từ gốc đã không phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề thì sẽ có được mười tám pháp Bất cộng xuất thế gian chăng?

Bồ-tát Di-lặc đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Không thể có được.

Đức Phật hỏi:

–Nếu Như Lai từ gốc đã không phát tâm cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì sẽ có được pháp Bất hư hành xuất thế gian chăng?

Bồ-tát Di-lặc đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Không thể có được.

Đức Phật hỏi:

–Nếu Như Lai từ gốc đã không phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề thì sẽ có được quán Tượng vương xuất thế gian chăng?

Bồ-tát Di-lặc đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Không thể có được.

Đức Phật hỏi:

–Nếu Như Lai từ gốc đã không phát tâm cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì sẽ có được pháp Tam-muội Sư tử phấn tấn xuất thế gian chăng?

Bồ-tát Di-lặc đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Không thể có được.

Đức Phật hỏi:

–Nếu Như Lai từ gốc đã không phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề thì sẽ có được tướng tốt Vô kiến đảnh xuất thế gian chăng?

Bồ-tát Di-lặc đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Không thể có được.

Đức Phật hỏi:

–Nếu Như Lai từ gốc đã không phát tâm cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì sẽ có được ba chuyển, mười hai hành pháp luân xuất thế gian chăng?

Bồ-tát Di-lặc đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Không thể có được.

Đức Phật hỏi:

–Nếu Như Lai từ gốc đã không phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề thì sẽ có được ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân xuất thế chăng?

Bồ-tát Di-lặc đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Không thể có được.

Đức Phật hỏi:

–Nếu Như Lai từ gốc đã không phát tâm cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì sẽ có được trăm ngàn, đến vô lượng các pháp xuất thế gian chăng?

Bồ-tát Di-lặc đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Không thể có được.

Đức Phật hỏi:

–Nếu Như Lai từ gốc đã không phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề thì sẽ có được đại chúng là các bậc Thanh văn xuất thế gian chăng?

Bồ-tát Di-lặc đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Không thể có được.

Đức Phật bảo:

–Này Bồ-tát A-dật-đa! Vì vậy mà Bồ-tát nên biết, hết thảy công đức của chư Phật đều ở tại lúc mới phát nguyện điều phục tâm. Do đó, được gặp Bồ-tát ở thế gian là điều khó, gặp được Phật lại càng khó hơn nữa.

Này Bồ-tát A-dật-đa! Ví như không có trâu bò thì sẽ không có đề hồ, cho nên nếu không có Bồtát phát tâm cầu đạo thì không có Phật chủng. Nếu như có trâu bò thì sẽ có đề hồ, cho nên nếu có Bồtát phát tâm cầu đạo thì Phật chủng không bị gián đoạn.

Này Bồ-tát A-dật-đa! Ví như có gieo hạt thì sẽ có được hoa trái. Cho nên nếu có Bồ-tát phát tâm cầu đạo thì Phật chủng luôn được tiếp nối. Do vậy mà Bồ-tát nên biết rằng phát tâm là điều khó. Phát tâm đã là điều khó nên quả vị Phật cũng rất khó đạt.

Này Bồ-tát A-dật-đa! Ví như nơi biển báu, những vật báu vô giá thì ít, còn các thứ vật báu khác thì nhiều, cho nên trong chúng sinh ít người có thể phát tâm Bồ-tát, phần nhiều là khởi ý nguyện theo hàng Thanh văn, Bích-chi-phật. Do đó mà Bồ-tát nên biết, tâm Bồ-tát ấy là điều khó có được vào hạng nhất. Như hoa Ưu-đàm thường thường chỉ một lần xuất hiện, cho nên tâm Bồ-tát ấy chính là tâm châu báu vào loại vô giá, là tâm như núi Tu-di hết mực cao to; là tâm như cõi không, chẳng thể hủy hoại được; là tâm như biển sâu khó có thể lường được, đó là tâm không gì có thể so sánh. Hơn cả số ngọc báu Ma-ni đầy khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới.

Này Bồ-tát A-dật-đa! giả sử tâm ấy có hình sắc thì cả thế gian với chư Thiên, người, A-tu-la… đều nên kính lễ. Do đó, các vị đã phát tâm ấy thì phải nên siêng năng tinh tấn để có được lòng mong muốn sâu xa nhằm đạt được sở nguyện.

QUYỂN 3

Phẩm 12: Nói về Bồ-tát Vô Ưu

Bấy giờ Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

–Này Bồ-tát A-dật-đa! Thế nào gọi là tâm Bồtát đúng nghĩa? Tâm Bồ-tát ấy là chẳng có thể suy nghĩ, lường tính, chẳng thể nêu bày, chỉ rõ. Ta nay muốn dùng thí dụ để chứng minh cho tâm ấy.

Này Bồ-tát A-dật-đa! Về thời quá khứ xa xưa, trải qua vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp, bấy giờ có Đức Phật hiệu là An Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật An Vương ấy thọ mạng tám vạn bốn ngàn năm, có ba hội pháp lớn:

1. Hội đầu tiên thuyết pháp có bảy mươi ức người đắc quả A-la-hán.

2. Pháp hội lớn thứ nhì có chín mươi ức người đắc quả A-la-hán.

3. Pháp hội thứ ba có đủ một trăm ức người chứng đắc quả A-la-hán.

Những người chứng đắc quả A-la-hán ấy đều đã dứt sạch các lậu, mọi chốn tạo tác đã được đầy đủ, lìa bỏ mọi vướng mắc nặng nề để đạt được những lợi lạc cho chính mình, diệt trừ hết các thứ phiền não trói buộc, có được trí tuệ chân chánh, giải thoát.

Bấy giờ, có vị đại vương đã chịu phép quán đảnh tên là Sư tử Đức Vương. Phu nhân của nhà vua có hai vị thái tử, một người tên là Vô Ưu, một người tên là Ly Ưu, là anh em sinh đôi. Hai vị Vương tử ấy đang cùng chơi đùa nơi sân thượng của cung điện vua, trông thấy Đức Phật An Vương với đại chúng vây quanh đi vào thành Hỷ kiến, tức thì, Vô Ưu nói với Ly Ưu rằng:

–Có thấy Đức Phật An Vương từ nơi nào ấy đến đây chăng?

Ly Ưu đáp:–Có thấy.

Vô Ưu nói:

–Chúng ta có thể làm như Đức Phật An Vương. Nói xong, Vô Ưu liền vì Ly Ưu mà thuyết bài kệ:

Này Ly Ưu hãy xem
Thế Tôn An Vương đó
Đại chúng kính, vây quanh
Ung dung từ ấy lại
Ta sinh tâm như vậy
Mong cầu đạo Vô thượng
Vượt sinh, lão, bệnh, tử
Hết thảy khổ chúng sinh
Do tham, ganh, sân, mạn
Nên tạo mọi nghiệp dữ
Đã tạo các nghiệp dữ
Luân chuyển mãi nẻo ác
Ta nên cầu Phật đạo
Độ hết chúng sinh ấy
Ly Ưu, em cũng nên
Phát tâm vô thượng đó
Chư Phật thật khó gặp
Như hoa Ưu-đàm-bát.

Bấy giờ Ly Ưu dùng kệ đáp lại:

Lời nói không chốn thành
Đời nói nhiều chẳng làm
Ta chẳng dùng ngôn thuyết
Chỉ tâm hành Bồ-đề
Đời nói nhiều về Phật
Chẳng thể làm như lời
Người ấy đều hư ngôn
Quả báo rốt chẳng thật
Nếu chỉ dùng lời nói
Mà đạt được Phật đạo
Hết thảy kẻ ngôn thuyết
Đều đã được làm Phật!

Vô Ưu lại nói bài kệ:

Nếu phát tâm như em
Đó chính là xan, tham
Do sợ người xin, cầu
Phát tâm mà không nói
Đại nhân mong chúng sinh
Tài, pháp thí các phần
Hết thảy không luyến tiếc
Chỉ dốc đạt Bồ-đề
Nếu phát tâm như thế
Đó là kẻ biếng trễ
Sợ làm chẳng như nói
Ấy chính điều đáng thẹn
Em ngờ đạo Vô thượng
Riêng thành, vô lượng khó
Tâm do dự như vậy
Nên chẳng dám nêu bày.

Bấy giờ Ly Ưu nghe xong bài kệ, liền nói:

–Chúng ta nên cùng đến hỏi Đức Như Lai An Vương. Chúng ta phát tâm như thế thì ai là người đúng? Nếu được Phật chỉ dạy thì mình sẽ biết rõ thôi.

Nói xong, Ly Ưu liền theo cái thang mà đi lần xuống dưới thấp. Nhằm để cúng dường, nên Ly Ưu đã đem theo chiếc guốc bằng ngọc báu cùng với tấm áo choàng rất quý, giá trị một ức, đi đến chỗ Phật. Trong lúc đó, Vô Ưu liền từ nơi sân thượng của cung điện tự nhảy ào xuống, thân thể không hề gì, vẫn đứng yên ổn, rồi đi đến chỗ Phật, cởi chiếc áo choàng quý giá cùng gỡ viên ngọc minh châu nơi búi tóc mình, cung kính dâng lên Đức Phật An Vương. Đức Phật cảm động thọ nhận. Sau đấy Ly Ưu đến chỗ Phật, trông thấy Vô Ưu hiện đang đứng một bên Đức Thế Tôn, liền hỏi Vô Ưu:

–Anh đã theo ngã nào mà đến vậy?

Vô Ưu đáp:

–Ta ở nơi sân thượng ấy tự nhảy ào xuống đất, thân không hề thương tổn gì cả và yên ổn đi đến đây.

Ly Ưu liền đem tấm áo choàng quý giá cùng với chiếc guốc bằng ngọc Ma-ni cung kính dâng lên Đức Phật An Vương và đọc bài kệ:

Con được thấy Thế Tôn
Mà từng đi trái đường
Nay xin tu chánh đạo
Chư Phật luôn khen ngợi.

Lúc này Vô Ưu lại đọc bài kệ:

Nếu người tiếc thân mạng
Như em đến cầu đạo
Người ấy vì tự lợi
Chẳng thể ích chúng sinh
Con chẳng tiếc thân mạng
Nguyện nhận chịu mọi khổ
Vì lợi ích chúng sinh
Vượt bao thứ khổ não
Thấy Phật tức là đạo
Chẳng nên cầu gì khác.
Phàm phu theo chánh đạo
Thật rơi trong nẻo tà
Chúng sinh nơi tà đạo
Thấy đó là chánh, tà
Tham đắm tức ma buộc
Nên xa lìa nẻo đời
Con nguyện luôn gặp Phật
Thường nguyện được xuất gia
Luôn dốc tu phạm hạnh
Đời đời độ chúng sinh
Thường an trụ pháp lành
Luôn giữ kho pháp Phật
Đem chỗ giữ pháp ấy
Vì lợi ích chúng sinh
Luôn khởi hạnh tinh tấn
Nghe pháp liền rõ nghĩa
Thường trụ nơi thiền định
Nên công đức tôn quý.

Này Bồ-tát A-dật-đa! Hai vị vương tử ấy nói xong kệ liền ở nơi chỗ Đức Phật An Vương xuất gia tu đạo. Mỗi người cùng cho rằng: “Ta sẽ làm

Phật trước!”

Bấy giờ Tỳ-kheo Vô Ưu nói với Ly Ưu rằng:

–Ông sẽ làm những công việc gì để mong được làm Phật trước?

Ly Ưu đáp:

–Tôi phát tâm là vì mỗi mỗi chúng sinh, cho dù ở nơi vạn ức kiếp thọ nhận bao nỗi khổ trong cõi địa ngục mà tâm không hề hối tiếc, cho đến khi đạt được quả vị Vô thượng Bồ-đề, tôi vẫn lấy sự kiên cố đó để trang nghiêm. Lại luôn thể hiện tâm nhu hòa, nhẫn chịu. Giả sử có người từ phương Đông lại, mang một bình chứa đầy chất độc cùng phân nóng, nước tiểu dơ dáy, hắt mạnh lên đầu tôi, lúc này tôi chẳng hề giận dữ, không lấy con mắt ghét bỏ để nhìn kẻ ấy, mà cũng không buông lời mắng nhiếc. Chỉ suy nghĩ rằng: “Ta nay thực sự nhẫn là nhằm để cầu pháp Phật, tạo được trí tuệ của Phật, nhằm khiến cho người ấy đạt được giải thoát. Nếu ta giận dữ thì cùng với người ấy có khác gì? Ta là người thực hành đạo, người ấy chẳng phải là kẻ thực hành đạo. Ta chẳng nên tạo nghiệp của kẻ chẳng hành đạo. Nghiệp của kẻ thực hành đạo là chỗ ta nên phát khởi. Đó được gọi là tự mình dứt giận dữ, cũng là dứt sự giận dữ của vô lượng chúng sinh mà vì họ nên thuyết pháp, cho rằng mình đã đạt được quả vị Vô thượng Bồ-đề, cho nên đã có sự trang nghiêm như thế.”

Bấy giờ Vô Ưu hỏi Ly Ưu rằng:

–Ông nhận thấy cái tâm ấy và lấy sự nhận biết về tâm ấy mà tạo nên sự trang nghiêm chăng?

Ly Ưu đáp:

–Nếu không có tâm ấy thì cũng không có sự trang nghiêm. Nếu không có sự trang nghiêm thì làm sao có được việc Bồ-tát tu tập đạo pháp? Vì vậy nên biết rằng, tâm ấy là có và nhờ đó mà Bồtát tu đạo vượt qua thế gian.

Tỳ-kheo Vô Ưu nói với Ly Ưu:

–Chớ nên nói như vậy, cho rằng có tâm ấy và do đó mà có sự trang nghiêm. Vì sao? Vì tâm là không, là huyễn, niệm niệm sinh diệt nối tiếp nhau. Nếu là không, như huyễn, niệm niệm sinh diệt thì pháp là vô tướng mà cũng không vô tướng. Này Ly Ưu! Nếu cho là có, là không thì đều gọi là kiến chấp. Nếu đã có kiến chấp ấy thì đều là tà kiến. Nếu là tà kiến thì đó là tà đạo, không phải là Bồđề. Và người ấy đã xa lìa con đường đi tới Bồ-đề, không còn chỗ hy vọng gặp được Bồ-đề. Vì vậy nên biết, các pháp hữu vô đều là hý luận. Pháp hý luận ấy, Bồ-tát chẳng nên gần gũi tu tập. Vậy pháp nào là chỗ Bồ-tát nên gần gũi tu tập? Không có pháp nào là chỗ Bồ-tát nên gần gũi tu tập cả. Vì sao? Vì nếu pháp có thể tu tập thì đó là phi pháp. Do vậy mà Bồ-tát đối với tất cả các pháp chẳng nên mong cầu, tham đắm. Vì sao? Vì đó là pháp Vô thượng Bồ-đề, chẳng phải là pháp tham đắm. Nếu Bồ-tát đạt được sự hiểu biết như vậy thì cũng là phi pháp rồi! Vì sao? Vì chẳng được tướng hiểu biết, đó mới là Bồ-đề. Lại nếu Bồ-đề nhận biết như thế, quán tưởng như thế thì cũng rơi vào phi pháp. Vì sao? Vì không có tướng giải thoát, đó mới là Bồđề. Nếu như Bồ-tát tu tập như vậy, cho rằng ta đối với pháp ấy sẽ chứng đắc như thế, tức cũng rơi vào phi pháp. Vì sao? Vì không tánh, không thuyết, đó mới là Bồ-đề.

Bấy giờ Ly Ưu nói với Vô Ưu:

–Nếu Bồ-đề là có, ông sẽ nói có, không nên nói không. Thế thì ông dùng cái gì trong việc thực hiện, diễn đạt về quả vị Vô thượng Bồ-đề, bởi vì thảy đều không ngôn thuyết?

Vô Ưu đáp:

–Ông nên khéo nhận thức. Bồ-đề chính là pháp chẳng phải hý luận. Ông chớ nên hý luận là hoặc có hoặc không. Vì sao? Vì mọi sự hý luận đều chẳng phải là Bồ-đề. Nếu dứt hý luận thì tức là Bồđề.

Ly Ưu nói:

–Lại chuyện khéo nhận thức! Tôi đối với những điều ông trình bày chưa thông tỏ được ý nghĩa, như cho rằng mọi hý luận đều là chẳng phải Bồ-đề, pháp không hý luận thì đó là Bồ-đề.

Vô Ưu đáp:

–Ông phải khéo nhận thức! Có thể cùng đến chỗ Phật xin quyết đoán về chỗ nghi vấn.

Khi ấy hai vị Tỳ-kheo cùng đến chỗ Phật, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật rồi lui ra ngồi một bên. Tỳ-kheo Ly Ưu hướng về phía Đức Phật trình bày trước đầy đủ mọi chỗ hý luận.

Lúc này Đức Phật hướng về chỗ Tỳ-kheo Vô Ưu nói:

–Lành thay! Lành thay! Đã có thể ấn chứng được!

Đức Phật An Vương lại nói với Ly Ưu:

–Như Vô Ưu đã nói, cho rằng có hý luận thì đều chẳng phải là Bồ-đề, pháp không hý luận thì đó chính là Bồ-đề. Vì sao? Vì lìa mọi hý luận, đó chính là Bồ-đề. Thế nào gọi là lìa? Hết thảy hý luận đều là tịch diệt, thế thì sao gọi là hý luận? Sắc ấm là hý luận, các ấm thọ, tưởng, hành, thức là hý luận. Giới, định, tuệ là hý luận. Ít ham muốn, biết đủ, khổ hạnh Đầu-đà, xem thường sự đầy đủ, dễ sống, thích nơi chốn tịch tĩnh vắng lặng… thảy đều là hý luận. Mọi thứ hý luận ấy từ chốn nào dấy khởi? Là đều từ sự nhớ tưởng phân biệt mà dấy khởi cả. Thế nào gọi là phân biệt? Đó là phân biệt về sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Phân biệt về giới, định, tuệ, ít ham muốn, biết đủ các thứ công đức… Nếu đã phân biệt sắc tức có chẳng phải sắc. Trong sự phân biệt ấy chính là không có giới, định, tuệ, ít ham muốn, biết đủ, hạnh Đầu-đà… Trong sự phân biệt đó cũng không có sắc–không. Lại như phân biệt thọ, tưởng, hành, thức tức là chẳng phải nhận thức. Trong sự phân biệt ấy chính là không có giới, định, tuệ, ít ham muốn, biết đủ, hạnh Đầu-đà… Trong sự phân biệt đó cũng không có thức–không. Có thể nhận biết như vậy thì tuệ cũng không. Trong cái không như vậy không có các tướng, hoặc một, hoặc khác. Đó là Bồ-đề.

Bấy giờ Tỳ-kheo Ly Ưu nghe Đức Phật nói về pháp ấy liền đạt được pháp Nhẫn vô sinh. Lại cũng được thông tỏ đó là tâm Bồ-đề. Do có được tâm ấy nên gọi là Bồ-tát.

Lúc này, hai vị Bồ-tát xem các pháp như vậy đều tin tưởng, thông hiểu, tùy thuận. Trong tám vạn năm luôn siêng năng tinh tấn, đi kinh hành không dừng nghỉ, chưa từng ngủ nghỉ. Trong tám vạn năm ấy không hề dấy tâm tham dục, giận dữ, si mê. Hai vị Bồ-tát ấy vào lúc mạng chung liền sinh nơi phương dưới thuộc thế giới thứ một ngàn, chỗ Đức Phật Diệu Kiên và cả hai đều cùng xuất gia tu học, tự nhận biết về thân mạng đời trước nên luôn tinh tấn như thời ấy. Như vậy cứ lần lượt từ một cõi Phật này đến một cõi Phật khác, đã được gặp sáu trăm tám ngàn vạn ức chư Phật Thế Tôn. Ở nơi các pháp của chư Phật luôn được xuất gia tu học, tinh tấn như trước. Về sau này Bồ-tát Vô Ưu chứng đắc quả vị Phật trước, hiệu là Thượng Chúng Nghiêm. Còn Bồ-tát Ly Ưu ở cõi Phật khác, về sau được quả vị Phật, hiệu là Nhật Thượng Chúng.

Đức Phật bảo Bồ-tát Di-lặc:

–Chánh pháp của hai vị Phật ấy đã được thuyết giảng rộng khắp, truyền bá mọi chốn, thọ mạng của hai vị là vô lượng a-tăng-kỳ kiếp.

Này Bồ-tát A-dật-đa! Đó chính là tâm của Đại Bồ-tát, không lại không đi, không chốn tham đắm vướng mắc, không sinh không diệt, không trụ không động. Nếu có chúng sinh dấy khởi tâm ấy thì đấy là điều ít có.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ thêm ý nghĩa vừa nêu nên nói bài kệ rằng:

Đèn Phật hiện ở đời
Vạn ức kiếp khó gặp
Như hoa Ưu-đàm-bát
Thường thường một lần hiện
Quyết phát tâm Bồ-đề
Người hành đúng Phật đạo
Đại Bồ-tát như vậy
Thế gian cũng khó gặp
Vì thế nếu có người
Nên phát tâm lớn ấy
Người đó sẽ làm Phật
Nêu tiếng rống Sư tử
Sư tử rống tự tại
Làm chuyển bánh xe pháp
Thần thông Phật vô ngại
Đều ở sơ phát tâm
Ba mươi hai tướng Phật
Mười tám pháp bất cộng
Pháp ấy cùng các tướng
Đều ở sơ phát tâm
Hành Bất hư chư Phật
Pháp Hồi quán Tượng vương
Cùng tướng Vô kiến đỉnh
Đều từ sơ phát tâm
Bố thí, trì giới, nhẫn,
Tinh tấn, thiền, trí tuệ
Pháp Ba-la-mật ấy
Đều từ sơ phát tâm
Mọi công đức như vậy
Cùng những pháp Phật khác
Nên biết hết thảy đó
Đều ở sơ phát tâm
Giới định tuệ Thanh văn
Cùng mọi lực thần thông
Thảy các pháp như thế
Cũng từ sơ phát tâm
Nếu ta gốc chẳng phát
Tâm Bồ-đề vô thượng
Nay ắt chẳng thể được
Hết thảy trí tuệ Phật
Cũng chẳng thể tự đạt
Huống chi khiến muôn loài
Chúng đệ tử Thanh văn
Cũng chẳng hiện ở đời
Nếu thực hành nhân duyên
Chứng đạo Bích-chi-phật
Vì đời làm phước điền
Nhập Niết-bàn vô dư
Mọi thứ công đức ấy
Cũng từ sơ phát tâm
Thế gian, xuất thế gian
Hết thảy mọi vui thích
Nên rõ những việc đó
Đều từ tâm Bồ-đề.
Các vị xem tâm ấy
Phước báo chỗ đạt được
Vô lượng vô số kiếp
Chẳng thể hết giới mức.
Các vị xem tâm ấy
Niệm niệm luôn sinh diệt
Như ảo, không thực có
Mà được phước báo lớn
Tâm ấy thuộc các duyên
Không một tướng quyết định
Tâm bất định như thế
Nên được phước báo lớn.
Tâm ấy chẳng ở duyên
Cũng chẳng lìa mọi duyên
Phi hữu cũng phi vô
Mà tạo nên quả lớn
Bậc trí rõ tâm ấy
Phát sinh trí tuệ Phật
Ai sẽ chẳng quý trọng
Chỉ trừ kẻ tham đắm.
Nếu người nương cậy sắc
Nương thọ, tưởng, hành, thức
Nơi pháp tạo nhị tướng
Dùng hư dối tự buộc
Như người tại hư không
Tự cho mình bị trói
Do người ấy tự buộc
Luôn vướng mắc quả báo
Vì thế rõ tâm tánh
Hư dối không thực có
Chẳng nên sinh kiến nghi
Tướng tâm ấy chẳng định
Tâm ấy cùng các duyên
Đều không, không tự tánh
Nếu người rõ như thế
Bồ-đề trọn chẳng thoái.
Nếu tánh pháp tự không
Pháp ấy tức vô sinh
Hết thảy pháp vô sinh
Đó chính loại chân trí.
Nếu người tỏ như vậy
Ta thọ ký Bồ-đề
Chẳng dùng ấm lìa ấm
Mà được nhận thọ ký
Nếu rõ pháp vô tướng
Cũng không giữ tuệ ấy
Kẻ chánh trí như thế
Đó là chân phát tâm.
Được tâm bền chắc đó
Người ấy có thể nhẫn
Mọi lời ác, hủy nhục
Dạo gậy, mọi thứ khổ
Nếu người đạt nhẫn ấy
Ắt không tâm tham giận
Tự được lợi, dứt mạn
Cũng chẳng ganh kẻ khác
Nhẫn ấy đã kiến lập
Dứt hai nẻo hữu vô
Người đó ở thế gian
Tạo được trí bất hoại
Do vậy nên tu tập
Pháp nhẫn không, vô tánh
Ta vốn từng tu tập
Nên thành tựu Bồ-đề.

Phẩm 13: Trung thuyết

Bấy giờ về phương Đông, trải qua sáu vạn tám ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Thượng ý, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Không Tánh. Hiện tại Đức Phật Không Tánh ấy đã thọ ký đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho Đại Bồ-tát Nguyệt. Lúc này Bồ-tát Nguyệt nhìn thấy ánh sáng tỏa chiếu cùng nghe âm thanh lớn vang động, liền hỏi Đức Phật Không Tánh:

–Ánh sáng và âm thanh kia là do vị Phật nào tạo ra vậy?

Đức Phật Không Tánh đáp:

–Về phương Tây, cách xa cõi này, trải qua sáu vạn tám ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Tabà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang giảng về Tạng kinh Bồ-tát. Đó là vị Phật đã tạo ra ánh sáng và âm thanh kia.

Bấy giờ Bồ-tát Nguyệt thưa với Đức Phật Không Tánh rằng:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy, ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường cùng được gặp các vị Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm ở thế giới đó.

Đức Phật Không Tánh nói:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi đến, xin cứ tùy ý! Bồ-tát Nguyệt liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, đi vòng quanh Đức Phật xong, sắp sửa lui ra, Đức Phật Không Tánh bèn cầm đóa sen trắng trao cho Bồ-tát Nguyệt và nói:

–Bồ-tát hãy mang cành hoa này dâng cho Đức Phật Thích-ca Văn và thưa rằng: Ta có lời vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn có được ít phiền, ít bệnh, mọi sinh hoạt đều được thư thái, khí lực khang kiện chăng?

Bấy giờ Bồ-tát Nguyệt chỉ trong khoảnh khắc chớp mắt hốt nhiên biến mất khỏi cõi Phật ấy và hiện ra ở thế giới Ta-bà, tới nơi vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật rồi lui ra đứng một bên, thưa với Đức Phật Thích-ca Văn:

–Kính bạch Thế Tôn! Như Lai Không Tánh gởi lời vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn có được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt đều thuận lợi, du hóa an ổn chăng? Lại gởi đóa hoa sen này kính trao Đức Thế Tôn.

Đức Phật Thích-ca Văn nhận lấy hoa và hỏi Bồ-tát Nguyệt:

–Này bậc Thiện nam! Đức Phật Không Tánh có được ít bệnh, ít phiền, khí lực an khang chăng?

Bồ-tát Nguyệt thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Như Lai Không Tánh ở nơi thế giới ấy luôn được an ổn vô sự.

Về phương Đông, cách xa cõi này trải qua bốn vạn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Diệu đà-la-ni, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Danh Văn Lực Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Lưu Bố thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ, vị Đại Bồtát ấy nhìn thấy ánh sáng tỏa chiếu cùng nghe âm thanh lớn vang động, liền hỏi Đức Phật Danh Văn Lực Vương:

–Kính bạch Thế Tôn! Hiện nay ánh sáng và âm thanh lớn ấy là do ai tạo ra vậy?

Đức Phật Danh Văn Lực Vương đáp:

–Về phương Tây, cách xa cõi này trải qua bốn vạn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Ta-bà, Đức Phật ở thế giới đó hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì các vị Bồ-tát mà thuyết giảng về tạng kinh Bồ-tát nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến cho mọi loài đều hoan hỷ. Đó là vị Phật đã tạo ra ánh sáng cùng âm thanh kia.

Bồ-tát Trí Lưu Bố nghe xong liền thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường, cùng được gặp các vị Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm ở thế giới đó.

Đức Phật Danh Văn Lực Vương nói:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi tới thế giới ấy, xin cứ tùy ý.

Bấy giờ, Bồ-tát Trí Lưu Bố được Đức Phật chấp thuận, liền cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, đi vòng quanh chỗ Phật ngồi và sắp lui ra. Đức Phật Danh Văn Lực Vương liền lấy một túi Xích-mạt Chiên-đàn hương trao cho Bồ-tát Trí Lưu Bố và nói:

–Bồ-tát hãy mang gói hương Chiên-đàn này kính trao Đức Phật Thích-ca Văn cùng thưa rằng: Ta có lời vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn có được ít phiền, ít bệnh, mọi sinh hoạt đều thuận lợi, khí lực có được an khang chăng?

Bồ-tát Trí Lưu Bố chỉ trong khoảnh khắc như sự co giãn cánh tay của vị đại lực sĩ, hốt nhiên biết khỏi cõi Phật ấy và hiện ra ở thế giới Ta-bà, đi đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn rồi lui ra đứng một bên, thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Phật Danh Văn Lực Vương kính lời vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn có được ít phiền, ít bệnh, mọi sinh hoạt đều thuận lợi, việc du hóa an ổn chăng? Lại xin gởi gói hương bột Chiên-đàn này kính trao Đức Thế Tôn.

Đức Phật nhận lấy gói hương xong liền hỏi Bồtát Trí Lưu Bố:

–Đức Phật Danh Văn Lực Vương có được ít phiền, ít bệnh, khí lực luôn an khang chăng?

Bồ-tát Trí Lưu Bố thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Phật Thế Tôn Danh Văn Lực Vương ở thế giới ấy đều được an ổn vô sự.

Về phương Đông, cách xa cõi này trải qua ba vạn chín ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Nguyệt xuất quang, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phóng quang, hiện nay đang vì Đại Bồ-tát Minh Luân thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ, Bồ-tát Minh Luân nhìn thấy ánh sáng lớn tỏa chiếu và tiếng cười nói, liền hỏi Đức Phật Phóng Quang:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng tỏa chiếu và âm thanh vang lên ấy là do Đức Phật nào tạo ra vậy?

Đức Phật đáp:

–Về phương Tây, cách xa cõi này, vượt qua ba vạn chín ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Tabà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì các vị Bồ-tát thuyết giảng tạng kinh Bồ-tát nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Đó chính là vị Phật đã tạo ra ánh sáng và âm thanh kia.

Bồ-tát Minh Luân nghe nói xong liền thưa với Đức Phật Phóng Quang:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường, cùng được gặp các vị Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm ở thế giới đó.

Đức Phật Phóng Quang đáp:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi đến thế giới đó, hãy xin tùy ý.

Bấy giờ Bồ-tát Minh Luân đã được Đức Phật Phóng Quang chấp thuận, liền cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, đi vòng quanh chỗ Phật ngồi, xong sắp sửa lui ra, Đức Phật Phóng Quang bèn lấy một đóa hoa sen lớn trao cho Bồ-tát Minh Luân và nói rằng:

–Bồ-tát hãy mang đóa hoa sen này kính trao cho Đức Phật Thích-ca Văn cùng thưa rằng: Ta xin gởi lời thăm hỏi vấn an Đức Thế Tôn có được ít phiền, ít bệnh, mọi sinh hoạt đều thuận lợi, mọi nẻo đi đứng luôn được an ổn chăng?

Bồ-tát Minh Luân lúc này chỉ trong khoảnh khắc, như sự co giãn cánh tay của vị đại lực sĩ, hốt nhiên biến khỏi cõi Phật ấy, đi đến thế giới Ta-bà, đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn rồi lui ra đứng một bên, thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Như Lai Phóng Quang gửi lời vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn có được ít phiền, ít bệnh, khí lực luôn được an ổn chăng? Lại xin gởi đóa hoa sen này kính trao cho Đức Thế Tôn.

Đức Phật nhận lấy hoa xong liền hỏi Bồ-tát Minh Luân:

–Đức Như Lai Phóng Quang mọi sinh hoạt đi đứng luôn được an khang chăng?

Bồ-tát Minh Luân đáp:

–Như Lai Phóng Quang ở thế giới ấy luôn được an ổn, vô sự.

Về phương Đông, cách xa cõi này, vượt qua ba vạn tám ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Casa tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Ly Cấu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Biên Bảo Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ Bồ-tát Vô Biên Bảo Nghiêm trông thấy ánh sáng tỏa chiếu và nghe tiếng cười nói, liền hỏi Đức Phật Ly Cấu:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng và âm thanh ấy là do Đức Phật nào tạo ra vậy?

Đức Phật Ly Cấu nói:

–Về phương Tây, cách xa cõi này, trải qua ba vạn tám ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Tabà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì các vị Bồ-tát thuyết giảng tạng kinh Bồ-tát nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Đó là vị Phật đã tạo ra ánh sáng và âm thanh kia.

Lúc này Bồ-tát Vô Biên Bảo Nghiêm thưa với Đức Phật Ly Cấu:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường, cùng được gặp các vị Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm ở cõi ấy.

Đức Phật Ly Cấu nói:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi đến thế giới đó, xin hãy tùy ý.

Tức thời, Đức Phật Ly Cấu lấy một tấm ca-sa trao cho Bồ-tát Vô Biên Bảo Nghiêm và nói:

–Bồ-tát hãy đem tấm y này kính trao cho Đức Phật Thích-ca Văn cùng thưa rằng: Ta xin gởi lời thăm hỏi vấn an Đức Thế Tôn có được ít phiền, ít bệnh, mọi sinh hoạt đều thuận lợi, an ổn chăng?

Bấy giờ Bồ-tát Vô Biên Bảo Nghiêm chỉ trong khoảnh khắc như sự co giãn cánh tay của vị đại lực sĩ, hốt nhiên biến khỏi cõi Phật ấy, đi đến thế giới Ta-bà, đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn rồi lui ra đứng một bên, thưa với Đức Phật rằng:

–Như Lai Ly Cấu xin gởi lời vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn có được ít phiền, ít bệnh, khí lực luôn được an khang chăng? Lại gởi tấm ca-sa này kính trao Đức Thế Tôn.

Đức Phật Thích-ca Văn nhận lấy y và hỏi Bồtát Vô Biên Bảo Nghiêm:

–Đức Như Lai Ly Cấu ở thế giới ấy mọi sinh hoạt đi đứng có được an ổn chăng?

Bồ-tát Vô Biên Bảo Nghiêm thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Phật Ly Cấu ở thế giới đó luôn được an ổn vô sự.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua ba vạn bảy ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Liên hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tạp Hoa Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Lượng Tinh Tấn thọ ký đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bấy giờ Bồ-tát Vô Lượng Tinh Tấn nhìn thấy ánh sáng lớn tỏa chiếu cùng nghe tiếng cười nói, liền hỏi Đức Phật Tạp Hoa Sinh Đức:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng và âm thanh ấy là do Đức Phật nào tạo ra vậy?

Đức Phật Tạp Hoa Sinh Đức đáp:

–Về phương Tây, cách xa cõi này, trải qua ba vạn bảy ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Tabà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì các vị Bồ-tát thuyết giảng tạng kinh Bồ-tát nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Đó là vị Phật đã tạo ra ánh sáng và âm thanh kia.

Bồ-tát Vô Lượng Tinh Tấn thưa với Đức Phật Tạp Hoa Sinh Đức:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường, cùng được gặp các vị Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm ở cõi ấy.

Đức Phật nói:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi đến thế giới ấy, xin cứ tùy ý.

Đức Phật Tạp Hoa Sinh Đức bèn lấy một đóa hoa sen lớn trao cho Bồ-tát Vô Lượng Tinh Tấn và nói:

–Bồ-tát hãy đem đóa hoa này kính trao cho Đức Phật Thích-ca Văn cùng thưa là: Ta xin gởi lời vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn có được ít phiền, ít bệnh, mọi sinh hoạt đều thuận lợi, an ổn chăng?

Bấy giờ Bồ-tát Vô Lượng Tinh Tấn chỉ trong khoảnh khắc như sự co giãn cánh tay của vị đại lực sĩ, hốt nhiên biến khỏi cõi Phật ấy, đi đến thế giới Ta-bà, đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn rồi lui ra đứng một bên, thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Phật Tạp Hoa Sinh Đức gởi lời vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn có được ít phiền, ít bệnh, khí lực an ổn chăng? Lại gởi đóa hoa sen này kính trao Đức Thế Tôn.

Đức Phật nhận lấy hoa xong liền hỏi Bồ-tát Vô Lượng Tinh Tấn:

–Đức Như Lai Tạp Hoa Sinh Đức ở tại thế giới ấy mọi sinh hoạt có luôn được an khang chăng?

Bồ-tát Vô Lượng Tinh Tấn thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Như Lai Tạp Hóa Sinh Đức ở thế giới ấy luôn được bình yên vô sự.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua ba vạn bảy ngàn a-tăng-kỳ cõi có thế giới tên là Nhất cái, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Ly Bố Úy, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Võng Minh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Bấy giờ Bồ-tát Võng Minh nhìn thấy ánh sáng lớn tỏa chiếu cùng nghe tiếng cười nói vang vang, liền hỏi Đức Phật Ly Bố Úy:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng và âm thanh ấy là do Đức Phật nào tạo ra vậy?

Đức Phật đáp:

–Về phương Tây, cách xa cõi này, trải qua ba vạn bảy ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Tabà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì các vị Bồ-tát thuyết giảng tạng kinh Bồ-tát nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Đó là vị Phật đã tạo ra ánh sáng và âm thanh kia.

Bồ-tát Võng Minh thưa với Đức Phật Ly Bố Úy:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường, cùng được gặp các vị Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm ở thế giới đó.

Đức Phật Ly Bố Úy nói:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi đến thế giới đó, xin hãy tùy ý.

Nói xong, Đức Như Lai Ly Bố Úy liền lấy một trăm cành đủ loại hoa có năm sắc màu trao cho Bồtát Võng Minh và nói:

–Bồ-tát hãy mang những hoa này kính trao cho Đức Phật Thích-ca Văn cùng thưa rằng: Ta xin gởi lời thăm hỏi vấn an Đức Thế Tôn có được ít phiền, ít bệnh, mọi sinh hoạt đều thuận lợi, an ổn chăng?

Lúc này Bồ-tát Võng Minh chỉ trong khoảnh khắc chớp mắt, hốt nhiên biến khỏi cõi Phật này, hiện ra ở thế giới Ta-bà, đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn rồi lui ra đứng một bên, thưa với Đức Phật:

–Phật Ly Bố Úy xin gởi lời vấn an thăm hỏi

Đức Thế Tôn có được ít phiền, ít bệnh, khí lực luôn được khang kiện chăng? Lại gởi những cành hoa này xin kính trao Đức Thế Tôn.

Đức Phật Thích-ca Văn nhận lấy hoa xong, liền hỏi Bồ-tát Võng Minh:

–Đức Như Lai Ly Bố Úy ở thế giới ấy có luôn được an khang trong mọi sinh hoạt chăng?

Bồ-tát Võng Minh đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Đức Như Lai Ly Bố Úy ở thế giới đó luôn được bình yên vô sự.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua ba vạn sáu ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Thượng thanh tịnh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Tụ, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Lực thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ Bồ-tát Trí Lực trông thấy ánh sáng tỏa chiếu khắp cùng nghe âm thanh lớn vang động, liền hỏi Đức Phật Trí Tụ:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng và âm thanh ấy là do Đức Phật nào tạo ra vậy?

Đức Phật nói:

–Về phương Tây, cách xa cõi này, trải qua ba vạn sáu ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Tabà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì các vị Bồ-tát thuyết giảng tạng kinh Bồ-tát nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Đó là vị Phật đã tạo ra ánh sáng và âm thanh kia.

Bồ-tát Trí Lực liền thưa với Đức Phật Trí Tụ:–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường, cùng được gặp các vị Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm ở cõi ấy.

Đức Phật Trí Tụ nói:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi đến thế giới đó, xin hãy tùy ý.

Thế rồi Đức Phật trí Tụ liền lấy những đóa hoa sen trao cho Bồ-tát Trí Lực và nói:

–Bồ-tát hãy mang những hoa này kính trao cho Đức Phật Thích-ca Văn cùng thưa rằng: Ta xin gởi lời vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn có được ít bệnh, ít phiền, khí lực luôn được an khang thư thái chăng?

Bấy giờ Bồ-tát Trí Lực cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, đi vòng quanh chỗ Phật rồi lui ra. Mọi sự việc còn lại giống như đã trình bày ở trên.

Về phương Đông, cách xa cõi này trải qua ba vạn năm ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Hương tụ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Chiênđàn Hương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Ly Cấu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ, Bồ-tát Ly Cấu trông thấy ánh sáng lớn tỏa chiếu cùng nghe tiếng cười nói vang vang, liền hỏi Đức Phật Chiênđàn Hương:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng và âm thanh ấy là do Đức Phật nào tạo ra vậy?

Đức Phật đáp:

–Về phương Tây, cách xa cõi này, trải qua ba vạn năm ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Tabà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì các vị Bồ-tát thuyết giảng tạng kinh Bồ-tát.

Bồ-tát Ly Cấu liền thưa với Đức Phật Chiênđàn Hương:

–Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường, cùng được gặp các vị Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm ở cõi ấy.

Đức Phật Chiên-đàn Hương nói:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi đến thế giới đó, xin hãy tùy ý.

Nói xong, Đức Phật liền lấy một túi bột hương Chiên-đàn trao cho Bồ-tát Ly Cấu và nói:

–Bồ-tát hãy mang gói hương này kính trao cho Đức Phật Thích-ca Văn.

Lúc này Bồ-tát Ly Cấu cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, đi vòng quanh chỗ Phật ngồi rồi lui. Các sự việc còn lại giống như đã trình bày ở trên.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua ba vạn năm ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Akiệt lưu hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Đại

Thanh Nhãn, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Lợi Thế thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ Bồ-tát Lợi Thế trông thấy ánh sáng tỏa chiếu khắp, cùng nghe âm thanh lớn vang động, liền hỏi Đức Phật Đại Thanh Nhãn:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng và âm thanh ấy là do Đức Phật nào tạo ra vậy?

Đức Phật nói:

–Về phương Tây, cách xa cõi này, trải qua ba vạn năm ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Tabà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì các vị Bồ-tát thuyết giảng tạng kinh Bồ-tát nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Đó là vị Phật đã tạo ra ánh sáng và âm thanh ấy.

Bồ-tát Lợi Thế thưa với Đức Phật Đại Thanh Nhãn:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường, cùng được gặp các vị Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm ở thế giới đó.

Đức Phật Đại Thanh Nhãn nói:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi đến thế giới đó, xin hãy tùy ý.

Thế rồi Đức Phật liền lấy một đóa hoa sen cao to trao cho Bồ-tát Lợi Thế và nói:

–Bồ-tát hãy mang đóa hoa sen này kính trao cho Đức Phật Thích-ca Văn cùng thưa rằng: Ta xin gởi lời vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn có được ít bệnh, ít phiền, khí lực luôn được khang cường chăng?

Lúc này Bồ-tát Lợi Thế cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, đi vòng quang chỗ Phật ngồi, xong rồi lui ra. Mọi sự việc còn lại giống như đã nêu ở trên.

Về phương Đông, cách xa cõi này vượt qua ba vạn bốn ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Vô biên tụ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Tích, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trọng Trí thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ Bồ-tát Trọng Trí nhìn ánh sáng tỏa chiếu khắp cùng nghe âm thanh lớn vang động, liền hỏi Đức Phật Bảo Tích:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng và âm thanh kia là do Đức Phật nào tạo ra vậy?

Đức Phật Bảo Tích đáp:

–Về phương Tây, cách xa cõi này, trải qua ba vạn bốn ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Tabà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì các vị Bồ-tát thuyết giảng tạng kinh Bồ-tát nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Đó là vị Phật đã tạo ra ánh sáng và âm thanh kia.

Bồ-tát Trọng Trí liền thưa với Đức Phật Bảo Tích:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường, cùng được gặp các vị Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm ở cõi ấy.

Đức Phật Bảo Tích nói:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi đến thế giới đó, xin hãy tùy ý.

Thế rồi Đức Phật Bảo Tích lấy một cành hoa sen có hoa với năm màu sắc trao cho Bồ-tát Trọng Trí và nói:

–Bồ-tát hãy mang hoa này kính trao cho Đức Phật Thích-ca Văn cùng thưa rằng: Ta xin có lời vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn có được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt đi đứng luôn được thư thái an ổn chăng?

Lúc này Bồ-tát Trọng Trí cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, đi vòng quanh chỗ Phật ngồi, xong rồi lui ra. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nói ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này trải qua ba vạn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Chúng hương, Đức Phật ở thế giới đó hiệu là Hương Tượng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Tượng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ Bồ-tát Bảo Tượng trông thấy ánh sáng tỏa chiếu khắp cùng nghe âm thanh lớn vang động, liền hỏi Đức Phật Hương Tượng:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng và âm thanh kia là do Đức Phật nào tạo ra vậy?

Đức Phật Hương Tượng đáp:

–Về phương Tây, cách xa cõi này, trải qua ba vạn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Ta-bà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang thuyết pháp ở đó. Đây chính là vị Phật đã tạo ra ánh sáng và âm thanh kia.

Mọi sự việc tiếp theo cũng như đã nêu ở trước.

Phẩm 14: Tổng tướng

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Quảng diệu, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Chúng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Chúng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua ba vạn hai ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Tạp tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Di Lâu Kiền, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tự Tại Lực thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua ba vạn hai ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là

Hoa cái, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Nhất Cái, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Nhất Bảo Tạng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua ba vạn hai ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Phổ minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Ngại Nhãn, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Tự Tại thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi chi tiếc còn lại giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua ba vạn một ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Thiện, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Chiên-đànquật, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trùng Trí thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua ba vạn một ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Thiện ý, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Diệu Kiên, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Ích Ý thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua ba vạn một ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Bảo đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Võng Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua ba vạn một ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Đức lạc, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Hoa Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Cao Hoa Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua ba vạn một ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Tán thán, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Hoa Bảo Minh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thượng Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua ba vạn một ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Chúng thiện, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thiện Xuất Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Quang thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua ba vạn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là An ẩn, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Diệt Chư Bố Úy, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Bố Úy thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua ba vạn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Di lâu tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Di Lâu Kiên, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Diệu Kiên thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, vượt qua hai vạn chín ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Độ nhất thiết ưu não, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là An Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phạm Âm Thanh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn chín ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Pháp, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Pháp Tích, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Tích thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn tám ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là An lập, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tăng Thập Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tăng Bách Quang thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn tám ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Thiên minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tăng Thiên Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phổ Minh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn tám ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Đa-già lâu hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Diệu Nhãn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn bảy ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Diệu hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Xuất Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Biên Minh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn bảy ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Minh nghiêm đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Dược Vương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn sáu ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Thượng thiện đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Ngại Âm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phạm Âm Thanh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn năm ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Pháp, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Võng Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tự Tại thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn năm ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Chúng hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Ý, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Hương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn bốn ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Thượng thanh tịnh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Trần, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Trần thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn bốn ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Ưu-bát-la, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Tự Tại, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đàm-vôkiệt thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn ba ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Giác ý xứ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Ưu-bátla Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hoa Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn ba ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Liên hoa xứ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Tụ, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Mãn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn hai ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Trí lực, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Mân Ni thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn hai ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Phương lưu bố, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Lưu Bố, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Biên Tinh Tấn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn một ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Vô biên, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Sa-la Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Sa-la thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Nguyệt, Đức

Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Sa-la, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phổ Thủ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Sa-ha, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Điều Ngự, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Điều Ngự thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Nhất cái, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Hành Liệt, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Liệt Túc thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua hai vạn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Ly nhất thiết ưu não, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bất Hư Xưng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bất Hư Danh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua một vạn chín ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Ly ưu, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Đức Sinh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Biên Uy Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua một vạn tám ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Tịch diệt, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Lưu Bố Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Dũng Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua một vạn bảy ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Bất hư kiến, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bất Hư Lực, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bất Hư Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua một vạn sáu ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Diệu hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hương Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Minh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua một vạn năm ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Phạm âm thanh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Ám Âm Thanh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Sai Biệt Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua một vạn năm ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Nguyệt quang, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Văn Lực, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đại Trí thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua một vạn năm ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Phổ minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tu-di Đảnh Cao Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Lực thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua một vạn năm ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Bảo nghiêm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đại Đạo Sư thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua một vạn bốn ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Pháp, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoa Thượng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đắc Lực thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua một vạn bốn ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Hoa trụ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Cao, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Danh Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua một vạn bốn ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Diệu đà-la-ni vương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hương Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đà-lani Tự Tại Vương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua một vạn ba ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Kim minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phương Lưu Bố Nghiêm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Lưu Bố Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua một vạn ba ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Cao trí, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phổ Thủ Tăng Thượng Vân Âm Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Túc Vương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước. Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua một vạn hai ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Thường minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đại Minh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua một vạn hai ngàn a-tăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Định quang, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Tuệ Thành, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đức Vương Minh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Về phương Đông, cách xa cõi này, trải qua một vạn một ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Nhiên đăng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Công Đức Trí Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Công Đức Vương Minh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Thế giới đó có vô lượng ao báu, trong các ao đều có hoa sen hàng ngàn cánh với đủ thứ đủ loại màu sắc: xanh, vàng, trắng, đỏ xen nhau. Những hoa ấy thảy đều to lớn, từ trong nước vươn cao lên, cao tới tám vạn bốn ngàn do-tuần. Nơi mỗi mỗi cánh hoa đều phát ra hàng ngàn luồng hào quang sáng tỏa chiếu khắp mười phương. Các đường ngõ trong ấy thảy đều ngay hàng thẳng lối. Vô số các thứ dây báu giăng mắc liên tiếp làm giới hạn bên đường đi. Trên các con đường, ngõ ấy đều có những hàng cây báu. Mỗi cây đều cao tới bảy ngàn do-tuần, cành lá sum suê, rộng lớn, có thể che phủ cả một vùng rộng tới tám vạn bốn ngàn dotuần. Nơi mỗi mỗi tàng cây ấy đều có đến tám mươi ức ngọc Ma-ni, dùng để làm quả, trái. Các thứ cây báu như vậy là vô số, vô lượng. Ánh sáng của những đóa hoa sen luôn tỏa chiếu khắp thế giới. Đức Phật Thích-ca Văn với ánh hào quang trong lành đã tạo nên sự ngăn che nên ánh sáng từ những đóa hoa sen kia không còn hiện ra. Bấy giờ Bồ-tát Công Đức Vương Minh nhìn thấy ánh hào quang lớn kia, liền hỏi Đức Phật Vô Biên Công Đức Trí Minh rằng:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh hào quang nào mà đang chiếu tỏa khắp cõi này vậy?

Đức Phật đáp:

–Về phương Tây, cách xa cõi này, trải qua một vạn một ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Tabà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì các vị Bồ-tát thuyết giảng tạng kinh Bồ-tát nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Đó là vị Phật đã tạo ra ánh hào quang kia.

Bồ-tát Công Đức Vương Minh thưa với Đức Phật Vô Biên Công Đức Trí Minh:

–Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường.

Đức Phật Vô Biên Công Đức Trí Minh nói:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi đến thế giới đó, xin hãy tùy ý.

Thế rồi Đức Phật Vô Biên Công Đức Trí Minh liền lấy một đóa hoa sen lớn trao cho Bồ-tát Công Đức Vương Minh và nói:

–Bồ-tát hãy đem đóa hoa này kính trao Đức Phật Thích-ca Văn cùng thưa rằng: Ta có lời vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn có được ít phiền, ít bệnh, mọi sinh hoạt đi đứng có luôn được thư thái, khang kiện chăng?

Lúc này Bồ-tát Công Đức Vương Minh chỉ trong khoảnh khắc như sự co giãn cánh tay của vị đại lực sĩ, hốt nhiên biến khỏi cõi Phật ấy, đi đến thế giới Ta-bà, đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn rồi lui ra đứng một bên, thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Đức Như Lai Vô Biên Công Đức Trí Minh gởi lời vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn có được ít phiền, ít bệnh, khí lực luôn được an khang chăng? Lại xin gởi đóa hoa sen này kính trao Đức Thế Tôn.

Đức Phật Thích-ca Văn nhận lấy hoa xong, liền hỏi Bồ-tát Công Đức Vương Minh:

–Đức Như Lai Vô Biên Công Đức Trí Minh ở thế giới ấy có được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt đi đứng luôn được khang kiện chăng?

Bồ-tát Công Đức Vương Minh đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Đức Như Lai Vô Biên Công Đức Trí Minh ở thế giới ấy luôn được bình yên vô sự.

Từ thế giới Nhiên đăng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tạp tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Chúng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Na-la-diên thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Tạp tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phương lưu bố, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phật Hoa Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bất Hư Lực thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phương lưu bố đến khoảng giữa này có thế giới tên là Kim cang trụ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phật Hoa Xuất Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Hỏa thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Kim cang đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chiên-đàn-quật, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Tượng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Quan Thế Âm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chiên-đàn-quật đến khoảng giữa này có thế giới tên là Dược, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bất Hư Xưng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bất Hư Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Dược đến khoảng giữa này có thế giới tên là Dược sinh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Công Đức Tinh Tấn Nghiêm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trì Giới thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Dược sinh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phổ trang nghiêm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phát Ý Tức Nghiêm Nhất Thiết Chúng Sinh Tâm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phật Hoa Thủ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phổ trang nghiêm đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nhất cái, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Cái Hành Liệt, hiện tại đang vì Đại Bồtát Bảo Hành Liệt thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nhất cái đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thượng hoa quang, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Minh Đức Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát An Lập thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thượng hoa quang đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu trang nghiêm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Đức Vương Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trụ Chư Công Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu trang nghiêm đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô biên đức trang nghiêm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Độ Công Đức Biên, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Biên Công Đức Xưng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô biên đức trang nghiêm đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thập phương lưu bố, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Nhiên Đăng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Chuyển Chư Hạnh Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thập Phương lưu bố đến khoảng giữa này có thế giới tên là Đăng hành liệt, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Nhiên Đăng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Tích thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Đăng hành liệt đến khoảng giữa này có thế giới tên là San hô nha, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tác Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đức Tích thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới San hô nha đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng thiện, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Úy, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Lạc thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng thiện đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng thiện, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Đức Vị, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đắc Vô Úy thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng thiện đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thượng thiện, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Úy, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Ly Bố Úy thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thượng thiện đến khoảng giữa này có thế giới tên là Liên hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoa Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Thủ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Liên hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ưu-bát-la, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Hoa Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Hành Hạnh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ưu-bát-la đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bảo sinh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Tích, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Pháp Tích thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bảo sinh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu nguyệt, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Nguyện, hiện tại đang vì Đại Bồtát Diễn Hoa thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu nguyệt đến khoảng giữa này có thế giới tên là An trụ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Công Đức Vương An Lập, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đàm-vô-kiệt thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới An trụ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Trụ lâm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Kiên Kim, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Dược Vương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Trụ lâm đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Sa-la Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Ích Ý thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hoa đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Viết Đắc thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hoa đức đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nhất tụ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Tụ, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hỏa Đắc thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nhất tụ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Quá chư ưu não, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Chúng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thượng Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Quá chư ưu não đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ly ưu, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Đức Nghiêm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thiện Tư Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ly ưu đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chư công đức xứ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Quan Thế Âm, hiện tại đang vì Đại Bồtát Phổ Thủ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chư công đức xứ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bảo minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tu-di Minh, hiện tại đang vì Đại Bồtát An Trụ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bảo minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nhất thiết công đức trang nghiêm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Tự Tại Lực, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Dược Thiện thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nhất thiết công đức trang nghiêm đến khoảng giữa này có thế giới tên là Giác ý trang nghiêm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Cực Cao Hạnh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thiện Tư Ích Ý thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Giác ý trang nghiêm đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô trần cấu, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Hoa Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Ích Ý Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô trần cấu đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vân ấm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Lượng Thần Thông Tự Tại, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đắc Niệm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vân ấm đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hoa võng phú, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tùy Chúng Nguyện Nghiêm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Ích Ý thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hoa võng phú đến khoảng giữa này có thế giới tên là Liệt Túc, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Cao Bảo Cái, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Ưu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Liệt Túc đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bảo hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Chúng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tự Tại thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bảo hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phổ hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Lượng Hoa, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hương Tượng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phổ hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Tự Tại, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Ly Ưu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tạp bảo tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Nguyệt Xuất Đức, hiện tại đang vì Đại Bồtát Chuyển Chư Nạn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Tạp bảo tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng quy, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Chuyển Bất Thoái Pháp Luân thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng quy đến khoảng giữa này có thế giới tên là Đa an, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thập Phương Lưu Bố, hiện tại đang vì Đại Bồtát Trí Lưu Bố thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Đa an đến khoảng giữa này có thế giới tên là Kim cang, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Câu Lăng Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Lợi Ích Hành thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Kim cang đến khoảng giữa này có thế giới tên là Dược, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Nhật Đăng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Nguyệt thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Dược đến khoảng giữa này có thế giới tên là An ẩn, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Bảo, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hỏa Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới An ẩn đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ta-bà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Sinh Lực, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ta-bà đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thuần lạc, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là An Lập Công Đức Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Ly Bố thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thuần lạc đến khoảng giữa này có thế giới tên là Liệt túc khai, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Ngại Nhãn, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Diệu Nhãn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Liệt túc khai đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu kim cang, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Úy, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thần Sơn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu kim cang đến khoảng giữa này, có thế giới tên là Nguyệt xuất, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Tụ, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Kiên Lực thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

QUYỂN 4

Phẩm 15: Thế giới thượng thanh tịnh

Từ thế giới Nguyệt xuất đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thượng thanh tịnh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Tướng Nghiêm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đa Tinh Tấn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thượng thanh tịnh đến khoảng giữa này, có thế giới tên là Phổ minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Minh Đức Tụ, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thượng Hạnh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phổ minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Cao tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Nhân Ý, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tịnh Nhân thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Cao tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hoan hỷ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Na-la-diên, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Điều Ngự thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hoan Hỷ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ly cấu, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Ly Cấu Tướng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Minh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ly cấu đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thiện bảo, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Cầu Kim Cang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phá Nghi thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thiện bảo đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nhất thiết lạc, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tịnh Ý, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Lượng Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nhất thiết lạc đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ưu não sở triền, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Cầu Lợi An, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thế Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ưu não sở triền đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô biên đức sung, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thiện Tư Nghiêm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thượng Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô biên đức sung đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bình đẳng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoại Tặc, hiện tại đang vì Đại Bồtát Vô Ngại Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bình đẳng đến khoảng giữa này có thế giới tên là An ẩn, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Ưu-bát Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thường Phát Tinh Tấn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới An ẩn đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phương minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Lưu Bố Lực Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đế Vương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phương minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thường chiếu minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Minh Vân Hương Di Lâu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Tượng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thường chiếu minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thường trang nghiêm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tạp Hoa, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Xướng Cam Lồ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thường trang nghiêm đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bạch cái, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bất Hưu Tức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bạch cái đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thường nghiêm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Chuyển Nam Nữ Tướng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Biên Âm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thường nghiêm đến khoảng giữa này có thế giới tên là A-kiệt lưu hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Hương Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hương Tượng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới A-kiệt lưu hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chiên-đàn hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Cao Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Lượng Quang thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chiên-đàn hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phổ hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hương Di Lâu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Di Lâu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phổ hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phổ lạc, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tri Kiến Nhất Thiết Chúng Tâm Sở Lạc, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đại Đạo Sư thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phổ lạc đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Tướng Âm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Ly Nhất Thiết Pháp Hành thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phật hoa nghiêm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Quang thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phật hoa nghiêm đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Ngại Âm Thanh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Diệu Nhãn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nguyệt, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thuần Bảo Tạng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Nhất Cái thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nguyệt đến khoảng giữa này có thế giới tên là Kiên cố, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Động Lực, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thiện Ý thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Kiên cố đến khoảng giữa này có thế giới tên là Kiên lao, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Ca-diếp, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Minh Đăng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Kiên lao đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nhất liên hoa cái, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thị Nhất Thiết Duyên, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hoa Thân thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nhất liên hoa cái đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chiên-đàn, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Điều Ngự, hiện tại đang vì Đại Bồtát Trí Tuệ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chiên-đàn đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chân đế, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thành Lợi, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hiện Đế thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chân đế đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng nguyệt, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Biên thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng nguyệt đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ly suy não, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Danh Xứng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hoa Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ly suy não đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu hỷ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoại Chúng Nghi, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hỷ Tự Tại thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu hỷ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ly trần cấu, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Quán Hoa thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ly trần cấu đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ly sinh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Đức Vị, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hoại Chư Luận thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ly sinh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tạp hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Túc Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thiện Trạch thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Tạp hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Cực quảng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Lượng Tướng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Tướng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Cực quảng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Khủng bố, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Chiên-đàn, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Nguyệt Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Khủng bố đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng võng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Võng Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Úy Âm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng võng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô úy, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phạm Âm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phạm Thanh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô úy đến khoảng giữa này có thế giới tên là Khả quy, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là

Vô Lượng Tánh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Lượng Thanh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Khả quy đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ly chư duyên, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bất Duyên Nhất Thiết Pháp, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Ngại Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ly chư duyên đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thường xưng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Năng Đoạn Thanh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Biên Biện Tài thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thường xưng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thường hỷ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Tự Tại, hiện tại đang vì Đại Bồtát Bất Đoạn Biện Tài thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thường hỷ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phổ hiện, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thị Nhất Thiết Pháp, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Tướng Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phổ hiện đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phổ kiến, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phổ Hiện Chư Pháp, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Nhãn Danh Văn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phổ kiến đến khoảng giữa này có thế giới tên là Sinh chư công đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Đức Sinh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tịnh Nhãn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Sinh chư công đức đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ly cấu, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Xuất Quang, hiện tại đang vì Đại Bồtát Vô Pháp Hành thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ly cấu đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thanh liên hoa phú, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoa Thượng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Xích Liên Hoa Tướng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thanh liên hoa phú đến khoảng giữa này có thế giới tên là Xích liên hoa phú, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phương Sinh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phương Di Lâu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Xích liên hoa phú đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hoa phú, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoa Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồtát Hoại Chư Pháp thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hoa phú đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thiên thế, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Ư Chúng Kiên Cố, hiện tại đang vì Đại Bồtát Vô Cấu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thiên thế đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Diệu Sinh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu sinh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Lạc đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Chúng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thượng Chúng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Lạc đức đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng lạc, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Ly Thai, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Chuyển Chư Nạn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng lạc đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô trược, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Y Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thi Khí thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô trược đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô lượng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoại Chư Phiền Não, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Sai Biệt Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô lượng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phổ tán, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Trí Tán, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Biên Công Đức Sinh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phổ tán đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng kiên, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Chiên-đàn-quật Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Quật Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng kiên đến khoảng giữa này có thế giới tên là Cụ uy đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Cụ Phật Họa Sinh, hiện tại đang vì Đại Bồtát Cao Sinh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Cụ uy đức đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng bảo, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Sa La Vương An Lập, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trụ Luật Nghi thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng bảo đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phương chủ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Nguyệt Xuất Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Nguyệt thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phương chủ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Đại hải, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Điều Ngự, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Ưu Ý thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Đại hải đến khoảng giữa này có thế giới tên là An trụ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tu-di Kiên, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Chỉ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới An trụ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô bố úy, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thí Danh Văn, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô bố úy đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ái hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Chuyển Chư nạn, hiện tại đang vì Đại Bồtát Xứng Danh Ly Kiết thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ái hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chư công đức trụ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Danh Thân, hiện tại đang vì Đại Bồtát Trí Thân thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chư công đức trụ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nhất thiết phước trụ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Kiên Cố, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nhất thiết phước tụ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô ưu ý, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Ly Ưu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Hỏa thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô ưu ý đến khoảng giữa này có thế giới tên là Danh văn, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoa Sinh Đức Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hoa Vương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Danh văn đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hoa bố, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Diễn Hoa Tướng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hương Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hoa bố đến khoảng giữa này có thế giới tên là Lưu bố thập phương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phổ Phóng Hương Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tất Thành thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Lưu bố thập phương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng Phương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thanh Nhãn, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đại Thanh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng phương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng diễm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phóng Diễm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Diễm Xí thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng diễm đến khoảng giữa này có thế giới tên là Đại âm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Lưu Thập Phương, hiện tại đang vì Đại Bồtát Đại Âm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Đại âm đến khoảng giữa này có thế giới tên là Minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Cao Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tu-di Sơn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bảo minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Chiếu Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bảo minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thường huân hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hỏa Nhiên, hiện tại đang vì Đại Bồtát Hỏa Minh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thường huân hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hữu cát, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tam Giới Tự Tại Lực, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tam Hữu Cát thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hữu cát đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô úy, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Minh Luân, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Úy Thí thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô úy đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thường huyền, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Không Tánh Tự Tại, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tượng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thường huyền đến khoảng giữa này có thế giới tên là An vương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tận Tự Tại Lực, hiện tại đang vì Đại Bồtát Sinh Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới An vương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phổ ly, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Cổ Âm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Diễn Hương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phổ ly đến khoảng giữa này có thế giới tên là An ẩn, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phổ Tự Tại, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Hành Hạnh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới An ẩn đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phương lưu bố, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Lưu Bố, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Bệnh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phương lưu bố đến khoảng giữa này có thế giới tên là Đà-la-ni, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Sơn Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đàla-ni Tự Tại Vương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Đà-la-ni đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu đà-la-ni, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Minh Lực Cao Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tự Tại Lực thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu đà-la-ni đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu đẳng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là An Lập, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bala-diên thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu đẳng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nhất nghiêm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tự Tại Nghiêm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Cụ Túc Ý thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nhất nghiêm đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ỷ tức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tích Chư Công Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Tướng Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ỷ tức đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ái, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phật Bảo Đức Thành Tựu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thiện Tư Hành thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ái đến khoảng giữa này có thế giới tên là Liệt túc, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hoan Hỷ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Liệt túc đến khoảng giữa này có thế giới tên là Liệt túc nghiêm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Sinh Minh Đức Tụ, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Diệu Túc thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Liệt Túc Nghiêm đến khoảng giữa này có thế giới tên là Liên hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoa Sinh Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phật Pháp Sinh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Liên hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Pháp Tự Tại, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Chuyển Nạn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bạch liên hoa phú, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bán Nguyệt Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tu-di Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bạch liên hoa phú đến khoảng giữa này có thế giới tên là Quảng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hương Tượng, hiện tại đang vì Đại Bồtát Bất Động thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Quảng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thượng diệu, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Lượng Minh, hiện tại đang vì Đại Bồtát Vô Ngại Âm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thượng diệu đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Liên Hoa Tụ, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phất-sa thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoa Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồtát Đỉnh Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chiêm bồ chúng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Chiên-đàn Đức, hiện tại đang vì Đại Bồtát Diệu Nhãn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chiêm bồ chúng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bảo tạng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Tụ, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hỷ Kiến thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bảo tạng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Minh tuệ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Minh Tuệ, hiện tại đang vì Đại Bồtát Thiện Giác thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Minh tuệ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thượng an, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tác An, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát An Vương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thượng an đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thiện trụ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Đức Sinh, hiện tại đang vì Đại Bồtát An Lập thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thiện trụ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng đa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Minh Tướng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phổ Minh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng đa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ái hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Đức Tích, hiện tại đang vì Đại Bồtát Đức Sinh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ái hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ái tích, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Chúng Đức Sinh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tất Cánh Công Đức Thành Tựu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ái tích đến khoảng giữa này có thế giới tên là Khả ái, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Nhất Thiết Công Đức Sinh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tịnh Công Đức Tất Cánh Thành Tựu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Khả ái đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng liên hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoa Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Lạc Thí thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng Liên Hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Kim cang phú, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trì Cự, hiện tại đang vì Đại Bồtát Vô Tham Thủ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Kim cang phú đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bảo võng phú, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Tích thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bảo võng phú đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ly úy, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Cực Cao Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Chuyển Chư Nạn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ly úy đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nhất cái, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tú Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Liệt Túc thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nhất cái đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng tạp, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Di Lâu, hiện tại đang vì Đại Bồtát Bảo Di Lâu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng tạp đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu hỷ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hư Định Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bất Tư Nghị thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu hỷ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Khả nghênh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Lượng Âm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Ưu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Khả Nghênh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu âm vương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Lượng Minh, hiện tại đang vì

Đại Bồ-tát Vô Ưu Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu âm vương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thượng thanh tịnh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Di Lâu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Châu Diệu Âm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thượng thanh tịnh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chiếu minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tạp Bảo Hoa Nghiêm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Biên Âm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chiếu minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thế đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Chúng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Chúng Hương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thế đức đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bảo hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Ly Cấu Nghiêm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tác Minh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bảo hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Kim minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Kim Hoa, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Chiếu Minh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Kim minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Kim quang, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Quật, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát An Trụ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Kim quang đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng kiên cố, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tạp Hoa Sinh, hiện tại đang vì Đại Bồtát Dũng Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng kiên cố đến khoảng giữa này có thế giới tên là Giải thoát, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phóng Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Di-lặc thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Giải thoát đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phóng hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoa Sinh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Diệu Hoa Cái Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phóng hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoa Cái, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Kim Cái thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng liên hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bất Hư Nghiêm, hiện tại đang vì Đại Bồtát Vô Cấu Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng liên hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng diệu liên hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Lưu Bố Lực Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Lạc Trí thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng diệu liên hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phạm đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phạm Âm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Diệu Âm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phạm đức đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tràng tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tự Tại Lực, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tịnh Mục thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Tràng tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Chúng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Biên Tánh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Điều Ngự, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Diệu Chúng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu đến khoảng giữa này có thế giới tên là Trú xứ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Ngại Nhãn, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Quá Hành thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Trú xứ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô hữu, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoại Chư Đạo, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thiện Tư Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô hữu đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nghi hối, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phá Nghi, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hoại Chư Kiến thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nghi hối đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu thiền, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Tướng Âm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu thiền đến khoảng giữa này có thế giới tên là Đức trụ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Công Đức Thành Tựu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Hộ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Đức trụ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bảo trụ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Kim Cang Hành thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bảo trụ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hỷ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Liên Hoa Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Hoa thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hỷ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Liên hoa sinh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Thượng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Liên hoa sinh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu sinh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tam Thế Vô Ngại Nghiêm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Dũng Chúng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu sinh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Lạc Xuất Yếu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Giác, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Di Lâu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đại Di Lâu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Giác đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nguyệt đăng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Đăng Cao Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Quang Luân thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nguyệt đăng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tinh tú đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồtát Tịnh Sinh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Tinh tú đức đến khoảng giữa này có thế giới tên là Cự, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Cự Đăng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tăng Ý thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Cự đến khoảng giữa này có thế giới tên là Trí tích, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Thượng Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đức Tích thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Trí tích đến khoảng giữa này có thế giới tên là Xuất sinh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Đức Vương Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đề Xá thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Xuất sinh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Liên hoa cái, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phát-sa, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Cổ Âm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Liên hoa cái đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nhất cái, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Nhãn, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phạm Âm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nhất cái đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thiện, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Đức Vị, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hữu Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thiện đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phương Đẳng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Chiếu Phương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Đức tích, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phật Hoa Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Túc Vương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Đức tích đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ta-la, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Ta-la Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vũ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ta-la đến khoảng giữa này có thế giới tên là Trụ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Sư Tử, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Kinh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Trụ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Khuyến trợ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Di Lâu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Da-xá thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Khuyến trợ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Liên hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tần-bà-thi, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Ấm Vân thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Liên hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nhiếp xử, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Y Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Dược Vương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nhiếp xử đến khoảng giữa này có thế giới tên là Sa-ha, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Chúng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Chiếu Minh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Sa-ha đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thiện đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Thiện Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Diệu Thiện thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thiện đức đến khoảng giữa này có thế giới tên là Xứ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tự Tại Lực, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hằng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Xứ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Hương Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hương Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hương đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Hương Tướng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hoa Tạng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hương đức đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chiên-đàn, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Chiên-đàn-quật, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đức Thủ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chiên-đàn đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bảo võng phú, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Minh, hiện tại đang vì Đại Bồtát Vô Biên Ý thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bảo võng phú đến khoảng giữa này có thế giới tên là Kim võng phú, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tăng Thập Quang Phật Xuất Hoa, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Kim võng phú đến khoảng giữa này có thế giới tên là Liên hoa võng phú, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Tự Lực, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Biên Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Liên hoa võng phú đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Uy Hoa Sinh Cao Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Biên Âm Thanh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chiếu minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Võng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Dũng Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chiếu minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nguyệt đăng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là An Lập, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bất Vong Niệm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nguyệt đăng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chiên-đàn hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Hương Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phú Túc thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chiên-đàn hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Lâu Các, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thí Nhất Thiết Lạc, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Cầu Lợi Thế thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Lâu các đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tạp quật, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Kiến Nhất Thiết Duyên, hiện tại đang vì Đại Bồtát Vô Biên Nguyện thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Tạp quật đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tạp tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bất Hư Xưng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Biên Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Tạp tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Khả kính, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoại Chư Kinh Úy, hiện tại đang vì Đại Bồtát Sư Tử thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Khả kính đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tịnh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là An Lập Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Châu Kế thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Tịnh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Kim minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Tạng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Kim minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thượng tịnh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Lợi Nhất Thiết Chúng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Ưu Ý thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thượng tịnh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng lạc, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Không Nghiêm Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Chúng Sinh Vô Ngại Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng lạc đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nhất hoa cái, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thiện Nghiêm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Tướng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nhất hoa cái đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô cấu, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Không Tướng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Không Nghiêm Hạnh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô cấu đến khoảng giữa này có thế giới tên là Quảng đại, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Uy Hoa Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tuyển Trạch thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Quảng đại đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thiện tích, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Thiện Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thượng Âm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thiện tích đến khoảng giữa này có thế giới tên là Trụ phương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Tự Tại Tích, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đại Tự Tại Lực thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Trụ phương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu hoa hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tịnh Nhãn, hiện tại đang vì Đại Bồtát Diệu Nhãn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu hoa hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thiện trụ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Đại Điều Ngự, hiện tại đang vì Đại Bồtát Đại Hải thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thiện trụ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô lượng vô biên, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tối Cao Đức Di Lâu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô lượng vô biên đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hỷ sinh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Thắng Tướng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tối Thắng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hỷ sinh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô trần, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Chúng Quy, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Úy thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô trần đến khoảng giữa này có thế giới tên là A-kiệt lưu hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Hương Di Lâu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thượng Hương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới A-kiệt lưu hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Đa-già lưu hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Nguyệt Gian Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Cự thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Đa-già lưu hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thượng diệu, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Di Lâu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thiện Trụ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thượng diệu đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hỷ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thứ Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hỷ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Danh Văn Di Lâu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Di Lâu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nhuyễn mỹ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Mỹ Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đại Mỹ Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nhuyễn mỹ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thiện bản, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phạm Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phạm Âm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thiện bản đến khoảng giữa này có thế giới tên là Đế tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Ngại Nhãn, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đế Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Đế tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thiện xứ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Đức Tích, hiện tại đang vì Đại Bồtát Đức Công Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thiện xứ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bất tư nghị đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Uy Đức Vương, hiện tại đang vì Đại Bồtát Trí Cao thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bất tư nghị đức đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ly tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thiện Tư Nguyện Thành, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Biên Nguyện thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ly tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tinh tú vương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tịnh Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Gian Di Lâu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Tinh tú vương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Trí minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Xuất, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Xuất Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Trí minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Kim cang, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Dũng Chúng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Trạch thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Kim cang đến khoảng giữa này có thế giới tên là Trí hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Tụ, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Sinh Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Trí hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phương di lâu, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tác Phương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phương Lưu Bố thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phương di lâu đến khoảng giữa này có thế giới tên là Đức xứ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Sa-ha Chủ, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Pháp Đăng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Đức xứ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ái, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Ly, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Sa-ha Chủ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ái đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ái thú, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Điều Ngự, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Ái Thú thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ái thú đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu tư, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Thủ, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thượng Trí thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu tư đến khoảng giữa này có thế giới tên là Liên hoa xuất, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tối Cao Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát

Ly Cấu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Liên hoa xuất đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô biên đức sinh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thị Chúng Sinh Thâm Tâm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tự Đăng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô biên đức sinh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hoan hỷ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Đức Bảo, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Dũng Kiện thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hoan hỷ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ỷ tức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Diệt Chư Thọ Tự Tại, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thường Phát Thanh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ỷ tức đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nhạo lạc, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Ngại Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Diệu Nhãn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nhạo lạc trải qua trong khoảng hằng hà sa số các quốc độ có thế giới tên là Thiện thành, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Ngại Quang Phật Hoa Tối Cao Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đà-la-ni Tự Tại Vương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Phẩm 16: Tung rải hoa cúng dường

Từ thế giới Thiện thành trải qua trong khoảng hằng hà sa các quốc độ, có thế giới tên là Phổ đức thành tựu, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Nhất Thiết Duyên Trung Tự Tại Hiện Phật Tướng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Quán Phật Định Thiện Căn Trang Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Bấy giờ Bồ-tát Quán Phật Định Thiện Căn Trang Nghiêm trông thấy ánh sáng tỏa chiếu khắp cùng nghe âm thanh lớn vang động, liền thưa với Đức Phật Nhất Thiết Duyên Trung Tự Tại Hiện Phật Tướng:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng và âm thanh ấy là do Đức Phật nào rạo ra vậy?

Đức Phật đáp:

–Này thiện nam! Về phương Tây cách xa cõi này trải qua một vạn hai ngàn a-tăng-kỳ cõi có thế giới tên là Ta-bà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì các vị Bồ-tát thuyết giảng về tạng kinh Bồ-tát nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Đó chính là vị Phật đã tạo ra ánh sáng và âm thanh kia.

Bấy giờ Bồ-tát Quán Phật Định Thiện Căn Trang Nghiêm tay cầm nhiều hoa, từ xa tung rải về thế giới Ta-bà ấy. Do diệu lực từ nhân duyên của bản nguyện, nên đối với các quốc độ không hề có sự ngăn ngại, những hoa được tung rải ấy đã bay thẳng đến thế giới Ta-bà, tới thành Vương xá, rồi tới nơi vườn Trúc. Lúc này bốn chúng trong hội lớn đều lấy làm lạ, cho là điều chưa từng có. Những đóa hoa sen ấy xoay quanh chỗ Phật ngồi ba vòng rồi dừng lại nơi phía trước Đức Phật, mỗi đóa hoa đều nói bài kệ nhằm tán dương Đức Như Lai cùng chúng Bồ-tát rằng:

Trí tuệ lớn Thế Tôn vô biên
Tự nhiên giác ngộ vô lượng pháp
Thị hiện mọi thần thông không ngại
Tỏa chiếu khắp mười phương thế giới
Trí tuệ lớn, sáng, chư Bồ-tát
Khéo nêu hỏi–đáp vô sở úy
Xa nghe tên Phật muốn cúng dường
Dùng lực thần thông cùng tập hợp
Đều là Nhất Sinh nối dòng pháp
Dũng mãnh, bền chắc rất trang nghiêm.
Tên tuổi vang xa khắp mười phương
Đều vân tập đến cõi Ta-bà
Nên vì chúng sinh khởi tâm lớn
Phát tâm Vô sở úy trang nghiêm
Chúng con nay xin hỏi Thế Tôn
Do đâu chứng đắc đạo Vô thượng?
Làm sao tu tập các pháp Phật
Diệt trừ quân ma thành Phật đạo?
Bấy giờ Thế Tôn Thích-ca Văn
Nói với đám hóa hoa hậu lai
Chúng hoa thấy thân Phật khó sánh
Lại được nghe từ kim khẩu Phật
Bèn phát tâm tùy hỷ vui mừng
Cung kính lễ Phật đứng một bên
Liền ở nơi ấy hốt nhiên mất
Chúng hội thấy vậy đều nghi sợ:
Đó là người nào? Từ đâu tới?
Hỏi Thế Tôn xong liền chẳng hiện
Bấy giờ bốn chúng kính uy nhan
Không dám hỏi Phật giải chỗ ngờ.
Phật liền hóa làm một Tỳ-kheo
Dáng như A-nan, nêu lời hỏi:
“Ấy là người nào hỏi Thế Tôn
Đã xin hỏi xong liền biến mất
Kính mong Thế Tôn dứt mọi nghi
Việc ấy do đâu, vì cớ gì?”
Phật dạy: “Hoa ấy từ phương Đông
Trải qua vô số thế giới đến
Ngươi xem: rất trang nghiêm, dũng mãnh
Thần thông Bồ-tát đã tạo nên
Bồ-tát ấy từ gốc hành đạo
Phát tâm trang nghiêm lớn như thế
Vì vậy có người cầu Phật đạo
Nếu luôn nhớ nghĩ đạt bất thoái
Nếu làm sẽ khiến cho người thấy
Liền được vui cùng các pháp lành
Lìa mọi biếng trễ, chuyên giữ giới
Học rộng, nghe nhiều như biển lớn
Nên khéo tu học mọi phương tiện
Lại thường hóa sinh, dứt đầu thai
Đời đời qua lại chốn sinh tử
Thường luôn nhớ nghĩ đến chánh pháp.
Nơi mỗi chốn sinh luôn gặp Phật
Cùng chúng Hiền thánh đều đến hội
Thường sinh tâm chán lìa năm dục
Nên đối pháp Phật tin, xuất gia
Liền nơi nhận thức đạt lợi lạc
Cũng được thêm lợi, nêu khó hết
Đó là mọi công đức Đại sĩ
Nếu muốn tán dương thật vô cùng.
Nếu có nữ nhân đem lòng tin
Nghe Bồ-tát rất trang nghiêm ấy
Vĩnh viễn chẳng còn mang thân nữ
Quyết vì chúng sinh quy kính đạo
Nếu có nam tử cùng nữ nhân
Được nghe tên hiệu, tâm hoan hỷ
Phát nguyện muốn thấy Bồ-tát đó
Thân hết, mạng chung liền vãng sinh.
Nếu mọi chúng sinh cả nam nữ
Nghe công đức lớn của Bồ-tát
Nên đem tâm tịnh để tin vui
Liền được Bất thoái chuyển Bồ-đề.
Nếu có chúng sinh vào cõi pháp
Được nghe danh hiệu Bồ-tát ấy
Người đó tuy chẳng được Phật đạo
Cũng được vô lượng các công đức.
Như có cây thuốc tên Hỷ kiến
Chữa được trăm ngàn bệnh chúng sinh
Cả vùng quanh rộng đến do-tuần
Lửa tai vạ dữ chẳng thiêu đốt.
Nếu loài trùng độc vào thân ấy
Khí độc tức thì đều tiêu hết
Nếu nghe cây ấy khí thơm xông
Sầu muộn liền dứt, thân tâm an
Thân, rễ, cành, lá cùng hoa, trái
Vắng lặng, lìa dứt mọi tạo tác
Mà thế lực ấy thật diệu dụng
Thảy tiêu diệt hết mọi độc hại.
Cây ấy từ xa trừ các bệnh
Huống chi chọn lấy thân, rễ dùng
Bậc Đại Bồ-tát cũng như thế
Mười phương nghe tên, làm Phật sự
Huống được mắt thấy, thêm cúng dường
Gần gũi hỏi han giải mọi nghi.”
Bấy giờ, Phật hiện làm A-nan
Liền lại cung kính hỏi Thế Tôn:
“Như chỗ Phật nói Đại Bồ-tát
Chỉ cần nghe tên, làm Phật sự
Thế giới Ta-bà có hay chăng?
Kính mong Thế Tôn chỉ dạy rõ.”
Phật dạy: “Thân ta đâu sống mãi
Nay chúng sinh ấy phước đức mỏng
Chư Phật Bồ-đề ắt khó tin
Mọi lời Như Lai nêu thâm diệu
A-nan nên biết, có Bồ-tát
Hiện đang ở trong chúng hội này
Chư Bồ-tát ấy thảy trang nghiêm
Mười phương chư Phật khen chẳng hết
A-nan hãy xem Bạt-đà-bà
Lại như Bảo Tích pháp báu chứa
Đạo sư bậc trí cùng Tinh Đắc
Và Bà-la-môn Na-la-đạt
Lại xem Đế Đức thiện Tỳ-kheo
Bà-lâu-na Thiên, Bà-la-na
Cũng xem đại Tỳ-kheo Thiện Lực
Hạnh nguyện các vị khó nghĩ bàn
Chư Bồ-tát ấy là chân thật
Đều phát đại nguyện trang nghiêm lớn
Nếu có người thấy hãy được lợi
Huống lại gần gũi, được chỉ dạy
Nếu có chúng sinh được trông thấy
Hoặc lại được nghe đến tên, hiệu
Ắt nơi Phật đạo dứt mọi nghi
Luôn chẳng bị lạc các nẻo ác
Thường siêng năng cùng dốc tinh tấn
Nên khéo tu tập chân trí tuệ
Luôn được an trụ giữ tịnh giới
Hội nhập an lạc Vô thượng thừa
A-nan, trong khắp mười phương cõi
Chư Phật Thế Tôn nơi hiện tại
Đều cùng ngợi khen Bồ-tát ấy
Chỗ phát đại thệ nguyện trang nghiêm
Tán dương tên hiệu bao người nghe
Khiến mọi Bồ-tát sinh tâm quý
Đều muốn được thấy Phật Thích-ca
Cùng đủ hết bậc trang nghiêm đó
Tức thì chư Phật đều ưng thuận
Các vị lễ Phật và đi quanh
Hốt nhiên biến khỏi cõi Phật ấy
Thảy cùng đi tới cõi Ta-bà
Nghe Bồ-tát ấy đầy đủ nguyện
Nơi đạo Vô thượng thêm tinh tấn
Như Lai liền thọ ký đạo quả
Quốc độ, thọ mạng, hiệu như thế
Trải qua vô lượng, vô số kiếp
Chỗ có nhân duyên nghiệp chẳng lành
Do từ nhân duyên tạo nghiệp đó
Cùng ta sinh nơi cõi uế trược
Ta nay tuy đạt đạo Vô thượng
Nhưng chẳng vui thấy đời vị lai
Sẽ có hạng Tỳ-kheo phá giới
Tánh nóng, miệng ác, lời thô dữ
Chư Bồ-tát ấy nghe việc đó
Mà thêm tinh tấn dốc trang nghiêm
Nơi cảnh đói khát bố thí lớn
Lúc pháp sắp hoại, nêu chánh pháp
Nay nên trước Phật phát nguyện rằng:
“Ta sẽ vì pháp Vô thượng đạo
Trong đời xấu ác đáng sợ sau
Chẳng tiếc thân mạng, lợi chúng sinh.”
Chỉ mỗi phát nguyện đã là khó
Huống chi thành tựu được đại nguyện.
Những kinh như vậy cùng người thọ
Nơi cõi đời ác bị khinh rẻ
A-nan xem cõi điên đảo ấy
Nghe chư kinh pháp đó như thế
Trong ấy liền sinh tưởng phi pháp
Đều cho pháp ấy chẳng Phật thuyết
Dùng nẻo giác ngộ cúng dường ta
Mà thành đạo nghiệp duyên phá pháp
Cõi hỗn trược xấu ác như thế
Ai người kham chịu trụ trong ấy?
Người ấy theo Phật nghe lời nọ
Tức thì buồn thương rơi nước mắt
Nhớ Phật bao kiếp từng tu tập
Pháp ấy làm sao tan diệt được?
Thời các kẻ học, sinh tâm chán
Biết pháp hữu vi tướng không định
Hãy tinh tấn như cứu lửa cháy
Dứt lậu, đạt Niết-bàn vô dư
Chư Thiên, Thần nghe trong cõi ác
Chánh pháp bị diệt đều lo buồn
Chúng ta thà hôm nay mạng chung
Chớ thấy lúc chánh pháp bị hoại
Chúng ta nay thấy như Thế Tôn
Bậc Vô úy nêu pháp thí lớn
Các vị thảy cùng chiêm ngưỡng Phật
Nghe giảng pháp thâm diệu vô ngại
Lại thấy chư Tỳ-kheo tu thiền
Định, Tuệ, thần thông thảy rốt ráo
Nơi đời ác pháp hoại sau này
Chư Thánh hiền ấy khó gặp lại.
Hàng Tỳ-kheo xấu càng đông đảo
Bậc giữ giới tịnh không uy thế
Cũng chẳng được đến chốn tháp miếu
Chư Thiên, thần hết mực buồn thương
Đều buông lời thở than, lo lắng
Phật pháp hủy diệt thật đáng tiếc!
Phật vì cứu đời tu khổ hạnh
Mà kẻ xấu ác lại khinh phá!
Tự cùng bè nhóm và bạn thân
Phỉ báng người lành sinh tội lỗi
Tự bảo Phật là thầy chúng mình
Mà trái ý Phật, diệt chánh pháp
Cùng thanh tín nữ tạo nhân duyên
Lại buộc thề ước đồng sự nghiệp
Chung lòng hủy báng chánh pháp ta
Đối với Phật pháp tâm chẳng kính
Đám người ác ấy hủy Tam bảo
Làm chư Hiền thánh phải xa lìa
Như trâu dữ sổng, sừng nhọn hoắc
Ắt làm mọi người phải lẩn tránh.
Bấy giờ Tỳ-kheo nơi đời ác
Mà lại chê cười kẻ tu thiện
Đời sau sẽ có kẻ điên đảo
Nên sinh chán lìa, chớ phóng dật
Nơi Phật pháp luôn luôn tinh tấn
Chớ thấy đời hỗn trược như vậy
Chớ nên gặp gỡ hạng người đó
Khổ não càng thêm nếu gần họ.”

QUYỂN 5

Phẩm 17: Thế giới chúng tướng

Bấy giờ về phương Đông, trải qua một vạn một ngàn a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Chúng tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Lạc Vô Tướng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phạm Âm Thanh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Từ thế giới Chúng tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Diệu Hóa Âm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Lạc Nhất Tướng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô tướng hải, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoa Thượng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vũ Hoa thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô tướng hải đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tạp tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tạp Đỉnh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Tạp tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bảo sinh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hải Di Lâu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Diệu Nhãn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bảo sinh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Quảng đại, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Cấu Ý, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Nidân-đà-la thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Quảng đại đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Hoa Sinh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thiện Uy Nghi thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hư không tịnh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Cực Cao Đức Tụ, hiện tại đang vì Đại Bồtát Bảo Cái thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hư không tịnh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tịch Diệt, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Ưubát-la thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu lạc, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Ly Dục Tự Tại, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Định Ý thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu lạc đến khoảng giữa này có thế giới tên là Kim cang cảnh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Diệt Chư Thú, hiện tại đang vì Đại Bồtát Chuyển Thai thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Kim cang cảnh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Đức tích, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bất Tư Nghì Đức Sinh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trì Thế thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Đức tích đến khoảng giữa này có thế giới tên là Đại an, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hỷ Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thắng Chúng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Đại an đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô thọ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Đáo Vô Úy, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Dũng Kiện thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô thọ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tán xích liên hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Lưu Hương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hương Di Lâu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Từ thế giới Tán xích liên hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là A-kiệt lưu hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Ngại Hương Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Biên Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới A-kiệt lưu hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng quy, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vân Cổ Âm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trì Địa thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng quy đến khoảng giữa này có thế giới tên là Công đức tích, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Công Đức Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tăng Trưởng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Công đức tích đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thuần lạc, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Hạnh Tự Tại, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Ca-diếp thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thuần lạc đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tu-di Kiên, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đế Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hương tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Hương Di Lâu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Diệu Trang Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hương tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Trợ hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Quang, hiện tại đang vì Đại Bồtát Diệu Tánh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Trợ hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Điều ngự, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phổ Quán, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Biên Lực thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Điều ngự đến khoảng giữa này có thế giới tên là Đại đảm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Úy, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đại Lực thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Đại đảm đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ly bố úy, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Đắc Vô Úy, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phương Văn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ly bố úy đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nguyệt, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Nhật Nguyệt Đăng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Chúng Quy thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nguyệt đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chiếu minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Minh Đăng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Minh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chiếu minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tác minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Chấn Uy Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thế Lưu Bố Vương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Tác minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tùy đoạn, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Cực Cao Hạnh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tuệ Tông thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Tùy đoạn đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thiện Chúng, hiện tại đang vì Đại Bồtát Diệu Ý thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Kim cang, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Kim Cang Sinh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đức Tích thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Kim cang đến khoảng giữa này có thế giới tên là Âm thanh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Tự Tại Vương, hiện tại đang vì Đại Bồtát Na-la-diên thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Âm thanh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hỷ sinh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Lực Lưu Bố, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Nguyệt Lưu Bố thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hỷ sinh đến khoảng giữa này có thế giới tên là An sinh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng An, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phát-sa thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới An sinh đến khoảng giữa này có thế giới tên là A-lâu-na, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Đức Vương Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đạo Sư thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới A-lâu-na đến khoảng giữa này có thế giới tên là A-lâu-na tích, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Diệu Nhãn, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trì Minh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới A-lâu-na tích đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nhu nhuyễn, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Ta-la Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Ta-la thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nhu nhuyễn đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thiện lập, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tu-di Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tu-di Kiên thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thiện lập đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thanh tịnh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hư Di Lâu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Nguyện Lưu Bố Vương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thanh tịnh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Uy đức sinh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Uy đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thiện Tư Nguyện thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Uy đức sinh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thiện tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Thiện Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trạch Chúng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thiện tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phạm đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phạm Âm Thanh, hiện tại đang vì Đại Bồtát Bảo Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phạm đức đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hoa đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Hoa, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Quang thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hoa đức đến khoảng giữa này có thế giới tên là Liên hoa đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Liên Hoa Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Liên Hoa Tạng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Liên hoa đức đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chiên-đàn-quật, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Chiên-đàn Hương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Chiên-đàn Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chiên-đàn-quật đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Như Tu-di, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thanh Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Kim hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Nghiêm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Kim Cang thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Kim hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bảo minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Cái, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Hộ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bảo minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hương di lâu, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hương Tượng, hiện tại đang vì Đại Bồtát Vô Ngại Nhãn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hương di lâu đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tạp tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Tự Tại Lực, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bất Hư Lực thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Tạp tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thanh tịnh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bất Hư Xưng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bất Hư Kiến thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thanh tịnh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Công đức xứ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bất Tư Nghị Công Đức Vương Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Minh Âm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Công đức xứ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hữu đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tạp Hoa, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Tinh Tấn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hữu đức đến khoảng giữa này có thế giới tên là An ẩn, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là An Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tác An thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới An ẩn đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tối cao, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoa Cao Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Diệu Hoa thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Tối cao đến khoảng giữa này có thế giới tên là Động, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thường Bi, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thường Ưu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Động đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thường động, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Dược Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ

Đại Bi Trang Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thường động đến khoảng giữa này có thế giới tên là Kiên cố, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Cầu Lợi Thế, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Lực thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Kiên cố đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bất động, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Tâm Hành, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thiện Trụ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bất động đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phổ hư không, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Tự Tại Lực, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Chúng Trợ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phổ hư không đến khoảng giữa này có thế giới tên là Lưu ly minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Quang, hiện tại đang vì Đại Bồtát Vô Lượng Tâm Trang Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Lưu ly minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Kim minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ Diệu Nhãn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Kim minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Ngôn Âm Tự Tại, hiện tại đang vì Đại Bồtát Nan-đề thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Liên hoa cái, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Hư Không, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Quán Định Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Liên hoa cái đến khoảng giữa này có thế giới tên là Cái hành liệt, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tú Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Liên Hoa Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Cái hành liệt đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bảo võng phú, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Hương Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hoa Thủ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bảo võng phú đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chân kim, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hư Không Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ

Tịnh Nhãn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chân kim đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thanh tịnh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Cực Cao Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đức Nhãn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thanh tịnh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô ưu, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tác Phương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tác Minh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Từ thế giới Vô ưu đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tinh tú, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Cực Cao Di Lâu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát An Lập thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Từ thế giới Tinh tú đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tạp tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Ngại Nhãn, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tạp Chúng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước

Từ thế giới Tạp tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hương lưu, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Sa-già-la, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tammâu-đà thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Từ thế giới Hương lưu đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trì Cự, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phá Nghi thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Từ thế giới Chúng hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chiên-đàn hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hỏa Tướng, hiện tại đang vì Đại Bồtát Chúng Xưng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chiên-đàn hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thiện hỷ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thiện Tịnh Đức Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phá Tặc Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thiện hỷ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hỷ sinh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Trí Tụ, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Lợi Ý thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hỷ sinh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Lưu bố, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Lưu Bố Lực Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Dũng Kiện thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Lưu bố đến khoảng giữa này có thế giới tên là Đại đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Công Đức Vương Nhãn, hiện tại đang vì Đại Bồtát Lợi Ý thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Đại đức đến khoảng giữa này có thế giới tên là Kiên cố, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hiện Trí, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hành Tinh Tấn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Kiên cố đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bất thoái, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoa Cao Sinh đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đức Niệm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bất thoái đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thiện phân biệt, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Hỏa, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Dũng Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thiện phân biệt đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ưu-bát-la, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Xích Liên Hoa Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đức Thủ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ưu-bát-la đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nghi cái, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoại Nhất Thiết Nghi, hiện tại đang vì Đại Bồtát Vô Úy thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nghi cái đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thiện Chúng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đắc Thanh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Câu Lưu Tôn, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trì Cự thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng đức đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu thiện, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tướng Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Cần Tâm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Diệu thiện đến khoảng giữa này có thế giới tên là Diệu hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Liên Hoa Đức Sinh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thượng Trí thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước. Từ thế giới Diệu hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thiện tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phóng Quang, hiện tại đang vì Đại Bồtát Từ Chúng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Từ thế giới Thiện tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vân âm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Di-lặc, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hoa thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Từ thế giới Vân âm đến khoảng giữa này có thế giới tên là Quang minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Liên Hoa Quang Minh, hiện tại đang vì Đại Bồtát Pháp Thượng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Từ thế giới Quang minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Danh xưng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Pháp Vương Tướng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát A Trù Na thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Từ thế giới Danh xưng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Đế thích, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Lực, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Danh Văn Từ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Từ thế giới Đế thích đến khoảng giữa này có thế giới tên là Liên hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thắng Sơn Hải, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bảo Tích thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Từ thế giới Liên hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hỷ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đế Vương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước

Từ thế giới Hỷ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thường nghiêm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bất Hư Kiến, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Dũng Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Từ thế giới Thường nghiêm đến khoảng giữa này có thế giới tên là Lưu bố, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Ngại Âm Thanh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thiện Trụ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Từ thế giới Lưu bố đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thường ngôn, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Lượng Danh đức Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hoan Hỷ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước. Từ thế giới Thường ngôn đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bạch tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Phân Biệt Nghiêm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Ngại Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Từ thế giới Bạch tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chiên-đàn hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Tịnh Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Từ thế giới Chiên-đàn hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ca-sa tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Diệu Nhãn, hiện tại đang vì Đại Bồtát Bảo Thủ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trước.

Như vậy là vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ chúng Đại Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ từ phương Đông vân tập đông đủ nơi thế giới Ta-bà, đến kinh thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Mâu-ni, bày tỏ lời vấn an rồi lui ra ngồi một bên.

Phẩm 18: Các phương khác

Về phương Nam, cách xa cõi này, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ cõi, có Đức Phật hiệu là Thuần Bảo Tạng, đang vì Bồ-tát Liệt Túc thọ ký đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bấy giờ, Bồtát Liệt Túc trông thấy ánh hào quang tỏa chiếu cùng nghe âm thanh lớn vang động, liền hỏi Đức Phật Thuần Bảo Tạng:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng và âm thanh kia là do Đức Phật nào tạo ra vậy?

Đức Phật Thuần Bảo Tạng nói:

–Này thiện nam! Về phương Bắc cách xa cõi này, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Ta-bà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì chư Bồ-tát giảng thuyết về tạng kinh Bồ-tát, nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Đó là vị Phật đã tạo ra ánh sáng và âm thanh kia. Nơi chúng hội lớn ở thế giới ấy có các vị Đại Bồ-tát đều thành tựu đầy đủ các đại nguyện trang nghiêm. Trong hằng sa thế giới khắp mười phương ít có được những bậc đại trang nghiêm như vậy.

Bồ-tát Liệt Túc bèn thưa với Đức Phật Thuần Bảo Tạng rằng:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường, cùng được gặp các vị Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm bất khả tư nghị ở thế giới ấy.

Đức Phật Thuần Bảo Tạng đáp:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi đến thế giới đó, xin hãy tùy ý. Bồ-tát hãy mang lời ta, xin vấn an Đức Phật Thích-ca Văn có được ít bệnh, ít phiền, khí lực luôn được an khang chăng? Bồ-tát hãy nên nhất tâm dùng trí tuệ yên định, xét nét mà đi đến thế giới ấy. Vì sao? Vì các vị Bồ-tát ở thế giới Tabà đó đều là những bậc khó ai hơn được, cũng như không gì có thể hủy phá nổi.

Lúc này, Bồ-tát Liệt Túc cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, đi vòng quanh chỗ Phật ngồi ba vòng xong, chỉ trong khoảnh khắc như sự co giãn cánh tay của vị đại lực sĩ, hốt nhiên biến khỏi cõi Phật ấy, đi đến thế giới Ta-bà, đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn rồi lui ra đứng một bên, thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Đức Phật Thuần Bảo Tạng xin gởi lời vấn an Đức Thế Tôn có được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt đi đứng đều luôn khinh an, khang kiện chăng?

Đức Phật Thích-ca Văn hỏi:

–Đức Như Lai Thuần Bảo Tạng ở thế giới ấy mọi sinh hoạt có luôn được an ổn chăng?

Bồ-tát Liệt Túc thưa:

–Đức Như Lai Thuần Bảo Tạng ở thế giới ấy luôn được bình an vô sự.

Như vậy là vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ chúng Đại Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ từ phương Nam đã vân tập đông đủ nơi thế giới Ta-bà, đi đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn, bày tỏa lời vấn an xong, đều lui ra an tọa một bên.

Về phương Tây cách xa cõi này, trải qua vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ cõi có thế giới tên là Phổ lạc, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Ly Cấu Tam Thế Vô Ngại Trang Nghiêm, hiện tại đang vì Đại Bồtát Vô Biên Tự Tại Hiện Phật Hoa Trang Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Ở thế giới Phổ lạc này hết thảy mọi thứ hoa sen đều tỏ ra ánh sáng, cùng với ánh sáng của ngọc báu Ma-ni và cây ngọc báu luôn tỏa chiếu khắp cõi. Các đóa hoa sen lớn đó, mỗi mỗi hoa đều rộng đến một ngàn do-tuần, với đủ thứ đủ loại các châu báu xen nhau dùng để tô điểm làm tăng vẻ trang nghiêm. Hương thơm của các đóa hoa sen xông tỏa khắp vô lượng thế giới trong mười phương. Các vị Bồ-tát được sinh ra ở thế giới ấy thân tướng đều cao lớn đến một vạn do-tuần, có đầy đủ tướng tốt cùng hào quang tỏa sáng nên thảy đều đoan nghiêm thù thắng, khiến ai trông thấy cũng sinh tâm hoan hỷ. Nếu phát tâm muốn được đi đến các thế giới khác để chiêm bái chư Phật thì do diệu lực thần thông từ bản nguyện của Đức Phật ở thế giới ấy, tức thì mọi thế giới hiện có ở phương Đông, cho đến mọi tính chất của các pháp nơi các thế giới đó đều hiện rõ ở trước mặt mình. Các phương Nam, Tây, Bắc, bốn hướng và hai phương trên dưới, với tất cả mọi thế giới hiện có, cho đến mọi tính chất của các pháp ở đấy đều hiện rõ trước mặt không khác, giống như một cõi Phật. Tất cả đều dùng lưu ly làm đất, từng hàng cây báu thẳng tắp tạo thêm vẻ trang nghiêm. Hoặc có vị Bồ-tát, lúc mới bắt đầu phát tâm Vô thượng Bồđề, đều có thể thực hiện đủ thứ đủ loại sự việc khó làm, khó lìa bỏ. Hoặc có vị Bồ-tát, do lìa được các pháp mà đạt được pháp Nhẫn vô sinh, thảy đều đầy đủ các pháp Ba-la-mật, tu tập hết sức công phu các pháp Phật, có thể hiện vô lượng thần lực của Bồtát. Hoặc có vị Bồ-tát ở nơi cõi trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ rồi sinh ra, xuất gia tu học. Hoặc ngồi nơi đạo tràng thành tựu quả vị Vô thượng Bồđề, hoặc có thể chuyển bánh xe pháp lớn lao, quý giá, cùng với các vị Đại Bồ-tát vây quanh mà thuyết pháp, mọi Phật sự đều hoàn tất mà nhập Niết-bàn vô dư. Các vị Bồ-tát ở thế giới Phổ lạc, do bản xứ bất động nên thảy đều có thể trông thấy tất cả. Đức Phật ở thế giới đó đối với các quốc độ luôn hiển lộ hết mực rõ rệt.

Đức Phật Thích-ca Văn phóng ánh hào quang tỏa chiếu đến thế giới Phổ lạc ấy, đã khiến cho ánh sáng của các đóa hoa sen, ánh sáng của ngọc báu Ma-ni cùng các hàng cây báu, do hào quang của Phật nên đều bị che khuất, không hiện lên được. Những âm thanh cười nói cũng vang động khắp thế giới Phổ lạc.

Bấy giờ, Bồ-tát Vô Biên Tự Tại Lực Hiện Phật Hoa Trang Nghiêm trông thấy ánh hào quang cùng nghe âm thanh vang động ấy, liền hỏi Đức Phật Ly Cấu Tam Thế Vô Ngại Trang Nghiêm rằng:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng và âm thanh kia là do Đức Phật nào tạo ra vậy?

Đức Phật Ly Cấu Tam Thế Vô Ngại Trang Nghiêm nói:

–Này thiện nam! Về phương Đông cách xa cõi này, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Ta-bà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì chư Bồ-tát thuyết giảng về tạng kinh Bồ-tát, nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Đó là vị Phật đã tạo ra ánh sáng và âm thanh kia.

Bồ-tát Vô Biên Tự Tại Lực Hiện Phật Hoa Trang Nghiêm thưa với Đức Phật Ly Cấu Tam Thế Vô Ngại Trang Nghiêm:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường, cùng được gặp các vị Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm ở cõi ấy.

Đức Phật đáp:

–Này thiện nam! Nay thì Bồ-tát phải hiện làm thân tướng nhỏ lại, cùng bỏ hết mọi thứ hoa sen mình có dùng để trang nghiêm ấy. Vì sao? Vì các đóa hoa sen đó, ở thế giới Ta-bà không có chỗ để dung nạp hết.

Bồ-tát Vô Biên Tự Tại Lực Hiện Phật Hoa Trang Nghiêm thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Con xin vâng lời, sẽ hiện làm thân nhỏ và bỏ hết mọi đóa hoa sen.

Đức Phật nói:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi đến thế giới đó, xin tùy ý. Bồ-tát hãy đem lời ta xin vấn an Đức Phật Thích-ca Văn có luôn được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt, đi đứng đều được khinh an, khương kiện chăng?

Bấy giờ Bồ-tát vâng lời dạy, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, đi vòng quanh chỗ Đức Phật ngồi ba vòng, xong xuôi, và chỉ trong khoảnh khắc như sự co giãn cánh tay của vị đại lực sĩ, Bồ-tát hốt nhiên biến khỏi cõi Phật ấy, đi đến thế giới Ta-bà, đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn rồi lui ra đứng một bên, thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Phật Ly Cấu Tam Thế Vô Ngại Trang Nghiêm xin gởi lời vấn an Đức Thế Tôn có luôn được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt đi đứng đều được thuận hợp, khinh an chăng?

Phật Thích-ca Văn nói:

–Đức Phật Ly Cấu Tam Thế Vô Ngại Nghiêm ở thế giới ấy, sinh hoạt đi đứng luôn được an ổn chăng?

Bồ-tát Vô Biên Tự Tại Lực Hiện Phật Hoa Trang Nghiêm đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Đúng như vậy! Phật Ly Cấu Tam Thế Vô Ngại Nghiêm ở thế giới ấy đều được an ổn, vô sự.

Đức Phật Thích-ca Văn lại hỏi:

–Bồ-tát thấy có được lợi lạc gì trong khi đi đến cõi này?

Bồ-tát Vô Biên Tự Tại Lực Hiện Phật Hoa Trang Nghiêm đáp:

–Con nhờ vào diệu lực thần thông của Đức Như Lai nên có thể đi đến cõi này. Kính bạch Thế Tôn! Con ở nơi thế giới ấy cũng thấy được hết thảy chư Phật trong mười phương. Các vị Bồ-tát ở cõi ấy thường chẳng sinh tâm muốn đi đến những cõi khác để chiêm bái chư Phật. Vì sao? Vì ở tại các quốc độ của cõi ấy thảy đều thấy được vô lượng thế giới trong mười phương cùng với hết thảy chư Phật. Kính bạch Thế Tôn! Con đã theo ý Phật, nhờ vào thần lực của Phật mà chỉ trong khoảnh khắc một niệm, đã hốt nhiên biến khỏi thế giới ấy để đến thế giới này.

Như vậy là ở phương Tây, từ thế giới Phổ lạc đến khoảng giữa này lần lượt có chư Phật: Phật Vô Lượng Hoa, Phật Vô Lượng Minh, Phật Vô Lượng Quang, Phật Vô Lượng Quang Minh, Phật Vô Lượng Tự Tại Lực, Phật Vô Lượng Lực, Phật Nhất Cái, Phật Cái Hành, Phật Bảo Cái, Phật Tú Vương, Phật Thiện Tu, Phật Minh Luân, Phật Minh Vương, Phật Cao, Phật Quảng Đức, Phật Vô Biên Quang, Phật Tự Tại, Phật Tự Tại Lực, Phật Vô Ngại Âm Thanh, Phật Đại Vân Quang, Phật Võng Tụ, Phật Giác Hoa Quang, Phật Liên Hoa Tự Tại,

Phật Sơn Vương, Phật Nguyệt Chúng Tăng

Thượng, Phật Phóng Quang, Phật Diệu Kiên, Phật Bất Hư Kiến, Phật Đảnh Sinh Vương, Phật Liên Hoa Sinh… Đại thể có vô lượng a-tăng-kỳ số chư Phật như thế trong khắp thế giới đều sai chúng Đại Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ từ phương Tây vân tập đông đủ đến thế giới Ta-bà, đi tới vườn Trúc, thuộc thành Vương xá, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn, bày tỏ lời vấn an thăm hỏi xong, lui ra an tọa một phía.

Bấy giờ ở phương Bắc, trải qua vô lượng atăng-kỳ cõi, ở đấy có thế giới tên là Cái Hành Liệt, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bất Hư Xưng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Bất Thoái Pháp Luân thọ ký đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lúc này vị Bồ-tát ấy trông thấy ánh sáng cùng âm thanh kia, liền hỏi Đức Phật Bất Hư Xưng:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng và âm thanh ấy là do Đức Phật nào tạo ra vậy?

Đức Phật đáp:

–Này thiện nam! Về phương Nam cách xa cõi này, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Ta-bà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì các vị Bồ-tát thuyết giảng về tạng kinh Bồ-tát, nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Các vị Bồ-tát trong chúng hội lớn ấy đều đã thành tựu đầy đủ đại nguyện trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn. Chúng sinh trong mười phương xưng danh hiệu của các vị Bồ-tát ấy, tức thì đều được an trụ nơi pháp không thoái chuyển.

Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Bất Thoái Pháp Luân nghe xong, liền thưa với Đức Phật Bất Hư Xưng:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường, cùng được gặp các vị Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn ở cõi ấy.

Đức Phật dạy:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi đến thế giới đó, xin hãy tùy ý. Bồ-tát hãy mang lời ta xin vấn an Đức Phật Thích-ca Văn có được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt, đi đứng đều luôn được thuận hợp, an khang chăng?

Lúc này, Bồ-tát Phát Tâm Tức Chuyển Bất Thoái Pháp Luân cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, đi vòng quanh chỗ Phật ngồi ba vòng, xong xuôi, chỉ trong khoảnh khắc như sự co giãn cánh tay của vị đại lực sĩ, hốt nhiên biến khỏi cõi Phật ấy, đi đến thế giới Ta-bà, đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn rồi lui ra đứng một bên, thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Phật Bất Hư Xưng xin gởi lời vấn an Đức Thế Tôn có luôn được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt đều thuận hợp, khinh an, khí lực luôn khang kiện chăng?

Đức Phật Thích-ca Văn hỏi:

–Đức Phật Bất Hư Xưng ở thế giới ấy mọi sinh hoạt đi đứng có được an khang chăng?

Bồ-tát đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Đức Phật Bất Hư Xưng ở thế giới ấy mọi sinh hoạt luôn được bình yên vô sự.

Như vậy là ở phương Bắc, từ thế giới của Đức Phật Bất Hư Xưng đến khoảng giữa này, lần lượt có các vị Phật như Phật Bất Hư Lực, Phật Bất Hư Tự Tại Lực, Phật Bất Hư Quang, Phật Vô Biên Tinh Tấn, Phật Sa-la Vương, Phật Bảo Sa-la, Phật Nhất Cái Nghiêm, Phật Bảo Kiên, Phật Chiên-đànquật, Phật Chiên-đàn Hương, Phật Vô Biên Minh, Phật Minh Luân, Phật Di Lâu Nghiêm, Phật Vô Ngại Nhãn, Phật Vô Biên Nhãn, Phật Bảo Sinh, Phật Chư Đức, Phật Giác Hoa Sinh Đức, Phật Thiện Trụ Ý, Phật Vô Biên Lực, Phật Bất Hư Đức, Phật Bảo Lực, Phật Vô Biên Nghiêm, Phật Vô Biên Đức Nghiêm, Phật Hư Không Quang, Phật

Vô Tướng Âm, Phật Dược Vương, Phật Vô Kinh, Phật Ly Bố Úy, Phật Đức Minh Vương, Phật Quán Giác Hoa Sinh, Phật Hư Không Tánh, Phật Hư Không Âm, Phật Hư Không Nghiêm Sinh… Đại thể, có vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ chư Phật như thế đều sai các vị Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ từ phương Bắc vân tập đông đủ nơi thế giới Ta-bà, đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn, bày tỏ lời vấn an xong xuôi, lui ra an tọa một phía.

Bấy giờ về phương dưới, trải qua vô lượng atăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Hư không thanh tịnh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Đại Mục, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Câu-lưu-tôn-đề thọ ký đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lúc này, Bồtát Câu-lưu-tôn-đề trông thấy ánh hào quang tỏa chiếu khắp, cùng nghe âm thanh lớn vang động, liền hỏi Đức Phật Đại Mục:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng và âm thanh này là do Đức Phật nào tạo ra vậy?

Phật Đại Mục nói:

–Này thiện nam! Về phương trên, cách xa cõi này, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Ta-bà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì Bồ-tát thuyết giảng về tạng kinh Bồ-tát, nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Ở thế giới ấy có các vị Đại Bồ-tát thành tựu đầy đủ các đại nguyện trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn, các vị ấy đều tập hợp nơi chúng hội đó.

Bồ-tát Câu-lưu-tôn-đề nghe xong, liền thưa với Đức Phật Đại Mục:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường, cùng được nghe giảng về tạng kinh Bồ-tát nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh khiến họ được hoan hỷ. Lại cũng muốn được gặp các vị Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn ở cõi ấy.

Đức Phật Đại Mục dạy:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi đến thế giới đó, xin hãy tùy ý. Bồ-tát hãy mang lời ta xin vấn an Đức Phật Thích-ca Văn có luôn được ít bệnh, ít phiền, khí lực có được khang kiện chăng?

Bồ-tát Câu-lưu-tôn-đề vâng lời Phật dạy, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, đi vòng quanh chỗ Phật ngồi ba vòng xong xuôi, chỉ trong khoảnh khắc một niệm đã hốt nhiên biến khỏi cõi Phật này, có mặt nơi thế giới Ta-bà, đi đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn rồi lui ra đứng một bên, thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Đức Như Lai Đại Mục xin gởi lời vấn an Đức Thế Tôn có được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt, đi đứng luôn khinh an, khang kiện chăng?

Đức Phật Thích-ca Văn nói:

–Đức Như Lai Đại Mục ở thế giới ấy có luôn được ít bệnh, ít phiền, khí lực luôn an ổn chăng?

Bồ-tát Câu-lưu-tôn-đề thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Đức Như Lai Đại Mục ở thế giới ấy luôn được bình an vô sự.

Như vậy là ở phương dưới, từ thế giới của Đức

Phật Đại Mục đến khoảng giữa này, lần lượt các

Đức Phật như Phật Thượng Đức, Phật Đại Đức, Phật Liên Hoa Đức, Phật Hữu Đức, Phật Sư Tử Đức, Phật Thành Lợi, Phật Sư Tử Hộ, Phật Sư Tử Giáp, Phật An Lập Vương, Phật Phạm Di Lâu, Phật Tịnh Nhãn, Phật Bất Hư Bộ, Phật Hương Tượng, Phật Hương Đức, Phật Hương Di Lâu, Phật Vô Lượng Nhãn, Phật Hương Tụ, Phật Bảo Quật, Phật Bảo Di Lâu, Phật An Trụ, Phật Thiện Trụ Vương, Phật Phạm Di Lâu, Phật Sa-la Vương, Phật Minh Luân, Phật Minh Đăng, Phật Bất Hư Tinh Tấn, Phật Thiện Tư Nghiêm, Phật Sư Tử, Phật Chúng Trinh Thật, Phật Diệu Thiện Trụ Vương… Đại thể, có vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ thế giới với chư Phật Thế Tôn như vậy, tất cả đều sai các vị Đại Bồtát Nhất sinh bổ xứ từ phương dưới vân tập đông đủ nơi thế giới Ta-bà, đi đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn, bày tỏ lời vấn an xong xuôi, rồi lui ta an tọa một bên.

Bấy giờ về phương trên, trải qua vô lượng atăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Chiên-đàn hương minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Cao Lực Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Lượng Âm thọ ký đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lúc này Bồ-tát Vô Lượng Âm trông thấy ánh hào quang tỏa chiếu, cùng nghe âm thanh lớn vang động, liền hỏi Đức Phật Vô Biên Cao Lực Vương:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng và âm thanh ấy là do Đức Phật nào tạo ra vậy?

Phật Vô Biên Cao Lực Vương nói:

–Này thiện nam! Về phương dưới, cách xa cõi này trải qua vô lượng a-tăng-kỳ cõi có thế giới tên là Ta-bà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì các vị Bồ-tát thuyết giảng về tạng kinh Bồ-tát, nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Đó chính là vị Phật đã tạo ra ánh sáng và âm thanh kia. Trong thế giới Ta-bà ấy có các vị Bồ-tát thành tựu đầy đủ đại nguyện trang nghiêm.

Bồ-tát Vô Lượng Âm nghe xong, bèn thưa với Đức Phật Vô Biên Cao Lực Vương:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường, cùng được gặp các vị Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm ở thế giới đó.

Đức Phật Vô Biên Cao Lực Vương đáp:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi đến thế giới đó, xin hãy tùy ý. Bồ-tát hãy mang lời ta xin vấn an Đức Phật Thích-ca Văn có luôn được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt có được thuận hợp, khang an chăng?

Lúc này Bồ-tát Vô Lượng Âm vâng lời Phật dạy, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, đi vòng quanh chỗ Phật ngồi ba vòng, xong xuôi, chỉ trong khoảnh khắc một niệm hốt nhiên biến khỏi cõi Phật này, đi đến thế giới Ta-bà, đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn rồi lui ra đứng một bên, thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Phật Vô Biên Cao Lực Vương xin gởi lời vấn an Đức Thế Tôn có luôn được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt luôn thuận hợp, khí lực được khang an chăng?

Đức Phật Thích-ca Văn nói:

–Đức Phật Vô Biên Cao Lực Vương ở thế giới ấy mọi sinh hoạt có được an ổn chăng?

Bồ-tát Vô Lượng Âm đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Đúng như Thế Tôn nói! Phật Vô Biên Cao Lực Vương ở thế giới ấy luôn được an ổn vô sự.

Bấy giờ Bồ-tát Vô Lượng Âm bày tỏ lời vấn an Đức Phật xong, bèn lui ra an tọa một bên.

Từ thế giới của Đức Phật Vô Biên Cao Lực Vương trở đi, lần lượt có các vị Phật như Phật Tinh Tấn Tối Cao Vương, Phật Phá Nghi, Phật Thiện Túc Vương, Phật Nhiên Đăng, Phật Tác Minh, Phật Minh Di Lâu, Phật Minh Luân Vương, Phật Tịnh Nhãn, Phật Bạch Cái, Phật Hương Cái, Phật Bảo Cái, Phật Chiên-đàn-quật, Phật Chiên-đàn Đức, Phật Tu-di Kiên, Phật Bảo Minh, Phật Ta-la Vương, Phật Phạm Đức, Phật Tịnh Nhãn, Phật Vô Kinh Bố, Phật Ly Bố Úy, Phật Diệu Kiên, Phật Thượng Bảo, Phật Sơn Vương, Phật Chuyển Nữ Tướng Nghiêm, Phật Vô Biên Nghiêm, Phật Vô Thượng Quang, Phật Võng Minh Tướng, Phật Nhân Vương… Đại thể, có đến vô lượng a-tăng-kỳ chư Phật như thế trong khắp các thế giới đều đã sai các vị Đại Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ từ phương trên vân tập đông đủ nơi thế giới Ta-bà, đi đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn, bày tỏ lời vấn an xong xuôi, liền lui ra an tọa một bên.

Về phương Đông nam, trải qua vô lượng atăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Phật hoa sinh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Nhất Thiết Duyên Trung Năng Hiện Phật Tướng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Ly Ưu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ Bồ-tát Ly Ưu trông thấy ánh sáng tỏa chiếu khắp, cùng nghe âm thanh vang động, liền hỏi Đức Phật:–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng và âm thanh ấy là do Đức Phật nào tạo ra vậy?

Phật Nhất Thiết Duyên Trung Năng Hiện Phật Tướng nói:

–Về phương Tây bắc, cách xa cõi này, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Ta-bà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì các vị Bồ-tát thuyết giảng về tạng kinh Bồ-tát nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Đó chính là vị Phật đã tạo ra ánh sáng và âm thanh ấy. Trong thế giới Ta-bà đó có các vị Đại Bồ-tát thành tựu đầy đủ các đại nguyện trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn.

Bồ-tát Ly Ưu nghe xong, bèn thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường, cùng được gặp các vị Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm ở cõi đó.

Đức Phật Nhất Thiết Duyên Trung Năng Hiện Phật Tướng nói:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi đến thế giới đó, xin hãy tùy ý. Bồ-tát hãy mang lời ta xin vấn an thăm hỏi Đức Phật Thích-ca Văn có luôn được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt đi đứng có thuận hợp, an ổn chăng?

Bấy giờ Bồ-tát Ly Ưu cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, đi vòng quanh chỗ Phật ngồi ba vòng, xong xuôi, chỉ trong khoảnh khắc một niệm, liền biến khỏi cõi Phật này và hiện ra nơi thế giới Tabà, đi đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn, lui ra đứng một bên và thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Đức Như Lai Nhất Thiết Duyên Trung Năng Hiện Phật Tướng xin gởi lời vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn có luôn được ít bệnh, ít phiền, khí lực luôn khang kiện chăng?

Đức Phật Thích-ca Văn hỏi:

–Đức Như Lai Nhất Thiết Duyên Trung Năng Hiện Phật Tướng ở thế giới ấy có luôn được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt luôn an ổn chăng?

Bồ-tát Ly Ưu đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Đức Như Lai Nhất Thiết Duyên Trung Năng Hiện Phật Tướng ở thế giới ấy luôn được bình yên vô sự.

Từ thế giới của Đức Phật Nhất Thiết Duyên Trung Năng Hiện Phật Tướng đến khoảng giữa này, lần lượt có các vị Phật như Phật Vô Biên Duyên Trung Hiện Phật Tướng, Phật Liên Hoa Phu Lực, Phật Võng Minh, Phật Vô Biên Minh, Phật Hoa, Phật Bảo Sa-la, Phật Phát Tâm Tức Chuyển Pháp Luân, Phật Hoa Tụ, Phật Tăng Thiên Quang, Phật Vô Thượng Quang, Phật Bất Động Lực, Phật Vô Biên Bộ Lực, Phật Vô Biên Nguyện, Phật Vô

Lượng Nguyện, Phật Vô Biên Tự Tại Lực, Phật Vô Định Nguyện, Phật Chuyển Thai, Phật Chuyển Chư Nạn, Phật Nhất Thiết Duyên Tu Hành, Phật Vô Duyên Trang Nghiêm, Phật Hư Không, Phật Hữu Đức… Đại thể, có vô lượng a-tăng-kỳ chư Phật như vậy trong khắp các thế giới đều sai các vị đại Đại Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ từ phương Đông nam thảy cùng vân tập đông đủ nơi thế giới Ta-bà, đi đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn, bày tỏ lời vấn an thăm hỏi xong xuôi, lui ra an tọa một phía.

Bấy giờ, về phương Tây nam, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Thiện cát, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Cát Lợi, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thành Nhất Thiết Lợi thọ ký đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lúc này Bồ-tát Thành Nhất Thiết Lợi trông thấy ánh sáng tỏa chiếu khắp, cùng nghe âm thanh lớn vang động, liền hỏi Đức Phật Cát Lợi:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng và âm thanh ấy là do Đức Phật nào tạo ra vậy?

Phật Cát Lợi nói:

–Này thiện nam! Về phương Đông bắc, cách xa cõi này, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Ta-bà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thíchca Văn, hiện tại đang vì các vị Bồ-tát thuyết giảng kinh tạng Bồ-tát, nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Đó chính là Đức Phật đã tạo nên ánh sáng và âm thanh kia. Nơi thế giới Ta-bà ấy có các vị Đại Bồ-tát thành tựu đầy đủ các đại nguyện trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn. Nếu có chúng sinh được nghe danh hiệu của các vị Bồ-tát đó thì thảy đều đạt được pháp không thoái chuyển.

Bồ-tát Thành Nhất Thiết Lợi nghe xong, bèn thưa với Đức Phật Cát Lợi:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường, cùng được gặp các vị Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm ở cõi ấy.

Phật Cát Lợi nói:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi đến thế giới đó, xin hãy tùy ý. Bồ-tát hãy mang lời ta xin vấn an thăm hỏi Đức Phật Thích-ca Văn có luôn được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt đi đứng đều thuận lợi an ổn cả chăng?

Bồ-tát Thành Nhất Thiết Lợi vâng lời Phật dạy, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, đi vòng quanh chỗ Phật ngồi ba vòng, xong xuôi, chỉ trong khoảnh khắc một niệm liền hốt nhiên biến khỏi cõi Phật ấy, đi đến thế giới Ta-bà, đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn rồi lui ra đứng một bên, thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Đức Như Lai Cát Lợi có lời vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn có luôn được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt, đi đứng luôn thuận hợp, an ổn chăng?

Phật Thích-ca Văn hỏi:

–Đức Như Lai Cát Lợi có luôn được mọi an lạc chăng?

Bồ-tát Thành Nhất Thiết Lợi đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Đức Như Lai Cát Lợi ở thế giới ấy luôn được bình an vô sự.

Bấy giờ, Bồ-tát Thành Nhất Thiết Lợi nêu bày lời vấn an thăm hỏi xong, liền lui ra an tọa một phía.

Như vậy là ở phương Tây nam, từ thế giới của Đức Phật Cát Lợi trở đi, lần lượt có các vị Phật như Phật Cát Lợi Nghiêm, Phật Thi Khí, Phật Thường Tinh Tấn, Phật Thiện Trụ, Phật Vô Biên Nghiêm, Phật Vô Tướng Nghiêm, Phật Phổ Nghiêm, Phật Tác Đăng, Phật Tác Minh, Phật Nhất Tạng, Phật Nhất Tụ, Phật Vô Biên Tượng, Phật Vô Biên Tinh Tấn, Phật Võng Quang, Phật Đại Thần Thông, Phật Minh Luân, Phật Quán Trí, Phật Bất Hư Xưng, Phật Hoại Chư Bố Úy, Phật Vô Biên Đức Vương Minh, Phật Ly Bố Úy, Phật Hoại Chư Oán Tặc, Phật Quá Chư Ma Giới, Phật Vô Lượng Hoa, Phật Trì Vô Lượng Đức, Phật Vô Lượng Âm

Thanh, Phật Quang Tụ, Phật Minh Đức, Phật Ly Nhị Biên, Phật Vô Lượng Giác Hoa Quang, Phật Vô Lượng Thanh, Phật Minh Di Lâu, Phật Ta-la Vương, Phật Bạch Diện, Phật Diệu Nhãn, Phật Thượng Đức, Phật Bảo Hoa, Phật Bảo Sinh, Phật Nguyệt Hoa, Phật Nhất Thiết Chúng Sinh Nghiêm, Phật Chuyển Nhất Thiết Sinh Tử, Phật Vô Biên Biện Tài, Phật Vô Kinh Bố, Phật Duyên Nhất Thiết Biện Tài… Đại thể, có đến vô lượng a-tăng-kỳ chư Phật như thế ở khắp các thế giới đều sai các vị đại Đại Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ từ phương Tây nam vân tập đông đủ nơi thế giới Ta-bà, cùng đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn, bày tỏ lời vấn an thăm hỏi, xong xuôi, lui ra an tọa một phía.

Bấy giờ, về phương Tây bắc, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Chiên-đàn hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phổ Hương Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phổ Minh thọ ký đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lúc này, Bồ-tát Phổ Minh trông thấy ánh hào quang tỏa chiếu, cùng nghe âm thanh lớn vang động khắp, liền hỏi Đức Phật Phổ Hương Quang:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng và âm thanh ấy là do Đức Phật nào tạo ra vậy?

Đức Phật Phổ Hương Quang nói:

–Này thiện nam! Về phương Đông nam, cách xa cõi này, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Ta-bà Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thích-ca Văn, hiện tại đang vì các vị Bồ-tát thuyết giảng kinh tạng Bồ-tát, nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Đó chính là Đức Phật đã tạo nên ánh sáng và âm thanh kia. Nơi thế giới của Đức Phật ấy có các vị Đại Bồ-tát thành tựu đầy đủ các đại nguyện trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn.

Bồ-tát Phổ Minh nghe xong bèn thưa với Đức Phật Phổ Hương Quang:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường, cùng được gặp các vị Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm bất khả tư nghị ở cõi ấy.

Đức Phật Phổ Hương Quang đáp:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi đến thế giới đó, xin hãy tùy ý. Bồ-tát hãy mang lời ta xin vấn an thăm hỏi Đức Phật Thích-ca Văn có luôn được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt đi đứng luôn được thuận lợi, an ổn cả chăng?

Bấy giờ Bồ-tát Phổ Minh cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, đi nhiễu quanh chỗ Phật ngồi ba vòng, xong xuôi, chỉ trong khoảnh khắc một niệm, hốt nhiên biến khỏi cõi Phật ấy, đi đến thế giới Tabà, đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn rồi lui ra đứng một bên, thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Phật Phổ Hương Quang xin có lời vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn có luôn được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt luôn an khang chăng?

Phật Thích-ca Văn hỏi:

–Đức Phật Phổ Hương Quang khí lực luôn được khang kiện cả chăng?

Bồ-tát Phổ Minh thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Phật Phổ Hương Quang ở nơi quốc độ ấy luôn được an ổn vô sự.

Bấy giờ Bồ-tát Phổ Minh cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, nêu bày lời vấn an xong, bèn lui ra an tọa một bên.

Như vậy là ở phương Tây bắc, từ thế giới Đức Phật Phổ Hương Quang trở đi, lần lượt có các vị Phật như Phật Hương Minh, Phật Hương Di Lâu, Phật Hương Tượng, Phật Hương Tự Tại, Phật Hương Quật, Phật Minh Luân, Phật Quang Vương, Phật Liên Hoa Sinh Vương, Phật Pháp Tự Tại, Phật Vô Biên Pháp Tự Tại, Phật Khả Lạc, Phật Ái Đức, Phật Tán Hoa, Phật Hoa Cái Hành Liệt, Phật

Hoa Quật, Phật Kim Hoa, Phật Hương Hoa, Phật

Di Lâu Vương, Phật Thiện Đạo Sư, Phật Nhất Thiết Chúng Sinh Tối Thắng Nghiêm, Phật Chuyển Chư Nạn, Phật Thiện Hành Nghiêm, Phật

Diệu Hoa, Phật Vô Biên Hương, Phật Phổ Phóng Quang, Phật Phổ Phóng Hương, Phật Phổ Quang, Phật Tán Hoa Sinh Đắc, Phật Bảo Võng Thủ, Phật Cực Cao Vương, Phật Phổ Chiếu Nhất Phật Độ, Phật Tú Vương, Phật Diệu Kiến, Phật An Lập Vương, Phật Hương Lưu, Phật Vô Biên Trí Tự Tại, Phật Bất Hư Nghiêm, Phật Bất Hư Kiến, Phật Vô Ngại Nhãn, Phật Bất Động, Phật Sơ Phát Ý, Phật Vô Biên Nhãn, Phật Đăng Thượng, Phật Phổ Chiếu Minh, Phật Quang Chiếu, Phật Nhất Thiết Thế Giới Nhất Thiết Chúng Sinh Bất Đoạn Biện Tài, Phật Vô Cấu Lực, Phật Vô Tích Hành… Đại thể, có đến vô lượng a-tăng-kỳ chư Phật như thế trong khắp các thế giới đều sai các vị Đại Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ từ phương Tây bắc, thảy vân tập đầy đủ nơi thế giới Ta-bà ấy, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn, nêu bày lời vấn an, thăm hỏi xong, bèn lui ra an tọa một bên.

Bấy giờ, về phương Đông bắc, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Chúng quy, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Diệt Nhất Thiết Ưu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bất Hư Xưng thọ ký đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lúc này Bồ-tát Bất Hư Xưng trông thấy ánh hào quang tỏa chiếu khắp, cùng nghe âm thanh lớn vang động, liền hỏi Đức Phật Diệt Nhất Thiết Ưu:

–Kính bạch Thế Tôn! Ánh sáng và âm thanh ấy là do Đức Phật nào tạo ra vậy?

Phật Diệt Nhất Thiết Ưu nói:

–Này thiện nam! Về phương Tây nam, cách xa cõi này, trải qua vô lượng a-tăng-kỳ cõi, có thế giới tên là Ta-bà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thíchca Văn, hiện tại đang vì các vị Bồ-tát thuyết giảng kinh tạng Bồ-tát, nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ. Đó chính là Đức Phật đã tạo nên ánh sáng và âm thanh kia. Nơi thế giới Ta-bà ấy có các vị Đại Bồ-tát thành tựu đầy đủ các đại nguyện trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn.

Bồ-tát Bất Hư Xưng thưa với Đức Phật Diệt Nhất Thiết Ưu:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được đi đến thế giới Ta-bà ấy để ra mắt Đức Phật Thích-ca Văn, lễ bái cúng dường, cùng được gặp các vị Đại Bồ-tát đầy đủ sự trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn ở cõi ấy.

Đức Phật Diệt Nhất Thiết Ưu nói:

–Bồ-tát đã dốc lòng muốn đi đến thế giới đó, xin hãy tùy ý. Bồ-tát hãy mang lời ta xin được vấn an thăm hỏi Đức Phật Thích-ca Văn có luôn được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt luôn thuận hợp, khí lực an ổn cả chăng?

Bấy giờ Bồ-tát Bất Hư Xưng cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, đi nhiễu quanh chỗ Phật ngồi ba vòng, xong xuôi, chỉ trong khoảnh khắc một niệm, hốt nhiên biến khỏi cõi Phật ấy, đi đến thế giới Tabà, đến thành Vương xá, tới thẳng vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn rồi lui ra đứng một bên, thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Phật Diệt Nhất Thiết Ưu xin gởi lời vấn an thăm hỏi Đức Thế Tôn có luôn được ít bệnh, ít phiền, mọi sinh hoạt đi đứng luôn an lành cả chăng?

Phật Thích-ca Văn nói:

–Đức Phật Diệt Nhất Thiết Ưu có luôn được ít bệnh, ít phiền, khí lực khang kiện cả chăng?

Bồ-tát Bất Hư Xưng đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Phật Diệt Nhất Thiết Ưu ở thế giới ấy luôn được an lành vô sự.

Bấy giờ Bồ-tát Bất Hư Xưng cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn, bày tỏ lời vấn an, thăm hỏi xong, bèn lui ra an tọa một phía.

Về phương Đông bắc có thế giới tên là Ly nhất thiết ưu, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Ly ưu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đại Minh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ly nhất thiết ưu trở đi, trải qua trong khoảng sáu vạn cõi có thế giới tên là Hỷ lạc, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hỷ Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Báo Ân thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hỷ lạc đến khoảng giữa này có thế giới tên là An ẩn, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là An Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Nạn thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới An ẩn đến khoảng giữa này có thế giới tên là Kim cang phú, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Di Lâu, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Sư Tử Di Lâu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Kim cang phú đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hương minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Diệu Hương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thanh Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hương minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bảo tụ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Kiều Trần Nhã, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đại Tụ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bảo tụ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Kiên cố, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thế Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phạm Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Kiên cố đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thanh liên hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Xích Liên Hoa Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hoa Sinh thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thanh liên hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Bạch liên hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bạch Liên Hoa Sinh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Hữu thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Bạch liên hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Đại âm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Đại Âm Nhãn, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Thượng Chúng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Đại âm đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hương tán, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Thượng Chúng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thiện Lai thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hương tán đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đức Tạng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chiên-đàn hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Nguyệt Xuất Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phương Đẳng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chiên-đàn hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Lưu Thập Phương, hiện tại đang vì Đại Bồtát Thập Phương Lưu Bố Lực Vương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nguyệt, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tinh Tú Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Xưng Chúng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nguyệt đến khoảng giữa này có thế giới tên là Phổ minh đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Quang Minh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Cấu Tướng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Phổ minh đức đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hương minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hương Di Lâu, hiện tại đang vì Đại Bồtát Tuyển Trạch thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hương minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô úy, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Ly Bố Úy, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hỷ Nguyệt thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô úy đến khoảng giữa này có thế giới tên là Thượng an, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là An Ẩn Sinh Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Định Ý thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Thượng an đến khoảng giữa này có thế giới tên là Vô biên minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Công Đức Nguyệt, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hỷ Nguyệt thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Vô biên minh đến khoảng giữa này có thế giới tên là Trang nghiêm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Nhất Thiết Công Đức Nghiêm, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Diệu Uy Nghi thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Trang nghiêm đến khoảng giữa này có thế giới tên là Liên hoa tán, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoa Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Hoa Sinh Cao Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Liên hoa tán đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tạp tướng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bất Hoại Tướng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Thắng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Tạp tướng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Kiên cố, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tôn Thủ Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Âm Thủ thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Kiên cố đến khoảng giữa này có thế giới tên là Lạc hý, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Đại Uy Đức Liên Hoa Sinh Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Trí Lạc thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Lạc hý đến khoảng giữa này có thế giới tên là Lạc, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Dị Sinh Hạnh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vô Di Hành Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Lạc đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hỷ, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Nhất Thiết Thượng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thượng thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hỷ đến khoảng giữa này có thế giới tên là Lạc đức, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hư

Không Tịnh Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Di Lâu Vương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Lạc đức đến khoảng giữa này có thế giới tên là Hỷ lạc, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Tướng Âm Thanh, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Quán Âm Định Nghiêm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Hỷ lạc đến khoảng giữa này có thế giới tên là Ta-bà, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Bảo Tối Cao Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Thậm Thâm thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Ta-bà đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng phạm, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Phạm Đức, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Phạm Tử thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng phạm đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng hương, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Ngại Hương Chúng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Đế Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồđề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng hương đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chúng hoa, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Di Lâu Minh, hiện tại đang vì Đại Bồtát Sa-già-la thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Chúng hoa đến khoảng giữa này có thế giới tên là Nhiên đăng, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Đại Đăng, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Vân Quang thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Nhiên đăng đến khoảng giữa này có thế giới tên là Tác danh văn, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Hoa Thượng Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Lạc Pháp thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Tác danh văn đến khoảng giữa này có thế giới tên là Đa lạc, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Tác Danh Văn, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Di Lâu Đức thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Đa lạc đến khoảng giữa này có thế giới tên là An lập, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Danh Từ, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Sư Tử Lực thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới An lập đến khoảng giữa này có thế giới tên là Sa-la, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Sala Vương, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Sơn Vương thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Từ thế giới Sa-la đến khoảng giữa này có thế giới tên là Chiếu minh, Đức Phật ở thế giới ấy hiệu là Vô Biên Quang, hiện tại đang vì Đại Bồ-tát Bất Hư Bộ Lực thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Mọi sự việc tiếp theo giống như đã nêu ở trên.

Như thế là có đến vô lượng a-tăng-kỳ chư Phật ở khắp các thế giới đã sai các vị Đại Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ từ phương Đông bắc, thảy cùng vân tập đông đủ nơi thế giới Ta-bà, đi đến thành Vương xá, tới thẳng khu vườn Trúc, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật Thích-ca Văn, bày tỏ lời vấn an thăm hỏi, xong xuôi thì lui ra an tọa một bên.

Lúc này, trong khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới chư Thiên đại uy đức, Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-đà-la, Mahầu-la-già, Nhân phi nhân cùng với chúng đại Đại Bồ-tát Nhất sinh bổ xứ đều có mặt đông đủ nơi chúng hội, không còn một chỗ trống nào. Đại chúng hết sức đông đảo này, do thần lực của Phật nên thảy đều hòa hợp, thuận lợi, không có trở ngại gì.

QUYỂN 6

Phẩm 19: Các pháp Tam-muội

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhận thấy đại chúng khắp nơi đều đã vân tập đông đủ, tức thì ở nơi tòa báu nhập pháp Tam-muội Phật thủ-lăng-nghiêm. Ra khỏi pháp Tam-muội Thủ-lăng-nghiêm, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật diệu kim cang. Ra khỏi pháp Tam-muội Diệu kim cang, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật tri thập phương ngôn âm sai biệt. Ra khỏi pháp Tam-muội Tri thập phương ngôn âm sai biệt, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật vô lượng trang nghiêm. Ra khỏi pháp Tam-muội Vô lượng trang nghiêm, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật sư tử nguyệt. Ra khỏi pháp Tam-muội Sư tử nguyệt, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật sư tử phấn tấn. Ra khỏi pháp Tam-muội Sư tử phấn tấn, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật vô biên duyên. Ra khỏi pháp Tam-muội Vô biên duyên, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật quang vương. Ra khỏi pháp Tammuội Phật quang vương, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật diệu đà-la-ni. Ra khỏi pháp Tammuội Diệu đà-la-ni, Đức Thế Tôn nhập pháp Tammuội Phật vô tướng sinh. Ra khỏi pháp Tam-muội Vô tướng sinh, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật sư tử tự tại lực. Ra khỏi pháp Tam-muội Sư tử tự tại lực, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật tịnh nguyệt. Ra khỏi pháp Tam-muội Tịnh nguyệt, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật nhất tướng nghiêm. Ra khỏi pháp Tam-muội Nhất tướng nghiêm, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật Chúng tướng nghiêm. Ra khỏi pháp Tammuội Chúng tướng nghiêm, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật vô biên quang. Ra khỏi pháp Tam-muội Vô biên quang, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật đại hải. Ra khỏi pháp Tam-muội Đại hải, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật khởi nhất thiết pháp hải pháp tánh định. Ra khỏi pháp Tam-muội Khởi nhất thiết pháp hải pháp tánh định, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật thị vô biên nguyện duyên. Ra khỏi pháp Tam-muội Thị vô biên nguyện duyên, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật sinh nhất thiết vô biên tự tại pháp. Ra khỏi pháp Tam-muội Sinh nhất thiết vô biên tự tại pháp, Đức Thế Tôn nhập pháp Tammuội Phật nhất thiết pháp vô trụ xứ. Ra khỏi pháp Tam-muội Nhất thiết pháp vô trụ xứ, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật vô biên quang cao hoa. Ra khỏi pháp Tam-muội Vô biên quang cao hoa,

Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật nhất thiết pháp tư lượng tịnh ấn. Ra khỏi pháp Tam-muội Nhất thiết pháp tư lượng tịnh ấn, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật nhất thiết pháp vô cấu ấn. Ra khỏi pháp Tam-muội Nhất thiết pháp vô cấu ấn, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật thị vô biên Phật tự tại lực. Ra khỏi pháp Tam-muội Thị vô biên Phật tự tại lực, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật nhất thiết chúng sinh diệt tướng. Ra khỏi pháp Tam-muội Nhất thiết chúng sinh diệt tướng, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật nhất thiết pháp Như Lai sở hành. Ra khỏi pháp Tam-muội Nhất thiết pháp Như Lai sở hành, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật thị vô biên tự tại thần thông trang nghiêm. Ra khỏi pháp Tammuội Thị vô biên tự tại thần thông trang nghiêm, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật tam thế vô ngại nhất thiết pháp tánh định. Ra khỏi pháp Tam-muội Tam thế vô ngại nhất thiết pháp tánh định, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật nhất thiết pháp trung đắc tự tại lực. Ra khỏi pháp Tammuội Nhất thiết pháp trung đắc tự tại lực, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật nhiếp nhất thiết pháp hải tự tại ấn. Ra khỏi pháp Tam-muội Nhiếp nhất thiết pháp hải tự tại ấn, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật Kiên cố. Ra khỏi pháp Tammuội Kiên cố, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật thiện thông đạt. Ra khỏi pháp Tam-muội

Thiện thông đạt, Đức Thế Tôn nhập pháp Tammuội Phật vô động. Ra khỏi pháp Tam-muội Vô động, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật quan kiến nhất thiết pháp. Ra khỏi pháp Tam-muội

Quan kiến nhất thiết pháp, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật phổ minh. Ra khỏi pháp Tammuội Phổ minh, Đức Thế Tôn nhập pháp Tammuội Phật phổ quan ấn. Ra khỏi pháp Tam-muội Phổ quan ấn, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật vô minh ám. Ra khỏi pháp Tam-muội Vô minh ám, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật vô kiến. Ra khỏi pháp Tam-muội Vô kiến, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật nhất thiết pháp vô ngại vô thủ. Ra khỏi pháp Tam-muội Nhất thiết pháp vô ngại vô thủ, Đức Thế Tôn nhập pháp Tammuội Phật vô tận tướng. Ra khỏi pháp Tam-muội Vô tận tướng, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật vô tận định. Ra khỏi pháp Tam-muội Vô tận định, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật vô tận duyên. Ra khỏi pháp Tam-muội Vô tận duyên, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật nhất bảo tướng. Ra khỏi pháp Tam-muội Vô bảo tướng, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật đại trang nghiêm. Ra khỏi pháp Tam-muội Đại trang nghiêm, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật vô biên trang nghiêm. Ra khỏi pháp Tam-muội Vô biên trang nghiêm, Đức Thế Tôn nhập pháp Tammuội Phật vô sân hận. Ra khỏi pháp Tam-muội Vô sân hận, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật thị nhất thiết chúng sinh thiện căn. Ra khỏi pháp Tam-muội Thị nhất thiết chúng sinh thiện căn, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật nhất thiết chúng sinh chủng thiện căn nhân duyên. Ra khỏi pháp Tam-muội Nhất thiết chúng sinh chủng thiện căn nhân duyên, Đức Thế Tôn nhập pháp Tammuội Phật nhất thiết nhập. Ra khỏi pháp Tam-muội Nhất thiết nhập, Đức Thế Tôn nhập pháp Tammuội Phật nhất thiết pháp Tịnh hành. Ra khỏi pháp Tam-muội Nhất thiết pháp tịnh hành, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật bất hiện nhất thiết pháp. Ra khỏi pháp Tam-muội Bất hiện nhất thiết pháp, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật chiếu minh trang nghiêm nhất thiết Bồ-tát. Ra khỏi pháp Tam-muội Chiếu minh trang nghiêm nhất thiết Bồtát, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật tịnh nhất thiết thanh văn nhãn. Ra khỏi pháp Tam-muội Tịnh nhất thiết thanh văn nhãn, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật nhất thiết chúng sinh chủng vô ngại tịnh thiện căn. Ra khỏi pháp Tam-muội Nhất thiết chúng sinh chủng vô ngại tịnh thiện căn, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật tức tam ác thú khổ não. Ra khỏi pháp Tam-muội Tức tam ác thú khổ não, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật nhất thiết Phật độ trung chúng sinh chủng thiện căn. Ra khỏi pháp Tam-muội Nhất thiết Phật độ trung chúng sinh chủng thiện căn, Đức Thế Tôn nhập pháp Tam-muội Phật bất động biến. Hiện tại Đức Thế Tôn đã an trụ trong pháp Tam-muội Bất động biến ấy.

Lúc này, chư Thiên ở cõi trời Tịnh cư dùng kệ tán dương Đức Thế Tôn:

Phật trụ Bất động biến
Uy đức như Tu-di
Diệt hý luận ngoại đạo
Hào quang tỏa đại thiên.
Tâm ấy chẳng thể thấy
Nhập định Vô y chỉ
Nhập định mà không nương
Phật chẳng thể nghĩ bàn.
Vì dứt mọi lưới nghi
Xót thương nên thuyết pháp
Luôn định chốn vô ngại
Ba minh hiện ba cõi.
Bồ-tát trí đức lớn
Nay đều tụ tập đông
Phật nơi định không ngại
Mong được dứt mọi ngờ.
Phật định chẳng nương nhãn
Cũng lại chẳng không nương
Vô nhãn tướng một nẻo
Định ấy xin tán thán.
Nơi Định nếu nương nhãn
Phật ắt là dối lừa
Biết nhãn không chốn có
Nên Phật định chẳng nương.
Phật không nương sáu căn
Cũng chẳng phải không nương
Ngoại đạo chấp lẽ ấy
Mọi nẻo đời chẳng tường.

Phẩm 20: Cầu pháp

Bấy giờ Đức Thế Tôn thư thái, tự tại ra khỏi pháp Tam-muội Bất động biến và nói với Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Chư Đại Bồ-tát có bốn pháp nên thực hiện để có được trí Bất thoái, đạt được tâm đại Từ bi do tuệ của pháp Tam-muội, cũng có thể đạt đến mười lực vô ngại của Phật. Lại ở nơi các pháp có được Tuệ phân biệt, có được biện tài vô ngại, biện tài không gián đoạn, biện tài hết sức nhanh nhạy, biện tài vui thích nói pháp không chán, biện tài sâu xa, sắc sảo, biện tài không ai có thể sánh được; có được các pháp Tổng trì, luôn thấy gặp chư Phật, tin thọ xuất gia, dốc tu theo chánh pháp. Nơi chốn sinh ra đời đời luôn được dồi đào về tài lợi, quyến thuộc đông đảo, dung mạo đầy đủ, thân tướng không bị khiếm khuyết, các căn: mắt, tai, mũi, lưỡi và thân luôn được nguyên vẹn sung mãn. Ngôn từ không hề thua kém, tâm trí không tăm tối, không đi theo tà đạo, chí luôn tập trung, nhớ nghĩ không bị lầm lạc, thường nhớ tới những sự việc từ xa xưa để luôn có được sự hổ thẹn cần thiết, cũng như khéo tư duy, lường tính để xa lìa mọi điều xấu ác. Trong sự chuyển biến của thân mạng, đời đời luôn giữ lấy chánh niệm, không đánh mất bản nguyện. Đó gọi là chỗ vun trồng, xây dựng vô lượng các căn lành để có được quả tốt đẹp nơi chư Phật, nhận ra vốn không có ngã và ngã sở, chỉ vì sự an lạc của hết thảy chúng sinh, nhưng cũng không vướng vào hình tướng của chúng sinh. Tuy nhận thức rõ ràng về các pháp mà không thấy có chỗ nương tựa. Do không có chỗ nương tựa nên các loài ma cùng với tà đạo không thể hủy hoại được, tất đi tới đạo tràng, an tọa nơi đạo tràng rồi thì trụ nơi tất cả các pháp, tư duy theo pháp Tam-muội Tịnh ấn. Từ pháp Tam-muội ấy, dùng một niệm để tạo sự hòa hợp với trí tuệ, và đối với mọi sở hữu của các pháp đều có thể nhận thức, đạt được, đoạn lìa, tu chứng. Hoặc là Hữu lậu–Vô lậu, hoặc thế gian hay xuất thế gian, hoặc gần hoặc xa, hoặc thô hoặc tế, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc ở nơi quá khứ, hiện tại, vị lai, hoặc mọi nẻo hành của tâm, hoặc mọi nẻo hành của trí, hoặc các hướng tư duy lường tính của tâm, hoặc các ngã tư duy lường tính của trí, hoặc chỗ duyên của tâm, hoặc chỗ duyên của trí, hoặc chỗ tưởng của tâm, hoặc chỗ tưởng của trí, hoặc ở nơi các số của tâm, hoặc ở tại các số của pháp hay số của chúng sinh. Hoặc giả danh có, hoặc pháp thực có; về tổng tướng, biệt tướng cùng các lối trình bày khác, nhân chỗ đó mà thuyết pháp hoặc sự việc được thuyết giảng. Lấy cái gì mà thuyết giảng? Hoặc dùng ngôn ngữ, hoặc dùng sự tướng, hoặc cấu uế, hoặc thanh tịnh. Hết thảy mọi thứ, mọi loại ngôn từ nơi thế gian, chỗ gọi là mọi tên gọi câu chữ thuộc về mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý; thuộc về đầu, lông, tóc và mọi thứ chi phần của cơ thể con người; cũng như nơi các pháp bên ngoài với hết thảy các đại hiện có như địa, thủy, hỏa, phong cùng mọi thứ, mọi loài về nơi chốn sinh hoạt với những tên gọi câu chữ khác biệt. Như tên gọi về mặt trời, mặt trăng, về ngày tháng, về Phạm thích, chư Thiên, Dạ-xoa, theo hình tướng của chúng có hay theo hình tướng đã nêu bày, tùy chỗ đã nhận biết rõ cùng chỗ tham đắm vướng mắc. Hoặc nhân, hoặc duyên, hoặc đạo, hoặc hành, hoặc buộc hoặc mở, hoặc dùng phương tiện, hoặc theo sự chuyển biến mạnh mẽ. Hoặc trí hoặc tuệ, hoặc trí theo phương tiện cùng với mọi thứ kỹ thuật ở thế gian. Hoặc tốt, hoặc xấu. Hết thảy mọi sự việc như thế đều an trụ nơi tất cả các pháp để tư duy về pháp Tam-muội Tịnh ấn, dùng một niệm để tạo được sự tương ứng với Tuệ, thông đạt rốt ráo, trọn vẹn, từ đấy dứt trừ sạch tất cả mọi “tập” của phiền não.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Những gì là bốn pháp nên thực hiện? Nếu có vị Đại Bồ-tát kiến lập Đại thừa, vì lợi ích sâu xa của nhiều chúng sinh nên phát sự trang nghiêm lớn lao, thì phải suy nghĩ như thế này: “Tất cả chúng sinh do tham dục, sân hận, ngu si dấy khởi mạnh mẽ, hoàn toàn không tạo điều thiện, chết bị đọa vào nẻo ác, ít kẻ có thể cứu được. Ta nay sẽ vì những chúng sinh ấy tập hợp mọi thứ thuốc của bậc đại trí dùng để cứu chữa cho họ, khiến họ ra khỏi nẻo sinh tử trong ba cõi. Sẽ vì chúng sinh mà làm một vị thầy tự nguyện giáo hóa, dẫn dắt khiến họ đạt được sự thông tỏ về tính chất bất hoại nơi tướng của các pháp.” Đó gọi là sự bất hoại của sắc, thọ, tưởng, hành, thức, cũng là đạt được sự bất hoại của nẻo Niết-bàn cao tột. Các vị Bồ-tát ấy, lúc phát khởi tâm kia, vì cầu pháp mà khởi lên sự trang nghiêm lớn lao.

Thế nào gọi là pháp? Đó là mọi cái có khả năng hỗ trợ cho đạo Vô thượng Bồ-đề, tập hợp được các pháp của Phật. Đó là kinh chứa những sự chỉ dẫn cho hàng Bồ-tát nhằm dứt trừ mọi mối nghi, đem lại sự hoan hỷ cho họ. Bồ-tát theo đấy mà thọ trì, đọc tụng, tu tập và tùy theo mọi chúng sinh có căn trí lợi hay độn để vì họ mà diễn giảng, chỉ dẫn. Bồtát vào lúc dốc tâm cầu pháp như vậy, cho đến khi đạt được một bài kệ bốn câu với nghĩa lý hết mực thâm diệu cùng phương tiện cần yếu từ lời Phật thuyết giảng, hoặc thọ, hoặc trì, đọc tụng, biên chép, thậm chí có thể vì một người mà vẫn diễn thuyết. Trước, nên tạo nguyện này: nhằm khiến cho người ấy thuận theo nghĩa đó, từ đấy mà khiến cho hết thảy chúng sinh cũng đều được thông tỏ. Bồ-tát dùng nhân duyên thuyết pháp ấy thì sẽ đạt được điều tối thượng, tức ở chỗ được Phật chấp thuận, được các bậc trí khen ngợi.

Bốn phép bàn rộng là như vậy. Những gì là bốn?

1. Đối với Phật pháp phải có được niệm không gián đoạn cùng niệm quyết định, dứt khoát.

2. Thân có thể gắng gổ nhận làm vật dùng cho chánh pháp.

3. Vì chư Phật, luôn thuận hợp trong việc nêu bày, giáo hóa chánh pháp.

4. Có thể đạt được các pháp Đà-la-ni, mọi chuyển biến của thân mạng đời đời đều sinh nơi pháp Phật, các nẻo sinh không bị rơi vào tà kiến, ở nơi các pháp Phật luôn vui thích với việc xuất gia tu tập, lìa chán năm thứ dục lạc. Đó là bốn pháp.

Bồ-tát dùng bốn pháp ấy làm nhân duyên cho các căn lành, sẽ đạt được mười pháp.

Những gì gọi là mười? Đối với các pháp có thể đoạn trừ mọi nghi hoặc, biết được mọi vui thích nơi tâm của các chúng sinh, có thể đạt đến sự giải thoát vô ngại của chư Phật. Chính do sự giải thoát ấy mà nơi mỗi mỗi lỗ chân lông trên thân tướng của Phật đều phát ra trăm ngàn vạn ức vô số ánh hào quang, mỗi mỗi ánh hào quang ấy đã tỏa chiếu khắp trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ cõi. Nơi mỗi mỗi ánh hào quang đó đều có trăm ngàn vạn ức a-tăngkỳ số đóa hoa sen quý giá, vi diệu. Trên mỗi mỗi đóa hoa sen đều có một vị Phật an tọa, và mỗi mỗi vị Phật an tọa đó đều cùng thuyết một loại chánh pháp, tất có thể độ thoát cho trăm ngàn vạn ức vô số chúng sinh, đạt được tính chất bất hoại của các pháp. Như Lai do từ diệu lực của sự giải thoát ấy, nên nơi mỗi mỗi lỗ chân lông trên thân tướng, chỗ hiện rõ ánh hào quang đó đều phát ra trăm ngàn vạn ức ngọn lửa sáng rực như núi Tu-di. Cũng từ chỗ hiện rõ ánh hào quang kia đã phát ra hằng hà sa số các dòng nước lớn. Do từ diệu lực của sự giải thoát vô ngại nên Phật có thể đem cả tam thiên đại thiên thế giới đặt vào trong một lỗ chân lông và bỏ sang một phương khác, trải qua vô lượng hằng sa quốc độ mà các chúng sinh ở đấy không hề bị quấy hại, cũng không hề có ý tưởng về sự đi lại của mình.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Do từ diệu lực của sự giải thoát vô ngại ấy, nên Phật có thể thông tỏ mọi thứ ngôn từ sai biệt của tất cả chúng sinh trong mười phương, cũng hiểu biết một cách trọn vẹn về nối tiếp không gián đoạn nơi tâm niệm trong trăm ngàn vạn ức a-tăng-kỳ kiếp của tất cả chúng sinh trong mười phương, cũng dứt trừ mọi mối nghi hoặc của chúng sinh nơi các chốn không có Phật pháp trong vô lượng a-tăng-kỳ thế giới. Lại cũng chính từ diệu lực của sự giải thoát không còn chút nghi hoặc ấy nên Phật có thể thông tỏ về sự điều phục tính chất bùng phát cùng thứ lớp hiện hành của tâm chúng sinh, biết rõ về hình tướng sai biệt của tất cả các pháp, cũng có sự thấu đạt dứt khoát, trọn vẹn về các pháp đều là không, mà trong ấy không có ngã và đối tượng của ngã, lìa bỏ hết thảy mọi hình tướng hữu vi. Vì sao? Vì Như Lai đã quán xét, nhận biết về các pháp hữu vi đều hàm chứa các lỗi lầm, xa lìa mọi công đức, không một pháp nào có thể giữ lấy. Do từ sự thông tỏ như thế nên đã đạt được pháp ấy.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như Lai, do từ diệu lực của sự giải thoát ấy mà lại có được bốn pháp.

Những gì gọi là bốn?

1. Dứt trừ sạch mọi phiền não cùng tập khí của chúng.

2. Lúc Phật đi trên đường, nếu chúng sinh nào khởi lên sự tiếp xúc với những bước chân đã đi qua ấy thì sẽ cảm nhận sự an vui trong bảy ngày.

3. Lúc Như Lai xoay thân về phía bên phải thì từ nơi chiều sâu của đất đến tám vạn bốn ngàn dotuần nghe như tiếng bánh xe quay ngược lại.

4. Luôn có được sự an định từ lúc mới bắt đầu không hề thoái lui hay mất mát.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Hãy nên ghi nhớ lấy lời quan trọng này: Bồ-tát cầu pháp phải nên dốc hết sự thâu nhiếp của mình đối với tất cả các pháp Phật.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ ý nghĩa trên, nên nói bài kệ: Nếu người cầu trí Phật

Cùng tâm đại Từ bi
Đạt trí tuệ giải thoát
Nên phải cung kính pháp.
Muốn được thần thông lớn
Chấn động cõi đại thiên
Rõ tâm mọi chúng sinh
Nên phải cung kính pháp.
Như muốn dùng một niệm
Biết khắp hết thảy tâm
Tâm ấy không hình sắc
Như ảo, chẳng bền chắc.
Do vì cung kính pháp
Luôn được mọi phước báo
Cũng chứng đắc vô lượng
Các pháp của chư Phật
Do vì cung kính pháp
Luôn được niệm không mất
Nơi mỗi mỗi chốn sinh
Chánh niệm luôn tăng trưởng.
Do vì cung kính pháp
Chẳng hề mất sắc diệu
Nơi sinh thường đoan chánh
Thân tướng đều đầy đủ.
Nên được gặp chư Phật
Gặp Phật, tâm tin vui
Do tâm được thanh tịnh
Nên phải cúng dường Phật.
Đời đời nơi chốn sinh
Tín lực luôn tăng trưởng
Lìa năm dục nhơ, ác
Thường vui hạnh xuất gia.
Do có được tín lực
An trụ trong giới tịnh
Chỉ muốn cầu thiền định
Không vì giới, tự cao
Luôn vui đạt mọi thiền
Mà không chấp vào pháp
Nhằm cầu chân trí tuệ
Nên dứt trừ các lậu
Luôn vui theo trí tuệ
Mà không vướng tướng tuệ
Chỉ dùng vô tướng tuệ
Muốn cầu các pháp Phật
Được các pháp tuệ tỏ
Phật khen pháp Tổng trì
Gắng sức làm pháp khí
Thần thông Phật hộ trì
Người ấy được Phật độ
Đạt bốn trí vô ngại
Biện tài không chốn lường
Lợi chúng nên thuyết pháp
Ba thời giữ gìn pháp
Sơ, trung cùng sau rốt
Luôn vì chỗ Phật khen
Đem lợi lớn muôn loài
Làm chốn giúp chư Thiên
Long, thần đều cung kính
Được chư Phật hộ niệm
Danh vang khắp mười phương
Được bao người xưng tụng
Ham thích mọi nẻo thiện
Trọn chẳng vui phi pháp
Thường tu tập Phật đạo
Pháp sáng luôn tỏa chiếu
Dứt sạch mọi hồ nghi.
Tánh trí tuệ được tịnh
Diệt ưu não chúng sinh
An trụ nơi đường chính
Trọn chẳng theo tà thuyết
Trọn hành pháp tối thắng
Đó là đạo Vô thượng.
Người ấy không dựa tâm
Cũng chẳng phải không dựa
Rõ tâm pháp như ảo
Nên không chốn nương tựa.
Đem tâm không dựa ấy
Luôn tu hành Phật đạo
Trải qua khắp nơi chốn
Mà tâm không tham vướng
Thích du hóa các phương
Vượt bao nẻo ràng buộc
Không tham cầu danh lợi
Xa lìa mọi thân, tình
Chẳng còn chút tỳ vết
Tâm tịnh như hư không.
Ai thấy Bồ-tát ấy
Mà không sinh cung kính?
Do vậy, nghe pháp này
Phải nên nhất tâm học
Do được pháp Phật ấy
Đem lợi lớn muôn loài
Ở nơi pháp diệu đó
Không còn chốn trở ngại
Ta nêu đạo chánh ấy
Chỉ kẻ trí cầu học.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu vị Đại Bồ-tát dốc lòng cầu pháp thì phải học hỏi để có được sự đa văn cùng phương tiện của sự đa văn.

Thế nào gọi là đa văn? Là phương tiện đa văn? Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Người đa văn tức là luôn dựa theo sự nghe nhiều biết rộng của người khác. Còn phương tiện đa văn ấy tức là có thể tự mình tư duy, lường tính, chuyên tâm chánh niệm. Dựa theo sự nghe nhiều biết rộng của người khác ấy, tức là thuận theo đạo pháp từ ngôn ngữ thuyết giảng của chư Phật gồm trong các thứ kinh: Tu-đala, Kỳ-dạ, Xà-già-la-na, Già-đà, Ưu-đà-na, A-bađà-na, Y-đề-vị-đa-già, Xà-đa-già, Quảng kinh, Vị tằng hữu kinh, Ưu-bà-đề-xá. Đấy chính là dựa theo sự nghe nhiều biết rộng nơi người khác với ngôn thuyết thuận hợp đạo pháp.

Còn thế nào gọi là tư duy chuyên tâm chánh niệm? Đối với pháp phương tiện, phải khéo nhận rõ năm ấm, mười hai nhập, mười tám giới, mười hai nhân duyên đều từ duyên sinh. Là trắng, là đen, là tốt, là xấu, phân biệt chọn lựa để thấy chúng đều gồm trong hình tướng, vị trí, bản tánh của các pháp. Thông đạt được như thế thì đó gọi là chánh niệm. Vì sao? Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì Như Lai theo phương tiện diễn nói về năm ấm mà chẳng phải năm ấm. Nói về mười hai nhập cùng mười tám giới mà chẳng phải là giới, nhập. Nói về mười hai nhân duyên mà chẳng phải là nhân duyên. Nói các pháp từ duyên sinh mà hình tướng là vô định. Chỉ vì nhằm hóa độ chúng sinh mà nêu giảng như vậy. Do đó mà các vị phải nên nương nơi nghĩa, chớ nên nương ở lời. Hàng phàm phu không trí mới bám theo ngôn thuyết, còn kẻ trí thì theo nghĩa.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Thế nào gọi là ngôn thuyết? Đối với mọi sở hữu về ngôn âm, văn tự sai biệt, mình giữ lấy hình tướng của chúng, suy cứu, tìm cầu để cho rằng có thể nhận thức, lãnh hội, trông thấy, đoạn trừ, tu chứng, có hình tướng, theo tâm và các pháp của tâm, nơi chốn có thể nghi hoặc, có thử có bỉ, phân biệt nêu bày các pháp như vậy đều gọi là ngôn thuyết.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Thế nào gọi là theo nghĩa? Dùng ngôn thuyết để diễn đạt, chỉ rõ, đó là nghĩa. Nếu phân biệt đối với nghĩa tức là ngôn thuyết. Vì vậy, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Phải biết nghĩa ấy là chẳng có thể ngôn thuyết. Dựa theo ý nghĩa ấy để lãnh hội những điều đã nói trong các kinh. Như Lai không cùng với thế gian tranh biện, chỉ thế gian cùng Như Lai tranh biện.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Chỉ có Như Lai có thể dùng phương tiện để nói về ấm, giới, các nhập, mười hai nhân duyên, các pháp từ duyên sinh. Ngoài ra, không ai có thể nói như thế.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Các pháp được Phật thuyết giảng và tuyển chọn đều không có tranh tụng. Thế nào gọi là pháp? Làm thế nào tuyển chọn? Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Mắt tức là pháp, tai, mũi, lưỡi, thân, ý tức là pháp. Vì sao? Vì mắt ấy ở trong quá khứ, vị lai hãy còn là không, huống chi là trong hiện tại. Vì sao? Vì tánh của mắt tự nó là như vậy. Do đó mà gọi là pháp. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý ở trong quá khứ, vị lai hãy còn là không, huống chi là hiện tại. Vì sao? Vì tánh của ý tự nó là như thế, cho nên gọi là pháp. Còn thế nào là tuyển chọn? Như sự tuyển chọn của mắt. Mắt từ duyên sinh là không, tướng không cố định. Nếu có tướng cố định thì mắt ứng hợp để biết được mắt. Nếu mắt biết được mắt tức là có hai thứ mắt. Như thế thì cũng ứng hợp với việc có người nhìn thấy từ bên trong. Có như vậy là không đúng. Tai, mũi, lưỡi, thân, ý cũng như thế. Tuyển chọn như vậy là Pháp nhãn. Nắm vững đối với ý nghĩa ấy là chánh kiến của bậc Đại sĩ. Phải nên quan sát mắt là sự giả hợp của tên, chữ. Mắt cùng với các pháp của mắt, trong ba sự việc ấy cái nào là thật? Nên có nhận thức thế này: ba sự việc ấy đều là không, chỉ có ngôn thuyết và không một sự việc nào là chân thật cả. Vì sao? Vì mọi cái có của ngôn thuyết đều là nơi chốn của thức, đối tượng của thức là các pháp đều là thế gian. Nếu các pháp thế gian thì chẳng phải là xuất thế gian. Đã chẳng phải xuất thế gian thì đó là ý nghĩa của ngoại đạo, mà đã là nghĩa của ngoại đạo thì không phải do Phật nói. Vì sao? Vì mọi ngôn thuyết của Phật đều là xuất thế gian, mà các pháp xuất thế gian thì không ngôn thuyết. Ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt! (Là chỗ cắt đứt của mọi đường ngôn ngữ, là chốn dừng diệt của mọi nẻo tâm hành). Do đó mà gọi là Như Lai. Tuy lại dùng ngôn thuyết mà không vướng chấp. Cũng không phân biệt, quyết định về hình tướng của mắt. Theo nghiệp thiện, bất thiện là do nhân duyên sinh. Vì sao? Vì mắt là một pháp của hữu. Từ mười hai duyên phát sinh ra ba Hữu.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Do đâu mà gọi là một phần của Hữu? Tự nhớ nghĩ về ngã, sẽ được mắt như vậy với đủ thứ đủ loại phân biệt tốt đẹp vui thích về quả của mắt dùng để nhận lấy các trần.

Mắt tham đắm cho đấy là mắt mình, là sở hữu của ngã. Do vậy nên gọi là một phần của Hữu.

Lại nữa, từ suy diệt cho đến được hưng phấn trở lại hết thảy mọi thứ khổ não là do chấp ngã và mọi sở hữu của ngã. Từ đó rơi vào lối nhận thức chấp ở hai nẻo, do đó nên gọi là một phần của Hữu. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như vật bằng đồng, khi đánh lên thì có âm thanh. Thế thì Tôn giả cho rằng âm thanh ấy là từ bên ngoài đến hay có từ bên trong?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Âm thanh ấy là do các nhân duyên hợp lại mà có, chẳng phải ở ngoài, chẳng phải ở trong.

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Như thế là Tôn giả đã thấu đạt về pháp các duyên ấy chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Chưa được!

Đức Phật nói:

–Âm thanh ấy bản chất của nó là không thực có, chỉ do các duyên giả hợp, lừa dối nhĩ căn. Hàng phàm phu như thế là đối với mắt vốn là không ấy mà sinh tâm tham đắm, vướng chấp. Trong mắt và hình tướng của mắt rốt cuộc là không thể đạt được. Đó gọi là tuyển chọn để có sự nhận thức là không mắt cũng như không có hình tướng của mắt. Tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng đều như vậy.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nhằm làm sáng tỏ thâm nghĩa ấy nên nói bài kệ:

Tuy nói mắt vô thường
Mắt tức không chốn có
Nếu mắt không chốn có
Ai là kẻ vô thường?
Tuy nói tai vô thường
Tai tức không chốn có
Nếu tai không chốn có
Ai là kẻ vô thường?
Tuy nói mũi vô thường
Mũi tức không chốn có
Nếu mũi không chốn có
Ai là kẻ vô thường?
Tuy nói lưỡi vô thường
Lưỡi tức không thực có
Nếu lưỡi không thực có
Ai là kẻ vô thường?
Tuy nói thân vô thường
Thân tức không thực có
Nếu thân không thực có
Ai là kẻ vô thường?
Tuy nói ý vô thường
Ý tức không thực có
Nếu ý không thực có
Ai là kẻ vô thường?
Theo mười hai nhập ấy
Nên có mười hai tên
Nếu theo mười hai tên
Ắt có mười hai nhập.
Từ địa, thủy, hỏa, phong
Hòa hợp nên gọi người
Phàm phu theo tên chữ
Như chó đuổi ngói, đá
Nếu người chẳng theo tên
Cũng chẳng phân biệt ngã
Rõ ngã chỉ giả danh
Người ấy được tịch diệt
Trong tịch diệt không pháp
Đâu gọi kẻ tịch diệt?
Thuyết như thế, không thuyết
Không thuyết tức tịch diệt
Trong pháp ấy không đến
Cũng không có kẻ đến
Nếu thông đạt điều đó
Ắt rõ tướng tịch diệt
Như diệt chốn tâm hành
Dứt mọi nẻo ngôn ngữ
Không ngã, không chúng sinh
Đó chính là tịch diệt.
Chẳng phân biệt có–không
Phân biệt ấy cũng không
Nếu tâm tưởng Niết-bàn
Tâm ấy cũng chẳng có.
Nơi pháp chẳng thấy xa
Cũng lại chẳng thấy gần
Người được Tuệ nhãn ấy
Tự thông nghĩa tịch diệt.
Nếu người nghe pháp đó
Nên quan sát chính xác
Sẽ dứt mọi nghi hoặc
Sạch hết bao mê tối.
Không nghi, cũng chẳng ngờ
Khéo tịch tĩnh, dứt sợ
Quyết định trụ tướng thật
Nơi pháp không chốn ngại.
Bồ-tát Ma-ha-tát
Tự dứt trừ lưới nghi
Do thương xót muôn loài
Vì dứt nghi trong pháp.
Đem bàn lẽ thượng diệu
Nêu rõ tướng thật pháp
Nhằm dứt mọi hý luận
Các vị chớ sinh ngờ
Ngôn thuyết đều tranh tụng
Nhân đó đọa nẻo ác
Nếu người tham đắm ấy
Chẳng gắng diễn chánh pháp
Như vậy tên theo nghĩa
Ắt dứt hết lo buồn
Tiếp cận đạo Vô thượng
Phải nên hành nghĩa ấy.

Lại nữa, Tôn giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát đối với bốn sự việc phải siêng năng tinh tấn. Thế nào gọi là bốn sự việc? Do vì xuất gia nên phải dốc siêng năng tinh tấn. Ở nơi chốn xa lìa nên phải dốc siêng năng tinh tấn. Đối với những điều Phật chỉ dạy phải nên dốc siêng năng tinh tấn. Nhận thấy bao nỗi khổ của chúng sinh nên phải dốc siêng năng tinh tấn. Vì muốn mau đạt đến quả vị Vô thượng Bồ-đề, phải nên suy niệm như vầy: Ta vào lúc nào sẽ có được trí tuệ lớn lao, diệt hết mọi nỗi khổ của chúng sinh mà vì họ thuyết pháp.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ta sẽ vì Tôn giả mà nói về việc các vị Bồ-tát phải siêng năng tinh tấn mới có thể mau thành tựu đạo quả Vô thượng Bồđề. Tôn giả nên lắng nghe!

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Về thời quá khứ xa xưa, trải qua vô lượng, vô biên chẳng thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp, bấy giờ có Đức Phật hiệu là An Vương, thọ mạng bảy vạn năm, vì chúng Thanh văn mà có ba hội lớn thuyết pháp. Hội đầu tiên có đến hai mươi ức người chứng đắc quả A-la-hán. Hội lớn thứ nhì có bốn mươi ức người đắc quả Ala-hán. Hội lớn thứ ba có tới sáu mươi ức người cũng đắc quả A-la-hán. Thời này, cõi Diêm-phùđề hết mực rộng lớn, đến chín vạn do-tuần; bên trong có tám vạn bốn ngàn thành lớn, mỗi mỗi thành đều dài mười hai do-tuần, rộng bảy do-tuần, tất cả đều do bảy châu báu là vàng, bạc, lưu ly, pha lê, chân châu, xà cừ, mã não hợp thành. Thành ấy là nơi thanh tịnh trang nghiêm bậc nhất. Nhân dân đông đúc, nhà cửa sầm uất, đời sống sung túc, vui thích, an ổn. Bảy lớp thành ấy đều có bảy lớp hào sâu bao bọc cũng đều do bảy thứ châu báu hợp thành. Nơi mỗi lớp hào sâu kia đều có dòng nước chảy vòng quanh, các thứ hoa sen với đủ màu sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng bày ra kín khắp cả trên mặt nước. Những loài chim le, chim nhạn, uyên ương, hồng hộc, khổng tước, loài thú lạ như Tinh tinh… đùa giỡn trong ấy. Trên mỗi bờ của các hào sâu đều có bảy lớp hàng cây do bảy thứ châu báu hợp thành. Thân cây là vàng, cành lớn là bạc, mã não làm nhánh, lưu ly làm lá, pha lê làm hoa, xa cừ làm quả, xích chân châu làm rễ. Thân cây là bạc, cành lớn là vàng, pha lê làm nhánh, lưu ly làm lá, xa cừ làm hoa, san hô làm cành lớn, xa cừ làm nhánh, mã não làm lá, bạc làm hoa, vàng làm quả, pha lê làm rễ. Thân cây là xa cừ, mã não làm cành lớn, san hô làm nhánh, bạc làm lá, vàng làm hoa, pha lê làm quả, lưu ly làm rễ. Thân cây là mã não, san hô làm cánh lớn, bạc làm nhánh, vàng làm lá, pha lê làm hoa, lưu ly làm quả, xa cừ làm rễ. Thân cây là san hô, vàng làm cành lớn, bạc làm nhánh, pha lê làm lá, lưu ly làm hoa, xa cừ làm quả, mã não làm rễ.

Các thành ấy mỗi cái đều có tám vạn vườn cây, dài rộng đều bằng nhau, mỗi chiều là hai mươi dotuần với bảy lớp tường vách bao quanh đều làm bằng bảy thứ châu báu. Ở trong mỗi vườn cây ấy đều có bảy lớp lầu gác, với các hàng lan can tất cả đều do bảy thứ châu báu hợp thành, lại có những lớp lưới làm bằng bảy thứ châu báu giăng phủ bên trên. Bảy lớp hào sâu quý giá ấy cũng đủ vẻ trang nghiêm như thành. Trong các vườn cây kia trồng đủ loại cây như cây Chiên-đàn, cây trầm thủy, vô số các thứ cây hương Ca-la-na, các cây âm nhạc. Cũng có đủ thứ đủ loại cây ra hoa, cây đơm quả, các cây dùng làm vật dụng, các cây dùng vào việc ăn uống. Trong ấy cũng có các thứ cây làm bằng vàng, bạc và các thứ châu báu khác như lưu ly, pha lê, xa cừ, mã não, san hô, với vô số hoa như hoa Ađề-mục-đa, hoa Chiêm-bặc, hoa Bà-lê-sư, hoa Đànậu-già-lê, hoa Văn-đà-la, hoa Hòa-lợi, hoa Cù-đala-lợi, hoa Man-đà-la, hoa Ngũ sắc, hoa Nguyệt thượng, đại thể có vô số các thứ hoa như vậy trong các vườn cây. Nơi mỗi vườn cây còn có bảy trăm ao nước lớn, dài rộng mỗi bề là năm dặm, trong đó đầy ắp nước đủ tám thứ công đức. Mỗi ao nước đều dùng bảy thứ châu báu để tạo nên vẻ trang nghiêm, đáy ao rải toàn là cát bằng vàng. Bên trên ao là bốn cái thang báu và nhiều lớp võng báu giăng phủ khắp, còn trên mặt nước ao thì đủ loại hoa sen với các màu sắc: xanh, vàng, đỏ, trắng phô bày la liệt.

Vị vua cai trị xứ Diêm-phù-đề thời ấy tên là Kiện Đức. Ở khắp tám vạn bốn ngàn thành lớn ấy đều có xây dựng cung điện. Nơi mỗi mỗi cung điện đó đều có tám vạn bốn ngàn thể nữ dùng làm kẻ quyến thuộc. Ở trong các thành có một tòa thành lớn, thành ấy rộng lớn bốn mươi do-tuần, dài tám chục do-tuần, là nơi vua Kiện Đức ngự triều làm việc. Thành đó đều dùng bảy thứ châu báu thù thắng để trang nghiêm cũng như trên. Nhân dân đông đúc với cuộc sống no đủ, an lạc. Trong tòa thành lớn nơi nhà vua ngự, có một tòa vương cung vuông vức mỗi bề mười do-tuần, cũng do bảy thứ báu tạo nên. Tòa vương cung ấy có các điện, đền, đủ loại lầu, quán. Bên trong có một điện lớn tên là Pháp điện, với lối kiến trúc đẹp đẽ, đoan nghiêm, chẳng khác gì cung điện Thù thắng của Đế Thích. Tòa vương cung còn có một vườn cây đẹp tên là Thiện pháp, với đủ thứ đủ loại cây như cây đơm hoa, cây tỏa hương, các thứ cây âm nhạc, các loại cây Anh lạc cùng vô số các thứ cây dùng vào việc ăn uống, y phục. Lại còn có các cây do bảy thứ châu báu tạo thành, tăng thêm sự trang nghiêm cho khu vườn. Nói chung, tòa vương cung đó mọi cảnh, mọi vẻ, mọi việc đều chỉnh tề, nghiêm trang, rộng lớn nổi bật. Lại có một đài cao lớn cũng dùng bảy thứ châu báu tô điểm vẻ trang nghiêm với nhiều thứ màn trướng đơn kép giăng che khắp bên trong.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Vị phu nhân thứ nhất của vua Kiện Đức ấy hạ sinh được một Thái tử, do từ xưa đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, nên thái tử thân tướng đoan chánh, tươi đẹp hơn hết, mọi người đều yêu mến, quý kính. Thái tử ấy cũng gồm đủ các tướng nghiêm, phước đức và được nhà vua giao cho thành lớn để ngự ở đấy. Ngày thái tử chào đời, trong thành này có bốn mươi ức bé gái cùng được sinh ra một lúc, nhà vua liền truyền lệnh cho đám trẻ gái kia được chọn làm quyến thuộc của Thái tử. Vua cùng phu nhân tập hợp các vị đại thần chọn đặt tên cho Thái tử là Diệu Đức. Lúc Thái tử sinh ra, chư Thiên đều hoan hỷ, thể hiện bằng việc hòa tấu các thứ kỹ nhạc, tuôn xuống vô vàn hoa Mạn-đà-la và cùng nói lớn lên rằng: “Thái tử Diệu Đức nay đã sinh ra đời! Nay sinh ra nơi thế gian nên mang tên là Diệu Đức.”

Thời gian này Thái tử Diệu Đức dần dần khôn lớn, thường cùng đám thể nữ quyến thuộc vây quanh, đến dạo chơi nơi vườn cây, cỡi thuyền Chiên-đàn, tự vui thích với năm thứ dục lạc. Bấy giờ ở trong nước ao, Thái tử trông thấy Đức Phật với thân tướng đoan chánh bậc nhất, trong lành hơn cả ánh lửa vàng rực, sáng tỏa vượt hơn mặt trời, mặt trăng, như điểm tụ của ánh vàng ròng, như ngọn lửa tỏa lên từ ngọn núi vàng, như cây cột báu trang nghiêm. Đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp. Từ thân tướng Phật phát ra trăm ngàn vạn ức ánh hào quang. Đức Phật đang ngồi với chúng đệ tử vây quanh và vì họ mà thuyết pháp.

Thái tử trông thấy thân tướng Đức Phật như vậy liền suy nghĩ rằng: “Người ấy hình tướng uy nghi, đoan chánh vượt trội hơn hết. Ta nay vì sao mà không có được thân tướng như thế?” Ngay lúc Thái tử phát tâm thì thân tướng Phật không còn hiện ra nữa. Do không còn thấy nữa nên Thái tử sinh tâm lo buồn, bèn chẳng cùng chung vui với đám thể nữ nữa. Lại chẳng gần nữ sắc. Thái tử rời thuyền và đi lên lầu bảy báu, ngồi kiết già an tọa, tâm tự suy nghĩ rằng: “Đến lúc nào ta sẽ có được thân tướng như Đức Phật?”

Lúc này, đám thể nữ muốn đi đến chỗ Thái tử để cùng vui đùa. Thái tử từ xa trông thấy sinh tâm lìa chán, liền đóng cửa lại, không đi lên phía trước và suy nghĩ: “Những chúng sinh ấy do tham dục dấy khởi mạnh nên phải chịu nhiều buồn khổ lo lắng. Ta nguyện muốn đạt được trí tuệ lớn lao của bậc có thân tướng tối thắng kia. Như ta cùng với sự tham dục não bệnh của chúng sinh ấy là đồng nhau hay có sự khác biệt? Ta là người hành động, còn sự việc kia không phải là người hành động! Những chúng sinh đó do sân giận bừng phát nên phải chịu nhiều buồn khổ. Ta nguyện muốn đạt được trí tuệ lớn lao của bậc có thân tướng tối diệu. Ta như cùng với sự sân giận não bệnh của chúng sinh kia là đồng nhau hay có sự khác biệt? Ta là người hành động, còn sự việc kia không phải là kẻ hành động! Phải tự chế ngự, ở nơi chúng sinh không dấy sân giận phiền não. Những chúng sinh ấy là do ngu si quá đổi đầy dẫy nên phải chịu nhiều buồn khổ. Ta nguyện muốn có được trí tuệ lớn lao của bậc có thân tướng thù diệu tối thượng ấy. Ta như cùng với sự ngu si não bệnh của chúng sinh kia là đồng nhau hay có sự khác biệt? Ta là kẻ hành động, còn sự việc kia không phải là kẻ hành động! Những chúng sinh ấy do sự trói buộc của keo kiệt, ganh ghét mà phải chịu bao nỗi buồn khổ. Ta như đồng với sự keo kiệt, ganh ghét ấy của chúng sinh hay có sự khác biệt? Ta sẽ tiêu diệt mọi tham dục, sân giận, si mê, ở nơi chúng sinh dấy tâm đại Từ bi nhằm cầu chánh đạo. Đem đạo pháp chân chánh ấy để lìa bỏ hết thảy mọi tham dục, sân giận, ngu si, keo kiệt, ganh ghét cùng tâm bất thiện.” Do đã phát sinh tâm chán lìa như thế nên thái tử liền tâm đắc với sự an lạc của đạo pháp, không còn tham quyến dục lạc, luôn ngồi một mình để tư duy, lìa mọi sự ồn ào, bối rối.

Bấy giờ, vua Kiện Đức cùng với phu nhân đều được nghe nói là Thái tử không còn ham thích chuyện vui chơi, lại chán lìa cảnh dục lạc, thấy đám thể nữ như bị ngăn cấm không khiến vào hầu, bèn nghĩ rằng: “Có người nào đã quấy nhiễu Thái tử chăng, mà Thái tử không còn ham thích năm thứ dục lạc, còn tỏ ra chán ghét nữ sắc? Chúng ta phải cùng đi đến để hỏi cho rõ lẽ!” Nghĩ như vậy rồi, vua cha cùng phu nhân đi tới chỗ Thái tử, nói bài kệ hỏi:

Tòa Pháp điện thanh tịnh
Đám thể nữ đông đủ
Vườn cây đẹp trang nghiêm
Sao con lại chẳng vui?
Trong thành lớn như vậy
Pháp điện cao rộng tột
Khắp thiên hạ cùng thấy
Sao con lại chẳng vui?
Kẻ nào là chẳng ưng
Đã quấy nhiễu tâm con
Con nay riêng sầu muộn
Như kẻ buôn mất báu
Ta là cha mẹ con
Con nên bày tỏ thật
Kẻ nào nay nên trị
Ta được mọi tự tại.

Thái tử dùng kệ đáp lại:

Không ai là chẳng ưng
Sao lại muốn vọng ngôn
Chớ đem ác cho người
Chỉ nên sửa tâm mình
Con vui chơi trên nước
Thấy Phật thân tướng tốt
Như vàng cõi Diêm-phù
Ánh sáng tỏa mười phương
Ngọc sáng cùng nhật, nguyệt
Đèn đuốc và tinh tú
Đối hào quang Phật, mờ
Con thấy tướng như vậy
Tức thì nguyện mong được
Trí tuệ, thân tướng ấy
Sẽ vượt già, bệnh, chết
Chúng sinh bao khổ não
Được thân tướng, trí tuệ
Thế lực chẳng nghĩ bàn
Sẽ lợi khắp muôn loài
Khiến ra khỏi sinh tử.
Con bèn dứt dục lạc
Thể nữ cùng quyến thuộc
Nay xuất gia hành đạo
Theo học sẽ làm Phật
Xuất gia, mặc áo giáp
Quyết tu tập pháp lành
Cha mẹ nên xuất gia
Cùng tu theo đạo ấy
Nên tu hành chánh pháp
Nơi năm dục chẳng an
Ái dục hại pháp lành
Dục buộc, chính tù ngục
Không ai có thể dứt
Chỉ con riêng xa lìa
Do việc xa lìa ấy
Sẽ được trí tuệ Phật
Trong pháp Phật xuất gia
Nếu tạo nên chướng ngại
Người ấy ắt chẳng lợi
Con thương xót nên nói
Nước giàu, con ích gì!
Phú quý đều vô thường
Nếu nay chẳng lìa bỏ
Lâu nữa cũng phân ly
Đem nhân xuất gia ấy
Làm sinh các pháp lành.
Qua lại trong sinh tử
Đời đời nhận mọi khổ
Lần lượt sinh như vậy
Chẳng thể quyết định được
Nơi pháp không chánh quán
Chỉ tham đắm giả danh
Chớ đem con gây tội
Cùng nơi pháp xuất gia
Con lìa nạn từ lâu
Đều là lúc không nạn
Được đầy đủ thân người
Nên phải tin pháp lành
Được gặp Phật An Vương
Nay nên cùng xuất gia.

Thái tử Diệu Đức nói bài kệ xong, tức thì đi thẳng đến chỗ Đức Phật An Vương, đầu mặt đảnh lễ ngang chân Phật, rồi chắp tay hướng về Đức Phật, đọc bài kệ:

Con sinh trong lưới ma
Các hạnh tà tăng trưởng
Nay muốn dứt phá chúng
Xin Phật cho xuất gia
Cha con trói buộc chặt
Cũng tự biết sợ buộc
Vui ấy chẳng thật bền
Chính là gốc mọi khổ.
Nay muốn cởi mọi trói
Dứt phá các lưới ma
Nơi pháp Phật xuất gia
Thành Phật, Lưỡng Túc Tôn
Các dục con đã sợ
Ái dục rốt chẳng an
Dục là pháp mê, sợ
Nên lìa, hành Phật đạo.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bấy giờ, Phật An Vương liền chấp thuận cho Thái tử Diệu Đức xuất gia thọ giới. Thế là có tới tám vạn bốn ngàn người cùng với quyến thuộc và đám thể nữ đều xin được xuất gia theo Thái tử. Lại có đến trăm ức hàng Thiện tri thức cũng xin được xuất gia theo. Nhà vua nghe tin Thái tử xuất gia học đạo, liền ra lệnh cho bốn thứ binh cùng theo các đại thần, đi đến chỗ Đức Phật An Vương, đầu mặt cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, xong lui ra đứng một bên, chắp tay hướng về Phật và đọc bài kệ:

Xuất gia dứt phiền não
Tịch diệt, an, bất động
Là gốc mọi an lạc
Nguyện nương Phật xuất gia
Lìa nước, của, vợ con
Cùng châu báu, quyến thuộc
Nhận các dục không chán
Pháp ấy thường nhơ xấu
Nếu thọ năm dục diệu
Nẻo hành hạng phàm, tiểu
Tu tập pháp Phật khen
Diệt hết thảy mọi khổ
Lìa sở hữu nước, thành
Cúng dường Phật, chúng Tăng
Mong Phật cho xuất gia
Thành Phật, Phổ Kiến Tôn
Vì lợi lớn muôn loài
Độ hết thảy khổ não
Nhằm khiến lìa các nạn
Lìa nạn, đạt tịch diệt.
Thời Phật hoan hỷ khen:
“-Lành thay! Phát tâm lớn
Nên kính Phật trí diệu
Thiện lai! Thuận xuất gia.”
Vua được Phật chấp nhập
Tâm sinh đại hoan hỷ
Tất thành Lưỡng Túc Tôn
Do được Phật an ủi
Giờ vua lìa xuất gia
Cùng bốn thứ quân binh
Đều phát tâm Bồ-đề
Sẽ thành đạo Vô thượng
Số lượng xuất gia ấy
Đều đạt Vô sinh nhẫn
Nơi chốn ấy mạng chung
Thảy được sinh cõi trời
Được gặp bậc danh tiếng
Hai mươi ức chư Phật
Ở mọi chốn Phật đó
Đều xuất gia hành đạo
Thảy đều luôn tinh tấn
Đạt trí Vô sở úy
Đem lợi lớn cho đời
Khiến thoát vô lượng khổ
Nơi được gặp chư Phật
Đều thọ trì chánh pháp
Nhằm truyền bá khắp chốn
Mà chẳng tiếc thân mạng.
Được quả lớn như thế
Trí tuệ diệu tối thượng
Chứng pháp chẳng nghĩ bàn
Ai chẳng cầu Phật đạo?

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Tôn giả cho rằng vị vua Kiện Đức thời ấy là một người nào khác chăng? Nhà vua đó chính là ta, còn Thái tử Diệu Đức là Đại Bồ-tát Kiên Ý đấy. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như thế là Đại Bồtát từ chỗ có được pháp an lạc, nhận thấy mọi chúng sinh bị bao thứ phiền não khổ đau bức bách, nên dấy tâm đại Từ bi giáo hóa họ, khiến họ an trụ nơi nhân duyên các pháp lành, dần dần đạt được sự giải thoát.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Chư Đại Bồtát do ham thích pháp thâm diệu mà dốc lòng cầu pháp thâm diệu ấy, lại cũng vì chúng sinh mà thuyết giảng pháp thâm diệu đó. Thế nào gọi là pháp thâm diệu? Đó là chỗ có thể thực hiện của những kẻ tinh tấn. Những kẻ tinh tấn ấy tức là các vị Đại Bồ-tát, là những người dốc cầu đạo Vô thượng không hề thoái chuyển. Những người đó đều có thể thấu đạt sâu xa các pháp. Làm thế nào để thấu đạt sâu xa? Như tìm hiểu về hình tướng của mắt, liền biết đấy chỉ là giả danh, chẳng phải là thấu đạt sâu xa hình tướng các pháp. Đó gọi là chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng phải là ngã và ngã sở, chẳng phải cấu uế, chẳng phải thanh tịnh, không sinh không diệt. Vì sao? Vì tính của chúng luôn là như vậy. Như thế thì tánh của các pháp là không tạo tác, chẳng phải tạo tác. Đó gọi là sự thông đạt về pháp thâm diệu của mắt. Tìm hiểu về hình tướng của tai, mũi, lưỡi, thân và ý cũng liền biết đấy chỉ là giả danh, chẳng phải là thấu đạt sâu xa hình tướng các pháp. Gọi là chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng phải ngã và sở, chẳng phải cấu uế, chẳng phải thanh tịnh, chẳng sinh chẳng diệt. Vì sao? Vì tánh của chúng là như vậy. Như thế thì tánh của các pháp là không tạo tác, chẳng phải tạo tác. Đấy chính là sự thông đạt về pháp thâm diệu của ý.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Người gọi là thấu đạt một cách sâu xa tức là thông tỏ về tướng thật của các pháp. Nhưng nếu thủ chấp các pháp không thì đấy lại là vọng chấp. Nếu nắm được tính chất vô tướng thì đấy mới chính là tướng. Cũng như nắm bắt được tính chất vô nguyện thì đó cũng chính là nguyện.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Chân tánh của các pháp xưa nay không tăng không giảm. Đó mới đích thực là thấu đạt các pháp một cách sâu xa. Do vậy mà gọi các vị Đại Bồ-tát là những con người tinh tấn.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Do từ ý nghĩa nào mà gọi là Bồ-tát? Đấy là ý nghĩa có thể xét kỹ để thông tỏ về pháp “không chúng sinh”, vì vậy mà được gọi là Bồ-tát. Lại nữa, nẻo hành hóa của người ấy là lấy trí tuệ làm đầu, nên được gọi là Bồ-tát. Lại khiến cho chúng sinh biết được mọi nẻo vận hành của các pháp đều là không thực có, vì thế mà được gọi là Bồ-tát.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ý nghĩa “không chốn có” chính là ý nghĩa Bồ-tát. Không chốn hiển bày chỉ rõ, đó là ý nghĩa Bồ-tát. Vì thế, ý nghĩa Bồ-tát mang tính chất “không hai”, “không so sánh.”

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Không vượt qua cũng không bị chìm, đó chính là Bồ-tát.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Không chính là Bồ-đề. Thế nào gọi là không? Hết thảy các pháp đều là không, nên gọi là Không.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu ở nơi các pháp cho đến việc quyết định là có đối với các hình tướng nhỏ nhặt nhất của chúng, tức là chấp tướng, chấp tướng ngã, nhân, chúng sinh, chấp tướng của các pháp. Trong pháp không ấy, không có các tướng kia, do đó nên gọi là không, không tức là Bồ-đề. Do từ ý nghĩa ấy mà tất cả các pháp đều được gọi là Bồ-đề.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả phải nên thuận theo những điều Như Lai chỉ giáo để hành hóa, chớ có sai trái. Vì sao? Vì sự giác ngộ của chư Phật thật hết sức thâm diệu, không gì hơn. Hết thảy hàng phàm phu đều không thể đạt được.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Không chỉ là hàng phàm phu, mà đối với tất cả các bậc Thanh văn, Bích-chi-phật và con người, không thể thấy, không thể xem, cũng chẳng có thể thông đạt được. Sự giác ngộ của chư Phật chính là có được tri kiến rốt ráo về Vô sinh Trí quán. Do thấu đạt pháp nào mà được gọi là Tận trí? Đó là không pháp nào có thể thấu đạt tận cùng. Các pháp đều lìa sự tận cùng, để từ đấy hội nhập trọn vẹn sự tận cùng. Vì vậy mà gọi là tận trí. Nhưng không thể biết nơi niệm, trong niệm, chốn ấy đã diệt tận hay chốn ấy chưa diệt tận. Do vậy mà cho rằng: hàng Thanh văn, Bíchchi-phật và con người không có thể thông đạt sự giác ngộ của chư Phật.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Trí Vô sinh ấy là đối với các pháp hoàn toàn không có sự dấy khởi, dù là chút ít, có thể nhận thức như thế nên gọi là “Vô sinh trí.” Nhưng cũng không thể biết nơi niệm, trong niệm, chốn ấy vô sinh cùng chưa là vô sinh. Hết thảy hàng Thanh văn, Bích-chi-phật và người đều không có trí như thế. Do đó mà trí của Phật được gọi là không gì hơn, không gì và không ai sánh kịp.

Lại nữa, trí ấy luôn vượt mọi tà chánh nên gọi là bình đẳng. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tuệ của Như Lai ấy là chánh giác từ sự suy cứu tận cùng, dứt sạch hết mọi lầm lạc, do vậy mà gọi là Phật tuệ. Trí tuệ của Phật ấy trải qua vô lượng, vô biên atăng-kỳ kiếp tìm cầu tu tập mới đạt được. Vì thế nên gọi là Giác.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Do đâu mà Như Lai được gọi là Bậc Giác Ngộ? Tất cả chúng sinh đều say sưa trong giấc ngủ dài của sinh tử, hoặc đi qua, hoặc chìm đắm, đều không thể thông tỏ. Chỉ có hàng Bồ-tát là riêng mình có được sự giác ngộ nên gọi là kẻ giác ngộ.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Có sự hiểu biết đúng đắn về pháp nên gọi là kẻ giác ngộ. Làm sao để có được sự hiểu biết đúng đắn? Đó là nhận thức về tất cả các pháp là chẳng phải pháp, cũng chẳng phải là phi pháp, chẳng phải cấu, chẳng phải tịnh, cũng chẳng phải quá khứ, hiện tại, vị lai, thuận theo tướng ấy nên gọi là kẻ giác ngộ. Cũng nhận thức là không pháp, dù sinh dù diệt, dù đến dù đi, nên gọi là kẻ giác ngộ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ý nghĩa của sự giác ngộ ấy là vô lượng, vô biên chẳng thể nghĩ bàn, cũng như khó đạt được giới mốc. Ví như biển rộng, nước ở biển ấy chỉ một vị và không tăng không giảm. Biển ấy thảy nhận lấy nước từ các dòng sông đổ về mà không đầy nhẫy lên, dần dà, lần lượt chuyển biến một cách sâu sa thâm diệu bậc nhất.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Biển lớn Như Lai cũng lại như vậy: không, vô sinh diệt, một vị giải thoát. Lần lượt thuyết pháp gọi là dần dà chuyển biến một cách sâu xa. Đạt được Nhất thiết trí nên gọi là sự thâm diệu bậc nhất, tức sự thông đạt rốt ráo tận cùng của đạo Vô thượng Bồ-đề. Trong hết thảy các pháp không còn có sự lầm lạc nên gọi là không tăng giảm. Mọi sự vấn nạn đều không thể đạt tới cùng tận nên gọi là nạn giảm. Có khả năng tập hợp tất cả mọi công đức tốt đẹp nên gọi là nhận lấy các dòng chảy đổ về.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu ta nói cho hết về ý nghĩa Như Lai ấy thì ai có thể kham nhận nổi? Như Long vương Sa-già-la muốn đổ xuống một cơn mưa lớn thì chỉ nên trút xuống biển rộng, ngoài ra không nơi nào có thể nhận lấy nổi. Như Lai cũng thế, nếu khai mở, diễn bày tận cùng trí tuệ của Phật ấy thì hết thảy chúng sinh cho đến hàng Thanh văn cùng Bích-chi-phật đều không thể kham nhận được. Chỉ có hàng Bồ-tát phát tâm Đại thừa, mong đạt được thần lực như Phật thì mới có thể thọ trì.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ở đời có bốn sự việc gọi là hết sức khó đạt được. Những gì là bốn?

1. Được thân người là khó!

2. Được sinh ở vùng giữa nước là khó!

3. Tin được Phật pháp là khó!

4. Đã tin và hiểu, lại có thể hỏi về chỗ thích hợp là điều thậm khó!

Bốn sự việc khó ấy các vị đều đã đạt được. Nay sẽ hỏi Phật về chỗ nghi trong các pháp. Ta nay thuận cho Tôn giả điều ấy. Về hết thảy thế gian, chư Thiên, người… cứ theo ý mình mà nêu lên chỗ cần hỏi. Như Lai còn chẳng bao lâu sẽ nhập Niếtbàn, lúc này nên nghe theo để sau khỏi hối tiếc.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất liền rời chỗ ngồi đứng dậy, vắt một vạt y, để trần vai bên phải, đầu gối bên phải chạm sát đất, chắp tay cung kính hướng về Phật và thưa rằng:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn nêu bày chỗ mình hỏi, mong được chấp thuận.

Đức Phật nói:

–Ta đã thuận rồi đấy, cứ theo ý mà hỏi, ta sẽ vì các vị, theo chỗ hỏi mà trả lời.

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

–Kính bạch Thế Tôn! Con nay sẽ vì nẻo đường đi lên Bồ-tát mà xin được hỏi Đức Như Lai.

Tức thì đọc bài kệ:

An trụ công đức tột
Tu đạo tịnh cao quý
Vui hạnh nhẫn nhu hòa
Nên hỏi hành như thế
Bồ-tát làm sao bày?
Hiện bày tâm hoan hỷ
Làm sao phát tâm thiện?
Đem lợi lớn muôn loài
Làm sao trì giới tịnh?
Tâm nhẫn nhục, nhu hòa
Làm sao hành tinh tấn?
Chẳng thoái, chẳng dừng nghỉ
Thấy chúng sinh khổ não
Làm sao thêm lòng thương
Tâm vui đạo Bồ-đề
Mong được Thế Tôn dạy?
Làm sao vô lượng kiếp
Đạo Bồ-đề trang nghiêm
Tâm trọn không thoái chuyển
Mà sinh hoan hỷ lớn?
Làm sao hành thiền định
Cùng tu tập trí tuệ
Làm sao hợp cầu pháp
Thành được bậc Đa văn?
Những pháp gì nên nghe
Những pháp nào nên dạy
Để phát tâm Bồ-đề
Con nay hỏi việc ấy?
Làm sao cầu chánh pháp
Nơi pháp đạt an vui
Làm sao lìa các dục
Lìa xong nên xuất gia?
Làm sao lúc xuất gia
Có được tâm hoan hỷ
Làm sao đã xuất gia
Công đức càng vòi vọi?
Làm sao tâm hồi hướng
Phát khởi lực phương tiện
Làm sao nơi đời đời
Thường chẳng mất chánh niệm?
Làm sao ở trong thai
Luôn tập tâm Bồ-đề
Cũng được thấy chư Phật
Mà không bị ngăn ngại?
Làm sao dứt tham dục
Tâm từ, dứt sân hận?
Làm sao diệt ngu si
Tâm luôn không lầm lạc?
Làm sao sinh vương gia
Cũng sửa trị việc nước
Mà lìa được mọi nạn
Luôn được sinh chốn thiện?
Làm sao sửa việc đời
Mà tâm luôn vui vẻ
Cũng cảm chư Như Lai
Luôn được thấy chư Phật?
Làm sao đủ thân sắc
Thường đoan nghiêm bậc nhất
Cũng đầy đủ quyến thuộc
Đều phát tâm Bồ-đề?
Làm sao nơi chốn sinh
Luôn chán lìa cảnh nhà
Thường vui thích xuất gia
Tâm dứt mọi tham đắm?
Làm sao đã xuất gia
Nên thọ trì Bồ-đề
Sau khi Phật diệt độ
Quyết giữ gìn chánh pháp?
Làm sao nơi đời loạn
Mà được tâm không loạn
Thấy chúng sinh phiền, loạn
Đem an ủi, vỗ về
Làm sao nghe mà trì
Vào pháp Đà-la-ni
Dùng biện tài vô ngại
Diễn thuyết pháp vô thượng?
Làm sao biết chúng sinh
Vô số tâm sai biệt?
Làm sao nơi pháp lành
Mà tự mình điều phục?
Vì các vị Bồ-tát
Con hỏi Nhị Túc Tôn
Nẻo hành của Bồ-tát
Mong được thuyết giảng rõ?
Nếu người vì Phật pháp
Mà phát tâm Bồ-đề
Người ấy nghe Phật nói
Ắt sinh hoan hỷ lớn
Phật nơi hết thảy pháp
Trí tuệ không ngăn ngại
Con đem trí có hạn
Mà hỏi nơi Thế Tôn
Con tuy có chỗ hỏi
Chẳng thể thông đạt hết
Cả chỗ chẳng thể hỏi
Mong Phật chỉ dạy đủ?

Phẩm 21: Ca ngợi công đức

Bấy giờ Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Lành thay! Lành thay! Tôn giả đã có thể hỏi Phật về việc các vị Đại Bồ-tát thực hiện Phật đạo, an trụ nơi các công đức thanh tịnh, vui với pháp nhẫn như hòa… đại thể là các việc như thế. Công đức của Tôn giả thật không thể hạn lượng! Vì sao? Vì các vị Đại Bồ-tát có thể làm được những việc khó. Ví như có người muốn đem cõi tam thiên đại thiên thế giới với mọi chúng sinh hiện có dời đi đặt ở một chỗ khác. Thế thì công việc ấy khó chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Hết sức khó!

Đức Phật nói:

–Đem so sánh với việc khó mà Bồ-tát làm được thì việc kia, trong trăm phần hãy còn chưa được lấy một. Trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn phần, thậm chí dùng thí dụ cũng không thể diễn tả hết được.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đặt trường hợp cả tam thiên đại thiên thế giới này với mọi chúng hiện có, như vào thời “Kiếp thiêu” thì toàn cõi ấy chỉ là một đống lửa lớn. Nếu có người có thể dùng một làn hơi thổi tắt đi, rồi dùng một hơi khác để xây dựng trở lại, như nào là các núi lớn Thiết vi, Tu-di cùng biển rộng đầy nước, tất cả các quốc độ với bao thứ cung điện, đền, quán, vườn cây, làng xóm, thành ấp đều trở lại như cũ. Thế thì theo ý của Tôn giả, việc làm của người ấy có nên cho là khó không?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Hết sức khó!

Đức Phật nói:

–Nếu đem so sánh với việc khó mà Bồ-tát làm được thì việc khó kia, trong trăm phần hãy còn chưa được một trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn phần, thậm chí dùng thí dụ cũng không thể diễn đạt hết được.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như có người muốn dùng những móng chân mình phá tan cả cõi tam thiên đại thiên thế giới. Thế thì người ấy được gọi là đã bộc lộ sức mạnh lớn lao chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Sức mạnh ấy thật hết sức lớn!

Đức Phật nói:

–Nếu đem so sánh với chỗ Bồ-tát thể hiện sức mạnh lớn lao của mình thì sức mạnh kia, ở trong trăm phần hãy còn chưa được một. Sức mạnh lớn lao của Bồ-tát là trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn phần, thậm chí dùng thí dụ cũng không thể diễn đạt hết được.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như cõi tam thiên đại thiên thế giới với mọi đại địa hiện có đều ở trên mặt nước, nước thì ở nơi gió. Nếu có một người từ chỗ tận cùng của gió nâng cao thế giới ấy lên đem đặt trên đầu, còn vai thì vác mang, mặc cho mỗi mòng cắn đốt mà vẫn nâng cao lên tới cõi Phạm thiên, không hề bị rơi xuống. Thế thì theo ý của Tôn giả, người ấy có khéo léo, thành thạo trong việc làm khó khăn chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Người ấy đúng là khéo léo, thành thạo, đã mang cả cõi tam thiên đại thiên thế giới này, mặc cho muỗi mòng cắn đốt, nâng cao lên tới cõi Phạm thiên mà không hề bị rơi, việc đó là hết sức khó khăn!

Đức Phật nói:

–Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như Lai nay sẽ nói rõ với Tôn giả lời chân thật này: Nếu đem so sánh với đại lực phương tiện của Bồ-tát thì sức mạnh kia, ở trong trăm phần hãy còn chưa được lấy một phần. Đại lực phương tiện của Bồ-tát là trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn phần, ngay cả dùng thí dụ cũng không thể diễn đạt hết được. Vì sao? Vì chư Đại Bồ-tát đã thành tựu vô lượng sự tinh tấn nơi thân tâm, phát nguyện lớn, thực hiện các phương tiện to tác, dấy khởi đại trí tuệ để tạo nên sức mạnh bậc nhất. Mong đạt được tinh thần vô úy lớn lao, cùng sự nhận thức giác ngộ, sáng suốt, mong có được tâm đại Từ, đại Bi cùng sự hành hóa chân thực. Tượng vương hồi quán, Sư tử phấn tấn, Vô kiến đảnh tướng, mong đạt được các pháp lớn của chư Phật như vậy. Cũng mong có được những uy nghi tối thắng không thể sánh, là hàng đầu của các hạnh Bồ-tát. Các công đức cùng sự như hòa cũng đều không thể sánh. Những phương tiện tu tập các pháp Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ cũng thể hiện sự tối thắng. Thông đạt mọi hình tướng của các pháp. Thần lực tự tại không gì sánh của Như Lai, thị hiện nơi Tam luân, chư Bồ-tát cũng mong đạt đến. Khéo tỏ hết thảy mọi nẻo nơi thân tâm của chúng sinh cùng các chốn diễn biến của tâm ấy. Nguyện thấu tỏ tính chất giả danh nơi tất cả mọi loài. Nguyện đem lại cho hết thảy chúng sinh sự giải thoát và giải thoát về tri kiến, sự chỉ quán, sự tu tập hành đạo cùng mọi nẻo chứng đắc quả vị. Nguyện biết được chỗ lãnh hội của chúng sinh về các chân lý chắc thực. Nguyện được thông tỏ về sự sai biệt nơi vô số âm thanh ngôn ngữ của tất cả chúng sinh trong mười phương. Nguyện thấu được về sự tham đắm sâu cạn của chúng sinh cùng việc lìa bỏ sự tham đắm ấy. Nguyện ở trong các pháp đạt được trí tuệ vô thọ. Nguyện thông tỏ các pháp Không và có trí tuệ thấu đạt các nẻo nghiệp báo.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả nên giữ lấy lời quan trọng này: Chư Đại Bồ-tát đối với mọi sở cầu, sở nguyện về công đức, trí tuệ, đều theo nguyện mà hành hóa và theo sự hành hóa ấy mà chứng đắc đạo quả. Trong các sự việc đó đều không thể thí dụ, cũng không nói về nhân duyên. Công đức trang nghiêm, đại nguyện như thế, chỉ có Phật mới có thể thông tỏ. Những ai gần gũi Phật cũng có thể đạt được sự hiểu biết ấy.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Các vị Thanh văn như Tôn giả, theo sự tin tưởng mà có thể hội nhập. Còn các vị Bồ-tát thì dùng sự tin tưởng để nhận thức lý giải. Tôn giả đã có thể vì công đức lớn lao ấy mà hỏi Phật về các sự việc kia. Ta nay sẽ vì Tôn giả mà nêu bày một phần nhỏ thôi. Vì sao? Vì chỗ hỏi của Tôn giả là về sự việc của chư Bồ-tát, không thể trong một ngày, một tháng, một năm, hay trăm năm, ngàn năm, trăm ngàn vạn năm, cho đến một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, trăm ngàn vạn kiếp mà có thể nói hết được.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nên biết rằng sự việc ấy phải đến vô lượng, vô biên chẳng thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp mới có thể trình bày hết.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như Lai thông tỏ về các vị Bồ-tát, từ việc xa xưa mới bắt đầu phát tâm, cho tới việc thấp nhất như quả báo công đức trong một niệm, mà trong trăm ngàn vạn kiếp nói cũng không thể hết, huống chi lại trong một ngày, một tháng, một năm, cho đến trăm năm, há có thể nói hết được về mọi quả báo công đức của sự tập hợp các tâm sao! Vì sao? Vì lúc các vị Đại Bồ-tát mong đạt được trí tuệ lớn lao thì đã có thể dấy lên vô lượng nhân duyên công đức.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nẻo hành hóa của các vị Bồ-tát là vô tận, vì nhằm khiến cho tất cả chúng sinh đều được an trụ nơi pháp vô sinh.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Chốn hành hóa của các vị Bồ-tát là khó nhận biết, vì dốc cầu các pháp thâm diệu. Con đường hành hóa của chư Bồ-tát là hết mực thâm sâu, vì đối với tất cả các pháp đều không có sự nương tựa, bám víu. Phạm vi hoằng hóa của các vị Bồ-tát là vô biên, không gì có thể so sánh, là vì nhằm đạt đến trí tuệ của Phật vốn vô biên không gì hơn được. Lãnh vực hành hóa của các vị Bồ-tát cũng là vô tận, vượt mọi giới hạn, là vì đã thực hiện những nơi chốn như thế, bố thí bao nhiêu nơi chốn và biết lúc dừng lại, xem vật ấy có thể bố thí hay chẳng thể bố thí, xem người ấy có thể giao phó hay không thể giao phó. Bồ-tát thực hiện sự bố thí là lìa bỏ hết thảy mọi vật cho chúng sinh. Bồ-tát giữ giới cũng không có giới hạn. Theo số lượng ngày, tháng, năm cho đến trọn đời, hay cả nơi vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, luôn vì tất cả chúng sinh trong mười phương cùng Phật đạo mà tu hành giới định. Đó là nẻo tạo tác và hành hóa của Bồtát.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Sự nghiệp hành hóa của các vị Đại Bồ-tát đến một thời thì dừng lại, đó là lúc an tọa nơi đạo tràng, trụ nơi tất cả các pháp, tư duy trong pháp Tam-muội Tịnh-ấn, dùng một niệm để tương hợp với trí tuệ suy cứu tận cùng, nhằm thông đạt hết thảy các pháp.

Phẩm 22: Chứng nghiệm tâm Bồ-tát

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Nên dùng ba sự việc để nghiệm chứng tâm của Bồ-tát. Những gì là ba sự việc?

Thứ nhất, là có thể lìa bỏ tất cả mọi sở hữu mà không mong báo đáp. Nên biết, đó đích thực là tâm của Bồ-tát.

Thứ hai, là cầu pháp mà không hề có sự tham tiếc. Thà chịu mất thân mạng chứ không bỏ pháp. Đấy chính đích thực là tâm của Bồ-tát.

Thứ ba, là không trái nghịch với các pháp thâm diệu, dùng sự tin tưởng để lý giải diệu lực nơi sự giác ngộ của Phật, không sinh nghi hoặc. Đó cũng chính đúng là tâm của Bồ-tát.

Cũng dùng ba tâm ấy để chứng nghiệm các vị Bồ-tát.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Cũng có ba sự việc để chứng nghiệm tâm Bồ-tát. Những gì là ba sự việc? Là luôn siêng năng tinh tấn cầu pháp không biết mệt mỏi. Pháp ấy tức là những tạng kinh Bồ-tát Đại thừa. Do có được kinh đó mà tự mình làm tăng trưởng các căn lành cho chúng sinh. Luôn theo pháp sư cung kính cúng dường, cho dẫu phải trải qua hàng ngàn năm mới có thể được nghe dạy về căn lành tương ứng với bài kệ bốn câu. Đã được nghe thì luôn thuận theo, không được trái nghịch, không thể mất đi hay bị thoái chuyển. Phải nên gần gũi bên mình Pháp sư, tăng thêm lòng cung kính, thường tự trách về lỗi của mình: “Ta do từ đời trước tạo nơi tội lỗi, làm ngăn trở chánh pháp nên không được nghe pháp, chứ không phải lỗi của Pháp sư. Nay sẽ dốc gần gũi, cung kính đối với pháp sư, khiến cho mọi nghiệp tạo tội lỗi ngăn trở đạo pháp của ta thảy đều bị tiêu diệt.” Đó cũng chính là đích thực là tâm của Bồ-tát. Vì thế mà phải biết rằng, Đại Bồ-tát từ thâm tâm cầu chánh pháp là luôn theo đuổi, thân cận pháp sư, nhờ đó mới có thể thành tựu được tất cả các pháp Phật.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Về thời quá khứ xa xưa, trải qua vô lượng, vô biên chẳng thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp, kiếp ấy tên là Diệu trí, bấy giờ có Đức Phật hiệu là Phổ Đức Tăng Thượng Vân Âm Đăng, thọ mạng là nửa kiếp. Chúng hội Thanh văn số lượng như hằng sa. Trong mỗi mỗi hội thuyết pháp đều có hằng hà sa số người chứng đắc đủ ba Minh cùng quả vị đại A-la-hán giải thoát. Chúng hội Bồ-tát số lượng cũng như Thanh văn, trong mỗi mỗi hội thuyết pháp ấy đều có hằng sa Bồ-tát chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh, an trụ nơi địa Bất thoái. Số người mới bắt đầu phát tâm đông đảo không thể kể hết. Đức Phật Phổ Đức Tăng Thượng Vân Âm Đăng sắp nhập Niết-bàn vô dư. Lúc này, ở trong trăm ức cõi Diêm-phù-đề, nơi mỗi mỗi cõi ấy đều có đặt để một vị đại Pháp sư đều nhằm tăng thêm thần lực. Sau khi Đức Phật diệt độ, chánh pháp trụ thế tám trăm ngàn vạn ức na-do-tha năm. Bấy giờ ở trong cõi Diêm-phù-đề này, chốn đặt để kia có vị Pháp sư tên là Thanh Minh, vì Đức Như Lai trước đây mà làm tăng thần lực, theo chánh pháp mà trụ nơi thế gian để giữ gìn thành trì đạo pháp, tu tập hạnh Bồ-tát, chứng đắc pháp Nhẫn vô sinh, an trụ nơi địa Bất thoái. Đức Phật diệt độ được tám vạn ức năm, Pháp sư Thanh Minh đi du hóa khắp các quốc độ. Từ thôn ấp này đến thôn ấp khác, ở mỗi nơi mỗi xứ ấy, pháp sư đều diễn nói về sự tập hợp các pháp Phật trong vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp của Đức Phật Phổ Đức Tăng Thượng Vân Âm Đăng.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bấy giờ, nơi biên cảnh cõi Diêm-phù-đề có một thành tên là Kiên lao, ở trong thành ấy có một vị Cư sĩ tên là Kiên Chúng, tuổi còn trẻ, khỏe mạnh, làm chủ cai quản các thành, khởi tâm suy nghĩ: “Ta sẽ làm thế nào để có được trí tuệ lớn lao, đem trí tuệ ấy để khiến cho chúng sinh tu tập các pháp, lìa bỏ nẻo tạo tác thế tục.” Suy nghĩ như vậy rồi, tức thì có một vị trời hiện ra, nói lớn rằng: “Này vị Cư sĩ nên biết! Là có Đức Phật xuất hiện ở thế gian hiệu là Phổ

Đức Tăng Thượng Vân Âm Đăng, hiện nay Đức

Phật đã diệt độ.”

Cư sĩ Kiên Chúng được nghe nói đến tên hiệu

Đức Phật liền sinh tâm hoan hỷ, nhưng biết là Phật đã diệt độ nên hết mực buồn rầu. Vị trời ấy bèn hỏi: “Cư sĩ do đâu mà trước thì hoan hỷ, sau lại buồn rầu?” Cư sĩ đáp: “Tôi được nghe ngài nói có Đức Phật xuất hiện ở đời nên sinh tâm hoan hỷ. Nhưng lại nghe là Đức Phật đã diệt độ, do cảm thấy bị mất một lợi lạc lớn lao nên mới buồn khổ, khóc lóc.”

Vị trời kia lại nói rằng: “Cư sĩ chớ nên ưu sầu, Đức Phật Phổ Đức Tăng Thượng Vân Âm Đăng lúc sắp diệt độ, đã đem diệu lực thần thông gia hộ cho một vị pháp sư tên là Thanh Minh. Pháp tạng của Phật đều được thọ trì, tức là Đức Phật ấy đã biết được người có khả năng nhận lãnh và giữ gìn Pháp tạng.” Vị Cư sĩ hỏi: “Pháp sư Thanh Minh hiện nay đang ở chốn nào?” Vị trời nọ đáp: “Pháp sư Thanh Minh hiện ở nơi thành Gia-tỳ-la, về phương Đông cõi này, trải qua ba trăm sáu mươi do-tuần.”

Cư sĩ Kiên Chúng nghe vị trời ấy nói như vậy, tức thì vào sáng sớm hôm sau, mang theo tám mươi ức vàng, một ngàn xâu chuỗi anh lạc, quý giá, cùng với nhiều người quyến thuộc tìm đến thành kia. Đến nơi rồi thì lo tìm kiếm chỗ ở của Pháp sư. Gặp Pháp sư, Cư sĩ liền cung kính rập đầu đảnh lễ ngang chân Pháp sư, rồi lui ra đứng một bên. Pháp sư Thanh Minh đang thuyết về pháp hết mực thanh tịnh thâm diệu nhằm dứt trừ mọi mối nghi, đem lại sự hoan hỷ, có thể tập hợp tất cả mọi căn lành của

Bồ-tát. Đó là kinh Đại thừa. Bấy giờ, Cư sĩ Kiên Chúng được nghe kinh, tâm hoan hỷ, liền cầm vàng và các xâu chuỗi anh lạc, vì sự cung kính đối với chánh pháp, dâng lên Pháp sư, cũng đích thân mình cúng dường, cung cấp mọi việc cần thiết.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Cư sĩ Kiên Chúng vì dốc lòng cầu pháp nên luôn cung kính cúng dường Pháp sư, thường thân cận, gần gũi là nhằm có được kinh ấy để biên chép, thọ trì, đọc tụng, tu tập. Từ lúc bắt đầu được nghe, đã trải qua sáu mươi ức năm luôn bị theo Pháp sư. Ở trong khoảng ấy lại còn chẳng được nghe giảng, huống hồ là được biên chép, thọ trì, đọc tụng! Cư sĩ luôn cúng dường pháp sư Thanh Minh, ở trong ngần ấy năm mà tâm không lìa bỏ, không dấy cảm giác về ham muốn, giận dữ, và phiền não, thường đứng ngoài cửa, nơi chỗ ở của Pháp sư, ngay đêm hầu hạ chẳng chút nghỉ ngơi.

Lúc này có một ma ác tên là Thường Cầu Viện, vì mong điều xấu cho Cư sĩ Kiên Chúng nên biến hóa làm pháp sư Thanh Minh cùng với một nữ nhân bày chuyện dục lạc. Thực hiện xong việc xấu ấy, liền hiện ra nói với Cư sĩ: “Ông xem thầy của ông đấy, thường cho rằng mình là bậc có trí tuệ hạng nhất của chư Phật, nghe rộng biết nhiều như biển. Ông nay hãy xem hành động phi pháp vừa rồi, làm sao dạy bảo kẻ khác tu hành, giữ giới thanh tịnh, mà bản thân mình lại hủy hoại giới cấm? Thầy ông tự cho mình là người tu phạm hạnh mà lại phá giới hạnh thanh tịnh. Thường vì người thuyết giảng về việc thực hiện các pháp thâm diệu thanh tịnh, thế mà nay cớ sao lại tự mình làm chuyện phi pháp? Cư sĩ hãy nên dừng lại, lìa bỏ kẻ ấy, chớ cho ông ta là thầy mình. Cư sĩ là người giữ giới thanh tịnh, ít dục, biết đủ, vui với cuộc sống xa lìa, luôn tinh tấn kiên trì chánh niệm đối với trí tuệ. Cư sĩ có thể tự mình thành tựu được công đức như vậy, đâu cần phải thờ ông ấy làm thầy.”

Cư sĩ Kiên Chúng nghe nói như thế liền suy nghĩ: “Ta từ ở nơi nhà mình đã có vị trời đến nói là: “Có vị Phật xuất hiện ở đời hiệu là Phổ Đức Tăng Thượng Vân Âm Đăng, hiện nay đã diệt độ. Lúc sắp nhập Niết-bàn, Đức Phật đã trao lại trong trăm ức cõi Diêm-phù-đề mỗi cõi là một vị Pháp sư, là nhằm để tăng thêm thần lực. Cõi Diêm-phùđề này thì có vị pháp sư tên là Thanh Minh, mọi chỗ thuyết giảng của Đức Phật kia, vị pháp sư đều có thể thọ trì. Đó chính là người đã giữ gìn Pháp tạng của Đức Như Lai kia, ông nên đến để gần gũi học hỏi.” Ta được nghe nói vậy, cho là sẽ được lợi ích lớn lao nên mới thân hành đến chỗ của Pháp sư này. Lúc này Pháp sư đã vì ta mà thuyết giảng về tạng kinh Bồ-tát nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh, khiến họ được hoan hỷ, để dẫn dắt tâm ta, khiến ta rất vui mừng, nên đã đem nhiều vật quý giá dâng lên cúng dường Pháp sư, lại cũng tự thân mình lo mọi việc cúng dường hầu hạ, xem đấy là những việc làm đúng đắn. Nay người này lại đến cho ta biết vị Pháp sư đã gây ra lỗi lầm như thế, thật chẳng nên tôn thờ nữa! Hẳn đây là việc làm của loài ác ma! Vì sao? Vì chỗ được Phật hộ niệm tăng thêm thần lực ấy nếu tạo ra sự việc kia thì đã không có được chốn đây. Việc này chắc chắn là do đám ác ma ác tạo ra. Vì sao? Vì trong chỗ thuyết pháp của Pháp sư Thanh Minh không có sự việc ấy. Ta sẽ quan sát hình tướng nữ nhân cầu pháp cùng pháp nữ nhân cầu. Lại tìm hiểu hình tướng nam nhân cùng đem các pháp nam nhân cầu để đối chiếu. Nếu ta chạy theo hình tướng hư dối đó thì không việc ác nào mà không làm. Vì sao? Vì tất cả sự tạo nghiệp gây nên tội lỗi đều từ sự tưởng nhớ, phân biệt và phát sinh. Nếu ta theo hình tướng ở chỗ trông thấy mà khinh giận pháp sư thì cũng có thể bày báng Phật và hủy nghịch Phật pháp. Pháp sư ấy là người đã được Đức Phật Phổ Đức Tăng Thượng Vân Âm Đăng gia hộ thần lực. Nay ta sẽ lập lời thề: “Nếu vị Pháp sư đó là chỗ được Đức Như Lai kia gia hộ thần lực thì ta cũng lại là người dốc tâm cầu pháp.”

Do từ nhân duyên ấy mà hình tướng bất tịnh kia liền được tiêu diệt. Tức thì chắp tay nhất tâm niệm Phật và bày tỏ lời chân thực ấy. Lúc này, hình tướng nữ nọ liền bị diệt, không hiện trở lại. Cư sĩ Kiên Chúng diệt trừ việc ma xong liền suy nghĩ rằng “Ta đã dốc tâm như vậy để cầu pháp, Pháp sư Thanh Minh không vì ta mà thuyết giảng, lại có việc ma quấy phá ấy. Cũng lại do ta từ đời trước đã tạo tác những nhân duyên gây nên tội lỗi, làm ngăn trở chánh pháp, chứ chẳng phải lỗi của Pháp sư. Ta sẽ tự mình gắng sức, siêng năng tinh tấn trong hành động để nhằm diệt trừ mọi việc của ma.” Suy nghĩ như vậy xong thì càng thêm cung kính, luôn gần gũi hầu hạ Pháp sư, không hề dấy sự giận dữ, kiêu mạn.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả xem vị cư sĩ ấy với tâm thanh tịnh, bền vững, khó có thể hủy hoại. Từ lúc bắt đầu được nghe nói về vị Pháp sư ấy, trải qua sáu mươi ức năm, ở trong khoảng thời gian ấy cũng chẳng được nghe giảng. Như thế mà vẫn luôn dốc tâm cung kính thân cận. Bị ma ác Thường Cầu Viện lừa dối, mê hoặc như vậy mà tâm không đổi khác, lại tăng thêm sự kính trọng thầy, tâm tin tưởng càng thanh tịnh.

Cư sĩ Kiên Chúng trải qua sáu mươi ức năm, vào lúc mạng chung được sinh lên phương trên, thuộc thế giới thứ một ngàn, cõi ấy tên là Vô tránh, quốc độ đó có Đức Phật hiệu là Đại Kiên, một hội thuyết pháp, các bậc Thanh văn có đến chín mươi sáu ức vị. Bồ-tát Kiên Chúng được sinh vào hàng vương giả, lúc mới sinh có vị trời đến nói rằng: “Ngươi do đã nhất tâm cầu pháp, chính nhờ nhân duyên ấy mới được phước báo này.”

Bồ-tát Kiên Chúng nghe xong, liền suy nghĩ: “Nếu đúng là như thế thì từ nay ta sẽ đem thân cầu pháp ấy.” Sống trong ngàn năm, ở nơi pháp của Đức Phật Đại Kiên mà xuất gia học đạo, được Phật thuyết giảng chánh pháp. Do hạnh nguyện từ gốc cùng thần lực của Phật nên biết được thân mạng từ đời trước. Mọi Pháp tạng của Đức Như Lai Đại Kiên thuyết giảng đều được Bồ-tát Kiên Chúng thọ trì. Ở trong nửa kiếp tu hành Phạm hạnh, giáo hóa vô số, vô lượng chúng sinh đều khiến họ được an trụ nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Sau khi mạng chung, lần lượt được gặp Phật hiệu là Tu-di Kiên, sống trong bảy năm, ở trong pháp Phật xuất gia cầu đạo. Là người có được nhân duyên luôn dốc nhớ về bản nguyện cùng thần lực của Phật, nên mọi Pháp tạng do Phật Tu-di Kiên thuyết giảng đều có thể thọ trì trọn vẹn. Từ chỗ được nghe pháp nơi Phật Đại Kiên, cũng luôn ghi nhớ không quên. Lần lượt chuyển biến như thế và được gặp sáu mươi trăm ngàn vạn ức na-do-tha vị Phật. Mọi chỗ thuyết giảng của chư Phật, Bồ-tát Kiên Chúng đều có thể thọ trì, đọc tụng, lãnh hội, nêu bày, tu tập. Từ đó về sau, Bồ-tát Kiên Chúng trở thành bậc đa văn, trí tuệ rộng lớn mênh mông như nước biển cả trong lành không gì có thể sánh, như hư không thanh tịnh thâm diệu, khó có thể lường được bờ bến.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Theo ý của Tôn giả thì sao? Cư sĩ Kiên Chúng được nghe vị trời nói, đã mang vàng cùng nhiều xâu chuỗi anh lạc quý giá đến chỗ vị Pháp sư, nghe pháp hoan hỷ và dâng lên cúng dường pháp sư số châu báu kia. Lại cũng tự mình lo liệu mọi việc cúng dường khác. Do dốc lòng cầu pháp nên luôn gần gũi Pháp sư, trong sáu mươi ức năm lại chẳng được nghe pháp, còn bị ma ác Thường Cầu Viện lừa dối, quấy phá như thế. Nghe kẻ khác nói xấu về lỗi của thầy mà cũng không giận dữ, nghi ngại, luôn một lòng theo đuổi việc cầu pháp cho đến mạng chung. Vị Cư sĩ ấy là một người xa lạ chăng? Chớ nên nghĩ như thế. Đó là Đức Phật Đỉnh Quang vậy.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả đã thấy Bồtát dốc tâm tinh tấn cầu pháp như vậy nên đạt được phước báo lớn lao. Vì thế nên biết rằng: Các vị Đại Bồ-tát dốc tâm cầu pháp thì luôn mau chóng đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Pháp sư Thanh Minh cũng vì sự hộ trì chánh pháp của chư Phật trong ba đời, hiện đang có mặt nơi hội này.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Lại có ba sự việc để chứng nghiệm tâm của Bồ-tát.

Thứ nhất là Bồ-tát chuyên tâm cầu pháp thì có thể hành hóa khắp mọi nơi chốn có chúng sinh hoạt động. Đó là lúc mới phát tâm.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát nếu dốc tâm cầu vô lượng pháp Phật, được nghe các pháp hết mực thâm diệu, không hề kinh sợ, lại đem tâm tin tưởng, không trái nghịch, nghe theo pháp thâm diệu ấy nên tâm tịnh không động. Đó là sự việc thứ nhì chứng nghiệm đích thực là tâm Bồ-tát. Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu có người đi đến chỗ của Bồ-tát nói rằng: “Như có người phát tâm cầu đạo Vô thượng, có thể đem lại sự an vui cho tất cả chúng sinh. Nay tôi chính là người đau khổ nhất, sẽ được thấy sự an vui kia rồi sau mới trao cho hết thảy chúng sinh.” Nếu vị Bồtát ấy, khả năng có thể cứu độ mà không hứa giúp, lại sinh tâm thoái chuyển, cho rằng mình hãy còn chẳng thể đem lại sư an vui cho người này, huống là có thể tế độ cho tất cả chúng sinh. Nên biết rằng đó chẳng phải đúng là tâm của Bồ-tát. Nếu trông thấy người cầu ấy, tâm không thoái chuyển mà khởi lòng Từ bi nhằm đem lại sự an vui cho họ, thì đấy mới đúng là tâm của Bồ-tát.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu ngay vào lúc trao cho người mong cầu đầy đủ mọi sự an lạc mà họ trở lại dùng lời xấu ác để mắng nhiếc, nhục mạ, tâm không giận dữ, Bồ-tát chỉ sinh tâm Từ bi, cung cấp đủ mọi chỗ mong cầu của họ. Đã có thể điều phục tâm mình như vậy, tức thì dứt trừ được vô lượng nhân duyên tạo tác tội lỗi trong cõi sinh tử, mau được tiếp cận Phật đạo, trong mỗi mỗi niệm có thể thu nhiếp vô lượng, vô biên Phật pháp. Đó chính là sự dốc tâm theo phương tiện của Bồ-tát với chí nguyện không gì hủy hoại được. Như trong khi người cầu mong ấy buông lời mạ lị, bấy giờ Bồ-tát suy nghĩ cho rằng: “Người ấy chính là đã trao cho ta pháp Phật” nên ở trong hoàn ảnh đó không sinh tâm giận dữ, liền được tiếp cận Phật đạo. Đó chính là phương tiện thể hiện tâm đích thực của Bồ-tát.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu có người đến chỗ Bồ-tát bảo rằng: “Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, pháp ấy thật hết sức khó khăn! Ông làm sao có thể tập hợp hết được tất cả các pháp Phật?” Bồ-tát nghe nói thế, sinh tâm thoái chuyển, thì đấy chẳng phải là đích thực. Nếu nghe họ nói như vậy mà mình dấy tâm tưởng là có thể thực hiện được, thì đấy mới đúng nghĩa là tâm của Bồ-tát.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như có người đến bảo Bồ-tát rằng: “Nếu người phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ở nơi thân mạng của chính mình chẳng có được tự tại, huống hồ là đối với tài sản của cải? Này thiện nam! Ông nay phải nên lìa bỏ tâm ấy đi, chớ đối với thân mạng mà cũng chẳng tự tại nữa là!” Bồ-tát nghe như thế bèn dấy sự tham đắm về thân mạng mà sinh thoái chuyển, thì nên biết, đấy đích thực không phải là tâm của Bồ-tát. Nếu nghe nói như vậy mà Bồ-tát suy nghĩ: “Tất cả chúng sinh đều luyến tiếc thân mạng, nhưng đối với lão, bệnh, tử thì không thể nào chống trả lại được. Lại chính là từ sự tham tiếc thân mạng mình ấy mà đã dấy khởi những tạo tác gây ra bao tội lỗi, và do nhân đó mà bị đọa vào nẻo ác, nên lại chẳng thể giữ gìn cho thân sau. Ta nếu tham tiếc, lo giữ gìn thân mạng, dấy lên bao nhân duyên gây ra tội lỗi, bị rơi vào đường dữ, bị lưu chuyển trong cõi sinh tử, cùng với những kẻ ngu muội kia nào có khác gì! Ta nay chẳng nên tham tiếc thân mạng, chỉ nên có sự tham tiếc đối với trí tuệ của Như Lai, cũng như dốc giữ gìn Phật pháp, vì để cứu độ chúng sinh nên luôn siêng năng tinh tấn lìa bỏ tham ái cùng các thứ phiền não. Ta nay sẽ vì sự không buộc không mở mà cùng chúng sinh diễn nói các pháp.” Suy nghĩ như vậy xong, liền đáp lời người kia rằng: “Ông cho rằng thân mạng chẳng được tự tại! Các pháp tự nó là như thế. Tham tiếc và không tham tiếc đều là chẳng tự tại. Hỡi ôi kẻ nhân! Tất cả các pháp đều là không, không chủ thể, không chốn nương tựa, chỉ theo duyên hợp mà có.” Nếu có được sự chánh quán về các pháp như vậy thì đấy chính là đã tạo được phương tiện tốt thể hiện đúng thực tâm của Bồ-tát.

Lại nữa, này Xá-lợi-phất! Nếu có người đến bảo Bồ-tát: “Ông đã phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nay nên vì tôi mà làm kẻ hầu hạ, sai khiến.” Bồ-tát đáp rằng: “Tôi chẳng riêng làm người hầu hạ, sai khiến cho ông. Tôi đã nguyện phục vụ mọi việc cho hết thảy chúng sinh.

Vì sao? Vì tôi đã vì tất cả chúng sinh mà đảm nhận những việc quan trọng. Như đảm nhận sự an vui yên lành không đảm nhận sự mỏi mệt. Đảm nhận việc sinh nơi xứ thiện, đảm nhận việc có thể gặp Phật và được nghe chánh pháp của Phật, đảm nhận việc theo pháp thực hiện để đạt giải thoát… Những sự đảm nhận ấy không hề làm cho thân tâm mệt mỏi, biếng trễ. Không tự làm cho mình phiền não, mà cũng không gây phiền não cho kẻ khác. Đã không tự gây khổ cho mình, lại cũng không gây khổ cho kẻ khác. Như chỗ ông nói: “Muốn lấy tôi làm kẻ hầu hạ, sai khiến”, thế thì ông cần những việc gì?” Người ấy nếu bảo rằng: “Cần thân mạng ông” thì Bồ-tát nên nói: “Tôi nay cũng chẳng có sự tham tiếc thân mạng, chỉ thương xót, luyến tiếc về ông thôi! Chứ ở nơi tất cả các pháp là không, không có chủ thể, không có chốn nương tựa như thế để có được tâm tự tại, mà lại dấy khởi sự tạo tác gây nên tội lỗi, chính từ nhân duyên ấy mà bị đọa vào các đường ác. Tâm tôi là như vậy. Than ôi kẻ nhân! Chẳng muốn khiến ông dấy khởi duyên gây nên tội lỗi ấy mà bị rơi vào các đường ác. Tâm tôi là như vậy, nếu không tin thì sẽ theo ý ông thôi!” Nếu đã có thể chẳng tham tiếc thân mạng như thế thì đấy chính đúng thực là tâm của Bồ-tát. Liền xa lìa sinh tử, tiếp cận với đạo Vô thượng Bồđề, đạt tất cả trí tuệ, giáo hóa chúng sinh, làm thanh tịnh cõi Phật, cũng có thể làm tăng trưởng căn lành cho chính mình và cho người khác.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như đem ngọc báu ma-ni vô giá, dùng lửa nung lên tức thì màu sắc sẽ theo đấy mà tỏa sáng. Người chuyên sử dụng châu báu ấy có được tài lợi lớn. Ngọc báu đó có thể phát ra đủ thứ đủ loại kỹ năng. Nếu được xem thấy, không ai là không ham chuộng, yêu thích.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Các vị Đại Bồ-tát cũng như thế. Là vì chư Đại Bồ-tát có thể thực hiện tất cả các pháp bình đẳng, có thể hiện bày rõ cho chúng sinh thấy cái tâm đích thực của bậc Bồ-tát, theo chỗ hành hóa ấy mà làm cho các căn lành thêm sáng tỏ, trong sạch. Đại Bồ-tát luôn là chỗ hộ niệm của chư Phật, là chốn có thể đem lại sự an vui khi chiêm ngưỡng của vô lượng chúng sinh, là nẻo quy về nương tựa của tất cả chư Thiên, người trong thế gian.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như có người gieo trồng các cây thuốc, theo thời gian cùng sự chăm sóc như: tưới nước, ngăn che bớt gió, ánh nắng… khiến cho những cây thuốc ấy dần dà thêm lớn lên, tươi tốt, và khi đã lớn hẳn rồi thì có thể dùng để diệt trừ vô số các bệnh của chúng sinh, là chỗ đem lại sự an vui cho người già, bệnh khi họ được trông thấy. Các vị Đại Bồ-tát cũng như vậy. Vì chư Đại Bồ-tát phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, gieo trồng các căn lành, vì nhằm đạt đến trí tuệ như Phật mà nhất tâm cầu pháp, ngăn chận các loài ma cùng bao thứ phiền não, ở trong Phật pháp chỗ tạo nghiệp lành, dần dần được tăng trưởng. Và khi đã tăng trưởng đầy đủ thì có thể dứt trừ các thứ bệnh, phiền não vô số, vô lượng chúng sinh, có thể làm được việc tập hợp vô lượng a-tăngkỳ thứ thuốc trí tuệ. Như lúc đạt đến quả vị Phậtđà, tất cả chúng sinh, còn cấu uế hay đã dứt sạch cấu uế, thảy đều an lạc khi được chiêm ngưỡng, là bậc được tôn quý hết mực của hết thảy chư Thiên, người, A-tu-la trong thế gian.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu có người đến bảo Bồ-tát rằng: “Như phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề thì người phát tâm ấy sẽ sinh trong cõi đại địa ngục. Vì sao? Vì theo chỗ nhằm độ thoát từng ấy chúng sinh thì phải nên ở nơi cõi đại địa ngục trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp đảm nhận lãnh bao nỗi khổ thay của họ, sau đấy mới có được Vô thượng trí của Phật mà độ thoát chúng sinh. Ông nếu có thể làm được sự việc như vậy thì mới cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.”

Bồ-tát nghe nói như thế liền sinh tâm thoái chuyển, dấy tưởng cho là khó đạt được, thì nên biết, đấy chẳng phải đích thực là tâm của Bồ-tát. Nếu nghe sự việc ấy mà Bồ-tát nhanh chóng tưởng cho là: không lâu xa có thể gắng gổ thọ nhận, nhất là dấy tưởng không thoái chuyển. Và suy nghĩ rằng: “Nếu ta đem cái nhân duyên đi vào cõi địa ngục, khiến cho mọi chúng sinh lìa được bao nỗi khổ, thành tựu được Phật đạo thì ta ắt có thể vì mỗi mỗi chúng sinh, trải qua ngần ấy a-tăng-kỳ kiếp ở trong cõi đại địa ngục nhận lấy bao nỗi khổ não. Vì sao? Vì với nhân ấy sẽ đạt được trí tuệ không gì hơn, đạt được Phật lực, Phật vô sở úy, không gì có thể sánh, cũng đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tột bậc. Lại có thể vì chúng sinh mà tạo lập các pháp hội lớn, pháp thí nhiều phần pháp bảo. Nếu người được nghe các phần pháp bảo ấy thì sẽ dứt trừ được vô số, vô lượng nỗi khổ. Cũng dứt được vô lượng khổ não trong a-tăng-kỳ kiếp ở đời vị lai. Lại có được nhiều niềm an lạc không gì sánh nổi do lìa bỏ tham dục. Vì thế mà ta sẽ gắng sức hết mực, vì vô lượng, vô số chúng sinh nhận lãnh thay cho mỗi mỗi người, bao nỗi khổ nơi địa ngục, tâm không thoái chuyển. Mà ở trong ấy sinh tưởng nhanh nhạy tưởng cho là không lâu xa, tưởng có thể kham nhận.” Đấy mới đích thực là tâm của Bồ-tát.

QUYỂN 7

Phẩm 23: Vương tử đắc niệm

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Tôn giả vẫn muốn tiếp tục được nghe nói về tâm của Bồ-tát chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Nay chính là lúc nên được nghe Thế Tôn thuyết giảng tiếp về tâm đích thực của Bồ-tát. Chính nhờ tâm chân thực ấy mà có thể tu tập đạt quả vị Vô thượng Bồ-đề.

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Về thời quá khứ xa xưa, trải qua vô lượng, vô biên chẳng thể nghĩ bàn a-tăng-kỳ kiếp, bấy giờ có Đức Phật hiệu là Đức Vương Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, xuất hiện ở đời. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Vị Phật Đức Minh Vương ấy, hội lớn của hàng Thanh văn có đến tám vạn bốn ngàn vị, hội lớn của chúng Bồ-tát số lượng cũng như thế. Thời ấy, nơi hàng Thanh văn, trong mỗi mỗi hội thuyết pháp đều có tám vạn bốn ngàn người đắc quả A-la-hán. Các vị Bồ-tát, trong mỗi mỗi hội thuyết pháp cũng có tám vạn bốn ngàn người đạt được pháp không thoái chuyển. Đức Phật Đức Minh Vương đã dứt sạch hết thảy mọi thứ lậu vốn có, tâm luôn được tự tại. Bậc đại A-la-hán, các vị chứng các quả Tu-đà-hoàn, Tưđà-hàm, A-na-hàm, số lượng còn nhiều hơn nữa.

Cùng thời này có vị vương tử tên là Đắc Niệm đã thân hành đến chỗ Đức Phật, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật rồi lui đứng một bên. Vương tử trông thấy Đức Phật có uy đức lớn lao, liền suy nghĩ rằng: “Phật là bậc hy hữu, đã thành tựu bao công đức hết sức thâm diệu. Ta nên tạo duyên gì để có được trí tuệ cùng thân tướng tốt đẹp như Đức Phật?” Liền theo chỗ suy nghĩ của mình mà đọc bài kệ hỏi Đức Phật rằng:

Con nay thấy Thế Tôn
Nguyện sẽ được trí ấy
Hành nhân duyên nghiệp nào
Đạt tuệ Vô thượng đó?
Sắc thân Phật bậc nhất
Như thể trăng trong sao
Lực thần thông hơn hẳn
Nên thuận chúng thuyết pháp
Trí tuệ không ai hơn
Như Thích Thiên Tôn quý
Nơi pháp luôn tự tại
Con nay xin được hỏi
Trí Phật tịnh, vô ngại
Ba đời thảy thông đạt
Tất cả chúng tôn kính
Vì con giảng việc ấy?
Thế Tôn xưa từng gặp
Vô số các vị Phật
Hỏi về nhân Bồ-đề
Nguyện nay vì con giảng?
Nay hỏi trí vô ngại
Làm sao chứng Phật đạo
Chốn nương của muôn loài
Độ hết khổ sinh tử?

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Lúc này Đức Phật Đức Minh Vương dùng kệ đáp lại rằng: Đồng tử! Chỗ con nêu

Sự thực ấy như thế
Ta từng thấy chư Phật
Số nhiều như hằng sa
Thấy Phật hơn hằng sa
Tên, số chẳng kể hết
Cũng nơi hằng sa kiếp
Hỏi Phật việc như vậy
Con phát tâm Bồ-đề
Sẽ thành Lưỡng Túc Tôn
Nay nghe ta thuyết giảng
Nghe xong, như lời hành
Luôn hành thí không chán
Trí giới chẳng dừng nghĩ
Đa văn không nhàm đủ
Tu tập chân trí tuệ
Phật lược nói kệ ấy
Thấy Đồng tử ham thích
Muốn khiến thành Phật đạo
Lại vì phân biệt khắp
Con luôn luôn bố thí
Trì giới tịnh không mỏi
Hỏi bậc Trí đâu chán
Đó, nhân duyên chân trí
Chân trí không nơi chốn
Cũng không nơi thường trụ
Do nhân hỏi chư Phật
Nên sinh chân trí tuệ
Trí Phật không nương nhãn
Tánh nhãn vốn tự không
Do vậy chẳng nên chấp
Để cầu trí tuệ Phật
Nhĩ, tỷ, thiệt, thân căn
Cùng ý cũng như vậy
Các nhập ấy đều không
Tướng không nên tham vướng
Bốn đại hợp nên thân
Tâm, nơi chốn nương tựa
Theo đấy, dấy tưởng nhớ
Tưởng nhớ cũng chẳng có
Như chẳng nương tựa thân
Cũng chẳng dựa thọ mạng
Lại chẳng bám tài lợi
Ắt đạt được Phật đạo
Luôn nên cầu xuất gia
Và siêng năng tinh tấn
Thường chán lìa uế dục
Do lìa xa nẻo ác
Nẻo con làm bố thí
Vì hết thảy chúng sinh
Nơi chúng không phân biệt
Cũng chẳng thí hý luận.

Bấy giờ, vương tử Đắc Niệm, dấy tâm tin tưởng hoan hỷ, liền ở nơi trước Đức Phật đọc bài kệ:

“Thế Tôn dứt sạch nghi
Chỉ nẻo vượt sinh tử
Thuyết pháp tịnh thâm diệu
Vì con tạo lợi lớn
Con cho là thành Phật
An tọa nơi đạo tràng
Trừ diệt mọi ma buộc
Do theo Phật nghe pháp
Con bèn làm người dẫn
Nên động khắp đại thiên
Hiện vô số thần thông
Do theo Phật nghe pháp
Cho là bỏ mạng lớn
Đã nhập cõi Niết-bàn
Tất cả pháp đều không
Chân trí do đấy sinh
Rõ pháp, dứt sạch tướng
Pháp diệt không chốn cõi
Pháp hữu vi đều dứt
Dứt sạch tức là không
Con nay đến cha mẹ
Nêu bày cùng tạ từ
Nơi pháp Phật xuất gia
Tu hành đạo giác ngộ.”
Tức thời lễ chân Phật
Nhiễu ba vòng rồi đi
Đến ngay chỗ cha mẹ
Giữa đường gặp ma ác
Ma ác dấy niệm này:
“Vương Tử muốn xuất gia
Ta sẽ tạo chướng ngại
Quấy nhiễu hoại tâm ấy.”
Liền đứng ở giữa đường
Vờ hỏi Vương tử rằng:
“Đi gấp đến chốn nào?
Hãy dừng để xin hỏi.”
Vương tử nghe bèn đáp:
“Tôi từ chỗ Phật lại
Được nghe pháp Vô thượng
Nay muốn theo tu tập.”
Ma nói: “Người lành thay!
Tinh tấn cầu Phật đạo
Chỉ nên trước thọ dục
Rồi sau sẽ xuất gia.
Ngươi sinh chốn tôn quý
Dân giàu có vô lượng
Trước sẽ thọ vui đời
Chớ để sau sinh tiếc.
Chốn tôn quý như thế
Năm dục lạc khó được
Nếu nay, bỏ xuất gia
Sau tất sinh tâm hối.”
Vương tử tức thì bảo:
“Thọ dục trọn chẳng tham
Ông đem thân điên đảo
Khen pháp dối uế ấy
Ông nói phú quý khó
Lìa tám nạn khó hơn
Tôi nay gặp việc này
Xuất gia tu Phật đạo
Tôi đã rõ cõi Dục
Cõi Sắc, Vô sắc vượt
Ba cõi Khổ, Vô thường
Dứt ái, đạt tịch diệt
Sẽ chứng pháp vô vi
Chúng sinh được lợi lớn
Thoát khỏi sinh, bệnh, tử
Qua lại mọi cảnh khổ.”

Lúc này ma ác Thất Niệm nói với Vương tử rằng:

–Nhân giả tự bảo là dốc chí cầu Phật pháp. Nay ta cũng sẽ cùng tạo ra lợi ích.

Vương tử Đắc Niệm nói:

–Hãy để tôi nói, nghe xong thì sẽ rõ.

Ma ác nói:

–Nên bày lời thệ nguyện rồi ngươi mới nói.

Vương tử đáp:

–Ôi thôi Hiền giả! Tôi trước nên nói, nghe xong thì mới rõ.

Ma ác bảo Đắc Niệm:

–Ngươi chẳng nên nói là “nghe xong thì sẽ rõ”. Nên nói như thế này: Chỉ thấy sự giáo hóa và sẽ theo lời chỉ dạy ấy mà hành động.

Vương tử Đắc Niệm đáp:

–Tôi nay không nên như đệ tử đối với pháp theo lời chỉ dạy là làm ngay. Vì sao? Vì như ông đấy, ở nơi pháp thì sinh tưởng phi pháp, ở nơi phi pháp thì dấy tưởng là pháp, do đó những lời ông chỉ dẫn tôi, tôi phải suy nghĩ: Điều thiện thì sẽ theo và thực hiện, còn điều bất thiện thì từ bỏ. Vì vậy kẻ trí đối với pháp, nghe xong thì mới rõ. Ông muốn khiến tôi trước hãy lập thệ nguyện như lời chỉ dẫn và hành động ngay. Đó là sự việc của hàng phàm phu, không phải là nẻo hành động của kẻ trí. Đấy là chỗ ma làm, chẳng phải là Phật Pháp. Như thế nên tôi không theo ông trước quyết bày tỏ lời thệ nguyện. Sợ có kẻ trí chê cười tôi rằng: Làm sao lập thệ rồi mà về sau chính mình làm trái lại!

Bấy giờ ma ác bèn suy nghĩ: “Gã vương tử này thật thông minh sáng dạ, đã không chịu lập thệ nguyện thì khó có thể lừa dối mê hoặc được.” Suy nghĩ như vậy xong, liền nói với Vương tử Đắc Niệm:

–Lành thay, Vương tử! Pháp của kẻ trí là chẳng nên lập thệ nguyện trước. Tuy nhiên ta nay sẽ chỉ dẫn cho ngươi, ngươi sẽ tin, thọ. Như ở trong sự việc gì, thấy có nhiều lầm lỗi thì phải nên lìa bỏ, còn nếu thấy chỉ có ít lỗi lầm thì nên gần gũi.

Vương tử nghe bảo thế liền nói với ma ác:

–Ôi thôi kẻ trượng phu! Ông nay chẳng nên nói những lời như vậy! Vì sao? Vì dù lỗi lầm hay ít lỗi lầm thì cũng đều chẳng được gần gũi. Ví như có nhiều chất độc có thể làm hại người, thì ít chất độc cũng có thể làm hại người vậy. Như bậc Chuyển luân vương trong khi ăn cơm gặp chất độc có thể bị hại đến thân mạng, còn như kẻ hạ tiện trong lúc ăn uống gặp chất độc thì cũng có thể nguy hại đến tánh mạng vậy. Vì thế nên biết rằng, nhiều hay ít lỗi lầm thì đối với người có trí tuệ sâu rộng đều nên lìa bỏ. Pháp mà kẻ trí nên gần gũi là không có lỗi lầm sai trái, không nóng nảy, buồn phiền, là bất động tịch diệt dẫn tới cứu cánh an lạc.

Ác ma bèn suy nghĩ: “Nay chỉ bày cho kẻ này, đã chẳng chịu tin thọ mà lại còn đối đáp trái ngược, vậy nó tất có thể thông đạt trái với những điều khiến ta nghi ngờ. Tuy vậy, vẫn còn có một lẽ: Gã vương tử này, tâm đối với trường hợp nhiều hay ít lỗi lầm đều chẳng muốn thọ nhận. Mà hạnh Bồ-tát thì có nhiều thứ lỗi lầm. Sống lâu trong cảnh sinh tử, qua lại nhiều nẻo, bao thứ lỗi lầm về tham dục sân giận ngu si, kẻ cầu mong chẳng đúng lúc cũng ào đến, theo chỗ đòi hỏi về những vật quan trọng mà mình yêu thích “Đầu mắt tủy não cùng các chi phần nơi thân mạng.” Hạnh Bồ-tát có những lỗi lầm như thế. Tâm của gã Vương tử này, đối với trường hợp ít lỗi lầm hãy còn xa lánh huống là đối với trường hợp nhiều sai phạm. Nay nếu được nghe nói trong hạnh Bồ-tát ấy có những lỗi lầm như thế thì hoặc sẽ thoái chuyển đi vào các pháp Tiểu thừa, hay nhập Niết-bàn như vậy cũng là sai. Thế là cũng làm được việc hủy hoại lớn đối với tâm của gã ấy.”

Suy nghĩ như vậy rồi bèn nói với Vương tử Đắc Niệm rằng:

–Lành thay! Lành thay! Đúng như chỗ ngươi đã nói, dù nhiều hay ít lỗi lầm đều chẳng nên gần gũi. Đó là pháp của kẻ trí. Chỗ ta đã nói là không đúng nên tâm ngươi không chấp nhận. Vương tử nên biết rằng, chỉ có cảnh giới Nê-hoàn là dứt sạch hết mọi lỗi lầm. Vì thế ngươi nên nhất tâm dốc cầu, chớ đừng qua lại trải khắp các cõi sinh tử nhận lấy bao nỗi thống khổ. Vương tử cũng nên rõ, thọ thai là rất khổ, thời gian ở trong thai cũng khổ, sinh ra lại khổ, yêu thương mà ly biệt là khổ, oán ghét mà gặp nhau là khổ. Thân này là vô thường, là không, là chẳng bền chắc. Nuôi dưỡng cực nhọc, nhưng thọ mạng luôn nguy khốn dễ bị hư mất, đó là sự vô thường rất đáng kinh sợ, mà cõi sinh tử thì vô biên làm sao có thể đi đến khắp hết được? Người trí nghe thế thì đủ phát sinh sự chán lìa rồi. Ngươi hãy tự hướng vào mình mà nghĩ xem! Chư Phật khó gặp, tám nạn thì khó lìa, thân người khó được, kinh pháp khó được nghe, nghe và tin càng khó. Ngươi nay đều có được đầy đủ các thứ ấy, chẳng nên không lìa bỏ mà phải sinh lòng chán lìa, tức đối với thân này nên nhập Nê-hoàn. Bản ý của ta chính là nhằm bày tỏ điều đó. Vì thế, trước khiến ngươi nên quyết định lập thệ nguyện. Đấy, đúng là ta nói, nghe xong thì sẽ rõ.

Vương tử Đắc Niệm đáp:

–Theo như nhân giả nói rằng sinh, lão, bệnh, tử là phải nhận lấy vô số nỗi khổ, điều ấy là đúng. Nhưng bảo là thân này nên nhập Nê-hoàn thì không thể được. Tôi khi nghe xong việc ấy thì đối với chúng sinh lại tăng thêm lòng Từ bi, chúng sinh thật đáng thương vì ở nơi cảnh lão bệnh tử phải chịu lấy vô số nỗi khổ. Lúc tôi đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, nhằm chuyển vô lượng nỗi khổ của lão bệnh tử, nên vì họ mà thuyết pháp khiến họ được vĩnh viễn xa lìa. Này Nhân giả! Ít có lúc được nhìn thấy lợi ích lớn lao. Tôi lúc nghe ông nói về nỗi khổ của sinh tử, liền đối với chúng sinh mà khởi lòng thương xót lớn nhằm cứu giúp họ. Nếu thân tôi đây mà nhập Nê-hoàn liền thì ai sẽ là người cứu giúp? Lại nữa, nay được nghe ông nói sự việc ấy thì tôi lại càng thêm kiên cố hơn trong đại nguyện trang nghiêm của mình.

Bấy giờ, ma ác nói với Vương tử Đắc Niệm:

–Ngươi bảo rằng đối với trường hợp ít lỗi lầm hãy còn chẳng nên gần gũi. Nay vì lý do gì mà muốn đi vào cõi sinh tử?

Vương tử đáp:

–Này Nhân giả! Trong đạo Vô thượng Bồ-đề không hề có một chút lỗi lầm, do đó mà nên học tập gần gũi.

Ma ác nói:

–Này Vương tử! Trong đạo Vô thượng tuy không có lỗi lầm, nhưng ai sẽ cùng tìm đến? Ta cầu Phật đạo hãy còn chẳng có thể được, huống hồ là ngươi mà được sao? Ta vốn đã dấy ý niệm là sẽ đạt được Phật đạo. Phát tâm tà ấy, tức thì liền có vô số kẻ ăn xin ào tới theo ta đòi hỏi nào đầu mắt tủy não cùng các chi phần thân thể.

Ma ác lại nói với Vương tử:

–Ta đã đem đầu mắt cùng tay chân… cho đám người ăn xin ấy, máu tuôn ra thành luồng, người muốn xem chăng?

Vương tử đáp:

–Tôi muốn được xem, điều ấy cũng có lợi ích.

Ma ác liền suy nghĩ: “Gã Vương tử này dốc tâm nơi đạo Vô thượng, nhưng hầu như có thể chuyển.” Liền nói rằng:

–Ta muốn thấy điều ấy đem lại lợi ích.

Tức thì ma hóa ra bốn ao máu lớn, đầy ắp những máu. Nơi bờ ao có bốn con sông máu lưu thông với ao, chất đầy những đầu người cao như núi Tu-di, có người mới bị hoại, có cái máu ứ đọng với các màu xanh vàng trắng đỏ. Ma ác cũng lại biến ra những thây người chết chất đầy như các dãy núi. Những thây chết này, hoặc bị chặt tay chân, hoặc mắt bị lòi ra, hoặc bị cắt mất tai mũi chặt đứt các chi phần. Ma lại tạo ra Dạ-xoa cùng nhiều quỷ ăn thịt người, bốn bên bờ đều đầy dẫy, thật hết sức kinh sợ, hoặc cầm đao tượng cung tên mâu kích, vác núi phun lửa, sấm sét chớp giật liên hồi. Hoặc biến ra các thứ ác thú có đầu sư tử, gấu, bi, cọp, báo, hay đầu trâu, ngựa, lạc đà, voi, heo, chó, đầu rắn, đầu cá, đầu cá Ma-già. Những thứ quỷ này, hoặc tay nắm rắn độc, hoặc miệng phun lửa, hoặc có hai đầu, năm đầu, mười đầu, trăm ngàn vạn đầu. Hoặc có một lưỡi, hai lưỡi mười lưỡi, trăm ngàn lưỡi. Hoặc có một mắt hai mắt năm mắt mười mắt trăm ngàn vạn mắt. Mỗi con quỷ đều phát ra những tiếng kêu lớn nghe rất kinh hoàng. Tất cả lũ ấy đều cùng nói năng giận dữ, quắc mắt ngó trông khắp chỗ, cắn thịt xương, thè lưỡi dài bốn mặt vây quanh. Biến hóa ra những sự việc đáng sợ như thế xong, ma ác nói với Vương tử Đắc Niệm rằng:

–Ngươi hôm nay đã trông thấy bốn ao máu lớn ấy chảy ra nơi bốn con sông lớn đầy những máu chăng?

Vương tử Đắc Niệm đáp:

–Đã trông thấy.

Ma bảo:

–Những cái ấy đều từ gốc là ta phát tâm cầu đạo Vô thượng, lúc ấy có đám người ăn xin ào đến theo ta đòi hỏi phải cho họ đầu mắt tủy não cùng các chi phần nơi cơ thể, do đấy mới có máu chảy thành sông lớn như thế. Ngươi lại trông thấy đống đầu người chất cao như núi Tu-di chăng?

Vương tử Đắc Niệm đáp:

–Có trông thấy.

Ma nói:

–Cái đó đều là do từ xa xưa đến giờ đã từng cắt đầu bố thí cho đám người ăn xin kia. Ngươi lại trông thấy đống thây người chết chất cao như bốn núi ấy, hoặc bị chặt mất tay chân cùng tai mũi và những chi phần trên thân thể chăng?

Vương tử nói:

–Có trông thấy.

Ma bảo:

–Cái ấy cũng do từ gốc ta lúc thực hiện hạnh Bồ-tát theo Phật đạo, đã xả thân bố thí cho đám người ăn xin đấy. Ngươi lại có thấy nơi bốn bên bờ với đám Dạ-xoa, ác quỷ rất đáng kinh sợ chăng?

Vương tử nói:

–Có trông thấy.

Ma nói:

–Nếu người phát tâm cầu quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức thì liền bị đám quỷ buồn phiền kia ào theo xin nào đầu mắt tai mũi chân tay cùng vô số chi phần nơi thân thể. Ta từ xa xưa phát tâm đến nay, đã từng chặt đứt ngần ấy đầu và các chi phần trên thân thể mình đấy.

Ma lại hóa ra đám quỷ đại La-sát và nói với Vương tử rằng:

–Ngươi lại trông thấy đám La-sát ấy chăng?

Vương tử Đắc Niệm đáp:

–Trông thấy.

Ma bảo:

–Nếu người phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồđề, thì đám quỷ ác ấy sẽ ăn sạch hết ngũ tạng, uống những giọt máu nơi tim và cắt đứt mạng sống ngay. Ngươi nay nên biết, nếu chẳng lìa bỏ tâm Bồ-đề ấy thì không thoát khỏi cảnh khổ này. Ta vốn từng nghĩ suy rằng sự việc phát tâm ấy là hết sức khó khăn, chung cuộc là không thể đạt được vì không thể kham nhận bao thứ khổ não kia. Vì vậy mà nên thoái chuyển đối với đạo Vô thượng. Ngay lúc thoái chuyển là lìa thoát khỏi nỗi khổ đó và được an ổn khoái lạc. Do đó mà ta nay, vì lợi ích cho ngươi nên nêu bày rõ sự việc như thế đấy. Ngươi chớ nên phát tâm cầu đạo Vô thượng ấy nữa. Nếu ngươi phát tâm thì tất phải nhận lấy nỗi khổ kia mà cũng chẳng được giải thoát.

Vương tử Đắc Niệm bèn suy nghĩ: “Ta ở nơi chỗ Đức Phật phát tâm cầu đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, muốn đến chỗ cha mẹ ta để tỏ bày sự việc. Người này giữa đường gặp ta mà bày chuyện phá hoại như vậy, đó hoặc là ma hóa làm thân người, hay là do ma sai khiến, hoặc ở nơi Phật đạo mà dấy tâm thoái chuyển, biếng trễ cho nên đến để phá hoại ta. Người này ở đời trước tất có tội lỗi nặng nề, vì vậy mà nay mới có từng ấy kẻ ăn xin ào tới đòi hỏi cho đầu mắt cùng vô số các chi phần trên thân thể, cắt đứt mạng sống cũng như phải nhận lấy bao thứ khổ não. Lại nữa, những người ăn xin kia có thể là sự trợ giúp cho Bồ-tát thành tựu đạo Vô thượng. Vì sao? Vì những người ăn xin đó từ nhiều nơi chốn đến, đều do tham dục, sân giận, ngu si, ganh ghét, kiêu mạn, nên đã theo Bồ-tát, cầu xin không đúng lúc. Nếu ta không có thể làm thỏa mãn những nguyện vọng của đám chúng sinh ấy nơi thế gian thì làm sao có thể đem lại lợi lại xuất thế gian? Người này biếng nhác nên không thể có được sự an lạc sâu xa đối với đạo Vô thượng, bèn sinh tâm thoái chuyển. Ta nay nhận thấy sự việc này thì càng thêm tinh tấn dốc cầu đạo Vô thượng. Giả sử ta ở trong khoảnh khắc một hơi thở, lìa bỏ thân hiện có này cho tới thân rốt ráo sau cùng, luôn ở nơi một niệm lìa bỏ từng ấy thân, chung cuộc tâm không thoái chuyển. Ta nay sẽ dốc phát nguyện lớn trang nghiêm. Những chúng sinh này, do sức mạnh của phiền não mà dấy lên những tạo tác gây ra tội lỗi. Ta mong muốn sẽ đạt được quả vị Vô thượng Bồ-đề để dứt trừ mọi thứ phiền não…” Suy nghĩ như thế xong, Vương tử bèn nói với ma:

–Ôi bậc nhân giả! Thật là hết sức hy hữu vì được thấy lợi ích lớn lao! Là người mong đạt được an ổn! Là người chỉ dẫn nẻo giác ngộ! Đã có thể thị hiện trước mắt tôi bao sự việc như vậy. Tôi đã trông thấy đủ sự việc ấy rồi và xin phát sự trang nghiêm lớn làm tăng thêm sự kiên cố đối với nẻo an lạc sâu xa của đạo giác ngộ.

Lúc này, ma ác bèn nghĩ ngợi: “Nay gã Vương tử này đã trông thấy mọi sự biến hóa của ta, lại càng thêm tinh tấn, yêu thích đạo Bồ-đề.” Suy nghĩ như vậy rồi nói với Vương tử:

–Nhân giả nếu không tin, thọ lời ta nói, nay xin tạm ly biệt rồi sẽ tự biết.

Bấy giờ đám ma quân liền nói với ma ác rằng:

–Nay ông Vương tử này không chịu nghe theo lời chỉ dẫn của ngài, thì hãy tạm lánh đi, chúng tôi đói khát lắm rồi, sẽ hủy hoại thân ấy xơi sạch ngũ tạng, uống cạn máu huyết nơi tim.

Hoặc có gã quỷ nói:

–Ngài nên tạm lánh đi, tôi sẽ xé xác gã Vương tử này.

Hoặc có tên khác bảo:

–Ngài phải tránh nơi khác, tôi sẽ theo nó mà đòi lấy cái đầu!

Hoặc một tên quỷ khác bảo:

–Tôi sẽ theo nó mà đòi những mắt tai mũi lưỡi cùng các thứ chi phần nơi thân nó.

Lại có quỷ La-sát hỏi:

–Ngài hãy tạm lìa trong chốc lát, nay thì gã Vương tử này mạng số đã đến lúc hết rồi. Ngài muốn đem đến lợi ích cho nó mà nó chẳng chịu nhân. Tôi nay sẽ giết nó để xơi cả máu thịt tươi, đời đời nó thọ thai, ở trong thai và sinh ra, tôi sẽ luôn theo đuổi để hãm hại.

Đám quỷ Dạ-xoa lại cùng nói rằng:

–Gã ấy không có sức lực, chẳng nghe theo lời chỉ dẫn của chủ ta. Nay sẽ bắt lấy nó trói chặt lại rồi phanh thây xé xác nó ra là xong.

Ma Thất Niệm nói với đám quỷ La-sát:

–Các ngươi bay nên tạm dừng lại, ta sẽ khiến cho gã Vương tử Đắc Niệm này chuyển cái tà kiến ấy, vì cõi sinh tử tăm tối đó mà làm kẻ Thiện tri thức. Các ngươi tạm dừng lại thì nó sẽ biết ơn các ngươi. Ta nay muốn cho nó sinh tâm chánh kiến, nếu nó lại chẳng lìa bỏ các tà kiến ác kiến kia thì các ngươi sẽ cùng nhau tùy ý. Nếu có thể làm cho nó chuyển đổi thì nó sẽ báo ơn các ngươi, mà rồi gã Vương tử đó về sau cũng báo đáp ta. Thế rồi ma Thất Niệm hai ba lượt nói với Vương tử Đắc Niệm rằng:

–Nên nhận lấy lời này! Thâm tâm ta là muốn mong được lợi ích, vì người mà dốc sức làm một Thiện tri thức. Nay ngươi nên lìa bỏ cái tà kiến điên đảo kia. Vương tử nên biết! Đạo Vô thượng ấy thật khó được khó chứng. Ngươi có muốn được thấy các vị Đại Bồ-tát sau khi mạng chung sẽ sinh vào nơi chốn nào chăng?

Vương tử Đắc Niệm đáp:

–Muốn được thấy.

Ma Thất Niệm liền ở ngay nơi ấy hóa ra cõi đại địa ngục, rồi nói với Vương tử:

–Ngươi nay đã thấy cõi địa ngục ấy với những chúng sinh đang chịu vô số sự khảo tra đánh đập, nhận lấy bao thống khổ chăng?

Vương tử đáp:

–Có thấy.

Ma bảo:

–Những người đó đều do từ đời trước lúc mới bắt đầu phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, là kẻ cầu mong không đúng lúc, lại ào đến theo đòi hỏi những vật quan trọng mà mình ham thích. Do tham tiếc nên dấy tâm sân hận mà phải nhận lấy những tội báo ấy, chỉ vì những vật bên ngoài mà hãy còn sinh vào cõi đó, huống hồ lại còn đến đòi hỏi về đầu mắt tủy não mà tâm không sân giận? Do tâm giận dữ nên phải nhận lỗi ấy. Ngươi nếu còn tham tiếc không chịu nhận lấy điều ta nêu thì ắt sẽ sinh vào nơi đó. Vả lại, nếu chấp nhận mà sinh tâm giận dữ thì cũng đọa vào nơi đó. Hai nẻo không tránh khỏi đều phải nhận lấy thống khổ kia. Vương tử nên biết, nếu bố thí cho kẻ cầu xin chẳng nên sinh tâm giận dữ. Đám Dạ-xoa này cũng sẽ đối với lúc ngươi còn ở trong thai, lúc mới sinh hay đã sinh rồi đều tìm cách giết ngay, chặt thân, xé thây với mọi chi thể rồi mỗi đứa sẽ tự mang đi. Vương tử nên biết! Con đường của Bồ-tát, cả hai nẻo đều có lỗi lầm, nếu chấp nhận hay không cũng đều là bất thiện. Ngươi không tin lời ta thì sẽ hỏi những người đó xem do đâu mà sinh vào cõi ấy.

Vương tử hỏi:

–Ôi, các vị nhân giả! Các ngươi do cớ gì mà sinh vào cõi này?

Những người ấy thưa:

–Chúng tôi từ xa xưa lúc tu tập Phật đạo, đối với những kẻ đến cầu xin đều sinh tâm tham tiếc, do đó mà sinh ở chốn này. Lại nói thêm: Chúng tôi vốn cầu Phật đạo, những người xin ăn đến cắt chặt thân tôi, lúc ấy tôi sinh tâm giận dữ nên bị đọa vào cõi này. Vì thế, này Vương tử, ông phải thuận theo chỗ trình bày của người này, chớ nên đi vào cõi đây mà sau sinh hối hận.

Bấy giờ, Vương tử Đắc Niệm liền nói với ma:

–Hỡi ôi Nhân giả! Thật đã thấy được trọn vẹn lợi ích! Đã chỉ rõ cho tôi về cảnh địa ngục và con đường của Bồ-tát. Tôi từ hôm nay, đối với các vật quan trọng không còn dấy tâm tham tiếc chẳng chịu bố thí, nếu bố thí cho kẻ cầu xin thì không hề giận dữ. Vì sao? Vì những kẻ bị sinh vào cõi địa ngục đều là do quả báo của lòng tham lam keo lận không chịu bố thí. Hỡi ôi Nhân giả! Nay hãy cùng nhau đi đến chỗ Đức Phật Đức Vương Minh, sẽ xin hỏi rõ việc này, theo chỗ Phật chỉ dạy mà cùng thực hiện.

Ma Thất Niệm nói:

–Ta nay đi tới chỗ Đức Phật để làm gì? Người muốn đến đấy thì cứ việc tùy ý. Vì sao? Vì ta sợ Đức Phật ấy sẽ lại bảo ta phát tâm cầu đạo Vô thượng.

Vương tử Đắc Niệm lại nói với ma:

–Ông tự cho mình là người làm lợi ích, là người mong có được an ổn, tất phải cùng tôi đi đến chỗ Đức Phật Đức Vương Minh, theo chỗ Phật chỉ giáo mà cùng tu tập.

Vương tử Đắc Niệm nói như vậy đến ba lần mà ma cũng không chịu nghe theo. Còn bảo:

–Vương tử hãy cứ để mặc tôi! Tôi vốn đã từng nghe theo lời Phật dạy mà phải nhận đủ bao nỗi khổ ải nên nay chẳng thể đến đó được.

Vương tử tức thì cầm lấy tay ma kéo dẫn thẳng tới chỗ Đức Phật, rập đầu đảnh lễ ngang chân Phật rồi lui ra ngồi một bên, đem mọi việc đã luận bàn ở trước, cùng hướng về Đức Phật để nêu bày.

Đức Phật nói:

–Này Vương tử Đắc Niệm! Lành thay! Lành thay! Con đã không nghe theo những lời thuyết dụ của kẻ này. Đó chính là ma Thất Niệm đã lừa dối mê hoặc muốn ngăn chân con đường tu tập hạnh Bồ-tát của con.

Vương tử Đắc Niệm bèn nói với ma Thất Niệm rằng:

–Ông nay phải quy ngưỡng nơi Phật, Pháp, Tăng.

Ma nói:

–Chớ nên! Tôi không muốn quy mạng nơi Phật, Pháp, Tăng. Nói xong thì yên lặng.

Bấy giờ Vương tử Đắc Niệm đã được thấy rõ bộ mặt của ma liền nhất tâm lập lời nguyện:

–Nếu con là người chí tâm cầu Phật đạo, thì sẽ khiến cho ma này trở thành hình dạng vị Tỳ-kheo.

Vương tử nguyện xong tức thì ma Thất Niệm liền được cạo tóc mặc pháp phục, tay ôm bình bát đứng ở giữa chúng. Ma Thất Niệm tự thấy thân mình thành người xuất gia, mặc pháp phục mang bát, cầm gậy, đúng hình dạng một vị Sa-môn, liền thưa với Phật rằng:

–Kính bạch Thế Tôn! Nếu bản thân không có tâm quy mạng Tam bảo mà cưỡng ép biến thành hình dạng Sa-môn, pháp nên làm thế chăng?

Đức Phật bảo ma Thất Niệm:

–Ai đã cưỡng ép ngươi cạo đầu mặc áo pháp và thuận mang cầm các pháp khí ấy?

Ma nghe Phật nói thế liền suy nghĩ: “Không người nào trao cho cả! Ta được cạo đầu mặc áo pháp làm Sa-môn như thế này, sao ta không cởi bỏ ra mà đi?”

Liền muốn tự cởi bỏ pháp phục cùng các món ứng khí kia mà không thể rời được, bèn suy nghĩ: “Ta đứng ở đây kéo dài thì giờ chỉ làm cho người ta cười thôi! Nên trốn khỏi chỗ này mà trở lại cung điện cũ của mình.” Suy nghĩ như vậy rồi hốt nhiên biến đi, bay lên cung trời nói với đám quyến thuộc:

–Các ngươi chớ cho rằng ta là Tỳ-kheo. Ta vốn là ma vương Thất Niệm đây. Ta muốn đến chỗ Đức Phật Đức Vương Minh nhằm làm chuyện quấy nhiễu phá hoại, mà việc không thành, lại biến ta trở nên có hình dạng thế này, thật đáng cười thay!

Chúng quyến thuộc mắng rằng:

–Gã ngốc kia, chớ nói chuyện ngông cuồng! Ngươi đích thực không phải là ma vương ở cõi trời.

Nay đã có vị vương ở nơi cung điện ấy rồi.

Ma Thất Niệm nghe nói vậy nên hết sức buồn phiền hối tiếc nên gào khóc thở than, rồi trở lại chỗ Đức Phật. Phật Đức Vương Minh dùng diệu lực thần thông tức thì hóa hiện cõi địa ngục A-tỳ, trong ấy có nhiều ngục tốt mang thỏi sắt nung đỏ rực lớn như núi Tu-di, Đông tây tìm kiếm ma vương Thất Niệm hiện đang ở đâu. Có người hỏi: “Tìm để làm gì?”. Ngục tốt đáp: “Ta muốn đem thỏi sắt nung đỏ rất lớn này nhét vào miệng nó đấy!” Lại có người bảo: “Ma Thất Niệm đã làm vị Sa-môn được thoát khỏi cảnh địa ngục rồi!” Hoặc có ngục tốt vác ngọn núi lớn rực lửa nơi hai vai, chạy đôn chạy đáo tìm kiếm ma vương Thất Niệm hiện đang trốn ở đâu. Có người hỏi: “Tìm để làm gì?” Ngục tốt đáp: “Muốn đem ngọn núi rực lửa này thiêu đốt tan nát thân xác nó.” Có người cho biết: “Ma Thất Niệm ấy đã được xuất gia thoát khỏi cảnh khổ cõi địa ngục rồi.” Hoặc có ngục tốt mang trên vai mình đống dao sắt như núi, với những ngọn lửa dữ phụt lên, Đông, Tây tìm kiếm cho ra chỗ náu của ma vương Thất Niệm. Có người hỏi: “Tìm để làm gì?” Ngục tốt đáp: “Muốn dùng đao bén này để băm vằm thân xác nó đấy.” Một người bảo: “Ma Thất Niệm đã ở nơi pháp của Đức Phật Đức Minh Vương xuất gia làm Sa-môn, thoát khỏi cảnh khổ ở địa ngục.” Hoặc có ngục tốt vai mang cái chảo lớn đầy ắp nước đồng nung chảy, đông tây tìm kiếm ma vương Thất Niệm hiện đang ở đâu. Có kẻ hỏi: “Ông kiếm ma vương ấy để làm gì?” Ngục tốt đáp: “Tôi muốn đem nước đồng nung chảy này tộng vào miệng hắn đấy, thiêu đốt sạch ngũ tạng lục phủ của loài ma ác ấy.” Có người cho biết: “Ma Thất Niệm đó đã ở nơi pháp của Đức Phật Đức Minh Vương xuất gia nên thoát khỏi cảnh khổ cõi địa ngục rồi!” Hoặc có tên ngục tốt tay cầm chĩa ba bằng sắt cùng cung tên mâu kích đủ thứ khí giới, đôn đáo tìm kiếm và nói: “Ma Thất Niệm ở chốn nào?” Có người hỏi: “Tìm hắn để làm gì?” Ngục Tốt bảo: “Ta muốn dùng bao thứ khí giới này để chém chặt đâm bằm thân xác nó đấy!” Có người mách rằng: “ma vương Thất Niệm ấy đã được xuất gia nên thoát khỏi cảnh khổ cõi địa ngục rồi.”

Bấy giờ, ma Thất Niệm ở trong cảnh địa ngục được nghe đám ngục tốt buông lời giận dữ cùng mang theo các hình phạt dữ để trừng trị mình, nên quá đỗi kinh sợ, bèn suy nghĩ: “Nay đã tận mắt trông thấy không còn hồ nghi gì nữa! Ta rõ là suy thoái mất ngôi vị nơi Thiên cung, bị đưa vào cõi đại địa ngục! Đám ngục tốt ba bề bốn bên đều hô hoán tìm bắt ta. Ta nay biết nương cậy ở đâu? Chỉ có con đường xuất gia thì mới có thể nương tựa được thôi! Nếu Đức Phật tin tâm ta chí thành, sẽ ở nơi pháp Phật xuất gia theo đạo mong thoát được cảnh khổ nơi đại địa ngục này. Có thể đem ý này bày tỏ với Vương tử Đắc Niệm.” Suy nghĩ như vậy rồi, liền hướng về chỗ Vương tử Đắc Niệm bày tỏ hết sự việc và nói:

–Tôi muốn ở nơi Phật pháp xuất gia.

Vương tử Đắc Niệm đáp:

–Ông nếu có thể đem tâm thanh tịnh tin vui mà phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, sau đấy mới được ở nơi pháp xuất gia học đạo. Vì sao? Vì trong các pháp của Phật, không chỉ chính thức được cạo đầu mặc pháp phục mà được xem là xuất gia. Theo đúng nghĩa xuất gia là chỗ mình phải thực hành đúng pháp. Ông nên thực hành rồi mới được xem là xuất gia. Này Thất Niệm! Nên biết là ở trong Phật pháp, nếu có sự tham đắm về ngã và ngã sở cùng phân biệt thì chưa được gọi là xuất gia. Này Thất Niệm! Ông trước phải phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề sau đấy thì chánh quán. Do pháp nào nên gọi là cõi địa ngục? Thể tánh của địa ngục cần được suy tìm như thế, tất sẽ chẳng đạt được thể tánh cố định của địa ngục, cũng lại không thấy có pháp vào địa ngục cùng pháp chẳng vào cõi ấy.

Ma Thất Niệm lúc này liền phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, thường vui thích với sự chánh quán về hình tướng các pháp như vậy, chẳng bao lâu thì đạt được pháp Nhẫn vô sinh.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Vương tử Đắc Niệm đã hết lòng khai mở dẫn dắt ma Thất Niệm ấy xa lìa mọi nẻo ác, đạt đến quả địa vị bất thoái. Đức

Phật Đức Vương Minh nhân đấy mà thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề cho Vương tử Đắc Niệm.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đó chính là tâm đích thực của bậc Bồ-tát. Các vị Bồ-tát ấy, do có được tâm đó, nên có thể tập hợp được vô lượng, vô biên pháp Phật.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả cho rằng Thất Niệm là một người nào xa lạ chăng? Chớ nên nghĩ thế! Đấy tức là vị Phật thời quá khứ hiệu là Câu-san-đề Phật, ở nơi Hiền kiếp này mà độ thoát chúng sinh xong và nhập Niết-bàn. Còn Vương tử Đắc Niệm thời đó, hiện nay là Đại Bồ-tát Kiên Ý, có mặt trong pháp hội này.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Lúc bấy giờ, Vương tử Đắc Niệm đi đến chỗ cha mẹ mình, đứng một bên và thưa với cha mẹ rằng:

–Con nay muốn được ở nơi pháp của Đức Phật Đức Minh Vương xuất gia tu học.

Rồi đứng trước mặt cha mẹ, Vương tử Đắc Niệm đọc bài kệ:

“Con nơi pháp xuất gia
Cha mẹ chớ ngăn ngại
Xuất gia, Phật luôn khen
Là gốc mọi an lạc
Muốn được lạc Đế vương
Sinh Thiên cùng phú quý
Muốn đạt tuệ công đức
Nên nơi pháp xuất gia.
Cha mẹ nay tôn quý
Phải tu hành thí, giới
Lại tạo gốc công đức
Sẽ được là Pháp vương
Gốc hành thí, giới, nhẫn
Nay được là Nhân vương
Nếu muốn thiện tăng trưởng,
Nay nên hành xuất gia
Phước báo người thọ hết
Sau đọa vào nẻo ác
Dấy nghiệp tạo tội nặng
Chẳng thể gặp chư Phật.
Nếu người bỏ phước ấy
Xuất gia hành pháp thiện
Ắt lìa khỏi tám nạn
Sẽ được gặp chư Phật.
Thấy Phật liền tín thọ
Từ tính sinh cung kính
Tâm kính thuận hành đạo
Chóng thành tựu Bồ-đề.
Nếu muốn lìa các nạn
Nên xa tri thức ác
Theo con học xuất gia
Là gốc mọi an lạc.
Chư Thiên, Long, Quỷ thần
Cùng chư Càn-thát-bà
Không thể tạo chướng ngại
Khiến con chẳng xuất gia.
Nếu muốn tạo chướng ngại
Tự dấy nghiệp tội lỗi
Như Tượng vương sức lớn
Theo ý hủy hoại dữ.
Con nay cũng như thế
Đoạn trừ dây tham ái
Dứt xong nên xuất gia
Không ai có thể chuyển.
Cha mẹ luôn kính đức
Mặc nhiên thuận xuất gia.”
Liền hữu nhiễu rồi lui
Đến thẳng nơi chỗ Phật
Tại đây, xuất gia xong
Vô lượng chúng sinh nghe
Tâm đều sinh tin, vui
Theo Vương tử xuất gia
Vương tử Thiện tri thức
Vô lượng con Trưởng giả
Tin Phật pháp vi diệu
Đều cùng nhau xuất gia.
Vua nghe con xuất gia
Bỏ nước cùng tôn vị
Liền cùng tám mươi ức
Bảy mươi na-do-tha
Đám quyến thuộc như vậy
Thảy cùng xin xuất gia
Bấy giờ phu nhân vua
Nghe vua đã xuất gia
Cùng tám vạn thể nữ
Cũng xin được xuất gia
Đều theo Vương tử ấy
Mà phát tâm Đại thừa
Khen xuất gia như thế
Ai chẳng theo tu học.”

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả cho rằng phụ vương của Vương tử Đắc Niệm đã vun trồng căn lành của mình thời ấy là một người xa lạ chăng? Chớ nên nghĩ vậy. Đó chính là ta đấy. Bấy giờ Đức Thế Tôn bèn đọc bài kệ:

Thời vua cùng đại thần
Thể nữ, đám quyến thuộc
Hai vạn một ngàn năm
Đều tịnh tu phạm hạnh
Mạng chung lúc Phật ấy
Nơi chúng miệng mỉm cười
Thọ ký cho nhà vua
Nói về hạnh nguyện gốc
Vua ấy tu phạm hạnh
Phát nguyện theo Đại thừa
Chung cuộc lìa mọi nạn
Luôn sinh chốn dứt nạn.
Vua ấy vô lượng kiếp
Cúng dường vô số Phật
Hiền kiếp thành Chánh giác
Hiệu là Thích-ca Văn.
Quyến thuộc của vua ấy
Cùng Tỳ-kheo Đắc Niệm
Chốn Phật Thích-ca Văn
Xuất gia làm đệ tử.
Đều tịnh tu phạm hạnh
Rốt lại được thân người.
Sau khi Phật diệt độ
Xá-lợi phân bố khắp
Bấy giờ ở mạt thế
Lúc Phật pháp suy diệt
Trở lại cùng được nghe.
Ta nay nêu giảng kinh
Trí tuệ Phật vô ngại
Nơi thuyết trí sáng tỏa
Nơi mọi chốn ngôn luận
Chung quy đều chân thật.
Nếu người nghe pháp này
Thâm tín, thân rung động
Ắt không khởi hồ nghi:
“Ta chưa được thọ ký”
Nếu người nơi mạt thế
Nơi pháp sâu đắc nhẫn
Bèn nên suy nghĩ rằng:
“Ta nghe Pháp vương thuyết
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Các thiện nam, tín nữ
Nên vui với pháp diệu
Ta đều được thọ ký.”
Lúc Phật nói pháp này
Đại chúng nơi hội lớn
Đủ trọn tám mươi ức
Bảy mươi na-do-tha
Đều đạt Nhẫn nhu thuận
Làm Pháp vương tử nhỏ.

Phẩm 24: Chánh kiến

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Tôn giả Xá-lợiphất:

–Chỗ gọi là chánh kiến nghĩa là thế nào? Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Chánh kiến ấy là quan sát các pháp không thấy có sự cao thấp. Lại nữa, người quan sát ấy cũng bình đẳng, không khác, vì thế mà gọi là chánh kiến. Thế nào gọi là đẳng? Nhãn tức là Niết-bàn không lìa nhãn mà có Niết-bàn. Nhãn cùng Niết-bàn là hai đồng đẳng. Vậy lấy cái gì mà gọi là đẳng? Chẳng phải nhãn–nhãn đẳng. Chẳng phải Niết-bàn, Niết-bàn đẳng. Vì sao? Vì trong nhãn không có nhãn, trong Niết-bàn không Niếtbàn; trong nhãn không có Niết-bàn, trong Niết-bàn không nhãn. Nhãn cùng Niết-bàn là không hai, không sai biệt. Do không còn sự phân biệt về hai nẻo nên gọi là Đẳng. Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý tức là Niết-bàn. Chẳng lìa ý mà có Niết-bàn. Ý cùng Niết-bàn là hai đồng đẳng. Vậy lấy cái gì mà gọi là đẳng? Chẳng phải ý, ý đẳng; chẳng phải Niết-bàn, Niết-bàn đẳng. Vì sao? Vì trong ý không có ý, trong Niết-bàn không có Niết-bàn; trong ý không có Niết-bàn, trong Niết-bàn không có ý. Ý cùng Niết-bàn là không hai, không phân biệt. Nếu đã dứt phân biệt thì pháp tức là không, không tức đồng đẳng. Đó chính là Chánh kiến.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Do nhận thức đúng đắn ấy nên gọi là chánh kiến, tức là ở trong cái chánh đó không có tướng tà, nên gọi là chánh kiến. Lại nữa, cái nhận biết ấy là vô lượng là không thể nêu xưng, nên gọi là Chánh kiến.

Thế nào gọi là hình tướng hủy hoại Chánh kiến? Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như đối với các kinh, có thái độ chống đối chẳng tin, không lãnh hội, không khen ngợi cũng chẳng theo sự chỉ dẫn mà thực hiện. Đó gọi là hủy hoại Chánh kiến.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Mang tính chất phân biệt các pháp thì đấy chính là sự hủy hoại sâu xa đối với chánh kiến. Vì sao? Vì dứt mọi phân biệt tức là đạt được chánh kiến. Như trong kinh nói, đệ tử của bậc Thánh không dấy niệm về hình tướng Địa, cũng lại không dấy niệm về Địa này, Địa kia. Ta ở trong Địa, Địa ở trong ta. Ngoài ra cũng không dấy niệm về các đại thủy, hỏa, phong. Chẳng dấy niệm về các cõi Phạm thế, Quang âm, Biến tịnh. Chẳng dấy niệm về các cõi Quảng quả, Vô cuống, Vô nhiệt, Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi hữu tưởng phi vô tưởng xứ. Chẳng dấy niệm về Niết-bàn cũng không dấy niệm về Niếtbàn đây, kia. Niết-bàn trong ta, ta trong Niết-bàn.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Lại về chánh kiến ấy không phải là sự nhận thức về tất cả. Vì sao? Vì mọi hiện hữu làm đối tượng cho nhận thức đều là tà kiến. Dứt mọi nhận thức về tất cả đó là Chánh kiến.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Lại về Chánh kiến ấy là không thể ngôn thuyết. Vì sao? Vì hết thảy ngôn thuyết chỉ là âm thanh của không, do người đối với điều ấy mà sinh tham đắm.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Lại như chỗ nhận thức về chánh kiến của Như Lai. Ở trong kiến ấy không hề có tà kiến. Vì sao? Vì tất cả ngôn thuyết đều an trụ trong Như. Như chẳng thể thuyết thì ngôn thuyết cũng thế.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tất cả mọi tạo tác của thân cũng lại như vậy, tức là an trụ trong Như, không chánh không tà, dứt mọi phân biệt.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tất cả mọi nghiệp đều an trụ trong Như, chẳng phải chánh chẳng phải tà, không có sự phân biệt. Hết thảy mọi nghiệp báo cũng an trụ trong Như, như đã nêu bày về hình tướng của nghiệp. Do đó mà Như Lai luôn thuyết giảng về sự chân thật. Nói như thế này: Nếu có tạo nghiệp tất có nghiệp báo, nghiệp báo luôn theo nghiệp.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như vậy thì trí ấy được gọi là trí Phân biệt năm đường. Trí năm đường ấy đều là chẳng phải trí. Tất cả năm đường ấy đều từ chẳng phải Trí sinh ra.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát nghe điều này chẳng nên kinh sợ khởi tâm thoái chuyển.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Có bốn thứ pháp, nếu người quên gần gũi thì chỉ tăng thêm ngu si, chẳng sinh trí tuệ. Những gì là bốn pháp ấy? Đó là tìm đọc, tu tập theo kinh điển của ngoại đạo, điều này sẽ làm tăng sự ngu si, trí tuệ chẳng sinh. Đó là thân cận tu tập các pháp tà kiến, điều này cũng làm tăng thêm sự ngu si, chẳng sinh trí tuệ. Đó là vui thích với sự “quyết đoán”, điều này cũng làm tăng ngu si, không sinh trí tuệ. Đó là đối với các pháp thâm diệu cùng hòa hợp với không, chẳng lãnh hội, chẳng đọc, cũng chẳng chánh quán, điều ấy cũng làm tăng ngu si chẳng sinh trí tuệ. Đấy là bốn pháp. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Trái với bốn pháp vừa kể thì có thể làm phát sinh trí tuệ, phải nên tu tập. Thế nào là bốn pháp nên tu tập? Đấy là tu tập theo chánh kiến, nên dứt trừ tà kiến, đó là pháp thứ nhất, có khả năng phá bỏ ngu si làm phát sinh trí tuệ. Nếu có những nơi chốn đọc tụng kinh điển bên ngoài, thì người tu tịnh hạnh phải xa lánh lìa bỏ, chẳng nên dừng trú ở đấy, đó là pháp thứ hai có khả năng phá bỏ ngu si làm phát sinh trí tuệ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu ở các trú xứ có những người thuộc loại “đoạn sự” thì người tu tịnh hạnh chẳng nên cùng dừng lại với họ, nếu muốn ở lại thì chỉ nên nói bàn về chánh đạo, chớ bàn lẫn lộn về phi pháp, chỉ nên dứt bỏ việc ấy để có sự an ổn cùng hành, cũng là nhằm ngăn chận chế ngự những kẻ thích nói phi pháp, cũng là nhằm bảo vệ hòa hợp tăng khiến khỏi bị kẻ xấu phá hoại. Đó là pháp thứ ba có khả năng phá bỏ ngu si làm sinh trưởng trí tuệ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đối với các kinh pháp thâm diệu ấy phải nhất tâm lắng nghe lãnh hội, theo như sự chỉ dạy mà tu tập, vì mọi người mà diễn nói rộng khắp khiến chánh pháp trụ thế lâu dài. Đấy là pháp thứ tư có thể phá bỏ ngu si làm phát sinh trí tuệ. Bốn pháp nên tu tập là thế.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Pháp của hàng Bồtát ấy là thực hiện một cách sâu xa sự hổ thẹn để giữ giới luật thanh tịnh, không dấy các nghiệp. Bồtát nên sinh tâm vô sở úy, lập nguyện trang nghiêm, luôn nên tu tập hạnh bậc Đại nhân, khởi hạnh tinh tấn lớn lao dứt sạch mọi biếng trễ.

Phẩm 25: Ca ngợi sự chỉ giáo

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Bồ-tát nếu vì sự ủng hộ chánh pháp thì phải thông đạt mọi biện luận chân chánh. Như đệ tử ta đã hỏi, Như Lai bấy giờ thật hết sức vui mừng. Vì sao? Vì Phật chủng đã luôn được nối tiếp. Vì thế mà hàng đệ tử Thanh văn các vị nên vì Bồ-tát diễn thuyết chánh pháp, chỉ giáo, đem lại lợi ích, vui vẻ, thì sẽ đạt được vô lượng, vô biên phước đức.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như đệ tử của ta, các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, luôn nhớ nghĩ đến Phật pháp, và cũng luôn nhớ nghĩ đến Như Lai, vì sự cầu pháp nên trải qua vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp phải chịu bao nỗi khổ. Đem sự nhớ nghĩ như thế, vì chư Bồ-tát mà nêu giảng, cho đến một bài kệ. Lại suy nghĩ như vầy: Các vị Bồtát này, do được nghe pháp ấy cùng sự chỉ giáo đem lại lợi ích, vui thích, nên đã vun trồng căn lành, tu tập Phật pháp, dốc đạt quả vị Vô thượng Bồ-đề, nhằm dứt trừ bao khổ não trong cõi sinh tử từ vô thủy của vô lượng, vô biên chúng sinh, để vì họ mà thuyết pháp. Chỗ phước đức có được, giả sử mọi chúng sinh hữu hình hiện có trong khắp bốn cõi thiên hạ đều được làm thân người, ở nơi phước đức ấy, mỗi người giữ lấy một phần, góp lại cao như núi Tu-di, mà chỗ phước đức kia vẫn không hết.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như khắp bốn cõi thiên hạ, hoặc tiểu thiên trung thiên đại thiên thế giới với mọi chúng sinh hiện có, có hình sắc, không hình sắc, có tưởng không có tưởng, chẳng phải có tưởng, chẳng phải không có tưởng, giả sử trong lúc đều được làm thân người, mỗi người dùng một đồ vật lớn như núi Tu-di, ở nơi phước đức ấy lấy bỏ vào đầy ắp rồi đem đi, cũng không lấy hết được!

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Những đệ tử của ta, các vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, vì chư Bồ-tát thuyết giảng chỉ một bài kệ bốn câu, cùng chỉ giáo đem lại lợi ích, vui thích, đã đạt được vô lượng, vô biên phước đức như thế.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Các vị Bồ-tát ấy nếu biết người đó vì mình mà thuyết pháp, giúp đạt được lợi ích lớn nên có thể thành tựu được từng ấy pháp Phật, lại cũng có thể làm tăng trưởng trí tuệ của Phật. Như dùng đầu đội cùng vai mang vác tất cả đủ mọi thứ an lạc mà cung cấp, cho đến khi thành tựu quả vị Vô thượng Bồ-đề, thì trước hết vì họ thuyết pháp khiến thấy được bốn chân lý chắc chắn.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Các vị Bồ-tát ấy tuy có sự cung cấp lợi ích nhiều như thế, nhưng vẫn chưa báo hết ân kia. Vì sao? Vì chính nhờ người ấy mà Bồ-tát mới có thể nhận thức lãnh hội vô lượng, vô biên pháp Phật. Do đó nên biết là người vì chư Bồ-tát mà giảng thuyết chánh pháp thì ân ấy khó báo đáp hết được.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Về quá khứ xa xưa, đã trải qua vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp, bấy giờ có Đức Phật hiệu là Phổ Thủ Như Lai với đủ các tôn hiệu Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn, thọ mạng bảy vạn năm. Chúng Thanh văn đệ tử của Đức Phật ấy có ba hội thuyết pháp lớn. Hội đầu tiên thuyết pháp có tám mươi na-do-tha người, đều được đều thành đạo. Hội giữa thuyết pháp có sáu mươi na-do-tha người; hội sau thuyết pháp có bốn mươi na-do-tha người, cũng đều đắc đạo cả.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Sau khi Đức Phật ấy diệt độ, chánh pháp trụ thế trọn đủ trong bốn ngàn năm. Thời gian chánh pháp sắp sửa suy diệt, có vị Tỳ-kheo tên là Diệu Trí, là bậc lợi căn, trí tuệ thông đạt, nghe nhiều biết rộng. Vua cõi Diêm-phù-đề thời ấy tên là Hoan Hỷ. Kinh thành nơi nhà vua ngự trị cũng có tên là Hoan hỷ. Thành này chiều dài đến mười hai do-tuần, rộng bảy do-tuần, dân chúng đông đúc với cuộc sống sung túc, an lạc, yên tĩnh. Trong thành ấy có vị Trưởng giả tên là Nhu Nhuyễn. Người con của vị Trưởng giả tên là Lợi Ý đã đến chỗ của Tỳ-kheo Diệu Trí thăm hỏi rồi ngồi một bên để nghe pháp. Tỳ-kheo Diệu Trí liền thuyết giảng về pháp của hàng Bồ-tát, khiến cho con vị Trưởng giả ấy nghe và lấy làm hoan hỷ, liền đem y quý báu giá trị ngàn vàng cúng dường cho vị Tỳ-kheo và thưa rằng:

–Pháp sư, lành thay! Đã thuyết giảng pháp vi diệu! Mong được Pháp sư chiếu cố đến nhà con thuyết giảng về pháp như vậy, sẽ khiến cho chúng con đạt được lợi ích lớn lao mà công việc pháp thí của Pháp sư cũng được quả phước to lớn. Từ nay trở đi, con xin dốc hết sức mình để cúng dường về y phục, đồ ăn uống, thuốc men và mọi thứ cần dùng trong đời sống, lại muốn được Pháp sư đồng ý cho làm học trò gần gũi. Con cũng xin dốc lòng cúng dường cung cấp.

Tỳ-kheo Diệu Trí bày tỏ sự chấp thuận và nói:

–Lành thay!

Lúc này, con vị Trưởng giả liền cung kính đảnh lễ ngang chân pháp sư, đi nhiễu quanh qua phía tay phải, xong rồi ra về. Sau đấy, Tỳ-kheo Diệu Trí thân hành đến nơi nhà vị Trưởng giả kia thuyết pháp giáo hóa Lợi Ý, cha mẹ cùng đám quyến thuộc, đều khiến họ dốc tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề. Người con vị Trưởng giả ấy, do phước đức như thế, cho nên trải qua vô lượng a-tăng-kỳ Kiếp chưa từng xa lìa Phật, luôn được nghe pháp và gặp các bậc Thiện tri thức.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả cho rằng Lợi

Ý là một người xa lạ nào chăng? Chớ nên nghĩ như thế. Đó chính là ta đấy. Còn cha của Lợi Ý tức Trưởng giả Nhu Nhuyễn thời đó chính là Đức Phật Ca-diếp.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ý Tôn giả cho rằng mẹ của Lợi Ý cùng đám quyến thuộc trong gia đình ấy, đối với đạo Vô thượng Bồ-đề có sự thoái chuyển chăng? Chớ nên nghĩ như vậy. Vì sao? Vì những người đó đã có được sự bất thoái đối với chánh pháp giải thoát vô thượng. Hiện tại đang ở nơi chỗ ta tịnh tu Phạm hạnh, ta đã vì họ mà thọ ký đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tỳ-kheo Diệu Trí liền ở thân ấy mà nhập Niết-bàn vô dư. Như bậc Tỳ-kheo đó không như người theo pháp Tiểu thừa nhập Niết-bàn. Chỉ vì nhân duyên phước đức thuyết pháp cho một người là Lợi Ý, con vị Trưởng giả, mà còn thành tựu được Phật đạo, huống hồ lại còn vì trưởng Giả Như Nhuyễn và đám quyến thuộc để thuyết pháp, thì phước đức tất nhiên là rất lớn.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như vị Tỳ-kheo đó là không nhập Niết-bàn, không thấy tất cả mọi vật dụng cúng dường hiện có nơi thế gian này là có thể báo đáp hết được ân kia. Vì sao như thế? Ta theo Tỳ-kheo Diệu Trí, được nghe chánh pháp, nhờ đấy mà đạt được Pháp Phật hết sức lớn lao, thâm diệu, thanh tịnh. Vì vậy phải nên biết rằng: Nếu như người đã dốc vì Bồ-tát mà thuyết pháp, chỉ giáo đem lại lợi ích, vui vẻ, thì tất thu đạt được vô lượng, vô biên phước đức. Vì sao? Vì Bồ-tát phát tâm là nhằm tạo nên vô lượng công việc lợi ích.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như biển lớn, lúc mới đầu dần dần tạo thành, nên rõ đều là chốn trú xứ của các ngọc báu Ma-ni, hữu giá hay vô giá. Những ngọc báu ấy đều từ nơi biển lớn sinh ra. Bồtát phát tâm cũng giống như thế. Lúc mới đầu dần dần dấy khởi, phải biết đó chính là chốn phát sinh của các thứ châu báu trí tuệ, hoặc thế gian cùng xuất thế gian, hữu lậu–vô lậu, hữu vi–vô vi, hoặc cấu hoặc tịnh, hết thảy đều là pháp khí.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như biển lớn, lúc mới đầu dần dần tạo thành, nên biết đó chính là chốn trú xứ của đại thân chúng sinh, từ trong ấy sẽ sinh trưởng, nuôi dưỡng càng thêm đông đúc phồn thịnh. Bồ-tát phát tâm cũng giống như vậy. Lúc mới đầu dần dần sinh khởi, nên biết đấy chính là cõi, với vô lượng vố số đại thân trí tuệ, đại thân căn lành, của mọi chúng sinh làm chốn trú xứ. Tất cả đều nương nơi tâm ấy mà được tăng trưởng.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như biển cả, lúc mới bắt đầu dần dần tạo thành, nên biết đó chính là chốn trú xứ của các loại Đại Long vương. Các loại Đại Long vương ấy, chẳng vì chỗ rình rập bắt ăn thịt của chim Kim Sí, với đôi cánh luôn quạt gió dậy khắp cũng không có thể làm cho các Đại Long vương lo sợ. Những Long vương đó, xuất phát từ biển lớn, có thể dấy những đám mây to phủ kín tám vạn châu, tưới khắp các ao đầm lớn, không đâu là không đầy dẫy.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát phát tâm cũng giống như thế. Lúc đầu dần dần sinh khởi, nên biết đấy chính là cõi mà Đại Bồ-tát Long làm nơi trú xứ lúc thành tựu Phật đạo. Đại Long vương ấy không gì chỗ rình rập bắt ăn thịt của chim Kim Sí. Bồ-tát an trụ nơi pháp Phật thâm diệu cũng như vậy, các thứ ma quân không thể xuất hiện. Đại Long vương ấy, không gì đôi cánh quạt gió dậy khắp của chim Kim sí mà buồn phiền. Những gì muốn làm cho buồn phiền đều tức thời bị tiêu diệt. Bồ-tát cũng như thế. Hết thảy các thứ quân ma đều không thể phá hoại hay gây buồn phiền được. Muốn dấy tâm buồn phiền liền đều bị tiêu diệt ngay, nên có thể hủy hoại mọi sự gây rối, trói buộc, tạo tác điều xấu của ma.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đại Long vương ấy, từ chốn biển lớn xuất phát, nơi bốn cõi thiên hạ cùng tám vạn châu, tuôn khắp mưa tuệ khiến mọi nơi chốn đều thấm đượm sung dũ; cỏ cây, rừng rậm, trăm thứ cây lương thực, cây thuốc đều được sinh trưởng. Cũng khiến cho hết thảy mọi loài chúng sinh dứt những lo nghĩ về đói khát. Làm công việc tuôn mưa xong thì trở về nơi cung của mình. Đại Bồ-tát Long cũng lại như thế. Xuất phát từ pháp Phật, có thể ở nơi thành ấp thôn xóm trong khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới mà tuôn xuống những trận mưa pháp lớn; có khả năng đoạn trừ vô số, vô lượng sự ham muốn về ái dục của chúng sinh trong ba cõi Dục, Sắc và Vô sắc.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như biển lớn lúc bắt đầu hình thành, ở nơi tám vạn các châu trong bốn cõi thiên hạ với mọi dòng nước hiện có cùng những trận mưa lớn nhỏ đem nước các sông ngòi khe suối chảy dồn vào biển. Biển thảy đều có thể nhận lấy mà không tăng giảm, vì tính chất của biển như thế.

Mọi dòng nước đổ về biển đều lìa bỏ tên gốc của mình để cùng mang tên là nước biển. Những dòng nước ấy cũng đều mất đi vị gốc của mình để cùng có một vị mặn. Bồ-tát phát tâm cũng như thế. Từ lúc mới bắt đầu hình thành cho đến khi thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề đầy đủ pháp Phật, có thể dùng trí tuệ để dứt trừ những những mối nghi của chúng sinh, để thành tựu các căn lành, trí tuệ phước đức của các bậc Đại luận sư. Nếu chưa thành tựu thì Phật sẽ vì đấy mà dứt nghi, tất cả đều mất đi cái danh xưng gốc của mình để cùng mang một hiệu là đệ tử của Phật.

Như nước của biển lớn cùng một vị mặn, các đệ tử của ta cùng có được sự ly dục và một vị giải thoát.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như biển lớn lần lượt chuyển thành sâu rộng, thì nước nơi biển ấy cũng liền trở nên sâu, những người đi tìm châu báu không thể vào được. Do từ chỗ dần dần sâu cho đến khi sâu thăm thẳm nên thành biển cả.

Tâm của các vị Bồ-tát cũng như thế. Từ lúc mới bắt đầu phát khởi rồi dần dần chuyển thành sâu rộng cho đến khi không gì có thể so sánh.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tâm của Bồ-tát ấy dần dần trở nên rộng lớn sâu xa, như thế là nhờ tu tập các pháp Ba-la-mật Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định. Chỗ gọi là Trí tuệ ba-la-mật ấy tức là sự thâm diệu không gì có thể sánh của Phật pháp vậy.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nẻo hành hóa của Bồ-tát lúc mới chứng đắc một cách sâu xa về cõi chân lý giác ngộ, thì vô lượng chúng sinh cần tìm pháp bảo cũng không thể tiếp cận được.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như biển cả sở dĩ được tạo thành đều vì lợi ích của hết thảy muôn loài trong thế gian. Bồ-tát phát tâm cũng giống như thế. Từ lúc bắt đầu cho đến mãi về sau đều vì lợi ích của tất cả chúng sinh nơi thế gian.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như biển lớn mới bắt đầu lần lượt phát sinh các thứ châu báu mang đặc tính của từng châu. Bồ-tát phát tâm cũng giống như vậy. Lúc mới bắt đầu rồi dần đạt được các pháp Niệm xứ, Chánh cần, bốn Như ý túc, Căn, Lực, Giác, Đạo cùng các pháp Thiền định, Tammuội, Bối xả, các pháp bảo mang đặc tính từng châu.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Thật là điều hy hữu! Thế Tôn đã có thể vui thích thuyết giảng về những khía cạnh của biển cả với những thí dụ dùng để làm sáng tỏ sự phát tâm của Bồ-tát, phước đức thật vô lượng, vô biên!

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Tâm của Bồ-tát ấy, chẳng thể dùng thí dụ của biển lớn mà có thể lãnh hội trọn vẹn được. Vì sao? Vì tâm ấy đã dốc phát đại nguyện trang nghiêm. Như Lai nếu nói về phước đức của tâm ấy thì mãn cả một kiếp hay hơn nữa cũng không thể nói hết. Là vì các vị Bồ-tát phát tâm như thế là có thể thành tựu được những sự nghiệp lớn lao, khó ai hơn được, không gì có thể hủy hoại, thâm diệu tột bực, có khả năng đem lại cho mọi chúng sinh đầy đủ mọi sự an lạc, chuyển đổi cảnh khổ trong ba cõi, làm phát sinh trí tuệ lớn, khó lường được bến bờ, không một nơi chốn nào bị ngăn ngại đối với ánh sáng chiếu tỏa của trí tuệ lớn ấy.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nên ghi nhớ lời quan trọng này: Tâm của các vị Bồ-tát, phát nguyện và thành tựu được những sự nghiệp lớn lao, điều ấy thật không thể nào nói hết được.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như cả cõi tam thiên đại thiên thế giới lúc đầu dần dần sinh khởi, nên biết nơi ấy chính là chốn nương tựa của tất cả mọi loài chúng sinh hiện có. Bồ-tát lúc mới bắt đầu phát tâm Vô thượng Bồ-đề cũng như vậy. Nên biết đấy chính là nẻo sáng nhờ đó mà vô lượng chúng sinh có được trí tuệ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như núi chúa Tudi lúc đầu dần dần phát khởi, nên biết đó chính là chốn trú xứ của vô lượng chư Thiên. Nhờ vào núi chúa ấy mà chư Thiên cõi trời Đao-lợi đã đánh phá chúng A-tu-la. Bồ-tát lúc mới phát tâm Vô thượng Bồ-đề cũng vậy. Tu tập, thành tựu đạo quả Phậtđà, chính là nơi nương tựa của vô lượng, vô số đệ tử. Như chư Thiên cõi trời Đao-lợi nhờ vào núi Tudi mà có thể đánh thắng chúng A-tu-la, chúng sinh cũng như thế, nhờ vào sự giác ngộ của Như Lai mà có thể tiêu diệt các thứ ma.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như núi chúa Thiết vi, lúc đầu dần dần phát khởi, nên biết rằng nơi đó chính là chốn nhờ đấy mà chúng sinh ngăn chặn được gió Bát-đá-ha-bà-la khiến nó không thể hủy hoại được. Bồ-tát cũng vậy. Lúc mới bắt đầu phát tâm Vô thượng Bồ-đề, lần lượt chuyển biến đạt đến sự kiên cố tột bực không gì hủy hoại được. Nên biết đấy chính là chỗ chúng sinh có thể gần gũi nhờ đó mà ngăn chận được các loài “gió ma” khiến chúng không thể phá hoại.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như núi chúa Tuyết sơn lúc đầu dần dần phát khởi, nên biết đó chính là nơi chốn nương tựa để phát sinh của bao thứ thảo mộc dược liệu. Bồ-tát cũng vậy, ngay từ lúc sơ sinh, đã là chỗ nói theo của vô số, vô lượng chúng sinh về các pháp dược, nhờ đấy mà có thể diệt trừ bao thứ bệnh tật phiền não.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như “Bảo Tính” lúc mới bắt đầu phát sinh, nên biết đó là chỗ tạo được những phần lợi ích của vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh. Bồ-tát cũng thế. Từ lúc mới bắt đầu dấy khởi “Bảo Tính Đại Trí”, nên biết rằng đấy chính là chốn mà vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh đã tạo được những phần lợi lạc.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như “Nhật Thiên tử”, từ lúc sắp thành hình, nên biết đấy chính là chốn đã chiếu tỏa khắp tám vạn các châu trong bốn cõi thiên hạ, nhờ đó mà mọi nơi được soi sáng nung ấm. Bồ-tát cũng thế! Từ lúc mới bắt đầu phát khởi, dần dần tăng trưởng, thành tựu trú xứ như Phật. Nên biết đó chính là chốn nhờ đấy mà chúng sinh trong khắp cõi tam thiên đại thiên thế giới tạo được ánh sáng chánh pháp lớn lao. Cũng có thể làm khô cạn hết mọi tham ái giận dữ phiền não còn ứ đọng, cấu uế.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như ao A-nậu-đạt, lúc mới dần dần hình thành, nên biết đó chính là chốn mà Long vương A-nậu-đạt làm nơi trú xứ. Từ nơi bờ của ao ấy, nước sẽ chảy ra bốn dòng sông lớn, đem lại lợi ích cho tất cả mọi loài chúng sinh, dứt trừ mọi sự đói khát, tạo nên các thứ châu báu như vàng bạc rồi dần dà đổ vào biển cả. Pháp Đại thừa ấy từ lúc đầu dần dần phát khởi cũng giống như thế. Hết thảy hàng Bồ-tát nhờ vào cỗ xe lớn ấy mà có thể tu học các pháp Phật, đạt được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Từ đấy mà diễn nói khắp chốn về bốn sông pháp lớn: Đó là Nghĩa vô ngại, Pháp vô ngại, Ngôn từ vô ngại và Lạc thuyết vô ngại. Đó còn là ba cánh cửa giải thoát: Không, Vô tướng, Vô tác; tám pháp vị Bối xả, các Căn, Lực, Giác, Đạo. Những âm thanh như thế, vô lượng, vô số chúng sinh được nghe xong, liền đoạn trừ được phiền não, có thể khiến họ chứng đắc chân lý, hoàn toàn lìa bỏ mọi khổ não.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như thế là tâm của chư Bồ-tát, lúc đầu và dần dần phát khởi, có thể thành tựu những sự việc to tát khó ai hơn, không gì hủy hoại được, cũng không một sự việc gì có thể sánh bằng, đem lại lợi ích lớn lao cho vô lượng chúng sinh khiến họ được phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như Lai tuy nêu bày thuyết giảng về việc ấy nhưng chẳng thể nói hết được. Vì vậy nên biết rằng, nếu có người có thể vì chư Bồ-tát mà thuyết giảng, chỉ dẫn đem lại lợi ích, vui vẻ, thì chỗ công đức đạt được phải nói là vô lượng, vô biên chẳng thể nêu tính.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ta dùng Phật nhãn xem phước báo ấy thật không thấy đâu là biên vực bờ mé. Theo hướng của cỗ xe nào cũng đều đến được. Như người cúng dường Phật, tức chỗ vun trồng căn lành, cho đến khi Phật nhập Niết-bàn, chung cuộc thật chẳng đầy đủ hết được.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Về đời quá khứ xa xưa, có một vị Bồ-tát tên là Lạc Pháp, sinh trưởng trong gia đình vương giả, mọi lời nói tốt đẹp nghe được đều biên chép để đọc tụng. Bấy giờ vị Vương tử ấy vì cầu pháp nên đã đi khắp các thôn ấp trong nước. Lúc này, có một người đang đứng bên cạnh hầm sâu, nói với Lạc Pháp rằng:

–Này Vương tử! Ta sẽ trao cho ông bài kệ do Phật nói.

Bồ-tát nghe vậy liền đi đến bờ hầm sâu, nói với người kia:

–Ôi thiện nam! Ông sẽ trao cho tôi bài kệ do Phật nói?

Người kia đáp:

–Chẳng thể trao mà không có gì cả!

Bồ-tát Lạc Pháp, thân mặc chiếc áo quý giá, áo này giá trị đến hai mươi ức Kim, lại có xâu chuỗi anh lạc bằng ngọc Ma-ni đeo nơi cổ tăng thêm vẻ đẹp. Ngọc báu này giá trị đến những bốn mươi ức Kim. Người ấy trong thấy vậy liền sinh tâm tham lam, bèn suy nghĩ: “Nếu vị Vương tử này chịu trao cho ta chiếc áo quý giá và xâu chuỗi bằng ngọc

Ma-ni kia, thì sau đấy ta mới trao bài kệ Phật nói.” Lúc này Vương tử nói với người kia rằng:

–Ông cần vật gì tôi sẽ xin trao cho, để ông trao cho tôi bài kệ do Phật nói.

Người ấy tâm tham lam càng tăng trưởng mãnh liệt, nên bảo Bồ-tát:

–Như ông có thể trao cho tôi chiếc áo quý giá đang mặc kia cùng xâu chuỗi ngọc ấy, và sau khi được nghe bài kệ của Phật rồi thì ông hãy nhảy xuống hầm sâu này. Nếu chấp nhận như vậy thì trước sẽ lập thệ, sau đấy tôi mới vì ông mà nói bài kệ của Phật.

Vương tử đáp:

–Ôi Nhân giả! Ông muốn tôi phải lao xuống hầm sâu này là nhằm được lợi ích gì?

Người kia bảo:

–Tôi không có được gì cả! Chỉ sợ là ông nay đã trao chiếc áo quý giá ấy cùng xâu chuỗi ngọc kia, khi được nghe bài kệ rồi bèn sinh tâm hối tiếc, cậy vào thế lực hơn người mà trở lại đoạt lấy của tôi.

Vương tử đáp:

–Ông hãy nói bài kệ đi, tôi chung cuộc chẳng hề hối tiếc gì.

Người kia liền nói:

–Nếu chẳng chịu lập thệ, đủ biết là tâm ông chắc chắn sẽ hối tiếc!

Bồ-tát lại nói:

–Ông hãy nói bài kệ đi! Tôi sẽ tuân theo ý mà trao cho ông chiếc áo quý giá này cùng với xâu chuỗi ngọc, rồi cũng lao xuống hầm sâu đây ngay! Người kia nghe Bồ-tát đã lập thệ như vậy bèn vì Bồ-tát mà đọc một bài kệ của Phật. Bấy giờ, Bồtát liền trao chiếc áo quý giá và xâu chuỗi bằng ngọc, lại phát nguyện: “Nếu tôi thành tâm bỏ chiếc áo quý giá cùng châu báu Ma-ni, vui vẻ không hối tiếc gì, thì do lời chân thật này, sẽ khiến cho tôi hôm nay từ trên cao rơi xuống sâu được an ổn, đứng thẳng, không bị thương tổn gì.”

Bày tỏ lời nguyện như vậy xong bèn tự lao xuống hầm sâu. Trong khoảnh khắc rơi chưa tới đất ấy, Bồ-tát liền được Tứ Thiên vương thông thả đến tiếp đưa đặt xuống đất.

Người kia bèn nói: “Thật ít có người như thế này! Bài kệ do Phật nói thật hết sức vi diệu sâu xa hàm chứa lợi ích lớn lao!” Người ấy cũng liền từ trên bờ cao nhảy xuống hầm sâu, và đến chỗ Bồtát thưa rằng:

–Vương tử thật là hy hữu! Đã có thể vì việc khó làm như vậy là nhằm cầu pháp gì?

Bồ-tát đáp:

–Tôi dốc lòng vì pháp ấy, tức sẽ đạt đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thành tựu Phật đạo xong, sẽ độ cho những ai chưa được độ, những kẻ chưa được giải thoát sẽ giúp họ giải thoát, những người chưa diệt trừ được khổ não sẽ giúp họ diệt trừ, những ai chưa có sự an lạc sẽ khiến họ đạt được an lạc!

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Người ấy nghe Bồtát nói xong bèn sinh tâm tin tưởng, bảo Bồ-tát:

–Xin được trả lại chiếc áo quý giá cùng xâu chuỗi ngọc. Vì sao? Vì ông mặc chiếc áo quý giá cùng đeo xâu chuỗi ngọc này thật là thích hợp!

Bồ-tát đáp:

–Thật chẳng phải vậy! Cũng như người đã nôn ra lẽ nào trở lại ăn những thứ vừa nôn sao?

Người ấy thưa rằng:

–Nếu không nhận trở lại các vật ấy thì xin nhận lấy sự hối hận của tôi. Về sau này khi đắc đạo quả Phật-đà sẽ xin thể hiện sự cứu độ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả cho rằng

Vương tử Lạc Pháp thời ấy đã vì một bài kệ của Phật mà cởi chiếc áo quý giá cùng chuỗi ngọc Mani để trao cho người đó, xong lại tự mình lao xuống hầm sâu kia, lẽ nào là một người xa lạ chăng? Chớ nên nghĩ thế! Đó chính là ta hôm nay đấy. Còn người kia, bấy giờ đã vì ta mà nói bày kệ, sau ở nơi chỗ ta mà có được tín tâm, lại nói rằng: “Khi ông thành Phật thì xin sẽ độ tôi”, người ấy lẽ nào là một người nào khác chăng? Đấy chính là Tỳ-kheo Hòa Già Lợi hiện nay.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Một thời ta từng cùng với các vị Tỳ-kheo ở tại gần một khe nước sâu, thường đi kinh hành những chỗ vắng vẻ. Lúc này, Tỳ-kheo Hòa-già-lợi đang ở trên bờ cao. Ta bèn gọi lớn rằng:

–Hãy tự mình lao người xuống đi!

Do tin lời Phật nên Hòa-già-lợi liền lao người xuống khe sâu, nhưng không bị thương tổn gì, lại được sáu thứ thần thông.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả hãy xem diệu lực của sự vun trồng căn lành ấy. Người đó vì ta chỉ nói một bài kệ, lại tin lời ta nói nên đã tự thân quy y nay được giải thoát.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Người ấy vốn từ gốc có tâm tham, nhờ vun trồng căn lành mà hãy còn dứt được hết các lậu, huống hồ là người đã tin nhận lời ta nói, thông đạt ánh sáng trí tuệ của Phật, thuyết pháp cho Bồ-tát, dù chỉ một bài kệ bốn câu, cùng chỉ dẫn đem lại lợi ích, vui vẻ? Ta chưa hề thấy phước đức ấy bao giờ hết được, trừ khi nhập Niết-bàn.

Phẩm 26: Nói về sự hủy hoại tâm Bồ-tát

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Nếu người vì các vị Bồtát thuyết giảng dù chỉ một bài kệ bốn câu, cùng chỉ dẫn đem lại lợi ích vui vẻ, hỗ trợ cho sự thành tựu Phật đạo của Bồ-tát, thì được từng ấy phước đức. Nếu lại có người, vì muốn phá hoại tâm của Bồ-tát, nên cố tạo ra những ngăn ngại, thì sẽ cho rằng người đó đã gây nên tội lỗi như thế nào? Vì sao? Vì đối với những kẻ đã và sẽ làm cái việc phá hoại quấy nhiễu kia, được nghe nói về tội lỗi như vậy thì sẽ tự thân hối cải.

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Nếu người tạo ra những ngăn ngại để phá hoại tâm của Bồ-tát thì sẽ đắc vô biên tội. Như người muốn phá hoại ngọc báu vô giá thì người ấy ắt bị mất đi vô lượng tài lợi. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như thế thì, nếu người phá hoại, quấy nhiễu tâm của Bồ-tát thì chính là đã hủy diệt vô lượng Pháp bảo.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như việc trồng các cây dược liệu, nếu có người chặt phá đi khiến các cây ấy không tăng trưởng, thì người đó chính là đã hủy hoại các pháp trị liệu bệnh cho vô số chúng sinh, khiến nhiều chúng sinh phải bị khốn khổ vì bệnh tật. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như vậy là, nếu người muốn phá hoại tâm của Bồ-tát ấy, tức tâm an lạc lớn, tâm đại trí dược có khả năng diệt trừ bao nỗi khổ não của vô số chúng sinh, thì phải biết rằng, người ấy chính là đã khiến cho vô lượng, vô số chúng sinh bị các thứ tham, sân, si mạn, keo kiệt, ganh ghét, dua nịnh, không biết hổ thẹn, cùng các thứ bệnh phiền não khác xâm hại; cũng là khiến cho vô lượng a-tăng-kỳ chúng sinh bị mất đi cõi trú xứ Niết-bàn an lạc.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu có người hủy hoại ao A-nậu-đạt và sát hại đại Long vương, thì nên biết rằng người ấy chính là đã hủy diệt, làm mất đi loại nước gồm tám thứ công đức có khả năng dứt trừ đói khát cho hết thảy các loài chúng sinh. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như thế là, nếu người phá hoại quấy nhiễu tâm của Bồ-tát ấy, thì chính là đã hủy hoại thứ nước Bát Thánh Đạo có khả năng diệt trừ bao nỗi ham muốn ái dục của vô lượng chúng sinh.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như có người hủy hoại cung điện mặt trời, thì người ấy chính là đã hủy hoại ánh sáng của chúng sinh trong bốn cõi thiên hạ. Như vậy là, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu người phá hoại quấy nhiễu tâm của Bồ-tát ấy, thì nên biết rằng người đó chính là đã hủy diệt ánh sáng chánh pháp lớn lao của tất cả chúng sinh trong mười phương thế giới.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như người phá hoại tất cả “Bảo Tính” thì nên biết rằng người đó chính là đã hủy hoại vô lượng châu báu của chúng sinh. Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như thế là, nếu người phá hoại, quấy nhiễu tâm Bồ-tát ấy, thì nên biết rằng chính là đã hủy hoại vô lượng a-tăng-kỳ các phần của Pháp bảo. Cũng xem là đã hủy diệt các kinh như thế khiến chúng sinh không được nghe thấy.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như từ “Bảo Tính” phát sinh ra vô lượng vật báu cung cấp đầy đủ cho chúng sinh. Như thế là, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tâm của chư Bồ-tát chính là “Pháp Bảo–Tánh” Từ pháp bảo ấy sinh ra các pháp Phật với diệu lực của trí tuệ thần thông chẳng thể nghĩ bàn.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì thế mà nên biết rằng, kẻ phá hoại tâm của Bồ-tát ấy, ắt đắc vô lượng, vô biên tội sâu dày.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như người với tâm ác đã làm cho thân Phật chảy máu, nếu lại có người phá giới, chẳng tin, hủy hoại, lìa bỏ tâm Bồ-tát ấy, thì hai tội ấy ngang nhau.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đối với kẻ tâm ác làm thân Phật chảy máu, ta đã nói đầy đủ về năm tội vô gián. Nếu người hủy hoại tâm Bồ-tát thì tội này còn hơn cả trường hợp trước. Vì sao? Vì dấy năm tội vô gián hãy còn chẳng thể hủy hoại được pháp của một vị Phật. Còn như người đã hủy hoại tâm Bồ-tát thì chính là đã đoạn diệt hết thảy các pháp Phật.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ví như giết hại trâu bò thì chính là đã hủy hoại các thứ sữa, lạc và tô. Như thế là:

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu người phá hoại tâm của Bồ-tát ấy thì đấy chính là sự đoạn diệt hết thảy trí tuệ Phật.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì thế, nếu người phá giới, bất tín, mắng nhiếc, dùng lời lẽ phỉ báng, hủy hoại tâm của Bồ-tát, thì nên biết rằng tội đó còn nặng hơn năm tội vô gián.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Về tội vô gián ấy, như khiến cho bốn cõi thiên hạ đều đầy cả các bậc A-la-hán. Nếu có một người đã tước đoạt hết thảy sinh mạng của các vị đó, thì theo ý của Tôn giả, người ấy đã gây ra tội lỗi nhiều chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

–Kính bạch Thế Tôn! Hết sức nhiều!

Phật Bảo:

–Ta nay nói rõ với Tôn giả: Nếu người buông lời phỉ báng, hủy hoại, quấy nhiễu Bồ-tát khiến sự tín thọ bị thay đổi, lìa bỏ tâm ấy, làm mất đi trí tuệ của Phật, thì so với tội trước, trăm phần ngàn phần, trăm ngàn vạn phần, tội trước chưa bằng một, cho đến dùng thí dụ cũng không thể nêu hết được. Vì sao? Vì ở trường hợp trước, tuy tước đoạt sinh mạng của từng ấy A-la-hán, nhưng mà không thể ngăn trở các pháp các hạnh của chư Phật như mười Lực, bốn Vô sở úy, bốn Trí vô ngại, mười tám pháp Bất cộng, hạnh đại Từ, đại Bi, hạnh bất hư; không ngăn ngại các tướng hảo của Như Lai như Tượng Vương Hồi Quán, Sư Tử Phấn Tấn, Vô Kiến Đỉnh Tướng; không hề ngăn trở việc Như Lai thổi vang lên đầy đủ trăm ngàn thứ tiếng loa chánh pháp; cũng không phương hại đến việc chuyển bánh xe chánh pháp vô thượng; không ngăn trở được thần lực tự tại của bậc Thánh Chủ; cũng lại không ngăn trở trí tuệ có khả năng thông tỏ các thứ căn trí lợi, độn cùng đủ thứ đủ loại dục lạc khác biệt của tất cả chúng sinh.

–Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu Bồ-tát phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thành tựu được các pháp Đại thừa Kiên thệ trang nghiêm. Nếu có người đến phá hoại, quấy nhiễu tâm ấy khiến cho Bồ-tát thoái chuyển, lìa bỏ, thì người đó chính là đã ngăn trở mười thứ lực của Phật, cho đến thứ trí tuệ có khả năng thông tỏ vô số tham dục của chúng sinh.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như khắp bốn cõi thiên hạ cũng như cả tam thiên đại thiên thế giới đều có đầy đủ các vị A-la-hán, nhiều như rừng rậm hay rừng tre, lau, đồng lúa, mè… nếu có một người đã khởi tâm tước đoạt hết sinh mạng của các vị Ala-hán ấy, thì theo ý Tôn giả, người ấy đắc tội lỗi nhiều chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Hết sức nhiều!

Phật bảo:

–Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu lại có người, mang tâm giận dữ, khinh mạn, phá giới, bất tín, hủy hoại làm tán loạn tâm của Bồ-tát, thì người đó đắc tội, chỉ có Phật mới có thể biết hết được. Vì sao? Vì người ấy đã hủy hoại, làm tán loạn tâm của Bồ-tát, tức chính là đã hủy diệt hết thảy pháp Phật cùng đoạn mọi Phật chủng. Vì sao? Vì nếu không có Bồ-tát từ thời xa xưa đã dốc phát tâm Vô thượng Bồ-đề, thì làm sao có được ánh sáng trí tuệ cùng diệu lực tự tại của Phật như vậy xuất hiện ở thế gian?

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì thế mà tâm của Bồ-tát ấy là tâm vô thượng, tâm vĩ đại, tâm sâu xa. Cho nên, đối với bốn chúng đệ tử Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di cùng các bộ chúng Thiên Long, Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lưula, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân hiện đang có ở đây, cũng như hết thảy thế gian đều nên kính lễ. Vì sao? Vì, nếu người có được tâm ấy thì nên biết là, về đời vị lai sẽ là Bậc Thế Tôn.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Theo ý Tôn giả thì sao? Như Lai ngợi khen tâm của Bồ-tát ấy, thì trong sự tán dương đó là nhằm để phân biệt cùng hạng với sự tôn xưng của chúng sinh, như gia thế Sát-lợi, gia thế Bà-la-môn, gia thế lớn Cư sĩ, Chuyển luân vương, Tứ Thiên vương thiên, Thích Đề-hoàn Nhân; hoặc như Đao-lợi thiên, Diệm-ma thiên, Đâu-suất-đà thiên, Hóa lạc thiên, Tha hóa tự tại thiên; hoặc như Phạm thiên, Đại phạm vương… với những tôn hiệu như thế chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:

–Chẳng phải thế, bạch Thế Tôn! Vì sao? Vì Thế Tôn chỉ nói về tâm ấy là thanh tịnh là vĩ đại là sâu xa bậc nhất như vậy.

Đức Phật bảo:

–Vậy theo ý Tôn giả thế nào, như ta đã tán dương tâm ấy như thế, thì trong sự khen ngợi đó, vả chăng là nhằm nói đến các vị đại lực sĩ như Nala-diên, hoặc trẻ hoặc già, hoặc giàu sang, nghèo hèn, cao thấp đủ hạng người chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Chẳng phải.

Đức Phật bảo:

–Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả nhận thấy tâm ấy xuất hiện ở bất cứ nơi chốn nào, hoặc nơi người trẻ, người già, hoặc nơi kẻ giàu sang, nghèo khổ, có sức mạnh, không sức mạnh… thì các vị đều nên kính lễ, nhớ nghĩ, giữ gìn, trợ giúp để những người ấy thành tựu được tâm nguyện của họ. Đấy là sự báo ân không gì hơn của bậc Thanh văn, đã dùng pháp thí để giáo hóa chư Bồ-tát.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu các vị Thanh văn có thể làm được như vậy thì đó chính là sự cúng dường Như Lai đầy đủ nhất. Đấy còn gọi là có thể chỉ dẫn khiến các vị Bồ-tát, đối với tâm Vô thượng Bồ-đề, đã không thoái chuyển.

Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Bồ-tát có ba thứ tâm:

1. Tâm mới bắt đầu phát khởi.

2. Tâm chuyển biến.

3. Tâm thành tựu.

Trong ba tâm ấy, Đức Thế Tôn khen ngợi chủ yếu là tâm nào?

Đức Phật nói:

–Đúng thế! Đúng thế! Như Tôn giả vừa nêu, Bồ-tát có ba thứ tâm: Tâm ban đầu, tâm chuyển biến và tâm đã thành tựu.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Trong các tâm ấy, Như Lai chủ yếu tán dương tâm ban đầu và tâm chuyển biến, nhờ đấy mà tâm nguyện được thành tựu. Vì sao? Vì, nếu như có người phát tâm Vô thượng Bồ-đề, không hề thoái chuyển vào hàng Thanh văn, Bích-chi-phật, do không thoái chuyển ấy nên dần dần sẽ thành tựu được đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Vì thế, Bồ-tát phát tâm Bồ-đề, phải nên quan sát tâm ấy là tướng không.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Những gì nơi tâm ấy được gọi là tướng không?

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tâm gọi là ý thức tức là thức ấm, là ý nhập, ý giới tâm, cho nên tướng nó là không. Tâm không có hình tướng của tâm, cũng không có kẻ tạo nên. Vì sao? Vì nếu có người tạo nên thì chính là có sự tạo tác từ kẻ khác. Nhưng nếu người ấy nhận lấy như tâm tự tạo thì chính là tự tạo, tự nhận lấy.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tâm ấy hình tướng nó là không, không có kẻ tạo ra, không có kẻ khiến tạo ra. Như không có người tạo ra thì tất không tướng tạo tác. Nếu người hý luận cho là tâm ấy có hình tướng, tức là đã chống lại các pháp vô ngại, không, vô tướng. Nếu đã chống lại các pháp Vô ngại, không, vô tướng, thì người đó cũng chống lại Như Lai. Chống lại Như Lai, nên biết rằng kẻ ấy ắt bị rơi rớt vào chốn hầm hố sâu tức là đọa vào các nẻo ác địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, cùng mang nặng những kiến chấp về ấm giới, nhập, kiến chấp về ngã, về nhân, về chúng sinh.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nên ghi nhận lời quan trọng này: Kiến chấp về Phật, Pháp, Tăng, kiến chấp về Niết-bàn, đều là Hữu sở đắc kiến. Những thứ kiến chấp ấy là gốc của các nẻo ác. Chúng sinh do tham vướng các thứ kiến chấp đó nên bị rơi rớt vào các hầm hố sâu, không chỉ riêng mình mà còn bao kẻ khác cũng bị rơi vào đấy. Hầm hố sâu kia chính là năm nẻo sinh tử vậy.

Lúc bấy giờ trong chúng hội có một người ăn xin tên là Tuyển Trạch, từ chỗ ngồi đứng dậy, cung kính chắp tay thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Con nay không muốn bị đọa vào chốn hầm hố sâu ấy, cũng không dám muốn cùng với Như Lai tranh biện. Con từ trước tới giờ sinh tâm như vầy: Muốn đạt được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì phải tự mình sinh niệm trở lại. Con là người nghèo nàn vốn chịu nhiều khổ não, việc mưu sinh khó khăn. Các hàng gia thế lớn như Sát-lợi, Bà-la-môn, Cư sĩ, hãy còn chẳng có thể học hỏi đạo Vô thượng Bồ-đề, huống hồ là con, là kẻ ăn xin nghèo hèn hết mực. Nay theo Phật, được nghe Phật khen ngợi về tâm mới phát của Bồ-tát, trong ấy Đức Phật không nói về giòng họ lớn Sát-lợi, về các gia thế lớn Bà-lamôn, Cư sĩ cùng các bậc Tứ Thiên vương, Thích Đề-hoàn Nhân, Đao-lợi thiên, Diệm-ma thiên; chẳng nói về Phạm thế, Phạm Thiên vương; lại cũng không nói về những hạng giàu nghèo, sang hèn. Con kể từ hôm nay quyết định phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, chẳng tự coi thường thân mạng mình.

Đức Phật nói:

–Lành thay! Này Tuyển Trạch! Ông từ hôm nay mới thực sự là theo học Như Lai.

Khi ấy, Tuyển Trạch liền ở trước Đức Phật cung kính đọc bài kệ:

Con chẳng mong khen ngợi
Ngợi khen chẳng thượng diệu
Muốn cầu ý tối thắng
Trí vô thượng của Phật.
Phật, thế gian tôn quý
Thế gian không gì hơn
Nơi chúng sinh khổ não
Nên dốc tâm quy mạng.
Phật chứng pháp vô lậu
Vi diệu, vô lượng tịnh
Thương chúng sinh nên dạy
Độ thoát khổ sinh tử.
Thần lực Phật vô ngại
Hào quang cũng vô biên
Đạt trí tuệ không bờ
Phước đức thật vòi vọi.
Thế Tôn, bản tâm con
Cũng nhằm đạt quả Phật
Tâm trở lại thoái chuyển
Ai giúp kẻ nghèo hèn?
Các bậc Vương, Cư sĩ
Thích Phạm các tôn thần
Uy đức lớn trời, người
Hãy còn chẳng đạt được.
Huống con kẻ nghèo hèn
Ăn xin để nuôi mạng
Trí Phật, đời khó sánh
Làm sao mà có được?
Thế Tôn biết tâm con
Gọi Xá-lợi-phất nói:
“Ta nói tâm phát ấy
Không giàu nghèo sang hèn
Cũng chẳng nói Sát-lợi
Bà-la-môn, Cư sĩ
Chư Thiên, Long, Quỷ thần
Chỉ nói phát tâm tịnh.”
Nay được nghe Phật dạy
Tâm con thêm sức lớn
Ắt sẽ được thành Phật
Nếu phải phát tâm lớn
Trời đất có chuyển đổi
Tu-di thành bụi tre
Hư không hãy còn đổi
Tâm con chẳng thể chuyển.
Giả như mọi chúng sinh
Hết thảy đều là ma
Ào đến để quấy phá
Tâm con định, không đổi.
Nếu có người trước con
Mà nói lời thế này:
“Trí Phật rất khó được
Ai cho kẻ nghèo hèn?”
Con nghe thế xin thưa:
“Ngươi chính kẻ nghèo hèn
Ngươi không có “tín tài”
Ta sẽ được làm Phật
Chư Phật vốn không tánh
Cũng không có “định chủng”
Chỉ nhất tâm hồi hướng
Nơi Đại thừa vô thượng
Đó chính tánh chư Phật
Cũng là chủng Như Lai.”
Nhất tâm cầu Phật đạo
Cúng dường nên quả Phật
Con chẳng tiếc thân mạng
Cũng không tham thế lạc
Chỉ theo đạo Vô thượng
Độ hết thảy chúng sinh
Nay ở trước Pháp Vương
Xin bày lời chân thật
Nếu có gì sai lầm
Xin Phật thương xót dạy.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn dùng kệ đáp lại:
Ông phát tâm Vô thượng
Theo nẻo Vô thượng thừa
Trong ấy chẳng sai lầm
Sẽ thành Phật, Pháp vương.
Tuyển Trạch nghe Phật nói
Tâm được vô lượng vui
Do được tâm thanh tịnh
Bay cao bảy Đa-la.
Thế Tôn liền mỉm cười
Miệng phóng quang năm sắc
Chiếu sáng khắp đất trời
Lại về nhập đỉnh đầu.
A-nan liền chắp tay
Hỏi bậc Lưỡng Túc Tôn:
“Bậc Đại Hùng trí diệu
Nay do từ nhân nào
Trong thành Vương xá này
Kẻ ăn xin hạ tiện
Trụ ở nơi không trung
Chắp tay kính lễ Phật.
Nay chư Thiên, Long vương
Dạ-xoa, nhân phi nhân
Đều nhất tâm chắp tay
Kính lễ kẻ hèn ấy.
Con nay hỏi Thế Tôn
Vì sao cười, phóng quang
Ai tu hành Phật đạo
Mà muốn được thọ ký?
Ai sẽ trụ Phật đạo
Mà phát tâm Vô thượng
Sẽ chứng tuệ tối thắng
Độ mọi già, bệnh, chết?
Ai sẽ ngồi đạo tràng
Trừ diệt chúng quân ma
Đắc Phật đạo Vô thượng
Chuyển pháp luân tối diệu?
Ai sẽ đạt trí lớn
Được vô lượng thần thông
Đạt trí tuệ vô ngại
Biết mọi căn chúng sinh?
Ai sẽ được Phạm âm
Ngôn thuyết thảy diệu kỳ
Do trí chân vô ngại
Thuyết giảng mọi chân lý?
Ai chứng đạo Vô thượng
Luôn trụ định vi diệu
Thông tỏ tâm ba cõi
Từ bi nên thuyết pháp?
Ai sẽ lúc nói pháp
Trời người đều hoan hỷ
Sẽ đạt hạnh Bất hư
Pháp Tượng Vương Hồi Quán?
Ai dẫn dắt đại chúng
Nghiêm tịnh thế giới Phật
Lìa hết thảy các nạn
Rộng mở nẻo tịch diệt?
Thế Tôn uy đức lớn
Con xin hỏi việc ấy
Do duyên gì mỉm cười
Mong đáp, chúng hoan hỷ?

Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan:

–Như Lai nhân vì người ăn xin Tuyển Trạch ấy nên đã mỉm cười và phóng hào quang lớn. Tức thì trong chúng hội, Thiên, Long, Dạ-xoa, Khẩn-nala, Ma-hầu-la-già, nhân phi nhân có đến tám mươi ức na-do-tha chúng, thảy đều phát tâm Vô thượng

Bồ-đề. Ta vì các vị ấy mà thọ ký đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lúc này Đức Thế Tôn, muốn làm sáng tỏ ý nghĩa trên nên nói bài kệ:

Như Lai lúc nói nhân duyên ấy
Đủ tám mươi ức na-do-tha
Chúng sinh thảy phát tâm Vô thượng
Tất cả đều sẽ thành Phật đạo.
Nay, Tuyển Trạch, là kẻ trí sâu
Nơi không trung chắp tay hoan hỷ
Cung kính ca ngợi cúng dường ta
Tự nguyện đạt giác ngộ như Phật.
Người ấy do phước đức nhân duyên
Chung cuộc không đọa các nẻo ác
Mọi đời thường lìa chốn tám nạn
Kiếp kiếp luôn được thấy chư Phật
Đã được gặp chư Phật như thế
Nên đạt được Vô thượng Bồ-đề
Lọng báu, cờ phướn cùng hoa hương
Đủ mọi thứ ấy cúng dường Phật
Nhiều đời chư Phật còn tu tập
Y phục thượng diệu cùng các món
Giường chiếu, đồ nằm và thuốc men
Mọi thứ đầy đủ cúng dường Phật
Sẽ lần lượt được gặp Di-lặc
Quyết cầu Phật nên thêm cung kính
Đem bảy mươi ức na-do-tha
Châu báu Ma-ni để cúng dường
Mỗi mỗi ngọc Ma-ni tỏa sáng
Chiếu khắp cả tám mươi do-tuần
Mọi sức sáng châu báu hợp lại
Tỏa chiếu được khắp mọi thế giới
Lại dùng bảy báu xây tháp miếu
Cả bảy mươi ức na-do-tha
Mỗi tháp ấy cao rộng mười dặm
Dùng các báu diệu để trang nghiêm
Y phục, giường phản cùng chăn đệm
Cũng bảy mươi ức na-do-tha
Thảy đều trang nghiêm đủ như thế
Dâng Phật Di-lặc và chúng Tăng.
Ba tháng an cư luôn cúng dường
Trải trăm năm chẳng hề mỏi mệt
Người ấy sau này sẽ xuất gia
Trong pháp Di-lặc tu phạm hạnh
Tâm luôn cung kính cùng yêu thích
Cung kính cúng dường Phật Di-lặc
Lần lượt học hỏi hạnh Bồ-tát
Tất thấy chư Phật trong Hiền kiếp
Từ đó lại được gặp chư Phật
Số lượng hơn cả cát sông Hằng
Thấy rồi, tâm được thêm thanh tịnh
Càng thêm cúng dường, tu Phật đạo
Người ấy tâm tịnh, đủ phước báo
Ta nay lược nói, chẳng thể hết.
Quả ấy vô lượng, khó nêu, dụ
Ai được nghe nói đều cầu Phật.
Người ấy qua lại trong sinh tử
Hằng hà sa kiếp cầu Phật đạo
Đời cuối sẽ chứng Trí vô thượng
Thành Phật hiệu là Tập Kiên Thật
Thọ mạng tính đến một ngàn kiếp
Thế giới thời Phật rất thanh tịnh
Cõi Diêm-phù đề cũng trang nghiêm
Như cung Đao-lợi đỉnh Tu di.
Thế Tôn Tập Kiên Thật
Chúng hội lớn Thanh văn
Hơn ức na-do-tha
Như hằng hà sa số
Trong mỗi mỗi hội lớn
Có hằng hà sa người
Đều đắc A-la-hán
Lực thần thông tự tại
Thảy thông đạt ba tạng
Mọi hỏi đáp đều tường
Như Xá-lợi-phất đây
Đệ nhất trong trí tuệ.
Có hội lớn Bồ-tát
Số lượng còn nhiều hơn
Đại Bồ-tát Phật ấy
Cũng tên A-dật-đa
Các vị Bồ-tát đó
Đắc pháp Nhẫn vô sinh
Thân chuyển sinh các nước
Theo chốn đều thành Phật
Trong mỗi mỗi hội lớn
Bồ-tát hằng sa số
Phật ấy cũng thọ ký
Sẽ thành đạo Vô thượng.
Sau khi Phật diệt độ
Pháp trụ trọn một kiếp
Xá-lợi được chia khắp
Cũng như ta diệt độ
Xá-lợi Tập Kiên Thật
Trời người đều cúng dường
Theo chỗ thích mọi loài
Hiện các lực thần thông
Tháp miếu xá-lợi đó
Đều xây bằng bảy báu
Lan can cùng cột báu
Cờ lọng và hoa hương
Đem những báu diệu ấy
Trang nghiêm tháp Như Lai
Dùng các tháp miếu đó
Nghiêm tịnh cõi Diêm-phù
Nếu người mang các hoa
Cúng dường nơi tháp Phật
Liền biến thành lọng hoa
Có thần lực như vậy
Thế Tôn Tập Kiên Thật
Hình tượng nơi các tháp
Theo chỗ thích chúng sinh
Mỉm cười phóng hào quang
Hào quang lớn tỏa chiếu
Trở về nhập chốn gốc
Như nhập nơi đỉnh tướng
Tự biết Phật thọ ký
Như hào quang vào miệng
Biết nhận Duyên giác thừa
Hào quang vào ngã rốn
Tự biết nhận Thanh văn
Hình tượng Thế Tôn ấy
Có lực thần thông đó
Mãn một kiếp như thế
Hết kiếp mới chấm dứt
Pháp hữu vi vô thường
Nên phải càng tinh tấn.

Bấy giờ Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Thật là điều ít có! Người ăn xin Tuyển Trạch là hạng hạ tiện mà tâm đã thành tựu được các pháp thượng diệu tôn quý. Như thế thì có người trí nào dám coi thường hàng hạ tiện?

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Như Tôn giả đã nói, không có người trí nào dám khinh thường con người hạ tiện ấy, chỉ trừ hạng phàm phu không hiểu biết, không có trí tuệ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Chính từ ý nghĩa ấy nên trong kinh ta đã nói, kẻ trí không nên khinh mạn trong việc đánh giá người khác. Khinh mạn trong việc đánh giá người khác chính là tự làm thương tổn mình.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Theo ý Tôn giả cho rằng, người ăn xin tên Tuyển Trạch này, xưa nay hầu như đã được Thiên, Long, Dạ-xoa, Càn-thátbà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân phi nhân bày tỏ sự kính lễ chăng?

Tôn giả Xá-lợi-phất đáp:

–Kính bạch Thế Tôn! Không phải thế! Vì sao? Vì người bần tiện này chưa được Đức Như Lai thọ ký, nên chưa được mọi người kính lễ. Nay, do được Đức Thế Tôn thọ ký rồi nên được hết thảy Trời, Người, A-tu-la… đều cùng kính lễ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đó là chư Phật ở đời vị lai đạt được tri kiến vô ngại không cùng quả vị với hàng Thanh văn, Bích-chi-phật. Vì vậy mà, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Các hàng đệ tử của ta, tin tưởng thọ nhận lời Phật nói, nếu vì chúng sinh mà diễn thuyết chánh pháp, thì vào những lúc ấy trước hết phải nên tán dương công đức cùng thần lực của Phật. Chúng sinh được nghe đều ấy, thì có thể phát tâm cầu trí tuệ chư Phật, do đó có sự phát tâm đó mà Phật chủng luôn được nối tiếp.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tất cả chúng sinh trong thế gian, ít có người vì người khác mà mong cầu lợi lạc, đem lại lợi lạc cho mình và cho người, điều ấy là hết sức khó.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Vả như việc vị tha cầu lợi thì trong chúng sinh, những người có khả năng đem lại lợi lạc cho chính mình, những người đó hãy còn khó khăn. Vì sao? Vì hạng phàm phu hiện nay, muốn cầu lợi ích cho chính mình thì ngược lại, lại tự làm thương tổn mình. Vì sao? Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ta chẳng thấy có người nào nếu xâm phạm tác hại cho kẻ khác mà chính mình lại không bị suy kém sầu khổ. Do đó, nên biết rằng, đứng vững trong việc tạo nhân đem lại lợi ích cho chính mình đã là điều khó rồi, lại ở trong ấy vừa tự lợi, lợi tha thì thật là hết sức khó khăn.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu như người hủy hoại kẻ phát tâm cầu pháp Đại thừa thì nên biết rằng người đó chẳng thể tự lợi cũng như lợi tha. Người ấy cũng không thể gọi là người tu tập đạo pháp.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Kẻ ngu si ấy đã hành động theo tà đạo, và đã đánh mất đi phần tự lợi cùng lợi tha. Chính do nhân duyên đó nên người ấy sẽ gặp phải tám pháp suy não. Thế nào là tám pháp? Đó là:

1. Mất đi chỗ yêu mến quý trọng của bạn thân, gia đình, quyến thuộc.

2. Cõi nước suy yếu, loạn lạc.

3. Tài sản ngày một hao tốn.

4. Họa lửa thiêu đốt.

5. Quan trên bắt bớ.

6. Các căn bị hư hại.

7. Chết bị đọa vào địa ngục.

8. Bị ngục tốt tra khảo đánh đập.

Đấy là tám pháp suy não.

Lại nữa, còn có tám pháp bất an lớn. Những gì là tám pháp? Đó là bị sinh vào các nẻo ác: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, chính là sự bất an lớn. Nếu được làm thân người thì thường sinh ở chốn biên địa, chẳng biết thiện ác, ở chốn không có Phật, không có pháp và Thánh chúng, chính là sự bất an lớn. Giả như được thân người và sinh ở vùng giữa nước thì lại bị điếc mù câm ngọng suy tàn trăm tật, đấy cũng là sự bất an lớn. Tuy được sinh ở vùng giữa nước với đầy đủ thân người nhưng luôn bị suy yếu, mang tâm dua nịnh tà vạy, hư trá gian ngoa, đó cũng chính là pháp bất an lớn. Thọ giáo ngoại đạo, ưa thích đối với tà luận, tà kiến, ác hạnh, tạo thành các nghiệp về thân, khẩu, ý luôn bất tịnh, chư Phật, Hiền thánh cũng chẳng thể cứu được, đó cũng là pháp bất an lớn. Nếu được sinh ở vùng giữa nước với đầy đủ thân người nhưng ngay vào đêm Phật đắc đạo, liền bị mạng chung nên chẳng gặp được Phật pháp, đó cũng được gọi là pháp bất an lớn. Đấy là tám pháp bất an lớn mà kẻ khinh mạn, hủy hoại người cầu Phật đạo luôn gặp phải.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nên biết rằng, người khinh mạn hủy hoại ấy, nếu sinh vào cõi địa ngục tất bị đọa nơi đại Địa ngục A Tỳ, mang thân hình to lớn nhận lấy nhiều thống khổ cùng liên tiếp dấy các tội nặng. Nếu đọa vào các nẻo súc sinh thì làm loại ác trùng, ác thú luôn đói khát khổ cực phải xâm phạm cướp đoạt thân mạng loài khác, ngốn ngấu cả thịt xương để nuôi sống mạng mình, theo chốn sinh sống mà tiếp tục tăng thêm các nghiệp gây tội ác. Nếu sinh vào các loài vật ở nước thì sẽ làm cá Ma-già, luôn bị ngư dân Già-la-thất-thủ-ma-la cùng dân Uất-đà-la dùng lưới bủa giăng bắt lấy, lúc sống thân bị cắt cứa chịu bao khổ não mong muốn chết đi mà chẳng được. Như lại được sinh trên đất liền thì hoặc làm lạc đà, lừa, trâu bò, dê chó heo. Nếu làm thân lạc đà, trâu bò thì luôn bị người xỏ mũi lôi dắt, thân thường mang chở nặng nhọc, lại còn bị gậy đập roi quất dù có kêu rống cũng chẳng một ai cứu giúp, giữa đường vì đói mệt chẳng thể bước tới nỗi nữa. Thân mạng chưa dứt, liền bị mổ thịt lột da, thịt xương hầu như chẳng còn gì cả! Lại còn bị mắng nhiếc là đồ ăn hại, vô tích sự.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả hãy xem xét các nhân duyên gây nên tội lỗi ấy, theo như chỗ thấu đạt của ta thì nếu muốn nói đầy đủ, từ kiếp này sang kiếp khác cũng không thể hết được.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Cần ghi nhận lời quan trọng này: Nếu kẻ hủy hoại tâm của Bồ-tát ấy thì không thể nào tránh khỏi việc bị đọa vào tám nạn. Vì sao? Vì kẻ ấy luôn tiếp tục dấy khởi các nghiệp gây nên tội lỗi. Nên biết rằng, các vị là những người đã thoát khỏi các nạn ấy vì luôn tự cứu giúp mình.

QUYỂN 8

Phẩm 27: Nói về nhiều thứ pháp

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Có bốn pháp cứu độ. Những gì là bốn pháp?

1. Chúng sinh bị sợ hãi, Như Lai có thể cứu độ.

2. Những kẻ đi lạc vào nẻo tà, đạo pháp giải thoát có thể cứu độ.

3. Người tạo các nghiệp ác, pháp Niệm xứ có thể cứu độ.

4. Kẻ đang bị tám nạn, Bồ-tát có thể cứu độ. Đó là bốn pháp cứu độ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Có bốn pháp an lạc.

Những gì là bốn pháp?

1. Sinh ra được gặp Phật.

2. Được sinh ở nơi chốn không có các nạn.

3. Luôn tin tưởng nơi Phật pháp.

4. Có được đầy đủ chánh kiến của Bậc Giác Ngộ.

Đó là bốn pháp an lạc lớn.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Lại có bốn pháp có thể thành tựu được sự nghiệp. Những gì là bốn pháp?

1. Thân tứ đại được điều hòa, khiến thân tâm luôn được an lạc.

2. Tâm thanh tịnh, tư chất chánh trực, có thể đạt được chánh kiến.

3. Gặp Phật, có được lòng tin, làm nhân cho mọi sự an vui.

4. Phát tâm vô thượng nhằm dứt trừ bao thứ bệnh phiền não của vô số lượng chúng sinh.

Đó là bốn pháp có khả năng thành tựu sự nghiệp.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ở đời có bốn thứ mong được. Những gì là bốn thứ?

1. Các người bị bệnh tật ốm đau mong muốn được lành bệnh, khỏe mạnh.

2. Kẻ bị đói khát bức bách mong muốn được ăn uống no đủ.

3. Những người bị khổ não giày vò mong muốn được an lạc.

4. Những kẻ đi trên đường nguy hiểm mong được an ổn.

Đó là bốn thứ mong được ở đời.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Thế gian luôn có bốn nơi chốn tham đắm, do sự tham đắm ấy bị đọa vào các nẻo ác. Những gì là bốn?

1. Tham đắm về thân.

2. Tham đắm về thọ mạng.

3. Tham đắm đối với tài sản.

4. Tham đắm về ái dục.

Đó là bốn nơi chốn tham đắm.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Có bảy nơi chốn chứa đựng. Đó là chốn chứa đựng của gió, cái sống, chín, lạnh, nóng, kiến thức và tham dục. Trong các sự chứa đựng ấy, chốn chứa đựng về tham dục là bền chắc hơn hết. Nơi chốn chứa đựng tham dục đó đã nương tựa vào cái gì để tồn tại? Chính là nương tựa nơi thân tướng con người với bao thứ nước mắt, nước bọt, đờm dãi, máu mủ, gân xương, da thịt, tim gan, ngũ tạng, phân, nước tiểu…

Bấy giờ trong chúng hội có một vị Cư sĩ tên là Tuyển Trạch. Vị Cư sĩ này có người vợ tên là Diệu Sắc; dung mạo đoan nghiêm, nhân sắc diễm lệ. Cư sĩ Tuyển Trạch hết sức yêu thương say đắm nên luôn bị phiền não dấy khởi. Cư sĩ nghe Phật nói liền đứng dậy thưa với Phật rằng:

–Kính bạch Thế Tôn! Thế Tôn chớ nên cho rằng tâm tham dục đã dấy khởi từ chỗ nhơ uế của con người. Vì sao? Vì như vợ con, vốn là người rất đoan nghiêm xinh đẹp, không có điểm nào xấu tệ cả.

Đức Phật biết vị Cư sĩ này vốn nhiều tham ái sâu nặng, tức thì hóa ra một người đàn bà dung mạo đoan nghiêm xinh đẹp giống như Diệu Sắc, đang thong thả đi vào chỗ chúng hội. Cư sĩ Tuyển Trạch trông thấy liền suy nghĩ: “Vợ ta do duyên gì đi đến chúng hội này?” Suy nghĩ như vậy rồi bèn hỏi người đàn bà kia:

–Nàng vì sao mà lại đi đến nơi này?

Người đàn bà đáp:

–Em đến là muốn được nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp.

Cư sĩ nghe vậy bèn dẫn vào chỗ ngồi và để vợ ngồi lên mé vạt áo mình. Đức Phật dùng thần lực khiến người đàn bà ấy phóng uế làm bẩn cả vạt áo gây mùi hôi thối, làm cho Cư sĩ Tuyển Trạch không thể chịu nỗi phải dùng tay bịt mũi quay đầu nhìn sang bên phải, có ý xem ai là kẻ làm chuyện xấu. Lúc này, người ngồi bên phải Cư sĩ là Bạtnan-đà, bèn nói với Cư sĩ:

–Vì sao lại phải bịt mũi rồi quay sang phía tôi? Cư sĩ Tuyển Trạch đáp:

–Vì phía bên này quá ư hôi thối không chịu nỗi!

Do thần lực của Phật nên Bạt-nan-đà cùng nhiều người trong chúng hội nhìn thấy người đàn bà kia đã làm xấu cả một vạt áo của Cư sĩ Tuyển Trạch. Bạt-nan-đà nói với Cư sĩ Tuyển Trạch:

–Hãy xem kìa, chính vợ anh đã gây ra chuyện hôi thối này.

Cư sĩ đáp rằng:

–Tôi không chút nghi ngờ về chuyện này! Vợ tôi trong lành, thân không chút nhơ nhớp. Nếu có người nào nghi ngờ thì tự mình nên xem lại chính mình. Lại như nói riêng với Bạt-nan-đà: “Ý tôi cho rằng anh là tác giả vụ này!”

Bạt-nan-đà nghe thế liền tức giận nên đứng phắt dậy nói với Cư sĩ:

–Anh thật không biết hổ thẹn! Ai là người đã tôn anh là Cư sĩ đấy? Anh nay đáng gọi là Cư sĩ hôi thối! Sao anh không tự tay mình đẩy vợ anh đang ngồi nơi vạt áo kia ra mà xem thử? Chính chị ta lúc ngồi lên vạt áo anh đã gây ra việc xấu ấy. Anh tự ngồi lên trên nên đã lãnh đủ. Vậy mà không xấu hổ lại còn muốn chê bai người khác.

Mọi người trong chúng hội bèn xướng to lên:

–Cư sĩ hôi thối ấy phải nên ra khỏi chúng hội!

Bèn nói với người đàn bà kia:

–Người quá đỗi bất tịnh không nên ở trong chúng hội! Nói xong liền dùng tay kéo người ấy ra bên ngoài.

Tuyển Trạch trong lòng nghi hoặc, nói với người đàn bà:

–Ta vốn quý trọng nàng nên mới để ngồi nơi vạt áo ta. Nàng là người lớn sao lại giở trò như vậy? Người đàn bà đáp:

–Ông ngồi sát nơi chỗ nhớp nên mới đến nông nỗi ấy!

Cư sĩ Tuyển Trạch lúc này liền sinh tâm chán nản, muốn bỏ chiếc áo bẩn ấy lại sợ vấy lên người mình, bèn hỏi Bạt-nan-đà:

–Làm cách nào để tống khứ chỗ nhớp bẩn này? Bạt-nan-đà đáp:

–Chẳng phải chính thứ phân nhơ ấy đã làm ô nhiễm thân anh, mà chính những suy kém mới là điều anh nên quan tâm! Nếu muốn lìa bỏ thì nên trốn đi một nơi xa nào, không trở về nữa! Do vợ anh làm xấu khiến cho đại chúng ở đây phải đau đầu, buồn bực, rối loạn.

Cư sĩ Tuyển Trạch nói:

–Con em giòng họ Thích đều giàu lòng Từ bi thương người, sao anh ác khẩu quá vậy?

Bạt-nan-đà nói:

–Như anh hôm nay thì làm sao có thể từ bi thương xót được? Lời Phật chỉ dạy mà dám trái nghịch. Ăn nói như thế này: “Vợ tôi đoan nghiêm, không hề có những gì xấu xa!” Anh nay tự xem thử có trong sạch không mà muốn phỉ báng tôi?

Cư sĩ Tuyển Trạch nói với người đàn bà:

–Nàng nên trở về nhà! Bạt-nan-đà đã nói như thế đấy. Ta hôm nay đã thấy rõ người nữ chẳng chút chính trực, lại đầy dẫy những lỗi lầm, bất tịnh, nên sinh tâm chán lìa, muốn ở nơi pháp Phật xuất gia tu tập.

Bạt-nan-đà nói:

–Anh nay hình thể nhơ nhớp như thế, nếu dùng hương thơm xoa lên thì cũng phải trải qua hàng năm trời, sau đấy mới có thể kham lấy nổi việc xuất gia.

Cư sĩ đáp:

–Nếu tôi dùng hương xoa lên người phải trải qua hàng năm trời, thì hoặc là thân tôi vô thường hoặc Phật diệt độ, như thế thì nhân duyên xuất gia cầu đạo của tôi sẽ hỏng mất. Nay nếu thấy được chấp thuận cho xuất gia thì tôi chẳng hề lai vãng đến các thành ấp, thôn xóm; lấy chốn A-lan-nhã làm tăng phòng, tinh xá, mặc nạp y khuất phục, luôn ở nơi chốn vắng vẻ u tịch. Thế thì ai biết tôi xú uế?

Đức Phật bảo:

–Này Cư sĩ! Ông muốn ở nơi pháp của ta mà xuất gia chăng?

Cư sĩ Tuyển Trạch liền thưa:

–Đúng vậy! Kính bạch Thế Tôn!

Phật nói:

–Lành thay! Ông là Sa-môn tu tập phạm hạnh!

Tức thì râu tóc của vị Cư sĩ được cạo sạch, áo ca-sa mặc lên thân, tay nâng bình bát, đúng hình dạng một vị Tỳ-kheo. Đức Phật vì vị Tỳ-kheo mới này mà thuyết giảng về bốn chân lý Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Được nghe bốn Thánh đế, vị này đạt được Pháp nhãn thanh tịnh, thành tựu quả Tu-đà-hoàn. Những lần thuyết pháp giáo hóa tiếp theo dần dần giúp cho vị ấy chứng quả Tư-đà-hàm và A-na-hàm. Qua khỏi đêm hôm ấy, vị Tỳ-kheo này liền khoác y mang bình bát đi đến thành Vương xá lần lượt khất thực, bèn trở lại nhà mình đứng bên ngoài cửa. Lúc này người vợ tên Diệu Sắc, thấy chồng mình đầu cạo, thân mặc pháp phục thành người xuất gia học đạo, liền nói rằng:

–Ông đã chọn việc lìa bỏ gia đình làm vị Samôn chăng?

Tuyển Trạch đáp:

–Hôm nay, nàng đã làm một việc không hay khiến áo ta bị nhớp bẩn cả thân ta.

Diệu Sắc nói:

–Ông đã là Tỳ-kheo rồi mà còn muốn phỉ báng người khác sao? Tôi từ nơi nhà cha tôi trở lại nhà này, chưa hề thấy ai ở ngoài cửa, huống hồ lại đi tới vườn Trúc và có mặt trong chúng hội ở đấy sao? Bấy giờ, vị Tỳ-kheo mới này nói với Diệu Sắc:–Có cả Bạt-nan-đà lúc ấy ngồi bên ta, và trong chúng hội đều thấy việc dẫn đưa nàng ra bên ngoài.

Lúc này, có tên ma ác vốn đã đi theo Tuyển Trạch, bèn nói xen vào:

–Hôm qua, người nhà ông thấy đó không phải là nàng Diệu Sắc đâu. Đấy là do biến hóa mà làm tâm ông bị huyễn hoặc đấy. Nay ông nên trở về nhà để tự vui thú với năm thứ dục lạc. Sa-môn Cù-đàm lừa dối ông. Ông nay đã làm chuyện hư vọng, đâu phải thực sự là một Tỳ-kheo. Sa-môn Cồ-đàm thường dùng thuật ấy để dối lừa mê hoặc nhiều người khiến họ xuất gia, như nay đã lừa dối ông vậy.

Tỳ-kheo Tuyển Trạch, vì đã thực chứng chánh pháp nên liền biết đấy là việc ma làm, bèn nói với kẻ ác rằng:

–Ông cũng biến hóa, tôi cũng biến hóa, chị Diệu Sắc này cũng đều là biến hóa. Phật thường thuyết giảng các pháp đều là không, như huyễn hóa cả.

Lúc bấy giờ, nàng Diệu Sắc được nghe pháp xong, liền đối với các pháp đã thấy được và xa lánh tính chất cấu uế bụi bặm, đạt được Pháp nhãn thanh tịnh, dứt trừ mọi mối nghi hoặc nên không nghe theo lời kẻ kia, và ở trong pháp Phật được diệu lực Vô úy, bèn nói với Tuyển Trạch:

–Việc ông làm là hết sức tốt đẹp. Đã có thể ở nơi pháp Phật vui thích tu tập phạm hạnh. Tôi nay cũng ở nơi pháp xin xuất gia học đạo.

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Nếu người phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồđề thì phải nên xa lìa bốn pháp. Những gì là bốn pháp nên lìa? Xa lìa bè đảng xấu ác, các hàng tri thức xấu ác và hành bất thiện. Đó là lúc mới phát tâm, chỗ nên lìa bỏ vậy.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu người phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, phải nên xa lìa đối với sự tham đắm hình tướng nữ nhân, không nên cùng với nữ nhân chung nơi chung chuyện. Đó là pháp thứ hai phải nên xa lìa.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu người phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, thì phải nên xa lìa đối với các thứ sách vở luân thuyết của ngoại đạo. Đấy là Lõa Hình luận, Lộc-già-da luận, Mạtgià-lê luận, đều chẳng phải Phật thuyết giảng, không nên gần gũi, nghe nhận, đọc tụng. Đấy là pháp thứ ba nên cần xa lìa.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu người phát tâm cầu đạo Vô thượng Bồ-đề, thì chẳng nên gần gũi các nẻo tà kiến, ác kiến. Đó là pháp thứ tư cần nên xa lìa.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như Lai không còn thấy có thêm một pháp nào khác nữa mà có thể tạo nên chướng ngại sâu dày cho Phật đạo như bốn pháp này. Vì thế, Bồ-tát phải nên xa lìa.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu muốn mau chóng đạt được đạo quả Vô thượng Bồ-đề, thì phải nên tu tập bốn pháp. Những gì là bốn pháp nên tu tập?

Bồ-tát phải nên theo các bậc Thiện tri thức. Các hàng Thiện tri thức ấy chính là chư Phật. Nếu như các vị Thanh văn có thể khiến cho Bồ-tát an trụ nơi các pháp Ba-la-mật của Pháp tạng thâm diệu, thì đó cũng là bậc Thiện tri thức của Bồ-tát, phải nên gần gũi, kính lễ, cúng dường.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát phải nên thân cận hàng xuất gia, cũng nên gần gũi với các pháp A-lan-nhã, nên xa lìa nữ sắc.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát phải nên thân cận tu tập theo chánh kiến lớn về không, nên xa lìa tà kiến.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu chư Bồtát muốn mau đạt được đạo quả Vô thượng Bồ-đề thì phải nên gần gũi bốn pháp như thế.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ thêm ý nghĩa trên nên nói bài kệ:

Xa lìa nơi nữ nhân
Cùng lìa ác tri thức
Cũng rời ngoại đạo luận
Và bao nẻo tà kiến.
Nếu gần gũi nữ nhân
Cùng những ác tri thức
Theo ngoại đạo luận bàn
Tăng trưởng các tà kiến.
Do tà kiến tăng thêm
Nên mau đọa xứ nạn!
Lìa tám nạn khó được
Cũng khó tin Phật pháp.
Nếu người muốn làm ác
Liền tạo nên hạnh ác
Nếu tạo những hạnh ác
Ắt đọa vào nẻo ác.
Vì thế kẻ cầu đạo
Chớ nên gần nữ sắc
Thường phải sinh chán lìa
Xem đấy như chốn uế.
Chớ gần ác tri thức
Khiến lạc nẻo phi pháp
Nếu gần nẻo phi pháp
Khiến người mất mắt tâm.
Như thân cận ngoại đạo
Các luận nghĩa Ni-kiền
Ngôn từ tuy trau chuốt
Nhưng sinh bao lỗi lầm.
Tất lìa mọi nẻo đó
Ắt rời các đường tà
Ta nói bốn pháp ấy
Gốc lưu chuyển sinh tử.
Xa lìa pháp thấp kém
Tập gần hạnh thượng diệu.
Ta vốn siêng tu tập
Hành hóa pháp như thế
Xuất gia tu Phạm hạnh
Gần gũi Thiện tri thức
Chư Phật cùng đệ tử
Khiến ta trụ Phật đạo.
Ta thường tu hạnh không
Không, không cùng Đại không
Tuy hành pháp không ấy
Mà không chấp nơi không.
Nếu pháp cùng chốn đạt
Cả hai chẳng đều không
Đó gọi là chân không
Thế giới thật khó lượng.
Ta vốn vì Phật đạo
Nẻo tu tập các pháp
Pháp ấy rất vi diệu
Trí phàm phu khó kịp
Lúc ta cầu Phật đạo
Mọi chốn nghe kinh pháp
Tâm ý tự suy nghĩ
Chẳng theo người khác nói
Ta tự mình thông tỏ
Mà vì người khác thuyết
Đó là nẻo chánh đạo
Không, vô ngại, tịch diệt
Trong không chẳng có sinh
Cũng chẳng có già, bệnh
Trong không cũng không chết
Đó là tướng thường trụ.
Đó là tướng thật pháp
Chốn đạo tràng thông đạt
Trừ diệt các quân ma
Đạt giác ngộ vô thượng
Mọi pháp ta chứng đắc
Liền vì người diễn nói
Khiến chứng cõi vô thượng
Mà không chốn tướng chuyển
Như muốn đạt Phật đạo
Cùng an tọa đạo tràng
Muốn phá diệt chúng ma
Thường tu pháp không ấy.
Nếu có người muốn chuyển
Pháp luân diệu vô thượng
Độ vô lượng chúng sinh
Nên học pháp không ấy
Muốn trụ mười lực Phật
Cùng bốn Vô sở úy
Tạo tiếng rống Sư tử
Nên tu tập pháp ấy
Muốn có được tiếng tốt
Truyền tụng khắp mười phương
Phải chánh tâm tu tập
Thông tỏ pháp không ấy
Chư Bồ-tát bậc trí
Theo học pháp không ta
Đạt được nẻo giác ngộ
Đó là trí tối thắng.
Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni
Nếu theo học hạnh ta
Cũng sẽ đạt giác ngộ
Như ta nay đã đạt.
Chẳng những hai chúng này
Mới hành pháp không ấy
Mà hết thảy chúng sinh
Cũng học, thành Phật đạo
Ta đem tám nẻo chánh
Tu tập pháp không này
Thông đạt các tướng pháp
Chứng Vô thượng Chánh giác.
Ta siêng tu pháp ấy
Nên được trí vô ngại
Là nẻo chính như Phật
Thường tu tập pháp không
Vì vậy, chư Bồ-tát
Dốc vì lợi muôn loài
Phải nên học pháp ấy
Chính là các pháp không.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát lại có bốn pháp, nhờ đấy mà trải qua nhiều đời nhiều kiếp thân mạng chuyển biến cũng không mất chánh niệm, có thể theo như lời Phật chỉ dạy mà hành hóa, ở trong các pháp có được tâm quyết định; đạt được biện tài vô ngại, biện tài sắc sảo nhanh nhẹn, biện tài sâu xa cùng biện tài không gì hơn; chư Phật đã thấu đạt nên gia hộ thần lực và ở nơi đời sau sẽ dốc sức với việc giữ gìn bảo vệ thành trì chánh pháp. Những gì là bốn pháp ấy? Thường vui thích với việc xuất gia, đời đời tu tập theo pháp xuất gia ấy, vì tất cả chúng sinh nên cầu pháp không biết chán, thuyết pháp không ngại mệt mỏi, thực hiện các pháp Định không nương tựa để dứt trừ sự vướng mắc nơi hình tướng các pháp, luôn siêng năng tu tập pháp Tam-muội Niệm Phật, ở trong các duyên mà không dấy riêng lẻ. Đó là pháp đầu tiên để giữ gìn chánh niệm.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát tự mình cầu Phật đạo cùng giáo hóa chúng sinh khiến họ được an trụ trong ấy, thường vui thích xưng tán thần lực, công đức của chư Phật. Đó là pháp thứ nhì nhằm giữ gìn chánh niệm.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát có khả năng thành tựu pháp Nhẫn Vô Sinh hết mực thâm diệu. Đấy là pháp thứ ba nhằm giữ gìn chánh niệm.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát ngay vào lúc mạng chung, tâm không hề tán loạn, luôn nhớ nghĩ đến chư Phật cùng các pháp thâm diệu, do từ pháp nhẫn thâm sâu ấy mà chánh niệm không bao giờ bị mất. Đấy là bốn pháp.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ ý nghĩa ấy nên nói bài kệ:

Bồ-tát luôn cầu pháp
Cũng luôn hành pháp thí
Vì thế ở các pháp
Chánh niệm không hề mất.
Hóa độ vô lượng loài
Khiến trụ nơi Phật đạo
Đời đời thân lưu chuyển
Luôn giữ gìn chánh niệm.
Học hỏi nẻo Phật khen
Pháp không tịch thâm diệu
Vì vậy, Bồ-tát ấy
Mau đạt Nhẫn vô sinh.
Cũng chẳng dấy vô sinh
Vô sinh tức vô sinh
Do được nhẫn diệu ấy
Nên chẳng mất chánh niệm
Bồ-tát bậc trí đó
Mạng chung tâm chẳng loạn
Thường dốc niệm chư Phật
Cùng pháp diệu chư Phật
Người ấy lúc mạng chung
Tâm kia không thoái chuyển
Nên đời đời thân chuyển
Luôn giữ được chánh niệm.
Do đó, nếu có người
Muốn đạt đạo Vô thượng
Nên tu tập hết thảy
Bốn pháp lành như vậy.
Pháp ấy là hơn hết
Chư Phật luôn khen ngợi
Ta nay cũng xưng dương
Các vị phải tu học.
Mọi pháp Như Lai thuyết
Nhằm lợi lạc các vị
Phật vì lợi ích khắp
Chẳng buộc vì ông nói
Nếu quyết cầu trí Phật
Nên tu học đạo ấy
Do tu học đúng nẻo
Theo đấy sinh Phật tuệ
Nếu kẻ còn biếng trễ
Cùng sinh tâm thoái chuyển
Trọn chẳng được Phật đạo
Nên xa lìa nẻo đó.
Nếu người chấp tâm ta
Cùng vướng tưởng chúng sinh
Hoặc nương tựa vào pháp
Chẳng thể chứng Phật đạo.
Nên lìa bỏ tâm ấy
Thường tu học tướng không
Phá mọi chấp về pháp
Cùng chấp trí thâm diệu
Cũng chớ chấp chốn nương
Có nương tức tướng động
Ưa thích các pháp động
Nên mãi bị sinh tử.

Phẩm 28: Các pháp thâm diệu

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Bồ-tát có bốn pháp, nhờ đấy có thể đạt đến tất cả các pháp diệu tối thắng. Những gì là bốn pháp?

1. Nếu người phát tâm Đại thừa, thấy đạo pháp đang hồi suy diệt, vì muốn cho chánh pháp được trụ thế lâu dài, nên siêng năng tinh tấn cầu pháp không biết mệt mỏi.

2. Nếu thấy các tháp miếu của Như Lai bị hư hại, thì nên dốc tâm tu bổ sửa sang khiến được tồn tại lâu bền.

3. Lại vì dốc vui thích chánh pháp mà không tiếc thân mạng.

4. Nhận thấy bao nỗi khổ của chúng sinh nên dấy tâm Từ bi rộng lớn, cùng thêm tinh tấn thực hiện các hạnh nguyện như vầy: “Đến lúc nào mình sẽ tu tập thành tựu Phật đạo dứt trừ mọi nỗi khổ kia, vì họ mà thuyết giảng chánh pháp.”

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát luôn cầu pháp không biết chán, vì nhằm cầu pháp nên phát tâm sâu rộng lớn lao mà dấy khởi sự mong muốn to tát. Đại Bồ-tát vì cầu trí tuệ lớn với những thần lực và công đức không gì hơn được nên phải diệt trừ tâm kiêu mạn. Đại Bồ-tát thường ở nơi chúng sinh vui thích thực hiện tâm Từ bi, vì chúng sinh mà mong cầu lợi lạc, nên suy nghĩ thế này: “Những chúng sinh đó không có ai là người cứu giúp, chỉ một mình ta nên phải dốc sức.” Đại Bồ-tát vì đã dứt mọi sân hận, nên tu tập thể hiện tâm Từ bi lớn lao. Đại Bồ-tát vì đã dứt mọi ganh ghét đố kỵ, nên đã khiến cho chúng sinh có được niềm vui về chân trí tuệ mà mình đạt được. Đại Bồ-tát vì tâm không còn keo lận, nên luôn đem pháp thí để nhiếp phục chúng sinh. Đại Bồ-tát vì sự bố thí lớn lao ấy, nên có thể dốc hết tâm mình an vui với Phật đạo. Đại Bồ-tát đối với tất cả các pháp, tâm không hề tham đắm. Đại Bồ-tát vì luôn khéo léo trong sự thuyết pháp, nên dung mạo luôn hòa nhã vui vẻ, ngôn ngữ thường vui tươi, nhận thấy bao nỗi khổ của chúng sinh thì càng gia tăng siêng năng tinh tấn tu học. Đại Bồ-tát luôn vui thích với Phật pháp cùng an lạc trong pháp Phật. Đại Bồ-tát vì đạt pháp vô sở úy, nên ở trong đại chúng tạo được tiếng rống của Sư tử. Đại Bồ-tát vì đã dứt hết mọi kinh sợ nên luôn an trụ trong Phật pháp. Đại Bồ-tát luôn siêng năng tinh tấn trong sự hành hóa, nên có thể tập hợp được mọi căn lành và vun đắp chúng. Đại Bồ-tát ở nơi các cõi nước thành ấp thôn xóm không hề tạo sự dính líu vướng mắc. Đại Bồ-tát luôn siêng năng trong giáo hóa hết thảy chúng sinh trong mười phương thế giới. Đại Bồ-tát luôn là hạng người thông minh, căn trí hơn người, thông tỏ hết thảy các pháp. Đại Bồ-tát cầu ý nghĩa chân thật, nên luôn tư duy như thật về tất cả các pháp. Đại Bồ-tát đối với các pháp Phật luôn mong đạt được diệu nghĩa chân thật, là nhằm để đạt đến sự giác ngộ vô thượng. Đại Bồ-tát do đạt được giác ngộ nên khéo biết được hoàn cảnh thuận tiện để giáo hóa chúng sinh.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát có thể theo đúng chánh pháp để diệt trừ các luận thuyết của ngoại đạo. Đại Bồ-tát đối với tất cả các pháp, luôn là người có được sự quyết định về ý nghĩa của chúng. Đại Bồ-tát luôn thể hiện được chân tính của Phật pháp. Đại Bồ-tát vì là phước điền của Pháp bảo, nên luôn đem lại sự sống cho Pháp bảo. Đại Bồ-tát ví như biển lớn, luôn nhận lấy tất cả các pháp không bao giờ cho là đủ. Đại Bồ-tát như núi Thiết vi, có khả năng ngăn chận làn gió tạo nên bao thứ phiền não cho vô lượng, vô số chúng sinh. Đại Bồ-tát như nước nơi biển rộng, luôn diễn nói thuyết giảng các pháp vô tận. Đại Bồ-tát do tâm luôn được tịnh diệu, nên luôn bao la như hư không. Đại Bồ-tát vì đã chứng đắc tính chất vô tận của các pháp nên cùng hòa hợp với hư không. Đại Bồ-tát như núi Tu-di nên luôn tích chứa các pháp lành. Đại Bồ-tát ví như đại địa, luôn nhận lấy bao sự yêu ghét đủ nẻo. Đại Bồ-tát ví như ruộng tốt, nên gieo trồng các căn lành không hề bị mất mát. Đại Bồtát ví như mặt trời dũng mãnh nên có thể đem lại cho muôn loài ánh hào quang chánh pháp sáng chói. Đại Bồ-tát cũng giống như mặt trăng trong lành, luôn xua tan mọi nẻo tăm tối. Đại Bồ-tát ví như chiếc lọng dày kín, có thể ngăn chận mọi nẻo dâm dục giận dữ si mê cùng bao lửa phiền não của chúng sinh. Đại Bồ-tát cũng như đám mây dày che phủ, vì mọi chúng sinh mà đem lại sự an ổn cho họ. Đại Bồ-tát giống như cây lớn, có khả năng làm chỗ quay về cho mọi chúng sinh. Đại Bồ-tát có thể vì thế gian mà làm người hóa độ, làm nơi chốn khiến cho mọi chúng sinh quay về, làm chỗ nương tựa cho họ, cùng trao cho họ pháp vô úy. Đại Bồtát là bậc thầy trong thế gian, nên đối với mọi nghề nghiệp kỹ xảo thảy đều thông tỏ. Đại Bồ-tát vì lợi ích của chúng sinh, nên có thể đem lại cho đời nay đời sau sự an lạc của Niết-bàn. Do vậy mà đối với Đại Bồ-tát, hết thảy chúng sinh đều nên kính lễ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu như các chúng sinh có thể biết được Bồ-tát đã vì họ mà làm những việc khó làm khổ nhọc như thế, đã vì nhân duyên mong có được an lạc mà đảm nhận những sự việc quan trọng như ta đã biết, thì hết thảy chúng sinh đều nên hết sức kính trọng ghi ân. Từ lúc mới phát tâm cho đến khi thành tựu quả vị Phật-đà, trong khoảng thời gian ấy, tất cả chư Thiên và người trong thế gian với đầy đủ mọi thứ an vui hiện có, đều đem cúng dường, luôn bày tỏ sự cung kính hết mực. Lại nữa, đối với Bồ-tát ấy, thời gian hướng đến đạo tràng, nên dùng các loại y phục quý giá, hoặc loại Thiên y cùng các loại hoa sen tươi tốt bày ra thành tòa cao lên tới đỉnh đầu để cúng dường. Hoặc dùng các thứ Thiên y quý báu mà làm dù lọng, hiên che nhằm ngăn chận gió và ánh sáng mặt trời. Vị Bồ-tát ấy đã thành tựu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì đem các thứ hương, hoa, cờ phướn, các loại kỹ nhạc để cúng dường, cũng có thể tự thân lo liệu đảm nhận mọi công việc cúng dường, hầu cận. Những chúng sinh đó tôn kính cúng dường như vậy, cũng chưa có thể báo đáp hết được ân đức của Bồ-tát. Vì sao? Vì Đại Bồtát, đã vì việc đem lại cho chúng sinh các pháp vô lậu tịnh diệu, sự an lạc của đạo pháp vô thượng, mà tạo nên được sự trang nghiêm lớn lao.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đem sự an lạc của thế gian mà so sánh với điều ấy, thì trong trăm phần, ngàn phần, trăm ngàn vạn phần, sự an lạc của thế gian hãy còn chẳng được lấy một. Thậm chí dùng thí dụ cũng không thể diễn tả hết được. Vì sao? Vì mọi thứ an lạc mà chúng sinh cúng dường cho Bồ-tát đều là các pháp thế gian hữu lậu, hư dối, vô thường biến đổi. Còn những an lạc mà Bồ-tát đem lại cho chúng sinh đều là các pháp xuất thế gian vô lậu, chân thật, là những an lạc dứt sạch mọi thứ phiền não nung đốt, những an lạc thường hằng, rốt ráo, không bến bờ, không hạng lượng. Vì vậy, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nên biết là chúng sinh dù đem hết thảy mọi thứ an lạc để cúng dường Bồ-tát, cũng không thể báo đáp đủ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đại Bồ-tát đối với những kẻ chìm đắm trong sự ngủ nghỉ thì làm cho họ thức tỉnh giác ngộ. Đối với kẻ buông lung thì làm cho họ trở nên siêng năng tinh tấn. Đối với kẻ mê cuồng thì giúp họ tu tập chánh niệm. Đối với kẻ tăm tối thì luôn vì họ mà làm ánh sáng mặt trời. Đối với kẻ bệnh tật ốm yếu thì làm bậc đại lương y. Đối với kẻ lạc vào nẻo tà kiến thì chỉ cho họ thấy chánh đạo. Đối với những chúng sinh chưa phát khởi các pháp lành thì giúp cho họ dấy khởi pháp lành. Đối với hạng chúng sinh chưa tăng trưởng các pháp lành thì giúp họ tăng trưởng.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Cần ghi nhận lời quan trọng này: “Rõ ràng là không một người nào khác có thể vì chúng sinh làm chỗ cho họ quy ngưỡng, làm người cứu độ họ, đem họ đến với đạo giải thoát rốt ráo. Chỉ có chư Phật mới làm được những điều ấy. Mà các pháp của chư Phật, các pháp của Như Lai, các pháp an nhiên tự tại ấy chẳng phải từ một ai sinh ra, tất cả đều được sinh ra từ nhân của Bồ-tát đạo.”

Phẩm 29: Nói về sự nghịch, thuận

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Thật là điều hy hữu! Bồtát ấy thật là hết sức vi diệu, sâu xa, có thể đem lại sự thanh tịnh trang nghiêm cho chính mình mà cũng đem lại sự thanh tịnh cho chúng sinh. Ví như, bạch Thế Tôn! Nơi cõi trời Đao-lợi, tại cây Ba-lợichất-đa-câu-tỳ-la, hoa nở rộ không chỉ đem lại vẻ tươi đẹp cho chính nó, mà còn tăng thêm vẻ tươi vui, trang nghiêm cho chư Thiên cõi Đao-lợi. Đại Bồ-tát cũng như vậy, đạt được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đầy đủ các pháp Phật, đã tự đem lại sự nghiêm tịnh cho chính mình, lại cũng vì vô lượng chúng sinh làm chốn quy ngưỡng cho họ, thành tựu Thanh văn thừa, đều đạt được các pháp tự tại về căn lực, giác đạo, thiền định, Tammuội Bối xả để tạo được an lạc cho mình. Cũng giống như cây Ba-lợi-chất-đa-câu-tỳ-la với hoa nở rộ đem lại niềm vui thích cho chư Thiên cõi trời Đao-lợi.

Kính bạch Thế Tôn! Không có người trí nào mà không nương theo thừa ấy để tu tập. Chỉ vì chúng con vốn dĩ biếng trễ, tin theo lời kẻ khác, ở nơi chỗ pháp được nghe sinh tâm an lạc, bèn cho là đã đạt được an lạc. Hôm nay mới rõ là mình không có được đạo lực có thể khiến cho một người đứng vững trong đạo ấy.

Kính bạch Thế Tôn! Con từ nay trở đi, nếu có thuyết pháp thì trước hết nên khai diễn Bồ-tát thừa đó, sau đấy mới nói về các pháp Thanh văn. Vì sao? Vì là con làm như thế, nhằm để báo đáp ân Phật, ở chỗ là đã khiến cho ít nhất là một người, phát tâm Vô thượng Bồ-đề, mau đạt đến Chánh giác.

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Lành thay! Lành thay! Tôn giả nay mới có thể phát tâm như thế, nhằm thuyết giảng pháp lớn giáo hóa Bồ-tát. Vì sao? Vì ở đời vị lai sẽ có nhiều kẻ khinh thường đối với pháp Đại thừa ấy, như thế là các kinh ít người tin thọ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Ở vào đời bấy giờ, nếu kẻ thiện nam, thiện nữ, là người cầu pháp lành, sẽ tự mình chánh niệm, nương theo nghĩa theo pháp, chớ nên tin ở chúng hội. Vì sao? Vì chúng hội thời bấy giờ chẳng phải là những người hành đạo. Chúng Thanh văn của ta, là những người tu tập, hành đạo, chẳng hề coi thường Bồ-tát cũng như hủy hoại các pháp Đại thừa, huống hồ là đối với các kinh pháp do Phật thuyết giảng hết sức thâm diệu như thế mà tạo sự trái nghịch. Vì sao? Vì nếu sinh tâm trái nghịch thì chẳng phải là kẻ đang trên đường hành đạo. Chẳng phải là kẻ hành đạo thì đó là hành động của hàng phàm phu không phải kẻ trí.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Vì thế mà phải nên học hỏi theo nẻo hành hóa của kẻ trí, lìa bỏ nẻo đường phàm phu. Nếu có vị Tỳ-kheo thờ ta làm thầy thì nên hành hóa theo con đường ấy.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Trong đời vị lai, những người cầu Phật đạo, thâm tín dốc hết sức tinh tấn, nhất tâm biết hổ thẹn, vui cầu pháp lành, hay bị chỗ coi thường, phá hoại của những kẻ khác, chúng nói như thế này: “Đó là kẻ biếng nhát không có sức mạnh của các phương tiện, không thể ở đời hiện tại đắc quả Sa-môn, vì muốn hưởng thụ năm thứ dục lạc mà làm bậc Quốc vương. Các pháp môn hiện hành tự cho là Bồ-tát, lại thọ nhận sự cúng dường, khen ngợi của người khác! Trong các kinh pháp Đại thừa Đức Phật không nói hạng người ấy là hành giả!”

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Hãy xem kẻ ngu ấy, chỉ đem một duyên nhỏ nhặt mà hủy báng ta. Ta nói người cầu đạo thâm tín kia là kẻ hành đạo chân chánh, thì kẻ ngu đó cho là chẳng phải. Hoặc như Như Lai nói về hành giả tối thắng là người đạt được giải thoát thù thắng, thì kẻ ngu đó cho là chẳng phải hành giả, chẳng phải là người đạt được giải thoát.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Lúc ấy, nếu có kẻ bạch y làm đệ tử kẻ kia tin thọ vào lời gã ta nói, trông thấy chư Bồ-tát, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưubà-sắc, Ưu-bà-di đọc tụng, tin tưởng tu tập các kinh như thế thì sinh tâm oán hại!

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Hãy xem kẻ ngu đó nào có trì giới! Trong kinh ta nói, nếu trông thấy cây cao hình tướng giống như con người, hãy còn không nên giận dữ, huống hồ là có người biết được. Người ác như thế là luôn mang lòng giận dữ, phiền não.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Tôn giả hãy xem thời kẻ ấy, cuộc đời có biết bao điên đảo: Pháp thì cho là phi pháp, phi pháp thì cho là pháp. Thiện thì cho là chẳng thiện, chẳng thiện thì cho là thiện. Đối với hành giả thì dấy tưởng chẳng phải hành giả; chẳng phải hành giả thì dấy tưởng cho là hành giả. Đối với người đạt giải thoát thì sinh trưởng cho là chẳng giải thoát; chẳng phải đạt được giải thoát thì dấy tưởng cho là đạt được giải thoát! Nên biết rằng, kẻ ấy chẳng phải là người hành đạo, chẳng phải là người giải thoát; đã chẳng biết pháp cũng chẳng biết điều thiện; chẳng có thể thuận theo đúng giáo pháp của Phật chỉ dạy. Người ngu như vậy là đã bị sân hận che lấp; bị tham lam, keo kiệt, đố kỵ, kiêu mạng phủ ngăn; tự khen ngợi mình, kiêu căng, cao ngạo, coi thường người khác, luôn bị sự thiêu đốt, bức hại của tham lam sân hận ngu si; lún sâu vào các nẻo ác, lìa bỏ các pháp lành.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu ta nói đầy đủ về lỗi lầm của kẻ ấy thì tất nhiên là sẽ tiếp tục tăng thêm các nghiệp tạo ra tội lỗi chẳng thể cứu được. Người ngu si như vậy thì phải nên xa lìa giống như phải tránh loài trâu bò dữ.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như Lai là thầy của người biết hổ thẹn chứ không phải thầy của kẻ không biết hổ thẹn; là thầy của người tin tưởng, thọ nhận chứ không phải thầy của kẻ không biết tin tưởng; là thầy của người biết thuận theo chánh pháp chứ không phải thầy của kẻ hủy hoại chánh pháp; là thầy của người hành hóa tinh tấn chứ không phải thầy của kẻ biếng nhác bê trễ; là thầy của người biết nhiếp phục các niệm chứ không phải thầy của kẻ bị tán loạn; là thầy của người có trí tuệ chứ không phải thầy của kẻ ngu si.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Kẻ ngu si ấy chẳng phải là đệ tử của ta, ta cũng chẳng phải là thầy của kẻ ấy. Tôn giả hãy xem người đó như thế nào đối với Phật thừa, đối với chánh trí của Như Lai cũng như nơi chốn tu học trong sự gắn bó lâu xa với Như Lai. Vì đã gắn bó trong sự tu học thì thông tỏ trí tuệ lớn lao, thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề liền đem pháp ấy vì chư Bồ-tát mà thuyết giảng. Và suy nghĩ rằng: “Nếu có Bồ-tát theo học pháp này tu tập theo trí tuệ Phật, mới có thể đạt được đạo quả Vô thượng Bồ-đề cứu vớt chúng sinh, khiến họ thoát khỏi sinh tử và làm cho Phật chủng luôn được tiếp nối. Như Lai cũng tự tôn kính pháp ấy. Thế mà kẻ ngu si thì coi thường chẳng tin. Thật là điều bất thiện tột bậc trong mọi điều bất thiện! Không còn gì tệ hơn!”

Vì thế, đối với các vị nên dựa vào pháp mà hành hóa, chớ dựa nơi người. Nên tự y chỉ nơi chính mình chớ nương nhờ kẻ khác.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Đó chính là giáo pháp của Như Lai. Các vị Tỳ-kheo làm thế nào để chỉ nương theo pháp mà hành hóa chứ không dựa nơi người, nên tự y chỉ nơi chính mình chứ không nhờ ở kẻ khác?

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Các vị Tỳ-kheo tùy trường hợp mà lìa hay thuận để tu tập bốn Niệm xứ nhằm đạt đến Niết-bàn. Thế nào gọi là Niệm xứ? Đối với sự thọ nhận của thân, tâm luôn nhớ nghĩ không rời bỏ.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Có được tri kiến như thật về các pháp là không có tự tánh, đối với pháp ấy luôn đạt được chánh niệm dứt mọi sai lầm, đó là Niệm xứ. Đấy là việc Tỳ-kheo nương theo pháp mà hành hóa, không nương theo người, luôn tự y chỉ nơi chính mình chứ không dựa vào kẻ khác.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu như có thể tu tập các pháp Niệm xứ như vậy thời tất dứt trừ được sự tham đắm, vướng mắc. Đó là bậc A-la-hán, là người dứt sạch các lậu, là người diệt hết phiền não, là kẻ làm phước điền cho đời, là người đạt được tự tại, là kẻ không còn bị ô nhiễm, là kẻ có trí tuệ, là người đạt tới bờ giải thoát, là bậc thầy dẫn đường, là hàng Bà-la-môn phạm hạnh.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bậc A-la-hán ấy, luôn xa lìa nơi tất cả các pháp ác, bất thiện, không ham thích các pháp hữu vi, luôn dứt trừ các nghiệp không cho chúng dấy khởi trở lại.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Nếu cho rằng A-la-hán còn dấy khởi các nghiệp tạo phước tội thì hoàn toàn không đúng. Vì sao? Vì đã lìa bỏ ba thứ mong cầu, chuyển đổi chín thứ kết sử nên đối với tất cả các pháp tâm không còn tham đắm, vướng mắc, dứt sạch mọi tham ái, ra khỏi nẻo sinh tử trong ba cõi Dục, Sắc và Vô Sắc, không còn bị phiền não quấy nhiễu nung đốt, tâm tịnh như hư không. Đó là A-la-hán.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Gọi là người dứt sạch các lậu, tức là đối với các pháp không còn sót chút lậu nào, đạt tới sự rốt ráo hoàn toàn. Là người không bị phiền não trói buộc, tức là tâm của các bậc A-la-hán bản lai luôn như hư không, không uế không tịnh. Là kẻ không còn bị nhiễm ô, tức là đối với sáu trần, hoặc ưa hoặc ghét hoặc chê hoặc khen tâm không chút đổi khác nên luôn dứt sạch mọi thứ hý luận. Là người làm phước điền cho đời, tức là đã đoạn hết mọi sự nung đốt của phiền não, nên có thể đem lại cho mọi loài pháp thí thanh tịnh bậc nhất. Gọi là người đạt được tự tại, tức là nhận biết tất cả các pháp là không, không thực có, ở trong pháp không ấy đạt tới bờ giải thoát, nên lìa mọi lý luận hư vọng. Gọi là hàng Bà-la-môn tự tại, tức là ngăn chận được mọi pháp ác, xa lìa hết thảy các pháp nên không còn bị cấu nhiễm. Là bậc thầy dẫn đường, tức là có thể vì người mà thuyết giảng về chỗ bậc thầy dẫn dắt chúng sinh vượt qua sinh tử. Gọi là kẻ có trí tuệ tức là người ấy có khả năng thông tỏ về mọi nghiệp duyên quả báo trong ba cõi Dục, Sắc và Vô Sắc đều từ sự phân biệt hư vọng mà dấy khởi, nên ở trong ấy đã đạt được giải thoát. Gọi là người đã đạt đến bờ giải thoát, tức là có thể phá trừ các ma cùng mọi nẻo trói buộc, có thể đạt đến bờ kia của hết thảy các pháp, đã ra khỏi chốn bùn lầy sinh tử, an trụ nơi đất lành, vì vậy nên được gọi là người đạt đến bờ giải thoát.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như Lai có thể theo chỗ phước đức hiện có của bậc A-la-hán dứt sạch các lậu để nói về tính chất không tăng giảm. Các vị A-la-hán là phước điều lớn, không có cấu uế, xấu ác, cũng không phải là việc gieo trồng các thứ cây tạp nhạp cùng đầy những thứ sỏi đá.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Các bậc A-la-hán dứt sạch các lậu, nếu bị người hủy báng cũng không dấy niệm: “Người đó mắng mỏ tôi!” Nếu được người khen ngợi thì cũng không dấy niệm: “Người đó ngợi khen tôi!” Luôn dứt mọi niệm phân biệt. Cũng không còn chỗ nghi hoặc, lại khéo nhiếp phục sáu căn, an trụ nơi địa Bất thoái, nương nơi pháp mà hành hóa chẳng dựa nơi người, có thể tự y chỉ nơi chính mình không nhờ cậy kẻ khác.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Do vậy mà hành giả như thế là trọn không trái nghịch với con đường giác ngộ của chư Phật, cũng trọn đời không dấy nghiệp chẳng phải là kẻ hành đạo giác ngộ. Như vậy là cũng không bị các người tu phạm hạnh chê trách, cũng là dốc sức ủng hộ nẻo giác ngộ của chư Phật khiến trụ thế được lâu dài.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bậc A-la-hán ấy đối với các pháp tâm không còn nghi hoặc, mọi tạo tác đều hoàn thành và an trụ trong chánh đạo.

Bấy giờ, Tôn giả Xá-lợi-phất thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Bậc A-la-hán trọn không trái nghịch, luôn an trụ trong Phật pháp. Vì sao? Vì, nếu làm việc trái nghịch thì đó là nẻo hành động của hàng phàm phu chứ không phải là con đường tu tập của A-la-hán.

Đức Phật nói:

–Đúng như vậy! Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Kẻ trái nghịch chánh pháp, là nẻo hành động của hàng phàm phu chứ không phải sự nghiệp của kẻ trí. Như Lai chỉ vì, về đời vị lai, có các vị Tỳ-kheo tuổi tác cao, có nhiều hiểu biết, tâm có được sự an trụ tạm thời, ở một mình xa lìa đại chúng, không tiếp xúc với nữ sắc, bèn tự cho rằng ta là A-la-hán, sinh tâm cao ngạo. Thời bấy giờ, chúng nhân nhiều người có lòng tin, bảo rằng đấy là A-la-hán nên cung kính cúng dường. Kẻ ngu si ấy cũng tham danh lợi nên thọ nhận mọi sự cúng dường, tự cho là mình có được pháp A-la-hán không dấy khởi các kết sử. Kẻ ấy thật chẳng rõ các pháp không phân biệt lại vui thích dấy sự phân biệt, lấy một sự dừng dứt nhỏ đối với các kết sử bèn cho là đắc đạo. Nếu đi vào các thôn xóm thì còn giữ gìn các pháp về oai nghi, còn ở nơi riêng lẻ một mình thì lại phóng túng buông thả, ở chỗ chúng hội cũng khác. Người ấy thích nuôi nhiều đệ tử có nhiều hiểu biết. Nhiều khi còn được các bậc quốc vương, đại thần cúng dường lớn lao, danh tiếng vang khắp được nhiều người yêu quý kính trọng. Các kết sử thật đã đầy dẫy mà tự cho là đã dứt sạch hết. Nếu được nghe các kinh điển nói về không, về sự tương hợp của các pháp hết sức thâm diệu như thế! Ta vốn ưa thích các đệ tử yêu kính nghe nhận mong được thông tỏ diệu nghĩa, đem tâm tôn kính để tu tập các pháp ấy, thế mà kẻ ngu si kia thì chẳng chịu tín thọ, lại chỉ muốn mang sự trái nghịch để bảo rằng: “Đấy chẳng phải là lời Phật nói, chẳng phải là giáo pháp của bậc Đại sư, chẳng phải chánh pháp, chẳng phải điều thiện.” Kẻ ấy ở nơi pháp thì dấy tưởng cho là phi pháp; ở trong phi pháp thì lại dấy tưởng cho là pháp; ở trong pháp bất thiện thì sinh tưởng cho là thiện; ở trong pháp thiện thì lại dấy tưởng cho là chẳng thiện.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Những kẻ ngu si ấy, theo chỗ các pháp mình cho là đạt được để tự khen ngợi, theo chỗ các pháp mình cho là không đạt được để chê bai khinh thị, tự đại kiêu căng coi thường kẻ khác.

Kẻ ngu si ấy như thế là chỉ có trì giới, nhiếp phục các niệm ở một chốn, dần dần điều phục tâm ác để được đọc tụng nghe rộng, nuôi nhiều đệ tử, được nhiều người tôn kính khen ngợi lễ bái nên sinh tâm kiêu mạn, ngã mạn cho mình là hơn hết. Đối với việc được nghe các kinh thâm diệu như thế thì đã dấy khởi nghiệp tạo nên tội nặng. Kẻ ngu si ấy đã không tự biết là mình có tội ấy, lại càng tăng thêm cái tâm ngạo mạn ngu si làm trái nghịch lại kinh kia, dấy lên tội nặng nên bị đọa vào các địa ngục lớn.

QUYỂN 9

Phẩm 30: Không thoái chuyển

Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

–Hôm nay Như Lai sẽ dứt trừ mối nghi của các vị, cũng khiến cho về sau này khi đọc tụng kinh ấy, người thuyết giảng và kẻ lãnh hội đều được dứt sạch nghi hoặc.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như Lai chính là bậc đã đạt được Nhất thiết trí, là người đã có được tri thức về tất cả cũng như thuyết giảng về tất cả, không pháp nào là không thấy, không nghe không biết, không pháp nào là không thông tỏ, thấu đạt cả ba đời không chút trở ngại.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Như Lai chính là bậc không gì hơn, không gì có thể so sánh, đối với tất cả các pháp thảy đều đạt được sự hiểu biết đúng đắn, an nhiên tự tại, không có chỗ nào phải quy ngưỡng. Như Lai nay muốn ở trong đại chúng tạo nên tiếng sư tử rống. Gác bỏ trường hợp kẻ ngu si hành động theo pháp của tà đạo, chẳng nên nói nhiều. Nếu các hàng thiện nam, thiện nữ phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thì đối với pháp ấy phải nên nhất tâm siêng năng thực hiện. Vì sao? Vì phải nên suy nghĩ như vầy: “Chư Phật trong vô lượng a-tăng-kỳ kiếp đã tập hợp các pháp Vô thượng Bồ-đề. Ta ở trong pháp ấy, nếu sinh biếng trễ, tất sẽ trở thành kẻ bất tín, trái nghịch, chẳng lãnh hội, chẳng có thể thông tỏ được.”

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát nếu thực hiện theo bốn pháp thì sẽ chính là kẻ hủy hoại các pháp Vô thượng Bồ-đề của chư Phật. Những gì là bốn pháp?

Nếu xa lìa bạn lành, gắn bó với hàng ác tri thức, chạy theo sở học của những hạng ấy để hủy hoại các pháp Đại thừa. Đó là pháp thứ nhất.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát do tri kiến đạt được của mình quá lầm chấp về tâm ngã, nên đối với việc nghe các kinh điển hết mực thâm diệu thì lại sinh tâm kinh sợ lớn nên bị rơi rớt vào chốn hầm hố sâu. Đấy là pháp thứ hai.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát theo học một cách lộn xộn các thứ kinh sách của ngoại đạo, xảo biện trong sự tranh luận khiến được nhiều người kính nể. Người ấy chẳng thể tự điều phục tâm mình, cũng lại không thể điều phục các pháp, do không thể chế ngự được nên chẳng đi theo nẻo Đại thừa. Đó là pháp thứ ba.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát hủy hoại những điều ngăn cấm, chẳng có thể thuận theo các giới luật do Phật chế ra, nghe các giới pháp thâm diệu thanh tịnh, tự tại ấy thì tâm chẳng thấu đạt, chẳng thể tin vui, mà lại trái nghịch chẳng thọ nhận. Đấy là pháp thứ tư.

Bồ-tát nếu đã có bốn pháp ấy thì chẳng thể tin thọ mà còn hủy hoại con đường giác ngộ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa ấy nên nói bài kệ:

Nếu gần tri thức ác
Cùng theo nẻo hành ấy
Nên chẳng thích Phật đạo
Phá hoại đạo Vô thượng.
Trộm học kinh sách ngoài
Xảo biện, ham tranh cãi
Mọi phát ngôn từ đấy
Đều là hủy hoại đạo.
Tuy tự xưng kẻ trí
Mà chính là người ngu
Do duyên buộc như vậy
Nên chẳng tin nẻo giác.
Nếu người tham đắm ngã
Theo sở kiến đạt được
Nghe các pháp thâm diệu
Mà sinh tâm kinh sợ
Người ấy chẳng thể rõ
Như thật không, tịch diệt
Chẳng thấu nẻo giác ngộ
Nên chẳng thể tin, vui.
Do từ duyên phá giới
Nên tạo nghiệp bất thiện
Chẳng thể thuận tu học
Giới luật theo Phật dạy
Ác khẩu cùng hai chiều
Thích nêu lỗi kẻ khác
Người như thế chẳng tốt
Ác nào mà chẳng làm!
Vì thế nên xa lánh
Kẻ chẳng tin Bồ-đề
Theo pháp chỗ ta khen
Thường nên dốc tu học
Nếu người muốn thấy Phật
Muốn rõ pháp như thị
Nên an trụ giữ giới
Từ đấy sinh trí tuệ.
Nếu người giữ giới tịnh
Tâm Bồ-đề vững chuyển
Do trì giới thanh tịnh
Dứt mọi sở kiến ác
Nên kẻ cầu Bồ-đề
Phải giữ giới nghiêm tịnh
Người ấy nơi Phật đạo
Mọi nghi nạn đều dứt.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát có bốn pháp nhờ đấy có thể hộ trì Phật đạo. Những gì là bốn pháp?

1. Tự mình thực hiện việc giữ giới, phát huy tâm thiện, an trụ trong giới.

2. Rộng nghe, gắng học đối với các sách vở chân chánh, không bị cuốn vào nẻo tà luận.

3. Nghe kinh pháp của Phật thì siêng năng đọc tụng.

4. Luôn có được sự an lạc ở nơi riêng lẻ, thuận theo hạnh xa lìa.

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát nếu thành tựu được bốn pháp như thế thì có đủ khả năng hộ trì Phật đạo.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ ý nghĩa ấy nên nói bài kệ:

Bồ-tát trụ trong giới
Không từ giới tự cao
Lại mong cầu pháp diệu
Quyết đạt nghĩa thâm huyền.
Đem pháp thâm sâu nhất
Cầu Vô thượng Bồ-đề
Chỉ tu chánh pháp Phật
Chẳng theo luận ngoại đạo.
Trọn chẳng thích đọc tụng
Kinh điển Lộ-già-da
Chẳng ưa Ky Thích Luận
Chỉ hộ trì pháp Phật.
Thường hành pháp tịch diệt
Vui trú xứ vắng lặng
Dứt mọi cảnh sắc dục
Nên tâm không loạn động.
Ta nay chỗ khen ngợi
Bốn pháp vi diệu ấy
Quyết thành tựu Phật đạo
Các vị nên tu học.
Ta ở trong các đời
Luôn hành theo pháp ấy
Đã hộ trì pháp Phật
Nên thành tựu đại trí.
Do hộ trí pháp Phật
Chẳng đọa nẻo xấu hèn
Thường sinh chốn tôn quý
Được nhiều người theo hầu.
Giàu sang lắm của cải
Mà chẳng hề phóng dật
Đem hết tạo phước đức
Biết tài sản vô thường.
Như thí là thuộc mình
Chẳng thí, mình chẳng được
Thân ta cùng tài sản
Mạng chung đều lìa bỏ
Nên được quyến thuộc thiện
Cũng được Thiện tri thức
Cha mẹ, các thân tộc
Đều an trụ pháp Phật
Thường vui hành pháp lành
Cùng khiến người tin vui
Do được niềm vui lớn
Nên ta tu chánh pháp
Luôn sinh nơi thế gian
Nhà sang giàu danh giá
Cuộc sống không phóng dật
Thường vui hành pháp lành
Nơi thân mạng, tài lợi
Chẳng sinh trưởng bền lâu
Chư Phật thật khó gặp
Xứ không nạn cũng khó
Gặp Phật dứt các nạn
Nên khởi lợi ích lớn.
Tâm thường thích xuất gia
Nhân đấy trí tuệ sinh
Tâm sinh hoan hỷ lớn
Mà cầu tuệ tối thắng
Luôn an trụ trong pháp
Phát khởi đạo Vô thượng.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát có bốn pháp, nhờ đấy mà tâm luôn vui vẻ, tu tập đạo pháp, tự đem lại sự an định, có thể tự giúp mình biết rõ là nhất định sẽ làm Phật, được chúng sinh trong mười phương biết đến. Những gì là bốn pháp?

1. Mọi sở hữu trong ngoài nên dốc hết để thi ân giúp đỡ.

2. An trụ trong giới luật, tu tập các công đức.

3. Ở nơi đám kẻ trí là bậc hết mực tôn quý không ai hơn, vì các pháp thâm diệu mà chẳng hề tiếc thân mạng.

4. Thấy có người đọc tụng kinh thâm diệu này thì nên tăng thêm sự cúng dường kính lễ, hộ trì.

Đạt được đầy đủ bốn pháp ấy thì tâm luôn được vui vẻ, có thể tự đem lại cho mình sự khích lệ lớn: “Ta nhất định sẽ thành tựu đạo quả Phật-đà, tôn hiệu được chúng sinh trong mười phương biết đến.”

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa ấy nên đọc bài kệ:

Thảy lìa mọi tài sản
An trụ trong giới tịnh
Tối thắng trong hạng trí
Chẳng nghi pháp không tịch
Nếu thấy người đọc tụng
Thọ trì cùng diễn nói
Kinh thâm diệu như thế
Cúng dường mọi an lạc.
Vì vậy Bồ-tát ấy
Hành đạo tâm luôn vui
Nên tự nhận làm Phật
Thường làm Thế Trung Tôn.
Như quá khứ, vị lai
Cùng chư Phật hiện tại
Đều bày lời thọ ký
Người tất sẽ giác ngộ.
Nếu người theo học ấy
Các pháp nơi chư Phật
Nên biết Bồ-tát đó
An trụ đạo Vô thượng.
Pháp ấy được Phật khen
Nẻo hành chư Bồ-tát
Người đó trụ trong pháp
Nên thành tựu Phật đạo.
Ví như dùng bình đất
Từ cao rơi xuống thấp
Khoảng giữa không gì ngăn
Nên biết tất vỡ nát.
Bồ-tát cũng như thế
Siêng tu tập đạo ấy
Khoảng giữa không kẻ phá
Tất sẽ thành quả Phật.
Ví như người đang dệt
Sợi dọc, ngang thứ lớp
Trong ấy đều thông suốt
Nên mau được thành tựu.
Bồ-tát cũng như vậy
Thường tu tập pháp ấy
Hành hóa không biếng trễ
Nên đạt đến quả Phật.
Nếu người nơi ruộng tốt
Gieo trồng cây ăn trái
Luôn chăm sóc bón, tưới
Dần khiến được tươi tốt
Theo thời mà nuôi giữ
Ngăn che gió, nóng, lạnh
Cây ấy dần thêm lớn
Hoa trái trĩu nhánh cành.
Bóng rợp thật mát mẻ
Khiến người vui dừng chân
Hoa trái đơm cho người
Vì người tạo lợi ích.
Bồ-tát cũng như thế
Trước gieo tâm Bồ-đề
Dần tu nẻo Bồ-tát
Học hỏi hạng đa văn
Theo lúc hành trí tuệ
Luôn giữ giới thanh tịnh.
Ngoài các pháp Bồ-tát
Đều thực hiện chẳng quản
Lần lượt trên nẻo ấy
Sẽ an tọa đạo tràng
Phá trừ đám quân ma
Đạt Vô thượng Bồ-đề.
Theo thời chuyển pháp luân
Khắp mọi nẻo thế gian
Dần độ thoát chúng sinh
Dẫn dắt vô lượng chúng
Bậc Đại trí như vậy
Phát tâm vô thượng ấy
Đời đời không thoái chuyển
Cho đến khi giác ngộ.
Vì thế, các vị nay
Nên dốc tu pháp ấy
Đến lúc sẽ thành Phật
Tùy thời chuyển pháp luân.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát có bốn pháp, nhờ đấy mà chung cuộc không hề thoái chuyển đối với đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Xả thân đương là Chuyển luân thánh vương để đạt được phước đức tùy ý. Có được thân tướng to lớn mạnh mẽ như Na-la-diên. Làm bậc Chuyển luân thánh vương lìa bỏ bốn cõi thiên hạ mà xuất gia cầu đạo. Đã xuất gia rồi nên được tự tại tu bốn pháp phạm hạnh, mạng chung được sinh lên cõi Phạm thế, là bậc Đại phạm thiên. Những gì là bốn pháp?

Này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát nếu trông thấy tháp miếu của chư Phật bị hư hại thì nên dốc sức tu sửa, thậm chí chỉ một ít đất đá hoặc hồ vữa. Đó là pháp đầu tiên cho đến khi được làm Đại Thiên vương.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát nếu ở những nơi ngã tư đường lớn nhiều người qua lại và xem thấy, xây dựng tháp miếu Phật, tạo lập các hình tượng, nhằm tạo duyên cho mọi người luôn nhớ nghĩ đến Đức Phật, cùng gây phước đức tốt đẹp. Như hình tướng của lúc chuyển pháp luân cùng xuất gia tìm đạo. Hoặc lúc ngồi nơi đạo tràng, hoặc lúc phá trừ đám ma quân, hoặc khi hóa hiện thần lực, hoặc lúc nhập Vô dư Niết-bàn, hoặc hình tướng từ trên cõi trời đi xuống cõi đời. Đấy là pháp thứ nhì, cho đến khi được làm Đại phạm Thiên vương.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát nếu thấy các vị Tỳ-kheo Tăng bị đổ vỡ vì hai bộ chúng tranh cãi, giận dữ nặng lời với nhau. Bồ-tát lúc bấy giờ phải dốc sức tìm kiếm phương tiện để giúp họ tạo lại sự hòa hợp cũ. Đó là pháp thứ ba, cho đến khi được làm Đại phạm Thiên vương.

Lại nữa, này Tôn giả Xá-lợi-phất! Bồ-tát nếu thấy Phật pháp sắp bị suy diệt, thì có thể dốc tâm đọc tụng, thuyết giảng, thậm chí chỉ một bài kệ, khiến cho đạo pháp không bị dứt duyệt, từ đấy siêng năng tu tập. Vì sự nghiệp hộ pháp nên luôn cung kính cúng dường các vị Pháp sư, chuyên tâm hộ pháp chẳng tiếc đến thân mạng mình. Đó là pháp thứ tư.

Bồ-tát nếu thành tựu được bốn pháp ấy thì đời đời thân mạng lưu chuyển được làm bậc Chuyển luân vương, có được thân tướng to lớn với sức mạnh như Na-la-diên. Lìa bỏ bốn cõi thiên hạ mà thực hiện việc xuất gia cầu đạo, đã xuất gia rồi thì được theo ý tu tập bốn pháp phạm hạnh, mạng chung thì được sinh lên cõi Phạm thế làm bậc Đại phạm vương.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ thêm ý nghĩa ấy nên đọc bài kệ:

Thấy tháp miếu Phật hư
Nên dốc công tu sửa
Bồ-tát từ nhân ấy
Sẽ được thân lực khỏe
Nơi ngã tư đường chính
Tạo dựng tháp miếu Phật
Nêu rõ phước tướng Phật
Khiến mọi tâm thanh tịnh.
Do được phước báo lớn
Tiếng thơm mãi lưu truyền
Quyến thuộc thêm đông đảo
Lắm người được xưng tụng.
Như thấy Tăng chúng suy
Lại cùng nhau tranh cãi
Tìm phương tiện hàn gắn
Khiến trở lại hòa hợp.
Do từ phước duyên ấy
Dũng mãnh không ai hơn
Đạt được thân lực khỏe
Khác nào Na-la-diên.
Thấy Phật pháp suy diệt
Không còn người tin thọ
Nên dốc tâm hộ trì
Chẳng tham tiếc thân mạng
Thấy kẻ hộ trì pháp
Thêm cung kính cúng dường
Làm chư Thiên hầu cận
Được chư Phật hộ niệm
Do từ nhân hộ pháp
Sẽ làm Chuyển luân vương
Đi khắp bốn thiên hạ
Đem pháp hóa muôn nơi
Tuy thống lãnh các nước
Mà không hề phóng dật
Nên chán ghét mọi dục
Lìa nước để xuất gia
Siêng tu tập Tứ Thiền
Đủ mọi lực thần túc
Tịnh tu bốn phạm hạnh
Thường vui các pháp lành
Nơi ấy khi mạng chung
Được sinh cõi Phạm thế
Trong hàng chư Phạm thiên
Được làm Tự Tại Vương
Bốn pháp thượng diệu ấy
Chư Phật luôn khen ngợi
Ta vốn là Bồ-tát
Cũng gần gũi dốc tu
Theo chỗ lãnh hội pháp
Như đấy mà tu tập
Đầy đủ đến bờ giác
Đạt Vô thượng Bồ-đề.
Nếu người dốc tu học
Nẻo đạo pháp ta đi
Đời đời luôn tôn quý
Sức lớn khó ngăn, hoại.
Thường được muôn người kính
Chư Thiên vương Đao-lợi
Cũng nơi cõi Dục giới
Được làm Tự Tại Vương.
Lại đến cõi Sắc giới
Mà làm Tự Tại Vương
Mọi chốn đều tôn quý
Ai chẳng hành đạo ấy?
Quyết trì giới nghiêm tịnh
Luôn tự xét hổ thẹn
Sở nguyện đều thành tựu
Trụ gốc mọi phước thiện
Siêng tu tập không quản
Hành đủ Nhẫn, Thiền định
Đạt đại trí vô thượng
Thông tỏ hết thảy pháp.
Trăm ngàn vạn ức loại
Vô lượng pháp phương tiện
Thảy đều được trọn nên
Chóng đạt mọi diệu nghĩa
Nên chỉ trong một câu
Nêu giảng nghĩa vô lượng
Mọi ngành nghề thiện xảo
Luôn đạt hạn tối thắng
Trí tuệ lớn thường đạt
Đủ mọi nẻo biện tài
Chuyên tâm hành Bồ-tát
Lìa bỏ kiến thức khác
Tâm hành lối chánh trực
Nên khéo tu chánh kiến
Nên được gặp chư Phật
Dứt sạch hết mọi nạn
Thừa ấy là hơn hết
Chỗ chư Phật ngợi khen.
Nơi Thừa vi diệu đó
Không ngăn kẻ lỗi lầm
Không ngăn bao kẻ mù
Cũng không ngăn người điếc
Cùng tàn tật trăm bệnh
Câm ngọng bao xấu xí
Cũng không ngăn khổ nghèo
Cùng kẻ ít phước đức
Chẳng ngăn tạo nghiệp ác
Nẻo ác, kẻ gây nhân
Ai nghe khen thừa ấy
Dứt hết thảy mọi ác
Mà sẽ chẳng tu học
Chỉ trừ kẻ thích ác.
Vì thế kẻ cầu trí
Nên cầu Phật tuệ ấy
Do tu học tuệ đó
Đạt các pháp giải thoát
Ta đời đời thân chuyển
Luôn sinh chốn tôn quý
Tướng đoan chánh, khỏe mạnh
Quyến thuộc luôn đông đủ
Ta chưa từng biếng trễ
Siêng tu tập tinh tấn
Luôn tịnh giữ giới luật
Thường nhất tâm tu tuệ
Thời quá khứ ta từng
Tu tập nẻo pháp thiện
Nên được nhận báo này
Các vị hãy xem đủ
Qua trăm ngàn vạn ức
Vô số na-do-tha
Nơi từng ấy thế giới
Trí ta tất thông đạt
Cũng thấu rõ trong ấy
Hết thảy tâm chúng sinh
Lại biết mọi nẻo hành
Cùng cõi sâu an lạc.
Ta rõ nẻo hợp kia
Đem tâm Bồ-đề hóa
Cũng biết điều phục tâm
Lại khiến tâm phấn tấn.
Ta dùng Phật nhãn xem
Tâm mọi loài thế gian
Biết chỗ nên giáo hóa
Cứu độ nẻo sinh tử
Tùy thời đến thuyết pháp
Giáo hóa chỉ dẫn nẻo
Hiện diệu lực thần thông
Khiến đều được vui vẻ.
Chúng sinh nếu tham đắm
Thân sắc cùng của cải
Chỉ rõ mọi lầm lỗi
Nhân ấy đạt Niết-bàn.
Nếu người bị buộc nặng
Dựa nơi các tà kiến
Cũng chỉ rõ nẻo chính
Khiến biết được lỗi lầm.
Theo chỗ chúng sinh quý
Đủ mọi thứ sắc hình
Ta liền vì hóa hiện
Chỉ rõ nẻo đường chính.
Người ấy đã được pháp
Tâm hoan hỷ thêm kính
Liền nghĩ rằng Phật ấy
Thương mình nên giáo hóa
Tức thì quy y ta
Lại quy y Thánh pháp
Sau đấy dần khiến đạt
Nhổ sạch mầm khổ não.
Vì người ấy thuyết pháp
Khiến được đạo tịch diệt
Người ấy nghe pháp ta
Dần dần đạt Niết-bàn
Như ta hiện nay vậy
Các pháp thảy vô ngại
Quá khứ và vị lai
Trí ấy cũng như thế.
Thân Phật rất cao lớn
Vượt quá mọi hạn lượng
Kẻ có đại thần lực
Tướng đỉnh cũng không thấy
Phật lực thật vô lượng
Cũng vượt mọi giới mốc
Do từ lực vô lượng
Bao trùm hằng sa cõi.
Những gì là Như Lai
Hình sắc tướng chân thật?
Hết thảy mọi chúng sinh
Không ai lượng tính nổi.
Nếu có chúng sinh đến
Muốn thấy hình sắc Phật
Liền thấy đủ mọi thân
Chẳng thể giữ tướng định
Thấy thân Phật biến hóa
Tâm hoan hỷ hết mực
Đủ mọi lời tán dương
Đó chính là lầm lạc.
Hết thảy mọi chúng sinh
Không thể thấy thân Phật
Cho đến dùng Thiên nhãn
Cũng không thể thấy được.
Các vị nay chỗ thấy
Thần thông Phật như thế
Thân tướng chân Phật ấy
Thật chẳng thể nghĩ bàn.
Nơi một chân lông Phật
Hiện diệu lực thần thông
Nẻo lợi ích chúng sinh
Hãy còn vượt bàn luận.
Nơi một lỗ chân lông
Phóng vô số ánh sáng
Chiếu khắp hằng hà sa
Vô lượng các thế giới.
Các vị nay khen ta
Thực ngồi nơi chúng hội
Trong mười phương thế giới
Mỗi mỗi nơi cũng vậy.
Ta dùng Nhất thiết trí
Nói lực trí tuệ Phật
Hãy còn chẳng thể tận
Huống chi chư Thanh văn
Chư Phật khó nghĩ bàn
Pháp cũng vượt bàn luận
Nếu người vững tin tưởng
Phước báo cũng khó bàn.

Bấy giờ trong chúng hội có một đồng tử bảy tuổi tên là Tuyển Trạch, từ chỗ ngồi đứng dậy chắp tay hướng về Đức Phật cung kính đọc bài kệ: Thế Tôn, con phát tâm

Nguyện sẽ như Pháp vương
Nghe pháp bất tư nghị
Mà tạo trang nghiêm lớn.
Thỉnh hết thảy chúng sinh
Mở hội pháp thí lớn
Tạo tiếng rống sư tử
Thành tựu mọi sở thuyết.
Thế Tôn, con từ nay
Hằng dứt tham gia quyến
Nay ở trong pháp Phật
Xuất gia tu chánh đạo.
Xuất gia, siêng tinh tấn
Cùng Thiền định, trí tuệ
Nên đạt chánh giác ấy
Nay con quyết tu học.
Con quyết cầu an lạc
Mong chóng được xuất gia
Cạo tóc, mặc pháp phục
Luôn tu tập chánh pháp
Sẽ đem lực tri kiến
Chọn lựa thế giới này
Con sẽ là Thế Tôn
Mong được cho xuất gia.
Con dứt tưởng chúng sinh
Do không có chúng sinh
Thông đạt được pháp ấy
Sẽ vì chúng sinh thuyết.
Trừ diệt chúng quân ma
Khiến chúng ngoại đạo sợ
Xua tan lưới tà kiến
Đem lợi lớn muôn loài
Hành hóa đạo an lạc
Mong đạt đến Niết-bàn
Đạo ấy tướng vô sinh
Nên chẳng thể nghĩ bàn
Đoạn trừ bao tối tăm
Ánh sáng pháp tỏa khắp
Sẽ thuyết pháp như thật
Theo tánh tướng các pháp
Đạt diệu lực thần thông
Hiện mọi sự hy hữu
Chúng sinh nếu được thấy
Dần dứt hết mọi nghi.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Đồng tử Tuyển Trạch:

–Lành thay! Lành thay! Này Đồng tử! Con đối với pháp của ta mong được xuất gia chăng?

Đồng tử Tuyển Trạch thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Đúng vậy!

Như Lai liền đọc bài kệ:

Tuy không mặc áo nhiễm
Tâm không chút nhiễm vướng
Chính ở nơi pháp Phật
Đúng là hàng xuất gia.
Tuy chẳng lìa trang sức
Mà dứt hết trói buộc
Tâm không buộc không mở
Đúng thực hàng xuất gia.
Tuy chẳng thọ giới cấm
Tâm luôn lìa mọi ác
Định tuệ ở đức hạnh
Đúng thực hàng xuất gia.
Tuy chẳng thọ trì pháp
Nên hoại được các pháp
Lìa hết thảy tướng pháp
Đúng thực hành xuất gia.
Như chẳng phân biệt ngã
Cũng chẳng chấp chúng sinh
Mà tâm không thoái chuyển
Đó là phát Bồ-đề.
Như phát tâm Bồ-đề
Chẳng chấp tướng tâm tận
Vô đắc mà chẳng động
Người ấy chẳng thể hoại.

Lúc này, Tôn giả Xá-lợi-phất bèn suy nghĩ: “Hôm nay vị đồng tử này đã phát nguyện lớn và nguyện ấy như đã chờ đợi từ lâu. Đức Thế Tôn đã vì đồng tử ấy mà nói về pháp hết mực thâm diệu.” Tôn giả Xá-lợi-phất liền đọc bài kệ hỏi Phật:

Đồng tử Tuyển Trạch này
Chốn hành hóa nhiều ít
Nghe pháp thâm diệu ấy
Mà tâm không kinh sợ?
Người đó ở đời trước
Từng gặp bao Đức Phật
Nghe pháp thâm diệu này
Bèn có thể tin thọ?
Từng theo bao Như Lai
Nghe pháp sâu như thế
Nay nghe Thế Tôn nói
Mà tâm không thoái chuyển?”

Tức thì Đức Thế Tôn dùng kệ đáp lại:

“Đồng tử Tuyển Trạch ấy
Từng ở thế giới này
Theo vô lượng chư Phật
Nghe pháp thâm diệu đó.
Ta rõ Đồng tử đây
Nước Ưởng-già-ma-la
Chỗ nghe các pháp Phật
Tu tập Bồ-tát đạo
Nên thông tỏ mọi nẻo
Ấm, Giới cùng các Nhập
Rõ ba cửa giải thoát
Là Xứ, và Phi xứ
Ca-thi Kiêu-tát-la
Trong ấy chốn nghe pháp
Ta thảy đều nhận biết
Cũng như ở hai nước
Đồng tử Tuyển Trạch ấy
Đạt được trí giải thoát
Pháp lành mau tăng trưởng
Nên được trí như vậy
Toán số cùng các nghề
Cùng sách vở thế gian
Mọi nẻo trí thức ấy
Thảy đều không quên mất.
Hết thảy trí thế gian
Đều luôn được ghi nhớ
Nên trí tuệ xuất thế
Rõ mọi pháp là không
Nếu người thông tỏ được
Tướng không tất cả pháp
Trải qua vô lượng kiếp
Trọn không mất trí ấy
Đó là trí tuệ lớn
Diệt được mọi phiền não
Kẻ vui trí không đó
Nơi các pháp dứt nhiễm.

Lúc này, Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi Đồng tử Tuyển Trạch:

–Đồng tử ở nơi pháp Phật muốn được xuất gia chăng?

Đồng tử Tuyển Trạch thưa:

–Con chẳng muốn xuất gia. Con nay đã là xuất gia rồi vậy!

Tôn giả Xá-lợi-phất bèn dùng kệ hỏi:

Ta nay chẳng thấy người
Thân mặc đủ pháp phục
Râu tóc cũng chưa cạo
Sao lại gọi xuất gia?
Ông chưa có bình bát
Hòa thượng, A-xà-lê
Lại chưa thọ giới luật
Làm sao gọi xuất gia?
Nơi chúng nào thọ giới
Ai là bậc Yết-ma
Như trong pháp Phật ấy
Pháp xuất gia theo đúng?
Ông chưa có đủ việc
Làm sao gọi xuất gia?
Mọi câu hỏi như thế
Mong sẽ được đáp lại.”

Đồng tử Tuyển Trạch dùng kệ đáp:

“Như chẳng chấp ca-sa
Chẳng chấp phi ca-sa
Chẳng bỏ chẳng nhận pháp
Mới thực mặc ca-sa.
Con thọ trì ca-sa
Chẳng sinh mọi ưu não
Y ấy tịnh, dứt cấu Con luôn mặc áo đó.
Đoạn trừ mọi kết sử
Chính là cạo tóc râu
Do dùng tuệ lực dứt
Nên sau chẳng dấy lại.
Ứng khí con khó bàn
Nhận hết thảy các pháp
Chẳng đầy cũng chẳng giảm
Luôn giữ các pháp thiện.
Con tự hành pháp thiện
Trọn chẳng nhận nơi ngoài
Thành tựu Nhất thiết trí
Là thọ giới Cụ túc
Phật là Yết-ma con
Xem hết thảy các pháp.
Luôn tu tập Phật đạo
Gần gũi nơi chư Phật
Đấy là con xuất gia
Cũng là giới pháp con.
Chính là Y Bát con
Cũng là bậc Yết-ma,
Nẻo hành con vô lượng
Nơi pháp quý tạo nghiệp
Từ quốc độ Phật này
Đến quốc độ Phật khác
Yên ở nơi đạo tràng
Hành thí bất tư nghị
Con trọn chẳng riêng thọ
Luôn cùng vô lượng chúng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bèn nhìn chăm chú vào người Đồng tử Tuyển Trạch, tức thì râu tóc nơi thân Đồng tử liền được cạo sạch, y ca-sa mặc vào như vị Tỳ-kheo mới được cạo tóc. Bảy ngày sau thì chứng được năm thứ thần thông, liền ở nơi chốn ấy hốt nhiên biến mất.

Khi ấy, đại địa chấn động khắp thế giới này khiến chúng sinh lo sợ. Trống trời tự nhiên kêu vang, hàng trăm ngàn thứ kỹ nhạc cùng lúc được hòa tấu, có ánh hào quang lớn tỏa chiếu khắp trời đất.

Lúc này Đức Thế Tôn mỉm cười. Vô số loại màu sắc kỳ diệu cùng với vô lượng ánh sáng rực rỡ từ nơi miệng Đức Thế Tôn phát ra, chạy vòng quanh khắp thế giới ba lần rồi trở lại nhập vào nơi đỉnh Nhục kế.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan đứng dậy, vắt một vạt y, để trần vai bên hữu, chắp tay hướng về Đức Phật, dùng kệ hỏi:

Điều Ngự Sư tối thắng nơi chúng
Nẻo phước đức tôn quý vòi vọi
Trí tuệ thông tỏ không chướng ngại
Nay hỏi Bậc Giác Ngộ vô thượng
Thế Tôn duyên gì mà mỉm cười?
Phật chẳng cười dối tất có nhân
Ai nên theo Phật được thọ ký
Mong được Thế Tôn dứt nghi con?
Thế Tôn từ miệng phóng hào quang
Sáng tỏ chiếu khắp mọi thế giới
Chạy vòng quanh thế giới này
Lại trở về nhập ở đỉnh thượng
Sẽ vì người nào tạo lợi ích
Ai nơi Phật tuệ được thọ ký
Nên khiến Thế Tôn hiện nụ cười
Hào quang lớn tỏa thế giới Phật
Thế giới ấy nay đều trang nghiêm
Hết thảy chúng sinh đều hoan hỷ
Mà tâm an tĩnh chẳng phóng dật
Hiện diệu lực thần thông như thế?

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Tôn giả nay có thấy Đồng tử Tuyển Trạch thân mặc pháp phục, ở nơi chốn này hốt nhiên không còn thấy nữa chăng?

Tôn giả A-nan thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Con có thấy.

Đức Phật bảo:

–Tôn giả A-nan nên biết! Hiện nay vị Đồng tử ấy, ở cõi này đã diệt độ rồi, và đã xuất hiện ở thế giới Diệu hỷ, quốc độ của Đức Phật A-súc. Cho đến hết thọ mạng ấy luôn tịnh tu phạm hạnh, liền ở nơi thân đó tiếp tục tăng thêm thọ mạng. Như Thiên đế Thích Đề-hoàn Nhân ấy liền ở nơi thân hiện tại mà tăng thêm thọ mạng, Đồng tử Tuyển Trạch cũng dùng thân đó từ một cõi Phật này đi đến một cõi Phật khác, và nơi các quốc độ ấy đều tiếp tục tăng thêm thọ mạng của mình, như thế cứ lần lượt chuyển biến trải qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp chưa từng xa lìa Phật. Ở nơi cõi chư Phật đều dùng hiện thân ấy để tiếp tục tăng thêm thọ mạng. Trải qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp, về sau này sẽ đạt đạo quả Vô thượng Bồ-đề, thành Phật hiệu là Đại Trí Tuyển Trạch, thế giới của Đức Phật ấy tên là Thường Chiếu Minh.

Này Tôn giả A-nan! Chúng sinh ở thế giới đó đều từ hóa sinh mà có chứ không theo con đường thọ thai, thảy đều ở trên đóa hoa sen ngồi theo lối kiết già. Quốc độ của Đức Phật ấy có đủ vô số các thứ phước đức trang nghiêm kỳ diệu như vậy.

Này Tôn giả A-nan! Bồ-tát có bốn pháp, nhờ đấy thân mạng chuyển đổi sẽ làm hàng Thiện lai Tỳ-kheo, trọn không thọ thai, chỉ hóa sinh từ hoa sen và liền ở nơi thân hiện tại mà tiếp tục tăng thêm thọ mạng của mình. Những gì là bốn pháp?

Tự vui thích xuất gia tu học cùng khuyến khích người khác thực hiện việc xuất gia.

Cũng vì nhân duyên hỗ trợ cho việc xuất gia ấy, nên khi người kia đã xuất gia thì gì đấy mà thuyết pháp chỉ dẫn đem lại sự vui vẻ thích thú. Đó là pháp thứ nhất.

Lại nữa, này Tôn giả A-nan! Bồ-tát tự mình có thể siêng năng thực hiện việc cầu pháp nơi chư Phật, cũng giáo hóa người khác làm công việc cầu pháp như mình. Đó là pháp thứ nhì.

Lại nữa, này Tôn giả A-nan! Bồ-tát tu thực hiện các hạnh nhu hòa nhẫn nhục, cũng giáo hóa kẻ khác khiến họ an trụ trong pháp nhẫn ấy. Đó là pháp thứ ba.

Lại nữa, này Tôn giả A-nan! Bồ-tát tự mình có thể học tập thực hiện các phương tiện để phát nguyện lớn, cũng giáo hóa người khác khiến họ thực hiện các phương tiện cùng phát nguyện lớn. Đấy là pháp thứ tư.

Này Tôn giả A-nan! Bồ-tát nếu thành tựu được bốn pháp ấy, thì trong quá trình thân chuyển đổi sẽ làm Thiện lai Tỳ-kheo, trọn không theo nẻo thọ thai mà đều từ hoa sen hóa sinh, liền ở nơi thân hiện tại mà tiếp tục tăng thêm thọ mạng.

Lại nữa, này Tôn giả A-nan! Bồ-tát nếu thành tựu được bốn pháp, thì chung cuộc không hề bị thoái chuyển hay mất đi đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Những gì là bốn pháp?

1. Bồ-tát kiên cố dốc phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

2. Luôn vui thích được thấy Phật.

3. Nghe pháp không chán

4. Luôn thể hiện ngôn ngữ chân thật không ưa lối dối trá.

Này Tôn giả A-nan! Bồ-tát nếu thành tựu được bốn pháp ấy thì đối với đạo quả Vô thượng Bồ-đề, chung cuộc không hề thoái chuyển.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ ý nghĩa ấy nên nói bài kệ:

Kiên cố quyết phát tâm
Thường vui thấy chư Phật
Nghe pháp không hề chán
Luôn giữ lời chân thật.
Thấy chúng sinh khổ não
Sinh lòng thương sâu xa
Rõ tâm mọi chúng sinh
Thuận hợp mà thuyết pháp.
Người ấy thường nghe pháp
Tâm kia không biết chán
Luôn tinh tấn tu tập
Nên trí tuệ tăng trưởng.
Thường vì kẻ thành tín
An trụ trong lời thực
Mọi ngôn thuyết tỏ bày
Trọn không chút lầm lạc.
Như nơi bốn pháp ấy
Theo thời mà tu học
Sẽ được đạo quả Phật
Chuyển pháp luân vô thượng
Ta nói trong pháp đó
Đạt phước báo vô lượng
Ai nghe được pháp ấy
Mà không chịu tu học!

Lại nữa, này Tôn giả A-nan! Đại Bồ-tát, nếu thành tựu được bốn pháp, thì trọn không khi nào quên mất đạo quả Vô thượng Bồ-đề, luôn được chư Thiên, Long, Thần đều đến khuyến trợ, luôn không lìa nơi phước điền của các bậc Thánh hiền. Nếu không có các bậc Thánh hiền thì liền ở nơi chúng hội tự làm phước điền. Những gì là bốn pháp?

1. Đại Bồ-tát luôn siêng năng hành hóa không hề biếng trễ giáo hóa chúng sinh, khiến họ phát tâm cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề.

2. Siêng năng thực hiện không biếng trễ việc cúng dường Như Lai, nhằm cầu được chánh pháp.

3. Đem tâm tôn kính ấy cúng dường các bậc Pháp sư.

4. Như thấy chúng sinh luôn bị bao nỗi khổ não sợ hãi vây buộc thì đem pháp Vô úy bố thí cho họ. Này Tôn giả A-nan! Bồ-tát nếu thành tựu đủ bốn pháp ấy thì đời đời không hề mất chánh niệm đối với đạo quả Bồ-đề.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lập lại ý nghĩa vừa nêu nên nói bài kệ:

Cúng dường chư Phật
Tôn kính Phật pháp
Cũng đem tâm kính
Cúng dường Pháp Sư
Thấy bao khổ não
Chúng sinh sợ hãi
Liền thí vô úy
Cứu mọi khổ não
Do căn lành ấy
Thường được thấy Phật
Thiên thần khuyến trợ
Luôn siêng tu tập
Nếu chẳng thấy Phật
Cùng đệ tử Phật
Hay Bích-chi-phật
Phước điền các Thánh
Nên tự xuất gia
Tu trích tịch diệt
Nhập sâu thiền định
Dấy năm thần thông
Đạt được thần thông
Đến khắp thế giới
Vào nơi thôn xóm
Khiến chúng theo pháp
Chúng sinh được nghe
Lìa nẻo bất thiện
Không khởi nghiệp ác
Chuyển tướng kính thuận
Chúng sinh từ đấy
Đều được an lạc
Nhờ pháp quý đó
Ta cũng như thế
Người tự hành pháp
Được phước đức ấy
Tự lợi, lợi người
Ai chẳng hành thiện?
Nên cầu Phật đạo
Nên hành pháp ấy
Trọn luôn gần Phật Trí
chẳng nghĩ bàn.
Ta vốn tu pháp ấy
Độ phước lành giải thoát
Thông tỏ được pháp đó
Đạt Vô thượng Bồ-đề.
Ta chính Bậc Thế Hùng
Cũng tối thắng thế gian
Lại trao cho thế gian
Trí tuệ vô thượng diệu.

Này Tôn giả A-nan! Do từ nhân duyên ấy, nên biết rằng Bồ-tát có khả năng thực hiện pháp ấy đem lại lợi ích cho chúng sinh, chính nhờ đấy mà có thể tu tập đầy đủ các pháp Phật.

Này Tôn giả A-nan! Về thời quá khứ, trải qua vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp, ở cõi Diêm-phùđề này có một vị đại Quốc vương tên là Phương Âm vương, phu nhân của nhà vua sinh được một Thái tử. Bấy giờ, các Thiên thần cùng cất tiếng nói lớn: “Con người sẽ hành hóa các pháp lành nay đã xuất hiện ở đời!”

Nhà vua nghe âm thanh ấy tức thì lo sợ cho là điều lạ lùng! Thế nào là pháp? Thế nào gọi là phi pháp?

Này Tôn giả A-nan! Vị vương Thái tử ấy ngày một khôn lớn cho tới năm được được bảy tuổi, đã đi đến chỗ vua cha, cung kính đảnh lễ bái ngang chân cha, rồi lui ra đứng một bên, hỏi vua cha rằng: “Thế nào là pháp? Thế nào là công đức pháp?”

Lúc ấy, vua Phương Âm Vương đã dùng kệ đáp:

Hành thí, trì giới, đoạn ái dục
Hành nhẫn vững trụ các phước lành
Lìa giết, trộm, dâm, những bất thiện
Đó là pháp chư Thánh khen ngợi.”

Bấy giờ, Thái tử dùng kệ hỏi:

Cha mẹ từng nói pháp
Như tại nhà, trị nước
Được thiện hiện khắp chăng
Mong đáp rõ nghĩa ấy?
Thực hiện được, chẳng được
Kính mong đáp như thật
Lời thật vượt nẻo ác
Chẳng sợ đọa địa ngục.
Vọng ngữ đọa nẻo ác
Sẽ nhận khổ vô gián
Vì thế chớ vọng ngữ
Vì con nói như thật.

Lúc ấy, vua cha Phương Âm Vương dùng kệ đáp lời con:

“Như tại nhà trị nước
Chẳng thể đủ các thiện
Dao gậy bức hại người
Trong ấy có pháp gì?
Nếu người chẳng theo mệnh
Ta giận buông lời ác
Cưỡng đoạt tài vật người
Tăng biện pháp cấm, trị.
Ta nếu đi dạo xem
Dân chúng tất sợ hãi
Đều nghĩ vua nay xuất
Chúng ta gặp tội gì?
Nếu ta nơi chánh tọa
Có quan dẫn tội nhân
La liệt nơi trước ta
Nói vua theo ý trị
Ta xét kỹ tội lỗi
Tức thì tăng hình phạt
Do chỉ vì việc khác
Tự gây tạo mọi tội
Nếu buông lỏng sẽ hại
Cõi nước ắt loạn lạc
Nên ta theo pháp dữ
Dân chúng tất sợ hãi
Cho vua rất uy nghiêm
Rất ác chẳng thương xót!
Ai sẽ trụ nước này
Dám chẳng theo giáo lệnh?”
Giờ Thái tử Pháp Hành
Theo vua nghe kệ ấy
Sinh tâm chán, thưa cha:
“Con muốn hành đủ pháp
Con chẳng tham ngôi nước
Vì người tạo nghiệp tội
Sẽ xa lìa cha mẹ
Xuất gia siêng tu pháp
Nếu vua cha không thuận
Con nay sẽ tự hại
Độc dược, nhảy từ cao
Hoặc dùng đao tự sát.”
Vua nghe con thề thốt
Liền nặng ưu sầu bảo:
“Con tùy ý tự vui
Ta sẽ lo trị nước
Cho con nhiều tài sản
Chơi đùa mọi rừng, quán
Sao lại bỏ, xuất gia?
Bị người khác chê cười!
Cùng lớn thọ năm dục
Đến già hãy xuất gia
Mạng dục khó giữ, tin
Gắng chớ sinh tâm chán.”
Đáp rằng: “Thọ dục lạc
Không chán, thêm giận phiền
Xuất gia lìa mọi uế
Luôn tu hạnh từ, hỷ
Riêng nơi chốn vắng lặng
Ở đấy tịnh lạc hiện
Sẽ nương tựa chốn đó
Giữ giới tu phạm hạnh.
Vua nên cùng xuất gia
Nước, dân chúng ích gì
Vì người tạo nghiệp ác
Tự nhận khổ địa ngục
Luôn nuốt thỏi sắt nung
Cùng uống nước đồng sôi
Hành tà gây nghiệp tội
Quanh quẩn chốn địa ngục
Đinh sắt đóng vào thân
Sắt nung buộc quanh người
Lại dùng trâu cày sắt
Cày xới nát thân hình.
Ngục tốt thật đáng sợ
Mắt xanh mà đầu vàng
Dẫn người đến vạc dầu
Chĩa sắt xoay chuyển khắp.
Trải qua ngàn vạn năm
Chịu đủ mọi khổ não
Do nghiệp tội sâu nặng
Mong chết cũng không được!
Nếu từ vạc dầu ra
Lại vào hầm lửa lớn
Thân ấy lửa dữ bốc
Như đốt rừng tre khô.
Nếu ra chốn hầm lửa
Liền rơi trên núi lửa
Từ núi lửa rớt xuống
Lại gặp hầm phân nhơ.
Trong ấy lửa sôi sục
Ngậm sắt, thân trùng rỉa
Vô lượng ức ngàn năm
Chìm nổi luôn trong đó.
Hoặc thoát khỏi nơi ấy
Lại vào rừng tre gai
Lửa dữ cháy sáng rực
Than hồng luôn đốt thân.
Lúc vào rừng dữ đó
Bốn bề gió bùng lên
Khua vang cả rừng rậm
Đâm cứa vào thân thể.
Hoặc từ đấy thoát ra
Liền đưa tới rừng đao
Cành lá như kiếm kích
Giáo mác cùng đao, mâu.
Vừa vào tới rừng này
Ba bốn bề giáo dữ
Mưa trút bao mãi nhọn
Cắt từng khúc thân hình.
Đao kiếm tuôn như thế
Luôn băm vằm thể xác
Vô lượng ức ngàn năm
Luôn chịu bao khổ độc.
Như ra được nẻo ấy
Liền rớt xuống sông tro
Da thịt thảy cháy hết
Chỉ còn nắm hài cốt
Trải qua vô lượng năm
Nhận đủ mọi khổ não.
Hoặc được ra khỏi đấy
Lại vào dòng đồng sôi
Nước đồng nung lênh láng
Sóng dập tiếng vang xa
Xoay chuyển trăm ngàn vòng
Sóng lớn thêm dồn dập.
Hào địa ngục chảy quanh
Tội nhân cuộn vào đấy
Lúc vừa mới rơi xuống
Sóng dữ phủ trùm lên
Chẳng biết đâu bờ đáy
Cứ chìm nổi giữa dòng.
Hoặc từ đó được ra
La-sát đứng nơi bờ
Mắt vàng răng dài nhọn
Liền túm lấy trói chặt
Tra khảo rồi lại hỏi:
“Ngươi mong muốn điều gì?”
Đáp rằng: “Tôi đói quá
Chỉ cần được ăn uống”
Tức thì loài quỷ dữ
Đặt sắt nung lên đất
Bảo nuốt thỏi sắt kia
Đốt cháy sạch gan ruột
Trong ngoài đều những lửa
Xa trông dòng sông tro
Cho là dòng suối mát
Vội chạy tới lao đầu
Nếu thoát được cảnh này
Lại vào chốn đất phẩn
Núi đao cùng hố lửa
Luân chuyển bao cảnh khổ.
Vua giàu sang vô thường
Không lâu sẽ tán hoại
Thân mạng cùng ngôi vị
Phật dạy đều vô thường.
Nên sẽ nhận lời con
Bỏ nước cùng xuất gia
Mạng chung sẽ sinh Thiên
Cũng được lìa ba khổ.
Xuất gia nơi vắng vẻ
Tu tịnh giới, thiền định
Thường vui hạnh Từ bi
Cùng tu không, tịch diệt.

Bấy giờ sẽ tự biết:

Không có gì sánh bằng

Được an lạc tịch diệt

Cũng như Đại phạm vương.”

Thái tử nói như vậy

Vua cùng với phu nhân
Và hết thảy người thân
Không một ai ngăn ngại.
Vương tử được xuất gia
Cầu pháp tu thiền định
Được đủ năm thần thông
Vì mọi người thuyết pháp.
Tu tập, tâm tịch diệt
Giảng nói không, vô ngã
Các pháp không buộc, cởi
Luôn giảng pháp như thế
Mọi người nay đều nên
Nhất tâm pháp chánh quán
Trong ấm, giới, nhập ấy
Nào có ngã, ngã sở?
Trăm ngàn ức chúng sinh
Nghe pháp bèn xuất gia.
Vua cha cùng Phu nhân
Cũng theo pháp xuất gia
Người ấy xuất gia rồi
Phát nguyện lớn như vầy:
“Nẻo Vương tử cầu pháp
Tôi nguyện đều đạt được.
Theo học Bồ-tát ấy
Đều phát tâm Vô thượng
Thuận hợp chốn giảng pháp
Thánh Phật nhập Niết-bàn.”
A-nan, Vương tử đó
Cầu pháp độ cha mẹ
Khiến trụ nơi pháp Phật
Là người nào khác chăng?
A-nan! Chớ nghĩ thế
Đấy chính ta hiện nay.
Vì chúng tạo lợi lớn
Khiến trụ trong Phật đạo
Ta từ lúc phát tâm
Luôn dốc tâm cầu pháp
Tinh tấn sức vững bền
Trọn không chút biếng trễ
Ta thường tu pháp ấy
Tâm chưa hề mỏi mệt
Không một chút hồ nghi:
“Sẽ đắc Phật đạo chăng?”
Luôn vui đạo Bồ-đề
Nên tu tập tinh tấn
Đem tâm vui cầu pháp
Nên được tuệ tối thắng
Nếu người cầu Bồ-đề
Nên tu học như ta
Trọn chẳng hề thoái chuyển
Thành Phật chuyển pháp luân.

Phẩm 31: Cầu pháp

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Bồ-tát có bốn pháp, nhờ đấy các pháp được nghe thuyết giảng đều thông đạt diệu nghĩa của chúng, có thể đạt được trí tuệ nên đủ sức để thọ nhận các pháp ấy, có được chánh niệm bền chắc để nắm được diệu nghĩa của pháp. Những gì là bốn pháp?

1. Dấy khởi sự siêng năng tu tập cầu các kinh pháp hết mực thâm diệu như thế.

2. Đã có được pháp ấy thì theo như chỗ thuyết giảng mà an trụ.

3. Tự mình đã đứng vững nơi pháp ấy thì nên khuyến khích dẫn dắt khiến cho nhiều chúng sinh cũng được đứng vào trong pháp đó.

4. Đã cùng đứng vững nơi pháp rồi thì nên vì họ mà nêu bày giảng giải chỉ dẫn đem lại lợi lạc vui thích.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ ý nghĩa ấy nên đọc bài kệ:

Bồ-tát cầu pháp diệu
Nên được lạc vô thượng
Chưa được pháp như vậy
Trọn không chút biếng trễ
Nghe pháp thâm diệu đó
Nơi chốn riêng tư duy
Nẻo pháp được lãnh hội
Luôn nhất tâm tu học.
Siêng giáo hóa người khác
Khiến được trụ như mình
Chẳng những chỉ ngôn thuyết
Còn thân hành dẫn dắt.

Lại nữa, này Tôn giả A-nan! Đại Bồ-tát vì muốn có được pháp ấy nên luôn thuận theo bậc Pháp sư, suy nghĩ như thế này: “Ta vốn chưa được nghe, biết về pháp ấy. Nếu làm trái đi thì sẽ không có được cái lợi lạc của pháp đó.”

Bấy giờ, Đức Thế Tôn liền đọc bài kệ:

Nếu có bậc Đa văn
Luôn gần gũi thuận hợp
Xem đấy như Pháp vương
Do vì tu tập pháp
Ta chưa được nghe pháp
Chẳng rõ được diệu nghĩa
Nhân duyên hoặc sai trái
Sẽ mất lợi pháp ấy.
Đem tinh tấn bền chắc
Lìa bỏ hết thảy dục
Thường cầu pháp quyết định
Tăng trưởng được trí tuệ
Gần gũi bậc Trí thức
Nghe nhiều cùng thấy rộng
Được mọi người tôn kính
Hộ trì được kinh ấy.

Lại nữa, này Tôn giả A-nan! Đại Bồ-tát theo chỗ pháp mình đã được lãnh hội, nên vì mọi người mà thuyết giảng rộng khắp nhưng không hề làm thương tổn đến pháp ấy.

Này Tôn giả A-nan! Thế nào gọi là làm thương tổn đến pháp? Như có vị Tỳ-kheo tham đắm về tăm tiếng, y phục, đồ ăn uống đồ nằm, thuốc men cùng nhiều thứ lợi dưỡng khác, lại vì nhiều người mà thuyết giảng, khen ngợi về sự thuận theo các pháp tu Đầu-đà, về sự giữ giới thanh tịnh hay các pháp tương hợp với không rất thâm diệu, nhưng bản thân mình thì không theo đấy mà tu hành. Đó chính là Tỳ-kheo đã làm thương tổn đến chánh pháp.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ nghĩa ấy nên nói bài kệ:

Bồ-tát nghe pháp ấy
Vì đại chúng giảng khắp
Nẻo hành nên như Phật
Chớ làm hại đến pháp.
Chớ vì chuyện lợi dưỡng
Cũng chớ vì xưng tán
Luôn đem tâm Từ bi
Mà nói pháp vô thượng.
Nơi chúng sinh khổ não
Phát tâm Từ bi lớn
Nên dốc tâm thuyết pháp
Đem lợi lạc muôn loài.
Nếu người nhằm lợi dưỡng
Vì đại chúng thuyết pháp
Do dựa nơi tục lợi
Chính là làm hại pháp.
Nên thuận theo kẻ trí
Như chỗ thuyết tu học
Chẳng làm hại đến pháp
Đó là hộ trì pháp
Chư Thế Tôn mười phương
Đều ngợi khen người ấy.
“Lành thay! Thuyết pháp giỏi
Lại trụ nơi pháp đó.”

Lại nữa, này Tôn giả A-nan! Đại Bồ-tát như lúc cầu pháp, đối với Pháp sư không nên có những thái độ như nhìn ngó không tốt, nhăn nhó, coi thường, ngạo mạn, nói chung là những lỗi như thế, mà phải luôn tạo được sự thuận hợp để dốc tâm cầu pháp.

Này Tôn giả A-nan! Bồ-tát làm thế nào để có được sự thích ứng trong khi cầu pháp? Nếu các bậc sư trưởng đúng như pháp mà chỉ giáo, giao phó thì an trụ trong ấy để thực hiện đầy đủ các pháp và tăng thêm sự tinh tấn tu tập. Lại đem các thứ y phục đồ ăn uống, đồ nằm cùng thuốc men và những thứ cần dùng khác để cúng dường Pháp sư, các bậc sư trưởng. Đó gọi là Bồ-tát tạo được sự thích ứng trong việc cầu pháp.

Bấy giờ Đức Thế Tôn đọc bài kệ:

Bồ-tát lúc cầu pháp
Không tìm lỗi pháp sư
Làm theo lời chỉ dạy
Cùng an trụ trong pháp
Bồ-tát lúc cầu pháp
Nên trụ đúng lời dẫn
Như pháp mà cầu pháp
An trụ trong pháp ấy.
Vì thế kẻ cầu pháp
Nên trụ như lời dạy
Đó chính là pháp đầu
Nên hành theo đúng lời.
Do chứng được tịch diệt
Như ta từng thuyết giảng,
Ta vốn học pháp ấy
Nên đạt quả Bồ-đề.
Luôn cố gắng cầu pháp
Nơi pháp sinh tâm kính
Theo chỗ pháp được nghe
Nên sinh tưởng Thế Tôn.
Suy nghĩ như thế này:
“Đấy là Đại sư ta
Người ấy khai dẫn ta
Khiến trụ trong chánh đạo
Đó là Thế Tôn ta.”
Tâm luôn thêm cung kính
Từ nhân Đại sư ấy
Lìa bỏ nơi tục lạc.
A-nan phải nên biết
Về thời quá khứ xa
Quá vô lượng, vô biên
Chẳng thể nghĩ bàn kiếp
Có Phật hiện ở đời
Hiệu Tu-di Sơn Vương
Sau khi Phật diệt độ
Đệ tử Vi-tu-la
Căn lợi, trí tuệ lớn
Vì chúng thuyết giảng pháp
Thông tỏ nghĩa thâm diệu
Rõ mọi ấm, giới, nhập
Giới tịnh đạt bờ giác
Phân biệt A-tỳ-đàm
Siêng tu pháp ba học
Giữ vững Pháp tạng Phật.
Phật Tu-di Sơn Vương
Hộ trì lực thần thông
Cầu trí lớn chư Phật
Lãnh hội pháp thâm diệu
Phước đức Tỳ-kheo ấy
Nêu bày chẳng thể hết.
Thời trong thành Hoa Đại
Có trưởng giả sang giàu
Của cải thật đã lắm
Phước đức càng thêm sáng
Trưởng giả tên Lạc Thiện
Được nhiều người quý kính
Đức hành nhờ giữ giới
Nghe nhiều hiểu biết rộng.
Trưởng giả ấy một hôm
Đến chỗ Vi-tu-la
Bậc Tỳ-kheo đa văn
Tùy nghi mà giảng pháp.
Trưởng giả nghe pháp xong
Tâm vui phát nguyện rằng:
“Mọi tài sản của tôi
Nguyện đem cúng dường hết.”
Vị Tỳ-kheo đáp lời:
“Lành thay! Việc đại thí
Nghe pháp được tin, tỏ
Là nền gốc Phật pháp.”
Đem hết mọi tài vật
Dâng cúng Pháp sư xong
Liền trong hai mươi năm
Luôn gần gũi hầu cận
Trưởng giả Lạc Thiện ấy
Lúc theo bên Pháp sư
Được nghe vô số pháp
Tâm trước sau không chán
Lại phát tâm như vậy
Nhằm cúng dường đủ loại
Trong lúc cúng dường ấy
Tâm cũng không biếng, mệt.
Một lần đến thăm hỏi
Đem hai mươi ức kim
Để dâng cúng pháp sư
Thảy đều được thọ dụng
Thường liên tiếp như thế
Tùy lúc mà cúng dường
Do sự cúng dường đó
Tâm luôn được an lạc.
Pháp sư Vi-tu-la
Với các đệ tử khác
Cũng đều đem cúng dường
Dâng vàng đến ngàn lượng.
Đã cúng từng ấy vàng
Lại hiến ba thứ y
Mỗi mỗi y giá trị
Hai mươi ức lượng vàng.
Lại vì Vi-tu-la
Cùng cả chúng Tỳ-kheo
Mỗi mỗi dựng phòng ốc
Cao rộng cùng trang nghiêm
Tạo đủ số các tháp
Dâng hai mươi ức kim
Giường đệm đủ mọi vật
Thảy đầy đủ vẻ đẹp.
Pháp sư thường tùy lúc
Đến nơi ấy thuyết pháp
Vì chúng đem lợi lớn
Cho tới khi mạng chung.
Trưởng giả Lạc Thiện ấy
Vẫn lo toan cúng dường
Chứa các hương Xà-duy
Xây tháp trăm do-tuần
Tháp bảy báu bảy sắc
Chứa đủ xá-lợi thầy
Đặt yên nơi tháp báu
Luôn cúng dường hoa hương.
Trưởng giả Lạc Thiện này
Bày biện đủ như thế,
Trọn gặp vô lượng Phật
Hằng chẳng đọa nẻo ác
Do duyên phước lành ấy
Trong tám mươi ức kiếp
Thường làm Đại Phạm vương
Cũng luôn gặp chư Phật
Lại tám mươi ức kiếp
Làm Thiên vương Đao-lợi
Thường được thấy chư Phật
Cúng dường vô số thứ.
Lại trong từng ấy kiếp
Làm Chuyển luân thánh vương
Cũng luôn được gặp Phật
Đều dốc tâm cúng dường
Từ đấy cứ lần lượt
Lại được gặp Vô lượng
Vô số a-tăng-kỳ
Na-do-tha Chư Phật
Đã gặp vô lượng Phật
Cũng cúng dường vô lượng
Và hỏi về pháp Phật
Phật đều theo nghĩa đáp.
A-nan hãy biết rằng
Nơi thành Hoa Đại ấy
Trưởng giả tiếng tăm kia
Chẳng phải người lạ nào
Chớ nên nghĩ điều khác
Đó chính là thân ta.
Thời ấy ta phụng sự
Pháp sư Vi-tu-la
Cần cầu đủ pháp Phật
Tạo cúng dường như vậy,
Do duyên căn lành đó
Đạt Vô thượng Bồ-đề
Ta cúng dường pháp sư
Chỗ tạo gốc công đức
Nên được phước báo lớn
Đến nay hãy chưa hết.
Ta từ nhân duyên ấy
Đời đời chuyển cao hơn
Được thấy vô lượng Phật
Cùng được nghe pháp Phật
Chư Phật đó giảng dạy
Cũng như nay ta nêu
Đó đích thực Phật đạo
Các vị nên tu học.

Tôn giả A-nan thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Thật hết sức hy hữu! Đức Như Lai từ thời xa xưa đến giờ đã tích chứa gốc của mọi công đức, ở nơi các đời quá khứ luôn được tôn quý. Kính bạch Thế Tôn! Tỳ-kheo Vi-tu-la thời ấy, hiện nay vẫn còn hay đã nhập Niết-bàn?

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Bậc Tỳ-kheo ấy hiện nay chưa nhập Niết-bàn, mà ở trong pháp của ta hành hóa đạo Bồ-tát.

Tôn giả A-nan lại nói:

–Kính bạch Thế Tôn! Thật là ít có! Trưởng giả Lạc Thiện thời đó cúng dường tôn kính pháp sư, do từ gốc công đức ấy nên đạt được đạo quả Vô thượng Bồ-đề, mà bậc Pháp sư ấy đến nay vẫn còn hành Bồ-tát đạo như thế sao?

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Tỳ-kheo Vi-tu-la ấy đã không phát tâm Bồ-đề như ta, luôn đem sự vui thích đạo pháp mà cầu đạo quả Vô thượng Bồ-đề, chưa hề rời con đường khổ hạnh để cầu đạt đạo. Này Tôn giả A-nan! Ta nay ở trong đêm dài của cõi sinh tử luôn theo nẻo khổ đạo để cầu đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ta lúc tu hành Bồ-tát đạo đã phát nguyện rằng: “Nếu có những chúng sinh bị cuốn theo các nghiệp ác nên bị đọa vào ba đường ác chịu đủ bao nỗi thống khổ, ta lúc bấy giờ thành Bậc Chánh Giác sẽ độ thoát mọi chúng sinh khổ não ấy.”

Này Tôn giả A-nan! Hạnh nguyện tu tập của Tỳ-kheo Vi-tu-la ấy không thể nào nói hết được, dùng toán số thí dụ cũng không thể lãnh hội hết. Đã dùng hạnh thí lớn ấy mà phát tâm Vô thượng Bồ-đề, do từ căn lành đó nên phát nguyện rằng: “Nếu lúc tôi tu tập đạo Bồ-đề, đối với những chúng sinh chưa đứng vào con đường chánh pháp, cùng cầu quả vị Thanh văn, Bích-chi-phật, thì những chúng sinh ấy được thấy thân tôi hay nghe tên tôi thảy đều có được pháp Bất thoái nơi đạo Vô thượng Bồ-đề.”

Tôn giả A-nan thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Pháp sư Vi-tu-la ấy từng thọ nhận mọi sự cúng dường của Trưởng giả Lạc

Thiện ngày đó, hiện nay đang có mặt trong đại chúng hội này chăng?

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Tỳ-kheo Vi-tu-la thời đó hiện có mặt trong chúng hội này, đang đứng nơi trước ta đấy.

Phẩm 32: Ca ngợi chúng hội

Tôn giả A-nan thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu! Hiện nay đại chúng ở đây được xem là chúng hội gồm những người đức hạnh thanh tịnh chăng?

Đức Phật nói:

–Đúng vậy! Đúng vậy! Này Tôn giả A-nan! Như Tôn giả vừa nêu, đại chúng đây đều là hội gồm những người thanh tịnh đức hạnh, gọi là chúng của chư Đại Bồ-tát. Này Tôn giả A-nan! Đại chúng hội này là hội Sư tử, là hội Vô sở úy, là hội Đại long, là hội Thù thắng, là hội không gì có thể so sánh được.

Tôn giả A-nan thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Do đâu mà gọi là hội Đại nhân, là hội Sư tử?

Đức Phật nói:

–Này Tôn giả A-nan! Ở nơi hết thảy các pháp đã phá trừ màn vô minh lớn, đem lại lợi ích cho vô lượng, vô số chúng sinh, do phát đại nguyện nên gọi là hội Đại nhân. Các vị Bồ-tát ấy đã tạo được sự trang nghiêm lớn lao, đã có thể thu nhiếp tất cả các pháp của chư Phật, nên gọi là hội Sư tử.

Lại nữa, này Tôn giả A-nan! Như sư tử chúa ở trong hang sâu, theo chốn trú xứ ấy, các loài thú vật nhỏ không thể nào gần được, do vì không kham nhận nỗi âm vang của tiếng rống kia. Nếu có con vật hay kẻ nào đến gần, nghe khí lực của tiếng rống ấy tức thì đều ngã lăn ra đất.

Này Tôn giả A-nan! Các hội Bồ-tát, Hội Đại Nhân, Hội Đại Sư Tử, Hội Thù Thắng Hội không có gì có thể sánh được ấy cũng giống như thế. Nơi chốn trú xứ, hết thảy các thứ ma đều không thể đến gần để quấy nhiễu. Như có kẻ đến gần tức thì phải chịu lấy bao sự khổ não, sợ hãi, tâm hoảng loạn, thoái lui và mất dạng, là vì không thể kham nỗi uy đức thần lực lớn của Bồ-tát.

Này Tôn giả A-nan! Như sư tử chúa ba lược phát ra tiếng rống, âm thanh ấy vang khắp cả trong phạm vi một do-tuần, trên dưới mỗi phương cũng thấy tới một do-tuần.

Này Tôn giả A-nan! Tiếng rống của sư tử chúa ấy, đối với những sư tử nhỏ hãy đều kinh sợ, huống hồ đối với các loài chim loài thú khác, cả loài voi chúa Bạch hương nghe tiếng rống ấy cũng đều hoảng sợ, không thể tự mình cất nổi tiếng kêu lớn được.

Này Tôn giả A-nan! Các hội Bồ-tát, hội đại sư tử, hội vô sở úy ấy, đối với các vị mới tu học hay Bồ-tát giả danh cũng như những sư tử nhỏ, nghe tiếng rống lớn lớn kia tức thì lẫn trốn ngay.

Này Tôn giả A-nan! Nơi đại chúng này, hạng Bồ-tát xấu ác tham đắm lợi dưỡng, mong có được tiếng tăm, được nhiều người biết đến, nghe các vị Đại Bồ-tát nói về các pháp thâm diệu thì thảy đều kinh sợ nên bị rơi xuống hang hố sâu. Vì sao? Vì các vị Đại Bồ-tát ấy đã nêu giảng các pháp âm không, vô tướng, vô tác, khiến cho các Bồ-tát nhỏ còn tham đắm nơi tôi ta, nơi các nhập, ấm, giới, cũng như còn chấp nơi các pháp trì giới, thiền định trí tuệ, còn chấp vào các đạo quả chứng đắc, còn chấp vào Niết-bàn, chư Phật thì không thể kham nhận được.

Này Tôn giả A-nan! Trong các pháp của Phật, thế nào gọi là không, vô tướng, vô tác? Ta hay thuyết không, nhưng ở trong ấy không có pháp nào là không, cũng không có chỗ lệ thuộc, không xem cái ấy là không cũng không có nơi chốn.

Này Tôn giả A-nan! Ta nói vô tướng, trong đó không pháp nào có thể mang tên là vô tướng, cũng không chỗ lệ thuộc, cũng không có pháp nào được xem là vô tướng, cũng không có nơi chốn.

Này Tôn giả A-nan! Ta nói vô tác, trong ấy không pháp nào có thể mang tên là vô tác, cũng không có chỗ lệ thuộc, cũng không có pháp được xem là vô tác, cũng không có nơi chốn của sự vô tác ấy.

Này Tôn giả A-nan! Như Lai tuy nói về pháp có thể đoạn ấy, nhưng trong đó không có pháp có thể đoạn, cũng không có người đoạn, không có pháp được dùng để đoạn, cũng không nơi chốn để đoạn.

Này Tôn giả A-nan! Như Lai tuy nói về pháp có thể chứng đắc, nhưng ở trong ấy không có pháp nào được chứng đắc, không có người chứng đắc, không có pháp dùng để chứng đắc và cũng không có nơi chốn dùng cho sự chứng đắc ấy.

Này Tôn giả A-nan! Như Lai tuy nói về pháp có thể tu tập, nhưng trong ấy không có pháp nào để tu tập, không có người tu tập, không có pháp dùng để tu tập, cũng không có nơi chốn dùng cho việc tu tập ấy.

Này Tôn giả A-nan! Như Lai tuy nói về pháp tan hoại, nhưng ở trong ấy không có pháp nào có thể bị hoại, không có người hoại, không có pháp dùng để hoại và cũng không có nơi chốn dùng cho việc hoại đó.

Này Tôn giả A-nan! Như Lai tuy nói về pháp Hữu vi, nhưng không có pháp nào là Hữu vi, cũng không có chỗ lệ thuộc, không có chỗ hiện bày cái dụng của nó, là pháp Hữu vi.

Này Tôn giả A-nan! Như Lai tuy nói về pháp Vô vi, nhưng trong ấy không có pháp nào là Vô vi, cũng không có chỗ lệ thuộc, không có chỗ hiện bày cái dụng của nó, là pháp Vô vi

Này Tôn giả A-nan! Như Lai tuy nói về pháp cấu nhiễm, nhưng trong ấy không có pháp nào là cấu nhiễm, cũng không có chỗ lệ thuộc, không có chỗ hiện bày cái dụng của nó, là pháp cấu nhiễm.

Này Tôn giả A-nan! Như Lai tuy nói về pháp thanh tịnh, nhưng trong ấy không có pháp nào là thanh tịnh, cũng không có chỗ lệ thuộc, không có chỗ hiện bày cái dụng của nó là pháp thanh tịnh.

Này Tôn giả A-nan! đó chính là ấn của tất cả các pháp, ấn không thể bị hủy hoại, cũng không hề biến đổi, ở nơi ấy cũng không có hình tướng của ấn.

Này Tôn giả A-nan! Nếu chư Bồ-tát có thể đạt được Ấn ấy thì đích thực là bậc Sư tử trong loài người, là người đi riêng một nẻo; là người dứt sạch mọi thứ sợ hãi. Dùng tiếng rống của sư tử làm cho ngoại đạo phải kinh sợ lẫn trốn; hàng phục các thứ ma; những hạng còn tham đắm vướng chấp không thể nào sánh kịp; khiến cho những kẻ tăng thượng mạn phải khiếp sợ; làm lay động vỏ cố chấp của kẻ năng ngã kiến; không tin theo lời xúi giục của ma; khiến cho hàng Phật tử đều vui vẻ; có thể vì tất cả chúng sinh trong mười phương mà khai mở Pháp tạng của Phật; có thể dựng lên ngọn cờ pháp; gióng lên tiếng trống pháp lớn; thổi vang tiếng loa chánh pháp; khiến cho hàng Phật tử được thưởng thức pháp vị nhận rõ pháp thí; có thể diễn nói chánh pháp, dẫn dắt bao người đi vào nẻo thiện.

Này Tôn giả A-nan! Như sư tử chúa, từ chỗ ở đấy lên ba tiếng rống lớn, đám sư tử con nghe được âm thanh ấy thì thảy đều vui mừng mà xông xáo tới phía trước, dòm ngó bốn phương, không một chỗ nào làm chúng sợ hãi.

Này Tôn giả A-nan! Các hội của những bậc Sư tử đại trí, hội dứt hết mọi sợ hãi, hội của các bậc Đại sĩ đại trí ấy, đối với chư Đại Bồ-tát chân chánh dốc phát tâm Vô thượng Bồ-đề, căn lành chưa thuần thục, nếu được nghe tiếng sư tử rống nói về thật tướng của các pháp như thế, thì không chút kinh sợ, mà còn tăng thêm tâm vui mừng phấn khởi.

Này Tôn giả A-nan! Như sư tử chúa, nơi chỗ ở của mình đi riêng một lối không chút sợ sệt, các hội Đại sư tử, hội dứt hết mọi sợ hãi như thế, là đối với Phật pháp tạo được sự trang nghiêm lớn lao, sự trang nghiêm không hai, không một ai có thể sánh. Suy nghĩ như vầy: “Ta sẽ riêng mình đạt được đạo quả Vô thượng Bồ-đề, sẽ không có một ai sánh được trong sự chứng đắc các pháp Phật.”

Này Tôn giả A-nan! Như sư tử chúa có sư tử cái, lúc mang thai chỉ nhận một lần chứ không hai lần.

Này Tôn giả A-nan! Các hội sư tử, hội dứt hết mọi sợ hãi, hội Đại Bồ-tát ấy, các vị Bồ-tát hiện có đều phát tâm Đại thừa, không hề có ý niệm trở lại nhận lấy hai thừa.

Này Tôn giả A-nan! Như sư tử chúa muốn hại các loài thú khác hoặc lớn hoặc nhỏ, cũng đều dốc một sức mạnh.

Này Tôn giả A-nan! Hội sư tử, hội dứt hết mọi sợ hãi, hội Đại Bồ-tát, với các pháp được thuyết giảng đều dùng nhất tâm khiến cho mọi người thảy cùng được thông tỏ lãnh hội.

Vì thế, này Tôn giả A-nan! Hiện nay, hội lớn này được mang tên là hội sư tử.

Phẩm 33: Thượng kiên đức

Bấy giờ trong chúng hội có vị Tỳ-kheo tên là Kiên Ý, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, vén một vạt y để trần vai bên hữu, cung kính chắp tay thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn cúng dường kinh pháp này, cũng muốn được cúng dường ba đời chư Phật cùng chư Bồ-tát đã từng tu học pháp ấy; con cũng muốn được khuyến trợ khiến tăng thêm căn lành. Chính từ những mong ước đó, nay con xin đem vật quý giá dâng lên cúng dường Đức Thế Tôn.

Tức thì vị Tỳ-kheo lấy tấm y tung lên chỗ Phật, lại cầm nơi giữa y mà thưa với Đức Phật rằng:

–Hôm nay con đem tấm y dâng lên cúng dường Đức Thế Tôn, nguyện về đời vị lai, ở khắp mọi chỗ mọi nơi, những người nghe theo pháp này, do thuận theo ý Phật nên cũng phụng hiến y như vậy.

Tỳ-kheo Kiên Ý liền đi đến chỗ Tỳ-kheo Tinh Đắc và nói:

–Này bậc Thiện tri thức! Xin hãy cùng tôi, cùng đem tấm y này dâng lên cúng dường Đức Như Lai. Liền cùng Tỳ-kheo Tinh Đắc mang tấm y ấy dâng lên Đức Phật, là nhằm tăng thêm căn lành.

Đức Như Lai liền hiện diệu lực thần thông lớn lao. Bấy giờ, Tôn giả A-nan cùng với bốn chúng đệ tử đều ở nơi tấm y ấy được trong thấy vô số sự biến hóa thần diệu của Đức Như Lai.

Tôn giả A-nan liền thưa với Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Thật là hy hữu.

Đức Như Lai tuy đã biết rồi nhưng vẫn hỏi:

–Này Tôn giả A-nan! Tôn giả nhận thấy những ý nghĩa thế nào mà cho là hy hữu?

Bấy giờ Tôn giả A-nan muốn làm sáng tỏ sự việc ấy, nên dùng kệ thưa với Đức Phật:

Chúng con nơi y này
Thấy vô lượng Bồ-tát
Tâm dũng phát Bồ-đề
Khen Phật rồi bay đi.
Lại thấy chư Bồ-tát
Đều từ trong y ấy
Mang vô lượng trăm ngàn
A-tăng-kỳ loại y
Đem những tấm y ấy
Dâng cúng mười phương Phật.
Con thấy khắp đó đây
Vô lượng lực thần thông
Kẻ dâng y phụng Phật
Đều được Phật thọ ký.
Người ấy dần hành đạo
Thảy sẽ được làm Phật
Theo từng chốn trú xứ
Tạo cõi Phật thanh tịnh.
Chúng sinh đều cho rằng
Nơi chốn ấy thành Phật.
Lại thấy vô lượng ức
Đủ mọi thứ kỹ nhạc
Từ đấy xuất phát âm
Không trung nghe tiếng Phật.
Con thấy cõi tam thiên
Chư Phật thảy đầy khắp
Thế Tôn! Con nay nghĩ:
Tự cho chẳng Thanh văn
Lực thần thông ít có
Chói lòa tâm mắt con.
Con nay dùng Thánh trí
Quán ba cõi đều không
Con nơi trí không đó
Cùng đạt trí vô sinh.
Trong các trí như vậy
Luôn chẳng mất chánh niệm
Nếu do căn nghiệp báo
Trong ấy ắt lầm lạc.
Bốn chúng cùng hoan hỷ
Bay lên khắp không trung
Thảy đều ngồi tòa báu
Trên đóa sen ngàn cánh.
Lại ở trong y ấy
Thấy mười phương thế giới
Chư Phật, bậc Đạo sư
Với đại chúng vây quanh.
Lại thấy các Thượng nhân
Hành thí bất tư nghị
Vì cầu đạo Bồ-đề
Luôn gần gũi chư Phật
Do rõ nhân duyên ấy
Đem lợi lớn muôn loài
Nên tự thân hóa hiện
Thuyết pháp khắp mười phương.
Chỗ con thấy trong y
Mọi việc chẳng kể hết
Thấy trong y Bồ-tát
Tâm hoan hỷ, tôn kính
Như Phạm vương tự tại
Rõ mọi lực thần thông
Đa văn, đại biện tài
Đều đủ pháp Tổng trì
Chuyển xe chánh trí Phật
Khắp mười phương như thế.
Lại thấy chư Bồ-tát
Du hóa các thế giới
Đều biến thành các báu
Hoa hương thêm trang nghiêm
Thấy Phật ngồi đạo tràng
Chuyển pháp luân vô thượng
Thần lực Phật như vậy
Đều từ trong y hiện.
Nên nơi các thế giới
Biến hóa từng ấy hình
Thuyết pháp đem lợi ích
Đều khiến trụ Bồ-đề.
Nay thấy việc hy hữu
Việc ấy khó thể tin
Thần lực Phật vô lượng
Năng hiện nơi chúng sinh
Phật là phước điền tốt
Bậc nhất trong nhận thí
Kẻ thí được phước lớn
Dứt được mọi nỗi khổ
Nếu con ngàn vạn kiếp
Tán dương cũng chẳng hết.
Vì ai nên thị hiện
Các thần lực như thế?
Ai sẽ tịnh cõi Phật
Tu đạo Bồ-tát ấy?
Ai được thần lực đó
Mong Phật dứt ngờ con
Các hoa sen bày báu
Lớn như bánh xe to
Chúng Bồ-tát an tọa
Du hóa đến mười phương
Hầu Phật xong trở lại
Liền đạt vô thượng giác
Thế giới rộng, trang nghiêm
Hiện lực bất tư nghị
Con nơi thế giới ấy
Thấy một vị Bồ-tát
Tinh tấn hành Bồ-đề
Tay cầm y mà đứng
Mong Phật nói việc đó
Làm sao để tu học?
Đó ắt xưa từng thí vô lượng
Cũng hành vô lượng tâm tùy hỷ
Nguyện cùng với tất cả chúng sinh
Vì thế nay thấy đều được vui
Thế Tôn vì con nêu việc ấy
Dứt hết thảy mọi tâm nghi hoặc
Như vậy Tỳ-kheo tạo nguyện kia
Là Tinh Đắc hay là Kiên Ý?

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Tôn giả hãy đợi một lát, Bồ-tát Kiên Ý muốn được nêu câu hỏi, sau đấy ta sẽ đáp điều vừa rồi.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Con muốn được hỏi, nếu Thế Tôn chấp thuận thì mới dám trình bày.

Đức Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Bồ-tát cứ việc bày tỏ, ta sẽ vì Bồ-tát mà thuyết giảng khiến đạt được sự vui vẻ.

Bồ-tát Kiên Ý thưa:

–Kính bạch Thế Tôn! Chỗ Thế Tôn dạy là “đi vào pháp môn”. Vậy thế nào là pháp? Thế nào là môn? Thế nào là được nhập vào? Kính mong Thế Tôn phân biệt đầy đủ và nêu rõ thế nào gọi là pháp, thế nào gọi là môn, được nhập vào như thế nào, ai được xem là người nhập?

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý dùng kệ hỏi rằng:

Sao gọi là vô thượng
Thế nào là Pháp môn
Làm sao vào môn ấy
Kính mong đáp rõ nghĩa?
Làm sao vào môn đó
Đạt được giác ngộ Phật?
Làm sao lúc thuyết pháp
Biện tài được vô cùng
Pháp ấy từ đâu lại
Nay đến trụ chốn nào?
Làm sao nơi các pháp
Mọi niệm không lỗi lầm?
Thế nào là nhập tướng
Thế nào là đã nhập
Làm sao khi thuyết pháp
Các pháp như hiện tiền?
Lúc thuyết vô số pháp
Làm sao tâm không loạn?
Làm sao vô lượng kiếp
Biện tài không gián đoạn?
Chư Bồ-tát như thế
Dốc trí cầu thế nào?
Thuyết pháp không giới mốc
Mà không tăng thượng mạn
Bồ-tát ấy đời trước
Hồi hướng thí thế nào?
Đời đời khi thuyết pháp
Biện tài luôn tiếp nối
Gốc trì giới thế nào
Làm sao tu giới tịnh
Làm sao hồi hướng giới
Mà tâm luôn hướng thượng?
Làm sao tu hạnh Nhẫn
Làm sao tu tập Nhẫn?
Nhờ đấy nên đến được
Chốn vô thượng vô tận
Hành tinh tấn thế nào
Làm sao tu tập được?
Nên luôn trong mọi đời
Chẳng lìa Phật giác ngộ
Làm sao khởi thiền định
Tu tập phải làm sao?
Nơi định quán pháp gì
Đạt biện tài vô tận
Trí tuệ cầu thế nào
Gần gũi để tu tập
Nơi trụ của tuệ ấy
Mà biện tài không dứt
Trụ pháp lành vô thượng
Thuyết tướng thật các pháp
Nhớ nghĩ trí tuệ Phật
Tịch diệt, không, thâm diệu.
Đọc tụng mọi thứ kinh
Lãnh hội đúng diệu nghĩa
Mà chẳng muốn giảng nói
Nên xa lìa trí thật
Con hỏi Phật nghĩa ấy
Dứt hết mọi nghi hoặc.
Ở trong đời vị lai
Sẽ có các Pháp sư
Làm sao được gần gũi
Nhằm tham hỏi các pháp
Làm sao tu pháp hành
Cùng hộ trì các pháp?
Đem lực xứ phi xứ
Vì con nêu nghĩa đó
Vì con dứt mọi ngờ
Của chúng sinh đời sau?

Bấy giờ Đức Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Lành thay! Lành thay! Bồ-tát đã có thể hỏi Như Lai về các sự việc mang ý nghĩa thâm diệu như vậy. Bồ-tát về thời quá khứ, nơi vô lượng trú xứ của chư Phật đã vun trồng sâu dày gốc công đức, cúng dường, kính lễ, tham vấn nhiều điều sâu sắc.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Ta nhớ lại Bồ-tát từ xưa, ở nơi thế giới một phần trong cõi hư không này, đã từng theo sáu vạn tám ngàn chư Phật để tham vấn những ý nghĩa như vậy. Lúc chư Phật giải đáp về ý nghĩa chỗ tham vấn của Bồ-tát, vô lượng chúng sinh nhờ đấy mà có được lợi ích lớn. Vì thế nên biết rằng, Bồ-tát về đời quá khứ đã dốc vun trồng căn lành nơi trú xứ của chư Như Lai.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Về thời quá khứ xa xưa, trải qua vô lượng, vô biên a-tăng-kỳ kiếp, có Đức Phật xuất hiện ở đời hiệu là Xuất Bảo Quang với đầy đủ các tôn hiệu Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên

Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Thọ mạng của Đức Phật ấy là nửa kiếp, có bảy mươi ức chúng A-la-hán, thảy đều dứt sạch các lậu, tâm được tự tại. Đức Phật Xuất Bảo Quang cùng với các đại chúng du hóa khắp các thôn ấp trong nước và đều ở chung một nơi.

Thời bấy giờ cõi Diêm-phù-đề đất đai hết mực rộng lớn bao quát cả đến bảy vạn na-do-tha dotuần. Đời ấy có vị Chuyển luân thánh vương thuộc dòng Sát-lợi đã chịu phép quán đảnh, tên là Thượng Kiên Đức, cai trị bốn cõi thiên hạ.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Thời đó cõi Diêm-phù-đề có tám mươi ức thành, thảy đều rộng lớn, dài bốn mươi do-tuần, rộng ba mươi do-tuần, dân chúng đông đúc, đều an cư lạc nghiệp.

Giữa cõi Diêm-phù-đề có một tòa thành lớn, ngang dọc bằng nhau mỗi chiều là tám mươi dotuần. Các đường đi trong thành đều thẳng tắp cùng chạy theo hàng tương đương nhau, mỗi mỗi đường chính đều rộng đến năm dặm. Bên trong có một thành nhỏ tên là An ẩn, vua Thượng Kiên Đức ngự nơi thành ấy.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Ven tòa thành ấy có tới bảy vạn vườn cây, rất thích hợp với mọi lúc mọi người, nên dân chúng khắp nơi cùng đến để vui chơi giải trí. Lại có một vườn lớn dài rộng bằng nhau mỗi chiều là tám mươi do-tuần, là chỗ du ngoạn của nhà vua, nên có bảy lớp cây báu được trồng thành hàng vòng quanh đều đặn, cũng dùng bảy thứ châu báu để làm bảy lớp lưới rộng giăng phủ khắp bên trên. Khoảng giữa bảy lớp hàng cây cũng dùng bảy thứ châu báu để tạo bảy lớp tường thành và bảy lớp hào sâu bọc quanh thành. Vua Thượng Kiên Đức thường du hành đến các nước rồi trở về thành An ẩn, được nghe là Đức Phật cùng với đại chúng đã du hóa qua nhiều quốc độ, bây giờ đến thành này. Nhà vua nghe tin, hết sức hoan hỷ, liền thân hành đến chỗ Phật Xuất Bảo Quang, cung kính đảnh lễ ngang chân Phật rồi đứng sang một bên.

Bấy giờ Đức Phật Xuất Bảo Quang thấy nhà vua thành tâm và có nhân duyên tạo tác từ trước, nên đã vì nhà vua mà thuyết tạng kinh Bồ-tát nhằm dứt trừ mọi mối nghi của chúng sinh khiến mọi người đều vui vẻ. Vua Thượng Kiên Đức được nghe pháp nên rất hoan hỷ, bèn suy nghĩ: “Ta nay nên đem khu vườn ấy với đầy đủ các thứ diệu kỳ nghiêm đẹp dâng lên Đức Như Lai mong được thọ dụng.” Liền ở nơi khu vườn đó cho xây dựng bảy mươi ức các phòng ốc dành cho tăng chúng, dùng loại y quý giá che đất để tạo nên bảy mươi ức chốn dành cho tăng chúng và Phật đi kinh hành. Các thứ giường ngủ nghỉ, đồ nằm cũng có tới bảy mươi ức, đều được bày biện xong xuôi. Nhà vua lại chỗ Đức Phật cung kính đảnh lễ ngang chân Phật và thưa:

–Kính mong Thế Tôn thương xót đến con nên cùng với đại chúng vào ngày mai xin được thỉnh tới hoàng cung.

Đức Phật Xuất Bảo Quang yên lặng chấp thuận. Nhà vua biết Đức Phật đã đồng ý nên cung kính đảnh lễ ngang chân Phật, đi nhiễu vòng quanh chỗ Phật theo phía tay phải rồi trở về. Ngay trong đêm ấy, nhà vua đã vì Đức Phật cùng Tăng chúng, cho sửa soạn đầy đủ các thứ ngon vật lạ mà bậc Chuyển luân thánh vương thường dùng. Sáng sớm hôm sau, nhà vua đến chỗ Phật và thưa rằng:

–Kính bạch Thế Tôn! Mọi thức ăn vật uống đã sẵn sàng, kính bạch Thế Tôn và đại chúng cùng đến thọ trai.

Bấy giờ, Đức Phật Xuất Bảo Quang khoác y mang bình bát, cùng với bảy mươi ức các vị Đại A-la-hán đang cung kính vây quanh Đức Phật và tất cả cùng đi đến nơi vườn lớn kia theo thứ tự mà an tọa. Vua Thượng Kiên Đức thấy Phật cùng tăng chúng đã an tọa ổn định rồi, liền tự tay mình lo việc bưng dọn các thứ ngon vật lạ cúng dường Phật và đại chúng, nói chung mọi thứ đều đầy đủ, chu toàn. Sau khi Phật và đại chúng thọ trai xong, nhà vua liền dâng cúng Phật và chúng Tăng mỗi vị một tấm y. Cúng dường y xong, nhà vua tự tay bưng cái chung vàng đựng nước rửa tay của Đức Phật xuống, rồi thưa với Đức Phật rằng:

–Con xin đem khu vườn lớn này cùng với các phòng ốc, các nơi kinh hành, với những thứ giường ngủ nghỉ, đồ nằm, cả những người giữ vườn, dâng lên Phật và tăng chúng, mong được Đức Thế Tôn nhận lời. Con cũng xin được tự thân mình lo việc cung cấp cúng dường Phật.

Đức Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Nhà vua Thượng Kiên Đức lo việc cúng dường Phật Xuất Bảo Quang, sớm tối theo luôn đến chỗ Phật để nghe pháp, như vậy cho đến nửa kiếp, thường tham vấn Đức Phật ấy các pháp về nhân quả nghiệp báo. Đức Phật theo chỗ hỏi mà giải đáp đem lại lợi ích cho vô số, vô lượng chúng sinh.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát cho rằng vị Chuyển luân thánh vương Thượng Kiên Đức thời đó là một người nào khác lạ chăng? Chớ nghĩ vậy! Đó chính là thân của Bồ-tát đấy.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Ta nhớ rõ là Bồ-tát từ xưa về đời quá khứ, đã từng được nghe pháp này nên đã đem những vật dụng hết sức quý giá cúng dường một ngàn vị Phật.

Hôm nay Như Lai cũng sẽ vì Bồ-tát mà thuyết giảng về pháp môn ấy để từ đó hội nhập vào thật tướng của các pháp.

QUYỂN 10

Phẩm 34: Pháp môn

Đức Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Pháp là không nghĩ không lường, không hình tướng, không tạo tác, không nhớ không suy, thanh tịnh vi diệu, không duyên, không có văn tự, cũng không ngôn thuyết, chẳng thể làm cho hiển lộ.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Các pháp không hợp với các căn, không thể dùng trí tuệ để nhận thức, cũng không thể dùng vô trí để lãnh hội, chẳng có thể nhận thức, chẳng không thể nhận thức.

Lại nữa, này Bồ-tát Kiên Ý! Pháp là do các duyên mà thành tựu, Như Lai có thể nhận thức, mà nhận thức của Như Lai ấy không thể ngôn thuyết, nên Như Lai đem pháp chẳng thể thuyết để thuyết về các pháp ấy.

Chỗ có thể thuyết về đạo đức là Pháp môn. Vì sao? Vì dùng các “hành ấn” ấn chứng lên tất cả các pháp khiến tạo được một vị.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Các pháp là vô tận, là cõi tận cùng của sự vô tận ấy.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Các pháp rốt ráo là không tăng không giảm, hòa nhập vào cõi tận cùng. Do từ diệu nghĩa ấy nên Như Lai dùng ngôn ngữ văn tự phân biệt thuyết giảng.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Từ “cửa chữ A” đi vào tất cả các pháp. Dùng “cửa chữ A” để phân biệt các pháp. Trước là đi vào “cửa chữ A”, sau đấy mới đến các chữ khác lần lượt tiếp theo. Vì thế nên cho rằng, từ chữ A biến hiện thêm tạo ra các chữ, từ các chữ hợp lại thành ra các câu, dùng các câu để có thể thành các nghĩa. Do vậy mà Như Lai nói là từ cửa chữ A đi vào tất cả các pháp.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Nơi pháp môn ấy, những gì là pháp?

Này Bồ-tát Kiên Ý! Chỗ gọi là pháp ấy tức là xưa nay không tạo tác, không thuyết giảng, không chỉ rõ. Không nhận thức nên mới nhận thức được. Không thuyết giảng nên mới thuyết giảng được. Không chỉ rõ nên mới chỉ rõ được. Chữ A như thế là có thể tạo nên tất cả ngôn ngữ ấy. Đó gọi là Pháp môn. Nếu các thiện nam, thiện nữ đi vào cửa ấy sẽ đạt được trí tuệ vô tận cùng biện tài vô tận.

Những người đã được vô tận ấy có được sự vô tận về quá khứ, và trong sự tận cùng của vô tận đó là không hình tướng không ngôn thuyết. Vì mọi đối tượng của nhận thức đều là không thể nhận thức. Vì mọi đối tượng để chỉ dẫn đều là không thể chỉ dẫn. Vì mọi đối tượng để phân biệt đều không thể phân biệt. Nên được gọi là vô tận.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Đó gọi là cửa. Đó là cửa gì? Nơi các pháp môn ấy thì những gì là pháp mà nơi Phật chẳng đạt được? Lại từ cửa ấy để quan sát tất cả các pháp dẫn vào sự dứt mọi tư duy. Vì sao? Vì tất cả ngôn ngữ đều là phi ngôn ngữ. Tất cả ngôn thuyết đều là không có tận cùng. Tất cả ngôn ngữ đều là Như không lìa Như. Tất cả trí đều là phi trí.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Đó gọi là Kim cang cú vậy. Vì sao được gọi là Kim cang cú? Nếu các pháp là không tạo tác thì nó cũng không thể hoại. Do không thể hoại nên gọi là Kim cang cú. Các pháp là không nghiệp. Nếu đã không có nghiệp thì không có báo. Vì thế nên Như Lai nói tất cả các pháp là không nghiệp không báo. Đó là pháp ấn, Như Lai ở chỗ có thể thuyết về nghiệp về báo là đều do từ Ấn ấy. Ấn ấy là không thể hủy hoại.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Nếu các thiện nam, thiện nữ muốn nhận thức về nghiệp báo thì nên đi vào cửa ấy.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Hết thảy các pháp là không đến không đi, đó là đi vào pháp môn. Ta từ cửa ấy, vì chúng sinh mà thuyết giảng về mọi sai biệt của sinh tử.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Nếu các thiện nam, thiện nữ muốn đi vào cõi sinh tử của chúng sinh để có được trí tuệ, thì nên dùng Ấn ấy để đi vào, đó là pháp Ấn. Danh là không văn tự, Ấn cũng không làm chướng ngại cho Ấn.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Mọi nẻo ngôn thuyết của Như Lai đều xuất phát từ ấn ấy. Hết thảy mọi thân đều là thân Như Lai. Vì sao? Vì tính của các thân ấy là chẳng trái nhau. Phật dùng ấn ấy để nói về thân tướng của chúng sinh. Đó gọi là thân ấn. Lại dùng ấn ấy để diễn nói làm hiển lộ hết thảy mọi thân tướng. Vì sao?

Này Bồ-tát Kiên Ý! Vì các pháp là không có môn nên chẳng có thể đi vào được. Các pháp không thể đi vào nên không đi ra. Các pháp không lối ra nên không thể đi vào. Vì vậy mà Như Lai, nếu có chỗ nói đều không lìa thì đó là nói về cõi không chướng ngại, dùng cõi không còn chướng ngại để nói về tất cả các pháp. Cũng dùng cõi ấy để nhận thức về mọi chúng sinh theo sự thích hợp mà thuyết giảng.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Cõi vô ngại ấy tức là cõi vô biên. Cõi vô biên ấy tức là thể tánh cửa hết thảy chúng sinh. Đó gọi là cõi môn (Tế môn). Đi vào cõi môn ấy thì có thể mở ra diễn nói ngàn ức Pháp tạng, cái gọi là Pháp tạng ấy tức chẳng phải tạng.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Trong các Pháp tạng mà

Như Lai đã từng thuyết pháp là đều thuyết về cõi ấy. Lại có sắc tạng, thọ tưởng hành thức tạng. Tạng ấy là phi tạng, chẳng phải là tạng tự tại. Đó gọi là các Tạng đều dùng cửa chữ A để đi vào.

Bấy giờ Bồ-tát Kiên Ý thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Cửa ấy là hết sức thâm diệu.

Đức Phật nói:

–Này Bồ-tát Kiên Ý! Ta chẳng dấy niệm đó là sâu xa hay nông cạn. Không nên dấy niệm là bạch Thế Tôn! Phật có thuyết pháp chăng?

Này Bồ-tát Kiên Ý! Không như hàng phàm phu chỉ nói về nẻo tham đắm của mình, đây là chỗ lý giải đối với kẻ trí. Kia là Như Lai thuyết pháp Như. Mọi sở trí như thật của Như Lai là không thể chỉ rõ, không ngôn thuyết.

Vì sao? Vì hết thảy các pháp là không thể nói về tướng của nó. Chỉ có bậc trí thì có thể nhận thức. Hàng phàm phu nếu có chỗ nhận thức thì đều vướng chấp ở văn từ. Vì thế nên Phật nói là mọi văn tự ngôn ngữ đều phi ngôn ngữ.

Đức Phật lại bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Tất cả các pháp giống như mặt trời mặt trăng thanh tịnh. Theo chỗ xem xét đúng đắn mà đi vào không có giới mức.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Hết thảy các pháp đều có thể tỏa sáng, soi sáng, có thể làm dấy lên ánh sáng của mọi thứ trí tuệ.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Hết thảy các pháp là không hề có chỗ bị ngăn ngại, giống như hư không.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Hay có lối chấp theo hai pháp. Trong ấy Như Lai nhận thức theo nhãn vô ngại.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Đó gọi là Pháp nhãn. Phật dùng Pháp nhãn ấy để nhận thấy hình tướng của hết thảy các pháp là không chướng ngại.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Đó gọi là cửa không chướng ngại của các pháp. Các thiện nam, thiện nữ nếu đi vào cửa ấy thì mọi nẻo ngôn thuyết đều có lợi ích, đều không chướng ngại, đều làm rõ ý nghĩa sâu xa, đều nêu lên được diệu nghĩa dứt mọi tham đắm vướng chấp.

Lại nữa, này Bồ-tát Kiên Ý! Các pháp là không cấu, chẳng nhiễm, chẳng lìa.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Các pháp là không chốn quan hệ nên không thể thọ nhận.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Tất cả các pháp là vô biên, gốc ngọn không thể đạt được.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Mọi chỗ dùng ngôn ngữ văn tự để thuyết giảng thì nên biết là trong đó không có văn tự, cũng không có ngôn ngữ.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Cửa văn tự ấy làm sao để đi vào? Là vì, đã cho rằng pháp ấy là không có chướng ngại, đó chính là nẻo đi vào.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Nẻo đi vào như thế tức gọi là chẳng phải đi vào, tức là hội nhập thể tánh của các pháp.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Như Lai những chỗ thuyết giảng về các cửa Tam-muội thì đó là những gì?

Này Bồ-tát Kiên Ý! Có Tam-muội Nhất tướng, có Tam-muội Chúng tướng. Về Tam-muội Nhất tướng, như có Bồ-tát được nghe nói về thế giới kia có Đức Như Lai kia hiện đang thuyết pháp, thì vị Bồ-tát ấy sẽ giữ lấy hình tướng Đức Phật kia ở nơi trước mặt mình, những hình tướng đó hoặc là lúc ngồi nơi đạo tràng chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề. Hoặc khi chuyển pháp luân, hoặc đang được đại chúng vây quanh và vì họ mà thuyết pháp Bồ-tát giữ lấy hình tướng như vậy, khiến cho niệm không loạn nhằm nhiếp phục các căn, tâm không vọng động tán loạn mà là chuyên niệm về một vị Phật không rời bỏ duyên ấy; cũng nhớ nghĩ về hình tướng của Đức Phật nơi thế giới kia, mà vị Bồ-tát đó, ở nơi hình tướng của Như Lai và thế giới, đã thông tỏ được nẻo vô tướng, luôn thực hiện và quan tưởng như thế không lìa duyên ấy. Đấy chính là lúc tạo được duyên với Phật liền hiện ra nơi trước mặt mình thuyết pháp.

Bấy giờ, Bồ-tát lại thêm tỏ ra cung kính lắng nghe, lãnh hội pháp ấy, theo chỗ tin hiểu sâu cạn mà càng tăng thêm sự tôn kính quý trong Như Lai. Bồ-tát trụ nơi Tam-muội ấy được nghe thuyết giảng về các pháp đều dứt sạch hết mọi chấp vướng về hình tướng. Nghe xong thì thọ trì và từ nơi Tammuội đó xuất, có thể vì bốn chúng mà diễn nói pháp ấy.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Đó gọi là đi vào cửa Tammuội Nhất tướng.

Lại nữa, này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát an trụ nơi Tam-muội đó, có thể trở lại hủy bỏ hình tướng Đức Phật đã duyên với mình cùng hủy bỏ luôn về hình tướng chính mình và dùng sự hủy bỏ đó để hủy bỏ hết các pháp. Vì đã hủy bỏ hết thảy các pháp nên đi vào Tam-muội Nhất tướng. Từ Tam-muội đó xuất thì có thể vì bốn chúng mà thuyết giảng rõ về pháp ấy.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Đấy gọi là đi vào cửa Nhất tướng Tam-muội Phương tiện.

Lại nữa, này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát duyên với hình tượng Phật ấy mà dấy suy nghĩ: “Hình tượng đó từ chốn nào đến còn ta thì hướng tới cõi nào?” Suy nghĩ như vậy thì liền nhận biết hình tượng Phật là không từ đâu đến cả, còn ta thì không đi tới đâu. Bấy giờ Bồ-tát dấy suy nghĩ rằng: “Tất cả các pháp cũng lại như thế, đều là không từ đâu đến, đi không đến đâu.” Bồ-tát hành và niệm như thế thì không lâu sẽ đạt được Pháp nhãn vô ngại. Đạt được Pháp nhãn rồi bèn nhớ nghĩ về Sở tri của chư Phật thì các pháp thâm diệu đều hiện ra nơi trước mắt. Do từ các pháp thâm diệu đó mà đạt được biện tài vô ngại, tuy giảng nói về pháp mà không vướng chấp vào pháp.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Như Lai ở đời quá khứ có được trí tuệ vô ngại, cũng ở trong các hình tướng của trí đều không có chướng ngại. Ở đời quá khứ cũng không tạo duyên, cũng chẳng phải là không biết không theo các sự nhớ tưởng.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát cũng như vậy, an trụ nơi Tam-muội ấy, tuy diễn nói các pháp mà không thấy có pháp ấy. Bồ-tát an trụ nơi Tam-muội đó để dốc sức tu tập, theo chỗ được nghe về nhân duyên Đức Phật thứ nhì, giữ lấy hình tướng nơi trước mắt mình, hoặc là hình tướng ngồi nơi đạo tràng chứng đắc đạo quả Vô thượng Bồ-đề, hoặc hình tướng chuyển pháp luân, hoặc đang được đại chúng vây quanh và vì họ mà thuyết pháp. Bồ-tát cũng thọ trì các pháp của vị Phật thứ hai đó mà không lìa bỏ hình tướng Đức Phật gốc, cũng thấy Đức Phật ấy. Như vậy là Bồ-tát đó đã cùng duyên với hai Đức Phật, giữ lấy hình tướng nơi trước mắt mình để lắng nghe và lãnh hội các pháp được thuyết.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Đấy cũng gọi là đi vào cửa Nhất tướng Tam-muội.

Lại nữa, này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát do đã khéo tu tập về hình tướng của một vị Phật, nên theo ý tự tại muốn thấy chư Phật thì đều hiện ra nơi trước mắt.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Ví như vị Tỳ-kheo tâm được tự tại quan sát tất cả các nhập và giữ lấy sắc tướng xanh, có thể đạt được sự tin, hiểu về tất cả thế giới đều một hình tướng xanh. Sở duyên của người ấy chỉ mỗi sắc xanh, quan sát hết thảy các pháp trong ngoài đều một màu xanh, tức ở trong duyên ấy đã có được lực tự tại.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát cũng lại như vậy, theo chỗ được nghe về tôn hiệu của chư Phật ở nơi thế giới nào thì liền giữ lấy hình tướng Đức Phật và thế giới ấy để đều duyên nơi trước mắt mình. Bồ-tát như thế là đã khéo tu tập về sự nhớ nghĩ duyên với Phật ấy. Xem các thế giới tận cùng đều thành Phật nên luôn khéo tu tập về lực quán tưởng đó, nên có thể thông tỏ tất cả các duyên đều là một duyên, tức là duyên với Phật hiện tại. Đó gọi là đạt được cửa Tam-muội Nhất tướng.

Bồ-tát Kiên Ý thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Bồ-tát dùng phương tiện gì để đạt được Tam-muội ấy?

Đức Phật bảo Bồ-tát Kiên Ý:

–Đối với việc duyên với Phật ấy luôn nhớ nghĩ không chút tán loạn, không lìa duyên ấy. Đó là cửa Tam-muội.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Dùng một duyên ấy để có thể thông đạt được các pháp, nhận thức về tất cả các pháp thảy đều tương quan với nhau, đấy là Tam-muội Nhất tướng. Bồ-tát trụ nơi Tam-muội đó để lại đi vào Pháp môn, đó là tất cả các ngôn ngữ đều là ngôn ngữ của Như Lai, hết thảy mọi thân tướng đều là thân tướng của Như Lai, tức là không lìa Như vậy.

Lại nữa, Này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát được nghe tôn hiệu của chư Phật, hoặc hai, ba tôn hiệu, hoặc bốn, năm, hoặc mười, hai mươi ba mươi bốn mươi năm mươi, hoặc trăm, ngàn, vạn, hoặc hơn số lượng ấy, một thời chuyên niệm để hiện ra hết nơi trước mắt mình cùng với các thế giới và chúng đệ tử, thảy đều hiện cung kính tôn trọng. Cũng nhớ nghĩ về Đức Phật ấy với đầy đủ diệu thân và hình sắc tướng hảo, thảy đều hiện ra nơi trước mắt và cùng cung kính tôn quý. Lại cũng nơi mỗi mỗi vị Phật đều giữ lấy ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân cùng tướng Bất hư hạnh, tướng Sư tử phấn tấn, tướng Vô kiến đỉnh, tướng Tượng vương quán, tướng Thủ đại quang, dùng sự tin hiểu để tạo nên vô lượng hình tướng. Cũng giữ lấy hình tướng của thế giới chư Phật, dùng sự tin hiểu xem xét để tạo nên vô lượng hình tướng thanh tịnh. Cũng giữ lấy hình tướng chúng đệ tử Phật, đem sự tin hiểu xem xét để tạo nên vô lượng hình tướng.

Bấy giờ, Bồ-tát khởi tư duy như vầy: “Chư Phật ấy là từ chốn nào đến, còn ta thì đi tới chốn nào?” Tức thì là rõ được chư Phật cùng bản thân mình là không từ đâu đến và cũng không đi về đâu. Quan sát nhận thức như thế. Tin tưởng, lãnh hội như thế. Lúc này, Bồ-tát nghĩ: “Trong các sự việc như vậy là không có pháp cố định.”

Đó gọi là Như Lai, lúc quán tưởng như vậy tức thì tỏ được hết thảy các pháp là không, là không hề có một tướng, là vô tướng. Dùng cửa vô tướng để đi vào tất cả các pháp. Theo sự tin hiểu như thế để thông đạt tính chất nhất tướng của hết thảy các pháp.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát có thể tạo duyên với chư Phật, luôn nhớ nghĩ về một xứ, đó gọi là cửa Tam-muội Chúng tướng.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Nếu vị Bồ-tát nhập pháp Tam-muội ấy tất thông tỏ về một tướng của các pháp là vô tướng. Đấy là Tam-muội chúng tướng. Bồ-tát an trụ nơi Tam-muội ấy thì mọi sở tri sở kiến không gì là không Như Lai. Lại cũng chẳng tri chẳng kiến về Như Lai. Mọi sở tri kiến đều là pháp, nhưng cũng không có kiến về pháp. Mọi tri kiến hiện có đều là đệ tử Phật nhưng cũng không có tri kiến về chúng đệ tử Phật. Mọi sở tri kiến không gì là không thuyết pháp, nhưng cũng lại không có tri kiến về thuyết pháp. Mọi tri kiến hiện có đều là duyên ấy, nhưng cũng không thấy duyên. Mọi sở sở hữu tri kiến đều là biện tài, nhưng cũng không thấy có biện. Mọi tri kiến hiện có không gì là không cõi Phật, nhưng cũng không thấy có cõi Phật. Mọi tri kiến hiện có đều là thế giới, nhưng cũng không thấy thế giới. Mọi tri kiến hiện có đều là chúng hội, nhưng cũng không thấy có chúng hội. Không pháp nào là không thuyết giảng mà cũng không thấy có chỗ thuyết. Không pháp nào là không hiện ra mà cũng không có chỗ hiện. Không gì là không tin hiểu mà cũng không thấy có sự tin hiểu ấy. Không gì là không nhận rõ mà cũng không thấy có sự nhận rõ. Không pháp nào là không bị hoại nhưng cũng không có chỗ hoại. Không pháp nào là không xuất nhưng cũng không có chỗ xuất. Không pháp nào là không tỏa chiếu nhưng cũng không tỏ chốn tỏa chiếu.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Đó gọi là cửa Tam-muội chư Bồ-tát. Người đi vào cửa ấy thì sẽ ở nơi các pháp đạt được trí vô ngại. Có thể quán tưởng như thế thì gọi là Nhãn vô ngại. Ở trong sự việc đó cũng không còn tham đắm vướng mắc thì đó là Pháp nhãn.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát dùng pháp Tammuội ấy để có được vô biên biện tài vô ngại.

Bấy giờ, Bồ-tát Kiên Ý thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Có được bao nhiêu vị Bồtát ở đời vị lai thành tựu được pháp Tam-muội đó để có thể đạt được vô lượng, vô biên biện tài? Những gì sẽ giúp cho các vị Bồ-tát ở đời vị lai thành tựu được pháp Tam-muội ấy để có thể đạt được vô lượng, vô biên biện tài?

Đức Phật nói:

–Này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát, nếu ở đời sau này, từ chỗ các vị Tỳ-kheo được nghe pháp Tam-muội ấy thì nên biết là vị Tỳ-kheo đó đã thành tựu được pháp Tam-muội ấy, có thể đạt được vô lượng, vô biên biện tài.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Như chỗ Bồ-tát đã hỏi có bao nhiêu vị Bồ-tát thành tựu được pháp Tammuội ấy để có được vô biên biện tài, thì nếu có người thường tu tập pháp Tam-muội đó thì đều có thể thành tựu được, và cũng đạt được vô lượng, vô biên biện tài.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Cửa ấy có thể mở ra tám trăm Pháp tạng, hiện tại ở cõi Đức Phật A-súc, các vị Bồ-tát ở đấy luôn dùng cửa đó.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Ở nơi một cửa ấy thâu nhiếp tất cả pháp môn cùng các cửa Tam-muội. Đấy gọi là Trùng cú môn. Vì vậy, này Bồ-tát Kiên Ý! Nếu người theo đúng pháp muốn đi vào pháp môn tức cửa Tam-muội Trùng cú môn ấy thì phải nên gần gũi các bậc Thiện tri thức để học hỏi. Luôn hỏi: “Làm thế nào để thực hiện, để quan sát, làm thế nào để tu tập?” Sẽ tùy theo sự chỉ giáo của các bậc Thiện tri thức ấy mà tu hành.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Như có bốn pháp, theo đấy sẽ biết đó là bậc Thiện tri thức.

Những gì là bốn pháp?

1. Có thể khiến cho con người đi vào các pháp lành.

2. Có thể ngăn chận các pháp bất thiện.

3. Có thể khiến cho con người an trụ nơi chánh pháp.

4. Luôn có thể tùy thuận giáo hóa.

Có được bốn pháp ấy thì sẽ biết được ngay là bậc Thiện tri thức vậy.

Bấy giờ Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ ý nghĩa ấy nên nói bài kệ:

Nên gần Thiện tri thức
Ngăn chặn các pháp ác
Năng giảng pháp Phật khen
Người ấy nên gần gũi.
Theo Phật đạo giáo hóa
Khiến người dấy pháp lành
An trụ theo đúng nẻo
Trí tuệ thêm tăng trưởng.
Gắng gần pháp nên gần
Nên lìa pháp phải xa
Lìa nơi các pháp ác
Nên tu các pháp Phật.
Nếu muốn được biện tài
Cùng mở mang trí tuệ
Nên siêng tu định ấy
Luôn gần Thiện tri thức.
Theo chỗ dạy tu tập
Nơi pháp không mù quáng
Tự mong đạt pháp lành
Cũng vì người khác giảng.
Dốc tâm hành pháp ấy
Xa lìa mọi dua nịnh
Luôn gần Thiện tri thức
Tu tập pháp như vậy
Do gần Thiện tri thức
Nên xa tri thức ác.
Từ đấy đạt đa văn
Mau chứng Tam-muội đó!

Lại nữa, này Bồ-tát Kiên Ý! Như có được bốn pháp thì sẽ biết đó là hình tướng bậc Thiện tri thức. Những gì là bốn pháp ấy? Đó là khéo biết giáo hóa, khéo biết tu tập đạo pháp, biết giáo hóa lỗi lầm, biết tu tập sửa đổi lỗi lầm.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Có được bốn pháp ấy thì sẽ biết được đó là bậc Thiện tri thức.

Bấy giờ Đức Thế Tôn đọc bài kệ:

Biết giáo hóa tu đạo
Cũng biết lỗi lầm kia
Đã biết rõ pháp ấy
Nay trụ pháp vô ngại.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Lại có bốn pháp, nhờ đấy sẽ biết được đó là thực tướng của bậc thanh tịnh. Những gì là bốn pháp? Đó là biết phong thổ, biết phương ngữ, biết người và biết mình. Làm thế nào để biết phong thổ? Ấy là theo người để biết. Làm thế nào để biết người? Theo chỗ hành động của người ấy để biết.

Người ấy ở nơi có nhiều tham dục.

Người ấy ở nơi có nhiều giận dữ.

Người ấy ở nơi có nhiều si muội.

Người ấy ở nơi có tham dục rõ rệt.

Người ấy ở nơi có sân hận rõ rệt.

Người ấy ở nơi có si mê rõ rệt.

Người ấy ở nơi có tham dục giận dữ rõ rệt.

Người ấy ở nơi có tham dục si mê rõ rệt.

Người ấy ở nơi có giận dữ si mê rõ rệt.

Người ấy ở nơi có cả tham dục giận dữ si mê rõ rệt.

Chúng sinh đều ở những nơi có ba pháp bất thiện ấy, thảy đều có thể nhận biết. Đã nhận biết rồi thì tùy theo nơi ở để có sự giáo hóa thích ứng, theo vô số nẻo an vui của các vị Bồ-tát, đều có thể nhận biết.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Nếu người thành tựu được bốn pháp ấy thì sẽ biết đó là bậc Thiện tri thức.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Lại có bốn pháp, nhờ đấy sẽ biết được đúng là bậc Thiện tri thức. Những gì là bốn pháp ấy? Đó là có thể điều phục ngôn ngữ khiến người an trụ trong chánh pháp thâm diệu; có thể tùy theo hoàn cảnh mà giáo hóa, theo đúng sự vận hành của thời thế, hoàn cảnh.

Bấy giờ Đức Thế Tôn liền nói bài kệ:

Biết nẻo hành của người
Các chốn nhiều sai khác
Biết theo chốn giáo hóa
Nên mau được thành tựu
Năng thuyết pháp chế ngự
Khiến trụ pháp thâm diệu
Theo thời mà chê trách
Cũng tùy thời biến đổi.
Tuy có lời khôn khéo
Trái thời chẳng nên nhận
Vì thế bậc có trí
Theo thời mà thuận, lìa.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Lại có bốn pháp, theo đấy sẽ biết được là bậc Thiện tri thức đúng nghĩa, có thể khiến mọi người tu tập pháp Tam-muội ấy. Những gì là bốn pháp đó? Đấy là có khả năng khiến đệ tử xuất gia tu hạnh xa lìa; lại có thể khiến người đi vào các pháp quán thâm diệu; có thể khiến an trụ vững vàng nơi tất cả duyên mà không chút trở ngại trong việc lìa bỏ các hình tướng.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Có được bốn pháp đó thì sẽ biết đấy là bậc Thiện tri thức.

Đức Phật bèn nói bài kệ:

Nếu người khen xuất gia
Cùng hành lìa nơi chốn
Khiến đệ tử an trụ
Đó là Thiện tri thức.
Khiến trụ nghĩa bậc nhất
Nơi pháp tối thâm diệu
Trụ vững nơi vô tướng
Là chân Thiện tri thức.

Lại nữa, này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát nếu thành tựu trọn vẹn bốn pháp thì có thể tu tập được pháp Tam-muội ấy. Những gì là bốn pháp đó? Ấy là lìa bỏ tâm ý của cá nhân mình mà thuận theo sự chỉ dạy của thầy để xa lìa các duyên; vì pháp Tammuội đó mà luôn siêng năng tinh tấn không chút trễ nải ngừng nghỉ; cũng nhằm đạt được pháp Tammuội ấy nên luôn an vui trụ nơi chốn vắng vẻ, xa lìa mọi chốn náo nhiệt, rối rắm. Bồ-tát nếu thành tựu đủ bốn pháp ấy thì có thể tu tập đạt được pháp Tam-muội kia.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát lại có bốn pháp, nhờ đấy có thể mau chóng đạt được pháp Tam-muội kia. Những gì là bốn pháp đó? Đấy là luôn giữ lấy hình tướng Đức Phật, cho đến cả trong giấc mộng cũng thấy chư Phật. Khéo gắn bó với hình tướng thuyết pháp, cho đến cả trong giấc mộng cũng được nghe thuyết pháp, lại vì chúng sinh mà thuyết giảng không hề biết mệt mỏi. Đạt được pháp nhẫn thâm diệu để dứt bỏ sự ràng buộc của các pháp. Hành động không có sự nương tựa vào định, tâm luôn thuận hợp trong sự xa lìa hay gắn bó.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát có được bốn pháp ấy thì có thể mau chóng đạt pháp Tam-muội kia.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Người ấy không rời Hình tướng Thế Tôn
Luôn duyên tướng Phật Trước mắt chẳng lìa
Luôn gặp gỡ Phật Ba mươi hai tướng
Nghe Phật thuyết pháp Gắn bó tướng ấy
Thề không thoái chuyển Đạt được pháp nhẫn
Không dựa thiền định Tâm vui thuận lìa
Do pháp chẳng diệt Hủy hoại các pháp
Các pháp chẳng pháp Nẻo vui người ấy
Lúc quán các tướng Không chốn phân biệt.
Tin, hiểu các pháp Đều là thân Phật
Chẳng vướng ngôn từ Không theo lời khác
Tự biết tướng ấy Cũng vì người thuyết
Bồ-tát nếu đạt Pháp nhẫn như thế
Đó là bậc trí Đạt Tam-muội ấy
Gần Thiện tri thức Tu pháp Phật khen
Giáo hóa chúng sinh Trụ pháp định sâu.
Bồ-tát Kiên ý Nếu có bốn pháp
Phải nên tu tập Đạt Tam-muội ấy.

Những gì là bốn pháp đó? Ấy là khéo biết hình tướng các duyên, khéo phân biệt được các duyên, khéo biết sự biến chuyển của duyên và khéo biết được gốc của sự hành hóa. Có được bốn pháp ấy thì có thể mau chóng thành tựu, thông tỏ pháp định ấy.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nói bài kệ:

Bồ-tát đa văn cùng hữu trí
Nên vì người thuyết Tam-muội ấy
Lại theo chư Phật nghe pháp lành
Cũng nên vì người mà diễn giảng
Duyên với thân Phật giữ lấy tướng
Tu pháp Tam-muội tịch diệt đó
Ở nơi thân tướng chư Thế Tôn
Giữ đủ vô số tướng sai biệt
Thân tướng với ba mươi hai tướng
Tướng hình, tướng sắc, tướng tỏa sáng
Dung mạo, đôi mày, nét Bạch hào
Nên giữ tướng Đại nhân như vậy
Giữ lấy các tướng nơi trước mắt
Nên luôn xem xét tướng sai khác
Cũng duyên với mỗi mỗi chi tiết
Chẳng lấy một pháp làm thân Phật
Dùng tâm phân tích thân chư Phật
Tâm ấy vô hình bản tánh tịnh
Mọi vọng theo duyên niệm niệm dứt
Nơi duyên cùng sinh các tướng lạ
Đã rõ tướng tâm chẳng ngừng nghỉ
Nên biết duyên ấy cũng sinh diệt
Pháp đó đều từ phân biệt sinh
Dứt mọi phân biệt đạt an lạc
Khéo biết tánh tâm là tướng chuyển
Cũng rõ các duyên là tướng chuyển
Biết thế gian không, như ánh lửa
Đã rõ được vậy niệm chẳng loạn
Nên tỏ nghĩa các pháp như thế
Liền biến hóa thành nhiều tướng Phật
Mà nơi tướng Phật không tham vướng
Nên rõ thế gian thảy là không
Ở nơi các duyên không chấp tướng
Nên biết thân tâm là tướng chuyển
Nơi pháp như vậy nên thông đạt
Nên chóng đạt pháp Tam-muội ấy
Nơi lúc thuyết pháp hiện thần lực
Cũng chốn thuyết giảng dứt lỗi lầm
Cùng khiến chúng sinh khởi phước lành
Cũng mau chóng đạt pháp như vậy.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát có bốn pháp, nhờ đấy có thể thành tựu được pháp Tam-muội ấy, và khi đã thành tựu được rồi thì có thể vì người khác mà thuyết giảng. Những gì là bốn pháp đó? Ấy là, vì nhằm đạt được pháp Tam-muội nên luôn siêng năng tu tập không dừng nghỉ; ngày đêm đi kinh hành, những lúc sắp an tọa thì trước hết nhớ nghỉ đến chư Phật tọa nơi đạo tràng như hiện đang có nơi trước mắt mình, đem pháp thí cho mọi chúng sinh không chút tiếc rẻ, đối với người thuyết pháp nên xem như Bậc Thế Tôn, phân tích ở thân mình chứ không dựa nơi pháp, đem sự không nương tựa ấy để vì chúng mà thuyết pháp. Bồ-tát phải nên hành hóa như thế, nhớ nghĩ như thế, duyên hợp như thế, thì sẽ an ổn nơi pháp tòa mà có thể hành hóa pháp thí rộng khắp đạt được pháp Tam-muội ấy, hoặc có Bồ-tát từ pháp tòa đứng lên và cũng đạt được pháp Tam-muội.

Lại nữa, Này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát nếu thành tựu bốn pháp thì sẽ đạt được pháp Tam-muội ấy. Những gì là bốn pháp đó? Bồ-tát làm người xuất gia tu hạnh xa lìa, rời bỏ những chốn quen thuộc ồn ào náo nhiệt, chỉ sử dụng ba loại y và xa lìa mọi tham đắm ràng buộc, đối với chúng tại gia cũng như xuất gia không tạo nên các mối quan hệ gắn bó, nên lìa bỏ sự giao tiếp không đúng lúc, đạt được pháp nhẫn thâm diệu, an lạc với nẻo không tịch.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát thành tựu trọn vẹn bốn pháp đó thì tất đạt được pháp Tam-muội.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát tại gia, nếu thành tựu được bốn pháp này thì cũng có thể đạt được pháp Tam-muội ấy. Những gì là bốn pháp đó? Bồtát nếu ở gia đình mình thọ trì năm giới, thường ngày một lần mang thức ăn đến cúng dường nơi các tháp miếu, nên học rộng nghe nhiều để thấu đạt các kinh luận, cũng nên gần gũi với bậc Thiện tri thức có khả năng giáo hóa pháp Tam-muội ấy.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát tại gia nếu thành tựu bốn pháp ấy thì có thể đạt được pháp Tam-muội kia.

Lại nữa, này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát dù tại gia hay xuất gia, nếu thành tựu được bốn pháp này thì sẽ đạt pháp Tam-muội ấy. Những gì là bốn pháp?

1. Đó là giữ giới đầy đủ, cùng thực hiện cuộc sống thanh tịnh, lìa mọi nghi hoặc.

2. Vì nhằm đạt pháp Tam-muội ấy nên không tham tiếc thân mạng, không dựa nơi pháp.

3. Thuận hợp với những điều được nghe cùng sự giáo hóa của người đạt được pháp Tam-muội ấy.

Đối với người đó nên sinh tưởng như đối với Bậc Thế Tôn. Lúc tu tập pháp Tam-muội niệm Phật như vậy, phải nên lìa bỏ tâm tham lam keo kiệt.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Nếu hàng Bồ-tát tại gia xuất gia, có được bốn pháp ấy thì tất sẽ đạt pháp Tam-muội kia.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Nếu có người phát tâm Đại thừa nhằm đạt được pháp Tam-muội ấy thì phải gắng sức tu tập bốn pháp này. Những gì là bốn pháp?

1. Đó là nên thuận quán tưởng về thân, không dấy chấp về sự hiểu biết đối với thân.

2. Nên thuận quán tưởng về thọ, không dấy chấp về sự hiểu biết đối với thọ.

3. Nên thuận quán tưởng về tâm, không dấy chấp về sự hiểu biết đối với tâm.

4. Nên thuận quán tưởng về pháp, không dấy chấp về sự hiểu biết đối với pháp.

Này Bồ-tát Kiên Ý! Bồ-tát nếu thành tựu được bốn pháp ấy thì sẽ trợ giúp cho sự thông đạt pháp Tam-muội kia.

Bấy giờ Đức Thế Tôn nhằm làm sáng tỏ ý nghĩa ấy nên nói bài kệ:

Bồ-tát nên tu tập
Niệm xứ Phật ngợi khen
Nẻo hành của Tỳ-kheo
Nên đạt Tam-muội ấy.
Phải nên phân tích thân
Cũng chẳng nên nương cậy
Đem tâm dứt dựa nương
Sẽ đạt Tam-muội ấy.
Nơi tâm thọ các pháp
Cũng không chốn nương tựa
Pháp ấy chẳng nghĩ bàn
Sẽ đạt Tam-muội đó.
Nên tu tập Tứ thiền
Cùng tu bốn chánh cần
Chẳng chấp vướng pháp ấy
Sẽ được Tam-muội đó.
Nơi bốn Như ý túc
Cùng bốn trí vô ngại
Nên tu tập pháp ấy
Chớ sinh tâm tham tiếc
Phải an trụ trong giới
Gần gũi Thiện tri thức
Bậc giảng Tam-muội đó
Nên kính như Thế Tôn.
Lấy đa văn làm gốc
Từ đấy khởi Tam-muội.
Theo nẻo chư Phật thuyết
Theo đúng giáo tu học.
Đó chính là Thượng nhãn
Pháp nhãn không gì hơn
Trong ấy không chướng ngại
Đem giáo hóa muôn loài
Là gốc của mọi kinh
Năng sinh pháp đa văn
Bồ-đề từ đấy thành
Vì thế nên tu học.
Chư Phật trong mười phương
Với bốn trí vô ngại
Đều từ trong ấy sinh
Vì vậy nên tu tập
Bồ-tát năng đạt được
Tam-muội như Phật dạy
Người ấy lúc thuyết pháp
Biện tài thật vô tận
Người ấy nơi các pháp
Thông tỏ được mọi tướng
Như biển không tăng giảm
Chẳng bao giờ cạn kiệt.
Nếu được Tam-muội ấy
Không theo nẻo kẻ khác
Nếu lúc nghe nhận pháp
Chẳng xem người khác thuyết.
Chư Thiên, Thần, Long vương
Dạ-xoa, Khẩn-đà-la
Cùng chúng Nhân phi nhân
Xem Bồ-tát thuyết giảng
Đều nói: “Làm sao trụ
Làm sao để tu học?
Theo đâu được pháp ấy
Xin vì chúng tôi giảng?”
Trụ nơi Tam-muội đó
Rõ tâm sâu muôn loài
Cũng rõ nẻo tâm vui
Tùy nghi mà thuyết pháp.
Nay ta trong kinh ấy
Có nói về chư Phật
Do trụ Tam-muội đó
Nên thảy rõ tôn hiệu.
Cũng biết được chư Phật
Chỗ nói vô số pháp
Theo tâm duyên các niệm
Tức thì đều biết rõ.
Hết thảy chư Thế Tôn
Với mọi chúng đệ tử
Do trụ nơi Tam-muội
Nên thảy đều thấu đạt.
Rõ thế giới chư Phật
Đủ mọi vẻ trang nghiêm
Cũng rõ về thọ lượng
Đạt được Tam-muội ấy.
Rõ các kiếp, số năm
Cùng tháng ngày thời tiết
Trong mười phương thế giới
Chư Phật, Lưỡng Túc Tôn
Đều rõ chư Phật ấy
Cũng biết các cõi Phật
Và các Bậc Thế Tôn
Với từng ấy tôn hiệu.
Khéo tu Tam-muội đó
Nên thảy đều thông tỏ
Cũng rõ chư Thế Tôn
Với mọi chúng đệ tử
Vì chúng mà thuyết pháp
Thảy đều thông đạt tất
Nẻo hành hết thảy Phật
Cùng các pháp thâm diệu
Khéo học pháp Tam-muội
Nên thảy đều thông tỏ
Ở nơi đời vị lai
Vô lượng chư Thế Tôn
Tôn hiệu cùng chúng tánh
Thảy đều được thông đạt.
Cũng biết được thọ mạng
Cùng các chúng đệ tử
Các kinh pháp giảng thuyết
Thảy đều thông tỏ tất.
Rõ thế giới chư Phật
Với đủ vẻ trang nghiêm
Chư Phật diệt độ rồi
Thời gian chánh pháp trụ.
An trụ nơi Tam-muội
Thảy đều tỏ mọi sự
Nên kẻ cầu đa văn
Siêng tu Tam-muội ấy.
Thường tu Tam-muội ấy
Thấu đạt mọi diệu nghĩa
Nên biết Tam-muội đó
Cửa đầu vào trí Phật
Theo đấy chúng sinh khởi
Cũng sinh trí tuệ Phật.
Cũng từ đó sinh ra
Vô lượng các phước đức
Nếu có người phát tâm
Cầu Bồ-đề vô thượng
Cùng hết Phật quá khứ
Và các chúng đệ tử
Cúng dường mỗi mỗi Phật
Cùng với chúng đệ tử
Bỏ đầy khắp tam thiên
Đại thế giới châu báu
Đem từng ấy của báu
Đầy khắp trong một kiếp
Đều cúng dường như vậy
Chư Phật và Thánh chúng.
Ở trong đời vị lai
Với đủ chư Thế Tôn
Cũng đều dốc cúng dường
Cùng với chúng đệ tử.
Kiên Ý! Phải nên biết
Phước đức kẻ ấy được
Cầu pháp Phật vô thượng
Trí chẳng thể nghĩ bàn.
Nếu người cầu Phật đạo
Tu tập Tam-muội ấy
Từ pháp Tam-muội đó
Đa văn thêm thù thắng
Đã được đa văn rồi
Vì chúng sinh giảng khắp
Phước ấy vượt hơn kia
Chẳng thể lượng tính nổi.
Phước đó không hạn lượng
Giúp trí tuệ tăng trưởng
Nếu tu Tam-muội ấy
Khỏi phải cúng dường Phật.
Như đem các hương hoa
Y phục cùng thuốc men
Dùng cúng dường chư Phật
Chưa phải đúng cúng dường
Như Lai tọa đạo tràng
Chỗ đạt pháp vi diệu
Nếu người siêng tu học
Đó chính cúng dường Phật.
Nếu người cầu Phật đạo
Muốn được thấy chư Phật
Nên siêng tu pháp ấy
Chóng đạt pháp Tam-muội.
Như nghe Tam-muội ấy
Liền sinh tâm vui mừng
Nên biết chúng sinh đó
Từng thấy hàng ngàn Phật.

Lại nữa, này Bồ-tát Kiên Ý! Nếu các hàng thiện nam, thiện nữ cầu Phật đạo, cúng dường cho việc tôn tạo sửa sang tháp miếu của Như Lai, thì sẽ đạt được đầy đủ bốn nguyện lớn thanh tịnh. Những gì là bốn?

1. Đó là có thể được thân sắc tịnh diệu bậc nhất.

2. Thường được sinh ở nơi chốn không có các nạn, có thể kiên tâm thọ trì các pháp lành.

3. Được thấy chư Phật, có được lòng tin dần dà phát triển không gì hủy hoại được.

4. Sẽ đạt được đạo quả Vô thượng Bồ-đề, chuyển bánh xe chánh pháp thâm diệu.

Đó là bốn nguyện lớn thanh tịnh.

Bấy giờ Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ ý nghĩa ấy nên nói bài kệ:

Kẻ trí nên cúng dường
Tôn tạo tháp miếu Phật
Đủ cả nẻo Phật khen
Bốn thứ pháp tịnh lớn
Thường sinh chốn lìa nạn
Luôn có được chánh kiến
Luôn được thấy chư Phật
Thấy rồi tâm được tịnh
Đạt tâm tính vững chắc
Chẳng động như Tu-di
Tất đạt được trí Phật
Chóng chuyển pháp vô thượng.

Phẩm 35: Dặn dò, giao phó

Lại nữa, này Bồ-tát Kiên Ý! Nếu các hàng thiện nam, thiện nữ phát tâm cầu pháp Đại thừa, hoặc Phật còn tại thế hay sau khi diệt độ, dùng các chuỗi hoa Anh lạc hoặc dùng hương hoa dâng lên cúng dường, do từ nhân duyên ấy mà đạt được tám thứ phước đức đầy đủ. Đó là thân sắc đầy đủ, của cải vật dùng đầy đủ, quyến thuộc đầy đủ, giữ giới đầy đủ, thiền định đầy đủ, đa văn đầy đủ, trí tuệ đầy đủ và sở nguyện đầy đủ. Đấy là tám thứ phước đức đầy đủ.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn làm sáng tỏ ý nghĩa ấy nên nói bài kệ:

Như kẻ cầu Phật đạo
Cúng dường tháp miếu Phật
Đời đời được phước báo
Bồ-tát nên lắng nghe
Thường thân sắc đầy đủ
Kẻ thấy tâm được định
Phước đức của cải nhiều
Lại được quyến thuộc tốt.
An trụ nơi giới luật
Nên hội nhập thiền định
Được trí tuệ đa văn
Mênh mông như biển cả
Mọi sở nguyện thông đạt
Thảy đều được thành tựu
Bậc tôn quý trong đời
Phước điền tốt bậc nhất.
Do từ căn lành ấy
Được ba mươi hai tướng
Các tướng đều hiện rõ
Thân tướng luôn trang nghiêm
Nơi mỗi mỗi tướng đó
Các vẻ đẹp tô điểm.
Trong mỗi mỗi tướng ấy
Có tám mươi vẻ sáng
Nơi mỗi mỗi vẻ đó
Ánh sáng luôn trong suốt
Ở tám mươi vẻ đẹp
Cũng tỏa ra ánh sáng
Từ các nghiệp duyên lành
Cũng từ nguyện nên sinh
Theo các nguyện sai khác
Nên được tướng như thế
Đủ luân tướng rõ nét
Dùng vẻ đẹp trang nghiêm
Đủ phước đức thần lực
Người nên nhất tâm nghe
Ta nơi chân tay này
Tướng tốt tên Chiếu sáng
Ánh sáng tên Cực cao
An trụ ở trong ấy
Nên phóng khắp hào quang
Giống như ngọc đáng quý
Hào quang như vầng trăng
Ở nơi núi Tu-di
Có tướng tên Kiên tập
Tám mươi ức vẻ sáng
Mỗi vẻ đều mang tên
Cũng đều có sắc tỏa
Ta từ một nét sáng
Phát ngàn thứ quang sắc
Vây quanh khắp đại thiên
Phương hạ làm Phật sự
Ta nay nếu phóng khắp Nẻo sáng
của nghiệp lành Thế giới hoặc lớn
nhỏ Hết thảy đều mờ mịt.
Hào quang ấy hiện vô lượng Phật
Đều đến khắp mười phương thế giới
Giáo hóa chúng sinh làm Phật sự
Những diệu lực thần thông như thế
Ta có pháp Tam-muội tỏa khắp
Dùng Tam-muội ấy thấy thế giới
Tam-muội ấy tên Tu-di tướng
Trong đó ánh sáng tên Thiện Pháp.
Có Tam-muội tên Thủ-lăng-nghiêm
Là tối thắng trong tất cả pháp
Dùng nhân tâm tịnh nên đạt được
Thông tỏ mười phương không ngăn ngại.
Có người thấy Phật hiện diệt độ
Hoặc được thấy Phật mới vào thai
Người được thấy sinh vô sở úy
Tâm ấy an tĩnh đi bảy bước
Hoặc có người thấy tọa đạo tràng
Cho ta nay vừa mới thành Phật
Lại có người thấy chuyển pháp luân
Hay thấy tu tập Bồ-tát đạo.
Các vị xem lực Tam-muội đó
Phật trụ trong ấy được tự tại
Có người biết ta số kiếp thọ
Hoặc biết được ta thọ nửa kiếp
Lại thấy ta thọ một tiểu kiếp
Hoặc hai ba bốn hay hơn thế
Hay thấy ta thọ một ức năm
Lại thấy nhiều hơn hay lại ít
Người ở cõi Diêm-phù-đề này
Biết ta thọ mạng tám mươi năm
Lại thấy ta thọ một ngày đêm
Hay người biết ta thọ lâu dài
Như có cõi tam thiên đại thiên
Cho ta thọ thiên một đêm ngày
Ta biết kẻ ấy tâm an lạc
Theo chỗ vui ấy mà thuyết pháp
Tùy chỗ thích ứng mà thị hiện
Mỗi mỗi tự cho là ta thuyết
Được thấy hoan hỷ sinh tin hiểu
Diệu lực thần thông Phật ít có
Như ta chỉ ông việc phải làm
Hết thảy phàm phu đều lầm dối
Mọi nẻo hành hóa của Như Lai
Các vị dù thấy cũng chẳng rõ
Bồ-tát như tỏ nẻo ta hành
Người ấy đủ sức chuyển pháp luân
Mọi kẻ thuyết pháp đem an lạc
Chẳng thể biết tận nẻo ta hành
Nếu chẳng thể biết nẻo Phổ trí
Người ấy chỗ thuyết thật nông cạn.
Nếu nghe pháp ấy tâm thoái chuyển
Ta do lẽ ấy nên không nói.
Nếu người biết rõ nẻo Phổ trí
Người ấy tâm không hề thoái chuyển
Rõ hết thảy pháp đều bình đẳng
Người ấy thuận theo nẻo ta hành.
Kiên Ý nên biết các kinh đó
Nơi đời về sau không người nhận
Chỉ trừ hội này tám Bồ-tát
Nay ở trước ta chắp tay đứng
Kiên Ý! Nên biết các vị ấy
Ắt rõ nẻo thâm diệu ta hành
Cũng là hội trước đứng đầu pháp
Luôn đốt sáng lòa đuốc Phật pháp
Thường dạy chúng sinh tâm Bồ-đề
Luôn vì chư Phật nẻo khen ngợi
Như nay đang đứng ở trước ta
Trước Phật quá khứ cũng như thế
Như hằng sa số chư Thế Tôn
Người ấy đều hiện đứng ở trước
Thời năm trăm người cùng đứng dậy
Chắp tay thưa rằng xin hộ pháp
Đều là hàng hộ pháp theo Phật
Kiên Ý! Ông cũng trong số ấy
Lại có tám mươi vị Bồ-tát
Đều nhằm dốc hộ trì Phật pháp
“Bạch Thế Tôn! Con ở đời sau
Thọ trì pháp Phật hành đúng nẻo
Trong đời đục loạn đầy xấu ác
Thuyết giảng rộng khắp pháp chủng ấy.”
Thế Tôn bèn lần lượt thọ ký
Liền vút lên không bảy Đa-la
Tám mươi ức người hết sức vui
Mỗi mỗi tự nghe được thọ ký.
Bấy giờ Phật bảo A-nan rằng:
“Ông trong đời xấu ác sau này
Thọ trì các kinh như thế chăng?”
Thưa rằng: “Thế Tôn! Con chẳng kham!”
Phật biết nên hỏi Đại Ca-diếp:
“Ông nên, sau khi ta diệt độ
Thọ trì các kinh như thế chăng?”
Thưa rằng: “Thế Tôn! Con chẳng kham!
Con năng nắm giữ cõi tam thiên
Cùng biển lớn nước và rừng núi
Mọi vật nặng nhẹ thảy giữ được
Chẳng thể đời ác hộ trì pháp
Đời nay Tỳ-kheo nhiều xấu kém
Chẳng theo giáo pháp của Thế Tôn
Huống chi Thế Tôn đã diệt độ!
Ai tin thọ nổi kinh diệu ấy?
Tất sẽ cho lời con nói thế
Tuổi cao già cả trí tuệ kém
Làm sao dẫn dạy nổi chúng tôi
Là hạng lợi căn thông tỏ nghĩa
Thế Tôn! Người xấu ác như vậy
Vui đời, ham đọc sách ngoại đạo
Lìa bỏ nẻo diệu lạc Thiền định
Thảy đều vui đắm nẻo thế sự.
Nhiều dục, khó đầy, không biết chán
Tham đắm vị ngon, cầu lợi dưỡng
Con chẳng thể cứu kẻ ác đó
Trông thấy con càng thêm ưu não
Con lúc ở nơi riêng vắng lặng
Thích Phạm Chư Thiên đến nói rằng:
“Thế Tôn! Con thuyết pháp như thế
Khiến nhiều chúng sinh trụ đạo Thánh
Có bao Tỳ-kheo đạt vô lậu
Cùng được thần thông đến bờ giác.”
Con được nghe vậy tâm vui vẻ
Nên đáp lời rằng nào đủ lạ!
Nơi đời ác sau, Thích Phạm thiên
Lại đến chỗ con than khóc rằng:
“Đại đức nên biết Phật pháp hoại!”
Con được nghe vậy càng ưu não!
Chẳng thể nói rộng duyên tội ấy
Cũng lại chẳng thể giữ kinh đó.
Cũng chẳng thể làm cho sáng tỏ
Tỳ-kheo đời ác khó trao lời
Thời chư Thiên, Thần đều than khóc!”
Bấy giờ Phật nói với Ca-diếp:
“Ta cũng biết trước ông chẳng thể
Thọ trì, ủng hộ pháp chủng ta
Chư Thanh văn đệ tử của ta
Không thể thọ trì kinh như vậy
Chỉ chư Bồ-tát nương lực Phật
Mới thọ trì được pháp diệu này.
Nơi đời ác sau hoặc sinh nghi
Ta nay sẽ dứt người lầm đó
Kinh này do đâu trước lại không
Chỉ do Tỳ-kheo ấy tạo tác
Hoặc thấy kinh này nhiều vô lượng
Vì đọc tụng nên tâm kinh sợ:
Kinh ấy rộng lớn nhiều tán loạn
Ai người đọc tụng được rốt ráo!
Nếu người nay thấy ông hỏi ta
Cùng nghe ta nay vì ông nói
Người ấy nơi đời thậm ác sau
Được nghe kinh này liền hoan hỷ.”

Lúc Phật thuyết về việc hộ pháp Vô lượng chúng phát tâm Bồ-đề Những chúng sinh ấy đều nghĩ rằng: “Ta ở đời sau nghe pháp này Cũng dốc cúng dường chư Thế Tôn Nhất tâm cầu tìm trí tuệ Phật Cúng dường xá-lợi cùng tháp miếu Tôn tạo tu sửa các hình tượng.”

Bấy giờ, Tôn giả A-nan liền đứng dậy, vắt một vạt y để trần vai bên phải, đầu gối bên phải chạm sát đất, chắp tay cung kính thưa với Đức Phật:

–Kính bạch Thế Tôn! Kinh này sẽ được gọi tên là gì và làm thế nào để thọ trì?

Đức Phật bảo Tôn giả A-nan:

–Kinh này tên là Thâu Nhiếp Các Căn Lành, cũng gọi là Chốn Nương Tựa Của Phước Đức, Khích Lệ Tâm Các Vị Bồ-tát, Chỗ Hỏi Của Bồ-tát, cũng có tên là Dứt Trừ Tất Cả Mọi Mối Nghi Của Chúng Sinh, nên theo đúng những ý nghĩa ấy mà thọ trì.

Đức Phật nói kinh này xong, Tuệ mạng A-nan, Bồ-tát Kiên Ý, chư Thiên, Long, Thần, Càn-thátbà, A-tu-la, Nhân phi nhân cùng với hết thảy đại chúng đều hết sức hoan hỷ tin thọ lời Phật dạy.


[Đầu trang]


[Mục lục bộ Kinh tập][426][427][428][429][430][431][432][433][434][435][436][437][438][439][440][441][442][443][444][445][446][447][448][449][450][451][452][453][454][455][456][457][458][459][460][461][462][463][464][465][466][467][468][469][470][471][472][473][474][475][476][477][478][479][480][481][482][483][484][485][486][487][488][489][490][491][492A][492B][493][494][495][496][497][498][499][500][501][502][503][504][505][506][507][508][509][510][511][512][513][514][515][516][517][518][519][520][521][522][523][524][525][526][527][528][529][530][531][532][533][534][535][536][537][538][539][540][541][542][543][544][545][546][547][548][549][550][551][552][553][554][555][556][557][558][559][560][561][562][563][564][565][566][567][568][569][570][571][572][573][574][575][603][604][605][606][607][608][609][610][611][612][613][614][615][616][617][618][619][620][621][622][623][624][625][626][627][628][629][630][631][632][633][634][635][636][637][638][639][639][640][641][642][643][644][645][646][647][648][649][650][651][652][653][654][655][656][657][658][659][660][661][662][663][664][665][666][667][668][669][670][671][672][673][674][675][676][677][678][679][680][681][682][683][684][685][686][687][688][718][719][720][721][721][722][723][724][725][726][727][728][729][730][731][732][733][734][735][736][737][738][739][740][741][742][743][744][745][746][747A][747B][748][749][750][751][752][753][754][755][756][757][758][759][760][761][762][763][764][765][766][767][768][769][770][771][772][773][774][775][776][777][778][779][780][781][782][783][784][785][786][787][788][789][790][791][792][793][794A][794B][795][796][797A][797B][798][799][800][801][802][803][804][805][806][807][808][809][810][811][812][813][814][815][816][817][818][819][820][821][822][823][824][825][826][827][828][829][830][831][832][833][834][835][836][837][838][839][840][841][842][843][844][845][846][847]


[Mục lục tổng quát]