TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH
BỘ KINH TẬP (425-847)

SỐ 816-PHẬT THUYẾT ĐẠO THẦN TÚC VÔ CỰC BIẾN HÓA KINH

Hán dịch: Đời Tây Tấn, Tam tạng An Pháp Khâm, người nước An Tức.

MỤC LỤC

QUYỂN 1

QUYỂN 2

QUYỂN 3

QUYỂN 4


QUYỂN 1

Nghe như vầy:

Một thời, Đức Phật du hóa trên trời Đao-lợi, ngồi trên tảng đá lưu ly xanh biếc, dưới cây Ba chất, thuyết pháp cho mẫu thân, suốt ba tháng hạ, cùng đông đủ tám ngàn chúng đại Tỳ-kheo Tăng, đều là bậc A-la-hán, đã dứt các cấu bẩn, đầy đủ thần túc, có thể làm các việc; còn Bồ-tát có bảy vạn hai ngàn vị, đã đạt thần thông, được Đà-lân-ni; đều biết những việc làm, những ham muốn trong tâm của tất cả mọi người, tự tại dạo chơi đến vô số cõi Phật. Khi vô số chúng đệ tử vây quanh nghe Phật thuyết pháp, thì bấy giờ, trong chúng của các trời có hai vị Thiên tử. Một tên là Nguyệt Thiên tử. Hai tên là Nguyệt Tinh Thiên tử cũng đang ngồi ở trong chúng hội. Lúc đó, Nguyệt Thiên tử từ chỗ ngồi, đứng dậy, sửa y phục, quỳ gối, chắp tay, bạch Đức Phật:

–Nay con có những điều muốn thưa hỏi.

Đức Phật bảo:

–Ông cứ tùy ý mà hỏi.

Nguyệt Thiên tử phấn khởi, liền dùng kệ thưa hỏi Đức Phật:

Đại Bi vì tất cả
Được lợi ích sâu dày
Tạo dựng được chí đạo
Cho cam lồ rất sạch.
Tự mình được an ổn
Diệt trừ các bẩn dơ
An ổn cho tất cả
Thế nên xin muốn hỏi:
Ở trong vô số kiếp
Việc làm rất gian khổ
Bỏ hết các chỗ có
Ban cho không nhàm chán,
Tâm Bồ-đề tất cả
Lắng lo cho mọi người
Nay đem những việc này
Muốn hỏi Nhân Trung Tôn.
Có ai thấy thân Phật
Tướng tốt tự trang nghiêm
Đều phát ý phấn khởi
Chỗ được do ruộng phước,
Mênh mông không ngằn mé
Vô lượng hơn biển cả
Thế nên xin muốn hỏi
Đức đó là hơn hết,
Cũng không ý gì khác
Lại không tâm gì khác
Đại hùng trong ba cõi
Biết rõ những nhớ nghĩ,
Thân ấy chỗ nên làm
Chưa từng theo người khác
Thế nên xin muốn hỏi
Bậc Đại Trí ở đời.
Nếu có đức, không đức
Khen ngợi và chê bỏ
Có danh và không danh
Hoặc khổ và cùng vui,
Đều biết tám việc đời
Phân biệt đầy đủ rồi
Thế nên xin muốn hỏi
Đã lìa những sợ hãi.
Lại giúp đỡ mọi người
Thân bình đẳng không khác
Do đó không tăng giảm
Ba cõi đều như vậy,
Lòng lành đến mọi người
Không nghi, không sân hận
Thế nên xin muốn hỏi
Giữ hạnh cũng như đất.
Ban cho và giữ giới
Tâm ấy rất trong sạch
Thà tự bỏ thân mạng
Trọn không phạm cấm giới,
Thân miệng phải làm vậy
Ý cũng lại như thế
Vậy nên xin muốn hỏi
Bậc thoát khỏi thế gian.
Nhẫn nhục điều phục ý
Vững chắc không tự tổn
Đều do trí đã tạo
Thấy mọi chỗ khổ nhọc,
Mọi giận dữ tốt xấu
Tất cả đều nên nhịn
Thế nên xin muốn hỏi
Mọi việc đều làm xong.
Sức siêng năng càng mạnh
Vượt hơn tất cả nghĩa
Vì đời nên cần khổ
Chưa từng nghĩ cho mình,
Ngày đêm thường mong cầu
Như nước chảy vào biển
Thế nên xin muốn hỏi
Biết đức ấy bằng trời.
Đối với các ham muốn
Ba cõi không làm được
Tất cả mọi ân ái
Đều có thể hàng phục,
Thiền tư đều đầy đủ
Thần túc cũng như vậy
Thế nên xin muốn hỏi
Dũng mãnh giữa loài người.
Đối với đại trí tuệ
Đã độ không còn vui
Kiếp kiếp mọi việc ác
Thảy đều nên xả bỏ,
Hoặc ở nơi vắng vẻ
Tự tại biết các pháp
Thế nên xin muốn hỏi
Riêng làm việc thế tục.
Trí công đức thần túc
Diệt sạch mọi hành nghiệp
Từ đây đến cõi khác
Không khen, tưởng Từ tâm,
Cúng dường các Đức Phật
Cũng không tưởng chư Phật
Thế nên xin muốn hỏi
Thương người đời mà hiện.
Khi ấy ma lại đến
Đều cùng vào đại hội
Liền dùng sức đạo pháp
Chúng ma đều tự hoại,
Khi hàng phục ma rồi
Tự chứng thành Chánh giác
Thế nên xin muốn hỏi
Công ấy là hơn hết.
Tất cả ở trong đất
Đất hiện lên tòa vàng
Lúc đó hiểu được đạo
Trí Phật không thể lường,
Liền đi đến chỗ khác
Thảy đều hiểu các nghĩa
Thế nên xin muốn hỏi
Tối thượng trong loài người.
Tất cả trí công đức
Tôn quý trong tôn quý
Đã được ý như Phật
Như pháp mà kinh hành,
Cả hội mong được độ
Đạo Sư vì tất cả
Thế nên hỏi nghĩa này
Ba cõi đều nhờ ân.

Nói kệ khen ngợi Đức Phật rồi, Nguyệt Thiên tử liền bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Thế nào là Đại Bồ-tát được thần thông trí tuệ và được độ thoát cùng tột? Thế nào là Bồ-tát được phương tiện khéo léo không thể nghĩ bàn và biết được chỗ bàn luận của tâm người khác? Thế nào là Bồ-tát biết được tất cả pháp, là một hạnh, là một vị, là một nhập, là một lời dạy? Thế nào là được trí tùy ý, vì người khác mà nói? Thế nào là Bồ-tát được giới sâu xa, không có hạnh buông thả, tự đến đạo Vô thượng chánh chân, không xa lìa Phật? Những điều thưa hỏi như vậy, bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn vì con giải thích trình bày.

Đức Phật khen Nguyệt Thiên Tử:

–Hay thay, hay thay! Này Thiên tử! Muốn học sự nghiệp của Như Lai, muốn phát thệ nguyện rộng lớn, muốn vào trong cuộc chiến lớn làm bậc thầy hướng dẫn, muốn độ tất cả, muốn làm vị thuyền trưởng, muốn chuyển bánh xe pháp lớn, muốn làm sự ban phát lớn, muốn làm thân pháp lớn, muốn mưa trận mưa pháp lớn, muốn đốt lửa đại pháp, muốn đánh trống đại pháp, muốn dựng cờ phướn pháp, muốn nói đại pháp giới, muốn phát ra tiếng đại pháp, muốn tu sửa đại pháp anh, muốn hiển hiện trí đại pháp, muốn đoạn sự cúng tế tà kiến, muốn tạo dựng sự cúng kính đúng chánh pháp, những việc làm như vậy không thể tính được.

Nguyệt Thiên tử thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nay con vì tất cả, đem nghĩa này thưa hỏi Như Lai.

Đức Phật bảo:

–Này Thiên tử! Hãy lắng nghe lắng nghe và khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì ông mà nói: Đại Bồ-tát là bậc đại trí giới rất sâu xa, tự đạt đạo Vô thượng chánh chân, thành bậc Chánh giác cao tột. Này Thiên tử! Hãy lắng nghe Đức Thế Tôn nói.

Lúc đó, Nguyệt Thiên tử cùng các đại chúng, chắp tay lắng nghe để lãnh nhận lời chỉ dạy.

Đức Phật nói:

–Này Thiên tử! Bồ-tát có bốn pháp giúp đạt được đại thần thông đệ nhất sai biệt. Những gì là bốn?

1. Biết được những tướng trạng của tất cả pháp, không có sự tăng giảm.

2. Cầu tìm tất cả pháp.

3. Tất cả pháp không có cùng tận, được định an ổn, chứng được sở học.

4. Không thấy tất cả các pháp lìa pháp tánh, ngoài pháp giới không có chỗ mong muốn mà tưởng chắc.

Đó là bốn pháp.

Này Thiên tử! Thế nào là biết tướng trạng của pháp? Biết quá khứ cũng không, tương lai cũng không, hiện tại cũng không, mọi sở hữu cũng đều không, giống như hư không. Này Thiên tử! Luôn ở trong thiền định mà tìm cầu ái không, đều không biết xứ. Đó gọi là hiểu biết. Này Thiên tử! Biết thị xứ gọi là hiểu biết phân biệt; hiểu rồi, đem sự hiểu đó lần lượt truyền trao: Thị xứ, tri xứ, tạo lập xứ, phân biệt xứ, như thị xứ, giải nghĩa xứ, lần lượt truyền cho nhau. Đó gọi là công đức.

Này Thiên tử! Thế nào là được tất cả pháp? Pháp cũng không tưởng ngã, ngã cũng không tưởng pháp, pháp khởi thì khởi, pháp trụ thì trụ. Này Thiên tử! Tất cả pháp như vậy, là ngã sở, chẳng phải ngã sở, tất cả đều không. Bồ-tát như vậy là trước đã chuyển. Vì trước đã chuyển, là không vì cái vui mà khởi lên diệt xứ. Vì sao? Vì mọi sở hữu, là không sở hữu; đối với không sở hữu, ở ngoài các pháp mà suy nghĩ; tuy suy nghĩ, nhưng không đối với các pháp khác mà có sự học, cũng không có sự giảng nói, cũng không có sự trụ; tuy đối với các pháp khác làm ánh sáng lớn, nhưng với pháp cũng không thực hành, cũng không học.

Này Thiên tử! Thế nào là Bồ-tát biết được các pháp bình đẳng, tâm như hư không? Sự tạo tác của ba cõi?

Này Thiên tử! Tâm không có hình thể, cũng không thể thấy nơi chỗ trụ dừng, cũng không thể biết nó như hư huyễn; tâm là tâm pháp, tìm tâm cũng không thể được; như vậy tâm, tâm pháp, tìm tâm rõ ràng là không thể được; tâm ấy lại không thể biết. Tâm của tất cả các pháp là như vậy, cũng không thể được, lại chẳng thể được. Nắm vững pháp đó là không sở hữu, rồi xét kỹ mọi sở hữu đều như huyễn hóa, như hình bóng. Như vậy, biết tất cả các pháp là không thật; đã là không thật, thì tất cả các pháp không học mà tự biết. Như vậy, biết tất cả pháp cũng ngang bằng như hư không. Này Thiên tử! Như hư không thì không thể thấy, cũng không có sinh, cũng không có lớn; biết tất cả các pháp cũng lại thế nên. Như vậy, hư không cũng như hư không, vắng lặng trong sạch. Các pháp cũng vắng lặng và trong sạch như vậy.

Này Thiên tử! Thế nào là Bồ-tát biết được pháp tánh của tất cả các pháp? Này Thiên tử! Bồ-tát nên học như vầy: “Các pháp cũng không thấy, cũng không thể được, mắt cũng không thấy tai, tai cũng không biết mắt, tai cũng không thấy mắt, mắt cũng không biết mắt, mũi cũng không thấy lưỡi, lưỡi cũng không biết lưỡi, lưỡi cũng không thấy mũi, mũi cũng không biết mũi, mũi cũng không thấy thân, thân cũng không biết thân, thân cũng không thấy ý, ý cũng không biết ý; tất cả các pháp hoặc đi hoặc đứng, pháp ấy như thế nào, mà biết là chỗ của pháp tánh bình đẳng.” Như vậy mắt thấy, biết, phân biệt đối với pháp, lời nói đúng hay là không đúng cũng không theo. Thế nên biết được chỗ thường trụ, đối với pháp cũng không làm suy yếu. Vì sao? Vì ngoài cũng không vào, trong cũng không nhận, đối với suy yếu không suy yếu nên biết như vậy, thấy như vậy; đối với pháp cũng không có chỗ sinh, có chỗ trụ; trụ như vậy thì đều thấy tất cả. Này Thiên tử! Đó là pháp tánh. Như vậy pháp tánh cũng không khởi, cũng không diệt; đối với thị xứ, không sở hữu nhưng lại hiện ra các pháp, vì trụ không chỗ sinh, không chỗ khởi, nên xét kỹ chỉ xứ là như vậy, như mắt đang thấy, thì trí cũng như vậy, cũng không; đối với pháp tánh, cũng không có chỗ thoát, lại hưng thạnh mà dừng trụ, các pháp và pháp tánh kia đều vắng lặng. Này Thiên tử! Đó là bốn pháp, giúp Bồ-tát đạt được đại thần thông trí tuệ, được độ thoát cùng tột.

Này Thiên tử! Thế nào là thần thông? Thế nào là trí?

Này Thiên tử! Thần thông là biết được nghĩa cốt yếu của tất cả các pháp, mỗi mỗi pháp ấy trí đều hiểu rõ. Thế nên, này Thiên tử! Đó gọi là thần thông; đối với tất cả các pháp, tự biết ngã và ngã danh, này Thiên tử! Ngã là không tham bướng. Đó là pháp sáng suốt. Này Thiên tử! Bồ-tát sử dụng sẽ mau được đại thần thông trí tuệ, đối với sở nguyện không nhàm chán. Vì sao? Vì muốn sở nguyện được đầy đủ, như vậy là trí. Này Thiên tử! Bồ-tát hơn mắt người thường, đạt được Thiên nhãn tịnh, đều thấy được mười phương với vô số ức ngàn vạn cõi chư Phật, không thể tính đếm; ở trong các cõi đó; được thấy chư Phật Thế Tôn và các chúng đệ tử; dùng Thiên nhĩ nghe chư Phật Thế Tôn nói pháp, nghe đều hiểu biết; đều biết rõ những việc trên dưới trong ngoài của tất cả nhân dân có học hay không học; hoặc dùng Thần túc dạo chơi đến khắp cõi chư Phật; đều biết rõ chỗ trải qua trong vô số kiếp đời trước; tìm biết trong ý nghĩ của mọi người, ngọn gốc từ đâu sinh ra thảy đều biết hết; Bồ-tát dùng trí này để tự chứng đắc, lại có thể vì tất cả mà nói pháp; như vậy là trí.

Này Thiên tử! Đại Bồ-tát đạt được Nhất thiết trí, được Đức Phật ấn khả thì đều được trụ và mau được pháp của chư Phật, thành đạo Vô thượng chánh chân bậc Chánh giác cao tột.

Bấy giờ, Đức Phật liền nói kệ:

Đối với đại thần thông
Thảy đều được đầy đủ
Khéo quyền biến ban cho
Thấy liền tướng công đức.
Như vậy đều từ một
Biết rõ tất cả pháp
Giới đức rất sạch trong
Cũng đều do đạt được.
Vì lý do như vậy
Mà biết hết các pháp
Trọn không có hành nghiệp
Nhớ nghĩ có vượt qua.
Tất cả không sở hữu
Pháp ấy cũng như vậy
Ví như là hư không
Nghĩa pháp không sai khác.
Với pháp chắc chắn này
Thì mới được thấy pháp
Không sinh nghi pháp giới
Nhờ đó hiểu biết rõ.
Vì không dùng pháp phục
Mà đều biết đầy đủ
Phân biệt hiểu rõ ràng
Tự đạt được thần thông.
Các pháp quá khứ ấy
Đều biết là hư không
Các pháp ở tương lai
Cũng lại không sở hữu.
Nay các pháp hiện tại
Cũng ngang bằng hư không
Người thấy được như vậy
Tất cả đều bằng nhau.
Các pháp ba đời này
Thảy đều như hư không
Cũng chẳng phải ngã sở
Cũng không phải là ngã.
Vì tự biết một đời
Tất cả cũng như thế
Như vậy mọi sở kiến
Khiến tăng thêm niềm tin.
Biết điều đó như vậy
Công đức không gì bằng
Nói pháp, vì tất cả
Cũng không tưởng ở pháp,
Cũng không có sân hận
Không nói đúng hay sai
Cũng không có chỗ nghi
Cũng lại không chỗ học,
Điều ấy đã như vậy
Liền tạo lập các pháp
Với mọi sự tu tập
Đều không còn có gì.
Đối với các pháp khác
Các pháp đều như thế
Không đối với pháp khác
Mà lại có sở kiến,
Như vậy cũng không sinh
Cũng lại không có gì
Cho nên không chỗ vào
Cũng lại không nắm bắt,
Liền đạt được công đức
Vì tất cả nói pháp
Diễn rộng nghĩa các pháp
Với đạo không chỗ nghĩ.
Tâm ấy với ba cõi
Vui thích được kham nhậm
Tâm đã là như vậy
Là điều không thể thấy.
Như hình bóng không sắc
Hình ấy cũng như vậy
Với pháp có chỗ cầu
Tâm ấy là đã dừng.
Nếu có với pháp này
Muốn tìm cầu tâm ấy
Pháp cũng chẳng thấy tâm
Tâm cũng chẳng thấy pháp.
Đối với tâm như vậy
Tâm lại tìm cầu tâm
Tâm đã là như vậy
Đều thấy các tập khí.
Các pháp cũng như vậy
Không thể thấy rõ pháp
Tất cả mọi tư tưởng
Không thể làm ngăn ngại.
Tất cả pháp chưa thành
Ta đều đã biện luận
Pháp ấy như hư không
Luôn trụ không tăng giảm.
Ví như là hư không
Chỗ sinh, không chỗ có
Nó đã là như vậy
Vì thấy tất cả pháp.
Cũng không với hư không
Mà có chỗ làm ra
Như vậy gọi là tốt
Các pháp cũng như vậy.
Mắt cũng không thấy tai
Tai cũng không thấy mắt
Lưỡi cũng không thấy mũi
Mũi cũng không thấy lưỡi
Thân cũng không thấy ý
Ý cũng không thấy thân
Đều ở đúng vị trí
Mỗi mỗi không thấy nhau.
Nếu nghe từ người khác
Hoặc là tự mình biết
Đều có thể như vậy
Vì người nói pháp giới.
Pháp giới là như vậy
Thì mới là bình đẳng
Sáu suy không biết ngã
Ngã cũng không biết suy,
Thảy đều biết như vậy
Học hỏi việc các pháp
Người học được như vậy
Tuệ ấy không thể lường.
Đều thấy khắp mười phương
Vô số ức ngàn Phật
Và cùng chúng đệ tử
Đều nghe Phật thuyết pháp.
Ai đối với pháp này
Vì người, nói rộng khắp
Đó là vô lượng tuệ
Và là rất trong sạch.
Khéo nói công đức giới
Mà được nghe đầy đủ
Hiểu rõ với các nghĩa
Vì phân biệt đầy đủ.
Đều hiểu biết tất cả
Sở niệm của tâm ấy
Liền dùng sức thần túc
Dạo chơi đến các cõi.
Đến muôn ngàn ức kiếp
Vô số cát sông Hằng
Việc làm của đời trước
Thảy đều thấy biết rõ.
Lại đối với hành này
Vì đã được năm thông
Nhân đó được gần kề
Bậc an ổn vô thượng.
An trụ chỗ Đức Phật
Đều là đã được trụ
Người nào chưa được đạo
Nên cầu nghĩa đạo này.
Đối với các pháp quán
Đều rỗng, không chỗ thấy
Liền phát ý phấn khởi
Vui mừng không gì bằng.
Tất cả các chúng ma
Không động đến sợi lông
Mau đạt được Chánh giác
Bậc Tối Tôn Vô Thượng.

Này Thiên tử! Lại có bốn pháp, làm cho Đại Bồ-tát đạt được công đức khéo léo quyền biến phương tiện không thể nghĩ bàn. Bốn pháp đó là:

1. Được công đức trí tuệ đời trước.

2. Thấy có người không chỗ nương tựa, người lạnh (thiếu mặc) người khổ (thiếu ăn) người đau khổ, người sầu lo; thấy các độc khổ này, liền phát ý dũng mãnh cứu giúp và dạy họ khiến cho họ mong cầu Phật đạo.

3. Dùng các pháp thọ trì ý Phật, để tâm tất cả; đem phước công đức xa xưa của đời trước, khuyến khích, giúp đỡ; lại đem phước công đức của tất cả chư Phật ở quá khứ, khuyến khích giúp đỡ họ khiến họ bỏ, xa lìa sầu lo khổ sở để được giải thoát; rồi đem công đức này, hồi hướng cho những người ách nạn chịu mọi điều khổ sở.

4. Chưa từng phát những ý bất mãn với tất cả các nguyện, ý cũng chưa từng phát ý lậu thoát, hoặc khiến người không đến đạo; cũng chưa từng khiến tất cả mọi người không đến đạo. Như tâm ta muốn đến đạo, đạo cũng đón tâm ta; như vậy trí liền đón tâm, tâm liền đắc đạo, trí dùng phương tiện khéo léo đối với công đức làm tăng thêm lợi ích, không ở nơi pháp giới có chỗ hoại; đối với chỗ học của pháp, chỗ nghĩ bàn không có nhàm chán; đối với các công đức cũng không nhàm chán. Như vậy, các công đức tạo được càng tăng thêm gấp bội, không nhàm chán, đối với tâm pháp chẳng có sự quên mất, tâm đối với công đức cũng không chỗ mất; luôn thực hành tâm ban cho trong sạch không có sự mong cầu; luôn thọ trì giới cấm không thiếu, không giảm; đối với sức nhịn nhục không gì lay động; đối với tinh tấn không biếng nhác; đối với thiền định không rối loạn; đối với trí tuệ không ngu si; thường cúng dường tất cả không chút tham tiếc; dùng lòng lành báo ân để không còn chỗ sầu lo; suy nghĩ chỗ sinh đạt đến chỗ không sinh, mong muốn được nói pháp; lo lắng và mong muốn cho tất cả đều độ thoát.

Này Thiên tử! Hạnh của Bồ-tát là như vậy. Nếu có ai biết phước mình còn nhỏ, dùng phương tiện khéo léo để tạo ra vô số phước không thể lường. Này Thiên tử! Bồ-tát đối với tất cả pháp ấy đều đạt được trí không thể tính; đối với các pháp, không có pháp nào mà không biết, không có pháp nào mà không rõ. Vì sao? Vì tất cả các pháp là Không, Vô tướng, Vô nguyện; cái không như vậy không thể tính, tâm đạt được không thể tính, làm một ít công đức, dùng phương tiện khéo léo tạo ra vô số không lường. Vì sao? Vì như vậy, đạo không thể lường, tâm cũng như thế. Như vậy, hành cũng không thể lường, pháp không ngằn mé cũng không thể lường, tùy theo pháp không ngằn mé cũng không thể lường; như vậy, đạo pháp chư Phật Thế Tôn cũng không ngằn mé không thể lường.

Lại nữa, này Thiên tử! Bồ-tát dùng phương tiện khéo léo, nên đối với tất cả hành đều vượt qua hết vượt qua rồi thì tùy theo sự vui thích của tất cả mọi người–người bố thí, người mong cầu, người thuyết pháp–dùng pháp mà độ thoát họ.

Lại nữa, này Thiên tử! Như vậy Bồ-tát đạt được vô số pháp mà mình đã hành là không thể tính; đối với việc Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, Trí tuệ đều đầy đủ. Đối với người khổ sở không có tâm coi thường; đối với giới không có khuyết giảm, dùng giới để có lợi ích lâu dài, vì tất cả mọi người mà nhịn nhục, nếu có người mắng chửi xem thường đều nhịn chịu, từ sự siêng năng mà hợp thành các đức lành; từ thiền định mà đạt được các định, từ trí tuệ mà không còn trở ngại.

Lại nữa, này Thiên tử! Bồ-tát dùng phương tiện khéo léo đối với đệ tử hiện hành, tùy theo pháp ấy mà giáo hóa họ, tự họ không còn chỗ mong cầu; đối với Bích-chi-phật hiện hành, dùng giáo pháp ấy mà giáo hóa họ, giúp họ ở trong pháp ấy không còn chỗ mong cầu. Này Thiên tử! Bồ-tát dùng bốn pháp này, được trí tuệ quyền biến khéo léo không thể nghĩ bàn.

Đức Phật liền nói kệ:

Khổ ấy gồm có hai
Là ta và người khác
Tự diệt khổ chính mình
Và diệt khổ người khác.
Lo nghĩ của mọi người
Khiến tâm ngộ được đạo
Với pháp, tâm cũng vậy
Đều khiến hiểu một nghĩa.
Do phước của mọi người
Ba đời hành khổ nhọc
Chư Phật đã tạo phước
Đều khuyên giúp tất cả.
Dùng phước công đức này
Hồi hướng cho tất cả
Đối với tâm sở nguyện
Mau chóng được Phật tuệ.
Khiến tất cả phát ý
Đều học đạo Chánh chân
Tâm không ở ngoài đạo
Mà không có sự cầu.
Tâm chẳng mong cầu đạo
Nhìn cũng không thể thấy
Tướng đạo tâm như vậy
Tướng tâm cũng như thế.
Pháp bình đẳng như vậy
Với ngã, cũng không ngã
Tự thấy biết công đức
Công đức càng trong sáng.
Với thân không chỗ tăng
Pháp giới khó nghĩ bàn
Thường trụ ở Chánh đạo
Thế mới là cầu Phật.
Tâm ấy chưa từng nghĩ
Tôn trọng được lợi ích
Tâm tồn tại nơi đạo
Siêng năng không biếng nhác.
Bố thí không nhàm chán
Thường giữ gìn giới cấm
Nhẫn nhục cũng như vậy
Chẳng tạo gốc con người,
Ngày ngày siêng năng hành
Thường tự nghĩ thân không
Thiền định được vắng lặng
Trí tuệ độ tất cả.
Nuôi dưỡng hết mọi người
Việc làm như hoa sen
Ban cho giới, đều sạch
Không trông mong người khác.
Thường nguyện cầu Phật tuệ
Các pháp đều biết rõ
Học tập tất cả pháp
Tuệ ấy khó nghĩ bàn.
Vì tất cả nói pháp
Mà không có trở ngại
Nếu có được hạnh này
Đó chính là Bồ-tát.
Hiểu rõ thảy đều không
Cho ít, quả vô lượng
Không tưởng có và không
Tâm chưa từng buông lung,
Đều biết tất cả hạnh
Độ thoát như sở nguyện
Ban cho theo mong muốn
Thuyết pháp giáo hóa họ.
Đã cho thì không hối
Trì giới không thiếu khuyết
Nhẫn nhục và siêng năng
Thiền tuệ không tự đại.
Bố thí và Trì giới
Nhẫn nhục và Tinh tấn
Với Thiền định Tam-muội
Cho Tuệ mà điều phục.
Đối với hàng Thanh văn
Và hàng Bích-chi-phật
Độ thoát theo chỗ muốn
Bên trong không theo cảnh.
Vững trụ ở pháp này
Bồ-tát không chỗ đắm
Quyền tuệ khó nghĩ bàn
Mau chóng độ tất cả.

Lại nữa, này Thiên tử! Bồ-tát có bốn pháp, tất cả pháp là một vị, một nhập, một thuyết, trí ấy đều thấu rõ các nghĩa. Những gì là bốn? Bồ-tát đối với pháp giới, được công đức Nhất thiết trí mà không có chỗ phá hoại; tin tất cả các pháp đều không; đối với pháp giới, cũng không nói, là ta làm, hay chẳng phải ta làm. Vì sao? Vì cái mà ta làm cũng không, chẳng phải cái ta làm đều không. Vì sao? Vì phá bỏ các tập khí chấp trước, liền được trí biết tất cả pháp.

Này Thiên tử! Đó là bốn pháp. Bồ-tát biết được tất cả pháp là một vị, một nhập, một thuyết. Trí như vậy là hiểu đạt nghĩa các trí, nên biết như vậy, thấy như vậy; hoặc đối với thế tục, hoặc đối với dùng lòng từ truyền cho nhau giáo pháp; nếu có hành giả thực hành pháp đó, nên chỉ họ thực hành; nếu người có ân nên báo ân họ; nếu có người trụ lập nên kiến lập cho họ; dùng pháp đại Bi mà chuyển hóa họ; đối với các pháp, không nói hay nghĩ pháp này là cao, pháp kia là thấp, cũng không đối với nhập pháp, cũng không đối với hành pháp, cũng không đối với tất cả pháp mà có sở kiến; học biết pháp của người phàm, liền thực hành pháp của người phàm; đối với pháp của người phàm, cũng không khen, cũng không chê; đối với một việc này, mà hoại pháp tập khí chấp trước cũng vậy; phải nói rộng tất cả pháp, đối với các pháp giới, không có chỗ hoại. Vì sao? Vì được một nhẫn, là nhẫn đối với không; đối với nhẫn không đó mà không nghi ngờ, như một nhập, các pháp nhập cũng vậy, như nhập không chỗ sinh.

Này Thiên tử! Như vậy Bồ-tát bậc được gần gũi Đức Phật Thế Tôn và đạo Vô thượng chánh chân, nhưng cũng không nghĩ tưởng là gần Phật hay không gần Phật. Vì sao? Vì không thấy một việc nào hoại. Vì sao? Vì cũng không thấy tất cả mọi người khác, cũng không thấy đạo khác, cũng không thấy mọi người, cũng lại không thấy đối với đạo.

Khi ấy Đức Phật lại nói kệ:

Với pháp giới không nói phải, trái
Với pháp giới, cũng chẳng phá hoại
Pháp giới như vậy, thảy đều Như
Nếu không suy nghĩ, không rõ nghĩa,
Đã tin pháp này tất cả không
Sáu suy dài lâu cùng không hôi
Các pháp vắng lặng, được tự tại
Nhất xứ không, các pháp cũng vậy.
Với pháp không thấy, không thể nhìn
Cũng lại không ngã, không thể giữ
Nếu ta học được pháp như thế
Như vậy đạo ý hiểu rõ ràng.
Thực hành vắng lặng, được không tạng
Chỉ cùng tướng, tùy các pháp xứ
Đều biết các pháp là vắng lặng
Với vắng lặng này, đều đạt được,
Đều biết pháp thế gian hơn hết
Như vậy không nghi, không trở lại
Với nguyện không đoạn, nguyện liên tục
Nghe pháp luôn nghĩ không biếng nhác.
Đối với vô số không thể tính
Việc thân ấy làm không tự thấy
Luân hồi năm nẻo, không thấy pháp
Người phàm, La-hán mới được biết,
Người này tu tập thường tụng niệm
Như vậy là thờ pháp La-hán
Cũng lại không khen, cũng không chê
Vắng lặng không thọ trì mới biết.
Tất cả các pháp thảy đều biết
Với pháp giới không có chỗ hoại
Nhẫn nhục, hư không, bằng, không khác
Các pháp hư không đều như vậy.
Hư không, nhẫn nhục, không chỗ nhớ
Tất cả các pháp vào một trí
Không từ đâu sinh, không tập sinh
Thực hành theo đạo không khó gì.
Như vậy gần gũi vô lượng đạo
Do vậy tâm niệm không biếng lười
Hoặc ta hoặc người, pháp như vậy
Chỗ cầu không được mới hiểu đạo.

Này Thiên tử! Bồ-tát lại có bốn pháp, đối với giới sâu dày thực hành không buông thả. Những gì là bốn?

Này Thiên tử! Bồ-tát suy nghĩ: Những gì gọi là giới? Chính mình thấy những việc của thân làm như vậy và đều biết thân làm lành, miệng nói điều tốt, tâm nghĩ tốt. Đó gọi là giới. Thế nào là thân làm, miệng nói, tâm nghĩ? Thân không phạm những việc: Không sát sinh, không trộm cắp, không dâm dục. Đó là thân làm lành. Thế nào là miệng nói tốt? Miệng không nói ác, không nói hai lưỡi, không nói dối trá, không nói thêu dệt. Đó là miệng nói tốt. Thế nào là ý nghĩ tốt? Không ganh ghét, không tức giận, không tà kiến. Đó là ý nghĩ tốt. Như vậy là tự thấy được chính mình. Vì lý do đó, cho nên được đầy đủ sở hành của thân, khẩu, ý là không làm những việc này, thì công đức ấy, không thể nói hết; cũng không có màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hồng, mà không lìa sắc, cũng không nhãn thức mà có thể biết, như vậy cũng không ý thức phân biệt mà có thể biết. Vì sao? Vì đối với không sinh, không chỗ sinh; đối với khởi, không chỗ khởi; như vậy, không sinh không chỗ sinh, không khởi không chỗ khởi liền được công đức không thể diễn nói khắp hết được. Khi ấy, tâm sẽ yên ổn không thể lay động, như vậy là không tương phùng, không có thể diễn nói hết; không có thể diễn nói hết được như vậy, cũng không tự nói ta có thể làm, hay là nói ta có thể thực hành, tâm cũng không thể thấy. Như vậy nói tâm, giới cũng lại không thể thấy hết dấu vết.

Này Thiên tử! Như vậy Bồ-tát mau đạt được công đức của giới thâm sâu.

Lại nữa, này Thiên tử! Bồ-tát biết công đức lìa sở kiến thân; biết sở kiến không chỗ khởi; hoặc giới hoặc không giới đều bình đẳng không có chỗ làm.

Lại nữa, này Thiên tử! Bồ-tát được trụ vào pháp yếu sâu dày, nên dò xét như vầy: Mọi việc học được đều phải thực hành hạnh nguyện sâu xa; đối với hạnh của tất cả các thừa đều phải thực hành. Đó là giới, thực hành như vậy, là không tự lừa dối mình, cũng không lừa dối người. Đó là giới thâm sâu.

Lại nữa, này Thiên tử! Bồ-tát được giới không phạm, giới không thiếu sót, giới không quên mất. Thế nào là Bồ-tát được giới không phạm, giới không thiếu sót, giới không quên mất?

Này Thiên tử! Người có khả năng tự bảo vệ chính mình, thì có khả năng bảo vệ và giữ gìn. Này Thiên tử! Người tự biết chính mình, thì có khả năng biết giới, không khinh thường giới; đối với sự học không chỗ khuyết, đối với giới không mất. Vì lý do đó, cho nên, không mất giới và đều biết được pháp của tất cả người khác. Sao gọi là người khác, ta ở tại chỗ nào? Việc không oán giận người khác, cũng vậy. Này Thiên tử! Vì lý do đó, cho nên, có thể độ thoát cho tất cả mọi người. Này Thiên tử! Đó là bốn pháp, Bồ-tát được giới sâu dày mà không buông lung.

Đức Phật lại nói kệ:

Việc thân miệng ý làm
Pháp trong sạch lại sạch
Hạnh ấy hơn ngọc báu
Chính là giới Bồ-tát.
Mười lành là hơn hết
Bồ-tát giữ gìn pháp
Thân miệng ý không khuyết
Giới ấy là rất sáng.
Không làm, cũng không sinh
Với sinh, mà không sinh
Không loài không nơi trụ
Làm sao được vô trí?
Không chỗ tạo tác giới
Mắt nhìn không thể thấy
Chẳng phải tai, mũi, miệng
Chẳng phải thân, ý, thức.
Không tạo gốc sáu tình
Cũng không chỗ để trụ
Giới này rất trong sạch
Giới cũng không chỗ trụ.
Giữ giới không buông lung
Với giới không ngã tưởng
Giữ giới, không nghĩ giới
Nên được giới sâu xa.
Như vậy thấy thân hành
Xa lìa mọi sự thấy
Không mong cầu chỗ thấy
Với giới, không nghĩ, tưởng.
Như luật vào pháp sâu
Hoàn tất được các hạnh
Diệt nghiệp lại hộ giới
Với giới không tưởng khác.
Có ta liền có giới
Không ta cũng không giới
Nói thế là sợ hãi
Biết ta thì có giới.
Không nghĩ giới rỗng lặng
Không chấp giới vắng lặng
Giới rỗng lặng, không thời
Vắng lặng không suy nghĩ.
Giới vô thượng không thiếu
Với giới không cống cao
Giới cũng không ngã tưởng
Đó là giới sâu dày.
Với giới rất dũng mãnh
Giới chẳng làm, chẳng thiện
Giới đầy đủ các hành
Không thể được các pháp.
Giới có tưởng là si
Không giới nói giữ giới
Đó là diệt quả giới
Không thoát khỏi năm đường.
Xa lìa mọi tà kiến
Ngã sở đều không dùng
Giới cũng không chỗ thấy
Không sợ ở năm đường.
Nhìn không thấy là thấy
Giới không thêm không tốt
Với ta mà không bệnh
Đều thấy tu tập giới.

QUYỂN 2

Lúc đó, Nguyệt Thiên tử lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Rất kỳ lạ, chỉ có Đức Như Lai thâm diệu mới được như vậy. Đấy chính là đạo Vô thượng chánh chân của Phật Thế Tôn, chỗ thực hành sự bố thí của Bồ-tát, rất kỳ lạ. Như vậy gọi là mắt thấy các pháp hạnh, không khởi lên hành nghiệp, tự cho mình tốt, lợi ích cho bản thân thì sẽ hoại chánh đạo; từ lâu, hành nghiệp đã đoạn lìa thân tưởng, thực hành trong vô số kiếp mà không rơi xuống địa vị Thanh văn và Bích-chi-phật, lại không rơi vào rốt ráo đối với đạo. Pháp Phật đầy đủ có bao nhiêu pháp. Bạch Thế Tôn! Bồ-tát đối với pháp hạnh sâu xa, chứ không đối với ức, trăm, ngàn, vạn Phật, mà chứng đắc.

Đức Phật bảo:

–Này Thiên tử! Bồ-tát có bốn việc để được pháp hạnh sâu xa, không đối với ức, trăm, ngàn, vạn Phật làm chỗ chứng đắc. Những gì là bốn?

Này Thiên tử! Bồ-tát vững vàng ở các pháp yếu, dùng Nhất thiết trí xuất gia rống tiếng rống lớn để được tinh tấn, mà không khiếp nhược. Lại vì tất cả, bỏ mọi cái mình có. Trụ vững ở việc bố thí thì liền được đại Bi. Như Đức Phật đã nói, đã hỏi, đều trả lời là mau được quyền biến phương tiện khéo léo đối với tất cả công đức đã thành tựu, lại thành tựu các công đức khác.

Này Thiên tử! Đó là bốn việc, đối với pháp hạnh sâu xa của Bồ-tát, không đối với vô số ức, trăm, ngàn Phật mà cầu chứng đắc.

Đức Phật lại nói kệ:

Đứng vững vào việc làm
Trí ấy cũng như vậy
Đời trước đã được trí
Cũng quyết không buông bỏ.
Nên dùng Nhất thiết trí
Việc làm không sầu lo
Tất cả mọi hình sắc
Đều biết rõ hết thảy.
Việc làm luôn siêng năng
Suốt đời không buông lung
Tâm cũng không mệt mỏi
Các hành cũng như vậy.
Tất cả việc làm ấy
Đều mong cho tất cả
Với chúng sinh như vậy
Thường có tâm bình đẳng.
Luôn khởi lòng thương lớn
Lo nghĩ đến mọi người
Thương xót người đau khổ
Đều muốn khiến an ổn.
Nguyện mau được thành Phật
Chấm dứt mọi khổ não
Đạt được các ngọc báu
Nhiều không thể kể hết.
Thường dùng tuệ thiện quyền
Học hỏi các phương tiện
Siêng năng làm công đức
Thực hành không nhàm chán.
Chỗ làm được rốt ráo
Ứng hợp với hạnh ấy
An ổn nơi chánh đạo
Không nghĩ đến chỗ ở.
Đem các pháp như thế
Giữ gìn cho chắc chắn
Là hạnh của Bồ-tát
Các hạnh đều biết rõ.
Đối với pháp sâu xa
Các hành đều đầy đủ
Với ức trăm ngàn Phật
Việc làm không biếng nhác.

Khi ấy, Nguyệt Thiên Tử bạch Phật:

–Thế nào là Bồ-tát được pháp hạnh sâu xa?

Đức Phật nói:

–Này Thiên tử! Bồ-tát không mong cầu pháp của người phàm; cũng không mong cầu của Phật; cũng không nghi ngờ pháp của người phàm; đối với pháp của Phật, pháp của người phàm đều bình đẳng không khác; không cầu pháp của người phàm; cũng không nắm bắt, không quên mất pháp của Phật; đối với người phàm, cũng không khác; đối với pháp Phật cũng không khác, cũng không nghĩ đến điều đó; không nói pháp người phàm là không tôn kính, pháp của Phật là tôn kính; đối với pháp người phàm, cũng không chỗ dứt bỏ, đối với pháp Phật cũng không chỗ dứt bỏ. Như vậy trong cái sinh lại sinh, đó gọi là pháp người phàm; pháp Phật cũng như vậy. Hai pháp này là rỗng không, là vắng lặng, là chắc chắn, như vậy là biết không xứ; đối với pháp người phàm cũng không có chỗ cầu; đối với pháp Phật cũng không có chỗ cầu; đối với pháp của người phàm không có nơi sở hữu; đối với pháp Phật cũng không có nơi sở hữu. Hai pháp này, không thấy có người phàm, cũng không thấy không có người phàm; như vậy cái biết như là mắt thấy, sự thấy đó đều là Không, đều là Vô tướng, đều là Vô nguyện như vậy trí tuệ như chỗ mắt đã thấy; trí như vậy là pháp Phật; đối với pháp Phật cũng không có và không, cũng không nghĩ là có chỗ an ổn, có chỗ khổ, cũng không nghĩ là tốt, là xấu, tất cả đều không, cũng như hư không. Trong cái không, cũng không ở trong cái không mà thấy cái không, cũng không biết, cũng không cầu. Vì sao? Vì đã là tập thì có già, có khởi. Này Thiên tử!

Mỗi một pháp, đối với pháp, gọi là pháp trụ, pháp diệt, pháp tịch, lúc đó cũng không tự thấy, cũng không chỗ thấy, cũng không tự biết, cũng không chỗ biết. Vì sao? Vì hoặc người phàm, hoặc đệ tử, hoặc Bích-chi-phật, hoặc Chánh Đẳng Giác, hoặc thọ ký, hoặc hành nghiệp ở các địa.

Này Thiên tử! Bồ-tát chẳng đối với các pháp chẳng không, với pháp Phật chẳng không. Vì sao? Này Thiên tử! Pháp là âm thanh pháp, là âm lành này và âm lành kia, thế nên không thể được và như vậy là không thể được. Đó là vô ngã; vì vô ngã như vậy, cho nên không nói là có trụ, không trụ mà qua. Này Thiên tử! Như vậy, các pháp không thể đếm, pháp Phật cũng không sai khác. Này Thiên tử! Do ví dụ như vậy, nên xem xét các pháp như vầy: Pháp Phật và các pháp phải thường suy nghĩ để thực hành và lại nghĩ như là thực hành vậy, thế nên khởi không phải thức nghĩ, thực hành cũng không thể thức nghĩ, đối với pháp Phật cũng không chỗ suy nghĩ. Như vậy, là từ suy nghĩ mà khởi lên, chẳng phải trí như vậy, đối với pháp giới không có chỗ tăng, cũng không trụ, cũng không phải không trụ.

Lại nữa, trí tập pháp không thể đối với pháp mà có chỗ tăng giảm. Vì sao? Vì nếu có ham thích cầu pháp, không ham thích cầu pháp, đều hiểu biết. Sao gọi là muốn, sao gọi là không muốn? Vì đã biết rõ đối với pháp ấy, lại không chạy theo. Thế nên, này Thiên tử! Bồ-tát được hạnh sâu xa, nên quán sát như vậy thì trọn không thấy ở pháp, trọn cũng không đối với pháp Phật mà thấy như vậy, quán sát như vậy, vì không thấy nên phải xem xét.

Này Thiên tử! Nói như vậy ma hoặc ma trời không thể nào hoại Bồ-tát. Này Thiên tử! Đức Phật nói như thế đó!

Đức Phật vừa trình bày xong, Nguyệt Thiên tử liền thưa:

–Bạch Thế Tôn! Những việc làm của Đại Bồ-tát rất sâu xa kỳ lạ và đặc biệt, biết đầy đủ các việc của trí tuệ; đối với sinh tử biết rõ như vậy mới làm những việc cầu đạo, mà không biếng nhác, như vậy khởi, diệt, trên, dưới mới không thể tận.

Đức Phật nói:

–Này Thiên tử! Ví như huyễn hóa; hoặc đến, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc chỗ cầu, hoặc chỗ nói; đều cũng không chỗ có.

Này Thiên tử! Ví như huyễn hóa; muốn biết, tất cả các pháp đều như vậy, tất cả các pháp khởi, diệt, quá khứ, tương lai, hiện tại số kiếp ấy, cũng như vậy. Bồ-tát cũng không nghĩ khởi lên, cũng không nghĩ đến việc mình làm của đời trước.

Thiên tử lại hỏi:

–Tại sao Đức Thế Tôn nói Bồ-tát không nghĩ có khởi lên chỗ sinh? Vì sao Đức Phật lên cung trời Đao-lợi, đến chỗ mẫu thân ở trọn ba tháng hạ, Đức Thế Tôn có phải từ Ma-da sinh ra không?

Đức Phật trả lời Thiên tử:

–Chỗ sinh của Đức Như Lai, không từ pháp sinh tử, mà là trụ vào như như. Như là không đến, không đi; Phật sinh như vậy.

Đức Phật nói tiếp:

–Này Thiên tử! Chư Phật từ Bát-nhã ba-la-mật sinh ra; chư Phật Thế Tôn đều từ Bát-nhã ba-lamật sinh ra. Vì sao vậy? Ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân, không từ Ma-da sinh ra. Này Thiên tử! Nên học Bát-nhã ba-la-mật như vậy. Bát-nhã ba-la-mật là mẹ của chư Phật, ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân đều học từ Bát-nhã ba-la-mật.

Nguyệt Thiên tử bạch Phật:

–Con suy nghĩ kỹ, Bát-nhã ba-la-mật không chỗ sinh, không chỗ diệt. Vì sao Đức Thế Tôn nói Bát-nhã ba-la-mật là mẹ của chư Phật?

Đức Phật nói:

–Như Thiên tử đã nói, Bồ-tát đang học, đã học Bát-nhã ba-la-mật liền được thân tướng chư Phật; ba mươi hai tướng của bậc Đại nhân, đều quy về mười Lực, bốn Vô sở úy, mười tám pháp Bất cộng, đại Từ, đại Bi, Tam-muội, bước đi một mình. Trí tuệ của Đức Phật biết ý của người khác đều quy về đó. Như thế, biết Đức Phật không sinh từ Ma-da. Thế nên, này Thiên tử! Nên biết trí tuệ của Phật sinh từ Bát-nhã ba-la-mật, có vô số việc của trí tuệ, không thể đếm, nay chỉ nêu sơ lược về các việc ấy, đều là như vậy.

Thiên tử lại hỏi:

–Pháp của chư Phật Thế Tôn thảy đều đầy đủ. Như vậy, Đức Như Lai như cái Như đó, tùy theo cái Như mà được thành tựu.

Này Thiên tử! Những việc đã thấy là như vậy, thì nên thấy chư Phật sinh từ Bát-nhã ba-la-mật, nhưng cũng không sinh từ Bát-nhã ba-la-mật, đối với pháp không có tưởng căn, cũng không khởi căn, cũng không tranh giành, trừ bỏ.

Thiên tử lại hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao Đức Thế Tôn sinh ra từ Bát-nhã ba-la-mật?

Đức Phật đáp:

–Này Thiên tử! Như pháp của Như Lai là như như, tùy theo chỗ mà tạo ra pháp, thế nên pháp chẳng sinh, chẳng khởi, chẳng diệt. Này Thiên tử! Pháp chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng khởi, như vậy như vậy, khác là ở trí tuệ. Trí tuệ sinh từ Bát-nhã ba-la-mật, gọi là Như Lai sinh ra từ Bát-nhã ba-lamật; sinh như vậy, là chẳng sinh, chẳng khởi chẳng diệt. Chẳng sinh, chẳng khởi, chẳng diệt, Bồ-tát học tập sẽ mau gần kề Bát-nhã ba-la-mật. Này Thiên tử! Trí Bát-nhã ba-la-mật không thể tận, lại cũng không thể tận Bát-nhã ba-la-mật.

Thiên tử lại hỏi Đức Thế Tôn:

–Bạch Thế Tôn! Trí tuệ ấy, suy nghĩ thế nào? Làm sao để biết trí Bát-nhã ba-la-mật là không thể tận?

Đức Phật lại bảo Thiên tử:

–Đối với trí tuệ không suy nghĩ mà có trí. Này Thiên tử! Đối với trí tuệ, có suy nghĩ, có trí, thì chẳng phải là trí tuệ, trí tuệ không thể tận. Vì sao vậy? Này Thiên tử! Tâm biết có công lao, trọn không có thể được, không thể biết hết, nên biết như vậy, chẳng phải trí tuệ. Này Thiên tử! Trí tuệ là trí không còn suy nghĩ, nếu trí tuệ có tận thì chẳng phải là trí tuệ.

Thiên tử lại hỏi:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao không thể tận, chỗ để hỏi từ đâu, chỗ để biết từ đâu?

Đức Phật đáp:

–Này Thiên tử! Cái không thể tận, chẳng từ sự buông lung mà tìm cầu.

Thiên tử lại hỏi Đức Thế Tôn:

–Bạch Thế Tôn! Không buông lung ấy, là những thứ gì?

Đức Phật đáp:

–Này Thiên tử! Làm các điều ác ở ba cõi mà không xả bỏ, cũng không lìa các ác trong ba cõi, lại đã xả bỏ các hạnh ác trong ba cõi. Này Thiên tử! Tất cả đều tùy theo các việc làm không buông lung; quả báo ấy như thế nào? Đối với ba cõi, chẳng khởi, chẳng diệt, là quả báo ấy.

Thiên tử lại hỏi Đức Thế Tôn:

–Bạch Thế Tôn! Nếu có đệ tử, từ đây dạo qua ba cõi, vì người mà nói pháp có được chăng?

Đức Phật nói:

–Này Thiên tử! Đối với cõi Dục có thể để đệ tử nói pháp cho đệ tử, nhưng chẳng thể có lợi ích cho cõi Dục; đối với cõi Sắc, cõi Vô sắc mà để đệ tử nói pháp cho đệ tử thì hoàn toàn không lợi ích; dùng Tam-muội dạo ở ba cõi mà nói pháp, thì không thể biết được lời dạy của Đức Thế Tôn, cũng chẳng thấy việc dùng sức Tam-muội dạo ở cõi Dục để có chỗ mà nói ra; nhưng Thiên tử cõi Vô sắc, tuy dạo ở cõi Dục lại không thể có chỗ để mà nói; dùng sức Tam-muội dạo ở cõi Sắc, cõi Vô sắc, đối với những gì đã nói ở cõi Vô sắc thì không có lợi ích ở cõi Sắc, cõi Vô sắc hoàn toàn không có chỗ giải thoát. Tuy dạo ở ba cõi, chỉ có thể giải thoát cho chính mình, chẳng làm lợi ích cho người khác. Này Thiên tử! Tuy biết ba cõi, nhưng chẳng luyến ái ở ba cõi, mà giữ vững pháp không, cũng không học ở cõi Dục, không thể ở cõi Sắc, lại cũng không ở cõi Vô sắc. Như vậy là không thể ở ba cõi, cũng không sinh ở ba cõi, cũng sinh ở ba cõi, cũng không biết từ đâu mà đến.

Này Thiên tử! Là hạng người bỏ thân nên đối với thị xứ không thể biết, cũng không thấy qua, cũng chẳng thấy lại. Vì sao? Vì tất cả các pháp ở ba cõi, không gặp nhau. Này Thiên tử! Ví như hư không, chẳng sinh, chẳng thể thấy, không có người tạo ra, lại chẳng gặp, vì đã có từ quá khứ. Này Thiên tử! Tất cả các pháp trong ba cõi đều như vậy. Khi Đức Phật nói pháp này, trong chúng các trời có bảy vạn hai ngàn Thiên tử xa lìa các pháp do cõi trần, được Pháp nhãn tịnh; có một vạn sáu ngàn Thiên tử, đời trước đã tạo công đức, nay lại nghe nói pháp ấy, nên đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác; có tám ngàn Bồ-tát đạt được Bất khởi pháp nhẫn.

Bấy giờ, người ở trong chúng hội, nương oai thần của Đức Phật, đều thấy được việc chưa từng thấy, lấy hoa ở trên áo, tung lên Đức Phật, lúc đó oai thần của Đức Phật làm cho hoa ấy biến khắp cõi trời Đao-lợi. Khi ấy, Thích Đề-hoàn Nhân đến trước Đức Phật bạch:

–Rất kỳ lạ! Bạch Thế Tôn! Các tộc tánh tử ấy đã rải hoa vốn chưa được thấy.

Bấy giờ, Nguyệt Thiên tử nói với Thích Đềhoàn Nhân:

–Này Câu-dực! Đức Thế Tôn cũng chưa từng thấy, hoa cũng vậy. Vì sao? Này Câu-dực! Dùng tâm ấy để thấy Đức Thế Tôn, tâm ấy là diệt tận, không thể thấy được. Này Câu-dực! Như vậy việc đó có thể thấy, nhưng trước đó chưa từng thấy.

Thích Đề-hoàn Nhân lại hỏi Thiên tử:

–Thưa nhân giả! Thế nào là thấy Phật?

Thiên tử đáp:

–Như vậy là Đức Thế Tôn thấy ta; ta thấy Đức Thế Tôn, cũng lại như vậy.

Thích Đề-hoàn Nhân lại hỏi Thiên tử:

–Thế nào là thấy?

Thiên tử đáp:

–Này Câu-dực! Đức Như Lai như Như sắc, như Như thọ (thống), tưởng, hành, thức đều là như Như, Ta thấy Đức Như Lai như vậy. Này Câu-dực! Ta không dùng sắc để thấy Như Lai, cũng không dùng thọ (thống), tưởng, để thấy Như Lai, cũng không dùng hành thức để thấy Như Lai. Vì sao? Vì sắc là tự nhiên, chẳng khởi, chẳng diệt; thọ (thống), tưởng, hành, thức cũng vậy. Tướng của pháp năm ấm này, tướng ấy không có tướng, đều “như” chiếu khắp. Này Câu-dực! Đức Như Lai, không thể thấy như vậy. Này Câu-dực! Ông có muốn thấy Đức Như Lai phải giống như Đức Phật thấy ta, ta thấy Đức Phật cũng vậy.

Câu-dực lại hỏi Thiên tử:

–Thế nào là như Đức Phật thấy nhân giả?

Thiên tử đáp:

–Này có Đức Phật ở đây, ông tự thưa hỏi Đức Phật.

Lúc đó, Thích Đề-hoàn Nhân đến trước Phật, bạch:

–Bạch Thế Tôn! Làm sao Đức Như Lai thấy Nguyệt Thiên tử?

Đức Phật nói:

–Không dùng sắc để thấy; cũng không dùng thống dương, tư tưởng, sinh tử, thức mà thấy; cũng không thấy từ đời trước; cũng không thấy đến tương lai; cũng không thấy hiện tại; cũng không thấy người phàm; cũng không thấy người phàm giải thoát; cũng không thấy nói sự học; cũng không thấy pháp không học; cũng không thấy A-la-hán; cũng không thấy pháp A-la-hán; cũng không thấy ở pháp đệ tử; cũng không thấy nơi quả vị Bích-chiphật; cũng không thấy quả vị Phật. Đã thấy như vậy, thì này Câu-dực! Như vậy là đã thấy Phật. Thấy Phật như vậy là không chỗ thấy; không chỗ thấy như vậy chính là thấy bình đẳng; thị hiện như vậy gọi là tất cả thị hiện, đúng thật là thị hiện, phải nên xem xét như vậy. Này Câu-dực! Đó gọi là Như Lai. Đức Như Lai đối với pháp giới không chỗ khuyết giảm. Này Câu-dực! Ý ông thế nào? Đức Như Lai thấy như vậy, xem xét như vậy, là thấy những gì?

Câu-dực đáp:

–Đó gọi là thấy Phật. Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai như vậy gọi là không dính mắc đối với sắc; như vậy, Đức Như Lai đối với sắc đó, không có dính mắc, không có chấp trước.

Thích Đề-hoàn Nhân lại hỏi Đức Thế Tôn:

–Bạch Thế Tôn! Như vậy là thấy Phật ư?

Đức Phật nói:

–Này Câu-dực! Bồ-tát đạt được nhẫn không từ đâu sinh, đối với tất cả các pháp giới đều bình đẳng cũng không lìa pháp này mà thấy pháp.

Thích Đề-hoàn Nhân lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nguyệt Thiên tử này đã đạt được pháp nhẫn không từ đâu sinh chưa?

Đức Phật trả lời Thích Đề-hoàn Nhân:

–Ông tự đem việc này, để hỏi Nguyệt Thiên tử, Nguyệt Thiên tử sẽ trình bày cho ông.

Nghe Đức Phật dạy như thế, Thích Đề-hoàn Nhân quay sang hỏi Nguyệt Thiên tử:

–Thưa Nhân giả! Nhân giả đã được pháp nhẫn không từ đâu sinh, phải không?

Nguyệt Thiên tử hỏi lại:

–Này Câu-dực! Nếu không có chỗ sinh mà có khởi, được không?

Thích Đề-hoàn Nhân trả lời:

–Thưa không.

Thiên tử lại nói:

–Này Câu-dực! Nếu không có chỗ sinh, không chỗ khởi; thì tại sao lại hỏi là có được pháp nhẫn không từ đâu sinh.

Thiên tử lại nói:

–Này Câu-dực! Pháp giới không chỗ sinh, ví dụ đó đúng như vậy. Thế nên, pháp giới cũng chẳng khởi, cũng chẳng diệt, đều không thể biết.

Lúc đó, Thích Đề-hoàn Nhân liền nghĩ: “Như Nguyệt Thiên tử đã nói, vì đã được pháp nhẫn không từ đâu sinh, tức là được thân cận Phật và được Chánh đẳng Chánh giác.”

Biết được tâm niệm của Thích Đề-hoàn Nhân, Nguyệt Thiên tử liền nói với Thích Đề-hoàn Nhân: –Này Câu-dực! Người không chỗ đạt được nhẫn thì được địa vị Chánh đẳng Chánh giác không khó, người còn thấy được nhẫn thì cách quả vị Chánh đẳng Chánh giác rất xa.

Thích Đề-hoàn Nhân lại hỏi:

–Thiên tử vì sao nói như vậy?

Thiên tử đáp:

–Này Câu-dực! Người đã được nhẫn mới nói như vậy; người chẳng được nhẫn ấy không thể gần quả vị Chánh đẳng Chánh giác, người được pháp nhẫn không từ đâu sinh giống như không chỗ sinh.

Như vậy là đạo.

Thích Đề-hoàn Nhân lại hỏi Thiên tử:

–Đạo từ đâu mà cầu?

Thiên tử đáp:

–Này Câu-dực! Đạo đối với ba cõi là không ngã, nên cầu đạo như thế.

Thích Đề-hoàn Nhân lại hỏi:

–Ba cõi vô ngã, làm sao mà cầu?

Thiên tử đáp:

–Như pháp là không sinh, không sinh lại không sinh, nên cầu đạo như thế. Cầu như vậy rồi; cầu như vậy tức là không cầu đối với cầu, người này là không chỗ khởi.

Khi ấy, Thích Đề-hoàn Nhân bạch Đức Phật:

–Rất là lạ, bạch Thế Tôn! Những điều Nguyệt Thiên tử nói, rất là sâu xa, như vậy chết từ đâu, mà sinh ở đây? Cái chết tại đây, lại sinh chỗ nào?

Khi đó, Nguyệt Thiên tử bảo với Thích Đềhoàn Nhân:

–Này Câu-dực! Như người làm trò ảo thuật, tạo ra người nam, người nữ; thì họ chết từ đâu, lại sinh ở đây? Cái chết ở đây, lại sinh chỗ nào?

Thích Đề-hoàn Nhân trả lời Thiên tử:

–Đã biết là huyễn hóa thì không khởi, không diệt, không thể thấy, không thể biết, là không có sở hữu.

Thiên tử nói với Câu-dực:

–Như vậy, nói huyễn hóa là từ không có hội hợp lại sinh, diệt cũng không có chỗ hội hợp, huyễn hóa là như vậy. Người trí tuệ, không dùng đến nó, cũng không tiếp cận nó.

Thích Đề-hoàn Nhân nói:

–Đúng như lời ngài nói.

Thiên tử trả lời Thích Đề-hoàn Nhân:

–Này Câu-dực! Như ông đã hỏi, tôi trả lời cũng vậy. Như ông nói, các pháp như huyễn hóa.

Thích Đề-hoàn Nhân nghĩ: “Thiên tử này chết từ đâu mà lại sinh ở đây? Cái chết tại đây thì sinh ở chỗ nào?”, nên muốn đem việc này để hỏi Đức Phật.

Thiên tử nói với Thích Đề-hoàn Nhân:

–Ý của ông như thế nào? Như Đức Như Lai giáo hóa thì đối tượng để giáo hóa cũng như vậy, hoặc đến, đi, trên, dưới, có thấy biết không?

Thích Đề-hoàn Nhân đáp:

–Này Thiên tử! Không thể thấy được như vậy.

Thiên tử lại nói:

–Như vậy việc giáo hóa này, có tạo ra được không?

Thích Đề-hoàn Nhân nói:

–Có thể tạo ra.

Thiên tử lại nói:

–Này Câu-dực! Tất cả các pháp giáo hóa bình đẳng như thế, nếu đến, đi, trên, dưới được xem xét như vậy, thì này Câu-dực! Lúc đó không thể có sự tạo ra. Ý của ông như thế nào? Chẳng như thế, mà thấy sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp cũng như vậy, người biến hóa ấy, có thể thấy, nghe, biết việc như vậy không?

Thích Đề-hoàn Nhân nói:

–Này Thiên tử! Không thể thấy nghe biết được. Thiên tử nói:

–Này Câu-dực! Biết tất cả phần số như vậy, thì các pháp cũng như vậy; hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc tâm suy nghĩ pháp, cũng không nhiễm không nhơ, cũng không dừng lại, cũng không tiếp cận, cũng không xa lìa; đối với thấy, nghe, suy nghĩ chỗ nói như vậy, pháp như vậy, vì tất cả mà nói, vì chúng mà nói, không có sai khác.

Lúc đó, Thích Đề-hoàn Nhân bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nguyệt Thiên tử này, nói không có nơi chốn, không sinh, không khởi, không diệt. Nguyệt Thiên tử này, không ở địa vị của đệ tử, không ở địa vị của Bồ-tát. Vì sao Bồ-tát thấy những việc sinh tử phải nhớ nghĩ trong vô số kiếp? Vì sao nuôi dưỡng chúng sinh mà không thể biết được?

Đức Phật bảo Thích Đề-hoàn Nhân:

–Này Câu-dực! Có Bồ-tát kia, được bất khởi pháp nhẫn, cũng không nghĩ sinh, cũng không nghĩ khởi, cũng không nghĩ diệt, muốn thấy chúng Bồtát này, nên quán sát A-la-hán Niết-bàn một trăm năm mà không thể biết được. Vì sao? Vì không nghĩ tưởng người khác, cũng không nghĩ tưởng ta; lại nghĩ tưởng người khác, lại nghĩ tưởng ta, lại như vậy.

Này Câu-dực! Những việc làm của Bồ-tát rất là siêng năng ân cần, khổ hạnh; không nghĩ đến sinh, cũng không nghĩ đến diệt, cũng không nghĩ tưởng đến người khác, không nghĩ tưởng đến ta; vì thể tánh của các pháp, vốn đều Niết-bàn.

Này Câu-dực! Tất cả cũng không trói, cũng không mở, cũng không biết rõ pháp này là Bồ-tát, là như thế là giải thoát, là thị hiện nhớ nghĩ vậy nên liền khởi đại Bi, như thế Bồ-tát chẳng mệt mỏi nhàm chán; ở trong vô số câu-lợi trăm ngàn kiếp, mà chẳng biếng nhác.

Này Câu-dực! Ví như có người rơi trong hầm lửa; lại có người nam có lòng đại Bi, chẳng quý trọng thân thể, chẳng tiếc mạng sống, bỏ năm dục và mọi sự ham thích, liền vào trong hầm lửa, bồng người này ra, người này tự thoát khỏi và cứu người kia cũng thoát khỏi.

Này Câu-dực! Ý ông thế nào? Việc làm của người khác ấy có khó không?

Thích Đề-hoàn Nhân thưa:

–Bạch Thế Tôn! Việc làm của người ấy rất khó, rất khó!

Đức Phật nói:

–Này Câu-dực! Việc này chưa phải là khó, việc làm của Bồ-tát lại còn khó hơn nhiều. Bồ-tát đã thoát khỏi các dục, phát ý muốn đem cúng dường đầy đủ, đem tất cả những gì mình có, giúp cho tất cả. Này Câu-dực! Việc này hơn việc trước nữa; dùng ánh sáng của công đức, chiếu sáng mở bày cho tất cả; như vậy là đã hơn tất cả đệ tử và Bíchchi-phật. Đại Bồ-tát tự đến với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Lại nữa, này Câu-dực! Như vậy, nói chết từ đâu lại sinh ở đây. Câu-dực lắng nghe! Về phương Đông, các cõi này tức từ cõi Phật này, qua chín mươi hai na-thuật trăm ngàn cõi Phật. Cõi đó tên là La-đà-na-tát-già (đời Tấn dịch là Trân bảo thẩm đế áo tạng). Cây cối trong thế giới ấy đều làm bằng báu, cành, lá, hoa, quả của cây đó có vô số màu sắc; chỗ kinh hành, dùng vô số vật báu để tạo thành; trong nước đó, tất cả mọi thứ đều là các vật báu, dùng để trang nghiêm, không chỗ nào thiếu; đất ấy đều là lưu ly xanh biếc, vô số vật báu trang trí xen lẫn nhau.

Lại nữa, này Câu-dực! Có thế giới, tên là Lađà-na-tiên-kỳ (đời Tấn dịch là Trân bảo tích tụ). Này Câu-dực! Đức Phật trong thế giới này, hiệu là La-đà-na-văn-đà-la-đế-da-a-đan-kiệt-la-du (đời Tấn dịch là Trân bảo hào trường xuất quá thượng tụ). Như Lai bậc Vô Sở Trước Chánh Đẳng Chánh Giác, hiện đang thuyết pháp. Trong cõi Đức Phật đó, không có người mẹ, cũng không nghe người mẹ, cũng không có đệ tử nương vào nhất giác đạo, mà toàn là Bồ-tát ở trong cõi đó.

Lại nữa, này Câu-dực! Đức Trân Bảo Hào Trường Xuất Quá Thượng Tụ Như Lai Vô Sở Trước Chánh Đẳng Chánh Giác. Đức Thế Tôn ấy thuyết pháp khiến cho bảy mươi hai câu-lợi Bồ-tát đạt được Bất khởi pháp nhẫn. Bồ-tát được nhẫn này rồi có ý nghĩ là tất cả ngọc báu, nổi tiếng trên cõi trời và của dòng họ lớn đều dứt bỏ không dùng đến; vì thế tất cả cõi chư Phật đều chấn động. Lúc đó, trong cõi tam thiên đại thiên, bao nhiêu là chánh báu hoa sen, nhiều loại hoa với vô số màu sắc rất là tươi đẹp, có đầy trong đó, để tung lên Đức Phật; các hoa ấy ở trên Đức Phật, hóa thành lọng hoa, che trùm cõi Đức Phật rồi. Bồ-tát ấy, ở hư không, quá phấn khởi liền bay đến cõi khác, đứng trước Đức Phật mà cúng dường, đảnh lễ, nhiễu quanh, thưa hỏi, muốn nghe pháp…

Lại nữa, này Câu-dực! Bồ-tát được pháp nhẫn, không thích trụ ở một chỗ, mà có thể đi đến các cõi chư Phật. Bồ-tát không đạt pháp nhẫn thì không thể đến các cõi khác.

Lại nữa, này Câu-dực! Đức Thế Tôn ở cõi ấy, xuất hiện đến mười hai kiếp, chỗ ở của Đức Phật đó, ban đêm luôn có ba thời thuyết pháp, thuyết pháp rồi thì có bảy mươi hai câu-lợi Bồ-tát đạt được Bất khởi pháp nhẫn. Này Câu-dực! Bồ-tát chưa được Bất khởi pháp nhẫn, không thể đến cõi khác; người được Bất khởi pháp nhẫn, mới có thể đến cõi Phật khác. Như vậy, Bồ-tát mất trong khoảng thời gian đó sẽ sinh qua ở cõi khác. Này

Câu-dực! Ông đem những việc này mà so sánh, thì sẽ thấy như thế. Như vậy, không thể tính, ức cõi Phật, chư Bồ-tát thảy đều như vậy.

Này Câu-dực! Châu báu chất chứa trong cõi kia, tất cả mọi cái có được đều không lo sợ rơi vào ba đường ác, trí cũng không có khổ, cũng không có vui, cũng không chỗ để hỏi, cũng không chỗ nói, cũng không khổ sở, cũng không ăn uống. Vì sao? Vì các Bồ-tát vui vẻ, dùng pháp để ăn uống. Trong cõi đó không có A-la-hán, Bích-chi-phật.

Này Câu-dực! Châu báu chất chứa trong cõi ấy, Đức Trân Bảo Hào Trường Xuất Quá Thượng Tụ Như Lai Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác, chính là Nguyệt Thiên tử, nhập diệt từ cõi ấy, lại sinh ở cõi trời Đao-lợi này, lại muốn thấy Đức Phật nên đảnh lễ ta, nhiễu quanh ta, thưa hỏi ta; vì muốn hỏi ta, nên đến đây; nhân chỗ hỏi này, mà gặp vô số ngàn người được chỗ biết sâu rộng. Lại nữa, Bồtát ở hội khác đối với Bất khởi pháp nhẫn đều đầy đủ. Này Câu-dực! Nguyệt Thiên Tử này lại thấy Đức Phật, muốn giữ gìn tất cả pháp, muốn thọ trì pháp. Sau khi Đức Phật Niết-bàn, giáo pháp cuối cùng muốn tận, ở khoảng thời gian đó sẽ đắc đạo sinh trong loài người, đem giáo pháp sâu xa mầu nhiệm mà Đức Phật đã nói, soi sáng khắp nơi, truyền trao cả trăm ngàn người; người chưa được Bất khởi pháp nhẫn đều thích muốn học, giáo pháp cuối cùng khi sắp tận sẽ lại sinh ở cõi trời Đâuthuật thứ tư. Ở chỗ Bồ-tát Di-lặc giảng nói của chư Phật Thế Tôn, không thể tính đếm, trăm ngàn Thiên tử đời trước, chưa từng khởi lên ý đạo, nay nghe nói, đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Khi Đức Di-lặc hạ sinh, được Chánh giác, Bồtát ấy hầu hạ Đức Di-lặc một vạn năm. Ở tại gia, thường cúng dường Đức Di-lặc và chúng Tăng; sau đó, cùng đông đủ bốn ngàn người, phát lòng tin xuất gia vì đạo, làm Sa-môn, làm Sa-môn rồi, ở chỗ Đức Di-lặc Như Lai Chí Chân Chánh đẳng Chánh giác, đem hết thân mạng giữ gìn pháp. Sau Đức Dilặc Niết-bàn, suốt thời pháp trụ, luôn gìn giữ pháp, một ngàn Đức Phật ở trong hiền kiếp, thiếu bốn vị, thường luôn được cúng dường hầu hạ ngay tại chỗ. Lúc đó, chư Phật Thế Tôn nói kinh, nên tu phạm hạnh trong sạch; cuối cùng qua bảy hằng sa kiếp, sẽ được thành Phật, ở một cõi, hiệu là Tự Nguyệt Quang Diệu Như Lai Bậc Vô Sở Trước Chánh

Đẳng Chánh Giác; điều mong ước đã được đầy đủ. Lúc đó, Nguyệt Tinh Thiên tử nói với Thiên tử: –Lành thay! Nay được Đức Phật thọ ký, ông sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ông vốn có những ân gì, cúng dường những gì, làm những việc gì? Thương mến, cung kính, ưa thích, vui vẻ cúng dường cho Đức Phật, mới được Đức Như Lai thọ ký riêng ông!

Nghe xong, Nguyệt Thiên tử nói với Nguyệt Tinh Thiên tử:

–Đức Như Lai không lấy việc làm lành mà thọ ký cho người; cũng không có chỗ sợ mà thọ ký cho người; cũng không nói người này là được thọ ký hay không được thọ ký. Bồ-tát phải tự học pháp của Bồ-tát, Đức Thế Tôn sẽ thọ ký cho họ. Vì sao ông hỏi như vậy? Ta có những ân gì với Đức Phật mà được Đức Phật mến thương, nhớ nghĩ, vui vẻ, thương tưởng như vậy.

Nguyệt Tinh Thiên tử hỏi Nguyệt Thiên tử:

–Vui vẻ này từ đâu mà thấy?

Nguyệt Thiên tử trả lời:

–Vui vẻ từ nơi tâm mà cầu.

Nguyệt Tinh Thiên tử lại nói:

–Tâm không nghĩ tâm, thì ai được cái vui đó?

Nguyệt Thiên tử đáp:

–Cái vui không thể nắm bắt, cũng không thể đạt được, đó là cái vui hơn hết, như vậy cái vui tối thượng là không thể đạt được.

Nguyệt Thiên tử nói Nguyệt Tinh Thiên tử:

–Cái vui như vậy, đối với cái vui có chỗ không thể ấy thì chẳng phải là cái vui; cái vui này đối với việc buông lung mà không làm; như vậy ở trong cái vui mà thường vui, lại không phát sinh ý thoái lui. Như vậy, này Nguyệt Tinh Thiên tử! Nên cầu pháp như thế, thì sẽ được cái vui, đối với chỗ làm của pháp mà không buông lung thì đó mới là cầu, không cầu, cũng không lìa cầu. Vì sao? Này Nguyệt Tinh Thiên tử! Đối với pháp giới không cầu, đối với cái mình cầu cũng không.

QUYỂN 3

Lúc đó, Nguyệt Tinh Thiên tử nói với Nguyệt Thiên tử:

–Bồ-tát học như vậy gọi là học Bồ-tát.

Nguyệt Thiên tử lại hỏi:

–Thế nào là Bồ-tát học?

Nguyệt Tinh Thiên tử đáp:

–Này Thiên tử! Bồ-tát học ở Bồ-tát, là không thân, không thân hành; không khẩu, không khẩu hành, không ý, không ý hành. Đó là Bồ-tát học Bồtát. Đối với thân, không có chỗ học, cũng không có chỗ đạt được, cũng không chỗ mất, cũng không chỗ quên.

Này Thiên tử! Bồ-tát học như vậy.

Nguyệt Tinh Thiên tử lại hỏi:

–Thiên tử học như vậy được Đức Như Lai thọ ký ư?

Nguyệt Thiên tử trả lời Nguyệt Tinh Thiên tử:

–Người không học như vậy, thì Đức Như Lai không thọ ký. Vì sao? Vì không nghĩ đến cái học này, không nghĩ là có chỗ nói, cũng không nghĩ ta, cũng không nghĩ có chỗ mong cầu, cũng không nghĩ ta có chỗ học. Đó gọi là học. Một phần của lời nói đối với ở đời, không hợp với chúng hội, thì có nói ta học như vậy cũng là không thật, là chẳng nói; không nghĩ nói có ta, cũng không nói là thật, cũng không nói ta là Bồ-tát học.

Nguyệt Tinh Thiên tử lại hỏi:

–Việc đó có bao nhiêu để được trụ báo chắc chắn?

Nguyệt Thiên tử đáp:

–Đối với điều mình mong muốn, thường đưa lên mà không hạ xuống, cũng không ở giữa; đối với điều mình mong muốn thường ở tại tâm, chưa từng biếng nhác; tuy có đó mà không làm, pháp ấy cao tột là bất như, xét kỹ pháp ấy như vậy rồi hiểu biết, gọi là trụ, là chắc chắn trụ.

Nguyệt Tinh Thiên tử lại hỏi Nguyệt Thiên tử:

–Thọ trì pháp nào thì được Đức Như Lai thọ ký?

Nguyệt Thiên tử đáp:

–Đối với pháp của người phàm không có chỗ bỏ, đối với pháp Phật cũng không có chỗ được; nhờ vậy, nên Đức Như Lai thọ ký.

Này Thiên tử! Như vậy pháp không chỗ bỏ, đối với pháp này, không chỗ được; ta làm như vậy, được Đức Như Lai thọ ký.

Nguyệt Tinh Thiên tử lại hỏi:

–Như vậy người phàm đều được thọ ký? Vì sao? Vì không bỏ người phàm, cũng không bỏ pháp của người phàm, đối với pháp Phật cũng không chỗ được.

Nguyệt Tinh Thiên tử lại hỏi:

–Này Thiên tử! Nhân duyên gì là pháp người phàm? Lại nói pháp không, pháp giới cũng không. Nhân duyên gì là pháp Phật? Như vậy câu-lợi Phật cũng như?

Nguyệt Tinh Thiên tử lại hỏi tiếp:

–Này Thiên tử! Có thể ở hư không giới, ở pháp giới, có chỗ bỏ sao?

Nguyệt Tinh Thiên tử lại nói:

–Này Thiên tử! Người chẳng đối với như như, chẳng đối với câu-lợi Phật là có thể có chỗ được.

Đáp:

–Chẳng phải vậy Thiên tử. Này Thiên tử! Nói tuần tự, đối với pháp của người phàm là không chỗ bỏ, đối với pháp Phật là không chỗ được nhờ vậy mà được Đức Như Lai thọ ký.

Lại nói:

–Vì sao đối với không giới, pháp giới; đối với như đối với câu-lợi Phật, từ đâu mà được thọ ký?

Nguyệt Thiên tử đáp:

–Chẳng phải vậy, Thiên tử!

Nguyệt Tinh Thiên tử lại hỏi:

–Vì sao Thiên tử đối với không giới, pháp giới, như, câu-lợi Phật, mà không được thọ ký? Ngoài ra chư Phật từ đâu lại được thọ ký?

Nguyệt Thiên tử đáp:

–Thọ ký như hằng sa, như không giới, pháp giới, hằng sa câu-lợi Phật. Này Thiên tử! Pháp là pháp như thế, như vậy pháp là pháp, thọ ký đó là thọ ký; vì được thọ ký rồi, thì không lìa Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, không lìa Phật trí.

Lúc đó, Nguyệt Tinh Thiên tử đến trước Phật, thưa:

–Bạch Thế Tôn! Nguyệt Thiên tử này đạt được trí tuệ sâu xa mới nói được như vậy.

Đức Phật nói:

–Này Thiên tử! Nói pháp là như vậy. Bồ-tát vì đạt được nhẫn, hoặc mong cầu, hoặc ban bố, hoặc đối với tất cả pháp giới, hoặc nói, hoặc có chỗ để nói; thì không thể đối với pháp giới có sở kiến, không thể có sở ngữ, cũng không thể có sở truyền. Vì sao? Vì đối với pháp giới, không sở ngữ, cũng không sở thuyết. Pháp giới như vậy, nhân giới như vậy, Thiên giới như vậy; đó là lực xứ của Đức Phật; lực xứ của Phật như vậy, tất cả các pháp như vậy, như vậy. Này Thiên tử! Bồ-tát như vậy là trụ như pháp, trụ như vậy chẳng trở lại tin việc khác, cũng chẳng chạy theo việc khác; như vậy do những việc gì, khiến Đức Phật nói ra.

Lúc đó, Hiền giả Đại Mục-kiền-liên, đang ở trên cung điện Tử-cám của Thích Đề-hoàn Nhân, vì đại chúng chư Thiên nói pháp; Đại Mục-kiềnliên từ chỗ ngồi, đứng dậy, với tâm niệm khẩn thiết, nói: “Đức Như Lai, Bậc Vô Sở Trước Chánh Đẳng Chánh Giác, ở cõi Diêm-phù-đề này đã là không; cõi Diêm-phù-đề đó có vô số người khao khát muốn tạo công đức, chẳng thấy Phật, chẳng nghe pháp, đối với việc làm không thay đổi”. Nghĩ như vậy rồi Đại Mục-kiền-liên dùng thiên nhãn nhìn khắp cõi Diêm-phù-đề liền thấy Đức Như Lai Bậc Vô Sở Trước Chánh Đẳng Chánh Giác, cùng đông đủ một ngàn hai trăm năm mươi vị đại Tỳkheo, ở trong cung vua Bình-sa thọ thực. Khi ấy, Đại Mục-kiền-liên lại tự thấy mình, đang ngồi ở bên trái Đức Phật; lại tự thấy thân thể mình mặc y phục, ngồi ở một bên Đức Phật, không có thêm bớt; rồi lại suy nghĩ: “Mình đã không cùng với Đức Thế Tôn trở về cõi Diêm-phù-đề”. Liền nhìn ở dước cây Ba-chất, thấy Đức Thế Tôn, cùng vô số chư Thiên vây quanh đang vì họ mà nói pháp; thấy Tôn giả Xá-lợi-phất ngồi ở bên phải Đức Phật; Mục-liên tự thấy mình, cùng các Tỳ-kheo, ngồi ở bên trái Đức Phật với đông đủ đại Tỳ-kheo. Lúc đó, Hiền giả Đại Mục-kiền-liên thấy rất là quái lạ! Việc làm của chư Phật Thế Tôn là không thể nghĩ bàn; chư Phật Thế Tôn là bậc oai thần lớn, là bậc có khả năng lớn phân thân ở cõi Diêm-phù-đề để thuyết pháp như vậy, mà chẳng dứt; còn ở trên cõi trời Đao-lợi thứ hai cũng đang vì chư Thiên mà nói pháp! Bấy giờ, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên lại càng nghi ngờ lớn! Liền nhìn kỹ, lại thấy Đức Phật ở vườn Cấp cô độc, tịnh xá Kỳ hoàn nước Xá-vệ, cùng vô số chúng đang vây quanh nghe nói pháp; lại tự thấy hình dáng mình ở trong đại hội, như các vị Xá-lợi-phất, Ma-ha Ca-chiêndiên, Phân-nậu, Tu-bồ-đề, Ly Việt, Hiền giả Tửkiếp-tần-nô; tất cả các chúng đại đệ tử đều được thấy, như ở Xá-vệ, như ở La-duyệt-kỳ, như ở trời Đao-lợi. Lúc đó, Đại Mục-kiền-liên lại suy nghĩ về cõi Diêm-phù-đề một lần nữa, nhìn vào vườn Ni-câu-loại thuộc nước lớn Ca-duy-la-vệ, thấy Đức Phật từ vườn Ni-câu-loại ra vào nước Caduy-la-vệ mà đi khất thực; lại thấy có Tỳ-kheo, hình thể giống như Mục-liên. Lúc đó, lại thấy Đức Phật ở nước Duy-da-ly cùng đông đủ chúng đại Tỳ-kheo, đang đi đến nhà Đồng tử Ly Cấu Nguyệt thọ thực. Tôn giả Mục-liên lại tự thấy có cả sắc tướng hình dáng của mình, cùng đông đủ chúng đại Tỳ-kheo. Lúc ấy, Đại Mục-kiền-liên thấy Đức Phật ở nước lớn Ba-la-nại khất thực trở về, cũng tự thấy sắc tướng hình dáng của mình ở trong đó. Lại suy nghĩ và thấy khắp cõi Diêm-phù-đề, những chỗ đang ở, đều thấy có Đức Phật, hoặc dưới cây, hoặc trong hang đá, nhiều khắp trong cõi Diêm-phù-đề đều thấy Đức Phật cùng đông đủ Tỳ-kheo Tăng vây quanh; bao nhiêu trăm ngàn chỗ ở hết thảy xóm làng đều thấy khắp.

Lúc đó, Tôn giả Mục-kiền-liên lại càng nghi cho là kỳ lạ! Liền suy nghĩ, rồi dùng Thiên nhãn xem xét châu Câu-lư phía Bắc, thấy Đức Phật cùng đông đủ Tỳ-kheo Tăng thọ thực, cũng tự thấy thân mình ở trong đó và thấy cả các đệ tử khác; lại nhìn châu phía Đông Phất-vu-đãi cũng thấy Đức Phật ở trong đại chúng mà nói pháp; còn ở cõi châu Tây ngưu hóa cũng lại như vậy, cũng thấy Đức Thế Tôn tọa thiền, với vô số ngàn chúng đang đảnh lễ Phật; các chúng đệ tử mỗi một vị đều tùy theo sắc tướng hình dáng mà nhập chánh định; cũng tự thấy thân mình ở trong đó. Lúc ấy, Tôn giả Mục-liên lại càng tăng thêm mối nghi ngờ quái lạ! Lại ngồi suy nghĩ về chư thần trên đất, lại thấy Đức Phật cùng các chúng đệ tử; cũng tự thấy thân mình ở trong chúng đệ tử đó. Như vậy, trong hư không, chư thần cũng thấy Đức Phật ở trong đó, ở trong hư không vì vô số trăm ngàn chư Thiên, mà nói pháp; cũng tự thấy thân mình cùng với chúng đệ tử ở trong đó. Như vậy, trời đệ nhất Tứ thiên vương, trời Thượng viêm, trời Đâu-thuật, trời Ni-ma-la-đề, trời Ba-lani-mật, trời Hòa-da-bạt-trí cho đến Phạm thiên đều thấy khắp, lại thấy Đức Phật ở Phạm thiên cùng vô số trăm ngàn Phạm thiên vây quanh nghe nói pháp; cũng tự thấy sắc thân hình dáng mình và tất cả chúng hội, thảy đều giống như Tôn giả Đại Mụckiền-liên, thần túc biến hóa, mọi việc làm đều như vậy. Tự thấy mình ở trong đó, vì tất cả mà nói pháp, đều giống như Mục-liên; lại biến hóa ra người ở trong chúng hội đều giống như Tôn giả Xá-lợiphất, trí tuệ sáng suốt ở trong đại chúng, rống tiếng rống sư tử. Như vậy, tự mình dùng sức trí tuệ, thuyết pháp cho đại đệ tử. Khi ấy Đại Mục-kiềnliên kinh sợ, dựng cả chân lông, cho là kỳ lạ! Rồi phấn khởi, vui mừng, liền sinh tâm tốt ba lần tự khen: “Đúng vậy, đúng vậy! Chư Phật Thế Tôn rất là kỳ lạ! Sở hành không trở ngại, việc làm cũng rất là kỳ lạ!”. Thấy thế, Tôn giả rất phấn khởi, đảnh lễ năm vóc sát đất, nói lời khen ngợi:

–Nam-mô Phật.

Bấy giờ, âm thanh lớn vang dội làm cho trời Đao-lợi đều chấn động. Lúc đó có vô số trăm ngàn Thiên tử tụ hội đông đủ, đi đến chỗ Phật, bạch Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Vì nhân duyên gì có đại âm thanh vang động đến cả quả đất như vậy. Do đó, nên con đem việc này, thưa hỏi Đức Như Lai.

Đức Phật nói:

–Này Thiên tử! Do Hiền giả Đại Mục-kiềnliên, hướng về chỗ Đức Phật, lòng vui mừng, phấn khởi, đảnh lễ năm vóc sát đất, nên mặt đất chấn động như vậy.

Đức Phật nói:

–Này Thiên tử! Tôn giả Mục-liên đang ở đây đang ở đây, ông nên tự đến đó hỏi.

Lúc ấy, Tôn giả Mục-liên đứng dậy, liền đi đến chỗ Đức Phật đầu mặt cúi sát chân Phật, nhiễu Phật ba vòng, rồi đứng chắp tay làm lễ trước Phật.

Tôn giả Mục-liên nói kệ thưa:

Trì lực không thể lường
Đức Phật đã đạt được
Như việc làm của Phật
Thế Hùng khó nghĩ bàn.
Đã xa lìa ba độc
Tâm ý được điều phục
Bậc Tôn trọng trời, người
Được tất cả cúng dường.
Tuy có trăm ngàn ngày
Khắp cả trong hư không
Người mù không thấy được
Không mong được ánh sáng,
Mười Lực phóng hào quang
Đệ tử nhờ đó thấy
Tất cả các đệ tử
Không bằng ánh sáng Phật.
Không thấy từ trong thai
Hạnh đệ tử cũng vậy
Không biết trí tuệ Phật
Cũng lại không thể giữ.
Tuy có tin thọ trì
Giáo pháp của Như Lai
Vậy mà không thể biết
Không bằng việc Phật làm.
Thí dụ như biển cả
Muốn so nước chân trâu
Đức đó như Tu-di
So nó với hạt cải,
Đem ánh sáng đom đóm
So ánh sáng mặt trời
Đức của Phật Thế Tôn
Đệ tử không sánh bằng
Không thể đem Tu-di
So sánh với hạt cải
Đem ánh sáng đom đóm
So mặt trời, mặt trăng,
Không thể đem biển cả
So với nước chân trâu
Không thể đem Bồ-tát
So sánh với đệ tử.
Ví dụ như người mù
So với người mắt sáng
Nếu có người ăn xin
Đem so Giá-ca-việt,
Đem ánh sáng các sao
So ánh sáng mặt trăng
Công đức của Thế Tôn
Đệ tử không sánh bằng.
Thực hành ở nhân gian
Lại hiện đỉnh Tu-di
Chỗ hiện vì như huyễn
Tất cả nhờ phước đức,
Không biết Phật tại đó
Con nhớ thiên hạ không
Không thể thấy được Phật
Cùng chúng Tỳ-kheo Tăng.
Con ở cung xá này
Thường ngồi ở trong đó
Vì chư Thiên thể nữ
Dạy dỗ nói giáo pháp,
Liền tự dùng Thiên nhãn
Nhìn thấy Diêm-phù-lợi
Liền thấy hơn trăm nước
Đó là Vô phước địa.
Suy nghĩ thiên hạ này
Liền thấy Đức Thế Tôn
Ở tại La-duyệt-kỳ
Cùng đệ tử thọ thực
Tại cung vua Bình-sa
Ở trong cung rộng lớn
Đầy đủ các chúng hội
Quyến thuộc cùng vây quanh.
Lúc đó thấy Đức Phật
Như thấy băng núi tuyết
Tự thấy thân Mục-liên
Đứng bên trái Đức Phật.
Lại thấy Xá-lợi-phất
Hầu bên phải Đức Phật
Và cùng các người khác
Tất cả các đệ tử.
Con tự nhớ đến Phật
Ở dưới Diêm-phù-lợi
Trở về trời Đao-lợi
Đức Phật ở chỗ kia.
Lúc đó tự nhìn kỹ
Dừng ở trời Đao-lợi
Tự mình suy nghĩ kỹ
Ở chỗ Diêm-phù-lợi.
Lại thấy Đức Thế Tôn
Ở tại nước Xá-vệ
Ngồi ở trong đại chúng
Nói pháp cho tất cả.
Lại thấy được thân mình
Đang ở trong đại hội
Cũng thấy Xá-lợi-phất
Và cùng các đệ tử,
Lại hiện ra dòng Thích
Đang thực hành khất thực
Thấy ở Duy-da-ly
Cùng đi đến thọ thực.
Hiện ở Ba-la-nại
Bước đi và ra vào
Tất cả các chỗ đó
Đều tự thấy thân mình.
Đi đến Uất-đơn-việt
Và các chúng đệ tử
Cùng nhau đi khất thực
Thấy đến A-nậu-đạt
Hiện đang ở chỗ kia
Và các chúng đệ tử
Đều cùng ngồi thọ thực.
Lại thấy Đức Thế Tôn
Đi đến Câu-da-ni
Lại ở Phất-vu-đãi
Vì vô số câu-lợi
Mà diễn nói nghĩa ấy,
Đều tự thấy Mục-liên
Đang biến hóa chỗ kia
Tự hiện sức thần túc
Chỉ rõ việc người làm.
Lúc đó các Địa thần
Đã thấy ở chỗ kia
Hư không các Thiên thần
Vì diễn nói pháp lý,
Thảy đều chỉ đầy đủ
Nay thấy pháp vô thượng
Ở tại Tứ thiên vương
Thảy đều nói chánh pháp
Ở trời Viêm đã thấy
Đều cũng lại như vậy
Thấy ở trời Đâu-thuật
Cũng lại thấy Thiên ma
Hiện ở Ni-ma-la
Trời Ba-da-ni-mật
Đều thấy các đệ tử
Cùng với Đức Thế Tôn
Đang ở trên trời Phạm
Chỗ thấy cũng như vậy.
Vì các câu-lợi Phạm
Đều thuyết pháp cho họ
Lúc đó thấy thân mình
Ở khắp trong trời Phạm
Tất cả đệ tử khác
Chúng đó đều như vậy.
Các Đức Phật quá khứ
Chỗ làm đều như thế
Kinh hành ở dưới cây
Hoặc tháp miếu, chỗ nằm
Lúc đó thảy đều thấy
Vô số các Pháp vương
Những hạng người như vậy
Đều như Thích sư tử
Con tự ở chỗ đó
Đã thấy rất quái lạ
Và thấy được Pháp sư
Đặc biệt hơn thế nữa
Các Đức Phật Thế Tôn
Phóng ánh sáng quái lạ
Mới biến hóa như thế
Hơn hết trong thần túc.
Đang ở trời Đao-lợi
Chẳng qua lại thuyết pháp
Khắp cõi Diêm-phù-đề
Nơi nơi thảy đều thấy
Nước ấp cùng quận huyện
Xóm làng và chỗ khác
Luôn luôn được khen ngợi
Vị họ mà nói pháp
Như con đã nhìn thấy.
Vì đều thấy Thế Tôn
Và thấy các đệ tử
Vì đều được vắng lặng
Đại câu-lộ, câu-lộ
Lại cùng với Ly Việt
Ca-chiên-diên, Phân-nậu
Cùng với Đại Ca-diếp
Con thảy đều đã thấy
Các Đức Phật Thế Tôn
Vô số chỗ ngợi khen
Nghe rồi như biển cả
Lúc ấy đều tự thấy
Chính mình ở trong đó
Công đức nhiều vô số
Đạo tràng tụ như thế
Đại âm thanh như vậy
Là ở đảnh Tu-di
Vì thế lễ Thế Tôn
Đức đó khó nghĩ bàn.
Sợ hãi cầu quy y
Lông trên thân dựng đứng
Nay nguyện đem năm vóc
Đầu mặt tự đảnh lễ.
Đại âm thanh như vậy
Tất cả thảy đều nghe
Những ba ngàn cõi ấy
Đều bị chấn động lớn.
Ở tại đảnh Tu-di
Phóng ánh sáng rộng lớn
Con cũng đang ở đó
Thảy đều thấy cùng khắp.
Con kinh sợ như vậy
Vội vã đến chỗ Phật
Lúc đó liền đến nơi
Trước thấy Đấng Trung Tôn
Mà thưa hỏi pháp đó.
Tâm sợ hãi quái lạ
Nên ban cho những gì
Hay biến ứng thế nào
Những gì là việc Phật
Cúi xin, nói cho con.
Diêm-phù-lợi như vậy
Cũng giống như trên trời
Ở Đông, Tây, Nam, Bắc
Bốn phía đều như vậy
Hoặc ở tại trời Phạm
Hư không cũng như thế
Con tự khen có đức
Ban cho là lợi ích
Khi tự mình được đạo
Thần túc không gì bằng.
Con mong cầu mau chóng
Đốt rụi nguồn gốc đạo
Trái với hạnh Như Lai
Xa lìa trí tuệ Phật.
Lúc đó tự nhớ nghĩ
Tâm ấy không giải thoát
Vốn tạo ra như vậy
Phát tâm cầu Phật đạo
Nay ăn năn ích gì!
Thực hành là hiểu rõ
Các tình đều đã dứt
Với Phật pháp không ích.
Ví như người vào biển
Đi tìm cầu của báu
Bỏ ma-ni không lấy
Mà lại lấy bùn dơ
Tự xét trí của mình
Và lại cùng người khác
Bỏ hạnh Đức Thế Tôn
Không cầu làm đệ tử
Hoặc nghi có biếng nhác
Làm vậy không thành Phật
Tinh tấn phát ý đạo
Hiệp thành các đức lành
Thường khổ hạnh như vậy
Vượt qua được ba cõi
Ai thực hành hạnh này
Mau được trí tuệ Phật.
Xin cúi đầu đảnh lễ
Qui mạng các Thế Tôn
Mau chóng đạt được vậy
Giữ tuệ Phật cao tột.
Hay biến hiện vô cực
Chỉ có Thích sư tử
Những ai đã thấy nghe
Vĩnh viễn trừ nghi hoặc.

Bấy giờ, Đức Phật khen ngợi Hiền giả Đại Mục-kiền-liên về cảnh giới như ông đã nhìn đã thấy.

Lại nữa, này Mục-liên! Cảnh giới của chư Phật Thế Tôn là không thể nghĩ bàn; dù cho tất cả mọi người và cả loài bò, bay, máy, cựa đều đạt được Bích-chi-phật mà phối hợp lại một trí, cùng nhau suy nghĩ thì cũng không thể biết, không thể thấy; huống chi ông chỉ là một đệ tử, làm sao suy lường biết được. Việc làm một chỗ này, ông còn không thể biết; huống chi cảnh giới của Phật mà muốn biết được sao!

Này Mục-liên! Lại nữa, đời tương lai họ đều cùng tụ hội, tụ hội rồi, cùng ngồi một chỗ, để thấy đạo biến hóa. Đức Như Lai Chánh Đẳng Chánh Giác sẽ biến hóa, hiện đạo thần túc, như vậy gọi là Đạo biến hóa thần túc, biến hóa vô cực, biến hóa pháp ngôn sở thuyết.

Mục-liên liền thưa:

–Đúng như vậy, bạch Thế Tôn!

Hiền giả Đại Mục-kiền-liên nghe Đức Phật nói rồi, tự thấy thân mình ở trên hoa sen, thân phóng ánh sáng thấu đến trời Phạm. Tuy đang nói ở chỗ đó, mà cả bốn thiên hạ đều nghe.

Bấy giờ, Mục-liên nói kệ:

Phật hiện ở thế gian
Rất là khó gặp được
Vô số ức trăm ngàn
Câu-lợi kiếp, khó đếm.
Ví như Ưu-đàm-bát
Hoa ấy rất khó gặp
Thấy Phật khó như vậy
Thế Tôn còn hơn thế.
Thí dụ như Tôn vương
Bay đến Giá-ca-việt
Luôn nhờ có thần túc
Sức phước đức cũng vậy.
Có ngàn người con kia
Đều đầy đủ bảy báu
Qua đến chỗ Phật ở
Nghe thọ nhận giáo pháp.
Phạm thiên cùng Đế Thích
Chỗ muốn được tự tại
Hoặc muốn vui trên trời
Lại vui ở nhân gian,
Tự sướng vui năm dục
Tâm tự do thích thú
Đi đến chỗ Pháp vương
Nguyện tất cả đều được.
Nếu có thể lìa bỏ
Tất cả mọi ái dục
Đến Niết-bàn vắng lặng
Như uống vị cam lồ.
Ai muốn được cùng tột
Sức thần túc hơn hết
Nên đến chỗ Thế Hùng
Nghe thọ trì giáo pháp.
Đức Phật là hơn hết
Hàng phục bọn ma vương
Nếu có Bích-chi-phật
Và cùng các đệ tử,
Ở trong loài hai chân
Và cùng các quan thuộc
Nên đi đến Như Lai
Để được thấy Pháp vương.

Lúc đó, Đại Mục-kiền-liên khuyến khích vô số na-thuật ức trăm ngàn Thiên tử ở cõi Dục, cõi Sắc mau chóng đem tất cả những hoa trời, hương trời, những hoa trời trang sức, những hương thơm trời, tất cả đem đến chỗ Đức Phật, dùng hoa hương ấy cúng dường, tung lên Đức Phật, rồi đảnh lễ sát chân Phật, lui đứng một bên.

Lúc đó, Mục-kiền-liên dùng sức thần túc tập hợp chúng chư Thiên lại một chỗ, rồi đi đến trước Đức Phật đảnh lễ sát chân, rồi lui đứng một bên.

Bấy giờ, Đức Phật mới nói với Mục-liên:

–Này Mục-liên! Lắng nghe ta nói Đạo thần túc biến hóa vô cực pháp ngôn.

Đức Phật dạy như thế, Mục-liên liền thọ giáo lắng nghe.

Đức Phật bảo:

–Lại nữa, này Mục-liên! Cõi tam thiên đại thiên này, có trăm ức mặt trời, mặt trăng, biển cả, núi Tu-di, bốn thiên hạ. Gọi là tam thiên đại thiên thế giới, là một cõi Phật. Mục-liên ý ông thế nào? Ông có cho rằng, ta chỉ chứng đạo trong một cõi Diêmphù-lợi? Mục-liên chớ thấy như vậy. Vì sao? Này Mục-liên! Đối với tất cả bốn thiên hạ, tùy theo chỗ mong ước cao thấp hay ở giữa của họ, mà nói pháp; biết được ai sẽ thành Chánh giác, ai ở trong bụng mẹ, ai ở trời Đâu-thuật, ai được Niết-bàn, thảy đều biết hết.

Lại nữa, này Mục-liên! Lúc đó, ở phương Đông của cõi tam thiên đại thiên cách bốn thiên hạ này một vạn hai ngàn bốn thiên hạ. Thế giới bốn thiên hạ ấy, tên là Vô trần, có Đức Phật hiệu là Tự-tỷ-lada-ma-đề (đời Tấn dịch là Như Cảnh Minh Vô Cấu), hiện đang thuyết pháp.

Này Mục-liên! Thế giới bốn thiên hạ kia, nhân dân không dâm dục, không giận dữ, không si mê; thường gần gũi đạo, thích nghe pháp rồi thọ trì phụng hành; nhân dân trong cõi ấy, cầu đạo Bồ-tát, ít có ai cầu đạo Bích-chi-phật, rất nhiều người cầu làm đệ tử.

Này Mục-liên! Đức Phật Như Cảnh Minh Vô Cấu kia, mỗi một lần thuyết pháp, có tới chín mươi chín ức người được hiểu rõ đệ tử thừa. Họ không nói bốn đức Sa-môn; như vậy cho nên họ chẳng nghe nói đến bốn đức Sa-môn. Những gì là bốn? Đó là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-lahán.

Này Mục-liên! Người ở thế giới đó, ngồi một chỗ, đều chứng được sáu Thông, đạt được tám Giải thoát đều tự thiền định nhớ nghĩ mà biết. Vì đã thoát ra khỏi ở sinh tử, nên vui mừng phấn khởi, ngồi cách đất bảy thước ở hư không, mà vui Niếtbàn; trong thân xuất ra lửa, trở lại tự thiêu đốt thân, cũng không có xương, cũng không thấy tro, đều không có tất cả những gì của mình. Này Mục-liên! Như vậy Đức Phật kia, hiện đang thuyết pháp lặng lẽ độ người, lặng lẽ vui Niết-bàn. Thế giới đó không lấy, không cho, hoặc khi đói khát, nghĩ đến món ăn thức uống thì tự nhiên có ở trước; y phục trang sức giống như ở cõi trời Đao-lợi; hoặc khởi, hoặc diệt, hoặc sinh, không sinh từ bào thai mẹ, không có người nữ, do nơi phước mà tự nhiên sinh ra, đất đó đều một màu vàng ròng.

Lại nữa, này Mục-liên! Tuổi thọ nhân dân ở trong quốc độ của Đức Phật đó, là năm trăm năm có dài, có ngắn. Này Mục-liên! Ý ông thế nào?

Ông có biết Đức Phật Như Cảnh Minh Vô Cấu Như Lai kia không?

Mục-liên thưa:

–Bạch Thế Tôn! Con không biết.

Đức Phật nói:

–Đức Như Lai ở cõi ấy, chính là ta đây. Ở khoảng thời gian đó, ta đem giáo pháp, dạy dỗ, hướng dẫn cho họ. Này Mục-liên! Như vậy gọi là đạo thần túc biến hóa vô cực, thảy đều vượt hơn tất cả hàng đệ tử Bích-chi-phật.

Lại nữa, này Mục-liên! Lúc đó ở phương Nam của cõi tam thiên đại thiên, cách cõi này, một vạn tám ngàn bốn thiên hạ, có thế giới, tên là La-đà-natam-phi (đời Tấn dịch là Bảo đẳng thế giới). Thế giới ấy, có ba thứ báu là vàng ròng, bạc trắng và thủy tinh. Trong thế giới đó có Đức Phật, hiệu là La-đà-na-kiền-đầu (đời Tấn dịch là Bảo Phẩm) Như Lai, Chí Chân Chánh Đẳng Chánh Giác, hiện đang thuyết pháp. Này Mục-liên! Đức Như Lai đó vì các hàng Bích-chi-phật mà thuyết pháp; thế giới của Đức Phật đó Bồ-tát rất ít đệ tử tu hành ở cõi này diệt độ rồi sinh ra chỗ không có Phật và chỉ đạt được Bích-chi-phật. Này Mục-liên! Ý ông thế nào? Ông có biết Bảo Phẩm Như Lai, Bậc Vô Sở Trước Chánh Đẳng Chánh Giác kia không?

Mục-liên thưa:

–Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Con không biết.

Đức Phật nói:

–Đức Phật đó, nay chính là ta đây. Ở khoảng thời gian đó, ta thuyết pháp, hướng dẫn, dạy dỗ cho họ. Như vậy, gọi là đạo thần túc biến hóa vô cực. Tất cả đệ tử và Bích-chi-phật cách Phật rất xa.

Lại nữa, này Mục-liên! Lúc đó ở phương Tây của cõi tam thiên đại thiên, cách cõi bốn thiên hạ này, hai vạn hai ngàn bốn thiên hạ. Thế giới đó tên là La-đà-na-chất-đa (đời Tấn dịch là Bảo ý). Thế giới đó có bảy thứ báu, là: vàng ròng, bạc trắng, lưu ly, thủy tinh, mã não, ngọc báu đỏ, xa cừ. Đó là bảy thứ báu. Này Mục-liên! Thế giới đó dùng vật báu làm cây, chỗ kinh hành đều là vật báu; dùng vật báu làm màn che giăng lên ở giao lộ, dùng vật báu làm lan can, để trang nghiêm làm ao tắm, nước trong ao có tám mùi vị; món ăn thức uống tự nhiên nghĩ đến đều liền có. Mặc y phục và ăn uống giống như ở trời Đâu-thuật. Nhân dân ở cõi đó đều như vậy. Trong cõi đó, không nghe nói có người mẹ, cũng không thấy người mẹ, cũng không có người mẹ sinh khổ; ở trong chúng hội không có nam nữ hội hợp, cũng không buông thả đối với dục lạc, cũng không buông thả đối với của cải, cũng không buông thả đối với lười biếng, cũng không sinh từ bào thai. Tất cả mọi người ở thế giới đó, đều từ tạng hoa sen mà hóa sinh.

Này Mục-liên! Thế giới Bảo ý có Đức Phật, hiệu là Bảo Đẳng Hữu Như Lai, là Bậc Vô Sở Trước Chánh Đẳng Chánh Giác, ở trong đó đang thuyết pháp. Đức Như Lai ấy, không nói những việc khác, mà toàn dùng Khiếp tạng của Bồ-tát, khiến tất cả đều phát tâm Bồ-đề; người được Vô sở tùng sinh pháp nhẫn, nhiều như số a-tăng-kỳ, không thể tính; người được thọ ký sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nhiều như số atăng-kỳ, không thể tính hết. Thế giới của Đức Phật kia không có đệ tử là hàng Duyên giác đều là Bồtát, có nhiều ở trong bốn thiên hạ kia; cũng không có ân ái, tâm cũng không nhớ nghĩ. Bồ-tát đầy trong cõi bốn thiên hạ. Thọ mạng của Đức Phật đó là tám vạn bốn ngàn năm; tuổi thọ nhân dân ở cõi ấy, cũng như vậy, có dài, có ngắn. Người ở nước đó, khi tuổi thọ hết, không đọa ba đường ác, không sinh nơi hiểm nghèo, Bồ-tát ở nước đó, khi thọ mạng sắp hết, lại sinh vào cõi trong sạch, được thấy mặt chư Phật Thế Tôn. Ở cõi ấy, hoặc Trời, Rồng, Kiền-đạp-hòa, tâm họ luôn nghĩ bình đẳng, không khác, đều có Nhất thiết trí. Có Trời, Kiền-đạp-hòa, tuy có tên như vậy, nhưng đều đồng một chí nguyện; tuy có bao nhiêu trí nhưng đều dùng trí vô thượng; có trời, Kiền-đạp-hòa, hoặc người, luôn phục sức bằng trí tuệ. Này Mục-liên! Ý ông thế nào?

Bảo Đẳng Hữu Như Lai kia hiện đang thuyết pháp, ông có biết không?

Mục-liên thưa:

–Bạch Đức Thiên Trung Thiên, con không biết. Đức Phật nói:

–Đức Phật đó, nay chính là ta đây, ở khoảng thời gian ấy, ta đem giáo pháp, hướng dẫn, dạy dỗ cho họ. Như vậy, gọi là đạo thần túc biến hóa vô cực. Chẳng phải La-hán, Bích-chi-phật là có thể biết được!

Lại nữa, này Mục-liên! Lúc đó, ở phương Bắc của cõi tam thiên đại thiên, cách thế giới bốn thiên hạ này, ba vạn sáu ngàn bốn thiên hạ, có thế giới tên là Vô khủng cụ. Thế giới đó, có hai thứ báu là: Vàng ròng và bạc trắng. Thế giới của Đức Phật đó, không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; không sợ sinh ở nơi hiểm nghèo; người ở cõi ấy, không có khuyết giới, đối với điều được thấy không bị hủy hoại, đối với chủng tánh cũng không hèn hạ, đối với các đạo khác và Ni-kiền ba hòa mà lại có chỗ tin biết.

Này Mục-liên! Thế giới Vô khủng cụ bốn thiên hạ đó, có Đức Phật, hiệu là Vô Úy Hưng Như Lai là Bậc Vô Sở Trước Chánh Đẳng Chánh Giác, đang thuyết pháp ở đó. Đức Như Lai này, đi đến dưới cây Phật, đến ở dưới gốc cây Phật rồi, có bảy mươi hai ức na-thuật ma đi đến chỗ đó các ma này, muốn làm não loạn. Khi đó, Đức Như Lai hiện ra như một Bồ-tát cầu đạo, chưa được Nhất thiết trí. Lúc ấy, ma liền hóa ra bảy mươi hai ức na-thuật cây, thì Bồ-tát này cũng hóa ra bảy mươi hai ức nathuật Bồ-tát, mỗi một vị đều ngồi ở dưới một gốc cây, khi ấy ma lấy làm lạ và rất sợ hãi, tự nghĩ: “Nên xét đoán người nào mới chính là Bồ-tát; Lúc đó, ma muốn lôi kéo khỏi chỗ ngồi. Khi ấy, Đức Phật hóa ra Bồ-tát, nói với chúng ma: Tất cả các pháp của chúng ma các ông, đều cũng như vậy. Vì sao các ông lại xét đoán người nào mới chính là Bồ-tát để muốn lôi kéo ra? Trong khoảng thời gian đó, ta sẽ thiền định nhớ nghĩ như ta từ trước đến nay đã tạo phước, thường phát tâm Vô thượng Chánh giác để khuyên người, khiến người phát tâm cầu đạo Bồ-tát. Vì sao các ông không khuyến khích giúp đỡ ý ta, trái lại muốn lôi kéo ta ra? Bồtát thiền định suy nghĩ: Nếu ta tạo ra việc ác, không khuyên họ khiến họ cầu Bồ-tát, lại tự nhiên diệt đi thì còn có chỗ để lôi kéo nhau. Vì thế nên chẳng phải là chỗ ông có thể lôi kéo; chớ tự xâm chiếm như vậy.

Lúc đó ma lại hỏi Bồ-tát:

–Ông đã làm được bao nhiêu phước mà phát tâm Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác, lại có thể khuyên người cầu đạo Bồ-tát?

Bồ-tát đáp chúng ma:

–Thí như cát sông Hằng; một hạt cát là một cõi Phật, ở trong cõi Phật đó có nhiều châu báu nếu đem ban cho dùng ý đó để phát đạo này làm công đức thì công đức kia còn hơn cả việc ban cho này.

Lại nữa, này chúng ma! Ví như hằng hà sa các thế giới, tất cả mọi người đều đông đủ ở trong đó, nếu đem ban cho sự an ổn, cung kính hầu hạ trong ngàn kiếp, dùng phước công đức như vậy để cầu đạo.

Ma lại hỏi:

–Công đức mà ngài tạo như vậy; nếu có ai đòi ngăn cản việc làm ấy của Bồ-tát, thì tội đó như thế nào?

Bồ-tát đáp:

–Như đã nói, hằng hà sa tất cả mọi người ở chỗ đó, mà đòi móc mắt của người ấy ra, tạo tội như vậy có nhiều không?

Ma nói:

–Rất nhiều!

Bồ-tát nói với chúng ma:

–Có ai ngăn cản Bồ-tát thì tội đó nhiều gấp bội. Vì ngăn cản Bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Lúc đó, bảy mươi hai ức na-thuật chúng ma, nhờ phương tiện ấy, thấy Bồ-tát biến hóa, đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chúng ma phát tâm Bồ-tát rồi, dùng hoa trời, hương trời, rải hoa trời trang sức, rưới hương thơm trời, tung lên Bồ-tát, trên trời với ngàn thứ âm nhạc trổi lên để cúng dường, vui thích với Bồ-tát. Trong tiếng âm nhạc này đều nghe tiếng nói như vầy: Mau mau làm cho bậc Đạo sư của ba cõi, được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác! Ca ngợi như vậy rồi, liền thấy Bồ-tát ngồi dưới gốc cây được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lúc đó, liền có trăm ngàn Thiên tử khác, tâm nghĩ như vầy: “Các chúng ma, nay lại đến được đây, không còn trở lại ba đường ác, cũng sẽ được giải thoát”; nên liền phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

Khi ấy, Đức Vô Khủng Cụ Thí nói:

–Nay ta thành Phật hiệu là Vô Khủng Cụ Như Lai. Vì sao tên là Vô Khủng Cụ Thí? Vì cùng xét rõ không còn sợ sệt nên gọi như vậy. Khi nói danh hiệu Đức Phật này, các thế giới đều nghe biết là Phật đã đắc đạo.

Đức Phật nói:

–Này Mục-liên! Như vậy Đức Vô Khủng Cụ Thí Như Lai kia, chính là ta đây. Ta ở thế giới đó, đem giáo pháp mà dạy dỗ, hướng dẫn cho họ.

Như thế, này Mục-liên! Như Lai gọi là Đạo thần túc biến hóa vô cực, tất cả đệ tử và Duyên giác không thể biết được.

QUYỂN 4

Lại nữa, này Mục-liên! Lúc đó ở phương Đông nam của cõi tam thiên đại thiên, cách cõi này tám vạn bốn ngàn tứ thiên hạ. Cõi nước đó, tên là Tammạn-đà-chất (đời Tấn dịch là Biến đẳng). Đức Phật hiệu là Chất-đa-câu-trùng Hằng-tát-a-kiệt A-la-ha Tam-da-tam-phật (đời Tấn Dịch là Huyễn Hoa Như Lai, Bậc Vô Sở Trước Chánh Đẳng Chánh Giác) hiện đang thuyết pháp. Thế giới bốn thiên hạ đó rất đẹp, Đông, Tây, Nam, Bắc, mười tám ngả đường đều có đầy châu báu, đất mềm mại giống như áo trời, đất mọc cỏ mềm mại cao bốn tấc tất cả những gì mọc trên đất, mỗi một loại đều có màu sắc khác nhau. Có khắp cả các đường đi, nếu chân đạp xuống đất cỏ mềm mại vừa ý, lúc cất chân lên, thì lại như cũ, đất đó bằng phẳng, như lòng bàn tay. Này Mục-liên! Cả thế giới Biến đẳng ấy đều như thế. Có thành tên là Bạt-đà-uất-trầm (đời Tấn dịch là Thiện tôn). Người trong thành đó vui vẻ, an ổn, giàu có, phồn thịnh, từ Đông qua Tây dài ba mươi hai do-tuần; từ Nam đến Bắc rộng mười hai do-tuần. Này Mục-liên! Thành Thiện tôn kia người người khác cùng ở trong đó, nhân dân đông đúc, số nhân dân nhiều không thể kể xiết.

Này Mục-liên! Đức Huyễn Hóa Như Lai Thế Tôn du hóa đến thành Thiện tôn và dừng nghỉ ở trong đó, mở một hội thuyết pháp, rống tiếng rống sư tử, khiến ba mươi na-thuật người đều đắc A-lahán; có ba mươi na-thuật người đắc A-na-hàm; có ba mươi na-thuật người đắc Tư-đà-hàm; có ba mươi na-thuật người đắc Tu-đà-hoàn; lại có ba mươi na-thuật người phát hạnh Bích-chi-phật; còn số người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì không thể tính hết; lại còn có những chúng sinh khác, nhiều vô số quyết làm những công đức.

Này Mục-liên! Thế giới bốn thiên hạ đó, có cây, tên là Mạt-đầu-tam-phi (đời Tấn dịch là Thử thọ). Hoa trái của cây đó luôn đầy đủ, mùi vị của hoa trái ấy giống như mùi vị của trăm món thức ăn; con trai con gái của nước ấy có được một hoa một quả mà ăn, ăn rồi, no đủ bảy ngày, không đói, không gầy yếu, sắc mặt hình dáng không giảm, thân thể cường tráng, nhẹ nhàng có khí lực, khi ăn xong rồi như uống cam lồ, cũng không tiểu tiện, đại tiện, cũng không có nước mũi, nước miếng, nhân dân trong cõi ấy không có ruộng trồng trọt, không có buôn bán đổi chác, trong nước đó tất cả đều cùng ăn hoa quả ấy; nước ấy từ xa xưa, cũng không biết đến giàu nghèo; tất cả đều bình đẳng không khác.

Này Mục-liên! Thế giới của Đức Như Lai đó, có chín mươi sáu ức na-thuật trăm ngàn chúng đệ tử; chúng Bồ-tát thì gấp bội chúng đệ tử; có vườn, tên là Tam-mạn-đà-câu-trùng (đời Tấn dịch là Pháp viên), vườn đó có nhiều loại trái cây, để các chúng đệ tử ăn uống, chúng đệ tử luôn ngồi ở trong vườn, chúng đệ tử và chúng Bồ-tát đều ngồi ở dưới gốc cây, khi muốn ăn, cây tự nhiên lay động, hoa quả rơi vào trong bát, ăn uống no rồi, hoa quả không rơi nữa, cây trở lại như cũ.

Này Mục-liên! Tất cả những sự vật trong thế giới ấy còn hơn thế nữa, không thể tính được. Này Mục-liên! Đức Như Lai ở thế giới ấy chính là ta đây. Ta ở thế giới đó, đem giáo pháp mà hướng dẫn, dạy dỗ cho họ. Này Mục-liên! Do vậy mà gọi là Như Lai đạo thần túc biến hóa vô cực, tất cả các đệ tử và Duyên giác không thể biết được.

Lại nữa, này Mục-liên! Lúc đó, ở phương Tây nam của cõi tam thiên đại thiên, cách thế giới bốn thiên hạ này, bảy vạn bốn thiên hạ. Thế giới đó, tên là Tỷ-bảo-bạt-điền (đời Tấn dịch là Dung thọ), có tám vạn quốc vương, mỗi một thiên hạ có tám vạn thành, ngoài thành có tám vạn thôn xóm, có chỗ cho tám vạn vị vua cai trị tám vạn thành, có tám vạn thành nhỏ, mỗi một thành có xóm làng có thành nhỏ và trăm ngàn câu-lợi thành. Các vị vua ở trong đó, thực hành giáo pháp, bài trừ những việc phi pháp. Hết thảy các vị vua ấy, đều có tám vạn bốn ngàn phu nhân, thể nữ, thời bấy giờ, thể nữ rất đoan chánh cao đẹp, mỗi một vị vua có năm trăm thái tử và một vạn hai ngàn người con gái, một vạn hai ngàn người con gái này cũng ngay thẳng cao đẹp, luật pháp của các vị vua ấy không có roi gậy, cũng không có binh khí, mỗi một vị vua đều tự cai trị ở nước của mình.

Này Mục-liên! Thế giới Dung thọ kia có Đức Phật, hiệu là Ba-vật-đa-la-đà-na-lại-tỷ Hằng-tát-akiệt A-la-ha Tam-da-tam-phật (đời Tấn dịch là Bảo Phóng Quang Minh Như Lai, Bậc Vô Sở Trước Chánh Đẳng Chánh Giác), hiện đang thuyết pháp.

Này Mục-liên! Đức Như Lai ấy, khi đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, ở thế giới bốn thiên hạ này, liền vọt lên hư không, ngồi kiết già, cách đất bảy thước, một lần, ngồi kiết già, rồi phóng ra ánh sáng lớn, làm cho thế giới bốn thiên hạ, thảy đều thấy nhau, mưa đầy các hoa trời, các khí cụ âm nhạc không đánh tự kêu, mỗi một nhạc cụ phát ra trăm ngàn âm thanh, mặt đất chấn động sáu cách, các tiếng âm nhạc giống như tiếng Phạm âm, khiến người người tạo ra trăm ngàn công đức, không thể tính. Khi Đức Phật Chuyển bánh xe pháp, khiến cho tất cả đều dứt hết các dục cấu nhập vào Vô dư Niết-bàn; Bồ-tát đem chỗ hiểu biết vì chúng sinh mà thuyết pháp. Đức Như Lai đó cũng thuyết pháp cho thế giới bốn thiên hạ này, tám vạn vị vua và phu nhân thể nữ, những người con trai, những người con gái, thấy Đức Phật biến hóa rồi, đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Trong nước đó, tất cả nhân dân, nam nữ, bé trai, bé gái đều xa lìa các bụi nhơ phiền não được sinh pháp nhãn; các vị vua này và phu nhân, thể nữ, trai, gái, theo Phật cầu làm Sa-môn. Khi ấy, Đức Như Lai đều cho những người ấy làm Sa-môn; làm Sa-môn rồi; khi đi đến bất cứ chỗ nào, nơi thành quách, huyện ấp, xóm làng họ đều đi bộ, không dùng xe, ngựa, nghỉ ngơi xong rồi, dậy ăn uống, thường ở trong chùa chiền, lại không có ruộng để trồng trọt, ăn uống tự nhiên, chư Thiên giáng xuống, để cúng dường thức ăn.

Khi Đức Như Lai trở lại hội thuyết pháp, tất cả người thực hành hạnh đệ tử đều được quả Tư-đàhàm; người thực hành Bồ-tát đều được hoan hỷ nhẫn; khi đến hội thuyết pháp lần ba, thì tất cả mọi người đều được quả A-na-hàm, người thực hành Bồ-tát đạt được năm thần thông, khi đến hội thuyết pháp thứ tư hết thảy đều được A-la-hán, người thực hành Bồ-tát đều được Bất khởi pháp nhẫn, phu nhân, thể nữ, nam, nữ cũng đều được Bất khởi pháp nhẫn. Lúc đó, phu nhân, thể nữ và các người con gái đều chuyển thân nữ thành thân nam, không còn thấy giống hình dạng người nữ nữa. Lúc này Đức Như Lai đều thọ ký cho họ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Mục-liên! Ý ông thế nào? Ông có biết Đức Bảo Phóng Quang Minh Như Lai, Bậc Vô Sở Trước Chánh Đẳng Chánh Giác ở cõi đó là ai không?

Mục-liên thưa:

–Bạch Đức Thiên Trung Thiên! Con không biết.

Đức Phật nói:

–Đức Như Lai đó, chính là ta đây, đó gọi là Như Lai đạo thần túc biến hóa vô cực. Thế nên, này Mục-liên! Tất cả đệ tử và Duyên giác không thể biết được.

Lại nữa, này Mục-liên! Lúc đó, ở phương Tây bắc của thế giới tam thiên đại thiên cách thế giới này, năm vạn năm ngàn bốn thiên hạ. Thế giới đó, tên là Kiền-đạp-đề (đời Tấn dịch là Hưng khí). Thế giới này, hoàn toàn dùng Chiên-đàn ô-lặc-casa-la, Chiên-đàn đó lớn, trị giá như một tiền. Thế giới đó đang có cây là Tam-mạn-đà-kiền-đà (đời Tấn dịch là Kỳ hương phổ huân), mỗi một cây tỏa hương thơm tới bốn trăm dặm; cõi đó nhiều hoa sen lớn như bánh xe, một hoa có trăm ngàn lá, vô số màu sắc không thể tính, hoa ấy mềm mại như hoa trời Uyển điên, mọc cao hai trượng, mùi thơm của hoa ấy lan tỏa khắp bốn thiên hạ. Chiên-đàn ở thế gian bốn thiên hạ đó đan chéo nhau, chỗ kinh hành cũng đều là hoa Chiên-đàn ba đàm mọc ở hai bên. Thế giới đó không có thành quách, huyện ấp, xóm làng, chỉ có những giao lộ ngăn cách, được lọng che ở trên; nhân dân ở thế giới ấy, ăn uống như trời Ni-mạn-la thứ năm.

Lại nữa, thế giới đó hương thơm bay xông khắp nơi Đức Phật hiệu là Kiền-đà-vật-lại-tỷ (đời Tấn dịch là Hương Khí Phóng Quang Minh) Như Lai, Bậc Vô Sở Trước Chánh Đẳng Chánh Giác, hiện đang thuyết pháp. Thế giới của Đức Phật đó toàn là Bồ-tát hạnh, không có đệ tử thực hành Duyên giác, những người ở thế gian bốn thiên hạ đó, tất cả đều được thần túc. Các Bồ-tát đó đều đắc nhẫn không thể nghĩ bàn; trong số các Bồ-tát này có Bồtát tên là Tát-hòa-đàm-vô-duy-quật-la-du (đời Tấn gọi là Nhất Thiết Pháp Vô Cực Tích Tụ) đã được nguyện không thể nghĩ bàn, đã được ba nhẫn thần thông, nhờ đó mà báo ân cho tất cả, cúng dường chư Phật rất nhiều không thể tính.

Lại nữa, này Mục-liên! Bồ-tát Nhất Thiết Pháp Vô Cực Tích Tụ đó tự suy nghĩ: “Nay ta muốn thưa hỏi Đức Phật, không biết Đức Phật có bằng lòng nói những gì mà mình muốn hỏi không! Nghĩ như thế rồi, liền từ chỗ ngồi, đứng dậy, mỗi một sợi lông trong thân đều phóng ánh sáng, chiếu khắp bốn trăm dặm, toàn thân phóng ánh sáng chiếu khắp cảnh giới, có rất nhiều trăm ngàn loại hoa với vô số màu sắc rất tươi đẹp, hoa ấy cách đất bảy thước, ở trên hư không; lòng suy nghĩ muốn đem hoa này để cúng dường, ngay lúc đó, giữa hư không, nghe tiếng âm nhạc dịu dàng giống như nhạc trời, tiếng âm nhạc này, phát ra tám thứ tiếng Pháp ấn; mỗi một tiếng Pháp ấn hiện ra tám vạn bốn ngàn câu-lợi quyển kinh và bảy vạn hai ngàn bài kệ. Lúc đó Bồ-tát rất phấn khởi liến ngồi kiết già giữa hư không, cùng với chín mươi sáu câu-lợi na-thuật trăm ngàn người, đều trụ vào địa vị không thoái lui, đều đạt Vô sở tùng sinh pháp nhẫn, sẽ đạt được quả vị Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sắc tướng diện mạo của Bồ-tát như vậy. Này Mụcliên! Tất cả mọi người trong thế giới kia, không có người mù, què, điếc, nghèo, xấu xí; tất cả nhân dân đó đều là Bồ-tát, có ba mươi hai tướng của bậc đại nhân. Trong thế giới đó, không có những người làm các việc, người trong nước đó cũng không ăn uống, chỉ dùng thiền định vui vẻ làm ăn uống; trong nước đó, không có giống người mọi rợ, cũng không có ba đường ác, cũng không có những nơi xa xôi, hiểm nghèo, cũng không ở nơi đây chết, rồi sinh đến cõi nước khác. Nếu khi chết đi thì người ấy liền được Như Lai.

Đức Phật nói:

–Này Mục-liên! Đức Như Lai ở thế giới kia, chính là ta đây. Ta ở cõi đó, đem giáo pháp hướng dẫn, dạy dỗ cho họ; đó gọi là đạo thần túc biến hóa vô cực, tất cả đệ tử và Duyên giác không thể biết được.

Lại nữa, này Mục-liên! Lúc đó, ở phương Đông bắc cõi tam thiên đại thiên, cách thế giới này, bốn vạn hai ngàn bốn thiên hạ. Thế giới đó, tên là Dumạn-đà-na (đời Tấn gọi là Ưng thời). Nhân dân ở thế giới này, dâm dục rất nhiều nào tham dâm, sân giận, ngu si, tham lam, keo kiệt, ồn ào, nghênh ngang làm các việc tà, không tin, ganh ghét, làm ác, đa nghi, che giấu tội lỗi, tánh tình nóng nảy, biếng nhác, thích muốn gây hại, không biết sợ sệt, chấp có ta, ngã, nhân, thọ mạng, không có trí tuệ. Ví như loài cầm thú, không biết xấu hổ, tâm ý cuồng loạn, không có lễ độ. Những người ở thế giới ấy, diện mạo xấu ác, không có sắc mặt, không có định tĩnh; đất ở cõi ấy, chỉ có bùn nhơ và các thứ không sạch, đời sống khổ sở, áo mặc, cơm ăn không đủ; ưa đấu tranh, lại mắng chửi nhau, sáu tháng mưa một lần, một năm mới mưa lại, ngũ cốc thiếu thốn, việc ác ập đến. Thế giới đó, đất cứng như sắt, đá lồi lõm không bằng, ví như Cổ-tật-lê, người đạp chân lên thì bị tổn thương, ác độc không dừng, đất chỉ sinh gai gốc, tất cả nhân dân chỉ uống nước dơ bẩn, vị mặn của nước đắng hôi nhơ bẩn, áo mặc đều dùng cỏ khô, bần cùng khốn khổ, lại chỉ biết nhìn nhau, sai khiến lẫn nhau. Quốc vương ở thế giới ấy, tánh tình nóng nảy, thường ưa sân giận. Nhân dân trong đó bị sai khiến làm việc rất là khổ sở, đời sống của nhân dân đều phụ thuộc vào ruộng nhưng làm ra lúa thóc, tiền tài đều bị vua đoạt lấy, đánh đập tàn ác, luôn bị tai ương.

Này Mục-liên! Trong cõi nước đó, đời hiện tại chịu tai ương, xót thương đến như thế, nếu so sánh với các loài, lại còn hơn thế nữa; người trong thế giới đó, khi chết đi đều đọa trong ba đường ác địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh.

Lại nữa, này Mục-liên! Thế giới bốn thiên hạ đó, có Đức Như Lai hiệu là Chấn-ba-ca-luận-chânđà-ma-na-ca-lâu (đời Tấn dịch là Thương Bi Lân Niệm) Như Lai, Bậc Vô Sở Trước Chánh Đẳng Chánh Giác đang thuyết pháp. Này Mục-liên! Đức Như Lai đó hiện ra mười tám đại biến hóa mà thuyết pháp bảy trăm năm; thuyết pháp bảy trăm năm xong mà không có một người nào hiểu giáo pháp. Lúc đó, Thế Tôn cũng thuyết pháp như vậy, không mỏi mệt nhàm chán, thường đem lòng thương xót lớn mà giảng nói. Này Mục-liên! Thế Tôn đó hoặc đến xóm làng, quận quốc, huyện ấp; hoặc ở rải rác, luôn du hóa khắp nơi; nếu đi đến nước kia mà nhân dân mắng chửi, xem thường, có lời nói thô lỗ, có hiện tướng giận dữ, thì Thế Tôn đó, đối với họ đều nhẫn chịu và khuyên nhũ, thương xót, giúp đỡ, muốn làm cho họ được độ thoát đến Niết-bàn. Này Mục-liên! Khi ấy, Đức Như Lai ở trong thời gian đó thuyết pháp giúp đỡ họ; lúc nói pháp có tám vạn bốn ngàn na-thuật người đạt được quả A-la-hán; lại có tám vạn bốn ngàn na-thuật người đạt quả A-na-hàm; lại có tám vạn bốn ngàn na-thuật người đạt quả Tư-đà-hàm; lại có tám vạn bốn ngàn na-thuật người đạt quả Tu-đà-hoàn và tất cả đại chúng trong một ngày đều cạo bỏ râu tóc, làm Sa-môn, thọ đại giới. Như vậy, là hàng có học hay không học, ở trong ba tháng trước đã tạo các việc ác; nay nghe lời dạy của Đức Phật đều được xa lìa, ngay lúc đó tất cả đều được Bát-niết-bàn. Đức Phật đó luôn luôn trụ và thương xót, giúp đỡ hàng Duyên giác và Bồtát. Họ đã tạo ra tội ác, nên bị sinh ở cõi ấy, chịu thống khổ đến như vậy, cho đến một lúc họ đều được xa lìa.

Lúc đó Mục-liên bạch Phật:

–Cúi xin Đức Thế Tôn! Các Bồ-tát này, tạo ra những tội gì, mà sinh ở cõi đó?

Đức Phật bảo Mục-liên:

–Bồ-tát có bốn việc bị sinh qua cõi đó:

1. Bồ-tát cậy vào danh để cầu cúng dường, không học việc của Bồ-tát.

2. Đối với việc của Bồ-tát, không thực hành lại còn biếng nhác, tuy có thấy cũng không thể nắm giữ.

3. Bồ-tát thấy các Bồ-tát khác, được sự cúng dường, liền ganh ghét, nói vì sao lại được cúng dường, xem thường cắt đứt công đức của người khác.

4. Bồ-tát không thể giữ gìn thân, khẩu, ý. Vì làm những việc như thế, nên bị sinh ở cõi đó.

Đức Phật bảo:

–Này Mục-liên! Đức Phật kia chính là ta đây. Ta ở cõi đó, đem giáo pháp dạy dỗ, hướng dẫn cho họ. Đó gọi là Như Lai quyền đạo thần túc biến hóa vô cực. Những việc như vậy, đệ tử và hàng Duyên giác không thể biết được. Này Mục-liên! Lúc đó Đức Như Lai làm Phật sự ở cõi tam thiên đại thiên thế giới như vậy, các ông cũng đều không thể biết được. Vì sao? Vì đệ tử không thể thọ trì, cho nên đều không thể thấy.

Lại nữa, này Mục-liên! Lúc đó ở trong tam thiên đại thiên thế giới, trăm câu-lợi thế giới bốn thiên hạ. Đức Như Lai kia tùy theo ý của họ mà thuyết pháp; có lúc giống như hình thể trời Phạm, mặc y phục mà thuyết pháp, thế giới đó Đức Như Lai chẳng xuất gia, cạo bỏ râu tóc. Có lúc lại giống như hình thể của Thích Đề-hoàn Nhân mặc y phục mà thuyết pháp; hoặc giống như hình thể Nhật Thiên vương, mặc y phục mà thuyết pháp; hoặc lại giống như hình thể của vua Giá-ca-việt mặc y phục mà thuyết pháp rất nhiều sự giống nhau như vậy. Này Mục-liên! Lúc đó cả trong tam thiên đại thiên thế giới đều giống như sở nguyện của mọi người mà thuyết pháp, có vô số sự giống nhau như vậy; lại có vô số cõi Phật khác, không thể tính đếm là chỗ mà tất cả đệ tử Duyên giác không thể biết được. Ví như cung điện của mặt trời, mặt trăng, chư Thiên nhật nguyệt đều ngồi trong cung điện đó, không ra, không vào vẫn thấy khắp bốn thiên hạ. Này Mục-liên! Đức Thế Tôn cũng không từ đây đứng dậy cũng không đến chỗ kia mà ngồi, nhưng đều thấy cõi Phật là không thể tính, mọi sự hiện ra để chỉ bày đều tùy theo sở nguyện cao, thấp, ở giữa của tất cả mọi người bảo vệ giúp đỡ, mà nói pháp cho họ.

Khi ấy, Hiền giả Đại Mục-kiền-liên bạch Đức Phật:

–Bạch Thế Tôn! Nên xét đoán chỗ nào là người của Đức Thế Tôn, hoặc trời Đao-lợi hoặc Diêmphù-lợi, hoặc cung trời, hoặc ba ngàn thế giới này, hoặc thế giới bốn thiên hạ kia, lại thuyết pháp ở thế giới khác, những chỗ thế giới đó, xét đoán chỗ nào là Đức Phật? Chúng ta nên làm sao để biết nghĩa cùng tột của đại thí và y phục của đại giới, làm sao biết được như vậy?

Đức Phật bảo Đại Mục-kiền-liên:

–Như ông đã hỏi, có thể thọ trì được không? Nay ta vì ông mà nói. Này Mục-liên! Ví như nhà ảo thuật tạo ra người nam hoặc người nữ, vậy ông sẽ xét đoán, chỗ nào là người nam, người nữ?

Hiền giả Mục-liên bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Con không thể xét đoán được người ấy. Vì sao? Vì huyễn ấy là chỗ tạo thành do sức chú thuật, cho nên không thể nắm giữ được.

Đức Phật nói:

–Này Mục-liên! Huyễn ấy, chỗ tạo thành là ai, vậy huyễn ấy, có thể tạo ra được không?

Hiền giả Mục-liên bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Có thể tạo ra.

Đức Phật bảo:

–Này Mục-liên! Như vậy, tất cả các pháp như huyễn hóa, không nắm giữ được, phải làm thế nào? Như vậy này Mục-liên! Chỗ làm ra của nhà ảo thuật, sức ảo thuật làm ra huyễn hóa, phải như thế nào? Huyễn ấy đều bình đẳng, không có nắm giữ. Này Mục-liên! Đức Như Lai dùng trí tuệ bình đẳng hiện rõ ở tất cả các cõi, như vậy đều không nắm giữ. Làm tất cả mọi việc đều bình đẳng như vậy mới là làm việc Phật. Vì thế nên được pháp bố thí rất cùng tột, bình đẳng như vậy là được kết quả rất lớn. Này Mục-liên! Chư Phật Thế Tôn đều bình đẳng không thể tính kể, nên so sánh như vậy. Này Mục-liên! Các pháp luôn trụ trong bình đẳng. Các pháp đã trụ bình đẳng như vậy thì sự thành tựu đạo cũng vậy; pháp giới mà không nắm bắt thì cũng không tính đếm. Này Mục-liên! Ông hãy suy nghĩ kỹ, Đức Như Lai, từ nhiều kiếp xa xưa, tìm cầu dấu vết Phật-đà, có thể hóa ra hằng hà sa ba mươi hai tướng của Như Lai, bình đẳng không khác; cũng có thể thuyết pháp sáu mươi việc, cùng lúc nói ra; các Đức Như Lai này thảy đều biết tâm và những việc làm của mọi người; đều biết ai sẽ được giải thoát; như pháp môn giải thoát ứng với căn sáu tình của họ mà thuyết pháp, khiến lần lượt đều đầy đủ trí tuệ. Các Đức Như Lai này vì tất cả mà hiện ra thuyết pháp, để cho những người nghe, biết được mà phụng hành biết các Khổ, Tập đều có thể hết. Các Đức Như Lai này, có ba việc biến hóa thuyết pháp, làm cho bốn phía đều được nghe pháp. Các Đức Như Lai ấy đều hiện ra các việc Phật. Này Mục-liên! Ý ông thế nào? Ngay lúc đó, chư Phật xét đoán chỗ nào là nắm bắt cùng tột. Đức Như Lai huyễn, huyễn Như Lai thì nắm bắt cái gì!

Mục-liên bạch Phật:

–Lúc đó, ở trong Như Lai không thể biết được cái nắm bắt. Vì sao? Vì giống như hằng hà sa, đã như hằng hà sa thì mọi việc làm sẽ không tăng giảm, đối với hằng hà sa bao nhiêu là việc làm như: Màu sắc, hình tượng, báo ân, trí tuệ, thần túc, nói pháp; như để giải thoát cho tất cả mọi người. Như vậy, Đức Như Lai đối với các việc, không thể nói là có bao nhiêu!

Này Mục-liên! Như vậy, mọi việc làm của Đức Như Lai nên thấy như vậy; đều là những phần của huyễn hóa, các pháp cũng vậy. Thế nên, các pháp chẳng có bao nhiêu, chẳng thể nắm bắt. Này Mụcliên! Biết những phần huyễn hóa này, các pháp cũng như vậy. Người phàm, đối với bao nhiêu việc này, không thể làm được, huống nữa là việc của chư Phật Thế Tôn. Vì sao? Này Mục-liên! Nên học tất cả các pháp; đối với “không” nên nghĩ nhàm chán; không dụng dục, không dục; hoặc có, hoặc không trụ ngay trong đó; có thể chỗ làm cũng như chỗ được; đối với pháp giới cũng không khởi, cũng không diệt. Này Mục-liên! Với pháp giới, Đức Như Lai đều thấy, biết và hiểu. Này Mục-liên! Như cõi Diêm-phù-lợi có nhiều người ở trong đó, Đức Như Lai hiện ra trong đó hiện ra rồi lại biến hóa hoặc làm Như Lai hoặc làm Tỳ-kheo Tăng, những người ở đó lần lượt chẳng tự mình biết là Như Lai hay là Tỳ-kheo Tăng, họ có đầy trong cõi Diêmphù-lợi. Này Mục-liên! Tất cả các loài đều có thể được sinh đầy trong cõi bốn thiên hạ, như trời, người và các loài bò bay máy cựa…

Này Mục-liên! Chỗ những người đó, đều ở trước Đức Phật; bấy giờ, tất cả những loài ấy, từ đời trước xa xưa, đều trụ ở trước Đức Phật, đều lần lượt hiện ra Như Lai, hoặc Tỳ-kheo nhưng chẳng biết nhau, đầy cả bốn thiên hạ. Này Mục-liên! Lúc đó, trong cõi tam thiên đại thiên, tất cả loài bò bay máy cựa có nhiều ở trong đó, đều được thân người, được thân người rồi, lại khiến được bình đẳng. Này Mục-liên! Được thân người rồi, đều cùng chủng loại đều lần lượt hiện ra Đức Như Lai và Tỳ-kheo Tăng chẳng biết nhau. Này Mục-liên! Đặt ra đó là nhân dân trong cõi tam thiên đại thiên. Này Mụcliên! Phương Đông, phương Nam, phương Tây, phương Bắc, bốn phương phụ, phương trên, phương dưới, tất cả như vậy là mười phương thế giới, cõi ấy rất nhiều, không thể tính hết; khắp tất cả đều khiến được làm thân người, được làm thân người rồi, như vậy, tất cả đều là người.

Này Mục-liên! Mọi người cùng Đức Như Lai là một chủng loại, mỗi một người đều giống như Đức Như Lai, đều lại làm Tỳ-kheo Tăng, lần lượt chẳng thể tự mình biết nhau. Này Mục-liên! Lại đặt ra đó là mười phương trong mười hằng hà sa cõi Phật. Này Mục-liên! Như hôm nay, Đức Như Lai ngồi đây dùng Phật nhãn thấy trong cõi chư Phật, đem cái biết của chư Phật ví như số ấy, đối với trăm ngàn kiếp mà nói thì không thể rốt ráo, cũng không thể tính đếm các cõi Phật như vậy. Với khoảng thời gian đó mà ngồi thấy cõi Phật nhiều như thế thì trí tuệ của Như Lai cũng như thí dụ đã nói; có thể khiến tất cả đều như Bích-chiphật; cầu không thể biết, không thể đếm, không thể lường, không thể thấy; đối với Bích-chi-phật còn không thể biết huống nữa là hàng đệ tử! Vì thế nên, Đức Như Lai đều thấy biết, thấy biết cả trăm, cả ngàn, cả trăm ngàn, câu-lợi trăm ngàn, hằngca-la, tần-bạt, a-thọ, a-tăng-kỳ, không thể tính đếm hằng hà sa như vậy, như vậy… Như thế, các cõi nước trong cõi tam thiên đại thiên thế giới là không thể tính đếm, nó đấy khắp ở trong đó.

Đức Phật nói:

–Này Mục-liên! Số nhiều như vậy nhưng không có chỗ nào làm trở ngại tầm nhìn thấy; nhìn thẳng không liếc nghiêng, cũng không nhìn quay cổ, dùng Phật nhãn mà nhìn, đều thấy khắp cõi mười phương không thể tính, nó vô số không ngằn mé ranh giới khó mà nghĩ bàn. So sánh cõi Phật như vậy, so sánh người dân ở trong đó và các loài bò bay máy cựa, cũng như thế. Như vậy tất cả cảnh giới của Bồ-tát, phần nhiều ở trong đó. Bồ-tát từ xa xưa đời trước, chưa từng có hạnh, khiến được thân người rồi đều lại làm vua Giá-ca-việt, xung quanh mỗi một vị vua Giá-ca-việt đều có quan thuộc, toàn bộ quan thuộc của một vị vua Giá-ca-việt đó, đều như những vị vua Giá-ca-việt khác cứ lần lượt như vậy. Này Mục-liên! Toàn bộ những vị vua Giá-caviệt và quan thuộc, làm một quan thuộc của vua Giá-ca-việt, giống như số đó đem so sánh đều là Như Lai, hình dáng sắc tướng đó, đều một chủng loại, như vậy, tất cả nhân duyên đều trụ ở trước; mỗi một vị vua Giá-ca-việt và quan thuộc đó ở trước đều tự thấy có Đức Như Lai và các Tỳ-kheo Tăng; các vị vua Giá-ca-việt đều tự gọi: Chỉ có Đức Như Lai, không còn ai khác, mỗi một vị đều tự thấy một Đức Như Lai, ngoài ra không có ai được như thế. Như vậy, các vị vua Giá-ca-việt các quan thuộc đó mỗi một sợi lông trên thân đều là một Đức Như Lai; một Đức Như Lai đều có Tỳkheo Tăng. Như thế đều là Như Lai đạo thần túc biến hóa vô cực, ai nghe điều đó không dám ẩn ý nói chẳng phải Như Lai thị hiện biến hóa vô cực, hoặc có khởi lên suy nghĩ, đó là việc làm chân thật của Đức Như Lai thị hiện biến hóa vô cực. Như vậy, là việc làm trí tuệ, không thể tính được. Này Mục-liên! Như vậy, ý ông thế nào? Như ta khiến những người đó, đều đứng ở chỗ vua Giá-ca-việt giống như phẩm Phước phần này, phẩm Phước phần như vậy đều khiến được làm vua Giá-ca-việt, có đầy đủ bảy báu. Như vậy phước phần có nhiều không?

Mục-liên bạch Đức Phật:

–Thưa Đức Thiên Trung Thiên! Rất nhiều, rất nhiều!

Làm cho một người được phước đó đến không thể tính đếm, so lường. Như vậy, với mọi người không thể tính kể, không thể hạn lượng, thì phước đó có nhiều hơn thế nữa.

Đức Phật nói:

–Này Mục-liên! Đã nói là nên thọ trì và suy nghĩ kỹ như vậy. Các Bồ-tát làm vua Giá-ca-việt được phước phần, như vậy phước phần đó rất nhiều, nhưng cũng không như phước một sợi lông của Đức Như Lai, nó còn vô số hơn thế nữa.

Mục-liên bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Như vậy, đó là công đức của Như Lai; đó là đại thần túc, đại phân biệt, đại khả năng của Đức Như Lai. Bạch Thế Tôn! Con ăn năn vì không có chỗ theo kịp. Vì sao? Vì đối với pháp thần thông thì đạt được, mà tự mình thấy còn thiếu hụt!

Tôn giả Mục-liên bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Tất cả những người kia nghe Như Lai đạo thần túc biến hóa vô cực này đều đạt được công đức rất lớn, ai nghe rồi đều một lòng phát khởi suy nghĩ những việc đó; muốn cầu giải thoát, muốn học đầy đủ, muốn được Đạo thần túc biến hóa vô cực thì phải phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Bạch Thế Tôn! Những người như thế, nên cúi đầu đảnh lễ. Vì sao? Vì những người này không bao lâu nữa, dứt khoát không còn sợ đọa vào ba đường ác, cũng không còn nghi ngờ hiểu nghĩa đúng như vậy, cũng không mong cầu Trời, Rồng, Quỷ, Thần, Kiền-đạp-hòa, cũng không nguyện làm Phạm thiên. Bạch Thế Tôn! Đúng là như vậy.

Lúc đó, Mục-liên nghe Đạo Thần túc biến hóa vô cực, liền đứng dậy, chắp tay thưa:

Nam-mô Phật Thế Tôn! Vì nghe mọi người đảnh lễ, khiến người ấy mau đạt được sở nguyện; người muốn phát tâm, người đã phát tâm đều khiến mọi người này đạt được sự cùng tột, giống như cùng tột của Đức Phật. Lúc đó, khiến tâm không còn thoái chuyển, không do dự, tin chắc chắn, không còn nghi ngờ.

Khi ấy, các Trời, Rồng, Duyệt-xoa, Kiền-đạphòa, Thích, Phạm, các vị bảo vệ thế gian đều cúng dường Đức Phật, vì đối với pháp ngôn đều được sở nguyện vui thích. Lúc ấy trăm ngàn các loại dụng cụ âm nhạc, không đánh mà tự kêu; hoa trời Ưubát-la, Ba-đàm-câu-văn, Phân-đà-lợi đầy khắp trời Đao-lợi. Khi nghe nói phẩm pháp ngôn này, có bảy vạn hai ngàn na-thuật chư Thiên xưa nay luôn tạo các công đức đều phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và nói: Chúng ta sau đời vị lai, ở trước chư Thiên và người thế gian, rống lên tiếng rống sư tử giống như ngày nay Đức Thế Tôn đang rống. Bấy giờ Nguyệt Thiên tử và Nguyệt Tinh Thiên tử đứng trước Đức Phật bạch:

–Bạch Thế Tôn! Những người nam, những người nữ đối với phẩm pháp ngôn đã nói đó; hoặc thọ trì, hoặc suy nghĩ, hoặc nói rộng khắp ở trong đại chúng thì sẽ được bao nhiêu phước công đức?

Đức Phật nói:

–Này Thiên tử! Đối với Tam bảo, nếu những người nam, những người nữ không dứt bỏ, không quên, luôn luôn mong cầu đối với pháp ngôn ấy, hoặc tự mình thọ trì, hoặc nói cho người khác thì sao? Thì giống như Thiên tử nghe pháp này đối với tâm của đệ tử không có chỗ cầu đối với tâm của Bích-chi-phật cũng không có chỗ cầu, mà tâm thường cầu là trụ ở Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì sao? Vì Thiên tử thọ trì pháp ngôn thanh tịnh giải thoát, được các căn lanh lợi; đối với pháp ngôn này, vì nắm bắt được nên khởi lên tâm đạo, khởi lên tâm vui mừng, đối với giải thoát mà không nghi ngờ. Này Thiên tử! Nên đem pháp ngôn ấy mà nói rộng khắp chớ đoạn Tam bảo mà được trụ; đối với pháp ngôn này, hoặc thọ trì, hoặc đọc tụng hoặc vì người mà nói. Thiên tử! Ý ông thế nào? Không đoạn Tam bảo mà luôn trụ, đối với pháp ấy hoặc thọ trì, hoặc giảng nói. Thế nào Thiên tử? Không đoạn đối với Tam bảo mà trụ; đối với một ngàn Đức Phật cúng dường những y phục, món ăn, thức uống, giường, đồ ngồi, thuốc men trị bệnh thì sẽ được ở trong trăm ngàn kiếp. Ai có thể tính được công đức của người ấy không?

Thiên tử thưa:

–Bạch Thế Tôn! Không ai có thể biết được.

Đức Phật nói:

–Này Thiên tử! Đối với pháp ngôn đã nói, người thông minh có trí tuệ, biết phước ấy không thể tính, không có hạn lượng; nếu có người nào, đối với pháp ngôn này, hoặc thọ trì hoặc đem nói trong chúng thì phước đó sẽ rất nhiều không thể tính được.

Lúc đó, Bồ-tát Di-lặc bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Pháp ngôn này tên là gì? Nên thọ trì và thực hành như thế nào?

Đức Phật nói:

–Này Di-lặc! Pháp ngôn này tên là Ư Đao-lợi Thiên Sở Thuyết Trì, một tên nữa là Đạo Thần Túc Vô Cực Biến Hóa Trì. Ta giao lại cho ông, ông nên truyền bá cho nhau.

Này Di-lặc! Ông nên suy xét kỹ và giữ gìn ở trong đại hội nên tuyên nói cho đầy đủ.

Này Di-lặc! Tượng kinh như vậy, đối với thiên hạ cõi Diêm-phù-lợi rất khó được nghe. Này Dilặc! Phải như những gì ta đã nói. Đức Phật nói như vậy rồi, tất cả vui vẻ, Nguyệt Thiên tử, Nguyệt Tinh Thiên tử, Di-lặc Bồ-tát, Hiền giả Đại Mụckiền-liên, các Trời, Rồng, Duyệt-xoa, Kiền-đà-la, A-tu-luân, A-tu-luân-dân, tất cả đều ưa thích được nghe, vui mừng đảnh lễ Đức Phật.


[Đầu trang]


[Mục lục bộ Kinh tập][426][427][428][429][430][431][432][433][434][435][436][437][438][439][440][441][442][443][444][445][446][447][448][449][450][451][452][453][454][455][456][457][458][459][460][461][462][463][464][465][466][467][468][469][470][471][472][473][474][475][476][477][478][479][480][481][482][483][484][485][486][487][488][489][490][491][492A][492B][493][494][495][496][497][498][499][500][501][502][503][504][505][506][507][508][509][510][511][512][513][514][515][516][517][518][519][520][521][522][523][524][525][526][527][528][529][530][531][532][533][534][535][536][537][538][539][540][541][542][543][544][545][546][547][548][549][550][551][552][553][554][555][556][557][558][559][560][561][562][563][564][565][566][567][568][569][570][571][572][573][574][575][603][604][605][606][607][608][609][610][611][612][613][614][615][616][617][618][619][620][621][622][623][624][625][626][627][628][629][630][631][632][633][634][635][636][637][638][639][639][640][641][642][643][644][645][646][647][648][649][650][651][652][653][654][655][656][657][658][659][660][661][662][663][664][665][666][667][668][669][670][671][672][673][674][675][676][677][678][679][680][681][682][683][684][685][686][687][688][718][719][720][721][721][722][723][724][725][726][727][728][729][730][731][732][733][734][735][736][737][738][739][740][741][742][743][744][745][746][747A][747B][748][749][750][751][752][753][754][755][756][757][758][759][760][761][762][763][764][765][766][767][768][769][770][771][772][773][774][775][776][777][778][779][780][781][782][783][784][785][786][787][788][789][790][791][792][793][794A][794B][795][796][797A][797B][798][799][800][801][802][803][804][805][806][807][808][809][810][811][812][813][814][815][816][817][818][819][820][821][822][823][824][825][826][827][828][829][830][831][832][833][834][835][836][837][838][839][840][841][842][843][844][845][846][847]


[Mục lục tổng quát]