TAM TẠNG PHÁT TRIỂN/TAM TẠNG BẮC TRUYỀN

TẠNG KINH
BỘ KINH TẬP (425-847)

SỐ 672-KINH ĐẠI THỪA NHẬP LĂNG-GIÀ

Hán dịch: Đại Châu Vu-điền, Tam tạng Pháp sư Thật-xoa-nan-đà.

MỤC LỤC

QUYỂN 1

Phẩm 1: LA-BÀ-NA VƯƠNG THỈNH PHÁP

Phẩm 2: SỰ TẬP HỢP TẤT CẢ CÁC PHÁP (Phần 1)

QUYỂN 2

Phẩm 2: SỰ TẬP HỢP TẤT CẢ CÁC PHÁP (Phần 2)

QUYỂN 3

Phẩm 2: SỰ TẬP HỢP TẤT CẢ CÁC PHÁP (Phần 3)

QUYỂN 4

Phẩm 3: VÔ THƯỜNG (Phần 1)

QUYỂN 5

Phẩm 3: VÔ THƯỜNG (Phần 2)

Phẩm 4: HIỆN CHỨNG

Phẩm 5: TÍNH CHẤT THƯỜNG VÀ VÔ THƯỜNG CỦA NHƯ LAI

Phẩm 6: SÁT-NA

QUYỂN 6

Phẩm 7: SỰ BIẾN HÓA

Phẩm 8: KHÔNG ĂN THỊT

Phẩm 9: ĐÀ-LA-NI

Phẩm 10: KỆ TỤNG (Phần 1)

QUYỂN 7

Phẩm 10: KỆ TỤNG (Phần 2)


QUYỂN 1

Phẩm 1: LA-BÀ-NA VƯƠNG THỈNH PHÁP

Tôi nghe như vầy:

Một thời, Phật ở trong thành Lăng-già, tại đỉnh núi Ma-la-da, trên bờ biển lớn, cùng đại chúng Tỳkheo và đại chúng Bồ-tát vân tập đông đủ.

Các Đại Bồ-tát này đều đã thông đạt năm pháp, ba tánh và các thức vô ngã. Họ hiểu rõ thế giới đối đãi này là sự biểu hiện của tâm mình và chứng đắc nhiều Tam-muội, thần thông tự tại. Các Đại Bồ-tát này phương tiện giáo hóa, tùy theo tâm thức chúng sinh mà hiện nhiều loại hình thể khác nhau. Các đại chúng Bồ-tát này đến từ vô số cõi nước và được chính tay của tất cả các Đức Phật làm pháp quán đảnh. Đại Bồ-tát Đại Tuệ làm thượng thủ hội chúng.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn thuyết pháp nơi cung Hải Long Vương hơn bảy ngày rồi ra khỏi biển cả, có vô lượng ức Phạm vương, Đế Thích, Hộ thế, Tứ Thiên vương, Trời, Rồng cung nghênh. Đức Như Lai nhìn thành Lăng-già trên núi Ma-la-da mỉm cười nói:

–Các Như Lai toàn giác trong quá khứ đều ở thành này nói các pháp đã được tự chứng bằng Thánh trí, chẳng phải như tà kiến suy luận của ngoại đạo và thế giới tu hành của hàng Nhị thừa. Nay ta cũng thế, vì La-bà-na vương giảng dạy pháp này.

Khi ấy, La-bà-na là chúa loài Dạ-xoa, do nhờ thần lực Phật, nên nghe được lời ấy, từ xa biết Đức Như Lai vừa từ cung rồng ra, có Phạm vương, Đế Thích, Hộ thế, Trời, Rồng cùng đến vây quanh. Nhìn sóng biển và nhìn cả ngọn gió dao động, thế giới biển thức A-lại-da chuyển động tiếp diễn trong hội chúng ấy, mà nghĩ đến sóng thức đang phát khởi, nên La-bà-na phát tâm hoan hỷ, ở trong thành ấy vui sướng thốt lên:

–Ta sẽ đến thỉnh Phật vào thành Lăng-già, làm cho ta cùng chư Thiên và loài người được nhiều lợi ích lâu dài.

Nói xong, La-bà-na cùng quyến thuộc, ngồi nơi điện nhỏ, được kết bằng hoa, đi đến chỗ Đức Thế Tôn. Đến nơi, họ xuống xe, đi nhiễu quanh bên phải Thế Tôn ba vòng, rồi trổi các âm nhạc cúng dường Đức Như Lai. Tất cả những nhạc khí của họ đều bằng châu báu, trời Đế Thích màu xanh, xen lẫn là báu lưu ly bọc bằng vải quý vô giá. Âm thanh của nhạc khí này êm dịu, giao hòa, réo rắt tuyệt vời. Trong âm nhạc đó, La-bà-na nói kệ tán thán Đức Phật:

Kho pháp tâm tự tánh
Vô ngã lìa kiến, cấu
Nhận thức bằng trí chứng
Xin Phật tuyên giảng nói
Thân kết tập pháp lành
Chứng trí thường an lạc
Bậc biến hóa tự tại
Mong vào thành Lăng-già
Phật, Bồ-tát quá khứ
Từng ở nơi thành này
Chúng con, các Dạ-xoa
Nhất tâm nguyện nghe pháp.

La-bà-na, chúa loài Dạ-xoa dùng âm điệu Traca ngợi khen Phật, lại dùng âm ngợi khen ấy mà nói kệ:

Đức Thế Tôn bảy ngày
Ở trong biển Ma-kiệt
Sau rời khỏi Long cung
An lạc lên bờ này
Con cùng các thể nữ
Và quyến thuộc Dạ-xoa
Du-ca, Ba-lạt-na
Các bậc Trí trong chúng
Đều nhờ thần lực Phật
Đi đến chỗ Như Lai
Rời cung điện bằng hoa
Đảnh lễ Đức Thế Tôn
Và nhờ oai thần Phật
Trước Phật xưng họ tên
Con là vua La-sát
La-bà-na mười đầu
Nay con đến chỗ Phật
Mong Phật giáo hóa con
Cùng tất cả chúng sinh
Ở trong thành Lăng-già
Vô lượng Phật quá khứ
Đều lên đỉnh núi báu
Ở trong thành Lăng-già
Giảng nói pháp đã chứng
Đức Thế Tôn cũng vậy
Tại đỉnh núi báu kia
Chúng Bồ-tát vây quanh
Giảng nói pháp thanh tịnh
Chúng con ngày hôm nay
Cùng ở núi Lăng-già
Nhất tâm cùng muốn nghe
Pháp vô ngôn Phật chứng
Con nhớ đời xưa, nay
Vô lượng các Đức Phật
Chúng Bồ-tát vây quanh
Giảng nói kinh Lăng-già
Kinh Nhập Lăng-già đây
Phật xưa từng tán thán
Mong Phật ngày hôm nay
Vì đại chúng chỉ bày
Xin Phật vì thương xót
Vô lượng chúng Dạ-xoa
Vào thành quý giá kia
Dạy pháp môn vi diệu
Thành Lăng-già tốt đẹp
Trang hoàng bằng châu báu
Tường không bằng đất đá
Lưới báu bằng trân châu
Những chúng Dạ-xoa này
Xưa từng cúng dường Phật
Tu hành bỏ các lỗi
Thường chứng biết rõ ràng
Các Dạ-xoa nam nữ
Khát ngưỡng pháp Đại thừa
Kính tin pháp Đại thừa
Cũng muốn người khác tin
Cúi xin đấng Vô thượng
Vì những chúng La-sát
Và quyến thuộc mù tối
Đi đến thành Lăng-già
Con từ xưa đến nay
Siêng cúng dường chư Phật
Xin nghe pháp tự chứng
Cứu cánh đạo Đại thừa
Nguyện Phật thương tưởng con
Và các chúng Dạ-xoa
Cùng những chúng Phật tử
Vào thành Lăng-già đây
Thể nữ, cung điện con
Thật là nhiều anh lạc
Vườn vô ưu khả ái
Mong Phật thương nhận cho
Đối với Phật, Bồ-tát
Con xin dâng tất cả
Không tiếc thân phụng sự
Cúi xin Phật thương nhận.

Đức Thế Tôn nghe lời kệ, dạy:

–Này La-bà-na! Các bậc Đại đạo sư trong đời quá khứ đều thương tưởng và nhận lời thỉnh cầu của ngươi mà giảng nói pháp tự chứng tại núi báu này. Các Đức Phật tương lai cũng như vậy. Đây là trú xứ của các bậc tu hành pháp lạc quán hạnh sâu xa. Ta và các Bồ-tát vì thương tưởng ngươi nên nhận lời thỉnh cầu ấy.

Đức Thế Tôn nói xong ngồi tĩnh lặng.

Khi ấy, chúa La-bà-na mang tất cả cung điện hoa đẹp dâng cúng Đức Phật. Đức Phật ngồi trên điện hoa, vua Dạ-xoa và các Bồ-tát lần lượt tiếp nối nhau, vô lượng thể nữ ca ngâm khen ngợi cúng dường Đức Phật, cùng nhau đi đến thành Lăng-già. Đến thành rồi, chúa La-bà-na và các quyến thuộc dâng lên cúng dường Phật những vật tốt đẹp nhất.

Những thanh niên Dạ-xoa nam nữ đem lưới báu cúng dường Phật. Chúa La-bà-na đem chuỗi ngọc báu quàng vào cổ Đức Phật và Bồ-tát.

Sau khi nhận sự cúng dường, Đức Thế Tôn và các Bồ-tát giảng nói tóm tắt pháp sâu xa, cùng cảnh giới tự chứng cho các Dạ-xoa nghe. Chúa La-bàna và các quyến thuộc lại đến cúng dường Bồ-tát Đại Tuệ, ca tụng thỉnh cầu Bồ-tát: Con và các Bồ-tát

Thỉnh hỏi Đức Thế Tôn
Tất cả Đức Như Lai
Cảnh giới trí tự chứng
Con cùng chúng Dạ-xoa
Và các Bồ-tát này
Nhất tâm nguyện muốn nghe
Thế nên cùng thỉnh ngài
Ngài là bậc tu hành
Tối thắng trong ngôn luận
Chúng con rất tôn kính
Xin ngài tham vấn Phật
Pháp thanh tịnh tự chứng
Cứu cánh vào Phật địa
Xa tất cả lỗi lầm
Của Nhị thừa ngoại đạo.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn vận sức thần thông, ở nơi núi Lăng-già hóa ra vô lượng núi báu, trang hoàng bằng trăm ngàn vạn ức châu báu tốt đẹp của chư Thiên. Trên đỉnh của từng ngọn núi báu đều thấy hiện thân Phật. Trước mỗi Đức Phật đều có chúa La-bà-na và hội chúng, cùng tất cả cõi nước khắp mười phương đều hiện ra nơi núi đó. Trong mỗi nước đều có Như Lai, trước mỗi Đức Như Lai đều có chúa La-bà-na cùng quyến thuộc của vua và vườn A-du-ca nơi đại thành Lăng-già có những sự trang nghiêm cũng như vậy không khác. Nơi mỗi nước đó đều có Bồ-tát Đại Tuệ đang thưa hỏi Phật. Đức Phật vì đại chúng, dùng trăm ngàn thanh âm vi diệu khai thị cảnh trí tự chứng. Nói kinh này xong, Đức Phật và Bồ-tát đều ẩn mất trong hư không. Còn lại chúa La-bà-na chỉ thấy chính mình đang ở nơi cung cũ.

La-bà-na suy nghĩ: “Vừa rồi là ai? Ai đã nghe những lời chỉ dạy? Ai đã thấy mọi hiện tượng? Đức Phật đâu rồi? Núi, rừng, châu báu, đất đai, thành quách đâu? Những sự kiện đó bây giờ đang ở đâu? Là giấc mộng chăng? Hay ảo ảnh tạo thành? Hay đó là thành Càn-thát-bà hóa hiện ra? Hay ta bị thấy bởi hoa mắt, là ánh lửa làm mê hoặc? Như đứa con trong cơn mộng do người đàn bà đá sinh? Hay là những ánh đuốc quay vòng mà ta thấy như thế?”

Chúa La-bà-na lại suy nghĩ: “Tính chất của các pháp đều như thế. Chỉ do tự tâm phân biệt cảnh giới mà kẻ phàm phu mê muội không hiểu rõ. Không có người thấy, cũng không có cái gì được thấy. Không có người nói, cũng không có điều được nói. Thấy Phật, nghe Pháp… đều là sự phân biệt. Kẻ nào thấy theo cách đã thấy trước kia, thì không thể thấy Phật. Khi không có tâm phân biệt sinh khởi, thì đó chính thực là thấy.”

Chúa La-bà-na chợt tỉnh ngộ, xa lìa các pháp tạp nhiễm, chứng đắc tự tâm, trú cảnh giới vô phân biệt. Đời trước đã gieo trồng nhiều năng lực thiện căn, nên đối với tất cả các pháp ông được thấy đúng như thật (Không ngộ do người khác, bằng thắng trí thiện xảo để quán sát). Vĩnh viễn xa lìa tất cả những hiểu biết sai lầm ức đoán. Ông trở thành bậc thầy đại tu hành, tự thân hóa hiện các tướng, khéo đạt phương tiện, biết rõ các cấp độ của Bồ-tát. Thường ưa viễn ly tâm, ý và ý thức, đoạn trừ ba kiến tương tục, xa lìa sự chấp trước của ngoại đạo, tự giác ngộ vào Như Lai, hướng đến Phật địa.

Khi ấy, trong hư không và trong cung điện bỗng phát ra tiếng nói:

–Lành thay! Đại vương! Như những điều ngươi đã học, bậc tu hành nên học như vậy, nên thấy như vậy. Tất cả Như Lai cũng thấy như ngươi thấy. Những ai trông thấy các pháp mà khác đây, thì gọi người đó là chấp đoạn. Ngươi hãy vĩnh viễn xa lìa tâm, ý và ý thức. Thường nỗ lực quán sát tất cả các pháp, nên nhìn vào nội tâm, đừng để bị ràng buộc vào cái thấy bên ngoài, chớ rơi vào Nhị thừa, cho đến ngoại đạo, hay rơi vào nghĩa cú, kiến giải và sự chứng đắc các pháp Tam-muội. Ngươi chớ nên ưa thích nói bông đùa, bỡn cợt. Ngươi không nên sinh khởi những kiến thức quanh co và không nên đắm trước tự do nơi vương vị, không nên trú trong sáu định. Nếu được như thế là người tu hành chân thật, bẻ gãy những luận thuyết của người khác, phá tan những kiến giải tai hại xấu xa, xả bỏ tất cả những chấp trước về ngã. Lấy trí tuệ sáng suốt chuyển thức sở y, tu đạo Đại thừa Bồ-tát, đạt đến cấp độ tự chứng của Như Lai đã đạt. Ngươi hãy nên nỗ lực tu học như vậy, làm cho đắc pháp, chuyển đến thanh tịnh, tinh tấn tu tập thiền định và thiền tuệ. Chớ đắm trước cảnh giới Nhị thừa ngoại đạo, cho là an vui tối thượng, vì đó là tâm phân biệt của người tu phàm phu ngoại đạo, chấp ngã kiến nên có ngã tướng và thật đức, nên sinh đắm trước. Hàng Nhị thừa chấp có, nên vô minh duyên hành, nên loạn tưởng phân biệt đối với tánh không.

Này chúa thành Lăng-già! Pháp này là đạo Đại thừa, siêu việt tất cả, có thể làm cho thành tựu, tự chứng thánh trí. Pháp này đưa đến sự sống tốt đẹp tuyệt vời trong các cõi.

Lăng-già vương! Hạnh Đại thừa này phá tan bóng tối vô minh, ngăn chặn làn sóng của thức và không rơi vào trong những kiến thức sai lầm của ngoại đạo.

Lăng-già vương! Người thực hành theo ngoại đạo, chấp trước nơi ngã, tạo những dị luận, không thể giảng nói để rời bỏ, chấp chặt về kiến và hai nghĩa của thức tánh.

Lành thay, này chúa thành Lăng-già! Hãy tư duy về ý nghĩa này như đã tư duy khi gặp Phật trước đây. Thật thế, tư duy pháp này chính là thấy Đức Như Lai.

Bấy giờ, chúa La-bà-na suy nghĩ: “Con mong được gặp lại Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn Như Lai là bậc quán thấy tự tại tất cả vạn pháp, là bậc đã xa lìa pháp ngoại đạo, nói về sự chứng ngộ cảnh giới của đấng Thánh trí, là bậc siêu việt các ứng hóa và làm những việc đáng làm, là bậc an trú thiền định Như Lai và nhập Tam-muội an lạc. Thế nên Như Lai còn gọi là Bậc Thầy đại quán hạnh, cũng gọi là Đấng Đại Từ Mẫn, đốt hết phiền não, không còn củi phân biệt, là Bậc được các chúng đệ tử Phật vây quanh và đã thâm nhập trong tâm thức của tất cả chúng sinh, là Đấng đầy đủ Nhất thiết trí, đi khắp đến mọi nơi, vĩnh viễn xa lìa sự tướng phân biệt. Thế nên gặp được Đức Thế Tôn, lại với sức thần thông lớn, con sẽ đạt được những gì chưa đạt và đã đạt rồi đều được không thoái chuyển, xa lìa các phân biệt, an trú nơi hỷ lạc Tam-muội, tinh tấn trọn vẹn đến bậc Trí của Như Lai.”

Đức Thế Tôn biết rằng chúa thành Lăng-già sẽ chứng ngộ Vô sinh pháp nhẫn nhưng vì lòng Từ thương xót nên hiện ra một lần nữa, làm cho các sự biến hóa trở lại như cũ. Thập đầu vương thấy những điều đã từng thấy, vô lượng núi non, thành quách được trang hoàng bằng châu báu. Trong mỗi mỗi thành đó đều có Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác với ba mươi hai tướng tốt trang nghiêm thân. Đồng thời ông cũng tự thấy mình đối diện với các Đức Phật, đều có Dạ-xoa Đại Tuệ vây quanh đang thuyết pháp của trí tự chứng, cũng thấy cõi nước của chư Phật khắp mười phương… Những việc như thế hoàn toàn không khác.

Khi ấy, Đức Thế Tôn lại nhìn khắp đại chúng bằng đôi mắt trí tuệ, chứ không nhìn bằng đôi mắt của người thường. Oai hùng như sư tử chúa, Thế Tôn quay lại đưa mắt uy nghiêm nhìn với nụ cười rạng rỡ phát thành tiếng. Giữa chân mày, từ bàn tọa đến bên sườn, từ hông, từ lưng, từ cổ cho đến vai nơi chữ Vạn, từ cánh tay, nơi từng lỗ chân lông phóng ra vô lượng tia hào quang sắc màu vi diệu, như cầu vồng rực rỡ, như mặt trời tỏa chiếu ánh sáng và như kiếp hỏa bùng cháy mãnh liệt sáng ngời.

Trong hư không, Phạm thiên, Đế thích, Tứ Thiên vương, từ xa trông thấy Đức Như Lai ngồi trên đỉnh núi Lăng-già, có thể sánh với núi Tu-di và dường như đang hân hoan cười lớn; lúc ấy các Bồ-tát và chúng trời đều nghĩ rằng: “Không hiểu vì nguyên nhân nào mà Đức Như Lai Thế Tôn vốn rất tự tại đối với các pháp, lại hân hoan cười lớn như thế? Tại sao từ Đức Như Lai phóng ra ánh sáng, tịch lặng, không dao động, ở trong cảnh giới tự chứng nhập Tam-muội an lạc? Như sư tử chúa, Đức Như Lai quay nhìn khắp nơi quán sát La-bàna và nghĩ đến pháp như thật?”

Bấy giờ, Đại Tuệ là vị Đại Bồ-tát mà trước đây La-bà-na chỉ thỉnh cầu tham vấn Đức Phật, biết tâm ý của hội chúng Bồ-tát, cùng quán thấy tất cả chúng sinh đời tương lai đều thích đắm trước vào ngôn ngữ văn tự, theo ngôn từ chấp nghĩa lý mà sinh ra mê muội, chấp chặt vào sự tu hành của hàng ngoại đạo Nhị thừa. Họ nghĩ rằng: “Đức Thế Tôn đã vượt cảnh giới tâm thức siêu việt, mà vì nguyên nhân nào Đức Thế Tôn hân hoan cười thành tiếng?” Bồ-tát Đại Tuệ vì muốn giải tỏa sự nghi ngờ thắc mắc đó, nên thỉnh hỏi Phật.

Đức Phật bảo:

–Hay thay! Đại Tuệ! Lành thay! Đại Tuệ! Ông đã quán sát thế gian, thương xót chúng sinh bị ràng buộc nơi kiến giải sai lầm trong quá khứ, hiện tại, tương lai và muốn cho họ được giải ngộ nên mới hỏi ta. Những người có trí tuệ, vì lợi ích cho mình cho người, mới thưa hỏi như vậy.

Này Đại Tuệ! Chúa thành Lăng-già đây đã từng hỏi hai câu này nơi tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thời quá khứ. Hiện tại ông cũng muốn hỏi ta và tương lai cũng như thế. Hai câu này có tướng khác nhau, điều mà tất cả hàng Nhị thừa và ngoại đạo không thể biết hết.

Đức Như Lai biết chúa thành Lăng-già muốn hỏi ý này, nên bảo:

–Lăng-già vương! Ngươi muốn hỏi ta thì hãy thưa nhanh đi. Ta sẽ giải thích và phân tích đầy đủ theo sở nguyện của ngươi, khiến ngươi được hoan hỷ. Ngươi hãy dùng trí tuệ tư duy, quán sát, xa lìa những sự phân biệt và khéo biết các cấp độ tu tập, đối trị thấu suốt bản chất của nguyên lý trong an lạc của Tam-muội. Được các Đức Như Lai hộ trì, an trú trong an lạc của thiền định và xa lìa lầm lỗi của hàng Nhị thừa. Hãy an trú nơi Bất động địa, Thiện tuệ địa và Pháp vân địa. Như thật biết các pháp đều vô ngã. Như Lai ở trong cung Đại bảo liên hoa, dùng nước Tam-muội làm pháp quán đảnh cho ngươi. Và hiện vô lượng hoa sen chung quanh, có vô số Bồ-tát ở trong đó, cùng các hội chúng đang lần lượt nhìn ngươi. Cảnh giới như thế vượt ra ngoài trí tưởng tượng luận bàn.

Lăng-già vương! Ngươi phát họa ra một cách nhìn thích hợp và đặt mình vào một mức độ, phát họa vô lượng phương tiện thiện xảo, nhất định ngươi sẽ đạt những điều như trên đã nói, không thể suy nghĩ luận bàn. Ngươi nên đạt đến địa vị của Như Lai, tùy theo đối tượng, thể hiện nhiều hình tướng khác nhau. Những gì ngươi sẽ thành tựu là điều mà tất cả hàng ngoại đạo, Nhị thừa và Phạm vương, Đế Thích, Tứ Thiên vương… chưa từng thấy.

Chúa Lăng-già nhờ ân Phật hứa khả, được ở ngay nơi ánh sáng thanh tịnh như hoa sen lớn trên đỉnh núi báu. Ông rời khỏi tòa, cùng các thể nữ vây quanh. Có vô lượng những bông hoa tươi đẹp đầy màu sắc, những hương thơm, hương bột, tràng phan, lọng báu, chuỗi ngọc, những vật dụng trang nghiêm tốt đẹp nhất mà ngoài thế gian chưa ai từng nghe thấy vừa được hóa hiện ra. Những nhạc cụ âm nhạc, vô lượng nhạc khí ở cõi Dục có vượt hơn tất cả nhạc của chư Thiên, Trời, Rồng, Càn-thátbà… ở thế gian, những khí cụ âm nhạc mà khắp các cõi nước mười phương chưa từng thấy, được hóa hiện ra. Những màn lưới báu lớn giăng khắp trên tất cả Phật, Bồ-tát. Nhiều loại y phục tốt đẹp nhất và đủ loại cờ xí, tràng phan đều được dựng lên để cúng dường Phật.

Những việc này được hóa hiện xong, chúa loài Dạ-xoa bay lên hư không cao bằng bảy cây đa-la. Trong hư không, trời mưa tuôn xuống những đám mây lớn chứa vật cúng dường và những âm nhạc. Vị ấy từ hư không hạ xuống, ngồi trên đỉnh núi báu, sáng rực như mặt trời thứ hai, như hoa sen lớn, hoan hỷ, cung kính vui mừng bạch:

–Con muốn thỉnh hỏi Đức Như Lai hai việc. Hai việc này, con đã từng thỉnh hỏi Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thời quá khứ và Đức Phật Thế Tôn đã chỉ dạy cho con. Hiện tại con cũng muốn thỉnh hỏi nghĩa này, cúi xin Đức Như Lai vì con mà tuyên nói.

Bạch Thế Tôn! Hai việc này do Đức Như Lai biến hóa nói, chứ không phải chính Đức Phật căn bản. Đức Phật căn bản nói cảnh giới an lạc của Tam-muội. Đức Phật không nói những sự tu hành phân biệt hư dối.

Lành thay! Đức Thế Tôn! Đấng Tự Tại đối với các pháp, cúi xin Thế Tôn thương xót chỉ dạy cho con hai nghĩa này. Tự thâm tâm chúng đệ tử Phật đều muốn được nghe.

Đức Thế Tôn bảo chúa thành Lăng-già:

–Ta sẽ chỉ dạy những điều ngươi vừa thưa hỏi.

Khi ấy, chúa loài Dạ-xoa lại mang chuỗi ngọc, mão báu và tất cả những vật tốt đẹp để trang nghiêm thân mà bạch:

–Đức Như Lai thường dạy: “Pháp còn phải bỏ, huống là phi pháp.” Làm thế nào bỏ được hai pháp này? Những gì là pháp? Những gì là phi pháp? Pháp nên bỏ thì làm sao có hai? Nói có hai, tức rơi vào tướng phân biệt. Hữu thể hay vô thể là thật hay chẳng phải thật? Như thế, tất cả đều là phân biệt, không thể biết rõ tướng vô sai biệt của thức A-lạida. Giống như việc trông thấy cái vòng tóc, chẳng phải cảnh trí thanh tịnh. Tánh pháp như vậy thì làm thế nào có thể lìa bỏ pháp?

Đức Phật bảo:

–Lăng-già vương! Phải chăng ngươi không thấy những vật như cái bình,… là pháp vô thường tan hoại? Kẻ phàm phu đối với nó vọng sinh phân biệt. Vì sao nay ngươi không như thật biết tướng sai biệt của pháp, cùng phi pháp? Đây là sự phân biệt của phàm phu, không phải tri kiến của bậc Thánh. Phàm phu bị rơi vào đủ loại tướng, nên không phải là bậc Thánh.

Lăng-già vương! Như vườn, rừng, cung điện… bị đốt cháy, thấy rất nhiều loại ngọn lửa, tuy nhiên tính chất của lửa chỉ là một. Do năng lực của củi phát ra ánh lửa, cho nên có dài ngắn, lớn nhỏ, mỗi ngọn lửa khác nhau. Vì sao ngươi không biết đúng như thật tướng sai biệt của pháp cùng phi pháp?

Lăng-già vương! Như một hạt giống sinh ra mầm, chồi, cành, lá, hoa, quả, vô lượng sự sai khác nhau. Ngoại pháp cũng thế và nội pháp cũng thế. Nghĩa là vô minh làm duyên sinh ra uẩn, xứ, giới và tất cả các pháp. Ở trong ba cõi, thọ sinh nơi các nẻo; có khổ, vui, tốt, xấu, nói năng, im lặng, làm, nghỉ… mỗi mỗi tướng khác nhau. Và như các thức tướng, tuy là một nhưng tùy nơi cảnh giới mà có thượng, trung, hạ, nhơ, sạch, thiện, ác… nhiều tướng trạng khác nhau.

Lăng-già vương! Không phải chỉ có các pháp như trên mới sai biệt, mà những người tu hành khi tu quán hạnh, hành động theo trí của họ cũng thấy có tướng sai khác, huống là pháp và phi pháp làm sao khỏi có muôn ngàn sự phân biệt khác nhau.

Lăng-già vương! Tướng sai khác của pháp và phi pháp, nên biết đều là tướng phân biệt.

Lăng-già vương! Thế nào là pháp? Nghĩa là hàng ngoại đạo Nhị thừa phân biệt lừa dối, nghĩ rằng: Các pháp là có thật, do nhân duyên tạo thành. Các pháp như thế nên từ bỏ, nên xa lìa, không nên từ đó chấp tướng phân biệt. Thấy pháp tánh tự tâm thì không chấp trước. Những vật như bình,… là chỗ chấp giữ của phàm ngu, vốn không có thật thể. Những hành giả nhìn sự vật nên nhập thiền quán để quán sát đúng chân lý, gọi là xả bỏ các pháp.

Lăng-già vương! Thế nào gọi là phi pháp? Nghĩa là các pháp vô tánh, vô tướng, vĩnh viễn xa rời sự phân biệt. Người thấy đúng như thật, cảnh giới này hoặc có hay không thì vẫn không phát khởi. Đây gọi là xả bỏ phi pháp. Và phi pháp còn có nghĩa như sừng thỏ, con của Thạch nữ… đều không có tánh tướng, không thể phân biệt, chỉ theo thế tục mà nói có danh tự, đâu như cái bình… mà có thể chấp giữ? Vì sự chấp giữ kia chẳng phải là thức. Các pháp phân biệt cũng phải từ bỏ như thế. Đây gọi là sự từ bỏ pháp và phi pháp.

Lăng-già vương! Ngươi bảo rằng: “Con đã hỏi câu này nơi các Đức Như Lai quá khứ và các Đức Như Lai ấy cũng đã trả lời cho con.” Lăng-già vương! Điều ngươi nói ra thuộc về quá khứ, chỉ là phân biệt và tương lai cũng thế. Ta cũng giống như vậy.

Lăng-già vương! Pháp của các Đức Phật kia đều xa lìa phân biệt, đã vượt khỏi tất cả phân biệt và hý luận. Chư Phật không theo sắc tướng, ngoại trừ trí tuệ thực chứng để soi sáng chúng sinh được an lạc. Thế nên Như Lai thuyết giảng pháp bằng trí tuệ, vượt lên trên sắc tướng, gọi là Như Lai. Như Lai lấy trí làm thể, có thân thể của ngài trong trí tuệ. Vì thế, ngài không phân biệt và không bị phân biệt. Không thể phân biệt theo ý niệm về tự ngã tánh, hay chúng sinh tánh. Không phân biệt như thế nào? Vì ý thức làm nhân cảnh giới mà phát sinh, rồi giữ lấy hình tướng của sắc. Do đó đừng phân biệt và nên xa lìa đối tượng phân biệt.

Lăng-già vương! Ví như trên tường được họa hình ảnh của chúng sinh nhưng không có tâm thức. Chúng sinh nơi thế gian giống như hình vẽ trên tường ấy, không có tạo tác, không có quả báo. Các giáo pháp cũng thế, không có sự nghe, không có sự giảng nói.

Lăng-già vương! Chúng sinh ở thế gian giống như sự biến hóa, kẻ phàm phu ngoại đạo không thể hiểu thông.

Lăng-già vương! Những ai thấy được như vậy, gọi là thấy đúng như thật. Những ai nhìn sự vật khác như vậy, thì đó gọi là cái thấy phân biệt. Do phân biệt nên chấp vào nhị biên.

Lăng-già vương! Ví như có người thấy hình ảnh mình phản chiếu trong gương, trong nước, hay thấy ánh trăng trong dòng nước, hay nghe tiếng vang trong hang núi, người ấy sinh tâm chấp chặt vào những hình bóng ấy của mình mà sinh phân biệt. Ở đây cũng thế, duy trì sự phân biệt của pháp và phi pháp, do phân biệt nên không thể xa lìa, càng tăng trưởng biết bao nhiêu hư vọng, nên không đạt được sự an tịnh. Do an tịnh có ý nghĩa nhất duyên (nhất tánh) và nhất duyên là đỉnh cao của Tam-muội. Từ đây sinh ra Thánh trí tự chứng, lấy Như Lai tạng làm cảnh giới.

Phẩm 2: SỰ TẬP HỢP TẤT CẢ CÁC PHÁP (Phần 1)

Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ cùng Bồ-tát Ma-đế đã từng đến tất cả các cõi nước. Nhờ thần lực Phật, Bồ-tát rời khỏi chỗ ngồi, kéo lệch y bên vai phải, gối phải quỳ xuống đất, chắp tay hướng về phía Phật, cung kính đảnh lễ và nói kệ:

Thế gian lìa sinh diệt
Như hoa đốm hư không
Trí không định hữu, vô
Nên sinh tâm đại Bi.
Vạn pháp như huyễn ảo
Vượt khỏi tầm tâm thức
Trí không có hữu, vô
Nên sinh tâm đại Bi.
Thế gian thường như mộng
Nó vượt khỏi đoạn, thường
Trí không đắc hữu, vô
Nên sinh tâm đại Bi.
Biết nhân, pháp vô ngã
Phiền não và đối tượng
Thường thanh tịnh vô tướng
Nên sinh tâm đại Bi.
Phật không trụ Niết-bàn
Niết-bàn không trong Phật
Vượt khỏi giác, sự giác
Hoặc hữu và phi hữu.
Pháp thân như huyễn mộng
Có chi để ngợi khen?
Biết vô tánh, vô sinh
Chính là ca ngợi Phật.
Phật không tướng, căn, trần
Không thấy, tức thấy Phật
Làm sao khen hay chê
Đối với Đấng Mâu-ni.
Ai thấy Đấng Mâu-ni
An tịnh lìa sinh diệt
Thì đời này, đời sau
Vượt khỏi bao ràng buộc.

Đại Bồ-tát Đại Tuệ dùng kệ ca tụng Thế Tôn xong, tự xưng tên họ:

Con tên là Đại Tuệ
Thông hiểu pháp Đại thừa
Hỏi trăm lẻ tám câu
Đấng biện tài cao tột.

Đấng tối thắng trên đời nghe Bồ-tát nói xong, nhìn khắp hội chúng mà nói kệ:

Những người con tối thắng
Hãy hỏi điều muốn hỏi
Ta sẽ vì các ngươi
Chỉ cảnh giới tự chứng.

Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ được Phật hứa khả, đảnh lễ dưới chân và dùng kệ hỏi:

Vì sao khởi phân biệt
Làm sao hết phân biệt
Vì sao sinh mê hoặc
Làm sao hết mê hoặc
Thế nào gọi Phật tử
Và cấp độ vô tưởng
Cách giáo hóa cõi Phật
Chúng sinh hàng ngoại đạo
Giải thoát đến độ nào
Ai trói buộc, ai mở
Thế nào cảnh giới thiền
Do đâu có Tam thừa
Do duyên gì mà sinh?
Gì làm, đối tượng làm
Ai nói pháp đồng, dị
Do đâu các hữu khởi
Thế nào Vô sắc định
Sao gọi Diệt tận định
Làm sao các tưởng diệt
Thế nào từ định xuất
Hành động sinh thế nào
Sao tiến lùi giữ thân
Thấy các vật thế nào
Do đâu vào các Địa
Vì sao có Phật tử
Phá ba cõi là ai
Trú xứ, thân là gì
Sinh và trụ ở đâu
Ai đạt được thần thông
Tự tại các Tam-muội
Tâm Tam-muội thế nào
Xin Phật dạy cho con.
Thế nào gọi tạng thức
Vì sao gọi ý thức
Vì sao sinh tà kiến
Làm sao diệt các kiến
Chủng tánh, phi chủng tánh
Duy tâm nghĩa là gì
Nhân nào kiến lập tướng
Do đâu thành vô ngã
Sao nói không chúng sinh
Nói sao hợp thế tục
Cách nào khỏi sinh khổ
Thường kiến và đoạn kiến
Chư Phật và ngoại đạo
Tại sao chẳng trái nhau
Vì sao đời tương lai
Phát sinh nhiều bộ phái
Tánh không nghĩa là gì
Thế nào sát-na diệt
Thai tạng làm sao khởi
Sao ổn định thế giới
Tại sao cuộc đời này
Như ảo ảnh, giấc mộng
Như thành Càn, sóng nắng
Như trăng trong dòng nước
Bồ-đề phần là gì
Giác phần từ đâu sinh
Cõi nước sao hỗn loạn
Làm sao thấy các hữu
Sao biết pháp thế gian
Làm sao lìa văn tự
Thế nào như hoa đốm
Không sinh và không diệt
Bao nhiêu loại chân như
Tâm có bao nhiêu loại
Làm sao như hư không
Thế nào lìa phân biệt
Thứ tự các cấp độ
Làm sao được vô tưởng
Hai vô ngã là gì
Cách nào sinh tri kiến
Bao nhiêu loại Thánh trí
Bao nhiêu giới, chúng sinh
Các châu báu, ma-ni…
Thật tánh từ đâu sinh
Ai phát sinh ngôn ngữ
Vạn vật và chúng sinh
Kinh điển cùng kỹ thuật
Do ai phát minh ra
Có bao nhiêu loại kệ
Văn xuôi và văn vần
Mấy lý luận khác nhau
Bao nhiêu giải thích khác
Thực phẩm do ai tạo
Ái dục từ đâu sinh
Sao gọi Chuyển luân vương
Lãnh chúa các Tiểu vương
Vua thống lãnh thế nào
Trời có bao nhiêu loại
Đất, trăng, sao, mặt trời
Những hành tinh ra sao
Giải thoát có mấy thứ
Bao nhiêu bậc Đạo sư
Sao gọi A-xà-lê
Đệ tử có mấy loại
Có bao Bậc Như Lai
Bản sinh cùng Bản sự
Các ma và ngoại đạo
Như vậy có bao nhiêu
Tự tánh và bản tâm
Có mấy loại riêng biệt
Vì sao chỉ giả thiết
Xin Phật giảng cho con.
Do đâu có mây, gió
Niệm, tuệ do đâu có
Cỏ cây và rừng rậm
Xin hãy nói cho con
Vì sao lại bắt giữ
Muông thú, ngựa và voi
Sao có kẻ xấu, ngu
Xin Phật cho con biết
Vì sao có sáu thời
Sao gọi Nhất-xiển-đề
Do đâu có sự sinh
Nam nữ, phi nam nữ
Siêng tu hành thế nào
Tu lui sụt là sao
Có bao nhiêu Du-già
Khiến người tu pháp ấy
Chúng sinh vào các cõi
Hình sắc tướng thế nào
Nhiều giàu sang tự tại
Nhân này do đâu có
Sao có dòng họ Thích
Sao có họ Cam-giá
Tiên nhân nhiều khổ hạnh
Vị ấy nói điều chi
Nhân nào Phật Thế Tôn
Hiện trong vô số cõi
Có đủ loại chúng sinh
Các Phật tử vây quanh
Tại sao không ăn thịt
Nguyên nhân nào cấm thịt
Ăn thịt các chúng sinh
Vì nhân nào ăn thịt
Tại sao các cõi nước
Giống như mặt trời, trăng
Tu-di và hoa sen
Chữ vạn, tướng sư tử
Vì sao các cõi nước
Giống lưới trời Đế Thích
Úp xuống hoặc một bên
Tạo thành bởi châu báu
Vì sao các cõi nước
Sáng ánh trời, trăng sạch
Hoặc như hình hoa quả
Sáo trúc, đàn hay trống
Sao gọi Phật hóa thân
Thế nào báo thân Phật
Trí tuệ Phật chân như
Mong vì con mà nói
Tại sao nơi cõi Dục
Không thành tựu Chánh giác
Sao trời Sắc cứu cánh
Lìa nhiễm, đắc Bồ-đề
Khi Như Lai diệt độ
Ai hộ trì chánh pháp
Phật trụ thế bao lâu
Chánh pháp bao lâu diệt
Tất-đàn bao nhiêu loại
Có bao nhiêu quan điểm
Vì sao lập giới luật
Tất cả các Tỳ-kheo
Tất cả các Phật tử
Độc giác và Thanh văn
Làm sao chuyển sở y
Vì sao đắc vô tưởng
Sao đạt thế tục thông
Làm sao được xuất thế
Và vì nguyên nhân nào
Tâm trụ trong Thất địa
Tăng-già có mấy loại
Vì sao thành phá Tăng
Làm sao vì chúng sinh
Chữa trị bằng thuốc men
Sao Đấng Đại Mâu-ni
Xướng những lời như thế
Ca-diếp, Câu-lưu-tôn
Câu-na-hàm Mâu-ni
Tại sao nói đoạn thường
Có ngã và vô ngã
Sao không thường nói thật
Tất cả do tâm tạo
Rừng nam, nữ là gì
Ha-lê, A-ma-la
Kê-la-sa, Luân vi
Cho đến núi Kim cang
Giữa những núi như thế
Trang hoàng nhiều châu báu
Tiên nhân, Càn-thát-bà
Tất cả đều sung mãn
Đây do nhân duyên gì
Xin Phật cho con biết.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nghe những lời thỉnh hỏi trong giáo pháp mầu nhiệm của Đại thừa và cũng là pháp môn Tối thượng tâm của chư Phật. Thế Tôn nói:

–Hay thay! Này Đại Tuệ! Hãy lắng nghe cho kỹ! Ta sẽ nói trình tự về những câu hỏi của ông.

Rồi Phật nói kệ:

Pháp sinh hay bất sinh
Tướng không và Niết-bàn
Lưu chuyển không tự tánh
Bồ-tát Ba-la-mật
Thanh văn, Bích-chi-phật
Ngoại đạo hạnh vô sắc
Núi Tu-di, biển cả
Bãi, bờ cõi, đất đai
Sao, trăng, cùng mặt trời
Chư Thiên, A-tu-la
Tự tại thường giải thoát
Lực thiền, các Tam-muội
Diệt và Như ý túc
Bồ-đề phần và đạo
Thiền định cùng vô lượng
Các uẩn, sự đến đi
Cho đến Diệt tận định
Tâm sinh khởi ngôn từ
Tâm, ý thức, vô ngã
Tự tánh và năm pháp
Phân biệt, sở phân biệt
Năng sở hiện nhị kiến
Các thừa, nơi dòng họ
Vàng ngọc, trân báu quý
Loại lớn Nhất-xiển-đề
Hoang loạn và một Phật
Trí biết sự đạt được
Chúng sinh có hay không
Nhân nào thú, voi, ngựa
Vì sao bị bắt giữ
Vì sao nhân thí dụ
Tương ưng thành Tất-đàn
Khả năng và hành động
Các rừng cùng mê hoặc
Lý chân thật như thế
Duy tâm không cảnh giới
Các địa không cấp độ
Vô tướng và chuyển đổi
Y học, nghề, luận lý
Kinh điển và kỹ thuật
Mặt đất, núi Tu-di
Lượng biển, trăng, mặt trời
Chúng sinh thượng, trung, hạ
Thân có bao vi trần
Mỗi cõi bao vi trần
Mỗi cung bao nhiêu tấc
Cung mấy câu-lô-xá
Nửa do-tuần hay một
Lông thỏ, bụi khe cửa
Lúa mạch, lông dê, rận
Nửa đấu hay một đấu
Có bao nhiêu lúa mạch
Một đấu hay mười đấu
Mười vạn, muôn ngàn ức
Cho đến Tần-bà-la
Như thế số bao nhiêu
Bao bụi thành hạt cải
Bao hạt cải thành cỏ
Gồm bao nhiêu hạt cỏ
Mới thành một hạt đậu
Bao hạt đậu thành thù
Bao nhiêu thù thành lượng
Bao nhiêu lượng thành cân
Bao cân thành Tu-di
Sao không hỏi điều này
Sao lại hỏi việc khác
Thanh văn, Bích-chi-phật
Chư Phật và Bồ-tát
Những thân lượng như thế
Có bao nhiêu bụi trần
Bao bụi trần trong lửa
Bao nhiêu trăng một căn
Lỗ chân lông, chân mày
Bao nhiêu bụi tạo thành
Những sự việc như thế
Sao ngươi không hỏi ta
Vì sao được giàu có
Sao làm Chuyển luân vương
Giữ vương quốc thế nào
Làm sao được giải thoát
Sao văn xuôi, văn vần
Dục tình và thực phẩm
Thế nào rừng nam nữ
Các núi như Kim cang…
Như mộng huyễn khát ái
Mây từ đâu nổi lên
Do đâu có các mùa
Tánh vị giác thế nào
Nam nữ, phi nam nữ
Trang hoàng Phật, Bồ-tát
Thế nào núi nhiệm mầu
Tiên Đạt-bà trang nghiêm
Làm sao được giải thoát
Ai ràng buộc, ai mở
Cảnh giới thiền thế nào
Ngoại đạo và biến hóa
Thế nào nhân vô tác
Nhân hữu tác thế nào
Do đâu chuyển các kiến
Vì sao sinh phân biệt
Thế nào hết tính toán
Hành động do đâu sinh
Làm sao chuyển được nghiệp
Diệt các tưởng thế nào
Thế nào khởi Tam-muội
Ai phá bỏ tam giới
Thế nào là thân, xứ
Vì sao không có ngã
Nói phù hợp thế tục
Ngươi có hỏi về tướng
Và hỏi về phi ngã
Thế nào là thai tạng
Cho đến chi phần khác
Đoạn thường kiến thế nào
Làm sao tâm một cảnh
Thế nào trí ngôn thuyết
Giới chủng tánh Bồ-tát
Làm sao hợp lý luận
Thầy, môn đệ thế nào
Chúng sinh khác chủng tánh
Thực phẩm và hư không
Thể hiện trí thông minh
Ngươi hỏi ta điều gì
Về cây mọc, cây leo
Vì sao tất cả cõi
Các tướng không đồng nhau
Có dạng như cây đàn
Như eo trống, như hoa
Hoặc không có ánh sáng
Tiên nhân nhiều khổ hạnh
Có dòng họ giàu sang
Được chúng sinh tôn trọng
Có kẻ thân nghèo xấu
Bị lắm kẻ khinh thường
Vì sao trong Dục giới
Tu hành không thành Phật
Sao ở Sắc cứu cánh
Tu thành Đẳng chánh giác
Vì sao người thế gian
Có thể đạt thần thông
Vì sao gọi Tỳ-kheo
Vì sao gọi Tăng-già
Sao là hóa và báo
Phật trí tuệ chân như
Làm sao cho tâm ấy
Được trụ trong Thất địa
Nghĩa này và nghĩa khác
Nay ngươi đều hỏi ta
Như trước Phật đã nói
Một trăm lẻ tám câu
Tương ưng từng tướng một
Xa lìa các kiến hoặc
Cũng rời xa thế tục
Ngôn ngữ phù hợp pháp
Ta sẽ dạy cho ngươi
Hỡi Bồ-tát lắng nghe.

Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Ý nghĩa một trăm lẻ tám câu thế nào?

Đức Phật nói:

–Đại Tuệ! Những phát biểu về câu sinh thì chẳng phải là câu sinh, câu thường chẳng phải là câu thường, câu tướng chẳng phải là câu tướng, câu trụ và khác chẳng phải câu trụ và khác, câu sát-na chẳng phải là câu sát-na, câu tự tánh chẳng phải là câu tự tánh, câu hư vô chẳng phải là câu hư vô, câu đoạn diệt chẳng phải là câu đoạn diệt, câu tâm chẳng phải là câu tâm, câu ở giữa chẳng phải là câu ở giữa, câu thường hằng chẳng phải là câu thường hằng, câu duyên chẳng phải là câu duyên, câu nhân chẳng phải là câu nhân, câu phiền não chẳng phải là câu phiền não, câu khát ái chẳng phải là câu khát ái, câu phương tiện chẳng phải là câu phương tiện, câu thiện xảo chẳng phải là câu thiện xảo, câu thanh tịnh chẳng phải là câu thanh tịnh, câu tương ưng chẳng phải là câu tương ưng, câu thí dụ chẳng phải là câu thí dụ, câu đệ tử chẳng phải là câu đệ tử, câu bậc thầy chẳng phải là câu bậc thầy, câu dòng họ chẳng phải là câu dòng họ, câu tam thừa chẳng phải là câu tam thừa, câu vô ảnh tượng chẳng phải là câu vô ảnh tượng, câu nguyện chẳng phải là câu nguyện, câu ba luân chẳng phải là câu ba luân, câu tiêu tướng chẳng phải là câu tiêu tướng, câu hữu chẳng phải là câu hữu, câu phi chẳng phải là câu phi, câu cả hai chẳng phải là câu cả hai, câu Thánh tự chứng chẳng phải là câu Thánh tự chứng, câu pháp lạc hiện tại chẳng phải là câu pháp lạc hiện tại, câu cõi nước chẳng phải là câu cõi nước, câu bụi trần chẳng phải là câu bụi trần, câu nước chẳng phải là câu nước, câu cái hang chẳng phải là câu cái hang, câu đại chúng chẳng phải là câu đại chúng, câu toán số chẳng phải là câu toán số, câu thần thông chẳng phải là câu thần thông, câu hư không chẳng phải là câu hư không, câu mây chẳng phải là câu mây, câu kỷ xảo chẳng phải là câu kỷ xảo, câu kỹ thuật chẳng phải là câu kỹ thuật, câu gió chẳng phải là câu gió, câu đất chẳng phải là câu đất, câu tâm chẳng phải là câu tâm, câu giả lập chẳng phải là câu giả lập, câu thể tánh chẳng phải là câu thể tánh, câu các uẩn chẳng phải là câu các uẩn, câu chúng sinh chẳng phải là câu chúng sinh, câu giác tri chẳng phải là câu giác tri, câu Niết-bàn chẳng phải là câu Niết-bàn, câu sở tri chẳng phải là câu sở tri, câu ngoại đạo chẳng phải là câu ngoại đạo, câu hoang loạn chẳng phải là câu hoang loạn, câu huyễn chẳng phải là câu huyễn, câu mộng chẳng phải là câu mộng, câu ảo ảnh chẳng phải là câu ảo ảnh, câu ảnh tượng chẳng phải là câu ảnh tượng, câu hỏa luân chẳng phải là câu hỏa luân, câu Càn-thát-bà chẳng phải là câu Càn-thát-bà, câu trời chẳng phải là câu trời, câu ăn uống chẳng phải là câu ăn uống, câu dâm dục chẳng phải là câu dâm dục, câu quan điểm chẳng phải là câu quan điểm, câu Ba-la-mật chẳng phải là câu Ba-la-mật, câu giới chẳng phải là câu giới, câu mặt trời và các vì sao chẳng phải là câu mặt trời và các vì sao, câu sự thật chẳng phải là câu sự thật, câu kết quả chẳng phải là câu kết quả, câu đoạn diệt chẳng phải là câu đoạn diệt, câu diệt khởi chẳng phải là câu diệt khởi, câu y phương chẳng phải là câu y phương, câu tướng chẳng phải là câu tướng, câu chi phần chẳng phải là câu chi phần, câu thiền chẳng phải là câu thiền, câu sai lầm chẳng phải là câu sai lầm, câu hiện tại chẳng phải là câu hiện tại, câu hộ trì chẳng phải là câu hộ trì, câu gia tộc chẳng phải là câu gia tộc, câu tiên chẳng phải là câu tiên, câu vua chẳng phải là câu vua, câu lãnh hội chẳng phải là câu lãnh hội, câu châu báu chẳng phải là câu châu báu, câu Nhất-xiển-đề chẳng phải là câu Nhất-xiển-đề, câu nam nữ chẳng phải là câu nam nữ, câu vị giác chẳng phải là câu vị giác, câu tạo tác chẳng phải là câu tạo tác, câu thân thể chẳng phải là câu thân thể, câu vọng thức chẳng phải là câu vọng thức, câu động lực chẳng phải là câu động lực, câu giác quan chẳng phải là câu giác quan, câu hữu vi chẳng phải là câu hữu vi, câu nhân quả chẳng phải là câu nhân quả, câu Sắc cứu cánh chẳng phải là câu Sắc cứu cánh, câu thời tiết chẳng phải là câu thời tiết, câu cây cỏ chẳng phải là câu cây cỏ, câu chủng chủng chẳng phải là câu chủng chủng, câu diễn nói chẳng phải là câu diễn nói, câu quyết định chẳng phải là câu quyết định, câu Tỳ-ni chẳng phải là câu Tỳ-ni, câu Tỳ-kheo chẳng phải là câu Tỳ-kheo, câu trụ trì chẳng phải là câu trụ trì, câu văn tự chẳng phải là câu văn tự.

Này Đại Tuệ! Đây là một trăm lẻ tám câu mà chư Phật thời quá khứ đã dạy.

Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Các thức sinh, trụ và diệt có bao nhiêu cách?

Đức Phật nói:

–Đại Tuệ, các thức sinh, trụ và diệt có hai cách, mà người khác không thể biết bằng sự ức đoán. Nghĩa là tương tục sinh và tương sinh, tương tục trụ và tương trụ, tương tục diệt và tương diệt. Các thức có ba tướng, đó là chuyển tướng, nghiệp tướng và chân tướng.

Này Đại Tuệ! Thức nói rộng có tám, nói tóm tắt chỉ có hai: Hiện thức và Phân biệt sự thức.

Như tấm gương sáng, hiện rõ những hình tướng; hiện thức cũng thế.

Này Đại Tuệ! Hiện thức và Phân biệt sự thức, hai thức này tướng không khác nhau, mà chúng hỗ tương làm nhân duyên của nhau.

Này Đại Tuệ! Hiện thức do một tập khí kỳ bí chẳng thể nghĩ bàn làm nhân. Còn Phân biệt sự thức do thế giới phân biệt và do tập khí lập luận sai lầm vốn có từ vô thủy làm nhân.

Này Đại Tuệ! Thức A-lại-da hư vọng phân biệt, chất chứa nhiều tập khí. Thức A-lại-da nếu diệt, tức thời tất cả các căn và thức đều bị diệt. Đây gọi là sự diệt về mặt hình tướng.

Này Đại Tuệ! Sự diệt và mặt tương tục nghĩa là nhân sở y diệt và sở duyên diệt, tức sự tương tục diệt. Nhân của sở y nghĩa là những tập khí vốn được chất chứa do lập luận sai lầm từ vô thủy. Sở duyên nghĩa là cảnh giới phân biệt các thức tự tâm. Này Đại Tuệ! Ví như cục đất và những bụi làm thành cục đất, hai thứ đó không khác nhau, cũng không không khác nhau. Ví như vàng cùng đồ trang sức bằng vàng cũng thế.

Này Đại Tuệ! Nếu cục đất mà khác với hạt bụi làm nên nó, thì sẽ không có cục đất nào được tạo thành. Bởi vì cục đất được tạo thành do các hạt bụi, nên nó không khác với các hạt bụi đất. Và nếu không có sự khác nhau giữa cục đất và hạt bụi, thì cục đất sẽ không khác nhau với những hạt bụi.

Này Đại Tuệ! Nếu chuyển thức khác với tàng thức, thì tàng thức không phải là nguyên nhân chuyển thức. Nếu chúng không khác thì chuyển thức diệt và tàng thức cũng diệt, nhưng thật tướng của tàng thức không diệt.

Này Đại Tuệ! Chân thật tướng của thức không diệt, nhưng nghiệp tướng diệt. Nếu chân tướng diệt thì tàng thức diệt. Nếu tàng thức mà diệt, thì không khác gì học thuyết đoạn diệt của ngoại đạo.

Này Đại Tuệ! Học thuyết ấy được các ngoại đạo nói rằng: “Sự giữ lấy cảnh giới tương tục của thức diệt, thì sự tương tục từ vô thủy của thức cũng bị diệt.”

Này Đại Tuệ! Các nhà ngoại đạo nói: “Có một nguyên nhân sinh khởi từ đó xảy ra sự tương tục của thức.” Họ không nói nhãn thức sinh khởi do sự hòa hợp của sắc và ánh sáng. Họ cho rằng: Sự sinh khởi là có tác giả. Tác giả ấy là gì? Họ cho rằng đó là: Thắng, tánh người, sĩ phu, tự tại thiên, thời gian và bụi trần.

Này Đại Tuệ! Có bảy loại tự tánh, đó là tập tự tánh, hữu tự tánh, tướng tự tánh, đại chủng tự tánh, nhân tự tánh, duyên tự tánh và thành tự tánh.

Này Đại Tuệ! Có bảy thứ Đệ nhất nghĩa, đó là cảnh giới của tâm, cảnh giới của trí, cảnh giới của nhị biên kiến, cảnh giới của siêu nhị kiến, cảnh giới của siêu Bồ-tát địa, cảnh giới của Như Lai, cảnh giới của tự chứng Thánh trí.

Này Đại Tuệ! Đây là pháp tự tánh Đệ nhất nghĩa tâm của tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác thời quá khứ, tương lai và hiện tại. Do tâm này mà thành tựu pháp tối thượng của Như Lai ở thế gian hay xuất thế gian. Bằng Tuệ nhãn của bậc Thánh, chư Phật nhập vào biệt tướng và cộng tướng mà an lập các pháp. Sự an lập của chư Phật không đồng với kiến thức sai lầm của ngoại đạo.

Này Đại Tuệ! Thế nào là tà kiến của ngoại đạo? Nghĩa là họ không biết cảnh giới mà tự phân biệt hiện ra. Đối với Đệ nhất nghĩa thấy có, thấy không nên lập ra luận thuyết.

Này Đại Tuệ! Giáo pháp của ta dạy rằng: “Nếu ai hiểu rõ các cảnh giới như huyễn ảo, chỉ là sự hiển hiện của tự tâm, thì người đó sẽ diệt được các khổ vọng tưởng trong ba cõi và diệt được nghiệp duyên vô minh, khát ái.”

Này Đại Tuệ! Có những Sa-môn, Bà-la-môn vọng chấp cho rằng: phi hữu và hữu của các vật hiển hiện bên ngoài đối với nhân quả nương vào thời gian mà trụ. Hoặc cho rằng: các uẩn, xứ, giới nương vào duyên sinh mà trụ. Sau khi hiện hữu như vậy, những pháp này sẽ diệt.

Này Đại Tuệ! Các nhà ngoại đạo đó là những người theo quan điểm tương tục, vận hành, sinh khởi, hoại diệt, hiện hữu, Niết-bàn, đạo, nghiệp, quả hoặc chân lý. Đó là những tư tưởng phá hoại và đoạn diệt. Vì sao? Vì họ không đạt pháp hiện tại, không thấu hiểu chân lý.

Này Đại Tuệ! Ví như chiếc bình bị vỡ thì không còn tác dụng của chiếc bình nữa. Và như hạt giống bị cháy, thì không thể nảy mầm. Đây cũng thế, nếu các pháp uẩn, xứ, giới đã hiện thì sẽ diệt. Biết rằng sự sinh khởi không tương tục, vì không có nguyên nhân, đó chỉ là kiến thức sai lầm từ tâm phân biệt.

Này Đại Tuệ! Nếu vốn không có thức mà do ba duyên hợp lại sinh khởi, thì con rùa có thể mọc lông và cát có thể sinh ra dầu. Tôn chỉ của họ không có giá trị, vì trái với nghĩa quyết định. Những sự tạo tác, hành vi đều là không và vô ích.

Này Đại Tuệ! Thuyết ba duyên hợp lại tạo ra quả, nguyên lý cho rằng đó là hữu. Và như thế, quá khứ, hiện tại, tương lai từ không sinh ra có. Ở đây dựa vào giác tưởng địa mà lập luận, bao nhiêu lý giải và kiến thức sai lầm, huân tập tập khí chồng chất mà tuyên bố là luận thuyết chân lý.

Này Đại Tuệ! Kẻ phàm phu ngu si bị đầu độc nơi quan điểm sai lầm tà kiến, mê muội, vô trí, nên vọng xưng đó là lời của bậc Nhất thiết trí.

Này Đại Tuệ! Có những Sa-môn, Bà-la-môn quán tất cả pháp đều không có tự tánh, như mây trong bầu trời, như vòng lửa, như thành quách Cànthát-bà, như ảo ảnh, như sóng nắng, như trăng chiếu trên mặt nước, như một giấc mộng, chẳng rời khỏi tự tâm. Do từ vô thủy đến nay bị kiến thức sai lầm, cho nên chấp thọ lấy làm bên ngoài. Quán sát như vậy rồi đoạn duyên phân biệt, xa lìa vọng tâm và chấp thọ danh nghĩa. Biết thân, tài sản, trú xứ, tất cả đều là những đối tượng hóa của cảnh giới thức A-lại-da, không thể có sự chấp thọ và sinh, trụ, diệt. Luôn tư duy như vậy mà trú không xả.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát này chẳng bao lâu sẽ đạt đến sự hiểu biết rằng: Niết-bàn và sinh tử, cả hai đều bình đẳng. Được đại Bi phương tiện mà hành động không chấp vào hành động. Các Bồtát này quán thấy chúng sinh như ảo tướng, như bóng hình, từ duyên sinh khởi. Họ thấy rằng tất cả cảnh giới không có gì bên ngoài tâm mà có, phù hợp với con đường vô tướng. Các Bồ-tát này dần dần đi qua các cấp độ tại cảnh giới Tam-ma-địa, hiểu rõ ba cõi chính tự nơi tâm. Hiểu được như thế, họ sẽ đạt thiền định, quán pháp như huyễn, không còn hình tượng, thành tựu trí tuệ, chứng vô sinh, nhập Kim cang dụ Tam-muội, sẽ được thân Như Lai, thường trụ như như và những sức biến hóa thần thông tự tại.

Này Đại Tuệ! Những sự kiện trên dùng làm trang sức, phương tiện đi đến các cõi Phật, vượt lên trên hàng ngoại đạo, tâm, ý và thức. Lần lượt chuyển thân Bồ-tát thành thân Như Lai.

Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát mong cầu được thân Như Lai, hãy nên xa lìa tâm niệm uẩn, xứ, giới, nhân duyên, sự tạo tác và các pháp sinh, trụ, diệt, hý luận, phân biệt. Chỉ chú tâm quán sát tập khí sai lầm, dối trá vốn sinh trong ba cõi từ vô thủy. Và cũng suy tư về Phật địa là khởi vô tưởng, vô sinh cùng pháp tự chứng của bậc Thánh, được tâm tự tại mà hành động không lệ thuộc vào hành động. Giống như ngọc như ý, tùy nghi phản chiếu theo ngoại tại, làm cho nhập vào các Địa, thông đạt tâm tinh tế của chúng sinh.

Này Đại Tuệ! Vì thế vị Đại Bồ-tát đối với Tấtđàn của mình nên tu học trọn vẹn.

QUYỂN 2

Phẩm 2: SỰ TẬP HỢP TẤT CẢ CÁC PHÁP (Phần 2)

Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn dạy cho con các pháp môn vi diệu về tâm, ý và ý thức, năm pháp các tự tánh và các tướng. Đây là pháp môn mà tất cả chư Phật, Bồ-tát đều thực hành, xa lìa các hành tướng, vì cảnh giới ngoại tại chính tự nơi tâm, những điều gọi là nghĩa chân thật, những lời dạy tinh yếu của giáo pháp Phật. Xin Đức Như Lai thuyết giảng cho chúng Bồ-tát trên núi này về sự tùy thuận của chư Phật quá khứ, về sóng biển tàng thức và cảnh giới của Pháp thân.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Đại Bồ-tát Đại Tuệ:

–Có bốn lý do làm cho nhãn thức chuyển biến. Bốn lý do ấy là gì? Đó là:

1. Vì chấp chặt nên không biết tự tâm hiện khởi.

2. Từ thời vô thủy đến nay bị ràng buộc nơi sắc không thật và tập khí.

3. Bản tánh của thức là như vậy.

4. Ham thích các hình sắc và vẻ bên ngoài.

Này Đại Tuệ! Vì bốn lý do này, thức A-lại-da như dòng nước lũ, sinh ra các sóng chuyển thức, như nhãn thức… Đối với tất cả các căn, vi trần, các lỗ chân lông, mắt… ví như tấm gương phản chiếu các sắc màu, hình ảnh. Hoặc sinh ra dần dần. Giống như gió mạnh thổi vào biển cả, biển tâm cũng thế. Gió cảnh giới thổi lên các sóng thức liên tục không ngừng.

Này Đại Tuệ! Nguyên nhân và hành vi tương quan nhau, chẳng phải một, chẳng phải khác. Nghiệp cùng ngoại tướng ràng buộc chằng chịt với nhau, nên không thể biết rõ tự tánh của hình sắc… và năm thức nơi thân vận hành.

Này Đại Tuệ! Cùng tương ưng với năm thức này, hoặc nhân phân biệt các cảnh tướng khác nhau mà có ý thức sinh. Nhưng các thức kia không nghĩ rằng là chúng ta đồng thời làm nhân lẫn nhau, mà đối với cảnh giới hiện ngay nơi tự tâm phân biệt chấp trước, đồng thời phát khởi tướng không sai biệt, đều rõ cảnh của mình.

Này Đại Tuệ! Các nhà tu hành khi nhập Tammuội, bằng một chút sức tu tập đã phát sinh mà không tự biết, nên nghĩ rằng: ta diệt các thức để vào Tam-muội. Nhưng thật ra họ không dẹp tất cả các thức mà nhập Tam-muội. Do đó, không dập tắt được các chủng tử của tập khí. Vì không còn nắm vào các cảnh, nên gọi là thức diệt.

Này Đại Tuệ! Hành tướng của tàng thức rất vi tế, ngoại trừ các Đức Phật hay các vị Bồ-tát ở các trụ địa, còn tất cả hàng ngoại đạo Nhị thừa thì dầu cho có năng lực trí tuệ và thiền định đều không thể biết được. Chỉ có những bậc tu hành mới hiểu đầy đủ những khía cạnh của các Bồ-tát, bằng sự trợ lực của trí tuệ họ biết rõ tướng các Địa, khéo thông đạt cú nghĩa, nhờ gieo trồng tích tập nhiều thiện căn trong cõi Phật vô biên. Không mê lầm với những phân biệt, nên tự tâm có sự nhìn nhận và hiểu biết như vậy.

Này Đại Tuệ! Những bậc tu hành đó sống ẩn dật trong chốn núi rừng, nỗ lực tu hành, hoặc cao, hoặc thấp, hoặc trung bình. Các vị ấy có thể thấy được tự tâm và sự hoạt động của nó, đạt những Tam-muội, có năng lực thần thông tự tại, được chư Phật làm pháp quán đảnh, có các Bồ-tát vây quanh, biết sự vận hành của các cảnh giới tâm, ý và ý thức. Họ có thể vượt qua biển cả sinh tử của vô minh, ái nghiệp. Thế nên các thầy hãy thân cận chư Phật, Bồ-tát, thật sự tu hành như các bậc đại Thiện tri thức.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Ví như sóng biển lớn
Do gió mạnh khuấy động
Sóng vỗ mãi bể bờ
Không khi nào ngưng nghỉ
Biển tạng thức thường trú
Bị gió cảnh giới động
Vô số các sóng thức
Nhấp nhô mà chuyển sinh
Các màu xanh, vàng, đỏ
Muối, sữa, mật, đường thơm
Hoa, quả, trời, trăng sáng
Chẳng khác, chẳng không khác
Bảy thức liên kết nhau
Nên biết cũng như thế
Như biển cùng con sóng
Tâm không khác với thức
Ví như biển khuấy động
Những con sóng nhấp nhô
Thức Lại-da cũng thế
Nhiều loại thức sinh ra
Tâm, ý và ý thức
Vì các tướng nên nói
Tám thức tướng không khác
Không tướng năng, tướng sở
Ví như làn sóng biển
Không có gì khác nhau
Các thức tâm cũng thế
Không có sự khác nhau
Nghiệp do tâm chất chứa
Ý tích tụ rộng nhiều
Nhận biết nên gọi thức
Tùy cảnh hiện năm thức

Đại Bồ-tát Đại Tuệ dùng kệ thưa hỏi:

Các màu như xanh, đỏ
Hiện ra thức chúng sinh
Như các hiện tượng sóng
Vì sao? Xin Phật dạy.

Đức Thế Tôn đáp:

Các màu như xanh, đỏ
Trong sóng không khác nhau
Nói tâm khởi các tướng
Vì khai ngộ phàm phu
Nhưng tâm vốn không khởi
Lìa sở thủ tự tâm
Năng thủ và sở thủ
Phải hiểu như sóng kia
Thôn, của cải, nhà ở
Hiện nơi thức chúng sinh
Thế nên thấy thế này
Cùng sóng không khác nhau

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

Trạng thái sóng, biển cả
Phân biệt sự nhấp nhô
Sao trí không nhận biết
Tạng thức như biển kia?

Đức Thế Tôn đáp:

Như biển Lại-da
Thức chuyển cùng sóng biển
Vì phàm phu thiếu trí
Ví biển để chỉ bày.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

Ví như mặt trời mọc
Đồng chiếu khắp thấp cao
Đèn thế gian cũng thế
Nêu thật vì kẻ ngu
Phật đã khai thị pháp
Sao không nói sự thật.

Đức Thế Tôn đáp:

Nếu sự thật ông nói
Sự thật không trong tâm
Ví như sóng biển cả
Ảnh trong gương, giấc mộng
Đồng thời đều hiển hiện
Cảnh giới tâm cũng thế
Do vì thiếu điều kiện
Lần lượt mà chuyển sinh
Chức năng thức nhận biết
Chức năng ý phản ảnh
Hiển bày ra năm thức
Khi định không thứ lớp
Ví như người họa sĩ
Và học trò ông ta
Sắp màu tạo bức tranh
Lời ta cũng như thế
Tranh không trong màu sắc
Trong bút, hay trong vải
Để vui lòng chúng sinh
Tạo bức tranh màu sắc
Ngôn từ thì biến đổi
Chân lý vượt ngôn từ
Ta trụ pháp chân thật
Giảng cho bậc tu hành
Chân lý, pháp tự chứng
Vượt năng, sở phân biệt
Ta nói đệ tử Phật
Không phải vì kẻ ngu
Những hiện hữu như huyễn
Điều được, thấy không được
Những lời dạy như thế
Thay đổi tùy theo việc
Giáo pháp không phải pháp
Nếu không nhằm trường hợp
Ví như thầy cho thuốc
Tùy theo từng căn bệnh
Như Lai dạy chúng sinh
Tùy theo tâm thức họ
Đấng thế gian nương cậy
Lãnh vực trí tự chứng
Không phải là cảnh giới
Của Thanh văn, ngoại đạo.

Này Đại Tuệ! Nếu Đại Bồ-tát muốn hiểu trọn vẹn phạm trù của thế giới phân biệt, như chủ thể và đối tượng đều là sự hiển hiện của tự tâm, thì phải tránh xa sự ồn náo, lười mỏi, ngủ nghỉ… Đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm hãy nỗ lực tu tập. Hãy xa lìa và không nghe các sự luận bàn sai lệch của ngoại đạo và pháp của Thanh văn, Duyên giác, thông đạt tướng phân biệt của tự tâm.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Khi tâm của vị Đại Bồtát đã an trú nơi trí tuệ siêu tuyệt, đối với Thánh trí cao cả của tam tướng, cần phải tu học. Tam tướng ấy là gì? Đó là:

1. Tướng không hình ảnh

2. Nguyện lực gia trì của tất cả chư Phật.

3. Tự hướng đến sự chứng đạt nhờ Thánh trí.

Các bậc tu hành đã được các tướng này, nên xả bỏ sự hiểu biết về tâm, đạt được nhờ trí siêu việt, như con lừa què và nhập vào Địa thứ tám Bồ-tát. Đối với ba tướng này, Bồ-tát cần liên tục tu hành.

Này Đại Tuệ! Tướng vô tướng có được khi tất cả tướng của hàng ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác được quán triệt chặt chẽ. Tướng nguyện lực gia trì được sinh khởi do bản nguyện tự thân được chư Phật gia hộ. Tướng tự chứng của Thánh trí được sinh khởi do không chấp vào tướng của tất cả pháp, thành tựu các Tam-muội, nhìn thế giới như ảo ảnh, thân tiến đến trí của Phật địa.

Này Đại Tuệ! Đây là ba tướng của Thánh trí cao thượng. Nếu ai đạt được tướng này tức là đạt đến trạng thái tự chứng của Thánh trí. Thầy và các Đại Bồ-tát nên nỗ lực tu học.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ biết những gì đang diễn tiến trong tâm tư, ý nghĩ của các Bồ-tát và nương sức oai thần của tất cả các Đức Phật, nên bạch:

–Cúi xin Thế Tôn dạy cho con pháp môn tự tánh của Thánh trí, y theo đó mà phân làm một trăm lẻ tám câu. Điều mà tất cả Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác vì các Đại Bồ-tát rơi vào tướng nhìn sự vật một cách tổng quát nên dạy rõ nghĩa môn sai biệt và bản chất là vọng chấp. Biết rõ ý nghĩa này, các vị Đại Bồ-tát làm thanh tịnh cả hai vô ngã, tự soi sáng về các Địa, vượt khỏi cái hỷ lạc thiền định của ngoại đạo và Thanh văn, Duyên giác, đạt được cảnh giới hành trang bất khả tư nghì của các Đức Như Lai, rốt ráo xả ly tự tánh của năm pháp, được tất cả trí tuệ, Pháp thân Phật để tự trang nghiêm và đi vào cảnh như huyễn ảo mà trú tất cả cõi trời Đâu-suất, trời Sắc cứu cánh, thành thân Như Lai.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Có một loại ngoại đạo có quan điểm rằng: “Tất cả các pháp tùy theo nhân mà đoạn tận”, nên sinh kiến giải phân biệt như ý nghĩ không có sừng thỏ. Sinh kiến chấp ấy, cho là không có sừng thỏ, cho tất cả các pháp cũng như thế. Lại có những kẻ khác, do thấy những khác biệt của các pháp về hình tướng, trọng lượng, vị trí mà vọng chấp các pháp mỗi mỗi sai biệt, sinh kiến chấp cho là không có sừng thỏ và nghĩ rằng phải có sừng trâu.

Này Đại Tuệ! Những kẻ ấy rơi vào nhị biên, không hiểu rõ là chỉ có tâm mà thôi. Nhưng đối với tự tâm lại tăng thêm sự phân biệt.

Này Đại Tuệ! Thân thể, tài sản, vật chất ở thế gian, tất cả chỉ hiện hữu bởi tâm phân biệt.

Này Đại Tuệ! Nếu biết sừng thỏ không phải có, cũng không phải không có, không nên có sự phân biệt nào về các pháp. Vì sao sừng thỏ xa lìa nơi có và không? Chúng làm nhân đối đãi lẫn nhau. Phân tích về sừng trâu cho đến bụi trần, đi tìm thể tướng của nó cũng không thể được. Bởi vì sự hoạt động của Thánh trí đã chứng đạt thì xa lìa kiến chấp kia.

Vì thế, ở đây không nên phân biệt.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Phải chăng vì họ dựa vào vọng kiến để khởi các tướng mà so sánh, đối đãi, tính toán là không phải không.

Đức Thế Tôn nói:

–Không vì sự phân biệt mà khởi tướng đối đãi, nên bảo là không. Vì sao? Vì có sự phân biệt mà sinh ra nguyên nhân. Do phân biệt cái sừng làm chỗ sở y, chỗ sở y làm nhân xa lìa khởi sự khác và không khác, chẳng phải do tướng đối đãi mà hiển bày sừng thỏ là không.

Này Đại Tuệ! Nếu sự phân biệt này là khác với sừng thỏ, thì chẳng phải là nhân nơi cái sừng, nếu không khác thì nhân kia sinh khởi.

Này Đại Tuệ! Phân tích sừng trâu cho đến phân tử cực nhỏ là điều không thể được, nó khác với có sừng nên nói là không có sừng. Phân biệt như vậy, chắc chắn là phi lý. Khi cả hai thứ đều không có thứ nào (sừng thỏ và sừng trâu) là hiện hữu, thì liên hệ vào đâu mà thành tựu? Vì thế, có lập luận cho rằng sừng thỏ là không, không nên phân biệt, vì không có nguyên nhân chính. Có người lập luận về hữu vô, chấp có và chấp không, cả hai đều không thành tựu.

Này Đại Tuệ! Lại có những ngoại đạo mắc phải quan điểm sai lầm, chấp trước vào những ý niệm như thấy màu sắc, hình trạng, hư không, cho rằng sắc khác với hư không mà khởi ra sự phân biệt.

Này Đại Tuệ! Vì hư không nhập vào hình sắc nên hình sắc là hư không.

Này Đại Tuệ! Sắc là hư không, để thiết lập tính chất năng trì và sở trì nên chia làm hai: hư không và sắc. Hãy hiểu như vậy.

Này Đại Tuệ! Khi các đại chủng tạo ra thì chúng khác biệt nhau, không trụ trong hư không và hư không không phải không hiện hữu trong chúng. Này Đại Tuệ! Sừng thỏ cũng thế, do đối đãi với sừng trâu mà nói sừng ấy không có.

Này Đại Tuệ! Phân tích sừng trâu cho đến các vi trần, rồi lại phân tích vi trần ấy nữa, thì tướng ấy không hiện. Vậy nó dựa vào đâu mà nói là không? Nếu dựa vào vật khác thì vật khác cũng như thế.

Này Đại Tuệ! Ông nên xả bỏ các quan điểm và phân biệt liên hệ đến sừng thỏ, sừng trâu, đến hư không và hình sắc. Ông và các Bồ-tát hãy luôn quán sát về tướng phân biệt mà các ông thấy từ chính tâm mình, ở nơi tất cả cõi nước, vì các Phật tử thể hiện pháp tu hành của tự tâm.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Thấy của tâm không có
Chỉ nương tâm mà khởi
Hình ảnh dựa vào thân
Hiện tàng thức chúng sinh
Tâm, ý cùng ý thức
Tự tánh và năm pháp
Hai vô ngã, thanh tịnh
Các đạo sư diễn thuyết
Dài, ngắn cùng đối đãi
Lần lượt hỗ tương sinh
Nhân nơi hữu thành vô
Nhân nơi vô thành hữu
Phân tích đến vi trần
Chẳng phân biệt sắc nào
Chỉ tâm được kiến lập
Kẻ tà kiến không tin
Không thuộc chỗ ngoại đạo
Hay lãnh vực Thanh văn
Đấng Cứu Thế đã dạy
Mở con đường tự chứng.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh vấn Đức Thế Tôn về sự tẩy sạch dòng tâm hiện tại:

–Bạch Thế Tôn! Làm thế nào để tẩy sạch dòng tâm hiện tại của các chúng sinh? Sự tẩy sạch ấy là ngay tức khắc hay dần dần?

Đức Phật bảo Đại Tuệ:

–Tâm được tẩy sạch dần dần, chứ không phải được tẩy sạch ngay tức khắc. Như trái xoài chín dần dần, chứ không phải chín ngay tức khắc. Cũng thế, chư Phật Như Lai tẩy sạch dòng tâm hiện tại cho các chúng sinh là dần dần, chứ không phải ngay tức khắc.

Như người thợ gốm làm ra các vật dụng là làm dần dần, chứ không phải ngay tức khắc. Cũng thế, chư Phật Như Lai tẩy sạch dòng tâm hiện tại cho các chúng sinh là tẩy sạch dần dần, chứ không phải tẩy sạch ngay tức khắc.

Ví như mặt đất sinh ra các loài cỏ cây, cây cỏ mọc dần dần chứ không phải mọc ngay một lúc. Cũng thế, chư Phật Như Lai tẩy sạch dòng tâm hiện tại cho các chúng sinh là tẩy sạch dần dần, chứ không phải tẩy sạch ngay tức khắc.

Này Đại Tuệ! Ví như người học âm nhạc, vẽ, họa và các môn kỹ thuật khác, dần dần thành tựu, chứ không phải đạt ngay. Cũng thế, chư Phật Như Lai tẩy sạch dòng tâm hiện tại cho các chúng sinh là tẩy sạch dần dần, chứ không phải tẩy sạch ngay tức khắc.

Ví như tấm gương phản chiếu ngay tức khắc và không phân biệt các hình tượng, cũng thế, Như Lai tẩy sạch dòng tâm hiện tại cho các chúng sinh là ngay tức khắc, làm cho chúng sinh thoát khỏi sự phân biệt và đưa chúng sinh đến những trạng thái vô tướng.

Như mặt trời, mặt trăng cùng lúc chiếu khắp tất cả hình sắc, cảnh tượng, cũng thế, chư Phật Như Lai tẩy sạch những tập khí, lỗi lầm tự tâm của các chúng sinh. Như Lai khai thị ngay tức khắc cho chúng sinh thấy cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn thuộc về trí tuệ.

Ví như thức A-lại-da tạo ngay tức khắc tất cả thế giới của thân thể, tài sản, đất nước, cũng thế, Đức Phật ngay tức khắc giáo hóa thành thục tất cả chúng sinh ở cõi trời Sắc cứu cánh, làm cho họ tu hành các hạnh.

Ví như Đức Phật pháp tánh phóng hào quang chiếu sáng từ Phật báo thân cho đến Phật hóa thân, tự chứng Thánh cảnh; cũng thế, pháp tướng hiện ngay tức khắc, tỏa chiếu làm cho xa lìa tất cả tà kiến về hữu và vô.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Pháp tánh sở lưu Đức

Phật dạy về tự tướng và cọng tướng của các pháp.

Vì các pháp nhân duyên, tập khí hiện chính tự tâm. Do sự không nhận biết mà chấp tướng của nhân, làm cho bị ràng buộc vào những việc hư huyễn, đều là tánh vô thường. Nhưng các chúng sinh chấp trước vào những huyễn ảo mà cho là thật đều không thể được.

Này Đại Tuệ! Những suy tưởng hư ngụy chấp trước tự tánh duyên khởi thì tự tánh khởi.

Này Đại Tuệ! Ví như nhà ảo thuật dùng sức huyễn thuật dựa vào cỏ cây, ngói đá mà làm ảo thuật, tạo ra bao nhiêu là màu sắc, hình tướng của chúng sinh, làm cho mọi người trông thấy phân biệt một cách đa dạng và không chân thật.

Này Đại Tuệ! Cũng vậy, do chấp chặt cảnh giới, cho nên sức tập khí ở trong tánh duyên khởi có tánh vọng chấp, hiện ra các tướng. Đây gọi là vọng chấp tánh sinh.

Này Đại Tuệ! Đó là pháp tánh sở lưu, Phật nói về tướng của các pháp.

Này Đại Tuệ! Đức Phật pháp tánh là thiết lập trạng thái cao vời của trí tuệ tự chứng, vượt khỏi tướng tự tánh của tâm.

Này Đại Tuệ! Điều mà Đức Phật ứng hóa thuyết giảng là pháp ứng thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, uẩn, xứ, giới, các giải thoát, các thức và cách thức mà chúng vận hành. Đức Phật kiến lập sự sai biệt vượt ra ngoài mọi hình tướng, siêu việt hạnh vô sắc.

Này Đại Tuệ! Đức Phật pháp tánh tự tại với các duyên, xa lìa tất cả sở duyên, tất cả sự tạo tác, các tướng căn lượng, không thuộc vào thế giới phàm phu, hàng Thanh văn, Duyên giác và các ngoại đạo chấp chặt các ý niệm về ngã tướng.

Vì thế, này Đại Tuệ! Ông hãy nỗ lực tu học theo con đường cao cả, dẫn đến trí tuệ tự chứng của bậc Thánh. Ông hãy xa lìa những kiến giải của thế giới bên ngoài, cách biệt với tự tâm.

Này Đại Tuệ! Thanh văn thừa có hai tướng khác nhau. Đó là: Trạng thái tuyệt diệu cao vời của sự tự chứng Thánh trí và trạng thái chấp chặt vào tự tánh phân biệt.

Thế nào là trạng thái tuyệt diệu cao vời của sự tự chứng Thánh trí? Đây là cái thấy minh triết về khổ, không, vô thường, vô ngã, thuộc thế giới chân lý, thoát khỏi phiền não, cho nên đạt được tịch diệt. Đối với các uẩn, xứ, giới, hoặc tự tánh, hoặc tổng quát và ngoại tánh không hoại diệt. Vì biết rõ chân lý nên tâm trú nơi một cảnh. Tâm đã trú nơi một cảnh nên đạt được đạo quả thiền định giải thoát Tam-muội và được xuất ly, trú cảnh giới an lạc và tự chứng Thánh trí. Nhưng trong đó chưa loại bỏ tập khí và chưa thoát khỏi sự chết biến dịch không thể nghĩ bàn. Đây là trạng thái cảnh giới tự chứng

Thánh trí của Thanh văn thừa. Các Đại Bồ-tát cũng đắc cảnh giới Thánh trí này, nhưng vì thương xót chúng sinh nên luôn giữ bản nguyện không chứng môn tịch diệt và hỷ lạc của Tam-muội. Các Đại Bồtát không nên tu học và ở trong trạng thái an lạc tự chứng Thánh trí này của hàng Thanh văn.

Này Đại Tuệ! Thế nào là sự chấp trước vào tướng tự tánh sinh khởi từ phân biệt? Khi một người thấy rằng các tính chất như: cứng, ẩm, nóng, động, xanh, vàng, đỏ, trắng… những pháp ấy không sinh, do người tạo tác. Nhưng dựa vào giáo lý mà thấy được tự tướng và cọng tướng nên phân biệt chấp trước. Đây gọi là tướng chấp trước vào sự phân biệt của hành Thanh văn. Đại Bồ-tát khi biết được pháp này như thế nào thì hãy từ bỏ nó đi, phù hợp với pháp vô ngã và trừ những kiến giải sai lầm về sự vô ngã của con người, dần dần trụ nơi các Địa của bậc Thánh.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai đã dạy cảnh giới Đệ nhất nghĩa do Thánh trí tự chứng thường chẳng thể nghĩ bàn, đồng với tác giả không thể nghĩ bàn do ngoại đạo nói là thường hằng, có đúng hay không?

Đức Phật đáp:

–Này Đại Tuệ! Sự thường hằng chẳng thể nghĩ bàn mà hàng ngoại đạo đã định tánh cho đấng sáng tạo của họ là không chính xác. Vì sao? Vì sự thường hằng bất biến chẳng thể nghĩ bàn của hàng ngoại đạo không phù hợp với tự tướng nguyên nhân, cho nên không tồn tại được. Và tự tướng nguyên nhân không tồn tại thì làm sao hiển thị được sự thường hằng chẳng thể nghĩ bàn?

Này Đại Tuệ! Điều mà hàng ngoại đạo đã tuyên bố về thường hằng bất khả tư nghì, nếu phù hợp với tự tướng của nguyên nhân thì nó có thể là thường hằng. Nhưng ý tưởng về một đấng sáng tạo là tướng của nguyên nhân cho nên không thể là thường hằng không thể nghĩ bàn.

Này Đại Tuệ! Chân lý Đệ nhất nghĩa của ta là thường hằng bất khả tư nghì, vì nó phù hợp với tướng nguyên nhân Đệ nhất nghĩa và vượt ra ngoài hữu, vô. Vì nó là tướng sở hành của Thánh trí tự chứng, nên nó có tướng riêng của nó. Vì nó là trí Đệ nhất nghĩa nên nó có nguyên nhân của nó, nó tách rời hữu và vô, nên không có đấng sáng tạo. Như hư không là pháp Niết-bàn tịch diệt, nên nó thường hằng bất khả tư nghì. Thế nên ta nói nó không giống sự thường hằng chẳng thể nghĩ bàn mà hàng ngoại đạo đã tranh luận.

Này Đại Tuệ! Sự thường hằng chẳng thể nghĩ bàn này là chân lý được thể nghiệm, tự chứng bằng Thánh trí của chư Như Lai, thế nên Bồ-tát hãy nỗ lực tu học.

Và này Đại Tuệ! Sự thường hằng chẳng thể nghĩ bàn của ngoại đạo không được xác định là thường hằng, vì nó có một nguyên nhân không phải là thường. Điều họ cho là thường hằng thì tự tướng của nó không có năng lực.

Này Đại Tuệ! Nếu ngoại đạo cho rằng thường hằng chẳng thể nghĩ bàn của họ khác với pháp hữu, rồi trở lại vô là vô thường và sinh với tánh biết là thường. Ta cũng cho rằng pháp tạo tác là có, rồi trở lại không và vô thường, đã không có nguyên nhân nên thuyết này là thường hằng.

Này Đại Tuệ! Nếu sự thường hằng chẳng thể nghĩ bàn của hàng ngoại đạo phù hợp với tướng nhân, như vậy là không có, như là sừng thỏ.

Này Đại Tuệ! Thường hằng chẳng thể nghĩ bàn của họ chỉ là sự phân biệt ngôn từ về hữu. Vì sao? Nguyên nhân đó đều là sừng thỏ, vì không có nhân tự tướng.

Này Đại Tuệ! Sự thường hằng chẳng thể nghĩ bàn của ta là có tướng nguyên nhân tự chứng. Vì nó không ngoài pháp hữu, rồi trở lại vô và vô thường làm nguyên nhân. Ngoại đạo ngược lại pháp này. Tự tướng về nhân của sự thường hằng chẳng thể nghĩ bàn này thì hàng ngoại đạo không thể biết. Vì họ ở ngoài trạng thái tự chứng trí của bậc Thánh, cho nên vấn đề họ nêu ra là không đúng.

Này Đại Tuệ! Các Thanh văn vì sợ khổ đau do phân biệt sinh tử mà tìm cầu Niết-bàn. Họ không biết rằng sinh tử và Niết-bàn tướng không sai khác, tất cả đều do vọng tưởng phân biệt mà có. Vì không thật có, nên vọng chấp cho rằng sẽ đạt được Niếtbàn sau khi đoạn diệt các căn và ngoại cảnh của chúng. Họ không bết rằng: đạt Niết-bàn là thức Alại-da chuyển sở y cảnh giới của trí tự chứng. Kẻ ngu si nói có tam thừa, mà không nói rằng chỉ có tâm, chứ không có cảnh giới.

Này Đại Tuệ! Những ai không hiểu lời dạy của chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai về cảnh giới của tự tâm, họ còn chấp rằng cảnh giới ngoài tâm, cho nên mãi trôi lăn theo bánh xe sinh tử.

Này Đại Tuệ! Các Đức Như Lai trong quá khứ, hiện tại và tương lai đều dạy: “Tất cả pháp không sinh”. Vì sao? Vì không có thật tánh, mà chỉ là sự biểu hiện của tự tâm, lìa hữu nên không sinh. Như sừng thỏ, ngựa… mà kẻ phàm phu ngu si vọng chấp. Đây thuộc lãnh vực của tự chứng Thánh trí đạt được, chứ chẳng phải lãnh vực phân biệt nhị biên của những người ngu muội. Thân thể, tài sản vật chất ở thế gian, tất cả đều là ảnh tượng của tàng thức cùng hiện, mà kẻ phàm phu ngu muội chấp làm hai loại năng và sở. Họ bị rơi vào kiến giải nhị biên trụ và diệt, từ đó phát ra vọng tưởng phân biệt hữu, phi hữu.

Này Đại Tuệ! Hãy nỗ lực tu tập về nghĩa lý này.

Lại nữa, này Đại Tuệ! Có năm tánh, đó là:

1. Nhóm Thanh văn thừa.

2. Nhóm Duyên giác thừa.

3. Nhóm Như Lai thừa.

4. Nhóm bất định.

5. Nhóm vô trí.

Này Đại Tuệ! Làm sao biết được nhóm người thuộc chủng tánh Thanh văn thừa? Có người nào nghe về tự tướng, cọng tướng của uẩn, xứ, giới nếu biết, nếu chứng còn toàn thân sởn tóc gáy. Họ hân hoan vui mừng tu tập, đối với tướng duyên khởi họ không thích quán sát. Những người như vậy nên biết, đó thuộc nhóm Thanh văn thừa. Khi đã có tri kiến do chứng về thừa của chính họ rồi, đối với Địa thứ năm hay thứ sáu, họ đoạn trừ được kết sử, phiền não, nhưng không đoạn trừ được tập khí phiền não và trụ nơi cái chết chẳng thể nghĩ bàn. Họ rống lên tiếng rống sư tử: “Sự sống của ta đã được đoạn tận, phạm hạnh của ta đã thành tựu, những việc cần làm ta đã làm xong, không thọ thân đời sau.” Họ tu tập về nhân vô ngã, cho đến ngay trong đời này họ đạt được Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Có những chúng sinh cầu chứng Niết-bàn cho rằng đã hiểu biết về ngã, nhân, chúng sinh, người nuôi dưỡng, người giữ lấy… Họ tìm cầu Niết-bàn trong các pháp ấy. Và có người nói rằng: họ thấy tất cả pháp nhân tạo tác nên có. Đây là Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Những người đó không được giải thoát, vì họ chưa thâm nhập được pháp vô ngã. Đây thuộc về hàng Thanh văn thừa và hàng ngoại đạo, đối với giải thoát mà tưởng là giải thoát. Thế nên thầy hãy nỗ lực tu tập để thoát khỏi kiến giải sai lầm này.

Này Đại Tuệ! Làm sao biết đó là nhóm Duyên giác thừa? Nghĩa là khi nghe nói về pháp Duyên giác thừa thì toàn thân họ nổi da gà, nước mắt tuôn trào. Họ cách ly được những gì liên hệ đến sự ồn ào, không bị đắm nhiễm, buộc ràng. Có người khi nghe Phật dạy về sự biến hóa thần thông, hoặc tụ hoặc tán, phân thân hiện ra đa dạng nên họ tin nhận hoàn toàn. Vì biết những người này thuộc nhóm Duyên giác thừa nên giảng nói cho họ pháp Duyên giác thừa.

Này Đại Tuệ! Ba khía cạnh có thể phân biệt được nhóm Như Lai thừa, đó là:

1. Tự tánh pháp không tự tánh.

2. Nội thân tự chứng pháp Thánh trí.

3. Pháp rộng lớn của các cõi Phật bên ngoài.

Này Đại Tuệ! Có chúng sinh nào nghe nói về một pháp này và những điều ở trong tâm hiện như thân thể, tài sản, đều là cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn của thức A-lại-da kiến lập mà không sợ hãi, không khiếp sợ. Nên biết, đó là tính chất Như Lai thừa.

Này Đại Tuệ! Nhóm bất định nghĩa là: khi nghe nói về ba pháp kia, tùy theo đó mà tin hiểu và tu học theo.

Này Đại Tuệ! Vì bậc trị Địa thứ nhất mà nói các chủng tánh, muốn làm cho họ bước vào địa không ảnh tượng, nên tạo ra sự kiến lập này.

Này Đại Tuệ! Vì Thanh văn nào trú nơi Tammuội an vui, hoặc chứng biết bên trong của A-lạida, nhận thức pháp vô ngã, tẩy sạch tập khí phiền não, cuối cùng sẽ đạt được thân Như Lai.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Quả Dự lưu, nhất lai
Bất lai, A-la-hán
Những bậc Thánh nhân này
Tâm họ vẫn còn mê
Ta lập pháp ba thừa
Nhất thừa và Phi thừa
Cho phàm phu ít trí
Bậc Thánh ưa vắng lặng
Pháp môn Đệ nhất nghĩa
Tách rời hai chấp thủ
Trụ cảnh giới vô tướng
Lập ba thừa làm chi?
Các thiền và vô lượng
Vô sắc, Tam-ma-đề
Cho đến Diệt thọ tưởng
Không tìm thấy duy tâm.

Và, này Đại Tuệ! Tại sao hạng Nhất-xiển-đề đối với giải thoát, họ không ham muốn? Này Đại Tuệ! Vì họ xả bỏ tất cả thiện căn và họ phát khởi nguyện vọng chúng sinh từ vô thủy.

Xả bỏ tất cả thiện căn là thế nào? Nghĩa là họ hủy báng Bồ-tát rằng: “Tôi không tùy thuận kinh điển, không điều phục giải thoát.” Khi nói như vậy, họ đã phá bỏ hoàn toàn thiện căn, sẽ không nhập Niết-bàn.

Thế nào là phát nguyện vì chúng sinh từ vô thủy? Có những vị Bồ-tát do bản nguyện phương tiện, nguyện cho “Tất cả chúng sinh đều nhập Niếtbàn. Nếu còn một chúng sinh nào chưa nhập Niếtbàn thì ta không bao giờ nhập Niết-bàn.” Vì lý do này mà họ trú nơi con đường Nhất-xiển-đề. Đây là tướng của nhóm không Niết-bàn.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Vậy thì ai không bao giờ nhập Niết-bàn?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Bồ-tát Nhất-xiển-đề đó biết tất cả pháp chính trong Niết-bàn ngay từ lúc bắt đầu, nên cuối cùng không nhập Niết-bàn và chẳng xả bỏ thiện căn. Vì sao? Vì Nhất-xiển-đề ấy đã xả bỏ thiện căn là do oai lực của Phật, hoặc có lúc thiện căn sinh khởi. Vì sao? Vì Phật không xả bỏ tất cả chúng sinh bao giờ. Thế nên Bồ-tát Nhất-xiển-đề không nhập Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát phải khéo biết ba tướng tự tánh. Thế nào là ba tướng?

1. Tự tánh phân biệt sai lầm.

2. Tự tánh duyên khởi.

3. Tự tánh viên thành.

Này Đại Tuệ! Tự tánh phân biệt sai lầm từ tướng sinh ra. Thế nào là sinh ra từ tướng? Nghĩa là y theo duyên khởi sự tướng hiển hiện theo nhiều cảnh khác nhau nên sinh chấp trước.

Này Đại Tuệ! Chấp trước về sự tướng có hai cách sinh ra tính chất phân biệt sai lầm mà chư Như Lai đã giảng nói về sự tướng sai lầm và chấp tướng, gọi là danh tướng và kế trước tướng.

Này Đại Tuệ! Sự chấp vào các tướng nghĩa là bị ràng buộc vào các pháp bên trong và bên ngoài. Sự chấp vào tướng của các tướng, tức là chấp vào các pháp bên trong và bên ngoài, chấp vào tướng chung và tướng riêng. Đây gọi là hai loại chấp trước về sự phân biệt sai lầm về tướng của tự tánh. Này Đại Tuệ! Từ sở y, sở duyên và duyên khởi là tánh của duyên khởi. Thế nào là viên thành tự tánh? Nghĩa là xa lìa danh tướng, sự tướng và tất cả sự phân biệt. Tự chứng Thánh trí là thật tánh của chân như.

Này Đại Tuệ! Đây là tâm viên thành tự tánh của Như Lai tạng.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Danh tướng phân biệt
Hai tướng tự tánh
Chánh trí chân như
Thuộc tánh viên thành.

Này Đại Tuệ! Đây gọi là pháp môn quán sát năm pháp tướng tự tánh, tạo nên cảnh giới tự chứng Thánh trí. Ông và các Bồ-tát hãy nên nỗ lực tu học. Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát hãy khéo quán sát tướng của hai pháp vô ngã. Hai pháp đó là: nhân vô ngã và pháp vô ngã.

Này Đại Tuệ! Thế nào là nhân vô ngã? Đó là uẩn, xứ, giới không có gì thuộc ngã và ngã sở, không biết rằng sự sinh khởi của ái nghiệp, nên nhãn thức… sinh ra rồi nắm giữ nơi sắc…. mà sinh ra phân biệt. Lại nữa, thân và khí thế giới được thấy bằng tự tâm đều là sự hiển hiện của tàng thức. Chúng tồn tại hay biến hoại liên tục trong từng sátna, giống như dòng sông, như hạt giống, như ánh lửa ngọn đèn, như gió lốc, như áng mây, như con khỉ nhảy nhót không chịu ngồi yên, như con ruồi thích bay vào nơi nhơ nhớp, như ngọn lửa mà không biết chán nhàm. Tập khí giả dối từ vô thủy là nguyên nhân. Nghiệp lưu chuyển trong các nẻo đường không ngưng nghỉ. Như bánh xe kéo nước, mang nhiều thân thể và xác thân, oai nghi đi đứng khác nhau. Ví như năng lực của thần chú làm cho tử thi biết đi, cũng như người gỗ nhờ máy mà vận động. Ai đối với những hiện tượng này mà biết rõ tướng của nó thì gọi là trí tuệ về nhân vô ngã.

Này Đại Tuệ! Thế nào là trí pháp vô ngã? Nghĩa là biết uẩn, xứ, giới là bản chất phân biệt sai lầm. Uẩn, xứ, giới không thuộc ngã và ngã sở, đó chỉ là sự tích tụ của khát ái và nghiệp hỗ tương, ràng buộc nhau mà không có người tạo tác ra chúng. Các uẩn cũng vậy, không có tướng chung hay tướng riêng, kẻ phàm phu phân biệt giả dối sai lầm nên hiện ra các tướng, còn người trí thì không như vậy, quán sát tất cả các pháp như vậy đều không có tâm, ý và ý thức, năm pháp và hai tự tánh. Đây gọi là Đại Bồ-tát hiểu rõ pháp vô ngã.

Nếu Bồ-tát hiểu đúng về cảnh giới vô ngã này, hiểu rõ tướng các Địa, tức nhập vào Sơ địa, Bồ-tát sẽ sinh tâm hoan hỷ, dần dần theo trình tự đạt đến Thiện tuệ địa, cho đến Pháp vân địa, những việc cần làm đều đã hoàn tất. Trụ nơi các Địa này, Bồtát sẽ có hoa sen lớn được trang hoàng bằng các châu báu. Ở trên hoa báu này có cung điện báu, dạng giống như hoa sen. Bồ-tát ngồi trên hoa sen đó tu tập thành tựu pháp môn tự tánh cảnh giới huyễn, được các Bồ-tát đồng hành lần lượt vây quanh. Tất cả các Đức Như Lai nơi các cõi nước đều đưa cánh tay làm pháp quán đảnh cho Bồ-tát, như vương tử của Chuyển luân thánh vương. Các vị ấy sẽ vượt khỏi Bồ-tát địa, cuối cùng đạt pháp tự chứng, thành tựu Pháp thân tự tại của Như Lai.

Này Đại Tuệ! Đây gọi là thấy tướng vô ngã của các pháp. Thầy và các Bồ-tát hãy nỗ lực tu học.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ bạch Phật

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn dạy cho con việc tạo dựng hay bác bỏ, làm cho con cùng các Bồ-tát thoát khỏi những kiến giải sai lầm và chóng đạt Tuệ giác vô thượng. Khi đã chứng ngộ rồi, các Bồtát sẽ xa lìa những kiến lập hay bác bỏ về đoạn kiến, làm cho không sinh tâm hủy báng đối với chánh pháp.

Đức Phật nhận lời thỉnh cầu của Bồ-tát Đại Tuệ, liền nói kệ:

Chỗ trú thân, tài sản
Là ảnh tượng nơi tâm
Kẻ ngu si không hiểu
Sinh xác nhận, bác bỏ
Hiện tượng ấy do tâm
Rời tâm không gì có.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn lập lại ý nghĩa câu kệ nên bảo Đại Tuệ:

–Có bốn loại không có kiến lập. Bốn điều đó là gì?

1. Không có tướng kiến lập tướng.

2. Không có kiến kiến lập kiến.

3. Không có nhân và kiến lập nhân.

4. Không có tánh và kiến lập tánh.

Này Đại Tuệ! Bác bỏ nghĩa là đối với pháp được kiến lập do những ác kiến tìm cầu không thể đạt. Do quán sát bất thiện, liền sinh bác bỏ. Đây là kiến lập tướng phỉ báng.

Này Đại Tuệ! Thế nào là không có tướng kiến lập tướng? Nghĩa là đối với tướng riêng và tướng chung của uẩn, xứ, giới vốn không có sở hữu mà sinh ra chấp trước, cho rằng chúng đúng như thế này, chứ không như thế khác. Từ phân biệt này sinh ra những tập khí xấu từ vô thủy. Đây gọi là không có tướng kiến lập tướng.

Thế nào gọi là không có kiến, kiến lập kiến? Nghĩa là đối với các uẩn, xứ, giới kiến lập về những kiến, như ngã, nhân, chúng sinh… Đây gọi là không có kiến, kiến lập kiến.

Thế nào gọi là không có nhân kiến lập nguyên nhân? Nghĩa là đối với trước thức đầu tiên không có nhân sinh ra, thức đầu tiên ấy vốn là không. Sau đó mất sắc, minh, niệm… làm nhân như huyễn sinh ra, sinh ra nên có, có rồi lại diệt. Đây gọi là không có nhân mà kiến lập nhân.

Thế nào gọi là không có tánh kiến lập tánh? Đối với hư vô, Niết-bàn chẳng phải thuộc về diệt, không có tánh tạo tác mà chấp trước kiến lập.

Này Đại Tuệ! Tách rời tánh chẳng phải tánh này, xa lìa tất cả các pháp đối với hữu, vô như sừng thỏ, ngựa, hoa đốm. Đây gọi là không có tánh kiến lập tánh.

Này Đại Tuệ! Kiến lập, phỉ báng đều do phàm phu ngu muội, không hiểu rõ, chỉ do tâm nên sinh phân biệt, chẳng phải là các bậc Thánh. Vì thế, các thầy hãy nỗ lực quán sát và xa lìa kiến chấp này.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát biết rõ bản chất của tâm, ý, ý thức, tự tánh của năm pháp, tướng của hai pháp vô ngã, vì chúng sinh nên hiện vô số thân. Như nương vào duyên khởi sinh ra tánh chấp trước sai lầm, cũng như viên ngọc hiện ra màu sắc tùy theo tâm. Vào khắp hội chúng của Phật để nghe Phật giảng thuyết về các pháp như mộng, như huyễn, như bóng, như ảnh trong gương, như trăng trong nước, xa lìa sinh diệt cho đến thường hằng hay đoạn mất. Không trụ nơi đường Thanh văn hay Bích-chi-phật. Các vị nghe xong, đạt được vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha Tam-muội. Được Tam-muội này, họ đi khắp các cõi Phật, cúng dường chư Phật, sinh lên các cõi trời, xiển dương Tam bảo, thị hiện thân Phật. Các Bồ-tát này thuyết giảng cho các Thanh văn và đại chúng Bồ-tát về cảnh giới bên ngoài đều do tâm tạo, làm cho họ thoát khỏi những chấp là hữu hay vô.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Phật tử nên thấy rõ
Thế gian chính là tâm
Thị hiện vô số thân
Tạo tác không chướng ngại
Sức thần thông tự tại
Được thành tựu tất cả.

Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh hỏi Đức Thế Tôn:

–Xin Thế Tôn dạy cho con biết thế nào là tướng của tất cả pháp đều không là không sinh, không hai, không tự tánh. Con và các Bồ-tát hiểu rõ được tướng này sẽ xa lìa sự phân biệt về hữu và vô, mà chóng đạt đến Tuệ giác vô thượng.

Đức Phật bảo:

–Hãy lắng nghe, này Đại Tuệ! Không chính là cú nghĩa của tánh vọng chấp.

Này Đại Tuệ! Vì chấp trước tự tánh hư vọng cho nên ta phải nói về không; tức là không sinh, không hai, không tự tánh.

Này Đại Tuệ! Tóm lại, tánh không có bảy loại:

1. Tướng không.

2. Tự tánh không.

3. Vô hành không.

4. Hành không.

5. Tất cả pháp không thể nói không.

6. Đệ nhất nghĩa Thánh trí đại không.

7. Bỉ bỉ không.

Không của tướng là gì? Đó là không của tự tướng và cọng tướng tất cả các pháp, quan hệ tích tập và hỗ tương lẫn nhau. Phân tích và quán sát kỹ thì chúng vô sở hữu. Thế nên ý niệm về tự ngã, tha nhân và cọng tướng đều không sinh. Tự tướng và cọng tướng không sinh, cũng không trụ, nên gọi là không của tự tướng của tất cả các pháp.

Thế nào là không của tự tánh? Đó là tất cả pháp tự tánh không sinh. Cho nên gọi là không của tự tánh.

Không của vô hành là gì? Đó là các uẩn xưa nay chính là Niết-bàn không có các hành nào. Đây gọi là không của vô hành.

Không của hành là gì? Đó là các uẩn do nghiệp và nhân hòa hợp sinh khởi. Liền ngã và ngã sở gọi là không của hành.

Thế nào là không của tất cả pháp không thể nói? Đó là bản chất của tất cả pháp tự tánh hư vọng không thể nói được. Cho nên gọi là pháp không thể nói không.

Thế nào là đại không của Đệ nhất nghĩa Thánh trí? Đó là khi tự chứng Thánh trí, thoát khỏi tất cả tập khí lỗi lầm của các kiến, nên gọi là đại không Đệ nhất nghĩa Thánh trí.

Không của bỉ bỉ là gì? Nghĩa là ở đây thì không có kia, nên gọi là không của bỉ bỉ. Ví như giảng đường của Tinh xá Lộc Mẫu không có voi, ngựa, trâu, dê. Ta nói rằng giảng đường ấy không, chứ chẳng phải không có chúng Tỳ-kheo.

Này Đại Tuệ! Chẳng phải giảng đường là không có đặc tánh của nó. Chẳng phải Tỳ-kheo là không có đặc tánh của Tỳ-kheo. Cũng không phải những chỗ khác không có voi, ngựa, trâu, dê.

Này Đại Tuệ! Tướng chung và tướng riêng của các pháp thì tìm cầu chúng cũng không thể được. Đây gọi là không của bỉ bỉ.

Này Đại Tuệ! Đây là bảy loại không. Trong đó, không của bỉ bỉ là thô nhất. Ông hãy xa lìa nó.

Này Đại Tuệ! Vô sinh nghĩa là tự thể không sinh và chẳng phải không sinh, ngoại trừ trụ nơi tam-ma-địa. Đây gọi là vô sinh.

Này Đại Tuệ! Vô tự tánh theo ý nghĩa sâu xa mà nói là vô sinh.

Này Đại Tuệ! Tất cả pháp không có tự tánh, thay đổi trong từng sát-na từ trạng thái này qua trạng thái khác, cho nên gọi là không tự tánh.

Thế nào là tướng không hai? Này Đại Tuệ! Đó là ánh sáng và bóng tối, dài và ngắn, đen và trắng… là những biểu từ tương đối không độc lập với nhau. Chẳng phải ngoài sinh tử mà có Niết-bàn, chẳng phải ngoài Niết-bàn mà có sinh tử. Sinh tử và Niếtbàn không có tướng trái nghịch nhau. Như sinh tử và Niết-bàn, tất cả các pháp cũng như vậy. Đây gọi là tướng không hai.

Này Đại Tuệ! Ông hãy nỗ lực học về tướng không, tướng vô sinh, tướng vô nhị và vô tự tánh.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Ta thường nói pháp không
Vượt xa thường hay đoạn
Sống chết như mộng huyễn
Nghiệp cũng không tan hoại
Hư không và Niết-bàn
Diệt độ cũng như nhau
Kẻ phàm ngu phân biệt
Các Thánh lìa có, không.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Không, không sinh, không tự tánh, không hai tướng này, được tìm thấy trong lời Phật dạy của tất cả các kinh điển. Những lời Phật đã dạy đều có nghĩa lý này.

Này Đại Tuệ! Các kinh điển tùy thuận dạy theo tâm của tất cả chúng sinh, nhưng không phải là sự chân thật trong ngôn từ. Ví như sóng nắng làm mê hoặc những loài cầm thú, tưởng như có nước hiện hữu, thật ra không có nước gì cả. Các kinh điển Phật dạy cũng như vậy, tùy theo sự phân biệt của phàm phu mà làm cho họ sinh hoan hỷ, chẳng phải là pháp chân thật, chỗ Thánh trí chứng đắc.

Này Đại Tuệ! Hãy theo đúng với thật nghĩa, không nên đắm trước theo ngôn thuyết.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn có nêu ra Như Lai tạng trong các kinh điển, bản tánh thanh tịnh thường hằng, không đoạn diệt, không có sự biến đổi, đủ ba mươi hai tướng tốt ẩn trong thân thể tất cả chúng sinh, bị bao bọc bởi lớp áo đầy bụi bặm uẩn, xứ, giới và bị nhơ bẩn vì bụi đất phân biệt sai lầm của tham, sân, si… như viên ngọc quý vô giá đặt trong chiếc áo bẩn. Ngoại đạo vẫn nói tự ngã là một kẻ sáng tạo trường cửu, có mặt khắp nơi và tự tại không bị hủy diệt. Thế Tôn đã dạy nghĩa của Như Lai tạng, lẽ nào không phải cùng một thuyết với tự ngã của ngoại đạo chăng?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Như Lai tạng mà ta nói, không giống với ngã của hàng ngoại đạo nói.

Này Đại Tuệ! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác trong các cú nghĩa là tánh không thật tế, Niết-bàn, không sinh, không tướng, không nguyện. Nói Như Lai tạng là để làm cho kẻ ngu bỏ được sự sợ hãi khi nghe đến lý vô ngã. Ta nói về trạng thái vô phân biệt, vô ảnh tượng, Như Lai tạng môn để các Đại Bồ-tát trong hiện tại hay tương lai sẽ không chấp vào sự ngã. Ví như một người thợ gốm, từ một khối đất sét với nhân công, cần nước, bánh xe, dây, bằng sự khéo tay tạo ra nhiều loại đồ dùng; Đức Như Lai cũng thế, trong pháp vô ngã, ngài xa lìa tất cả sự phân biệt, dùng vô số phương tiện khéo léo trí tuệ, hoặc nói về Như Lai tạng, hoặc nói về vô ngã bằng nhiều loại danh từ, mà mỗi một từ khác nhau.

Này Đại Tuệ! Ta nói Như Lai tạng là để thức tỉnh những người ngoại đạo khỏi chấp vào ý niệm ngã, làm cho họ rời khỏi những kiến giải sai lầm và nhập vào ba giải thoát, chóng đạt Tuệ giác vô thượng. Thế nên chư Phật nói về Như Lai tạng, nó không đồng nhất ý niệm ngã thể của ngoại đạo đã nói. Nếu muốn từ bỏ kiến giải sai lầm của ngoại đạo, thầy phải biết nghĩa của Như Lai tạng là giáo pháp vô ngã.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Người là uẩn tương tục
Các duyên và vi trần
Kẻ sáng tạo tối thượng
Phân biệt bởi tâm này.

Đại Bồ-tát Đại Tuệ quán sát tất cả chúng sinh đời tương lai nên thỉnh hỏi Phật:

–Cúi xin Thế Tôn chỉ dạy cho con đầy đủ về pháp tu hành, nhờ đó mà các Đại Bồ-tát trở thành bậc đại tu hành.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Có bốn pháp mà các Đại Bồ-tát nếu thực hành đầy đủ sẽ thành bậc đại tu hành. Bốn điều ấy là gì?

1. Quán sát rõ ràng về những gì đã hiện tự tâm.

2. Lìa bỏ những ý niệm về sinh, trụ, diệt.

3. Thấy rõ không có pháp bên ngoài nào là tồn tại.

4. Chuyên cần tự chứng Thánh trí.

Bồ-tát nào thành tựu bốn pháp này thì gọi là bậc Đại tu hành.

Này Đại Tuệ! Thế nào là quán sát rõ ràng về những gì đã hiện tự tâm? Bồ-tát phải nhận biết rằng: ba cõi này chính là cái tâm, không có ngã và những gì thuộc về ngã, không nỗ lực tạo tác, không đến và đi. Chúng huân tập với tập khí được chất chứa từ vô thủy bởi chấp trước sai lầm và vô vàn những sắc chất hành động, danh ngôn ràng buộc chặt chẽ nhau trong ba cõi, hiển hiện phù hợp những ý tưởng phân biệt như thân thể, tài sản và đất đai. Đại Bồ-tát nhận biết rõ ràng về những gì do tự tâm hiện ra như vậy.

Này Đại Tuệ! Thế nào là lìa bỏ những ý niệm về sinh, trụ, diệt? Xem tất cả các pháp được sinh ra như ảo ảnh, như giấc mộng, tự ngã, tha nhân, cả hai đều không sinh. Chúng hiện hữu tùy theo tự tâm, cho nên thấy vạn vật bên ngoài là không thật có, thấy các thức không khởi và các duyên không tích tụ. Ba cõi do nhân duyên và sinh khởi bởi phân biệt. Khi quán sát như vậy, các vị sẽ thấy tất cả các pháp dầu bên trong hay bên ngoài cũng đều không có thật, biết rằng không có thật thể, xa lìa kiến chấp về sự sinh. Các vị sẽ thông hiểu mọi tính chất như ảo ảnh, tức thời đạt được Vô sinh pháp nhẫn, trụ nơi Địa thứ tám. Các vị sẽ thể nghiệm sự chuyển biến nơi tâm, ý, ý thức, năm pháp, ba tự tánh và hai pháp vô ngã, do đó đạt được cái thân do ý sinh.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao gọi là ý sinh thân?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Ví như ý chuyển đi rất nhanh, hoàn toàn không bị trở ngại, nên gọi là ý sinh thân. Này Đại Tuệ! Ví như tâm ý cách bên ngoài vô lượng trăm ngàn do-tuần, người ta vẫn có thể hồi tưởng mọi vật đã từng thấy trước kia. Từng ý nghĩ, từng ý nghĩ… vận hành liên tục và nhanh chóng đến chỗ ấy, không những là thân này, mà ý vượt qua cả núi non, sông hồ, tường vách mà không bị trở ngại. Ý sinh thân cũng như vậy. Như huyễn Tam-muội có sức thần thông tự tại trang nghiêm các tướng, ý vốn thành tựu nguyện lực của chúng sinh, cũng như ý sẽ được sinh trong các đạo lộ thánh thiện. Đó là Đại Bồ-tát vượt khỏi được kiến giải sinh, trụ và diệt.

Này Đại Tuệ! Thế nào là thấy rõ không có pháp bên ngoài nào là tồn tại? Quán sát tất cả pháp như sóng nắng, như giấc mộng, như hoa đốm, do những chấp trước sai lầm từ vô thủy vào những tập khí hư vọng xấu xa, tạo thành nhân. Khi quán sát tất cả pháp như vậy, Bồ-tát sẽ mong cầu tự chứng Thánh trí.

Này Đại Tuệ! Đây là bốn pháp mà các Bồ-tát nếu thực hành đầy đủ sẽ thành bậc đại tu hành. Ông hãy nỗ lực tu học như vậy.

Bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại thưa thỉnh Đức Thế Tôn:

–Xin Thế Tôn dạy cho con biết về tướng nhân duyên của tất cả pháp, nhờ đó mà con và các Bồtát khác có thể thấy rõ bản chất của nhân duyên để thoát khỏi kiến giải về hữu hay vô. Chúng con không còn vọng chấp các pháp sinh từ từ hay sinh ra ngay.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Có hai yếu tố nhân duyên sinh ra tất cả các pháp. Đó là nội duyên và ngoại duyên. Ngoại duyên như dùng một khối đất sét, nước, cây, bánh xe, sợi chỉ, nhân công… tập hợp các thứ đó tạo thành một cái bình. Như cái bình được làm từ một khối đất sét, hay một mảnh vải được làm từ chỉ sợi, chiếc chiếu được làm từ cỏ, mầm cây lớn lên từ hạt giống, đề hồ làm từ sữa… Tất cả đều như vậy. Đây là ngoại duyên được sinh ra theo quá trình liên tục.

Nội duyên thuộc vô minh, ái và nghiệp… sinh ra uẩn, xứ, giới. Chúng sinh khởi từ nội duyên và bị người ngu phân biệt như vậy.

Này Đại Tuệ! Có sáu nguyên nhân:

1. Đương hữu nhân: Nghĩa là khi nhân sinh ra quả thì có sự tác động của các pháp bên trong và bên ngoài.

Tương thuộc nhân: Nghĩa là khi các duyên tạo tác thì có sự sinh khởi của các chủng tử, các uẩn… bên trong và bên ngoài.

2. Tương nhân: Nghĩa là sự tạo tác tương tục, sinh ra quả tương tục.

3. Năng tác nhân: Nghĩa là sự tạo tác tăng thượng mà sinh ra quả, như vua Chuyển luân.

4. Hiển liễu nhân: Nghĩa là khả năng phân biệt sinh khởi, thì nó làm hiển lộ cảnh tướng, như cây đèn chiếu sáng các vật.

5. Quán đãi nhân: Nghĩa là khi có sự hủy diệt thì sự tương tục gián đoạn và trạng thái không vọng tưởng sinh khởi.

Này Đại Tuệ! Đây là kết quả của sự phân biệt từ người ngu, chẳng phải sinh khởi dần dần, cũng chẳng phải sinh ngay liền. Vì sao? Này Đại Tuệ! Nếu sinh ngay thì không có sự khác biệt nào giữa nguyên nhân và kết quả, không có gì để xác định một nguyên nhân như vậy.

Nếu sinh khởi dần dần thì không có bản thể nào liên kết nhau và điều ấy cũng không thể được. Như chưa sinh con, làm sao gọi là cha? Các nhà luận lý cho rằng: Cái được sinh ra và cái tạo sự sinh ra tác động hỗ tương hệ thuộc như nhân duyên, sở duyên duyên, vô gián duyên, tăng thượng duyên… nhân lý sinh khởi dần dần này không thể có. Đó chỉ là những vọng tình chấp trước với nhau mà thôi.

Này Đại Tuệ! Sự sinh khởi dần dần và sinh ngay đều là không sinh, chỉ có tâm nên hiện ra thân và tài sản… tự tướng và cộng tướng bên ngoài đều không có thật tánh, ngoại trừ thức sinh khởi và tự thấy phân biệt.

Này Đại Tuệ! Thế nên ông hãy đoạn trừ những ý niệm về sự dần dần và ngay liền trong sự hòa hợp của hoạt động nhân quả.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Không có gì sinh ra
Không có gì đoạn diệt
Do các nhân duyên kia
Phân biệt tướng sinh diệt
Không ngăn thì duyên hợp
Diệt như vậy rồi sinh
Chỉ tại kẻ phàm ngu
Vọng tình sinh chấp trước
Pháp có không trong duyên
Nên không và có sinh
Tâm lẫn lộn tập khí
Từ đó hiện tam hữu
Xưa nay vốn không sinh
Và cũng không có diệt
Quán sự vật hữu vi
Như hoa đốm hư không
Rời chủ thể, đối tượng
Tất cả kiến mê lầm
Không sinh và được sinh
Nhân duyên cũng không có
Vì thuận theo thế tục
Nên nói có sinh diệt.

QUYỂN 3

Phẩm 2: SỰ TẬP HỢP TẤT CẢ CÁC PHÁP (Phần 3)

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn dạy cho con về pháp môn được gọi là tướng tâm phân biệt ngôn từ. Nhờ đó, con và các Bồ-tát biết rõ pháp môn này, nên thông đạt được hai nghĩa năng thuyết và sở thuyết, chóng đạt Tuệ giác vô thượng, làm cho tất cả chúng sinh đối với hai nghĩa này được thanh tịnh.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Có bốn loại phân biệt về ngôn từ. Đó là:

1. Tướng ngôn thuyết: Nghĩa là tự chấp trước vào tướng của Sắc mà sinh ra phân biệt.

2. Mộng ngôn thuyết: Nghĩa là khi thức giấc nhớ lại những cảnh đã trải qua trong mộng, dựa vào cảnh giới không thật ấy mà sinh ra.

3. Kế trước quá ác ngôn thuyết: Nghĩa là những ngôn từ sinh khởi do hồi tưởng những hành vi, oán thù mà trước đây người ta đã tạo.

4. Vô thủy vọng tưởng ngôn thuyết: Nghĩa là sinh ra từ vọng chấp tập khí từ vô thủy.

Đây là bốn loại phân biệt về ngôn từ.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn giảng thêm cho con về tướng hành động của phân biệt ngôn từ.

Nguyên nhân xảy ra từ đâu. Vì sao mà khởi?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Sự phân biệt ngôn từ xảy ra do sự kết hợp của đầu, ngực, mũi, yết hầu, lợi, môi, lưỡi và răng.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Các ngôn ngữ phân biệt là khác, hay là không khác?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Chúng không khác, cũng không không khác. Vì sao? Vì các ngôn từ sinh khởi do sự phân biệt làm nguyên nhân. Nếu ngôn ngữ mà khác với phân biệt thì chúng không lấy sự phân biệt làm nguyên nhân. Còn nếu chúng không khác với phân biệt thì ngôn ngữ đó không thể hiện ý nghĩa mà nó tạo. Vì thế, sự phân biệt ngôn từ không khác nhau, cũng không phải là không khác nhau.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Ngôn ngữ có phải là nghĩa đệ nhất không? Hay là điều được diễn đạt trong ngôn ngữ là nghĩa đệ nhất?

Đức Phật bảo Đại Tuệ:

–Các ngôn ngữ không phải là nghĩa đệ nhất, cũng như điều được diễn đạt trong ngôn ngữ là đệ nhất. Vì sao? Vì nghĩa đệ nhất là trạng thái an lạc cao vời của bậc Thánh; nhờ ngôn từ mà biết nhưng nó không phải là lời nói. Nghĩa đệ nhất là cảnh giới tự chứng nội tại của Thánh trí, chứ không phải cảnh do trí phân biệt bằng ngôn ngữ. Do đó, sự phân biệt ngôn ngữ không thể hiển thị được.

Này Đại Tuệ! Ngôn ngữ phải bị sinh và diệt, chúng không ổn định mà hỗ tương duyên nhau và do nhân duyên sinh ra. Những gì hỗ tương duyên sinh, thì đối với nghĩa đệ nhất không thể hiển thị được. Nghĩa đệ nhất không có tướng tự và tha, ngôn ngữ hữu tướng không thể diễn tả được thực tánh nghĩa đệ nhất ấy. Nghĩa đệ nhất chính là tự tâm mà tất cả những tướng bên ngoài đều không có và sự phân biệt về ngôn từ không thể diễn tả được. Thế nên, các vị hãy tránh xa mọi sự phân biệt về ngôn từ.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Các pháp không tự tánh
Cũng không có ngôn từ
Vì không hiểu nghĩa không
Kẻ ngu phải luân hồi
Tất cả pháp không tánh
Lìa phân biệt ngữ ngôn
Các cõi như giấc mộng
Chẳng sinh tử, Niết-bàn
Như vua hay trưởng giả
Vì muốn các con vui
Trước đưa ra vật giả
Sau cho chúng vật thật
Nay ta cũng như vậy
Trước nói pháp tương tự
Sau mới giảng pháp thật
Pháp thật tế tự chứng.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn chỉ dạy cho con biết cách rời khỏi một và khác, câu hữu, không câu hữu, hữu và vô, không phải hữu vô, thường, vô thường… là điều mà tất cả ngoại đạo không thể thực hành. Đó là cảnh giới thực hành của Thánh trí tự chứng, xa lìa vọng chấp về tướng cọng tướng và biệt tướng, nhập vào cảnh giới chân thật đệ nhất, lần lượt thanh tịnh các Địa, nhập vào quả vị Như Lai, do năng lực bản nguyện mà vô công dụng. Như viên ngọc như ý chiếu khắp tất cả vô biên cảnh giới. Tất cả các pháp đều là sự thấy sai biệt từ chính cái tâm. Nhờ vậy, mà con cùng các Bồ-tát khác đối với các pháp như vậy không bị vọng kiến sai lầm về tướng chung và tướng riêng, chóng đạt Tuệ giác vô thượng, làm cho khắp các chúng sinh đầy đủ tất cả công đức một cách trọn vẹn.

Đức Phật bảo:

–Hay thay! Hay thay! Này Đại Tuệ! Ông vì lòng từ thương tưởng thế gian, vì sự lợi ích của nhiều người, vì sự an lạc khắp quần sinh mới hỏi ta về ý nghĩa này.

Này Đại Tuệ! Vì kẻ phàm phu không có trí nên không biết chính tự tâm mà chấp vào tập khí làm nhân, chấp các đối tượng bên ngoài, chấp đồng và dị, câu hữu và không câu hữu, hữu và vô, thường và vô thường… tất cả các tự tánh.

Này Đại Tuệ! Ví như bầy thú bị cơn khát bức bách, nhìn sóng nắng mà chúng tưởng là nước, bị mê hoặc, chúng phóng chạy đến và không biết rằng thật không phải nước. Kẻ phàm phu ngu muội cũng như vậy, họ bị huân tập bằng những hý luận và phân biệt sai lầm từ vô thủy, bị ba độc đốt tâm vì đam mê cảnh giới sắc tướng. Vì chấp pháp trong, ngoài mà thấy sinh, trụ, diệt, nên họ bị rơi vào con đường chấp đồng và dị.

Này Đại Tuệ! Như thành Càn-thát-bà chẳng phải là thành, cũng chẳng phải chẳng là thành Cànthát-bà. Từ vô thủy đến nay, người thiếu trí tuệ chấp chặt đó là cái thành, vì huân tập các thói quen sai lầm nên nghĩ đó là cái thành. Các nhà ngoại đạo cũng vậy, vì chấp vào tập khí huân tập và những sai lầm từ vô thủy đến nay, cho nên họ không thông suốt về những gì được hiện ra từ tâm, chấp đồng và dị… và các loại ngôn từ.

Này Đại Tuệ! Ví như có người nằm mộng thấy một trú xứ đầy cả đàn ông, đàn bà, voi, ngựa, xe, người đi bộ, làng mạc, phố xá, vườn rừng và những loại đồ trang trí. Lúc tỉnh giấc, người ấy vẫn nhớ mãi tất cả những sự việc không thật kia.

Này Đại Tuệ! Ý thầy thế nào? Người nằm mộng kia có trí tuệ hay chăng?

–Thưa không, bạch Đức Thế Tôn!

Này Đại Tuệ! Ngoại đạo cũng vậy, họ bị những kiến giải sai lầm ăn sâu vào mà không nhận ra rằng các pháp chính tại nơi tâm, nên họ bị chấp chặt bởi các ý niệm về đồng và dị, về hữu và vô…

Này Đại Tuệ! Ví như khung tượng của người họa sĩ không lồi lõm, nhưng người ngu lầm thấy cho rằng có chỗ lồi chỗ lõm. Trong tương lai hàng ngoại đạo cũng vậy, có những nhận thức sai lầm huân tập bởi vọng tâm tăng trưởng, chấp về ý niệm đồng và dị… Họ tự đưa mình và người khác đến chỗ hủy hoại, xa rời luận thuyết đối với luận vô sinh về hữu vô, lại bảo đó là không. Họ hủy báng nhân quả, bứng gốc thiện căn. Nên biết, những người này phân biệt hữu và vô, khởi ra kiến chấp tự và tha, cuối cùng sẽ rơi vào địa ngục. Muốn cầu pháp thù thắng, các thầy hãy chóng vượt khỏi ý niệm này.

Này Đại Tuệ! Ví như người mắt lòa thấy hoa đốm mà kêu lên với nhau rằng: “Đây là việc thật hiếm có”, nhưng hoa đốm này vốn chẳng phải có, chẳng phải không, chẳng phải thấy hay không thấy. Cũng thế, hàng ngoại đạo có tâm mê muội vào sự phân biệt, chấp chặt nơi kiến giải sai lầm những ý niệm về đồng và dị, câu hữu hay không câu hữu. Đó là hủy báng chánh pháp, tự hủy diệt mình và người khác.

Này Đại Tuệ! Ví như vòng lửa không phải là thật. Người ngu chấp trước cho là như vậy, còn người trí thì không. Ngoại đạo cũng vậy, những người có kiến giải sai lầm, ham thích chấp trước vào đồng và dị, câu hữu và không câu hữu… trong sự sinh khởi của tất cả các pháp.

Này Đại Tuệ! Ví như bọt nước, trông giống như hạt ngọc pha lê, người ngu tưởng là thật, nên vội vã nhặt lấy, nhưng chúng chỉ là những bọt nước, không phải là ngọc, cũng chẳng phải là không phải ngọc, để nắm giữ hay không nắm giữ. Ngoại đạo cũng vậy, do tập khí của những kiến giải phân biệt huân tập, gọi là phi hữu và các pháp bị hoại diệt bởi duyên hữu.

Này Đại Tuệ! Lập tam lượng rồi đạt được bằng sự chứng nghiệm của Thánh trí và xa lìa, hay pháp tự tánh phát sinh phân biệt hữu tánh.

Này Đại Tuệ! Những người tu hành chuyển tâm, ý, ý thức lìa sự phân biệt về sở chấp và năng chấp, trụ Như Lai địa, trụ chứng Thánh pháp, ở đó không có ý tưởng về hữu và vô.

Này Đại Tuệ! Nếu có sự chấp về hữu và vô trong cảnh giới mà các vị tu hành đạt được, thì sẽ có trong họ sự chấp về ngã, nhân, chúng sinh và thọ.

Này Đại Tuệ! Tướng chung và tướng riêng của tất cả các pháp là giáo lý của Đức Phật hóa thân, chứ chẳng phải là giáo lý của Đức Phật Pháp thân. Này Đại Tuệ! Giáo pháp của Phật hóa thân nhằm cho kẻ ngu, phù hợp với tâm thức của họ, không thể hiển lộ được chân lý tự chứng Thánh trí và cảnh giới an lạc của Tam-muội.

Này Đại Tuệ! Ví như bóng cây phản chiếu trong nước, nó phản ảnh lại là phi phản ảnh, chẳng phải hình tướng của cây, chẳng phải không hình tướng của cây. Ngoại đạo cũng vậy, họ bị tập khí của những kiến giải huân tập nên không rõ tự tâm. Đối với sự giống và khác… nên họ sinh ra sự phân biệt.

Này Đại Tuệ! Ví như tấm gương sáng không có phân biệt, tùy theo các điều kiện mà hiện ra những màu sắc, hình ảnh; chúng không phải là hình ảnh, cũng chẳng phải là không hình ảnh mà chúng được nhìn thấy, hình ảnh hay không phải hình ảnh. Người ngu do phân biệt mà có ý tưởng về hình ảnh. Ngoại đạo cũng vậy, những hình ảnh phản chiếu tự tâm và chắc chắn là có giống và khác, câu hữu và không câu hữu.

Này Đại Tuệ! Ví như tiếng vang trong hang sâu, nương vào gió, nước, con người… hòa hợp mà phát sinh. Nó không hiện hữu, cũng chẳng phải không hiện hữu, nó được nghe ra là một thanh âm hay chẳng phải là một thanh âm. Ngoại đạo cũng vậy, phân biệt của tự tâm và sức huân tập nên khởi ra sự giống và khác, câu hữu và không câu hữu.

Này Đại Tuệ! Ví như trên mặt đất, nơi không có cỏ cây, ánh mặt trời chiếu xuống sinh ra sóng nắng. Chúng không hiện hữu, cũng không phải chẳng không hiện hữu, do ý tưởng điên đảo, ý tưởng có hay không về chúng. Kẻ phàm phu ngu si cũng như vậy, bị huân tập những tập khí và lý luận hư vọng từ vô thủy, ngay cả trong pháp môn tự chứng Thánh trí, các thức phân biệt về sinh, trụ, diệt của tánh giống và khác, câu hữu, không câu hữu, hữu và vô.

Này Đại Tuệ! Ví như quỷ Tỳ-xá-xà (Pīsāca) dùng thần chú làm cho người gỗ hay tử thi trở thành sống động, vận chuyển không ngừng, dù nó không có năng lực riêng. Người vô trí cho đó là thật, kẻ phàm phu ngu si cũng như vậy, chạy theo ngoại đạo sinh ra những kiến giải sai lầm, chấp chặt vào những ý niệm giống và khác… nhưng những điều họ nói đều là hư vọng.

Thế nên, này Đại Tuệ! Đối với sự đắc pháp ở trong xa lìa sinh, trụ, diệt, giống và khác, hữu và vô, câu hữu, không câu hữu…

Đức Thế Tôn nói kệ:

Các thức uẩn có năm
Như bóng cây trong nước
Xem chúng như huyễn mộng
Chớ phân biệt sai lầm
Ba cõi như sóng nắng
Như hoa đốm, huyễn mộng
Ai quán sát như thế
Cứu cánh đạt giải thoát
Như sóng nắng mùa nóng
Chuyển động mê hoặc tâm
Thú khát, tưởng là nước
Thật sự nước không có
Chủng tử thức như vậy
Chuyển động cảnh giới hiện
Như cái nhìn mắt lòa
Người ngu sinh chấp trước
Trong sinh tử vô thủy
Mê muội trong chấp giữ
Kiến xa lìa xả bỏ
Dùng gai mà nhổ gai
Chú thuật người gỗ đi
Ánh chớp, mây, giấc mộng…
Luôn nhìn đời như thế
Chấm dứt ba tương tục
Nơi đây không sở hữu
Như sóng nắng giữa trời
Hiểu các pháp như vậy
Không có gì để biết
Các uẩn như hoa đốm
Trong đó vọng phân biệt
Chỉ giả thuyết, giả danh
Tìm tưởng làm sao được
Như bức họa, hoa đốm
Giấc mộng, thành Càn-thát
Vòng lửa do lửa quay
Thật không mà thấy có
Như vậy thường, vô thường
Giống khác, hợp, không hợp
Ràng buộc từ vô thủy
Kẻ ngu lòng phân biệt
Gượng thấy, nước, mắt sáng
Ngọc báu, ma-ni đẹp
Ảnh tượng hiện trong đó
Nhưng ngọc không có thật
Tàng thức cũng như vậy
Hiện khắp các sắc tướng
Như mộng, lửa, không trung
Như con của Thạch nữ.

Này Đại Tuệ! Giáo pháp của chư Phật thoát khỏi tướng cú, nghĩa là không có sự giống và khác, câu hữu hay không câu hữu, hữu và vô, kiến lập và phỉ báng.

Này Đại Tuệ! Giáo pháp của chư Phật đặt bốn Thánh đế, Duyên khởi, Diệt, Đạo, Giải thoát làm hàng đầu. Giáo pháp của chư Phật không bị ràng buộc với: thắng tánh, tự tại, túc nghiệp, tự nhiên, thời gian, vi trần…

Này Đại Tuệ! Giáo pháp của các Đức Như Lai gột sạch hai loại chướng duyên làm mê hoặc trí và tiếp nối nhau trụ vào một trăm lẻ tám câu trong pháp vô tướng, khéo phân biệt các thừa và các cảnh giới của Bồ-tát địa. Giống như người lãnh đạo đoàn người đi buôn, khéo biết dẫn đường.

Này Đại Tuệ! Có bốn loại thiền. Những gì là bốn? Đó là:

1. Thiền định do người ngu thực hành.

2. Thiền định để quán sát thật nghĩa.

3. Thiền duyên vào chân như.

4. Thiền định của chư Như Lai.

Này Đại Tuệ! Thiền định do người ngu thực hành là gì? Đó là Thiền định mà các hành giả thực hiện theo cách tu của hàng Thanh văn, Duyên giác. Họ biết rằng nhân vô ngã, thấy tự thân và thân người khác là một bộ xương liên kết nhau, đầy cả bất tịnh, vô thường và đau khổ. Họ cứ chấp chặt vào các ý niệm ấy không xả, dần dần thăng tiến lên, cho đến khi đạt được Diệt tưởng định. Đây gọi là Thiền định do người ngu thực hành.

Thiền định để quán sát thật nghĩa là gì? Đó là Thiền định do người đã biết nhân vô ngã, khởi tánh cộng tướng và biệt tướng, cũng lìa hẳn hành động tự tha cùng làm của ngoại đạo. Họ quán sát theo ý nghĩa sự vô ngã của các pháp và các cảnh giới của Bồ-tát địa. Đây gọi là Thiền định để quán sát thật nghĩa.

Thiền duyên vào chân như là gì? Đó là sự phân biệt về hai hình thức của vô ngã chỉ là khái niệm hư vọng. Nếu biết như thật thì nơi ấy không có sự sinh khởi. Đây gọi là Thiền duyên vào chân như.

Thiền định của chư Như Lai là gì? Đó là nhập vào cảnh giới Như Lai địa và trụ trong ba thứ an lạc Thánh trí tự chứng, vì tất cả chúng sinh mà thực hành những việc bất khả tư nghì. Đây gọi là Thiền định của chư Như Lai.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Thiền kẻ ngu thực hành
Thiền quán sát thật nghĩa
Thiền duyên vào chân như
Thiền thanh tịnh Như Lai
Hành giả khi hành thiền
Thấy hình trăng, mặt trời
Hoa sen đỏ thâm sâu
Hay hình, hư không, lửa
Tất cả tướng như vậy
Dẫn vào pháp ngoại đạo
Rời bỏ các pháp này
Trụ nơi vô sở duyên
Đó là điều phù hợp
Với chân thật như như
Các cõi nước mười phương
Có vô lượng Đức Phật
Tay chói ngời ánh sáng
Xoa đảnh người hiền thiện.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Chư Phật Như Lai đã dạy về Niết-bàn. Vậy Niết-bàn nghĩa là gì?

Đức Phật bảo Đại Tuệ:

–Tự tánh và tập khí của tất cả các thức gồm: tàng thức, ý và ý thức, những tập khí của các kiến đó đã chuyển y rồi. Ta và các Đức Phật tuyên bố rằng: Niết-bàn tức là cảnh giới không tánh của các pháp.

Và này Đại Tuệ! Niết-bàn là cảnh giới của sự tự chứng bằng Thánh trí, thoát khỏi sự phân biệt về đoạn diệt và thường hằng, cho đến hữu và vô. Vì sao nó không phải là thường hằng? Nghĩa là nó không còn những sự phân biệt về tướng chung và tướng riêng. Vì sao nó không phải là đoạn diệt? Vì tất cả Thánh giả trong quá khứ, hiện tại và tương lai đã thực hành và đạt chứng ngộ bằng trí.

Này Đại Tuệ! Đại Bát-niết-bàn không phải là hủy diệt, không phải là sự chết. Nếu Đại Bát-niếtbàn là sự chết thì sẽ có sự sinh tiếp nối. Nếu là hủy diệt thì nó là hữu vi. Thế nên Niết-bàn không hủy diệt và không chết. Đây là chỗ hướng đến của các bậc tu hành

Này Đại Tuệ! Không xả bỏ, cũng không đạt được, không đoạn diệt cũng không thường hằng, không đồng không dị. Như thế gọi là Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Hàng Thanh văn, Duyên giác hiểu rằng: Niết-bàn gồm trong tướng chung và tướng riêng nên tách rời nơi ồn náo, không sinh điên đảo, không khởi phân biệt. Đó là ý niệm của họ về Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Có hai loại tướng về tự tánh. Hai loại ấy là gì? Đó là chấp chặt vào các ngôn từ cho rằng có tướng tự tánh và chấp vào các pháp cho rằng có tướng tự tánh. Chấp vào ngôn từ cho rằng có tướng tự tánh khởi ra do những lý luận sai lầm từ vô thủy chấp vào tập khí về ngôn từ. Chấp vào các pháp cho rằng có tướng tự tánh khởi ra do không biết những hiện tượng xảy ra chính tự nơi tâm.

Này Đại Tuệ! Chư Phật có hai loại gia trì cho Bồ-tát, làm cho họ đảnh lễ dưới chân Phật và thưa hỏi các nghĩa. Hai năng lực gia trì ấy là gì? Đó là làm cho các Bồ-tát nhập vào Tam-muội và nhờ đó mà chư Phật hiện thân ra trước các Bồ-tát, đưa tay làm lễ quán đảnh cho họ.

Này Đại Tuệ! Nhờ được năng lực gia trì của các Đức Phật mà các Đại Bồ-tát đang ở Sơ địa sẽ nhập vào định ánh sáng Đại thừa thuộc về Bồ-tát. Đã vào định rồi, họ sẽ thấy thân chư Phật ở mười phương hiện khắp trước mặt, truyền cho họ sự gia trì bằng thân và ngôn từ như Bồ-tát Kim Cang Tạng và các Bồ-tát khác, là những vị đã thành tựu công đức tương tự nhau.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát này nhờ năng lực Phật gia trì nhập vào Tam-muội rồi, ở trong trăm ngàn kiếp tích tập các thiện căn, lần lượt lên các Địa, hoàn toàn thuần thục với những gì đang làm và sẽ làm. Cuối cùng, họ đạt đến Pháp vân địa, được ngồi trên tòa báu. Ở cung điện Đại liên hoa vi diệu, chung quanh có các Bồ-tát cùng địa vị với họ, đầu đội mũ báu, thân như vàng ròng tỏa chiếu sáng ngời như trăng tròn, có màu như hoa Chiêmbặc.

Chư Phật khắp mười phương đưa những bàn tay như hoa sen làm pháp quán đảnh cho các Bồtát ấy đang ngồi trên tòa, giống như thái tử con của vua Chuyển luân vương nhận pháp quán đảnh rồi, nên rất tự tại. Các Bồ-tát này cũng như vậy. Đây là hai loại năng lực gia trì. Các Đại Bồ-tát này do được gia trì bằng hai loại trợ lực này nên tự thân được gặp tất cả chư Phật, không có cách nào ngoài cách trên.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát nhập vào Tammuội, hiện thần thông thuyết pháp. Tất cả đều do hai năng lực gia trì của các Đức Phật.

Này Đại Tuệ! Nếu những Bồ-tát nào tách rời sự gia trì của chư Phật mà thuyết pháp, thì các phàm phu cũng có thể thuyết pháp được.

Này Đại Tuệ! Nơi nào có các Đức Như Lai mang năng lực đến, thì nơi ấy sẽ có nhạc trỗi lên từ nơi núi rừng, cỏ cây, thành quách, cung điện… Do năng lực gia trì của Phật, các vật vô tình còn diễn pháp âm, huống chi loài hữu tình? Những kẻ mù lòa, câm điếc thoát khổ, được giải thoát.

Này Đại Tuệ! Năng lực gia trì của Như Lai có những tác dụng rộng lớn như vậy.

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Tại sao Đức Như Lai dùng năng lực gia trì ấy làm cho các Bồ-tát nhập vào Tam-muội? Và khi các vị ấy được thọ quán đảnh trong cảnh giới thù thắng thì Đức Như Lai lại ban cho họ năng lực gia trì?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Vì muốn làm cho những vị ấy tránh khỏi nghiệp xấu, những phiền não và làm cho họ xa rời địa vị Thanh văn, chóng nhập Như Lai địa, làm cho họ được tăng trưởng gấp bội các pháp mà họ đã đạt được. Thế nên chư Phật đã dùng năng lực gia trì cho các Bồ-tát.

Này Đại Tuệ! Nếu các Bồ-tát không được gia trì như vậy, thì họ sẽ rơi vào cảnh giới xấu của ngoại đạo cho đến Thanh văn và sẽ không đạt được Tuệ giác vô thượng. Vì lý do đó mà các Đức Như Lai dùng năng lực gia trì để hộ vệ các Bồ-tát.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Nguyện Thế Tôn thanh tịnh
Có sức gia trì lớn
Sơ địa đến Thập địa
Tam-muội và quán đảnh.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Phật dạy Duyên khởi là tùy thuộc vào nguyên nhân sinh ra, không phải do một ngã thể làm phát sinh. Ngoại đạo cũng nói về tánh tự tại thù thắng, thời gian hay ngã, vi trần… sinh nơi các pháp. Nay tại sao Đức Thế Tôn chỉ giải thích Duyên khởi của các pháp bằng những từ ngữ khác, nhưng về mặt ý nghĩa thì không có khác?

Bạch Thế Tôn! Ngoại đạo cũng nói: “Do chủ thể tạo tác từ không sinh ra có.” Thế Tôn cũng dạy: “Do nhân duyên nên tất cả pháp vốn không sinh mà sinh, sinh rồi trở về diệt.” Như Phật đã dạy về Vô minh từ đó hành sinh khởi, cho đến lão, tử, học thuyết này không nguyên nhân, chứ không phải học thuyết có nguyên nhân. Theo Thế Tôn dạy, thì “Cái này có thì cái kia có”. Nếu đây là sự kiến lập đồng thời chứ không phải hỗ tương tuần tự thì nghĩa này không đúng. Vậy thì ngoại đạo nói thắng tánh là chẳng phải Như Lai. Vì sao? Vì ngoại đạo nói nguyên nhân không từ duyên sinh mà có. Vì thế, Thế Tôn dạy: “Quả có liên hệ đến nguyên nhân và nhân lại liên hệ đến nhân.” Như vậy, dần dần dẫn đến sự sai lầm nghiêm trọng. Khi nói “Cái này có thì cái kia có”, gọi đó là vô hữu nhân.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Ta nhìn thấu suốt vạn pháp hiện hữu không gì khác hơn chính tại tâm hiện ra và tánh năng thủ, sở thủ, nên ta bảo: “Cái này có thì cái kia có”, chứ không phải cái học thuyết không có nhân và nhân duyên của ta phạm sai lầm.

Này Đại Tuệ! Nếu không thấu suốt tất cả vạn pháp hiện hữu không gì khác hơn chính tại tâm hiện ra nên chấp có năng thủ và sở thủ, chấp trước ngoại cảnh hoặc có hoặc không, thì đó là một sai lầm và không phải là điều ta nói.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Phải chăng vì có ngôn từ nên chắc chắn các pháp có mặt? Nếu không có các pháp thì ngôn từ nương vào đâu mà sinh khởi?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Ngay cả khi không có các pháp cũng vẫn có ngôn từ. Ví như lông rùa, sừng thỏ, người con của Thạch nữ… thật ra các thứ ấy không hề có trên đời, vậy mà ngôn từ vẫn có.

Này Đại Tuệ! Các thứ ấy không phải có, cũng không phải không có, nhưng được biểu hiện bởi ngôn từ.

Này Đại Tuệ! Như lời ông nói: Có ngôn từ nên có các pháp, lập luận này vô nghĩa.

Này Đại Tuệ! Không phải tất cả các Phật độ đều có ngôn từ, ngôn từ chỉ là giả lập mà thôi.

Này Đại Tuệ! Có những cõi Phật các ý tưởng được biểu thị bằng cách nhìn chăm chú, hoặc biểu hiện cách khác, hoặc nhướng mày, hoặc cử động bằng mắt, hoặc mỉm cười, hoặc ngáp hay đằng hắng giọng, hoặc bằng nhớ nghĩ, hoặc cử động… Bằng những sự việc ấy để hiển thị pháp.

Này Đại Tuệ! Như thế giới Bất thuấn, thế giới Diệu hương và trong cõi Phật Phổ Hiền Như Lai, chỉ chăm chú nhìn không chớp mắt mà làm cho các Bồ-tát đạt được Vô sinh pháp nhẫn và được các Tam-muội thù thắng.

Này Đại Tuệ! Chẳng phải do ngôn từ mà có các pháp. Các loài côn trùng như ong, kiến… trong thế giới này, tuy không có ngôn từ mà chúng vẫn làm được các việc của chúng.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Ví hư không, sừng thỏ
Và con của Thạch nữ
Không có, chỉ giả nói
Vọng chấp pháp cũng vậy
Trong nhân duyên hòa hợp
Người ngu tưởng sinh khởi
Vì không hiểu lý này
Nên luân hồi ba cõi.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Do đâu mà họ nói âm thanh là thường hằng?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Tùy theo pháp sai lầm mà nói. Đối với pháp vọng, Thánh nhân cũng biểu hiện như vậy, nhưng họ không điên đảo.

Này Đại Tuệ! Ví như một kẻ vô trí trong đời sinh ý tưởng điên đảo đối với sóng nắng, vòng lửa, bóng tóc lay, thành Càn-thát-bà, ảo ảnh, bóng trong gương. Nhưng nếu người có trí thì không như vậy, dù những ảo tưởng kia vẫn xuất hiện nơi họ.

Này Đại Tuệ! Khi có những pháp vọng này xuất hiện thì có vô lượng sự sai biệt, nhưng chẳng phải là vô thường. Vì sao? Vì nó lìa ý niệm hữu và vô. Vì sao lìa ý niệm hữu và vô? Vì tất cả người ngu có những sự hiểu biết khác nhau. Như nước sông Hằng có kẻ thấy, kẻ không thấy. Ngạ quỷ không trông thấy nước sông Hằng, cho nên không thể nói có; còn những chúng sinh khác lại trông thấy, cho nên không thể nói là không. Bậc Thánh đối với pháp sai lầm đã thoát khỏi kiến thức điên đảo

Này Đại Tuệ! Sự sai lầm là thường hằng vì bản chất của nó không khác, cho nên chẳng phải những sự sai lầm được nhận thấy là bị khác biệt. Do phân biệt cho nên có sự khác biệt. Thế nên, thể của sự sai lầm này là thường.

Này Đại Tuệ! Vì sao sự sai lầm này được xem là chân thật? Vì đối với sai lầm này người trí không khởi tâm điên đảo, không giữ kiến thức điên đảo. Nếu đối với sự sai lầm mà có ít ý tưởng phân biệt thì chẳng phải là Thánh trí. Có một ít ý tưởng đó, phải biết đây là lập luận của người ngu, chẳng phải lời bậc Thánh nói.

Này Đại Tuệ! Khi sự sai lầm được phân biệt là điên đảo hay chẳng phải điên đảo, thì nó làm sinh khởi hai loại chủng tánh, đó là chủng tánh Thánh trí và chủng tánh phàm phu.

Này Đại Tuệ! Chủng tánh Thánh trí lại phân làm ba loại là: Thanh văn, Duyên giác và Phật thừa.

Này Đại Tuệ! Chủng tánh Thanh văn thừa sinh khởi như thế nào từ sự sai lầm mà người ngu phân biệt? Đó là sự chấp trước về tướng chung và tướng riêng.

Này Đại Tuệ! Chủng tánh Duyên giác thừa sinh khởi như thế nào? Đó là khi sự chấp trước về tướng chung và tướng riêng tách rời họ khỏi nơi ồn náo.

Này Đại Tuệ! Chủng tánh Phật thừa thành tựu như thế nào khi sự sai lầm này được bậc Thánh phân biệt? Đó là hiểu rõ tất cả chính tại nơi tâm thì sự hiện hữu và không hiện hữu của các đối tượng bên ngoài không còn phân biệt.

Này Đại Tuệ! Có những người ngu phân biệt sự sai lầm của các pháp, xác nhận rằng: chắc chắn không khác. Từ đó, hình thành chủng tánh của sinh tử.

Này Đại Tuệ! Trong sự sai lầm đó bởi nhiều sự vật và sai lầm này không phải là sự vật, cũng không phải không là sự vật.

Này Đại Tuệ! Sự sai lầm này khi được bậc Thánh phân biệt về tâm, ý, ý thức, những tập khí xấu, ba tự tánh, năm pháp thì nó chuyển y. Tức là những sai lầm này trở thành chân như. Thế nên, chân như xa lìa thức tâm. Câu này được ta trình bày rõ ràng, tức là từ bỏ phân biệt, nghĩa là loại trừ tất cả phân biệt.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Sự sai lầm là có, hay không có?

Đức Phật nói:

–Như Như huyễn, không có tướng chấp trước. Nếu thể là có và đưa đến tướng chấp trước nên không thể chuyển. Đó là các duyên khởi được hiểu theo ý nghĩa có đấng sáng tạo mà các ngoại đạo chủ trương.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Nếu những sự sai lầm giống như huyễn, thì từ đó nó sẽ là nguyên nhân của những sai lầm khác nữa.

Đức Phật bảo Đại Tuệ:

–Như huyễn không thể là nguyên nhân của hoặc, vì như huyễn không sinh ra những lỗi xấu ác. Và do đó, như huyễn không có sự phân biệt nào.

Này Đại Tuệ! Như huyễn sẽ sinh khởi khi có người nào đó dùng chú thuật mà gọi nó, chính nó không có năng lực tập khí và phân biệt sai lầm. Thế nên huyễn sự không sinh lỗi xấu.

Này Đại Tuệ! Vọng hoặc này chỉ là tâm chấp trước của người ngu, chứ không phải của bậc Thánh.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Bậc Thánh không nói sai
Không chân thật chính nó
Do vọng tức là chân
Chân thật trong chính nó
Nếu rời sự sai lầm
Mà có tướng sinh khởi
Đây hoàn toàn sai lầm
Như mắt lòa không thấy.

Này Đại Tuệ! Thấy các pháp không như huyễn, chẳng có tương tự, cho nên tất cả pháp như huyễn. Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Bạch Thế Tôn! Có phải vì vin vào loại chấp trước các loại tướng như huyễn nên bảo rằng tất cả pháp như huyễn chăng? Hay khác như thế đó mà có tướng chấp trước điên đảo? Nếu y theo sự chấp trước các tướng như huyễn thì bảo rằng tất cả pháp cũng như huyễn.

Bạch Thế Tôn! Không phải tất cả pháp đều như huyễn. Vì sao? Vì các sắc tướng được trông thấy đều có nguyên nhân.

Bạch Thế Tôn! Nếu các sắc tướng hiện ra như huyễn, hoàn toàn không có nguyên nhân. Vì thế cho nên, bạch Thế Tôn! Không thể bảo rằng dựa vào sự chấp trước các tướng như huyễn để nói tất cả pháp đều như huyễn tương tự.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Không phải dựa vào sự chấp trước tất cả các tướng như huyễn mà cho rằng tất cả sự vật như huyễn.

Này Đại Tuệ! Do tất cả sự vật không thật và biến mất nhanh chóng như một ánh chớp, cho nên gọi là như huyễn.

Này Đại Tuệ! Ví như ánh chớp vừa thấy xong liền biến mất, được biểu hiện cho người ngu trong thế gian đều thấy tất cả các pháp hiện hữu dựa vào tướng chung và tướng riêng theo sự phân biệt của tự tâm. Do không nhận biết về vô sở hữu mà có chấp trước sai lầm đối với các sắc tướng.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Huyễn không phải không thật
Cũng không có các pháp
Không thật nhanh như chớp
Được xem giống như huyễn.

Lúc bấy giờ, Đại Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Trước kia Phật dạy rằng: “Tất cả các pháp đều vô sinh và giống như Như huyễn.” Phải chăng có điều mâu thuẫn giữa câu trước và câu sau?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Hoàn toàn không có sự mâu thuẫn. Vì sao? Vì sinh tức là vô sinh. Khi ta nhận thấy tất cả sự hiện hữu chính tại nơi tâm, còn tất cả pháp bên ngoài có hay không thì chúng được trông thấy là vô tánh vốn không sinh. Thế nên, này Đại Tuệ! Để gạt bỏ ý nghĩa sự sinh do nhân duyên của ngoại đạo, nên ta nói các pháp đều không sinh.

Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo là một tập thể mê lầm. Họ cùng cho rằng tất cả pháp do từ sự sinh của hữu và vô, mà không nhìn nhận sự sinh ấy bởi chấp trước vào duyên khởi từ phân biệt nơi tâm.

Này Đại Tuệ! Ta bảo rằng: các pháp là phi hiện hữu, do vô sinh cho nên gọi là vô sinh.

Này Đại Tuệ! Giáo lý về các pháp là để làm cho các đệ tử của ta công nhận khẳng định rằng do các nghiệp mà nhận lấy sinh tử. Và ngăn chận kiến giải vô, hữu, đoạn diệt của các chúng sinh.

Này Đại Tuệ! Giáo lý dạy về các pháp tướng cũng như huyễn là để làm cho gạt bỏ tướng tự tánh của các pháp để những kẻ phàm ngu bị rơi vào kiến thức sai lầm dục vọng, mà không biết rằng mọi sự hiện hữu không gì khác hơn là chính cái tâm. Và, để làm cho họ xa lìa sự chấp trước vào nhân duyên tướng sinh khởi, nên ta nói: “Tất cả các pháp như ảo ảnh, như giấc mộng.” Các phàm ngu kia vì chấp vào những tư tưởng sai lầm dối trá, tự mâu thuẫn với chính mình, với cả người khác, vì họ không thấy được tất cả các sự vật đúng thật như các sự vật.

Này Đại Tuệ! Người thấy được tất cả các sự vật đúng thật như các sự vật, nghĩa là đã liễu đạt rằng:

Không có gì được trông thấy ngoài cái tâm.

Đức Thế Tôn lập lại bằng lời kệ:

Vô tác nên vô sinh
Có pháp tức sinh tử
Thấy rõ như huyễn mộng
Không phân biệt các tướng.

Này Đại Tuệ! Ta sẽ giải thích các đặc tánh của danh thân, cú thân và văn thân. Các Bồ-tát quán sát các tướng này, sẽ thông suốt ý nghĩa ấy mà chóng đạt Tuệ giác vô thượng và có thể khai ngộ cho tất cả chúng sinh.

Này Đại Tuệ! Danh thân nghĩa là dựa vào sự để lập danh, danh tức là thân. Đây là thân của một tên gọi.

Cú thân nghĩa là nêu lên nghĩa để xác định cứu cánh. Đây gọi là cú thân.

Văn thân và cú thân nghĩa là sự trọn vẹn được diễn tả trong câu.

Danh thân nghĩa là một chữ hay một cái tên, mỗi chữ khác nhau, như từ chữ A cho đến chữ Ha. Văn thân nghĩa là một âm tiết dài, ngắn, cao, thấp.

Lại nữa, về cú thân người ta có được ý niệm về nó từ những dấu chân để lại trên đường của loài người và các loài vật. Danh thuộc về bốn uẩn vô sắc, các danh được tạo nên như vậy. Văn nghĩa là tự tướng của danh, do đó mà văn được hiển bày. Đây là ý nghĩa của một danh cú, văn thân. Ông nên nỗ lực tu học để hiểu rõ các từ danh cú và văn thân này.

Đức Thế Tôn lập lại bằng kệ tụng:

Danh thân và cú thân
Do mỗi chữ khác biệt
Nên phàm ngu chấp trước
Như voi lún bùn sâu.

Này Đại Tuệ! Trong tương lai có những người ngu si, suy luận sai lầm do thiếu trí thức, xa lìa pháp như thật như giống và khác, câu hữu và bất câu hữu. Hỏi những người trí thì họ trả lời rằng: “Đây không phải là điều đáng hỏi, mà điều đáng hỏi là có phải sắc và vô thường là khác hay không khác?” Ở đâu cũng vậy, Niết-bàn và các uẩn, năng tướng và sở tướng, y và sở y, tạo tác và sự tạo tác, sở kiến và năng kiến, đất đai và vi trần, trí thức và bậc Trí được xem là khác nhau hay không khác? Những câu hỏi như vậy cứ liên tục dần từ cái này đến cái kia không dứt…

Đức Thế Tôn cắt ngang và không trả lời. Những kẻ ngu si, thiếu trí tuệ không thể hiểu biết lời Phật dạy. Đức Phật muốn làm cho họ xa lìa nơi sợ hãi, nên không giải thích những điều ấy.

Này Đại Tuệ! Thế Tôn không nêu lên những điều ấy, vì muốn làm cho hàng ngoại đạo vĩnh viễn rời xa những kiến giải sai lầm của họ.

Này Đại Tuệ! Các nhà ngoại đạo chấp có đấng sáng tạo, nên tuyên bố rằng: “Mạng tức là thân, hay mạng với thân khác nhau?” Họ nêu lên những vấn đề ấy gọi là luận vô ký.

Này Đại Tuệ! Vì hàng ngoại đạo ngu si mê muội nên nói luận vô ký, chẳng phải trong giáo pháp của ta đã nói, nên xa lìa năng thủ và sở thủ, không khởi phân biệt thì làm sao có thể dừng lại được?

Này Đại Tuệ! Đối với những người chấp trước năng thủ và sở thủ, không hiểu rõ mọi hiện hữu chỉ được thấy chính tại tâm, thì điều ấy phải được dừng lại.

Này Đại Tuệ! Chư Phật Như Lai dùng bốn cách hỏi và đáp để dạy pháp cho chúng sinh.

Này Đại Tuệ! Luận Chỉ Ký, ta sẽ nói vào dịp khác, vì hiện nay căn tánh của họ chưa được thuần thục nên ta chưa nói.

Này Đại Tuệ! Vì sao tất cả pháp không sinh? Vì không có sự tạo tác cùng đối tượng tạo tác và người tạo tác. Vì sao tất cả pháp không có tự tánh? Vì khi chúng được quán sát bằng trí tự chứng thì không hề thấy những tướng chung và tướng riêng. Vì sao tất cả pháp không đến và không đi? Vì các tướng chung và tướng riêng không từ đâu đến và cũng chẳng đi về đâu. Vì sao? Vì tất cả pháp không bị tiêu diệt. Nghĩa là tướng của tất cả pháp không có tánh và chẳng thể nắm bắt. Vì sao tất cả pháp đều vô thường? Vì sự sinh khởi của các tướng có tính chất không thường hằng. Vì sao tất cả pháp là thường hằng? Vì sự sinh khởi của các tướng, tức là không sinh khởi, không có sở hữu và tất cả pháp thường hằng vì tánh của nó là vô thường. Thế nên ta gọi tất cả pháp là thường hằng.

Đức Thế Tôn lập lại bằng kệ tụng:

Xác định và hỏi ngược
Phân biệt và không đáp
Là bốn cách giải thích
Chinh phục các ngoại đạo
Số luận và Thắng luận
Gọi sinh hữu, phi hữu
Những gì họ tuyên bố
Đều không ghi nhận được
Khi dùng trí quán sát
Thể tánh chẳng nắm bắt
Do đó không thể nói
Vì vật không tự tánh.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn dạy cho con về tướng sai khác của Tu-đà-hoàn và trạng thái khác nhau của hạnh quả Tu-đà-hoàn. Từ đó, con và các chúng Bồ-tát đều được nghe ý nghĩa ấy mà thuần thục với Tu-đà-hoàn, hiểu các phương tiện, được thiện xảo cái công hạnh các quả vị Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán. Sau đó, chúng con sẽ giảng pháp cho tất cả chúng sinh, làm cho họ chứng đắc hai pháp vô ngã và diệt trừ hai chướng ngại, dần dần chúng con sẽ thông đạt các cảnh giới của Bồ-tát địa và đạt đến cảnh giới trí tuệ chẳng thể nghĩ bàn của Như Lai. Chúng con như viên ngọc ma-ni muôn màu, chiếu sáng khắp nơi, mang lại nhiều lợi ích tốt đẹp cho tất cả chúng sinh.

Đức Phật bảo:

–Thầy hãy lắng nghe cho kỹ, ta sẽ nói!

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Vâng, bạch Thế Tôn! Con xin nghe!

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Các Tu-đà-hoàn và Tu-đà-hoàn quả có ba loại khác nhau theo thứ tự thấp, vừa và cao.

Này Đại Tuệ! Những người thuộc loại thấp sẽ sinh tối đa bảy lần ở trong các cõi, những loại vừa sẽ sinh tối đa từ ba đến năm lần. Những người bậc cao sẽ đạt Niết-bàn ngay trong lần sinh này.

Này Đại Tuệ! Ba hạng người này đoạn được ba kết sử. Đó là: Thân kiến, nghi kiến và Giới cấm thủ. Cảnh giới cao tột thù thắng là tiến đến quả Ala-hán.

Này Đại Tuệ! Thân kiến có hai loại:

1. Câu sinh.

2. Phân biệt.

Như nương vào duyên khởi nên có tánh vọng chấp.

Này Đại Tuệ! Ví như tùy theo tánh duyên khởi cho nên sinh khởi những tánh chấp và vọng tưởng. Và pháp ấy chỉ là tướng phân biệt sai lầm, không phải là Hữu, không phải là Phi hữu, cũng không phải là Hữu và Phi hữu. Nó bị kẻ ngu si chấp chặt, cũng như con thú khát nước, mê lầm tưởng sóng nắng là nước. Đây là cái thấy phân biệt thuộc về ngã tánh, không có trí tuệ tương ứng khá dài. Người thấy vô ngã tức thời xa lìa.

Này Đại Tuệ! Câu sinh thân kiến khi đem cái thân thể của chúng ta để quán sát thì chúng ta thấy rằng nó gồm thọ và bốn uẩn kia không có sắc tướng. Thế nên, sắc được sinh khởi từ các đại, các đại này hỗ tương nhân với nhau, nên không có sắc nào kết tập cả. Quán sát như vậy rồi, hàng Thanh văn hiểu rõ ý niệm về hữu và vô, tức thời xả ly. Vì cái thấy về thân được xả ly, cho nên tham không sinh. Đây gọi là cái thấy về thân kiến.

Này Đại Tuệ! Tướng của nghi đối với pháp đã thể nghiệm và thông hiểu tướng, đoạn ngay sự phân biệt về hai thân kiến ở trước đối với các pháp, thì nghi không còn sinh. Đối với vị thầy nào khác, tưởng là Đại sư là tịnh hay bất tịnh, đây gọi là tướng nghi.

Này Đại Tuệ! Tại sao Tu-đà-hoàn không có giữ giới cấm? Vì họ thấy rõ tướng khổ của nơi đang sống, nên họ không chấp giữ. Chấp giữ giới cấm là gì? Những người ngu ở trong các cõi, vì tham đắm những an lạc tầm thường mà giữ giới khổ hạnh để mong cầu được sinh nơi cõi vui ấy; còn bậc Tu-đàhoàn thì không chấp tướng này. Họ chỉ hướng đến sự chứng đắc cao vời vô lậu và pháp vô phân biệt. Đây là cách tu hành giới phẩm và giới cấm thủ.

Này Đại Tuệ! Bậc Tu-đà-hoàn xả bỏ ba kết sử, cho nên từ bỏ tham, sân, si.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Đức Thế Tôn đã dạy có nhiều loại tham. Loại tham nào cần phải loại bỏ?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Hãy loại bỏ tham dục và sự ràng buộc của nữ sắc. Phải biết đó là niềm vui nhất thời trong hiện tại, nhưng đau khổ ở đời sau. Bậc Tuđà-hoàn được an lạc cao vời trong thiền định, do đó họ loại bỏ tham dục mà không gạt bỏ sự mong cầu Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Thế nào là quả vị Tư-đà-hàm? Nghĩa là không rõ hình sắc mà khởi ra phân biệt về sắc, họ sinh trở lại cuộc đời một lần nữa, rồi khéo tu thiện hạnh nên chấm dứt kiếp khổ mà chứng Niết-bàn. Đây là quả vị Tư-đà-hàm.

Này Đại Tuệ! Thế nào là quả vị A-na-hàm? Nghĩa là tuy còn thấy các đối tượng về sắc khởi ra hữu hay vô trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhưng sự phân biệt không sinh khởi những sai lầm và tùy miên, vĩnh viễn xả bỏ những kết sử, không bao giờ trở lại nữa. Đây gọi là A-na-hàm.

Này Đại Tuệ! A-la-hán là vị đã đạt được các thiền định Tam-muội, giải thoát, năng lực, thần thông. Họ vĩnh viễn đoạn tận phiền não, khổ đau và phân biệt. Đây gọi là A-la-hán.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Đức Thế Tôn dạy có ba loại A-la-hán:

1. Hướng thẳng đến Niết-bàn.

2. Thoái nguyện Bồ-đề.

3. Do Phật biến hóa.

Ở đây chỉ cho loại nào?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Từ A-la-hán nhằm chỉ cho vị hướng đến Niết-bàn, chứ chẳng phải các bậc khác. Này Đại Tuệ! Còn hai bậc kia, đó là những vị đã từng phát nguyện phương tiện thiện xảo và để trang nghiêm cho chúng hội chư Phật, nên họ thị hiện sinh ở đó.

Này Đại Tuệ! Đối với chỗ sai lầm nói ra các loại pháp, tức là vượt khỏi những tính chất như sự đắc quả các thiền định và thiền giả. Họ biết rằng những gì hiện hữu được trông thấy từ chính cái tâm.

Này Đại Tuệ! Nếu hàng Tu-đà-hoàn nghĩ rằng: “Ta cách ly các mối kết sử”, như vậy họ sẽ phạm hai lỗi. Nghĩa là họ bị rơi vào chấp ngã và không đoạn trừ được các kết sử.

Này Đại Tuệ! Những ai muốn vượt khỏi các thiền định, các vô lượng và cõi Vô sắc, thì phải lìa bỏ các hình tướng về sự thấy do tự tâm.

Này Đại Tuệ! Tam-muội tưởng thọ diệt vượt ngoài sự thấy của tâm và cảnh ấy không đúng, vì không có gì ngoài tâm mà có.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Các thiền và vô lượng
Vô sắc, bốn Ma-đề
Cho đến diệt thọ tưởng
Ngoài tâm không thể có
Quả Dự-lưu, nhất-lai
Bất-hoàn, A-la-hán
Các bậc Thánh như thế
Đều nương tâm phân biệt
Thiền và đối tượng thiền
Đoạn hoặc, thấy chân lý
Không đâu ngoài vọng tưởng
Biết rõ thì giải thoát.

Này Đại Tuệ! Có hai loại trí giác: Loại trí có chức năng quán sát và loại trí kiến lập bởi sự chấp trước vào những ý tưởng phân biệt. Trí quán sát nghĩa là quán sát tất cả pháp, lìa tứ cú thì chẳng thể nắm bắt. Tứ cú nghĩa là giống và khác, câu hữu bất câu hữu, hữu và vô, thường và vô thường. Ta đối với các pháp đều xa lìa tứ cú này. Thế nên bảo rằng: Tất cả pháp đều xa lìa.

Này Đại Tuệ! Ông nên tu học và quán sát các pháp như vậy.

Thế nào là trí kiến lập bởi sự chấp trước phân biệt chấp tưởng? Đó là những ý tưởng sinh khởi phân biệt sai lầm và chấp trước vào những tính chất của đại chủng nơi tính rắn, tính ướt, hơi ấm, tính chuyển động. Dùng tông, nhân, dụ mà kiến lập một cách sai lầm. Đây gọi là trí kiến lập bởi sự chấp trước vào những ý tưởng phân biệt. Đó là hai tướng trí giác. Đại Bồ-tát nào nhận biết trí tướng này, tức là thông đạt nhân và pháp là vô ngã. Sự hiểu biết về trí vô tướng trở nên thuần thục với cấp độ quán sát khéo léo sẽ nhập Sơ địa Bồ-tát và được một trăm Tam-muội. Nhờ sức Tam-muội cao vời, các vị sẽ thấy một trăm Đức Phật và một trăm vị Bồtát, biết sự việc của một trăm kiếp trước và sau. Hào quang chiếu sáng một trăm thế giới Phật. Các vị sẽ khéo biết rõ các tướng trạng thuộc cảnh giới cao hơn. Do nguyện lực cao cả, các vị biến hiện tự tại đến cảnh giới Pháp vân địa, được nhận pháp quán đảnh, vào nơi Phật địa, được mười nguyện vô tận. Để giáo hóa chúng sinh thành tựu, các vị ứng hiện bằng nhiều cách mà không ngưng nghỉ, thường an trú trong an lạc cao vời nơi cảnh giới Tam-muội tự giác.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát phải khéo nhận biết về các sắc do bốn đại chủng tạo ra. Nhận biết như thế nào? Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát nên biết rằng: các đại chủng đó là chân thật bất sinh, ba cõi không có gì ngoài sự phân biệt và được hiện hữu tại tâm, còn những đối tượng bên ngoài không là hiện thực. Khi quán sát như thế thì những sắc do đại chủng tạo ra đều có tính chất vượt ra ngoài tứ cú, vô ngã và những gì thuộc về ngã. An trú nơi chân thật, được hình thành bằng trạng thái vô sinh.

Này Đại Tuệ! Các sắc do đại chủng tạo ra là gì? Đó là sự phân biệt sai lầm đại chủng ẩm ướt thành thủy giới bên trong và bên ngoài. Đại chủng hơi nóng mạng sinh ra lĩnh vực lửa bên trong và bên ngoài. Đại chủng phiêu động mạnh sinh ra lĩnh vực gió bên trong và bên ngoài. Đại chủng phân đoạn sắc sinh ra lĩnh vực đất bên trong và bên ngoài. Xa lìa hư không do vì kiến chấp vào những sự thật không đúng mà có sự tích tụ của năm uẩn, làm cho sắc do các đại chủng sinh khởi.

Này Đại Tuệ! Thức do chấp trước và những cảnh giới nhân loại ngôn thuyết làm nhân sinh khởi, cho nên liên tục thọ sinh ở trong các nẻo khác.

Này Đại Tuệ! Sắc do địa chủng… tạo ra có nhân của đại chủng, chẳng phải bốn đại chủng là nhân của đại chủng. Vì sao? Vì nếu có pháp là có hình tướng. Đó là sự tạo tác, chứ không phải không có các hình tướng.

Này Đại Tuệ! Tướng của sắc do các đại chủng tạo ra là những phân biệt của hàng ngoại đạo, chứ không phải học thuyết của ta.

Này Đại Tuệ! Ta sẽ giảng về thể tướng của năm uẩn. Đó là sắc, thọ, tưởng, hành và thức.

Này Đại Tuệ! Sắc là những gì được tạo thành từ bốn đại và chúng đều có tướng khác nhau. Thọ… chẳng phải là sắc.

Này Đại Tuệ! Sắc chẳng phải là các uẩn, chúng như hư không, không có tính là bốn được.

Này Đại Tuệ! Ví như hư không vượt ra ngoài tướng đi đến, nhưng vì sự phân biệt mà hư không được gọi như vậy. Chẳng phải riêng sắc mà các uẩn cũng lại như vậy. Chúng vượt ra khỏi sự tính toán vì không có tướng trạng, vượt ra ngoài hữu và vô, vượt ra ngoài tứ cú. Đối với người ngu thì có sự đi đến, còn người trí thì không. Người trí chỉ nói sự cấu trúc của năm uẩn như huyễn, chỉ là giả thiết, không có khác và không khác, chúng giống như giấc mộng, như ảnh tượng, không có bản chất nào khác hơn. Vì chúng làm trở ngại cảnh giới của Thánh trí, cho nên thấy có sự phân biệt các uẩn nơi hiện tại. Đây gọi là tướng tự tánh của các uẩn.

Này Đại Tuệ! Ông nên loại bỏ sự phân biệt này. Và khi đã loại bỏ rồi, thầy hãy nói về pháp tịch tĩnh. Đoạn trừ những kiến giải của hàng ngoại đạo, do đó giáo lý vô ngã của các pháp được thanh tịnh. Ông sẽ nhập Viễn hành địa (Địa thứ bảy), thành tựu vô lượng Tam-muội tự tại, đạt ý sinh thân. Ông sẽ thể chứng Tam-muội như huyễn, đầy đủ thần thông tự tại, là nơi nương tựa của khắp quần sinh, giống như mặt đất vậy.

Này Đại Tuệ! Có bốn loại Niết-bàn. Bốn loại ấy là gì?:

1. Niết-bàn đạt được khi tự tánh của các pháp là vô tánh.

2. Niết-bàn đạt được khi những tự tướng của tất cả các pháp là vô tánh.

3. Niết-bàn đạt được khi có sự nhận biết về tánh tự tướng là vô tánh.

4. Niết-bàn đạt được khi đoạn tận được các uẩn và tánh liên tục của tướng chung, tướng riêng.

Này Đại Tuệ! Bốn loại Niết-bàn này là nghĩa của ngoại đạo, chứ không phải giáo pháp của ta.

Này Đại Tuệ! Theo giáo pháp của ta thì diệt sự phân biệt của thức và đối tượng gọi là Niết-bàn.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Có phải Đức Thế Tôn đã không kiến lập tám thức đó sao?

Đức Thế Tôn đáp:

–Ta có kiến lập.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Nếu có kiến lập thì tại sao Thế Tôn chỉ nói diệt tận ý thức, mà không diệt tận bảy thức kia?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Lấy ý thức làm nhân và làm chỗ y cứ, thì bảy thức được sinh khởi.

Này Đại Tuệ! Khi ý thức phân biệt cảnh giới thì khởi ra chấp trước, sinh ra các tập khí và nuôi dưỡng thức A-lại-da. Do đó, ý niệm về cái ngã và những tùy thuộc của ngã mà nó chấp chặt về suy tưởng ý niệm ấy. Nó không có thể tướng riêng biệt, thức A-lại-da làm nhân làm chỗ y cứ của nó. Vì cảnh giới hiện hữu tại tâm và được chấp trước như thế, nên tâm tích tụ sinh khởi, chuyển biến làm nhân lẫn nhau.

Này Đại Tuệ! Ví như sóng biển, cảnh giới hiện hữu tại tâm, bị cơn gió đối tượng thổi vào mà có sinh và diệt. Vì thế, khi ý thức diệt thì bảy thức cũng bị diệt.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Ta không dùng tự tánh
Cho đến tướng tạo tác
Cảnh thức phân biệt dứt
Như thế nói Niết-bàn
Mạt-na làm nhân tâm
Tâm là cảnh giới ý
Làm nhân, chỗ nương tựa
Các ý thức chỉ sinh
Như dòng nước lớn chảy
Không bị sóng khuấy động
Như vậy ý thức diệt
Tất cả thức không sinh.

Này Đại Tuệ! Ta sẽ nói cho ông biết về tướng khác nhau của tự tánh vọng tưởng, làm cho ông và các Bồ-tát khéo hiểu nghĩa này, để vượt qua các vọng tưởng, chứng cảnh Thánh trí, cũng như biết pháp của ngoại đạo, các vị sẽ xa lìa các phân biệt như năng thủ và sở thủ. Ở trong các tướng Y tha khởi không sinh các tướng về sự chấp trước của vọng tưởng.

Này Đại Tuệ! Thế nào là tướng khác nhau của tự tánh vọng tưởng? Đó là nói về những phân biệt:

1. Ngôn từ.

2. Ý nghĩa.

3. Các đặc tướng.

4. Tài sản.

5. Tự tánh.

6. Nguyên nhân.

7. Kiến giải.

8. Lý luận.

9. Sinh.

10. Bất sinh.

11. Tùy thuộc.

12. Ràng buộc và giải thoát.

Này Đại Tuệ! Đây là tướng khác nhau của tự tánh vọng tưởng. Sự phân biệt về ngôn từ là gì? Đó là chấp vào những từ hoa mỹ, những giọng điệu ngọt ngào. Đây là sự phân biệt về mặt ngôn từ.

Sự phân biệt về ý nghĩa là gì? Nghĩa là chấp có về sự việc đã nói. Đó là các ngôn từ sinh khởi tùy thuộc vào sự diễn đạt mà người ta xem là sự chứng đạt của Thánh trí. Đây gọi là phân biệt về ý nghĩa.

Sự phân biệt về các đặc tướng là gì? Nghĩa là tưởng tượng những gì được ngôn từ diễn tả thành ra nhiều đặc tướng, như tưởng tượng của con thú bị khát, rồi chấp vào đó mà phân biệt có tính rắn chắc, tính lỏng, tính ấm, tính động… Đây gọi là sự phân biệt về các đặc tướng.

Sự phân biệt về tài sản là gì? Nghĩa là muốn cố giữ những vàng, bạc và nhiều loại ngọc quý mà khởi ra ngôn thuyết. Đây gọi là sự phân biệt về tài sản.

Sự phân biệt về tự tánh là gì? Nghĩa là phân biệt theo những kiến giải sai lầm về tự tánh của các pháp và quyết định rằng không còn cách nào khác. Đây gọi là sự phân biệt về tự tánh.

Sự phân biệt về nguyên nhân là gì? Nghĩa là phân biệt nơi nhân duyên về hữu và vô và tưởng rằng có tướng nguyên nhân này sinh khởi. Đây gọi là sự phân biệt về nguyên nhân.

Sự phân biệt về kiến giải là gì? Nghĩa là những kiến giải sai lầm của ngoại đạo, chấp chặt về ý niệm hữu, vô, đồng, dị, câu hữu, bất câu hữu… Đây gọi là phân biệt về kiến giải.

Sự phân biệt về lý luận là gì? Nghĩa là chấp vào ý niệm ngã hữu và những gì thuộc về ngã hữu mà khởi ra ngôn thuyết. Đây gọi là phân biệt về lý luận.

Sự phân biệt về sinh là gì? Nghĩa là bị ràng buộc vào các ý niệm về các pháp được sinh ra hay mất đi tùy theo nhân duyên. Đây gọi là sự phân biệt về sinh.

Sự phân biệt về bất sinh là gì? Nghĩa là chấp rằng tất cả các pháp từ xưa đến nay là vô sinh, các duyên vốn không có mà trước hết có bản thể, chứ không có từ nhân duyên sinh khởi. Đây gọi là sự phân biệt về bất sinh.

Sự phân biệt về sự tùy thuộc là gì? Nghĩa là sự tùy thuộc hỗ tương cái này với cái kia, như kim và sợi chỉ. Đây gọi là sự phân biệt về sự tùy thuộc.

Sự phân biệt về trói buộc và giải thoát là gì? Nghĩa là chấp vào nguyên nhân bị trói buộc bởi có cái gì đó bị trói buộc. Như một người lấy sợi dây và dùng sức phương tiện cột một cái gút hay tháo nó ra. Đây gọi là sự phân biệt về trói buộc và giải thoát.

Này Đại Tuệ! Đây là tướng sai khác của tánh chấp trước sai lầm mà những kẻ phàm ngu chấp vào đó hoặc có hoặc không.

Này Đại Tuệ! Những ai bị ràng buộc trong lý duyên khởi thì bị ràng buộc vào những tự tánh vọng tưởng, cũng như thấy nhiều đối tượng tùy thuộc vào Như huyễn. Nhưng chính những vật như vậy lại bị người ngu phân biệt thành ra khác hơn là Như huyễn.

Này Đại Tuệ! Như huyễn cùng những vật khác không phải khác, cũng không phải một. Nếu chúng là khác thì những vật đó không có nguyên nhân là Như huyễn. Nếu chúng là một thì Như huyễn là cái đối vật không sai biệt, nhưng vì cái thấy sai biệt cho nên chẳng phải khác, cũng chẳng phải không khác.

Này Đại Tuệ! Ông và các Đại Bồ-tát không nên mê chấp vào ý niệm Như huyễn về hữu và vô.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Tâm bị cảnh trói buộc
Giác tưởng trí chuyển theo
Nơi cao vời vô tướng
Sinh trí tuệ bình đẳng
Theo vọng chấp là có
Đối duyên khởi thì không
Mê muội chấp sai lầm
Duyên khởi lìa phân biệt
Bao nhiêu chi phần sinh
Như huyễn không thật có
Tuy hiện nhiều loại tướng
Vọng phân biệt thì không
Tướng kia là sai lầm
Từ tâm ràng buộc sinh
Người vọng chấp không hiểu
Phân biệt pháp duyên khởi
Có vô số vọng chấp
Phân biệt trong duyên khởi
Tục đế, Đệ nhất nghĩa
Thứ ba không nhân sinh
Vọng chấp thuộc tục đế
Đoạn tức cảnh giới Thánh
Như người tu quán hạnh
Từ một, hiện vô số
Thật không có gì cả
Vọng tưởng thấy như vậy
Mắt bệnh thấy nhiều vật
Vọng tưởng thấy nhiều màu
Không sắc, không vô sắc
Không rõ duyên khởi vậy
Như vàng không bụi cáu
Như nước không đục dơ
Như bầu trời không mây
Sạch vọng tưởng cũng vậy
Không có tánh chấp sai
Nếu có, do duyên khởi
Kiến lập và phỉ báng
Phân biệt đều đoạn diệt
Nếu không tánh vọng chấp
Mà duyên khởi hiện hữu
Pháp không nhưng pháp có
Pháp có từ không sinh
Do vọng chấp vào nhân
Mà duyên khởi hiện hữu
Danh tướng thường nối kết
Và vọng tưởng sinh khởi
Do duyên khởi nương vọng
Không bao giờ toàn hảo
Khi tự ngã thanh tịnh
Gọi là Đệ nhất nghĩa
Vọng tưởng có mười hai
Và sáu loại duyên khởi
Tự chứng cảnh chân như
Nó không có sai biệt
Năm pháp là chân thật
Ba tự tánh cũng vậy
Người tu hành hiểu vậy
Thì không vượt chân như
Y nơi tướng duyên khởi
Những danh xưng vọng tưởng
Tưởng các vọng tưởng kia
Đều có nhân duyên khởi
Trí tuệ khéo quán sát
Không duyên không vọng tưởng
Trong chân thật không vật
Làm sao sinh phân biệt
Ở đâu có viên thành
Thì không còn hữu vô
Đã xa lìa hữu vô
Làm sao có hai tánh
Vọng tưởng có hai tánh
Hai tánh được thiết lập
Các kiến giải phân biệt
Trí giả đạt thanh tịnh
Vọng tưởng nhiều loại tướng
Phân biệt trong duyên khởi
Nếu phân biệt khác đi
Tức rơi luận ngoại đạo
Những gì thấy từ vọng
Tiếp tục là hư vọng
Ai rời hai chấp này
Đó là pháp chân thật.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn dạy cho con hành tướng của tự chứng Thánh trí và hành tướng Nhất thừa. Nhờ đó mà con và các Bồ-tát được thông thạo hai pháp này, có thể ở trong giáo pháp Phật được chứng ngộ, mà không phải tùy thuộc vào ai khác.

Đức Phật nói:

–Hãy lắng nghe! Ta sẽ nói cho thầy.

Bồ-tát Đại Tuệ thưa:

–Vâng, bạch Thế Tôn!

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Bồ-tát y theo các Thánh giáo không có sự phân biệt thì hãy độc cư nơi thanh vắng, quán sát chính mình, không dựa vào một ai khác để chứng ngộ, gạt bỏ những kiến giải phân biệt, tinh tấn nỗ lực dũng tiến để nhập vào Như Lai địa. Người tu hành như vậy gọi là hành tướng của Tự chứng Thánh trí.

Thế nào gọi là hành tướng của Nhất thừa? Đó là nhận biết và thể nghiệm con đường Nhất thừa. Con đường của Nhất thừa được phân biệt như thế nào? Sự nhận biết về Nhất thừa đạt được khi không có phân biệt và gạt bỏ ý niệm năng chấp và sở chấp, trú trong như thật.

Này Đại Tuệ! Con đường Nhất thừa này, ngoại trừ Đức Như Lai ra thì không có một ngoại đạo Nhị thừa, Phạm thiên vương,… hay một ai khác có thể đạt được.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao nói có ba thừa mà không nói có Nhất thừa?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Không có giáo pháp nào mà nhờ đó Thanh văn, Duyên giác có thể tự chứng Niết-bàn nên ta không nói Nhất thừa. Vì họ chỉ dựa vào lời dạy của Như Lai giáo hóa cho xa lìa như vậy tu hành để đạt được giải thoát, chứ họ không tự chứng đắc. Vả lại, các Thanh văn, Duyên giác này chưa trừ diệt được chướng ngại của trí thức và tập khí của nghiệp, chưa chứng ngộ cái vô ngã của các pháp và chưa hiểu được sự biến dịch sinh tử khó nghĩ bàn. Thế nên ta chỉ giảng dạy cho họ pháp ba thừa. Nếu họ đoạn trừ được tất cả tập khí lỗi lầm, hiểu được sự vô ngã của các pháp, khi ấy họ sẽ thoát khỏi sự đắm say nơi Tam-muội và giác ngộ cảnh giới vô lậu, vượt ra ngoài thế giới siêu việt và ở trong cảnh giới vô lậu tu các công đức. Họ sẽ thu nhận đầy đủ tất cả mọi thứ và đạt được Pháp thân tự tại chẳng thể nghĩ bàn.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Thiên thừa và Phạm thừa
Thanh văn, Duyên giác thừa
Chư Phật Như Lai thừa
Ta nói các thừa ấy
Bao giờ có tâm khởi
Các thừa chưa cứu cánh
Tâm kia có đột biến
Không thừa, không ai nhập
Không kiến lập các thừa
Ta nói là Nhất thừa
Để giáo hóa kẻ ngu
Nói các thừa khác nhau
Có ba loại giải thoát
Vượt qua các phiền não
Cho đến pháp vô ngã
Trí bình đẳng giải thoát
Ví như gỗ trong biển
Nổi trôi theo làn sóng
Tâm Thanh văn cũng vậy
Bị gió tướng lay chuyển
Thoát khổ còn phiền não
Còn tập khí ràng buộc
Đắm say rượu Tam-muội
Trú nơi cõi vô lậu
Nẻo cứu cánh không đạt
Cũng không bị thoái chuyển
Đạt được thân Tam-muội
Kiếp ba không giác ngộ
Ví như người say rượu
Tỉnh táo sau cơn say
Thanh văn cũng như vậy
Tỉnh giác sẽ thành Phật.

QUYỂN 4

Phẩm 3: VÔ THƯỜNG (Phần 1)

Lúc bấy giờ Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Ta sẽ nói cho ông nghe về tướng sai biệt của Ý thành thân, ông hãy nghe và suy nghĩ cho kỹ.

Bồ-tát Đại Tuệ xin vâng lời.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Có ba loại Ý thành thân. Đó là:

1. Ý thành thân đạt được trong niềm vui nhập Tam-muội.

2. Ý thành thân đạt được trong sự nhận biết tự tánh của pháp.

3. Ý thành thân của hành động vô tác thuộc chủng loại câu sinh.

Những bậc tu hành nhập Sơ địa rồi, dần dần chứng đắc các thân ấy.

Này Đại Tuệ! Thế nào là Ý thành thân đạt được trong niềm vui nhập Tam-muội? Đó là trong các Địa thứ ba, thứ tư, thứ năm, các bậc tu hành nhập Tam-muội từ bỏ các thứ tâm và được yên tĩnh, bất động. Những làn sóng thức không còn khuấy động trong biển tâm. Vị ấy nhận biết những gì hiện hữu của thế giới bên ngoài do tâm hiện đều không có sở hữu. Đây gọi là Ý thành thân đạt được trong niềm vui nhập Tam-muội.

Thế nào là Ý thành thân đạt được trong sự nhận biết tự tánh của pháp? Khi bậc tu hành ở Địa thứ tám hiểu rõ vạn pháp giống như huyễn, hoàn toàn không thật tướng. Vị ấy thể nghiệm sự chuyển đổi nơi tâm thức và an trú thiền định như huyễn cùng các Tam-muội khác, có thể hiện vô lượng thần thông tự tại. Tùy theo ý nguyện, vị ấy chuyển động nhanh như đóa hoa tung cánh nở tròn, giống như huyễn hóa, như giấc mộng, như ảo ảnh, như hình tượng. Cái thân không phải được cấu tạo bằng bốn đại, nhưng được cấu tạo như tương tự, được trang nghiêm đầy đủ tất cả sắc tướng, thể nhập khắp trong cõi Phật và thông suốt tự tánh của các pháp. Đây gọi là Ý thành thân đạt được trong sự nhận biết tự tánh của pháp.

Thế nào là Ý thành thân của hành động vô tác thuộc chủng loại câu sinh? Nghĩa là thông đạt pháp tướng của chư Phật tự chứng, gọi là Ý thành thân hành động vô tác thuộc chủng loại câu sinh.

Này Đại Tuệ! Ông hãy nỗ lực quán sát thông suốt về ba tướng trạng của Ý thành thân.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Đại thừa ta, không thừa
Không âm thanh, ngôn ngữ
Không chân lý, giải thoát
Không cảnh giới, vô tướng
Đại thừa là một thừa
Tam-ma-đề tự tại
Mỗi mỗi Ý thành thân
Trang nghiêm hoa tự tại.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn có dạy về năm tội vô gián, vậy năm tội ấy là gì mà những ai phạm phải đều bị rơi vào địa ngục A-tỳ?

Đức Phật bảo:

–Ông hãy lắng nghe cho kỹ! Ta sẽ nói cho thầy rõ.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Vâng, bạch Thế Tôn!

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Năm tội vô gián đó là:

1. Giết cha.

2. Giết mẹ.

3. Giết A-la-hán.

4. Phá hòa hợp Tăng.

5. Ôm lòng ác nghịch, làm thân Phật chảy máu. Này Đại Tuệ! Thế nào là mẹ của tất cả chúng sinh? Nghĩa là do tham dẫn sinh câu hữu với hỷ và tham, như sự nuôi dưỡng của mẹ.

Thế nào là cha? Đó là vô minh làm cho sinh vào lòng của sáu xứ. Khi đoạn diệt hai căn gốc này thì gọi là giết mẹ và cha.

Thế nào là giết A-la-hán? Nghĩa là tùy miên kẻ oán thù như con chuột độc... Cuối cùng được đoạn diệt. Thế nên gọi là giết A-la-hán.

Thế nào là phá hòa hợp Tăng? Sự tập hợp của các uẩn và các đặc tướng của nó vốn là sự tùy thuộc hỗ tương giữa sự khác biệt, đoạn diệt được hoàn toàn tất cả. Đây gọi là phá hòa hợp Tăng.

Thế nào là ôm lòng ác nghịch làm thân Phật chảy máu? Thân thể gồm tám thức nhận biết một cách sai lầm rằng: tướng chung và tướng riêng là ở ngoài tâm. Do tâm sai lầm bởi ba giải thoát và vô lậu nên hoàn toàn bị diệt từ tám thức kia và thân Phật. Đây gọi là ôm lòng ác nghịch làm thân Phật chảy máu.

Này Đại Tuệ! Đây là năm tội vô gián tự nội. Nếu có người nào thể nghiệm năm tội vô gián này là chứng đắc pháp chân thật.

Này Đại Tuệ! Có năm tội ngoại vô gián, ta sẽ nói để ông và các Bồ-tát khác khi nghe ý nghĩa này rồi, đến đời tương lai không sinh nghi hoặc. Năm tội ngoại vô gián là gì? Đó là các tội vô gián được ghi trong các kinh điển. Người nào mắc phải tội này thì không thể chứng đắc một biểu hiện nào đối với ba giải thoát, trừ khi Đức Như Lai hay các Đại Bồ-tát và đại Thanh văn thấy những ai tạo nghiệp vô gián, các vị ấy muốn khuyên giúp những người này để làm cho họ sửa đổi lỗi lầm, nên vận thần thông thể hiện cùng làm việc với họ, tức thời họ hối lỗi, từ bỏ ác hạnh, được giải thoát. Đây là cách ta thể hiện biến hóa, chứ chẳng phải là sự tạo tác thật có. Nếu người nào thật sự tạo tác vô gián, thì không bao giờ thân hiện tại được giải thoát, ngoại trừ họ nhận biết được những gì hiện hữu hay tồn tại nơi cuộc đời không gì khác ngoài chính tự tâm. Họ vượt ra ngoài sự cố chấp phân biệt về tự ngã và những thứ thuộc về tự ngã. Hoặc vào đời tương lai, họ thọ sinh nơi khác, được gặp Thiện tri thức, thoát khỏi những sai lầm về phân biệt, mới chứng đắc giải thoát.

Đức Thế Tôn liền nói kệ:

Tham ái gọi là mẹ
Vô minh, gọi là cha
Thức nhận biết thế giới
Đây được gọi là Phật
Kết sử A-la-hán
Uẩn tụ hòa hợp Tăng
Các thứ này đoạn diệt
Gọi là nghiệp vô gián.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn dạy cho con biết về thể tánh của chư Phật.

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Khi sự vô ngã về nhân và pháp được hiểu, trừ hai chướng ngại, lìa hai loại chết, hai nhóm phiền não được đoạn diệt, thì đó là thể tánh của Phật.

Này Đại Tuệ! Hàng Thanh văn và Duyên giác được hai pháp này cũng gọi là Phật. Ta dùng nghĩa này chỉ để nói một thừa.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Biết rõ hai vô ngã
Trừ hai chướng, hai não
Và tử chẳng thể nghĩ bàn
Thế nên gọi Như Lai.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Theo ý sâu xa nào mà Như Lai tuyên bố trước đại chúng rằng: “Ta là tất cả chư Phật trong quá khứ” và nói: “Ta đã trải qua trăm ngàn kiếp sinh ra trong nhiều hình tướng khác nhau. Có lúc là Chuyển luân thánh vương, voi, chim Oanh vũ, Nguyệt Quang, Diệu Nhãn… Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Dựa vào bốn loại bình đẳng sâu xa, Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác ở giữa đại chúng nói thế này: “Ta là Phật Câu-lưu-tôn, Phật

Câu-na-hàm Mâu-ni, Phật Ca-diếp.”

Bốn loại bình đẳng sâu xa ấy là gì? Đó là:

1. Bình đẳng về chữ.

2. Bình đẳng về ngôn từ.

3. Bình đẳng về giáo pháp.

4. Bình đẳng về thân.

Thế nào là bình đẳng về chữ? Nghĩa là tên của ta là Phật, cũng dùng chữ Phật này để gọi cho tất cả các Đức Như Lai. Chữ Phật này không bị phân biệt sai khác nhau, mà nó hoàn toàn bình đẳng.

Thế nào là bình đẳng về ngôn từ? Đó là sáu mươi bốn âm của ngôn ngữ Phạm thiên được ta phân biệt. Tất cả các Đức Như Lai cũng sử dụng những ngôn từ này và bản chất âm thanh giống như chim Ca-lăng-tần-già không hơn không kém, không có sự khác nhau. Đây gọi là sự bình đẳng về ngôn từ.

Thế nào là bình đẳng về thân? Ta và các Đức Phật đều như nhau về Pháp thân và sắc tướng, với ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, không có sự khác biệt. Ngoại trừ các Đức Như Lai vì sự giáo hóa chúng sinh nên phải hiện ra các loại thân, tùy theo hoàn cảnh của chúng.

Thế nào là bình đẳng về giáo pháp? Ta cùng các Đức Phật đều chứng đắc các giáo pháp thuộc ba mươi bảy phẩm trợ đạo Bồ-đề, Bốn pháp bình đẳng này, Đức Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác đã tuyên bố trong đại chúng như vậy.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Ca-diếp, Câu-lưu-tôn
Câu-na-hàm là ta
Dựa theo bốn bình đẳng
Dạy các đệ tử Phật.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Thế Tôn đã dạy rằng: “Từ đêm chứng ngộ cho đến đêm nhập Niết-bàn, trong suốt thời gian ấy, ta không nói lên một từ nào, cũng không bao giờ nói hay sẽ nói. Không nói là lời nói của Phật.” Bạch Thế Tôn! Theo ý nghĩa sâu xa nào mà Thế Tôn bảo như vậy?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Theo hai điều trong ý nghĩa sâu xa mà ta nêu lên lời này. Hai điều ấy là gì? Đó là pháp tự chứng và pháp thường trụ.

Thế nào là pháp tự chứng? Điều gì mà các Đức Như Lai thể chứng, thì đó là điều mà chính ta cũng chứng, không tăng không giảm. Vì cảnh giới của trí tự chứng vượt khỏi tướng ngôn thuyết và phân biệt, vượt khỏi cả tướng danh tự.

Thế nào là pháp thường trụ? Nghĩa là bản chất của sự vật như vàng, bạc… vẫn ở tại mỏ. Dù cho Phật có xuất hiện trên đời này hay không thì pháp thường trụ, nên pháp tánh thường trụ, pháp tánh của pháp giới đều thường trụ.

Này Đại Tuệ! Ví như có người đi trong đồng trống mênh mông và gặp một thành cổ với những con đường bằng phẳng, trật tự. Người ấy liền đi vào thành này nghỉ ngơi, hưởng những thú vui thoải mái.

Này Đại Tuệ! Ông nghĩ thế nào? Người ấy có làm ra con đường để vào thành và có làm ra bao nhiêu thứ khác trong thành ấy chăng?

–Thưa không, bạch Thế Tôn!

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Chân như mà chính ta và các Đức Phật đã chứng ngộ là pháp tánh thường trụ cũng lại như vậy. Thế nên, ta nói rằng: “Từ khi Như Lai mới thành Phật cho đến lúc nhập Niếtbàn, trong thời gian ấy, Như Lai không nói một chữ và sẽ không tuyên nói, cũng sẽ không tuyên nói một từ nào.”

Đức Thế Tôn nói kệ:

Đêm ta thành Chánh giác
Đến đêm nhập Niết-bàn
Trong khoảng thời gian ấy
Ta đều không nói gì.
Pháp thường trụ tự chứng
Gọi là lời sâu xa
Ta và các Như Lai
Không khác nhau tí nào.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn dạy cho con biết về sự hữu tướng hay vô tướng của tất cả các pháp. Làm cho con cùng các Đại Bồ-tát khác thoát khỏi những tướng này và chóng thành tựu Tuệ giác vô thượng.

Đức Phật bảo:

–Hãy lắng nghe cho kỹ! Ta sẽ nói cho ông.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Thưa vâng, bạch Thế Tôn!

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Chúng sinh nơi thế gian này phần nhiều bị rơi vào hai kiến giải, đó là ý niệm về hữu và phi hữu. Bị rơi vào hai kiến giải này, cho nên họ tưởng tượng ra sự giải thoát ở chỗ không giải thoát.

Thế nào là sự thấy về hữu? Đó là họ cho rằng: Nhân duyên thật sự hiện hữu mà sinh ra các pháp, chớ chẳng phải nhân duyên vốn phi hiện hữu. Do đó, họ nói đến các pháp thật sự hiện hữu từ nhân duyên sinh ra, nên cái gì phi hiện hữu thì họ cho là chẳng phải sinh ra từ pháp.

Này Đại Tuệ! Nói như vậy tức là nói về nhân duyên không thật có.

Thế nào là sự thấy về phi hữu? Đó là biết chấp nhận tham, sân, si mà vọng chấp về tánh phi thực của nó.

Này Đại Tuệ! Có người phân biệt tướng hữu, nhưng không chấp nhận tướng hữu của các pháp. Lại có người biết chư Như Lai, Thanh văn, Duyên giác không có tánh tham, sân, si, mà chấp rằng tham, sân, si không hiện hữu. Trong hai người này, ai là người đáng gọi là bị hủy hoại?

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Người phá hoại là người có tánh tham, sân, si, rồi lại không chịu chấp nhận tham, sân, si.

Đức Phật nói:

–Lành thay! Ông đã hiểu lời ta hỏi. Không phải chỉ có người này là kẻ bị hủy hoại do quan niệm tham, sân, si là hiện hữu, rồi lại cho rằng không hiện hữu, mà người này còn phá hoại cả đặc tính của Như Lai, Thanh văn, Duyên giác. Vì sao? Vì các phiền não không thật có, dầu bên trong hay bên ngoài thể tánh không khác nhau, cũng không phải không khác nhau.

Này Đại Tuệ! Tánh tham, sân, si cũng không thật có, dầu bên trong hay bên ngoài. Chúng không có thể tánh và không thể nắm bắt được. Đức Phật, Thanh văn, Duyên giác, tự bản chất là giải thoát, không bị ràng buộc và nguyên nhân gây nên sự ràng buộc.

Này Đại Tuệ! Ở đâu bị ràng buộc thì ở đó có sự ràng buộc và nguyên nhân gây nên sự ràng buộc. Ai nói như vậy, gọi đó là người phá hoại. Đây là tướng hữu và vô. Ta khẳng định theo ý nghĩa sâu xa này mà nói: Thà khởi chấp ngã như núi Tu-di, còn hơn là khởi chấp không, trống rỗng. Kẻ ôm lòng tăng thượng mạn khởi nên quan điểm này thì gọi là kẻ bị hủy hoại, bị rơi vào quan điểm chung và riêng. Họ ưa thích trong quan điểm đó, mà không hiểu rằng các pháp do tâm hiện ra. Vì không hiểu điều này cho nên thấy các pháp bên ngoài vô thường, biến đổi trong từng sát-na, làm khác tướng uẩn, xứ, giới. Chúng cư lưu chuyển liên tục, sinh khởi hoàn diệt. Những ai theo sự phân biệt sai lầm, rời khỏi tướng văn tự cũng thành kẻ hủy hoại.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Hữu, vô là nhị biên
Cho đến tâm sở hành
Cảnh giới này tịnh trừ
Tâm bình đẳng vắng lặng.
Không chấp giữ cảnh giới
Không diệt, không thật có
Chân như và diệu vật
Như cảnh giới bậc Thánh.
Hiện hữu vốn không sinh
Sinh rồi lại mất đi
Nhân duyên hữu, phi hữu
Ai không trụ pháp ta.
Không ngoại đạo hay Phật
Không ta hay kẻ khác
Do duyên mà có hữu
Làm sao phi hữu được.
Ai do duyên thành hữu
Lại được gọi phi hữu
Tà kiến gọi là sinh
Vọng tưởng chấp hữu vô.
Nếu biết không sự sinh
Cũng không có gì diệt
Xem thế giới tịch tĩnh
Hữu vô đều xa lìa.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ lại thỉnh hỏi Phật:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn dạy cho con về tướng của sự thể chứng, làm cho con và các Bồ-tát khác thông đạt ý nghĩa này, không bị trôi theo tất cả kiến giải sai lầm, chóng đạt Tuệ giác vô thượng.

Đức Phật bảo:

–Hãy lắng nghe, Ta sẽ nói cho thầy rõ.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Vâng, bạch Thế Tôn!

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác có hai cách về sự thể chứng. Hai cách đó là gì?

1. Pháp tướng tông thú.

2. Pháp tướng ngôn thuyết.

Pháp tướng tông thú nghĩa là cảnh giới cao vời của sự chứng đạt tự nội, không liên hệ gì đến văn tự, ngôn ngữ, phân biệt, dẫn vào cảnh giới vô lậu, thành tựu kinh nghiệm tự nội. Hoàn toàn vượt qua tất cả những suy tư hiểu biết bất chánh, chinh phục hàng tà ma ngoại đạo, phát sinh ánh sáng trí tuệ.

Đây gọi là những đặc tính của sự thể chứng.

Pháp tướng ngôn thuyết nghĩa là những giáo pháp được nêu trong chín bộ giáo điển, làm cho xa lìa những ý niệm nhị biên về hữu và vô, về giống nhau và khác nhau; dùng những phương tiện khéo léo tùy theo tâm của chúng sinh làm cho họ thâm nhập giáo pháp này. Đây gọi là pháp tướng ngôn thuyết.

Thầy và các Bồ-tát hãy nỗ lực tu học.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Tông thú và ngôn thuyết
Tự chứng và giáo pháp
Những ai khéo thông hiểu
Không theo lầm kiến giải.
Sự phân biệt kẻ ngu
Không là tướng chân thật
Sao không cầu vượt qua
Không pháp có thể đạt.
Quán sát các hữu vi
Những sinh diệt tương tục
Tăng trưởng nơi nhị biên
Đảo điên không nhận thức.
Niết-bàn lìa tâm ý
Chỉ pháp này chân thật
Nhìn đời đều hư vọng
Như mộng huyễn, cây chuối.
Không có tham, sân, si
Cũng không có ngã, nhân
Từ ái sinh các uẩn
Hãy nhìn như giấc mộng.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn nói cho con nghe, thế nào là tướng phân biệt sai lầm. Vì sao sự phân biệt sai lầm này khởi lên? Nguyên nhân nào sinh ra sự phân biệt này và tại sao nó sinh khởi? Ai sinh ra nó? Vì sao gọi là phân biệt sai lầm?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Hay lắm, hay lắm! Vì thương tưởng chư Thiên và loài người, thầy mới hỏi ý nghĩa này, vì sự lợi ích cho nhiều người, vì sự an lạc cho nhiều người. Ông hãy lắng nghe, suy nghĩ kỹ những điều ta nói.

Bồ-tát Đại Tuệ xin vâng.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Đối với những sự kiện phức tạp, các chúng sinh nhìn nhận một cách sai lầm và bị ràng buộc chính tự nơi tâm. Họ chấp chặt và bị ràng buộc vào sự chấp giữ mà khởi ra những sự phân biệt, nên bị rơi vào kiến giải nhị biên về hữu và vô. Họ bị nuôi dưỡng bởi tập khí của kiến giải sai lầm của hàng ngoại đạo. Khi tâm và những tướng thuộc về tâm cùng sinh khởi, họ chấp những đối tượng bên ngoài là thật có, chấp trước nơi ngã và những gì thuộc về ngã. Thế nên gọi là phân biệt sai lầm.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Theo lời Thế Tôn dạy thì những sự kiện phức tạp của các đối tượng bên ngoài bị người ta nhìn nhận một cách sai lầm, nên bị rơi vào kiến giải hữu và vô.

Bạch Thế Tôn! Đệ nhất nghĩa đế cũng như vậy, không có những phương tiện thể nghiệm, lý luận, nhân minh, ví dụ…

Bạch Thế Tôn! Làm sao mà đối với những ý nghĩa này bảo là sự sinh khởi phân biệt, thì trong Đệ nhất nghĩa lại không bảo là có sự sinh khởi ư? Một chỗ thì Thế Tôn bảo: “Nó làm cho sinh khởi”, một chỗ Thế Tôn lại bảo: “Nó không làm cho sinh khởi”. Như thế, chẳng phải Thế Tôn đã lập luận sai trái đó sao? Theo Thế Tôn thì vì phân biệt sai lầm nên bị rơi vào kiến giải nhị biên về hữu và vô. Giống như nhà ảo thuật tạo ra nhiều cảnh không thật, sự phân biệt cũng như vậy. Thật ra, hiện hữu tự nó không phân biệt. Nếu vậy thì tại sao người ta lại ca ngợi nhị biên? Phải chăng họ lại rơi vào cái nhìn của thế gian?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Phân biệt vốn không sinh, không diệt. Vì sao? Vì không có sự khởi sinh phân biệt về tướng hữu và vô. Vì sự nhận biết mọi hiện tượng bên ngoài đều là không thật. Hãy thấy rõ rằng: “Những hiện tượng ấy không gì khác ngoài tâm”. Chỉ vì những kẻ ngu muội phân biệt, đắm trước mọi hiện tượng trong cuộc đời này vốn chính từ tâm của họ mà nói như vậy. Thật ra sự nhận thấy đó đều do tâm tạo. Nếu không bảo vậy thì làm sao họ đoạn trừ ý niệm về ngã và thuộc về ngã, cùng tất cả quan niệm chấp trước, xa lìa những nhân xấu, tự tạo hay tạo cho người khác. Và làm sao họ có thể nhận ra rằng không có gì ngoài tâm để chuyển đổi ý thích của họ? Làm sao họ có thể nhận thức rõ ràng về các Địa để đạt được cảnh giới của chư Phật và xả bỏ những nhận thức phân biệt tự tánh của năm pháp? Thế nên ta bảo rằng: Phân biệt hư vọng sinh khởi là do chúng ta chấp vào vô số các cảnh giới hiện hữu từ tâm. Hãy nhận chân thật tại rõ ràng như vậy thì mới được giải thoát.

Đức Thế Tôn lập lại bằng kệ tụng:

Những ai nhìn thế gian
Sinh từ nhân và duyên
Tương ưng cùng tứ cú
Tức không hiểu pháp ta
Đời chẳng phải hữu vô
Câu hữu, không câu hữu
Phàm phu và phân biệt
Bảo do nhân và duyên
Phi hữu và phi vô
Cũng lại phi hữu vô
Quán thế gian như vậy
Chuyển tâm chứng vô ngã
Tất cả pháp không sinh
Chúng từ duyên sinh khởi
Những gì sinh từ duyên
Là những pháp bất sinh
Quả không tự sinh quả
Phạm lỗi về hai quả
Vì không có hai quả
Nên không có thật tánh
Quán các pháp hữu vi
Rời năng duyên, sở duyên
Tất nhiên chỉ là tâm
Ta nói pháp duy tâm
Nơi tự tánh hiện lượng
Duyên pháp đều xa lìa
Hoàn toàn sự tịnh diệu
Ta gọi là tâm lượng
Cấu trúc ngã giả danh
Thật không có thật tánh
Các uẩn cũng giả danh
Đều không có thật sự
Có bốn loại bình đẳng
Tướng, nhân và sự sinh
Vô ngã là thứ tư
Người tu hành quán sát
Lìa tất cả kiến giải
Và năng, sở phân biệt
Không được cũng không sinh
Ta gọi tâm hiện lượng
Phi hữu, phi hiện hữu
Hữu vô đều xa lìa
Lìa khỏi tâm như vậy
Ta gọi là tâm lượng
Chân như không, thật tế
Pháp giới và Niết-bàn
Các loại Ý sinh thân
Ta gọi là tâm lượng
Tập khí buộc vọng tưởng
Tất cả từ tâm sinh
Chúng sinh thấy là ngoài
Ta gọi là tâm lượng
Bên ngoài không thật có
Chúng được hiện từ tâm
Thân, tài sản, nhà cửa
Ta gọi là tâm lượng.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai dạy rằng: “Như ta đã nói, ông và các Bồ-tát khác không nên chấp vào ý nghĩa của các từ.” Bạch Thế Tôn! Thế nào là ý nghĩa của các từ?

Đức Phật nói:

–Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ thật kỹ!

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Vâng, bạch Thế Tôn!

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Ngôn từ nghĩa là dựa vào phân biệt và tập khí làm nguyên nhân. Dựa vào răng, hàm, lợi, lưỡi, môi và xoang của miệng mà phát ra những thanh âm văn tự đối thoại với nhau. Đây là ngôn thuyết.

Thế nào là nghĩa? Vị Đại Bồ-tát một mình ở nơi vắng vẻ, dùng trí tuệ văn, tư, tu dẫn đến con đường Niết-bàn vì cảnh giới tự chứng, chuyển đổi các tập khí, thực hành vô số hành tướng ở nơi các Địa. Đây gọi là nghĩa.

Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát thành thục đối với các từ ngữ và ý nghĩa, nhận thấy rằng từ ngữ và ý nghĩa không đồng nhất, cũng không khác, từ ngữ và ý nghĩa cũng lại như vậy. Nếu ý nghĩa khác với từ ngữ thì nó sẽ không được biểu hiện nơi ý nghĩa, nhưng nhân nơi từ ngữ mà nhận thấy ý nghĩa, như sự vật được chiếu sáng bởi ngọn đèn.

Này Đại Tuệ! Ví như có người cầm đèn chiếu vào đồ vật và biết rằng những vật như vậy đang ở đây và ở chỗ này. Cũng vậy, này Đại Bồ-tát. Nhờ vào cây đèn của từ ngữ và ngôn thuyết mà Bồ-tát vượt khỏi ngôn thuyết, nhập vào cảnh giới tự chứng.

Này Đại Tuệ! Nếu có người chấp vào ý nghĩa của ngôn từ và chấp vào những xác nhận của chúng về tự tánh Niết-bàn vốn không sinh không diệt về ba thừa, Nhất thừa, năm pháp, tâm thức, tự tánh… người ấy sẽ rơi vào kiến giải hoặc kiến lập, hoặc phỉ báng. Vì khác nhau như vậy nên bị phân biệt. Như thấy việc huyễn hóa mà chấp là thật có. Người ngu mới như vậy, chứ người trí thì không như vậy.

Đức Thế Tôn lập lại kệ tụng:

Nếu theo ngôn chấp nghĩa
Kiến lập nơi các pháp
Vì sự kiến lập đó
Chết đọa vào địa ngục
Trong uẩn không có ngã
Không uẩn tức là ngã
Không như phân biệt ấy
Chẳng hữu và phi hữu
Như người ngu phân biệt
Tất cả đều có tánh
Nếu nhận thấy như thế
Đều nên thấy chân thật
Tất cả pháp dơ sạch
Hoàn toàn không thể tánh
Không như người kia thấy
Và cũng không thật có.

Này Đại Tuệ! Ta sẽ nói cho ông nghe về tướng của Trí và Thức. Ông và các Đại Bồ-tát khi đã thành thạo về tướng của trí và thức thì các ông sẽ chóng đạt đến Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Này Đại Tuệ! Có ba loại trí: Thế gian, Xuất thế gian, Xuất thế gian thượng thượng.

Thế nào là Trí thế gian? Nghĩa là tất cả ngoại đạo, phàm phu bị ràng buộc vào pháp hữu và vô.

Thế nào là Trí xuất thế gian? Nghĩa là hàng Thanh văn và Duyên giác bị ràng buộc vào tướng chung và tướng riêng.

Thế nào là Trí xuất thế gian thượng thượng? Nghĩa là chư Phật và Bồ-tát quán sát tất cả các pháp đều vô tướng, không sinh không diệt, phi hữu phi vô, chứng pháp vô ngã, nhập Như Lai địa.

Này Đại Tuệ! Có ba loại trí. Đó là: Trí biết tướng chung và tướng riêng, trí biết sinh diệt, trí biết không sinh không diệt.

Này Đại Tuệ! Sinh diệt là thức, không sinh diệt là trí, rơi vào tướng vô tướng và lấy các tướng hữu vô làm nhân. Thức là lìa tướng vô tướng và nhận hữu vô là trí. Thức có sự tích tập và trí là tướng phi tích tập. Bị ràng buộc vào tướng cảnh giới là thức, không bị ràng buộc vào tướng cảnh giới là trí. Thức được sinh ra do sự hòa hợp của ba tướng. Trí trong tự tánh của nó là vô ngại, có tướng có thể nắm bắt là thức, tướng chẳng thể nắm bắt là trí. Đó là cảnh giới sở hành của tự chứng bằng Thánh trí. Như mặt trăng trong nước, không vào cũng không ra.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Nghiệp do tâm chất chứa
Trí quán sát các pháp
Tuệ chứng đạt vô tưởng
Và tự tại oai quang
Tâm buộc vào cảnh giới
Trí phát sinh giác tưởng
Vô tướng và tối thắng
Trí tuệ khởi nơi đây
Tâm ý cho đến thức
Lìa các tưởng phân biệt
Được pháp vô phân biệt
Bồ-tát khác Thanh văn
Tịch lặng nhẫn tối thắng
Như Lai trí thanh tịnh
Sinh ý nghĩa cao vời
Viễn ly các sở hành
Ta có ba thứ trí
Bậc Thánh thường chiếu sáng
Phân biệt nơi các tướng
Mở bày tất cả pháp
Trí ta lìa các tướng
Vượt qua khỏi Nhị thừa
Vì các hàng Thanh văn
Chấp chặt vào pháp hữu
Tuệ Như Lai không nhiễm
Vì liễu đạt duy tâm.

Này Đại Tuệ! Các ngoại đạo có chín loại kiến thức về sự chuyển biến, đó là:

1. Chuyển biến về hình.

2. Chuyển biến về tướng.

3. Chuyển biến về nguyên nhân.

4. Chuyển biến về sự phù hợp.

5. Chuyển biến về kiến giải.

6. Chuyển biến về nguồn gốc.

7. Chuyển biến về vật chất.

8. Chuyển biến về những điều kiện rõ ràng.

9. Chuyển biến về sự tạo tác rõ ràng.

Đây là chín kiến giải mà tất cả ngoại đạo đều nhân nơi đó mà xây dựng trên luận thuyết chuyển biến của hữu và vô. Trong đó chuyển biến về hình, nghĩa là sự khác biệt về hình tướng bên ngoài. Ví như vàng có hình dáng khác nhau khi dùng làm đồ trang sức, như chiếc vòng đeo tay, vòng đeo cổ, nhiều thứ khác nhau, hình dáng không giống nhau, nhưng bản chất nó vẫn là vàng không khác. Tất cả sự vật chuyển biến cũng như vậy. Các nhà ngoại đạo khác chấp chặt vào những chuyển biến đó, cho rằng chúng không phải như vậy và chẳng khác nhau. Tất cả sự khác biệt trong sự chuyển biến đó đều do phân biệt. Thế nên biết rằng, cũng như sữa đông lại thành sữa đông và trái cây chín thành rượu. Các nhà ngoại đạo cho đây là có sự chuyển biến, thật ra không có cái gì được chuyển biến, hoặc hữu hoặc vô, là những gì được thấy từ chính cái tâm, không phải ngoại vật. Đó là những gì mà kẻ phàm phu ngu muội bị sinh khởi từ tập khí và tâm phân biệt, chứ thật ra không có một pháp nào sinh ra hay mất đi. Giống như nhiều màu sắc được thấy do ảo ảnh hay trong giấc mộng. Như đứa con người thạch nữ mà nói có sống và có chết.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Hình chuyển theo thời gian
Giác quan và bốn đại
Dần sinh trong trung ấm
Vọng tưởng không trí tuệ
Chư Phật không phân biệt
Duyên khởi và thế gian
Nhưng chuỗi nhân quả ấy
Giống thành Càn-thát-bà.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Cúi xin Đức Như Lai giải thích cho con nghĩa lý sâu xa về sự ràng buộc và cách giải thoát của tất cả các pháp, làm cho con và các Bồ-tát hiểu biết rõ ràng về pháp này. Khi chúng con không bị rơi vào sự ràng buộc của ngôn từ và ý nghĩa sâu xa, thì chúng con sẽ tách rời ngôn ngữ, văn tự hư vọng phân biệt. Chúng con sẽ vào trong tất cả cõi Phật, có năng lực thần thông tự tại và ấn quyết Đà-la-ni. Chúng con được tuệ giác an trú nơi mười nguyện vô tận, biến hiện tất cả bằng hành tác tự tại với ánh sáng chiếu ngời như mặt trăng, mặt trời, châu ngọc, đất, nước, lửa, gió và giữ ở các cấp độ xa lìa kiến giải phân biệt. Khi biết tất cả các pháp như huyễn, như giấc mộng, chúng con an trú vào địa vị Như Lai, hóa độ khắp các chúng sinh, làm cho họ biết vạn pháp đều giả dối không thật và giải thoát cho họ ra khỏi chấp chặt về hữu và vô, đoạn trừ chấp trước về sinh diệt, không đắm trước ngôn từ, chuyển được tâm thức.

Đức Phật bảo:

–Các ông hãy lắng nghe ta nói!

Này Đại Tuệ! Sự chấp chặt sâu xa nhất của con người đối với tất cả các pháp, tức là cái ý nghĩa mà chúng ta hiểu theo ngôn từ thật vô lượng. Nghĩa là sự chấp chặt vào các hình tướng, nhân duyên, hữu và vô, sinh và không sinh, diệt và không diệt, thừa và phi thừa, hữu vi và vô vi, tự tướng của các Địa. Sự chấp chặt vào chính sự phân biệt và sự phân biệt sinh khởi từ chứng ngộ, sự chấp vào hữu và vô mà các nhà ngoại đạo bị ràng buộc, sự chấp vào ba thừa và Nhất thừa.

Này Đại Tuệ! Đây là những sự chấp trước sâu xa có vô lượng thứ mà kẻ phàm ngu tự phân biệt, chấp chặt vào một cách thâm sâu. Những sự phân biệt này như con tằm làm kén, bị những sợi tơ vọng tưởng quấn lấy chúng và cuộn những con tằm khác nữa. Kẻ phàm phu chấp chặt vào những ý niệm về hữu và vô trong mê đắm kiên trì.

Này Đại Tuệ! Trong đây thật chẳng phải là nơi cô tịch và chẳng phải là tướng cô tịch. Vì Đại Bồtát thấy tất cả các pháp trụ nơi vắng lặng mà không phân biệt vậy. Nếu Bồ-tát hiểu rõ các pháp được thấy chính do tâm, không có vật bên ngoài, đều cùng vô tướng, tùy thuận quán sát đối với hoặc hữu, hoặc vô, hoặc phân biệt sự chấp chặt đều thấy suốt tịch tĩnh. Như thế, không có tướng chấp chặt hay không chấp chặt.

Này Đại Tuệ! Trong đây không có trói buộc, cũng không có giải thoát, chỉ trừ kẻ không thật hiểu rõ mới thấy có sự trói buộc và giải thoát mà thôi. Vì sao? Vì trong tất cả các pháp không có hữu và vô, tìm trong thể tánh nó không thể được.

Này Đại Tuệ! Phàm phu ngu si có ba sự ràng buộc, đó là tham, sân, si cùng ái tái sinh câu hữu với hỷ và tham. Do những thứ này trói buộc làm cho chúng sinh bị luân chuyển sinh trong năm đường. Nếu sự trói buộc được chấm dứt thì những chúng sinh đó sẽ không có tướng là buộc hay không buộc.

Này Đại Tuệ! Nếu có chấp trước vào duyên ba hòa hợp thì các thức trói buộc lần lượt khởi lên. Vì có chấp trước cho nên có sự trói buộc. Khi ba hòa hợp làm cho các thức vận hành không còn thì sẽ thấy ba giải thoát, tất cả những sự trói buộc đều không sinh khởi.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Vọng tưởng phân biệt sinh
Gọi đó là ràng buộc
Như thật biết điều này
Lưới buộc ràng đứt đoạn
Phàm ngu không thấu triệt
Ràng buộc bởi nghĩa từ
Ví như tằm trong kén
Vọng tưởng tự quấn mình.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn đã dạy: “Do vô số tâm phân biệt các pháp, vốn dĩ không có tự tánh trong các pháp, đó chỉ là vọng chấp, chứ thật không có các pháp.” Phải chăng sự dơ sạch của các pháp sẽ không tan hoại?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Đúng thế! Đúng như lời ông nói! Tự tánh của các pháp là sự phân biệt của phàm ngu, thật ra không phải như họ phân biệt. Đó chỉ là vọng chấp, không có tánh tướng, nhưng các bậc Thánh dùng đôi mắt trí tuệ xác nhận bằng cái biết thông tuệ, thấy được tự tánh của các pháp.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Nếu các Thánh nhân thấy có các pháp tánh bằng đôi mắt Thánh tuệ, tức không phải cái thấy của trời, của người, không giống sự phân biệt của kẻ phàm ngu, thì làm sao những kẻ phàm ngu ấy từ bỏ những phân biệt của họ, khi mà họ không thể hiểu rõ các pháp của bậc Thánh?

Bạch Thế Tôn! Vì họ không điên đảo, cũng chẳng không điên đảo. Vì sao? Vì họ không có trí thấu suốt của bậc Thánh, cái thấy của bậc Thánh xa lìa tướng hữu và vô. Thánh trí cũng không giống như người phàm phân biệt. Vì khía cạnh thật của nó đúng như nó, chứ không phải tướng cảnh giới không gì khác trong chính nó tạo ra. Họ cũng thấy có các tướng của pháp tánh, nhưng không gì khác hơn là do tánh tưởng tượng của họ tạo ra, không nói đến có nhân duyên hay không nhân duyên và họ rơi vào cái thấy hình tướng của các pháp tánh.

Bạch Thế Tôn! Ngoài ra các cảnh giới ấy đã không giống nhau, như vậy thành ra phạm lỗi về vô cùng, vì chấp vào tướng của thật tánh để hiểu rõ các pháp.

Bạch Thế Tôn! Các tướng của pháp tánh không có nhân phân biệt thì làm sao có thể bảo rằng: do phân biệt mà có các pháp?

Bạch Thế Tôn! Tướng của phân biệt không giống tướng của các pháp, một khi nguyên nhân không giống nhau thì làm sao các pháp mà do phân biệt được? Và tại sao sự phân biệt của người ngu không thấy đúng như thật tánh? Nhưng Thế Tôn dạy cho chúng con rằng: “Vì muốn làm cho chúng sinh gạt bỏ sự phân biệt của họ, cho nên nói tướng của các pháp giống như những điều họ phân biệt không đúng như vậy.”

Bạch Thế Tôn! Có phải để cho chúng sinh thoát khỏi ý niệm chấp trước các pháp hữu và vô, họ lại chấp trước cảnh giới Thánh trí nên rơi vào kiến giải về hữu. Vì sao Thế Tôn lại dạy học thuyết không vô vắng lặng mà tự tánh của nó là Thánh trí?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Không phải là ta phủ nhận học thuyết vắng lặng, cũng không phải là ta rơi vào kiến giải thật có. Vì sao? Vì ta đã nói tự tánh của Thánh trí, để cho chúng sinh vốn từ thời quá khứ đến nay luôn chấp trước về hữu mà nói các pháp vắng lặng của bậc Thánh, làm cho những ai đã được nghe rồi không sinh tâm sợ hãi, mà có thể chứng thật tánh vắng lặng, lìa bỏ trạng thái mê hoặc rối loạn, nhập vào chân lý duy thức, biết rõ những gì được thấy chính tự nơi tâm. Họ ngộ ba môn giải thoát, đạt dấu ấn như thật. Họ có trực giác thấu suốt tự tánh các pháp nơi cảnh giới bậc Thánh, loại bỏ được tất cả chấp trước hữu vô.

Này Đại Tuệ! Bồ-tát không nên thành lập luận đề: “Tất cả các pháp đều không sinh.” Vì sao? Vì tất cả các pháp vốn không có và luận đề ấy xác định bằng tính chất của sự sinh.

Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp không sinh thì chính là lời nói này tự hủy hoại luận đề ấy. Vì sao? Vì theo luận đề này, cái gì mang bản chất hữu thì được định tính bằng tính chất của sự sinh; trong khi các Bồ-tát xác định rằng: “Tất cả các pháp là tướng không sinh, cũng không diệt”, cho nên luận đề này nhập vào trong tất cả các pháp. Pháp hữu, pháp vô của luận đề này đều không sinh. Luận đề này nhập vào trong tất cả các pháp, vì tướng hữu tướng vô cũng không sinh. Thế nên tất cả các pháp không sinh của luận đề này lại đánh bại chính luận đề. Không nên lập luận đề này, vì có nhiều lỗi, tướng trạng nhân này lẫn lộn khác nhau. Như chủ trương rằng: Các pháp không sinh, hay các pháp là trống rỗng, không có tự tánh.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát nên nói rằng: Tất cả các pháp như huyễn hóa, như giấc mộng, vì chúng được nhận thấy như không thấy. Và tất cả các pháp đều là tướng mê hoặc, rối loạn, ngoại trừ cảm giác sợ hãi khởi dậy trong tâm của người ngu. Này Đại Tuệ! Người ngu si bị rơi vào kiến giải về hữu và vô, chớ để cho họ sợ hãi, xa lánh Đại thừa.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Không tự tánh, giả thiết
Vô sự, vô y xứ
Phân biệt bởi người ngu
Kém hiểu, như thây ma
Tất cả pháp không sinh
Thành lập của ngoại đạo
Không cần có thuyết lập
Chẳng do duyên thành tựu
Tất cả pháp không sinh
Người trí không phân biệt
Luận đề được tạo nên
Lập luận không tồn tại
Giống như người nhặm mắt
Thấy nhầm nghĩ hoa đốm
Các pháp cũng như vậy
Người ngu vọng phân biệt
Ba cõi chỉ giả danh
Không có thể pháp thật
Do lập giả thuyết này
Họ tiếp tục phân biệt
Các sự tướng giả danh
Động loạn nơi tâm thức
Đệ tử Phật vượt qua
Dạo chốn không phân biệt
Chỗ không nước tưởng nước
Đây do khát ái sinh
Người ngu nhìn các pháp
Bậc trí không như thế
Thánh nhân thấy thanh tịnh
Sinh ra ba giải thoát
Vượt khỏi sinh và diệt
Thường dạo cõi vô tướng
Tu hành cõi vô tướng
Cả vô tướng cũng không
Bình đẳng hữu và vô
Quả Thánh trí được sinh
Pháp hữu vô thế nào
Thế nào thành bình đẳng
Nếu tâm không hiểu pháp
Động, loạn, trong, ngoài, giữa
Tâm thấy được bình đẳng
Động loạn sẽ không còn.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như lời Thế Tôn dạy, nếu biết cảnh giới chỉ là giả danh, hoàn toàn chẳng thể nắm bắt, thì không có sự chấp giữ. Không có sự chấp giữ thì không có chấp giữ. Hành động chấp và sự chấp, cả hai đều không nên phân biệt, không còn phát sinh nữa, gọi đó là Trí.

Bạch Thế Tôn! Có phải vì trí không đạt được cảnh giới, vì không nhận biết được tướng riêng tướng chung, nghĩa giống và khác của tất cả các pháp cho nên gọi là “chẳng thể” ư? Hay là vì tướng riêng tướng chung, các loại tướng của các pháp không giống nhau mà che khuất nhau, cho nên gọi là “chẳng thể” chăng? Hay là bị trở ngại vì ngọn núi, vách đá, bức tường, tấm mành, tấm trướng… làm cho không thể đạt được trí tuệ siêu việt chăng? Hay là vì quá xa, hay quá gần, hay vì tuổi già, tuổi trẻ, mù lòa do các giác quan không hoàn hảo nên không đạt được? Nếu cái biết không đạt được là do chúng ta không nhận biết tướng chung tướng riêng, đơn tính, đa tính của các pháp thì gọi là bất đắc. Ở đây không gọi là trí nên gọi là vô trí. Do có cảnh giới trước mắt mà chúng ta không biết chúng. Nếu cái biết chúng ta không thể đạt được vì bị ngăn che bởi tướng chung, tướng riêng, tất cả không giống nhau của các pháp, thì đó là phi trí. Vì biết nơi cảnh nên gọi là trí, chứ chẳng phải là không biết. Nếu cái biết không đạt được do trở ngại của ngọn núi, vách đá, bức tường, tấm mành, tấm trướng hay quá xa, quá gần, tuổi trẻ, tuổi già, mù lòa… thì không phải là trí. Bởi vì đối với cảnh giới có mà trí không đầy đủ nên không biết vậy.

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Đây thật là trí không phải như thầy nói. Lời ta nói chẳng phải là lời nói ngăn che. Ta nói rằng: “cảnh giới là giả danh, chẳng thể nắm bắt”, vì hiểu rõ rằng có và không của pháp bên ngoài đều là thấy tự nơi tâm. Đối với sự việc ấy, trí tuệ hoàn toàn chẳng thể nắm bắt. Vì vô đắc cho nên đối tượng không khởi, nhập vào ba giải thoát thì thể của trí cũng mất luôn, không như những tưởng tượng của phàm phu từ tập khí diễn ra liên tục, chấp chặt từ thời vô thủy đến nay về các pháp bên ngoài đối với các loại hình tướng, hoặc hữu hay vô. Như thế, nên biết là không hiểu không biết các pháp chỉ được thấy tự tâm. Họ bị vướng mắc vào cảnh trí phân biệt của ngã và ngã sở, không biết ngoài pháp là có hay không. Tâm của họ trú nơi đoạn kiến. Vì muốn làm cho họ chấm dứt hẳn sự phân biệt như thế, nên Ta nói: Tất cả pháp do tâm tạo.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Nếu cái biết đối tượng
Trí tuệ không thấy rõ
Thật vô trí phi trí
Đó gọi là vọng chấp
Che đậy nhau vô cùng
Trở ngại xa hay gần
Trí tuệ không thể thấy
Gọi là trí sai lầm
Do tuổi tác, mù lòa
Không thật biết cảnh giới
Trí tuệ không sinh khởi
Gọi là trí sai lầm.

Này Đại Tuệ! Kẻ phàm phu ngu si bản chất vốn sai lầm, bị mê hoặc bởi những phân biệt tà kiến, không hiểu rõ chân lý và những thuyết giảng ấy bằng ngôn từ. Vì họ chấp vào những hình tướng bên ngoài, vốn được thấy bằng tâm và chấp vào những học thuyết mà không biết đó là phương tiện. Họ không thể tu tập thanh tịnh để tiếp nhận chân lý tách rời bốn mệnh đề (Tứ cú).

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Thưa đúng vậy! Đúng như lời Thế Tôn dạy! Xin Thế Tôn nói cho con nghe về pháp chân thật và những ngôn thuyết về chân lý ấy. Nhờ đó, con và các Bồ-tát hiểu tường tận về hai pháp này, mà các ngoại đạo hay Thanh văn, Duyên giác không thể thâm nhập được.

Đức Phật nói:

–Các ông hãy lắng nghe ta nói!

Này Đại Tuệ! Có hai phương pháp của các Đức Như Lai trong ba đời là quá khứ, hiện tại và tương lai. Đó là pháp giảng dạy và pháp như thật. Pháp bằng ngôn thuyết nghĩa là tùy theo tâm của chúng sinh mà dùng nhiều pháp môn, phương tiện để chỉ dạy cho họ. Pháp như thật là người tu hành tách rời được những sự phân biệt những gì được thấy tự tâm, không rơi vào nhị biên của đồng và dị, câu hữu hay không câu hữu, vượt khỏi tất cả tâm, ý và ý thức. Đối với cảnh giới thực hành của Thánh trí tự chứng thì không liên quan đến những nhân duyên, tương ưng với kiến phần và tướng phần. Tất cả ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác rơi vào nhị biên vì không thể biết. Đây gọi là pháp như thật. Hai loại pháp này, thầy và các chúng Bồ-tát hãy khéo tu học.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Ta nói hai loại pháp
Lời dạy và như thật
Giảng dạy cho kẻ ngu
Cùng người tu thật chứng.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Có lần Đấng Như Lai dạy rằng: “Luận về chú thuật Lô-ca-da-đà, chỉ có thể gặt hái được nhiều tài lợi trần tục chứ không có lợi lộc về pháp, không nên thân cận phụng sự và cúng dường.” Bạch Thế Tôn! Vì sao đấng Như Lai lại dạy như thế?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Vì tất cả những luận của Lô-cada-đà chỉ là những câu trang sức văn vẻ, mê hoặc người ngu. Những ngôn từ dối trá thuận theo trần tục và những lời dạy đó hoàn toàn không phù hợp với sự thật, không đúng với nghĩa lý, không chứng nhập nơi cảnh giới chân thật, không tỏ ngộ tất cả các pháp, thường rơi vào nhị biên, tự đánh mất con đường chân chánh, cũng làm cho người khác lạc lối, bị luân hồi trong các nẻo, vĩnh viễn không thoát ra được. Vì sao? Vì họ không hiểu rằng các pháp không có gì ngoài cái nhìn thấy tự tâm. Họ bị chấp chặt vào ngoại cảnh, tăng thêm ý niệm phân biệt. Thế nên ta bảo văn từ của luận thế gian, tuy là hay đẹp nhưng chỉ để mê hoặc người ngu và không thể làm cho thoát khỏi tai họa như sinh, già, bệnh, chết, lo buồn…

Này Đại Tuệ! Thích Đề-hoàn Nhân là người hiểu rộng các luận thuyết, chính ông là tác giả của các luận thuyết. Nhà luận thuyết này có một đệ tử, hiện thân là rồng, đến cung Đế Thích và đưa ra luận thuyết với lời cam kết rằng: “Này Kiều-thi-ca! Ta cùng ngươi tranh luận, nếu ngươi không bằng ta, ta sẽ đập vỡ chiếc xe có ngàn nan của ngươi. Và nếu ta không bằng ngươi, thì tất cả đầu rồng của chúng ta sẽ bị chặt từng đoạn, để tạ lỗi sự thua ấy.” Nói xong, người đệ tử ấy đưa ra vấn đề tranh luận và đã đánh bại được Đế Thích. Do đó, chiếc xe có ngàn nan bị đập vỡ. Thế rồi người đệ tử ấy trở lại cõi này.

Này Đại Tuệ! Ngôn luận của thế gian trang bị rất nhiều lý luận và dẫn dụ, cho đến có thể hóa hiện hình rồng, rồi dùng những văn từ hay đẹp để mê hoặc chư Thiên và A-tu-la, làm cho họ chấp chặt vào ý niệm sinh diệt, các sự thấy mà thư chú cho người.

Thế nên, này Đại Tuệ! Không nên thân cận, phụng sự và cúng dường Lô-ca-da-đà, vì họ đã tạo tác nguyên nhân làm cho khổ đau sinh khởi.

Này Đại Tuệ! Thế luận chỉ nói về cảnh giới do thân thể biết được.

Này Đại Tuệ! Thế luận kia có trăm ngàn câu chữ, ở trong những đời sau có những dự kiến chống đối nhau, chúng ta phân tán, chia chẻ thành nhiều bộ phái và mỗi nhóm mắc vào lập luận, cho mình là đúng.

Này Đại Tuệ! Đây chẳng phải là hàng ngoại đạo khác có thể lập giáo pháp, chỉ có Lô-ca-da-đà dùng trăm ngàn câu cú để giảng rộng, bằng vô lượng nguyên nhân và hình thức khác nhau, hoàn toàn không phù hợp với chân lý, mà họ cũng không tự nhận ra rằng: Đó là những luận thuyết mê hoặc thế gian.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nếu luận của Lô-ca-da-đà tạo ra với những từ ngữ, câu cú, thí dụ hay đẹp, nhưng lại là những chấp chặt theo chủ trương của mình, không đúng với pháp như thật, đó là của ngoại đạo. Và Thế Tôn cũng giảng thuyết việc của thế gian, nghĩa là Thế Tôn cũng giảng thuyết nhiều về Thế luận, bằng những ngôn ngữ văn tự khác nhau cho các hội chúng trời, người ở khắp cõi nước mười phương vân tập về, chẳng phải là pháp do Thế Tôn chứng đắc bằng trí tuệ của bậc Thánh. Như vậy Thế Tôn cũng đồng với ngoại đạo thuyết giáo hay sao?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Ta không thuyết giảng thuyết Thế luận, cũng không giảng cái đến và đi, nhưng ta thuyết giảng các pháp không đến không đi.

Này Đại Tuệ! Đến, nghĩa là sinh khởi và tích tập. Đi, nghĩa là hoại diệt. Cái gì không đến không đi thì gọi là không sinh không diệt.

Này Đại Tuệ! Lời ta thuyết giảng không giống như ngoại đạo để rơi vào trong sự phân biệt. Vì sao? Ngoài cái có không của các pháp thì không có sự chấp trước. Thấy rõ tất cả chỉ có tự tâm, nên không thấy có hai thủ, không thấy cảnh tướng của hình sắc, không sinh phân biệt, nên họ được nhập vào ba môn giải thoát: Không, Vô tướng, Vô nguyện.

Này Đại Tuệ! Ta nhớ khi ta đang ở tại một nơi nào đó, có một Thế luận Bà-la-môn đến chỗ ta và hỏi thẳng ta rằng:

–Thưa Cồ-đàm! Có phải tất cả đều do hành động, phải không?

Khi ấy ta đáp:

–Này Bà-la-môn! Nếu tất cả đều do hành động thì đó là chủ trương đầu tiên của Thế luận.

Ông ta lại hỏi:

–Vậy thì có phải tất cả đều chẳng phải là hành động, phải không?

Ta đáp:

–Tất cả đều không phải hành động thì đó là chủ trương thứ hai của Thế luận.

Người Bà-la-môn lại hỏi:

–Tất cả là thường chăng? Tất cả là vô thường chăng? Tất cả là sinh chăng? Tất cả là không sinh chăng?

Ta đáp:

–Này Bà-la-môn! Đây là chủ trương thứ sáu của Thế luận.

–Thưa Cồ-đàm! Có phải tất cả là một? Có phải tất cả là khác? Có phải tất cả là kết hợp, tất cả là không kết hợp? Có phải tất cả đều do nhiều nhân duyên mà thọ sinh?

–Này Bà-la-môn! Đây là chủ trương thứ mười một của Thế luận.

Người kia lại hỏi:

–Có phải tất cả đều hữu ký? Có phải tất đều vô ký? Có ngã không? Hay vô ngã? Có thế giới này không? Không có thế giới này ư? Có thế giới khác hay không có thế giới khác? Có giải thoát hay không có giải thoát? Có sát-na hay không phải là sát-na? Có hư không, Niết-bàn và phi trạch diệt là do tạo tác hay không tạo tác? Có trung hữu hay không trung hữu?

–Này Bà-la-môn! Đây là Thế luận, hoàn toàn không phải là luận thuyết của ta.

Này Bà-la-môn! Ta thuyết giảng rằng: Nhân nơi hý luận sai lầm từ vô thủy và các tập khí xấu mà sinh ra ba cõi. Vì không nhận biết rõ rằng tất cả đều chính tự tâm mà chấp chặt vào các pháp bên ngoài đều không thật có. Theo hàng ngoại đạo nói thì ngã, căn và cảnh hòa hợp mà sinh ra. Cái biết ta không nói như vậy, ta không nói về nhân, cũng không nói về vô nhân. Chỉ duyên vào vọng tâm mà có năng thủ và sở thủ, nên nói duyên khởi. Không phải Bà-la-môn và những người chấp ngã khác có thể lường được.

Này Đại Tuệ! Hư không, Niết-bàn và phi trạch diệt chỉ có ý nghĩa về ba số đếm, nó vốn không có thể tánh. Do đó, không cần phải nói là chúng có được tạo ra hay không.

Này Đại Tuệ! Khi ấy, Thế luận Bà-la-môn lại hỏi ta rằng:

–Có phải do vô minh, ái, nghiệp làm nhân và duyên nên có ba cõi không? Hay là không nhân duyên?

–Này Bà-la-môn! Hai câu hỏi này cũng thuộc về Thế luận.

–Thưa Cồ-đàm! Có phải tất cả các pháp đều nhập vào tướng riêng và tướng chung chăng?

–Điều này cũng thuộc về Thế luận. Này Bà-lamôn! Khi nào còn có một chút tâm thức dao động, phân biệt ngoại cảnh thì đều là Thế luận.

Này Đại Tuệ! Khi ấy, người Bà-la-môn lại hỏi ta rằng:

–Thưa Cồ-đàm! Có triết thuyết nào không thuộc về Thế luận không? Bao nhiêu ngôn từ, luận thuyết mà tất cả triết gia nói bằng nhiều từ và cụm từ khác nhau, bằng những ví dụ và kết luận hay đẹp, chẳng phải đều được rút ra từ trong Luận pháp của tôi đó sao?

–Này Bà-la-môn! Có cái gì đó không phải là Luận pháp của ngươi, mặc dù nó không vượt khỏi điều người ta chấp nhận. Và nó không được thuyết giảng bằng những văn chương, câu cú phù hợp hay không phù hợp với nghĩa lý. Có triết lý nào trong cuộc đời này mà không phù hợp với Thế luận chăng?

–Có, nhưng nó không thuộc về sự hiểu biết của ngươi và tất cả hàng ngoại đạo. Vì sao? Vì chấp chặt vào những phân biệt sai lầm của ngoại pháp. Nếu có thể hiểu rõ được mọi hiện tượng trong cuộc đời này đều là biểu hiện của tự tâm thì không sinh phân biệt và không chấp giữ thế giới bên ngoài, ở ngay chỗ mình là không phát sinh sự việc. Không phát sinh việc gì? Là không phát sinh phân biệt. Đây là giáo pháp của ta, ngươi không thể có được. Này Bà-la-môn! Tóm lại, tùy theo chỗ nào đó mà trong tâm thức có sự đến và đi, do biến đổi của sinh tử, hoặc tìm cầu yêu thương, hoặc cảm nhận, hoặc thấy, hoặc tiếp xúc, hoặc trú ngụ, nhận lấy các tướng, một sự hòa hợp và tương tục. Đối với ái, đối với nhân mà sinh chấp trước đều là thế luận của ngươi, không phải là giáo pháp của ta.

Này Đại Tuệ! Thế luận Bà-la-môn đã hỏi những điều như vậy và được ta trả lời. Ông ấy không hỏi Ta về thật pháp của ta, mà chỉ im lặng bỏ đi. Người Bà-la-môn thầm nghĩ: “Sa-môn Cồđàm thật đáng tôn trọng, vì ông ta bảo tất cả các pháp không sinh khởi, không tướng, không nhân, không duyên. Chúng được trông thấy bởi sự phân biệt của tự tâm và hiểu rõ rằng sự phân biệt này không sinh khởi.”

Này Đại Tuệ! Nay ông cũng hỏi ta về nghĩa này. Vì sao thân cận các Thế luận mà chỉ đạt được lợi trần tục, chứ không được lợi giáo pháp?

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Đức Thế Tôn dạy những ý nghĩa về tài và pháp là gì?

Đức Phật bảo:

–Lành thay! Ông đã nghĩ sâu xa về hai ý nghĩa này, vì chúng sinh trong tương lai, vậy thì hãy lắng nghe cho kỹ.

Này Đại Tuệ! Gọi “tài” nghĩa là đối tượng người ta có thể sờ chạm, cảm nhận, nắm lấy hay nếm được, làm cho người ta ràng buộc vào thế giới bên ngoài, bị rơi vào nhị biên. Từ đó, tăng thêm tham ái, sinh, già, bệnh, chết, lo buồn, khổ não. Ta và chư Phật gọi đó là hỷ lạc thế tục. Đó là đạt được sự thân cận của Thế luận.

Thế nào là pháp lợi? Nghĩa là hiểu rõ các pháp chính tại nơi tâm, thấy hai vô ngã nên không thủ nơi tướng, không có phân biệt, biết rõ các Địa thì lìa khỏi tâm, ý, thức. Họ được tất cả chư Phật cùng làm pháp quán đảnh, nên nhận giữ và thực hành đầy đủ mười nguyện vô tận, được tự tại đối với tất cả các pháp. Đây gọi là pháp lợi. Con người nhờ vào pháp này mà thoát khỏi tất cả các kiến giải suy luận điên đảo, những phân biệt và khái niệm nhị biên về thường-đoạn.

Này Đại Tuệ! Thế luận của ngoại đạo dẫn dắt người ngu si rơi vào nhị biên, tức là vĩnh cửu và đoạn diệt, chấp nhận học thuyết phi nhân duyên, nên sinh khởi thường kiến. Do nhân hoại diệt nên sinh khởi đoạn kiến. Ta giảng không chấp vào sinh, trụ, diệt, được gọi là pháp lạc. Đây là hai tướng sai biệt của tài và pháp. Ông và các Bồ-tát hãy nỗ lực quán sát.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Nhiếp phục các chúng sinh
Bằng giới ngăn mọi ác
Trí tuệ diệt tà kiến
Tăng trưởng được giải thoát
Sai lầm ngoại đạo nói
Đều là Luận thế tục
Chấp vào sự tạo tác
Không thể tự đứng vững
Chỉ theo chủ trương ta
Không chấp vào năng, sở
Dạy cho các đệ tử
Thoát ngoài nơi Thế luận
Pháp năng thủ, sở thủ
Ngoài tâm không hề có
Nhị biên do tâm hiện
Không dính dáng đoạn, thường
Hễ tâm còn lưu chuyển
Thì đó là Thế luận
Người thấy được tự tâm
Sự phân biệt không khởi
Nó “đến”, thấy sự sinh
Nó “đi” thì sự mất
Hiểu rõ “đến” và “đi”
Sự phân biệt chấm dứt
Thường hằng và vô thường
Tạo tác, không tạo tác
Thế giới đây và kia
Ý này của Thế luận.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Phật nói đến Niết-bàn, nhưng pháp gì gọi là Niết-bàn? Niết-bàn mà tất cả ngoại đạo phân biệt là Niết-bàn nào?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Niết-bàn mà các ngoại đạo phân biệt đều không có tướng tùy thuận Niết-bàn. Ông hãy lắng nghe cho kỹ lời ta dạy.

Này Đại Tuệ! Có những nhà ngoại đạo cho rằng: Niết-bàn phải được tìm thấy nơi các pháp vô thường, không tham đắm cảnh giới, chấm dứt các uẩn, các xứ và các giới, tâm và tâm sở không còn hiện hữu, hoặc Niết-bàn phải được tìm thấy ở nơi nào không còn suy tưởng về quá khứ, tương lai hay hiện tại, giống như ngọn đèn bị tắt, như hạt mầm bị hư, như ngọn lửa không còn, vì lúc ấy những chấp giữ không khởi, phân biệt không sinh, thì tư tưởng Niết-bàn sinh khởi.

Này Đại Tuệ! Không phải do kiến hoặc đoạn diệt có thể gọi là Niết-bàn, hoặc đi đến phương khác mà được gọi là Niết-bàn.

Các nhà ngoại đạo nghĩ rằng Niết-bàn như rời xa đến một thế giới khác, hay giống như khi một ngọn gió ngừng thổi. Hoặc giải thoát khỏi kiến giải về năng giác và sở giác thì gọi là Niết-bàn. Hoặc không khởi tâm phân biệt thường và vô thường gọi là được Niết-bàn.

Hoặc có những người cho rằng: Phân biệt các hình tướng khác nhau sẽ sinh ra khổ đau, vì họ không hiểu rằng tất cả đều hiện nơi tâm. Vì không hiểu biết như vậy nên họ sinh ra sợ hãi đối với sắc tướng mà tìm cầu nơi vô sắc tướng và đắm say yêu thích, chấp đó là Niết-bàn.

Có một số người quan niệm Niết-bàn là biết rõ tướng chung, tướng riêng của các pháp bên trong, bên ngoài và duy trì tính chất của chúng trong quá khứ, tương lai, hiện tại không bao giờ đoạn tận.

Hoặc có người chấp rằng: Niết-bàn là ngã, nhân, chúng sinh, thọ mạng và tất cả các pháp tồn tại bất diệt.

Có những nhà ngoại đạo thiếu trí tuệ, nhận định Niết-bàn là thế này: Có tự tánh và dùng khả năng của con người làm ra tất cả các pháp.

Có nhà ngoại đạo quan niệm Niết-bàn chính là sự dập tắt phước và phi phước.

Hoặc chấp rằng: Các phiền não được đoạn tận không phải do trí tuệ. Hoặc chấp Niết-bàn là do kết quả của Tự tại thiên sáng tạo.

Có những ngoại đạo lại bảo rằng: Chúng sinh lần lượt tương tác sinh ra, lấy đó làm nguyên nhân và không có nguyên nhân nào khác hơn nguyên nhân này.

Đó là những người không có trí tuệ nên thiếu sự hiểu biết và do vì không hiểu nên họ cho rằng chính đây là Niết-bàn.

Có những người quan niệm rằng: Niết-bàn là sự đạt được con đường chân thật và phân biệt được hư vọng.

Một số người cho rằng: Niết-bàn là năng lực và người có năng lực hòa hợp một tánh khác tánh, là câu hữu, không câu hữu.

Một số người cho rằng: Niết-bàn là các vật sinh ra từ sự tự nhiên, như những hoa văn lốm đốm của lông con công, sự sắc nhọn của cây kim, mũi gai, hay nơi sinh ra các báu vật. Tất cả những sự việc như vậy do ai sáng tạo? Thế nên họ chấp vào sự tự nhiên và cho là Niết-bàn.

Có một số nhà ngoại đạo cho rằng: Niết-bàn là sự nhận biết hai mươi lăm đế.

Hoặc có thuyết cho rằng: Niết-bàn là những người tiếp nhận sáu phần bảo vệ chúng sinh.

Hoặc có thuyết cho rằng: Thời gian là kẻ sáng tạo ra thế gian, tùy thuộc vào thời gian, tức là Niếtbàn.

Hoặc họ chấp có vật là Niết-bàn, hay chấp không vật là Niết-bàn, hoặc chấp có vật, không vật là Niết-bàn, hoặc chấp các vật cùng Niết-bàn là không khác, nên tưởng là Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Có những người ngoại đạo khác nói một cách khác nữa…

Bằng Nhất thiết trí, bậc Đạo sư rống tiếng rống của Sư tử chúa, biết rõ rằng: Tất cả đều do tâm hiện ra, không chấp thủ cảnh giới bên ngoài, xa lìa Tứ cú, trú nơi thật tánh đúng như thật, không rơi vào nhị biên và xa lìa năng thủ, sở thủ. Không rơi vào các lượng, không chấp vào sự chân thật, trụ nơi pháp mà bậc Thánh trí chứng đắc, ngộ hai vô ngã, xa lìa hai phiền não, hai thứ chướng ngại được tẩy sạch, lần lượt tu trải qua các Địa và chứng nhập nơi Phật địa, đạt các đại Tam-muội Như huyễn, vĩnh viễn vượt khỏi tâm ý, cho đến ý thức. Đây mới chính được gọi Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Những cố chấp sai lầm của hàng ngoại đạo kia không phù hợp với chân lý và không được người trí chấp nhận. Họ suy tưởng Niết-bàn theo nhị biên, ở đây không có gì sinh ra và không có gì mất đi cả. Các nhà ngoại đạo đều dựa vào tông phái của mình nên sinh ra sự hiểu biết sai lầm của mình trái với chân lý, hoàn toàn không đạt đến kết quả, chỉ làm cho tâm ý lăng xăng, giong ruổi khắp nơi vì không tìm ra đâu là Niết-bàn. Ông và các Bồ-tát hãy nên xa lìa sự suy tưởng ấy.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn lập lại bằng kệ tụng:

Ngoại đạo thấy Niết-bàn
Phân biệt nhiều cách khác
Đó chỉ là vọng tưởng
Không phương tiện giải thoát
Thoát khỏi mọi phương tiện
Không đạt đến giải thoát
Mà tưởng là giải thoát
Thật ra không giải thoát
Thành lập của ngoại đạo
Bởi trí tuệ chấp sai
Họ không được giải thoát
Lầm ngu si phân biệt
Những ngoại đạo si mê
Thấy sai làm sự làm
Đắm trước luận hữu vô
Thế nên không giải thoát
Phàm ngu ưa phân biệt
Không nên tuệ chân thật
Cho rằng gốc ba cõi
Chân thật nhân diệt khổ
Ví như ảnh trong gương
Tuy hiện nhưng không thật
Tâm trong gương tập khí
Phàm ngu thấy có hai
Không hiểu do tâm hiện
Nên khởi hai phân biệt
Nếu biết chỉ tại tâm
Thì phân biệt không còn
Tâm tức là đa dạng
Lìa tướng thấy, bị thấy
Như người ngu phân biệt
Tuy thấy như không thấy
Ba cõi chỉ phân biệt
Ngoại cảnh đều không có
Chúng hiện do vọng tưởng
Phàm ngu không hiểu vậy
Phân biệt trong các kinh
Thật chỉ khác danh từ
Nếu tách rời ngôn ngữ
Nghĩa ấy đạt được chi?

QUYỂN 5

Phẩm 3: VÔ THƯỜNG (Phần 2)

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin hãy nói cho con về tự tánh giác ngộ của Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác. Nhờ đó, con và các Bồ-tát được giác ngộ thiện xảo và làm cho người khác được giác ngộ.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Ta sẽ trả lời theo lời ông muốn hỏi.

Đại Tuệ thưa:

–Vâng, bạch Thế Tôn! Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Đẳng Giác được xem là tạo thành hay không tạo thành? Là kết quả, là nguyên nhân, là biểu hiện hay sự biểu hiện? Là được nói, hay nói cái biết, hay cái được biết? Như vậy, những cụm từ này là khác, hay không khác?

Đức Phật bảo:

–Này Đại Tuệ! Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Giác không phải được tạo thành, cũng không phải không được tạo thành, không phải là nguyên nhân, không phải là kết quả, không phải là biểu hiện, không phải là sự được biểu hiện, không phải là nói hay được nói, không phải là cái biết, không phải là cái được biết. Vì sao? Vì tất cả đều phạm vào sai lầm.

Này Đại Tuệ! Nếu Như Lai được tạo thành thì Như Lai là vô thường. Nếu Như Lai là vô thường thì tất cả những gì được tạo thành cũng là một Như Lai. Ta và các Đức Phật hoàn toàn không chấp nhận như vậy. Nếu Như Lai là không được tạo thành thì không có thể tánh và phương tiện tu tập để đạt chứng ngộ, hoàn toàn vô ích, giống như sừng thỏ hay đứa con của người Thạch nữ. Vì chúng không phải là nguyên nhân tạo thành. Cái gì không phải nguyên nhân, không phải kết quả thì không phải là hữu hay vô. Nếu không phải là hữu hay vô thì vượt ngoài Tứ cú. Gọi Tứ cú nghĩa là tùy thuận theo thế tục mà có ngôn thuyết. Nếu vượt ngoài Tứ cú thì chỉ có lời lẽ, giống như đứa con của người thạch nữ.

Này Đại Tuệ! Đứa con của người thạch nữ chỉ có ngôn từ suông và ở ngoài Tứ cú. Vì ở ngoài Tứ cú cho nên không thể đo lường được. Những người trí cần phải biết tất cả cú nghĩa chỉ về Như Lai như vậy.

Này Đại Tuệ! Như ta đã nói, tất cả các pháp đều vô ngã, vì trong các pháp không có tự tánh nên ta bảo là vô ngã. Đặc tính của những pháp này không thuộc về những pháp khác. Nên biết, cú nghĩa của Như Lai cũng như vậy.

Này Đại Tuệ! Ví như bản chất của một con bò thì không như con ngựa và bản chất của một con ngựa thì không như con bò. Tất cả các pháp cũng như vậy, không phải hữu, cũng không phải vô, mỗi thứ đều có đặc tính riêng của nó. Đây là điều những kẻ phàm ngu không thể hiểu được. Vì sao mà họ không hiểu? Bởi vì họ phân biệt. Cần phải hiểu rằng: Tất cả các pháp là trống không, không được sinh ra và không có tự tánh. Tất cả đều như vậy.

Này Đại Tuệ! Như Lai và các uẩn không phải không khác, cũng không phải khác. Nếu Như Lai là không khác thì Như Lai là vô thường, vì năm uẩn và các pháp là những gì được tạo thành. Nếu Như Lai là khác thì cả hai bên là hai thực thể riêng biệt nhau. Giống như hai cái sừng của con bò, có khác nhưng không khác, tương tự nhau là không khác, dài ngắn khác nên khác. Như cái sừng bên phải của con bò khác với cái sừng bên trái của nó, dài ngắn không đồng, màu sắc cũng khác, nhưng cũng không khác nhau. Đối với các uẩn, các giới và các xứ… tất cả pháp cũng như vậy.

Này Đại Tuệ! Như Lai có thể được diễn tả bằng từ giải thoát. Như Lai là khác với giải thoát hay không khác với giải thoát? Nếu Như Lai mà khác với giải thoát thì Như Lai cùng sắc tướng tương ưng. Nếu Như Lai cùng sắc tướng tương ưng là vô thường. Nếu Như Lai là không khác thì cái thấy của người tu hành phải không khác biệt. Nhưng có sự khác biệt, nên chẳng phải không khác. Như vậy, trí tuệ cùng với sự biết chẳng phải khác, cũng chẳng phải không khác. Nếu chẳng phải là khác, chẳng phải là không khác thì không phải là thường hằng hay không thường hằng; không phải là tạo tác hay không tạo tác; không phải là làm, không phải là không làm; không phải là biết, không phải là cái được biết; không phải tướng, cũng không phải thuộc tướng; không phải uẩn, không phải khác với uẩn; không phải nói, cũng không phải bị nói; không phải một, cũng không phải khác; không phải liên kết, không phải không liên kết… Do nghĩa này, nên nó vượt khỏi tất cả các lượng, vì vượt qua tất cả các lượng nên chỉ có ngôn từ. Vì chỉ có ngôn từ nên không được sinh ra. Cái gì không được sinh ra, thì không bị đoạn diệt. Những gì không bị đoạn diệt thì giống như hư không.

Này Đại Tuệ! Hư không không phải là tạo tác hay sự tạo tác. Vì chẳng phải tạo tác, chẳng phải sự tạo tác nên xa lìa sự lệ thuộc. Vì xa lìa sự lệ thuộc nên vượt qua tất cả các pháp hý luận. Vượt khỏi tất cả các pháp hý luận đó là Như Lai. Như Lai là thể của Chánh đẳng giác. Chánh đẳng giác là vĩnh viễn xa lìa cảnh giới các căn.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Vượt các lượng về căn
Không nguyên nhân, kết quả
Tướng nêu và được nêu
Đều vượt khỏi tất cả.
Uẩn, duyên cùng chánh giác
Một, khác không thể thấy
Đã không có người thấy
Làm sao sinh phân biệt?
Không tạo, không phải tạo
Không nhận, không phải nhận
Không uẩn, không phải uẩn
Mà chẳng phải vật khác.
Không có một pháp thể
Như họ phân biệt thấy
Cũng chẳng phải là không
Tánh các pháp như vậy.
Đối hữu nên thành vô
Đối vô nên thành hữu
Không thể giữ được vô
Cũng không nên nói hữu.
Không hiểu ngã, vô ngã
Chấp chặt nơi ngôn từ
Đắm chìm nơi nhị biên
Tự hoại, hoại cuộc đời.
Nếu ai thấy pháp này
Lìa xa mọi lầm lỗi
Cái nhìn này chân chính
Không hủy hoại Đạo sư.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch: –Bạch Thế Tôn! Như trong kinh Phật dạy: “Nếu tất cả là không sinh không diệt, vì không có sự phân biệt hay nắm bắt”, điều này phải chăng là một tên gọi khác của Như Lai?

Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn dạy cho con sự không sinh không diệt này có phải là một pháp không thật không? Và có phải là một tên gọi khác của Như Lai mà Thế Tôn nói không? Thế Tôn dạy: Tất cả pháp không sinh không diệt, vì biết rằng chúng không bị rơi vào chấp có và không.

Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả các pháp là không sinh thì không ai có thể nắm bắt, vì không có pháp nhỏ gì, vậy ai là Như Lai? Cúi xin Thế Tôn giảng giải cho con.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe ta dạy. Như Lai không phải là một pháp không, cũng chẳng thuộc về không sinh không diệt, không thể nắm bắt được, cũng không chờ nhân duyên, chẳng phải vô nghĩa. Ta nói Như Lai tức là Vô sinh. Như Lai cũng có một tên khác, là Pháp thân Ý sinh. Tất cả hàng ngoại đạo, Thanh văn, Duyên giác và Bồ-tát còn ở Địa thứ bảy không hiểu được nghĩa này.

Này Đại Tuệ! Ví như địa vị Đế Thích hay hư không, cho đến tay, chân, tùy mỗi một vật mà có nhiều tên gọi khác nhau. Không phải do có nhiều tên gọi khác nhau mà có nhiều thân thể, cũng không phải không có thân thể.

Này Đại Tuệ! Ta cũng như vậy, nơi thế giới Tabà này có đến trăm ngàn lần ba a-tăng-kỳ tên gọi. Những kẻ phàm ngu tuy nghe, tuy gọi mà không biết rằng tất cả đó là tên gọi khác nhau của Như Lai. Trong đó có một số người biết ta là Như Lai, một số người biết ta là Đấng Tự Tại, là Bậc Vô Sư, là Bậc Đạo Sư, là Thắng Đạo, là Phổ Đạo, là Phật, là Ngưu Vương, là Phạm Vương, là Tỳ-nữu, là Tự Tại, là Thắng Giả, là Ca-tỳ-la, là Chân Thật Biên, là Vô Tận, là Thụy Tướng, là Như Phong, là Như Hỏa, là Câu-tỳ-la, là Mặt Trăng, là Mặt Trời, là Đại Vương, là Tiên, là Miệt-ca, là Nhân-đà-la, là Sao Sáng, là Đại Lực, là Như Thủy, là Đấng Không Hoại Diệt, là Đấng Không Sinh, là Tánh Không, là Chân Như, là Chân Lý, là Thật Tánh, là Thật Tế, là Pháp Giới, là Niết-bàn, là Thường Trú, là Bình Đẳng, là Bất Nhị, là Vô Tướng, là Tịch Diệt, là Đầy Đủ Tướng, là Nhân Duyên, là Phật Tánh, là Giáo Đạo, là Giải Thoát, là Đạo Lộ, là Bậc Nhất Thiết Trí, là Bậc Tối Thắng, là Ý Thành Thân….

Ta có đủ một trăm ngàn lần ba a-tăng-kỳ tên gọi không hơn không kém như vậy. Trong cõi này và trong các cõi khác, ta được mọi người biết như mặt trăng trong nước, không vào không ra. Chỉ có những người ngu si rơi vào nhị biên nên không hiểu được điều ấy. Mặc dầu vẫn cung kính, phụng sự, cúng dường ta, nhưng họ không hiểu đúng nghĩa của các danh từ, cú nghĩa. Họ chấp chặt vào ngôn từ, kinh điển, không hiểu đâu là chân lý, cho rằng không bị sinh diệt là một thể tánh không thật. Và họ không biết là tên gọi khác nhau của Phật như Nhân-đà-la, Thích-yết-la… Vì tin vào kinh điển mà không hiểu chân lý, do đó đối với tất cả các pháp họ vin vào ngôn từ để giữ lấy nghĩa. Những người ngu này tuyên bố rằng: Từ ngữ thế nào thì nghĩa như thế đó, vì nghĩa không khác với từ ngữ. Vì sao? Vì nghĩa không có thể riêng của nó. Những người này không hiểu tự tánh của ngôn ngữ và cho rằng ngôn ngữ tức là nghĩa, chứ không có nghĩa khác.

Này Đại Tuệ! Những người ngu si kia không biết rằng ngôn ngữ thì phải bị sinh và diệt, chứ nghĩa thì không bị sinh diệt.

Này Đại Tuệ! Tất cả ngôn ngữ bị tùy thuộc vào văn tự, chứ nghĩa thì không tùy thuộc vào văn tự. Vì nghĩa tách rời khỏi hữu và vô, nên nó không sinh, không có bản thể.

Này Đại Tuệ! Như Lai không dạy những pháp nào tùy thuộc vào văn tự, vì văn tự thì sự hữu và vô của nó không thể nắm bắt được, ngoại trừ không bị lệ thuộc vào văn tự.

Này Đại Tuệ! Nếu người nào thuyết tháp mà lệ thuộc vào văn tự thì đó là những người nói hư vọng. Vì sao? Vì tự tánh các pháp vượt ra ngoài văn tự. Thế nên, này Đại Tuệ! Ta cùng chư Phật và các vị Bồ-tát thuyết giảng trong kinh rằng: “Như Lai không giảng nói hay trả lời một chữ nào.” Vì sao? Vì tất cả các pháp vượt ra ngoài văn tự, cho nên không phải Như Lai không dạy những gì phù hợp với ý nghĩa, mà giảng nói theo sự phân biệt.

Này Đại Tuệ! Nếu không được thuyết giảng thì giáo pháp sẽ bị đoạn tuyệt. Giáo pháp bị đoạn tuyệt thì không còn Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát và chư Phật. Và tất cả đều không có, thì không có ai giảng dạy và giảng dạy cho ai?

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát không nên lệ thuộc vào văn tự, mà tùy nghi thuyết pháp. Ta và các Đức Phật đều tùy theo phiền não và sự ưa thích của chúng sinh là phần nhiều là không giống nhau. Vì thế để chỉ bày, giảng nói cho họ và làm cho họ hiểu các pháp không ngoài cảnh giới được thấy tự tâm, chứ không phải ngoại cảnh từ bỏ hai sự phân biệt để hoán chuyển tâm ý, thức, chứ không phải để thành lập sự tự chứng phát sinh từ Thánh trí.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát cần phải phù hợp với nghĩa, chớ nên dựa vào văn tự, vì dựa vào văn tự sẽ bị rơi vào tà kiến, chấp chặt vào chủ thuyết của mình mà phát khởi ra ngôn từ. Họ không hiểu về những pháp tướng, văn chương hay câu cú. Chính họ đã bị tổn hại và còn làm tổn hại cho người khác nữa. Họ không làm cho tâm người khác được tỏ ngộ. Nếu họ hiểu rõ về chữ nghĩa, câu cú và thông suốt tất cả pháp tướng của tất cả các pháp thì họ sẽ làm cho tự thân được hưởng thọ sự an lạc vô tướng và cũng làm cho những người khác được an trú trong Đại thừa. Nếu làm cho người khác được an trú trong Đại thừa, thì họ sẽ được sự bảo hộ của tất cả chư Phật, Thanh văn, Duyên giác và các Bồtát. Nếu được chư Phật, Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát bảo hộ, họ sẽ bảo hộ tất cả chúng sinh. Nếu họ bảo hộ được tất cả chúng sinh thì họ sẽ bảo hộ tất cả chánh pháp. Chánh pháp được bảo hộ thì hạt giống Phật không bị đoạn tuyệt. Khi hạt giống Phật không bị đoạn tuyệt thì sẽ đạt đến nơi thắng diệu.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát sinh vào nơi thắng diệu vì muốn làm cho chúng sinh an trú nơi Đại thừa. Họ dùng mười Lực tự tại hiện nhiều hình tướng khác nhau và tùy theo căn cơ chúng sinh mà thuyết giảng pháp chân thật. Pháp chân thật nghĩa là không sai không khác, không đến không đi, nó chấm dứt mọi hý luận.

Vì thế, này Đại Tuệ! Các thiện nam, thiện nữ không nên theo lời nói mà bị chấp trước vào ý nghĩa. Vì sao? Vì pháp chân thật xa lìa văn tự.

Này Đại Tuệ! Ví như có người dùng ngón tay chỉ một vật gì đó, đứa bé lại thấy ngón tay chỉ, chứ không thấy vật được chỉ. Người ngu cũng như vậy, họ vin vào ngón tay lời nói mà sinh chấp chặt, thậm chí cho đến lúc chết cũng không bỏ được ngón tay từ ngữ để nắm lấy chân lý tối hậu.

Này Đại Tuệ! Ví như em bé thì phải ăn thức ăn chín nhừ. Có người không biết cách làm cho thức ăn chín nhừ và cho em bé ăn thức ăn sống, làm cho em bé bị rối loạn. Pháp bất sinh bất diệt cũng vậy, nếu người không biết cách tu tập thì đó là pháp bất thiện. Vì thế, các ông hãy khéo phương tiện tu tập, không nên vin vào ngôn từ, như kẻ chấp vào ngón tay.

Này Đại Tuệ! Ý nghĩa chân thật vi diệu vắng lặng đó là nguyên nhân của Niết-bàn. Còn các từ ngữ thì đi đôi cùng vọng tưởng, hợp theo dòng luân chuyển sinh tử.

Này Đại Tuệ! Nghĩa chân thật đạt được từ nơi học nhiều. Và sự học nhiều này nghĩa là khéo hiểu nơi nghĩa, chứ không phải giỏi nơi ngôn từ. Khéo hiểu ý nghĩa thì hoàn toàn không liên hệ gì đến những kiến giải sai lầm của ngoại đạo. Tự thân không bị đọa và cũng làm cho người khác không bị đọa. Đây mới được gọi là người học nhiều về nghĩa. Những ai muốn cầu nghĩa, hãy nên thân cận, còn những kẻ bị ràng buộc vào ngôn từ thì hãy rời bỏ, lánh xa.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ nương vào oai lực của Đức Phật, lại bạch Phật:

–Bạch Thế Tôn! Không có gì khác biệt trong giáo pháp Như Lai về sự bất sinh bất diệt cả. Vì sao? Vì tất cả hàng ngoại đạo cũng tuyên bố nguyên nhân của họ là bất sinh bất diệt; và Thế Tôn cũng tuyên bố hư không, Niết-bàn và phi trạch diệt là bất sinh bất diệt. Các nhà ngoại đạo tuyên bố rằng: thế gian sinh khởi từ nhân duyên tạo tác; Thế Tôn cũng tuyên bố rằng: Thế gian sinh khởi từ vô minh, ái, nghiệp. Cả hai đều nói đến nhân duyên và chỉ khác nhau về tên gọi mà thôi. Nhân duyên và ngoại vật cũng lại như vậy.

Bạch Thế Tôn! Như vậy không có gì khác nhau giữa giáo pháp Phật cùng giáo pháp của ngoại đạo. Ngoại đạo cho rằng: Vi trần, thắng diệu, tự tại, sinh chủ… chín vật ấy là bất sinh bất diệt; Thế Tôn cũng nói: Tất cả các pháp bất sinh bất diệt, vì hữu và vô của chúng đều không thể nắm bắt được.

Bạch Thế Tôn! Các đại chủng thì không hoại diệt, vì tự tướng của chúng là bất sinh bất diệt, lưu chuyển vòng quanh trong các nẻo, nên tự tánh ấy không bỏ. Tuy sự phân biệt của Thế Tôn và các nhà ngoại đạo có khác nhau chút ít, nhưng tất cả đều không khác các nhà ngoại đạo đã nói. Vì thế, giáo pháp của Phật và các ngoại đạo giống nhau. Nếu có điều gì không giống nhau, xin Thế Tôn giảng giải cho con. Những điều gì Phật dạy là tối thắng. Nếu không có gì đặc biệt trong giáo pháp của Phật đối với ngoại đạo thì đó tức là Phật tánh trong các ngoại đạo. Vì trong hai giáo pháp ấy cũng nói về bất sinh bất diệt. Thế Tôn đã tuyên bố rằng: “Không có nhiều Phật trong cùng một thế giới.” Nhưng, vừa rồi Thế Tôn dạy như vậy tức là có.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Trong giáo pháp của ta dạy về bất sinh bất diệt, không giống các nhà ngoại đạo cũng nói về bất sinh bất diệt; cũng như luận thuyết về bất sinh và vô thường của họ. Vì sao? Vì học thuyết của các nhà ngoại đạo về bất sinh bất diệt vốn đã có tướng thật tánh của nó. Giáo pháp của ta không rơi vào hữu và vô. Giáo pháp của ta vượt ra ngoài hữu và vô, vượt ra ngoài sinh và diệt.

Tại sao là phi vô? Vì tất cả những gì được trông thấy đều như sắc màu, như huyễn giả, như giấc mộng.

Tại sao là phi hữu? Vì tự tánh của sắc tướng hoàn toàn không thật có. Chúng được nhìn thấy hay không nhìn thấy, chúng có thể nắm bắt được và không thể nắm bắt được. Thế nên ta bảo: Tất cả các pháp là hiện hữu và phi hiện hữu.

Khi người ta hiểu rằng tất cả những gì được thấy do chính tự tâm thì phân biệt không còn sinh khởi và được an trú nơi tự tánh. Những gì được tạo tác nơi thế gian đều vĩnh viễn chấm dứt. Người ngu thì tạo tác và phân biệt, chứ bậc Hiền thánh thì không như vậy.

Này Đại Tuệ! Vọng tâm phân biệt là cảnh giới không thật, như thành Càn-thát-bà, như người tạo ra trò ảo thuật.

Này Đại Tuệ! Ví như đứa bé trông thấy thành Càn-thát-bà và do ảo thuật mà chúng thấy trong đó có người, có kẻ buôn bán đi ra đi vào… Tất cả đó chỉ do sự phân biệt của tâm mê mà cho rằng thật sự là có. Phàm ngu cũng nhận thức về sinh và bất sinh, hữu vi hay vô vi cũng đều như vậy. Như người được sinh ra bằng ảo thuật, thì khi mất đi cũng là trò ảo thuật. Thật sự đã là người do ảo thuật thì không sinh, không diệt. Các pháp cũng không liên hệ gì đến sinh diệt cả.

Này Đại Tuệ! Người ngu có những ý niệm sai lầm khi nhìn nhận về sự sinh diệt như vậy, còn các bậc Trí thì không. Ý niệm sai lầm nghĩa là cái nhìn điên đảo, cho rằng tất cả các pháp có tự tánh của chúng. Cái nhìn điên đảo nghĩa là chấp vào các pháp có tự tánh của chúng, chứ không thấy sự vắng lặng. Không nhận thấy sự vắng lặng nên không thể xa lìa sự phân biệt sai lầm.

Vì thế, này Đại Tuệ! Một trí tuệ thấy được vô tướng mới là cao siêu, chứ không phải là thấy được tướng. Vì tướng là nhân sinh ra, nếu vô tướng thì không có phân biệt. Bất sinh bất diệt đó là Niếtbàn.

Này Đại Tuệ! Niết-bàn nghĩa là nhìn thấu suốt chỗ như thật, hoàn toàn từ bỏ tâm phân biệt và những gì thuộc về tâm, đạt được tự chứng bằng Thánh trí, là trí của Như Lai. Ta gọi đó là Niết-bàn vắng lặng.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Vì trừ chấp hữu sinh
Nên thành lập vô sinh
Ta thuyết phi nguyên nhân
Người ngu không hiểu được.
Vạn pháp đều không sinh
Không nghĩa là không pháp
Như thành Càn, huyễn mộng
Dầu có, không nguyên nhân.
Không, vô tánh, vô sinh
Cho con biết vì sao?
Rời các duyên hòa hợp
Không thấy bằng trí tuệ.
Do đó ta tuyên bố
Không, vô sinh, vô tánh
Mỗi mỗi duyên hòa hợp
Hiện hữu nhưng không có.
Phân tích không hòa hợp
Không như ngoại đạo thấy
Như mộng, như tóc rãi
Thành Càn và sóng nắng.
Dối hiện, không có nhân
Thế sự đều như vậy
Bẻ gãy thuyết hữu nhân
Nêu lên thuyết vô sinh.
Nghĩa vô sinh tồn tại
Pháp nhãn thường không diệt
Ta nói luận vô nhân
Ngoại đạo đều kinh sợ.
Vì sao? Nhân ở đâu?
Tại sao lại xuất hiện?
Quán sát pháp hữu vi
Chẳng nhân, chẳng vô nhân.
Ngoại đạo luận sinh diệt
Kiến giải bị loại trừ
Phi hữu nên bất sinh
Hay đợi có các duyên?
Là hữu, tên vô nghĩa
Xin Phật dạy cho con
Phi hữu không bất sinh
Cũng không chờ nhân duyên.
Không phải tên của hữu
Cũng không tên vô nghĩa
Tất cả hàng ngoại đạo
Thanh văn và Duyên giác.
Không thuộc hàng Thất địa
Đây là nghĩa bất sinh
Gạt bỏ các nhân duyên
Không năng tác, sở tác.
Chỉ kiến lập do tâm
Ta gọi đó vô sinh
Các pháp không nhân sinh
Phi vô và phi hữu.
Lìa phân biệt năng, sở
Ta gọi đó vô sinh
Tâm thoát khỏi đối tượng
Dứt bỏ hai tự tánh.
Như vậy chuyển sở y
Ta gọi đó vô sinh
Không vật hiện bên ngoài
Không có nắm chấp tâm.
Đoạn tất cả kiến hoặc
Đây là tướng vô sinh
Các từ “không”, “vô tánh”
Nghĩa ấy đều như vậy.
Không, không phải rỗng không
Vô sinh nên gọi không
Nhân duyên cùng tụ hội
Cho nên có sinh diệt.
Nhân duyên bị phân tán
Thì không sinh không diệt
Nếu lìa các nhân duyên
Thì mọi vật không có.
Đồng tánh và khác tánh
Do người ngu phân biệt
Không gì được sinh ra
Hữu, vô cũng như vậy.
Ngoại trừ đủ các duyên
Nơi ấy có sinh diệt
Gọi là tùy tục giả
Nhân duyên như móc xích.
Nếu rời xích nhân duyên
Sự sinh không còn nghĩa
Ta nói chuỗi móc xích
Không sinh nên bất sinh.
Thoát lỗi của ngoại đạo
Người ngu không hiểu được
Nếu thoát duyên móc xích
Vẫn có pháp riêng sinh.
Đó là luận vô nhân
Phá hoại nghĩa vòng xích
Như đèn soi chiếu vật
Vòng xích hiện cũng vậy.
Đây là lìa vòng xích
Riêng có các pháp hiện
Không sinh thì không tánh
Thể tánh như hư không.
Rời vòng xích cầu pháp
Sự phân biệt kẻ ngu
Lại có vô sinh khác
Là pháp bậc Thánh đắc.
Nó sinh trong bất sinh
Đó là Nhẫn vô sinh
Khi tất cả thế giới
Không gì ngoài vòng xích.
Nếu ai hiểu như vậy
Tâm đạt sự an định
Vô minh cùng ái nghiệp…
Là vòng xích bên trong.
Chủng tử, bùn, bánh xe…
Gọi vòng xích bên ngoài
Nếu bảo có pháp khác
Sinh ra từ nhân duyên.
Trái với nghĩa vòng xích
Không phải giáo lý đúng
Pháp sinh lại không có
Nó là nhân duyên gì?
Dựa nhau mà phát sinh
Đây chính nghĩa nhân duyên
Tính cứng, ướt, nóng, động…
Do người ngu phân biệt.
Không pháp nào ngoài duyên
Nên bảo không tự tánh
Như thuốc trị tùy bệnh
Nguyên tắc không khác nhau.
Do khác nhau của bệnh
Phương thuốc mỗi mỗi khác
Ta vì các chúng sinh
Diệt trừ bệnh phiền não.
Biết năng lực mạnh yếu
Ta dạy các pháp môn
Các phiền não khác nhau
Và có nhiều phương cách.
Duy có một Đại thừa
Tám Thánh đạo Thanh lương.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Tất cả các nhà ngoại đạo đều vọng nói về vô thường. Thế Tôn cũng tuyên bố các pháp hữu vi là vô thường, là pháp sinh diệt, chưa biết điều này đúng hay sai và có bao nhiêu loại vô thường?

Đức Phật nói:

–Theo các nhà ngoại đạo thì có bảy loại vô thường, chứ trong giáo pháp của ta không có. Bảy loại đó là:

1. Có thuyết cho rằng: Vừa khởi đầu là chấm dứt, gọi là vô thường. Sinh rồi lại không sinh, đó là tánh vô thường.

2. Có thuyết cho rằng: Vô thường là thay đổi hình trạng.

3. Có thuyết cho rằng: Sắc tức là vô thường.

4. Có thuyết bảo: Sự thay đổi của sắc gọi là vô thường. Khi tất cả các pháp hiện hữu liên tục, không gián đoạn, có thể làm thay đổi đặc tính tự nhiên của chúng và trở về diệt. Giống như trình tự thay đổi để thành sữa chua, mặc dầu không thể thấy, nhưng có sự tan hoại xảy ra trong tất cả các pháp.

5. Có thuyết cho rằng: Sự vật là vô thường.

6. Có thuyết cho rằng: Sự vật hay không sự vật đều vô thường.

7. Có thuyết cho rằng: Không được sinh ra là vô thường. Vì vô thường có khắp trong tất cả các pháp.

Trong đó, sự vật hay không sự vật đều vô thường. Nghĩa là các sự vật tạo ra hay được tạo ra thì bản chất của nó cùng bị hoại diệt. Tự tánh của đại chủng không bao giờ sinh khởi.

Sự vô thường là bất sinh, nghĩa là không có thường, cũng không có vô thường. Như vậy, tất cả đều không hiện hữu. Phân tích cho đến vi trần tận cùng cũng không tìm thấy. Vì không hiện hữu cho nên gọi là không sinh. Đây là tướng vô thường bất sinh. Vì không hiểu nghĩa này, nên các nhà ngoại đạo rơi vào nghĩa vô thường đặt trên cơ sở bản sinh.

Sự vô thường như vật hiện hữu, nghĩa là cái gì không phải thường hằng là chỗ không phải là vô thường. Các nhà ngoại đạo tự sinh phân biệt. Ý nghĩa điều này thế nào? Các pháp gọi là vô thường, tự nó không bị hoại diệt, nhưng có thể có sự biến hoại của tất cả pháp. Và nếu không phải vô thường làm biến hoại tất cả các pháp thì sẽ không có sự hoại diệt nào nơi tất cả các pháp. Như cây gậy, cái búa, cục đá, cục gạch có thể đập vỡ các vật, nhưng không tự đập mình được. Ở đây cũng như vậy.

Này Đại Tuệ! Hiện tại chúng ta thấy vô thường cùng tất cả các pháp, mà không có sự khác biệt nào giữa nhân và quả. Vô thường ở đây như thế nào? Đó là kết quả không khác nhau, cho nên nguyên nhân và kết quả đều là thường, không thấy có nhân, làm cho các pháp không được tạo thành.

Này Đại Tuệ! Các pháp hoại diệt thật ra cũng có nguyên nhân, nhưng người ngu không thể hiểu được như vậy.

Này Đại Tuệ! Nguyên nhân khác thì không thể sinh ra quả khác. Nếu kết quả sinh ra thì tất cả các pháp khác cùng nhau sinh. Không có sự khác nhau giữa pháp này và pháp kia, năng sinh sở sinh thì không có sự khác, nhưng hiện tại thấy có khác nhau. Vì sao nguyên nhân khác, sinh nơi kết quả khác?

Này Đại Tuệ! Nếu có một sự hiện hữu, các pháp được xem là tính chất vô thường thì nó sẽ cùng với kết quả có tính chất vô thường. Tự nó là vô thường, vậy thì các pháp không được xem là vô thường, mà phải xem là thường hằng.

Này Đại Tuệ! Nếu tính chất vô thường nằm bên trong các pháp thì nó sẽ cùng với các pháp rơi vào ba đời, nó mất đi cùng với các pháp trong quá khứ, mà tương lai thì không sinh và hiện tại đều tan rã. Tất cả các nhà ngoại đạo đều chấp rằng thể tánh của bốn đại chủng không thể hoại diệt, tức là đại chủng khác nhau, đại chủng tạo thành sắc chất không phải khác nhau, cũng không phải không khác nhau, nên tự tánh của nó không hoại diệt.

Này Đại Tuệ! Trong ba cõi được xác lập là tạo thành bởi các đại trong vòng sinh, trụ và diệt. Làm sao mà các nhà ngoại đạo bảo có sự hiện hữu riêng của tính chất vô thường sinh nơi vạn vật mà không hoại diệt ư? Quan niệm vô thường là vừa sinh liền mất, chẳng phải đại chủng hỗ tương tạo ra đại chủng vì chúng khác nhau. Cũng chẳng phải do tự tướng tạo ra, vì không khác vậy. Mà cũng chẳng phải cùng nhau tạo và chúng cùng trái ngược nhau. Nên biết rằng: Không phải vừa tạo ra liền mất nên gọi là vô thường.

Quan niệm cho rằng: Vô thường là những biến đổi về hình tướng, nghĩa là năng tạo và sở tạo không bị tan hoại, mà chỉ có hình tướng là bị tan hoại. Nghĩa ấy như thế nào? Nghĩa là phân tích sắc chất cho đến vi trần thì chỉ hoại hình tướng dài, ngắn… để thấy, chứ không phải hoại cái thể năng tạo, sở tạo sắc. Như vậy là rơi vào chủ trương của phái Số luận.

Sắc tức là vô thường, nghĩa này chỉ cho sự vô thường của các hình dạng bên ngoài, chứ không phải của tánh đại chủng. Nếu tánh đại chủng cũng vô thường thì tất cả mọi sự trên đời này đều không cả. Mọi sự trên đời đều không, nên biết đó là kiến giải của phái Lộ-ca-da. Theo kiến giải này thì tất cả các pháp chỉ có từ ngữ mà thôi, vì tự tánh của nó cùng sinh ra.

Vô thường biến đổi nghĩa là sự biến đổi của sắc thể, chứ không phải sự biến đổi của đại chủng. Ví như vàng được làm thành nhiều đồ trang sức, có nhiều hình thức trang trí khác nhau, nhưng chất vàng thì không thay đổi. Trường hợp này cũng vậy.

Này Đại Tuệ! Những kiến giải này rất nhiều, do các nhà ngoại đạo nhận thức về tính chất vô thường bằng sự phân biệt sai lầm như đã được nói ở đây. Lửa không thể đốt cháy tự tướng của các lửa, nhưng tự nó phân tán. Nếu có thể đốt cháy thì có sự đoạn diệt của các đại chủng.

Này Đại Tuệ! Ta nói các pháp không thường hằng, cũng không vô thường. Vì sao? Vì các pháp bên ngoài là không nắm bắt được, ba cõi chính tại nơi tâm. Ta không nói đến các hình thức, bản tánh của đại chủng mỗi mỗi khác nhau, không có sinh, không có diệt, không có sự tạo ra, hay đã được tạo ra, không có hai loại thể tánh năng thủ và sở thủ. Bởi vì tất cả đều từ phân biệt phát sinh. Khi đã nhận biết đúng rằng do bản chất nhị biên và thông đạt những gì hiện hữu đều chính tự tâm thì sẽ vượt ngoài hai định kiến về hữu và vô. Không còn định kiến về hữu và vô thì không còn phân biệt về năng tạo và sở tạo.

Này Đại Tuệ! Thế gian, xuất thế gian và các pháp thượng thượng của xuất thế gian chỉ là tự tâm, chẳng phải là thường hằng hay vô thường. Nếu không hiểu rõ điều này thì bị rơi vào kiến thức sai lầm nhị biên của ngoại đạo.

Này Đại Tuệ! Tất cả các nhà ngoại đạo không hiểu rõ ba pháp này, họ dựa vào sự phân biệt mà phát khởi ngôn từ và chấp vào tánh vô thường.

Này Đại Tuệ! Cả ba pháp này, ngôn ngữ của nó và phân biệt cảnh giới ấy, chẳng phải người ngu có thể hiểu được điều này.

Bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Vừa tạo, liền chấm dứt
Sự biến đổi hình thức
Các vật thể vô thường
Ngoại đạo lầm phân biệt.
Các pháp không hoại diệt
Các đại tánh thường trụ
Ngoại đạo thấy khác nhiều
Chấp vô thường như thế.
Các nhà ngoại đạo ấy
Đều nói không sinh diệt
Các đại tánh vốn thường
Ai chấp vô thường pháp?
Nhận thức, được nhận thức
Tất cả chỉ tại tâm
Nhị biên từ tâm hiện
Không có ngã, thuộc ngã.
Các pháp của Phạm thiên…
Ta nói chỉ tại tâm
Ngoài tâm duy nhất ấy
Tất cả đều không có.

Phẩm 4: HIỆN CHỨNG

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn dạy cho con biết trạng thái liên tục theo trình tự của Diệt tận định mà tất cả Thanh văn, Duyên giác đạt được. Vì khi con và các Bồ-tát đã thông hiểu sâu xa nơi Diệt tận định rồi, sẽ được an lạc và không còn bị mê lầm, không rơi vào Nhị thừa và trong sự rối loạn của các nhà ngoại đạo.

Đức Phật nói:

–Hãy lắng nghe! Này Đại Tuệ! Các Bồ-tát nào đã đạt tới Địa thứ sáu thì cũng như các Thanh văn, Duyên giác nhập Diệt tận định. Ở Địa thứ bảy, chư Bồ-tát nhập Diệt tận định trong từng phút từng giây để xa lìa tất cả tướng tự tánh của các pháp. Nhưng đó không phải của hàng Nhị thừa, vì hàng Nhị thừa có sự tạo tác nên rơi vào năng thủ và sở thủ, không đạt được tướng vô sai biệt của các pháp, chưa hiểu rõ tướng chung, tướng riêng, pháp thiện, pháp bất thiện. Do đó, ở Địa thứ bảy, các Bồ-tát trong từng phút, từng giây đối với Diệt tận định vẫn chưa chứng đạt.

Này Đại Tuệ! Ở Địa thứ tám, các Bồ-tát, Thanh văn, Duyên giác không còn giữ những ý niệm phân biệt từ tâm, ý và ý thức. Bắt đầu từ Địa thứ nhất đến Địa thứ sáu, các vị quán sát ba cõi được sinh khởi từ sự phân biệt và tất cả không ngoài tâm, ý và ý thức. Không thấy có ngã và những gì thuộc về ngã, không có các đối tượng bên ngoài. Kẻ phàm ngu không hiểu, bởi chất chứa nhiều tập khí xấu từ thời vô thủy đến nay, nên nơi tự tâm họ bị vận hành theo tướng năng thủ và sở thủ mà sinh ra chấp trước.

Này Đại Tuệ! Ở Địa thứ tám, các Bồ-tát đã đạt Tam-muội đồng với Niết-bàn của các Thanh văn, Duyên giác, được năng lực của chư Phật hộ trì nên đối với môn Tam-muội này họ không nhập Niếtbàn. Nếu không được chư Phật hộ trì, họ không thể hóa độ tất cả chúng sinh, không thành tựu trọn vẹn Như Lai địa, cũng sẽ đứt đoạn chủng tánh của Như Lai. Thế nên chư Phật giảng thuyết những công đức lớn không thể nghĩ bàn của Như Lai, làm cho các Bồ-tát đạt đến tận cùng không nhập Niết-bàn. Còn hàng Thanh văn, Duyên giác đam mê trong hạnh phúc Tam-muội, do đó vẫn giữ ý tưởng về Niết-bàn.

Này Đại Tuệ! Ở Địa thứ bảy, Bồ-tát quán sát rõ về tâm, ý và ý thức, về ngã và những gì thuộc về ngã, sự chấp trước, sự vô ngã, sự sinh các pháp, hoặc sinh khởi, hoặc đoạn diệt, tướng chung, tướng riêng. Các vị ấy xác quyết khéo léo về bốn vô ngại biện. Vị ấy được tự tại nơi Tam-muội, dần dần nhập vào các Địa và đầy đủ pháp Bồ-đề phần.

Này Đại Tuệ! Ta sợ các Bồ-tát không hiểu rõ tướng chung và tướng riêng, không biết trình tự tương tục của các Địa, sẽ rơi vào những kiến giải sai lầm của các nhà ngoại đạo, nên ta nói về những điều này.

Này Đại Tuệ! Thật ra không có cái gì sinh ra, không có cái gì biến mất. Tất cả không ngoài sự thấy chính tự nơi tâm và trình tự liên tiếp của các Địa, sự vận hành trong ba cõi. Người ngu không hiểu được điều này. Do vì sự không hiểu của họ mà ta và các Đức Phật giảng thuyết như vậy.

Này Đại Tuệ! Hàng Thanh văn, Duyên giác ở Địa thứ tám của các Bồ-tát vì mê đắm với sự an lạc nơi Tam-muội nên chưa thông hiểu rốt ráo rằng: Không có gì ngoài những điều được thấy tự tâm. Tâm họ bị ràng buộc vào những tập khí sinh ra do ý niệm về tướng chung và tướng riêng. Họ chấp vào hai vô ngã, khởi lên cái biết về Niết-bàn vốn không phải là trí tuệ hoàn toàn vắng lặng.

Này Đại Tuệ! Các Bồ-tát nhận thức về sự an lạc của Tam-muội vắng lặng, liền nhớ đến tình thương vô biên do bản nguyện đã phát, các vị tu hành trọn vẹn mười nguyện vô tận. Vì vậy, các vị không nhập Niết-bàn vì trong Niết-bàn không sinh quả phân biệt, không còn năng thủ và sở thủ. Các Bồ-tát này biết rằng: Tất cả chỉ tại tâm, nên không có ý niệm phân biệt đối với tất cả các pháp. Họ không rơi vào tâm, ý và ý thức, không chấp trước các đối tượng bên ngoài hay bên trong; nhưng các Bồ-tát đã không nêu lên nguyên nhân chính của pháp Phật, tùy vào trí tuệ tự thân, các vị hành động điều gì đều phát khởi như vậy, vì họ đã đạt được trí tuệ tự chứng, thuộc Như Lai địa.

Này Đại Tuệ! Như một người trong giấc mộng, thấy mình tìm cách lội qua dòng sông, nhưng chưa qua hết dòng sông thì người ấy tỉnh mộng. Và khi tỉnh mộng rồi, người ấy suy nghĩ về những gì đã thấy: “Đây là thật hay giả?”, rồi lại thầm nói: “Không phải thật, cũng không phải giả.” Tất cả những dữ kiện đó là do thấy, nghe, biết tích tụ thành tập khí phân biệt qua các sự kiện. Ta đã tách rời ý niệm: “Các pháp hiện hữu hay không hiện hữu”, vì vậy ý thức của ta trong giấc mộng hiện tất cả những gì mà ta đã nhìn thấy.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát cũng như vậy, bắt đầu từ Địa thứ nhất đến Địa thứ bảy, cho đến tăng tiến nhập Địa thứ tám, đạt vô phân biệt, thấy tất cả các pháp giống như giấc mộng… Các vị xa lìa chấp trước năng và sở, quán sát tâm và những gì thuộc về tâm. Các vị nỗ lực quảng đại tu tập giáo pháp Phật-đà. Những ai chưa chứng đắc các vị làm cho họ chứng đắc. Vì các Bồ-tát này đã lìa bỏ những ý tưởng phân biệt vọng chấp phát sinh từ tâm, ý và ý thức nên đạt được Vô sinh nhẫn. Các Bồ-tát này đã đạt được Niết-bàn miên viễn.

Này Đại Tuệ! Trong Đệ nhất nghĩa, không có thứ bậc, cũng không có sự tương tục, xa lìa tất cả cảnh giới phân biệt. Đây chính là pháp tịch diệt (sự vắng lặng tuyệt đối).

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói kệ:

Các trú xứ Phật địa
Duy tâm không ảnh tượng
Đây là điều chư Phật
Đã, đang và sẽ nói.
Thất địa thì có tâm
Bát địa không ảnh tượng
Hai Địa này gọi trú
Địa cuối ta đã đạt.
Tự chứng và thanh tịnh
Địa này là của ta
Ma-hê, cõi tối cao
Sắc cứu cánh tốt đẹp.
Ví như khối lửa lớn
Phát ánh sáng rực rỡ
Hóa hiện nơi ba cõi
Mát mẻ, vui lòng người.
Hoặc là hiện biến hóa
Hoặc biến hóa trước đây
Nơi ấy giảng các thừa
Đều thuộc Như Lai địa.
Địa mười là thứ nhất
Thứ nhất là Địa tám
Thứ chín là Địa bảy
Thứ bảy lại là tám.
Địa hai là thứ ba
Thứ tư là thứ năm
Thứ ba là thứ sáu
Vô tướng không thứ lớp.

Phẩm 5: TÍNH CHẤT THƯỜNG VÀ VÔ THƯỜNG CỦA NHƯ LAI

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Như Lai Ứng Chánh Đẳng Giác là thường hay vô thường?

Đức Phật đáp:

–Đại Tuệ! Như Lai là Bậc Ứng Chánh Đẳng Giác nên không thường, cũng không vô thường. Vì sao? Vì bên nào cũng có sai lầm cả. Vì sao có sự sai lầm?

Này Đại Tuệ! Nếu Như Lai là thường thì mắc lỗi có những tác nhân sinh tạo, vì các nhà ngoại đạo cho rằng tác nhân sinh tạo là thường hằng. Nếu Như Lai không thường thì mắc lỗi với những gì được tạo ra. Đồng nghĩa với các uẩn là tướng và thuộc tướng. Và cuối cùng các uẩn bị đoạn diệt, thành ra không có, nhưng Phật Như Lai thật không có đoạn diệt.

Này Đại Tuệ! Tất cả những gì được tạo ra, như cái bình, cái áo,… đều là vô thường. Do đó, Như Lai mà vô thường cũng không đúng và những sự tu tập phước đức trí tuệ sẽ trở thành rỗng không, vô ích, vì những pháp tác thành Như Lai không khác gì với nguyên nhân. Thế nên Như Lai không phải là thường, cũng không phải là vô thường.

Và này Đại Tuệ! Như Lai không thường hằng nếu Như Lai là thường, thì Như Lai sẽ giống như hư không và không trở thành do nhân.

Này Đại Tuệ! Ví như hư không, không thường hằng, cũng không vô thường. Vì sao? Vì hư không tách rời ý niệm thường hằng và vô thường, hoặc đồng nhất hoặc khác, cả đồng và không dị… Tất cả đều không đúng.

Này Đại Tuệ! Như Lai không thường hằng và nếu Như Lai là thường thì đó là bất sinh, giống như sừng thỏ, sừng ngựa, cá, rắn…

Này Đại Tuệ! Có một ý nghĩa khác, trong đó Như Lai được gọi là thường hằng. Vì sao? Vì trí tuệ hiện chứng thuộc pháp thường hằng, vì trí tuệ chứng ngộ là thường hằng nên Như Lai cũng là thường hằng.

Này Đại Tuệ! Pháp vị, Pháp trụ và Pháp tánh được chư Phật Như Lai chứng đạt ngay liền, nên Như Lai dầu có ra đời hay không ra đời thì pháp ấy vẫn tồn tại không khác. Trong sự chứng đắc của tất cả hàng ngoại đạo, Nhị thừa không phải là sự trống rỗng của hư không, nhưng hàng phàm ngu không thể hiểu biết.

Này Đại Tuệ! Như Lai là do tuệ giác thanh tịnh chứng ngộ pháp tánh mà thành, không phải do tập khí vô minh nối kết với tâm, ý, ý thức và các uẩn, xứ, giới mà đạt được. Tất cả ba cõi đều bắt nguồn từ sự phân biệt hư vọng, còn Như Lai không bắt nguồn từ phân biệt hư vọng.

Này Đại Tuệ! Nơi nào có hai bên thì ở đó có thường hằng và vô thường. Như Lai không ở hai bên, vì chứng biết thực tướng của tất cả các pháp là bất sinh. Vì thế, Như Lai không thường hằng, cũng không vô thường.

Này Đại Tuệ! Bao giờ còn có một chút phân biệt theo ngôn từ sinh khởi, thì còn có ý niệm sai lầm về thường hằng hay vô thường. Thế nên, hãy đoạn trừ sự phân biệt về thường và vô thường bằng tuệ giác, không để cho tồn tại một mảy may nào.

Đức Thế Tôn lập lại bằng kệ tụng:

Xa lìa thường, vô thường
Mà hiện thường, vô thường
Như luôn nhìn thấy Phật
Không kiến giải sai lầm.
Nếu chấp thường, vô thường
Vô ích mọi tích tập
Để trừ biết phân biệt
Không nói thường, vô thường.
Sự khẳng định hình thành
Tất cả đều lẫn lộn
Nếu biết chỉ tự tâm
Thì không còn tranh luận.

Phẩm 6: SÁT-NA

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn dạy cho con biết về sự sinh khởi và biến mất của các uẩn, xứ, giới. Nếu không có ngã thì ai sinh ra và ai diệt? Và những kẻ phàm phu dựa vào sự sinh diệt đó nên không cầu chấm dứt khổ đau và mong chứng đắc Niết-bàn.

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe ta nói.

Này Đại Tuệ! Như Lai tạng là nguyên nhân của thiện hay ác và tất cả các cõi của chúng sinh hay những gì hiện hữu đều được tạo ra từ đó. Ví như một diễn viên biến hiện nhiều hình trạng khác nhau và tách rời khỏi ngã, hay những gì thuộc về ngã. Vì không hiểu điều này nên duyên vào ba hòa hợp, từ đó các kết quả sinh ra. Ngoại đạo không biết điều này nên chấp vào nguyên nhân tạo tác. Do những tập khí đã huân tập từ vô thủy đến nay bởi sự suy luận sai lầm, nên gọi là tàng thức sinh cùng bảy thức, là chỗ trú của vô minh. Ví như biển lớn, trong đó có sóng mãi cuồn cuộn, nhưng thể tướng của nó vẫn tương tục tồn tại không gián đoạn, bản tánh thanh tịnh vượt khỏi sự hư giả của vô thường, xa lìa ngã luận.

Còn bảy thức kia như ý, ý thức… có sự sinh diệt trong từng mỗi niệm. Chúng được sinh ra bởi các duyên hòa hợp mà nguyên nhân là suy tưởng sai lầm về những hình sắc, tướng trạng. Chúng không hiểu về sắc… là những thứ được thấy chính tự tâm, rồi chấp chặt vào danh tướng và khởi lên cảm thọ khổ lạc. Danh tướng ràng buộc con người được sinh ra từ tham, rồi tham lại sinh ra. Nếu nguyên nhân và sở duyên cùng thủ căn bị đoạn diệt thì chúng sẽ không còn tương tục sinh, không còn nhận biết khổ lạc vốn là tự phân biệt của trí tuệ. Hoặc đạt Diệt tận định, hoặc đạt Tứ thiền, hoặc nhập vào giải thoát chân thật. Ngay lúc ấy, hành giả vọng sinh ý niệm giải thoát vừa đạt, mà thật ra chưa xả, chưa chuyển tên tạng thức trong Như Lai tạng. Nếu không có Tạng thức thì bảy thức kia liền đoạn diệt. Vì sao? Vì sự phát triển của các thức tùy thuộc vào nguyên nhân và sở duyên này. Nhưng điều này không thuộc về lãnh vực của những nhà ngoại đạo, của Thanh văn, Duyên giác, hay của những bậc tu hành hiểu biết hết. Họ chỉ biết tính chất của nhân vô ngã, chấp nhận tướng chung và tướng riêng của các uẩn, xứ, giới. Họ thấy được năm pháp, tự tánh các pháp là vô ngã nơi Như Lai tạng, tùy theo thứ bậc của các Địa mà được đoạn diệt dần dần, không bị các nhà ngoại đạo chủ trương kiến giải sai lầm làm dao động. Các vị ấy trụ nơi địa Bất động, đạt được an lạc nơi mười Tam-muội. Nhờ trợ lực của chư Phật trong Tammuội nên quán sát được pháp Phật chẳng thể nghĩ bàn và quán sát sức bản nguyện của mình mà họ không trú vào an lạc của Tam-muội và thật tánh. Nhờ đạt được trí tuệ tự chứng nên vị này không như là hàng Thanh văn, Duyên giác và các nhà ngoại đạo. Bồ-tát đạt đạo mười Thánh chủng tánh và thân trí tuệ do ý sinh ra, thoát khỏi các hành.

Thế nên, này Đại Tuệ! Các Bồ-tát muốn đạt đến giáo pháp cao siêu thì phải thanh tịnh Như Lai tạng, còn gọi là Tàng thức.

Này Đại Tuệ! Nếu không có Như Lai tạng gọi là Tàng thức thì sẽ không có sự sinh khởi hay biến mất. Nhưng các hàng phàm phu cho đến Thánh nhân đều có sự sinh khởi và biến mất. Do đó, những bậc tu hành tuy thấy được nội cảnh (tự chứng) và trú trong pháp lạc hiện tại, nhưng vẫn không lìa bỏ sự nỗ lực tinh tấn tu hành.

Này Đại Tuệ! Tàng thức Như Lai tạng này bản tánh không ô nhiễm, nhưng lại bị ô nhiễm bởi những cấu uế bên ngoài, làm cho không thanh tịnh. Nó xuất hiện nơi tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác và các nhà ngoại đạo, làm cho họ không hiện chứng được. Trường hợp này đối với chư Như Lai thì rất phân minh hiển hiện, như thấy quả A-malặc trong bàn tay.

Này Đại Tuệ! Ta đã giảng kinh này cho phu nhân Thắng Man và các Bồ-tát có trí tuệ thanh tịnh sâu xa vi diệu khác. Ta nói về Như Lai tạng tên là Tàng thức cùng với bảy chuyển thức, làm cho các Thanh văn thấy được pháp vô ngã.

Này Đại Tuệ! Ta thuyết giảng cảnh giới Phật cho phu nhân Thắng Man, chứ không phải cảnh giới của hàng Thanh văn, Duyên giác hay ngoại đạo.

Này Đại Tuệ! Tàng thức Như Lai tạng này là cảnh giới Phật, được hướng đến cho các Bồ-tát như thầy, những vị Bồ-tát có trí tuệ thanh tịnh, có năng lực hiểu biết phù hợp với ý nghĩa, chứ không phải chỗ của hàng Thanh văn, Duyên giác hoặc ngoại đạo hay chấp chặt vào văn tự. Thế nên thầy và các Bồ-tát khác hãy nỗ lực quán sát tu tập đối với Tàng thức Như Lai tạng. Không nên chỉ nghe được chút ít rồi bằng lòng cho là đủ.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Như Lai tạng sâu xa
Tương ưng với bảy thức
Chấp thì nhị biên sinh
Hiểu rõ, nhị biên dứt
Huân tập từ vô thủy
Như ảnh hiện nơi tâm
Quán sát đúng như thật
Các ảnh tượng không có
Người ngu thấy chỉ trăng
Thấy tay nào thấy trăng!
Người chấp chặt văn tự
Không thấy chân lý ta
Tâm như con múa rối
Ý giống như anh hề
Năm thức là bạn lữ
Xem những tuồng vọng tưởng.

Bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn dạy cho con biết những khía cạnh khác nhau của năm pháp, tự tánh, các thức và vô ngã, để con và các Bồ-tát khác hiểu rõ những khía cạnh này mà tu tập, dần dần đến các Địa và đầy đủ các pháp của Phật. Chúng con cũng sẽ đạt được địa vị tự chứng ngộ của Như Lai.

Đức Phật nói:

–Thầy hãy lắng nghe những điều ta nói.

Này Đại Tuệ! Năm pháp, tự tánh, các thức và vô ngã, đó là: danh, tướng, phân biệt, chánh trí, như như. Những bậc tu hành nào quán sát các pháp này sẽ nhập vào cảnh giới tự chứng của Như Lai. Họ sẽ xa lìa những kiến giải về thường đoạn, hữu vô… Họ sẽ được pháp lạc sâu xa của Tam-muội trong hiện tại.

Này Đại Tuệ! Vì người ngu không hiểu năm pháp, tự tánh, các thức và vô ngã nên khởi ra phân biệt, thấy có những vật bên ngoài, thật ra tất cả những thứ này được thấy từ tâm và những bậc Thánh thì không thấy như vậy.

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao người ngu không hiểu, để khởi lên sự phân biệt như vậy?

Đức Phật nói:

–Đại Tuệ! Người ngu không hiểu rằng đó chỉ là tên gọi giả lập. Tâm của họ chạy theo dòng dao động khi nhìn những tướng trạng. Họ chấp vào ngã và những gì thuộc về ngã, đắm say nơi sắc, trí tuệ bị bao phủ bởi vô minh nên sinh khởi tham, sân, si, tạo ra bao nhiêu nghiệp chướng. Giống như con tằm làm kén, ý tưởng sai lầm của con người tự quấn họ rơi vào biển sinh tử luân hồi. Giống như bánh xe kéo nước, mãi quay vòng không dứt. Họ không biết rằng tất cả các pháp như huyễn hóa, như sóng nắng, như bóng trăng trong nước, được thấy bởi tự tâm, sinh khởi từ vọng tưởng phân biệt, không dính dấp gì đến năng thủ và sở thủ, cùng với sinh, trụ và diệt. Họ cho rằng các pháp được sinh ra từ Tự tại thiên, từ thời tiết, vi trần, hay từ một thần linh tối cao. Do đó, họ trôi theo dòng danh tướng.

Này Đại Tuệ! Tướng ở đây có nghĩa là những gì được nhìn thấy do nhãn thức, gọi đó là Sắc. Nghe, ngửi, nếm, thân thể và ý thức được nhận thức là âm thanh, mùi, vị, sự xúc chạm và ý niệm. Tất cả những thứ này ta gọi là tướng.

Sự phân biệt có nghĩa là các tên gọi được đặt ra để nêu chỉ các tướng, như là voi, ngựa, xe, người đi bộ, nam, nữ… Những tên gọi như vậy được nêu ra để chỉ về các tướng của nó. Những sự thể như vậy được chỉ định không khác. Đây gọi là sự phân biệt.

Chánh trí nghĩa là danh và tướng được xem như một sự hỗ tương, do đó không còn sự sinh khởi của tâm thức. Vì không có cái gì đoạn diệt nên không có cái gì thường trụ và không còn bị rơi vào cấp độ của hàng ngoại đạo hay Thanh văn, Duyên giác. Đây gọi là Chánh trí.

Này Đại Tuệ! Các Đại Bồ-tát nhờ Chánh trí này mà quán sát danh và tướng là phi hữu hay phi vô. Khi các kiến thức sai lầm và ý niệm nhị biên làm tổn hại sự lợi ích được lìa bỏ, thì các danh tướng và các thức không còn sinh khởi. Ta gọi pháp này là Như như.

Này Đại Tuệ! Đại Bồ-tát nào đã an trú trên Như như thì sẽ đạt đến trạng thái không chiếu hiện, đạt đến Hoan hỷ địa, xa lìa các cõi ác của ngoại đạo, nhập vào pháp xuất thế. Khi đã thuần thục các pháp tướng, vị ấy nhận ra rằng: Tất cả các pháp giống như huyễn,… nên đạt được pháp thực hành của Thánh trí tự chứng. Vị ấy vượt khỏi sự lập luận lý thuyết, trải qua trình tự tu tập như vậy nên đạt đến Pháp vân địa.

Sau khi đã đạt Pháp vân địa, vị ấy thành tựu quả vị Như Lai. Nơi ấy, những bông hoa của Tammuội, các năng lực, thần thông tự tại đều nở rộ tròn đầy. Khi đã thành tựu Như Lai rồi, vì các chúng sinh, nên vị ấy như mặt trăng trong nước, hiện thân chiếu sáng khắp nơi, vị ấy giảng pháp cho các chúng sinh tùy theo sự yêu thích của họ. Thân của vị ấy thanh tịnh, thoát khỏi ý muốn của tâm, thành tựu trọn vẹn những thệ nguyện rộng lớn và đầy đủ mười nguyện vô tận.

Đây gọi là những gì Đại Bồ-tát đã đạt được khi nhập vào Như như.

Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Phải chăng ba tự tánh là gồm trong năm pháp, hay ba tự tánh có đặc tính riêng của tự nó?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Ba tự tánh, tám thức và hai pháp vô ngã đều gồm trong năm pháp. Danh và tướng của chúng là tánh vọng chấp. Vì tùy thuộc vào chúng nên sự phân biệt sinh khởi về tâm, tâm sở pháp xảy ra đồng thời. Như mặt trời cùng với ánh sáng là tánh duyên khởi. Chánh trí và Như như thì bất diệt, là tánh Viên thành.

Này Đại Tuệ! Khi có sự chấp chặt vào những gì được thấy tự tâm thì có tám thứ phân biệt khởi lên. Điều này do tướng sai biệt, chứ hoàn toàn không có thật, chỉ là tánh vọng chấp mà thôi. Nếu hai loại chấp ngã không còn thì hai trí vô ngã được sinh trưởng.

Này Đại Tuệ! Năm pháp này bao gồm tất cả giáo pháp Phật và gồm cả trình tự các Địa Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Như Lai, nhập vào Thánh trí tự chứng.

Này Đại Tuệ! Năm pháp nghĩa là tướng, danh, phân biệt, như như và chánh trí. Trong đó:

1. Tướng nghĩa là cái được nhìn thấy mỗi hình dáng có nét riêng biệt như hình ảnh, màu sắc… đây là tướng.

2. Dựa vào các hình tướng đó mà người ta đặt tên, như cái bình,… Do đó, người ta gọi cái này như thế này, chứ không phải như thế kia, đó là danh.

3. Khi các tên gọi được nêu ra thì hiển lộ các tướng và cho rằng đây là tâm, hay thuộc về tâm, đây gọi là Phân biệt.

4. Thật ra, danh và tướng này cuối cùng hoàn toàn không có, mà đó chỉ là dòng phân biệt của vọng tâm. Quán sát như vậy cho đến khi nào sự nhận thức cũng không còn thì gọi là Như như.

5. Này Đại Tuệ! Tướng như như này được định nghĩa là chân thật, quyết định, cứu cánh, căn bản, tự tánh, chẳng thể nắm bắt. Ta và các Đức Phật đã tùy thuận chứng nhập thật tướng này một cách trọn vẹn để khai thị, thuyết giảng cho mọi người. Nếu ai đối với pháp này có thể tùy thuận hiểu rõ thật đúng đắn thì vĩnh viễn xa lìa ý niệm về đoạn hay thường và không còn sinh khởi phân biệt, nhập vào Thánh trí tự chứng, ra khỏi cảnh giới của các nhà ngoại đạo và Nhị thừa. Đây gọi là Chánh trí.

Này Đại Tuệ! Năm pháp này bao gồm cả ba tánh, tám thức và hai vô ngã, cùng tất cả giáo pháp Phật.

Này Đại Tuệ! Đối với pháp này, ông hãy khéo léo thông đạt bằng trí tuệ tự chứng và khuyến khích người khác cũng được thông đạt như vậy. Một khi đã thông suốt giáo pháp này rồi, chắc chắn tâm thầy sẽ không bị người khác làm lay chuyển được.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Năm pháp, ba tự tánh
Cho đến tám loại thức
Cùng hai pháp vô ngã
Đều gồm trong Đại thừa.
Danh tướng và phân biệt
Thuộc trong hai tự tánh
Chánh trí và như như
Đó là tướng viên thành.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Bạch Thế Tôn! Trong kinh, Thế Tôn dạy: “Chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai nhiều như số cát sông Hằng.” Điều này có thể chấp nhận theo nghĩa bình thường, hay còn có nghĩa nào khác?

Đức Phật bảo Đại Tuệ:

–Không nên hiểu theo nghĩa bình thường.

Này Đại Tuệ! Chư Phật trong ba đời không thể ví bằng cát sông Hằng. Vì sao? Vì Như Lai là bậc cao tột, siêu việt nhất trong thế gian nên không thể so sánh hay có thể dùng ví dụ để so sánh được. Có chăng chỉ là ví dụ một chút nào đó mà thôi. Ta vì hàng phàm ngu và những nhà ngoại đạo, tâm thường chấp chặt vào ý niệm thường hay vô thường, tăng trưởng kiến giải sai lầm, bị trôi lăn trong dòng luân hồi sinh tử mà làm cho họ xa lìa nhàm chán những hy vọng cao vời, cho rằng Phật sẽ dễ thành và dễ được gặp. Những ai nghe ta nói rằng Như Lai khó gặp, như hoa Ưu-đàm, họ liền thoái tâm và khiếp sợ, không còn nỗ lực tinh tấn, thế nên ta bảo Như Lai nhiều như số cát sông Hằng. Có khi ta quán sát về đối tượng để giáo hóa nên nói rằng: Phật khó gặp như hoa Ưu-đàm-bát.

Này Đại Tuệ! Chưa có ai từng thấy hoa Ưuđàm-bát, đang thấy hay sẽ thấy hoa nở cả. Còn Đức Như Lai thì đã thấy, đang thấy và sẽ thấy.

Này Đại Tuệ! Ví dụ như vậy chẳng liên quan gì đến tự pháp. Vì tự pháp là cảnh giới chân lý, là Thánh trí nội chứng, nó vượt khỏi tất cả những gì trong thế gian có thể lấy làm thí dụ hay so sánh được, tất cả phàm ngu không thể tin hiểu được.

Này Đại Tuệ! Chân lý Như Lai vượt khỏi mọi ý niệm được nhìn nhận bởi tâm, ý và ý thức, nên không thể lập thí dụ nơi Như Lai được. Nhưng đôi khi cũng lập giả thiết cho rằng: Như Lai sánh với số cát sông Hằng vẫn không có gì nghịch lý nhau.

Này Đại Tuệ! Ví như cát sông Hằng có bị dẫm đạp bởi rùa, cá, voi, ngựa,… thì cát vẫn luôn trong sạch, không ô nhiễm, vì không sinh khởi phân biệt. Thánh trí Như Lai giống như cát sông Hằng và các năng lực, thần thông, sự tự tại của Như Lai như là cát ấy. Cho dù bị cá, rùa ngoại đạo tranh nhau đến khuấy nhiễu mà Phật vẫn không sinh khởi một ý niệm phân biệt nào. Vì sao? Vì bản nguyện của Như Lai là đem an lạc của Tam-muội ban bố khắp mọi loài. Như cát sông Hằng không có tâm niệm yêu ghét và không có sự phân biệt.

Này Đại Tuệ! Ví như cát sông Hằng mang tính chất của đất, khi cuối kiếp lửa cháy thiêu tất cả đất, nhưng đại địa ấy không mất bản tánh, luôn cùng với hỏa đại câu hữu phát sinh. Những người ngu muội cho rằng đất bị đốt cháy, nhưng thật ra đất không hề bị cháy, vì đất là nguyên nhân của lửa. Pháp thân Như Lai cũng như vậy, như cát sông Hằng không bao giờ bị hoại diệt.

Này Đại Tuệ! Ví như cát sông Hằng không có hạn lượng, ánh sáng của Như Lai cũng như vậy, chiếu khắp hội chúng của tất cả chư Phật, vì muốn đưa vô lượng chứng sinh đến chỗ thành tựu viên mãn.

Này Đại Tuệ! Ví như cát sông Hằng vẫn giữ bản chất cát của chính nó, không bị biến đổi làm vật khác; Như Lai cũng vậy, không sinh khởi, không đoạn diệt trong thế gian, vì những gì có nhân sinh khởi chắc chắn sẽ đoạn diệt.

Này Đại Tuệ! Ví như cát sông Hằng lấy đi thì không thấy giảm, bỏ thêm thì không thấy nó tăng thêm; chư Phật cũng vậy, dùng trí tuệ phương tiện để hóa độ chúng sinh thì không tăng không giảm. Vì sao? Vì Pháp thân Như Lai không có thân.

Này Đại Tuệ! Vì có thân nên có sự hoại diệt, Pháp thân thì không có thân cho nên không hoại diệt.

Này Đại Tuệ! Ví như cát sông Hằng, dù cho có nhọc công để tìm lấy dầu thì cũng không bao giờ có được. Như Lai cũng vậy, cho dù phải mang nặng khổ đau vì chúng sinh, cho đến những chúng sinh ngu xuẩn, nên chưa vào hết Niết-bàn thì chư Như Lai không bao giờ lìa bỏ tâm nguyện sâu xa, vì hạnh phúc của họ trong khắp pháp giới cũng không thể được. Vì sao? Vì Như Lai đã thành tựu trọn vẹn tâm nguyện đại Bi.

Này Đại Tuệ! Ví như cát sông Hằng bị dòng nước kéo theo, chứ không bị kéo theo nơi không có nước; Như Lai cũng vậy, tất cả pháp Như Lai thuyết đều thuận theo dòng Niết-bàn. Do đó mới bảo rằng: Chư Phật Như Lai giống như cát sông Hằng.

Này Đại Tuệ! Pháp Như Lai thuyết giảng không theo các cảnh giới, vì cảnh giới nghĩa là hoại diệt và không thể biết được ngọn nguồn sinh tử. Đã không thể biết được thì làm sao ta có thể nói ý nghĩa của cảnh giới?

Này Đại Tuệ! Ý nghĩa của cảnh giới là đoạn diệt và người phàm ngu không biết được điều này. Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Nếu ngọn nguồn của sinh tử không thể biết được, thì các chúng sinh ở trong sinh tử làm sao biết được sự giải thoát?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Khi biết rõ thế giới bên ngoài là những gì được nhìn thấy tự tâm thì những nguyên nhân tập khí sai lầm, giả dối từ vô thủy sẽ đoạn diệt, vì những phân biệt được chuyển y (hai quả Bồ-đề và Niết-bàn), gọi đó là giải thoát chứ không phải là hoại diệt. Do đó, không thể nói gì về vô cùng vô cực được.

Này Đại Tuệ! Không cùng cực chỉ là một cái tên khác của phân biệt.

Này Đại Tuệ! Tách rời tâm phân biệt thì không còn một chúng sinh khác. Khi các pháp bên trong và bên ngoài được quán sát bằng trí tuệ thì năng tri và sở tri đều vắng bặt.

Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp chỉ là những gì được nhìn thấy từ sự phân biệt của tự tâm, vì không hiểu biết nên sinh khởi tâm phân biệt, nếu hiểu rõ thì tâm phân biệt không còn.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Quán sát các Đạo sư
Ví như cát sông Hằng
Không hoại cũng không đi
Đó là người thấy Phật.
Ví như cát sông Hằng
Hoàn toàn không lầm lỗi
Cát luôn trôi thuận dòng
Phật tánh cũng như vậy.

Lúc bấy giờ, Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin Thế Tôn dạy cho con biết tướng hoại diệt trong từng sát-na của tất cả các pháp. Các pháp được gọi là sát-na nghĩa là gì?

Đức Phật nói:

–Ông hãy lắng nghe ta dạy!

Này Đại Tuệ! Tất cả các pháp đó là: Pháp thiện, pháp bất thiện, pháp hữu vi hay vô vi, pháp thế gian hay xuất thế gian, pháp hữu lậu hay vô lậu, pháp hữu thọ hay vô thọ.

Này Đại Tuệ! Tóm lại, tâm, ý, ý thức và tập khí là nguyên nhân tăng trưởng của năm thủ uẩn. Do đó, hàng phàm phu sinh phân biệt, cho là thiện hay bất thiện. Còn bậc Trí hiện trú nơi an lạc Tam-muội thì được gọi là pháp thiện vô lậu.

Và này Đại Tuệ! Thiện và bất thiện là chỉ cho tám thức. Tám thức là gì? Nghĩa là Như Lai tạng, gọi là Tàng thức. Ý và ý thức gồm thân năm thức.

Này Đại Tuệ! Thân năm thức hợp cùng ý thức có sự tương tục tiếp nối không gián đoạn và sự khác biệt của thiện hay bất thiện vận hành liên tục, thể ấy không khác, cứ sinh rồi diệt. Vì không hiểu rằng những gì hiện hữu không ngoài cảnh giới tự tâm, nên các thức khác sinh khởi theo trình tự của sự diệt ban đầu. Ý thức cùng hợp nhất với năm thức kia, ghi nhận các tướng trạng và hình ảnh khác nhau nên không giữ yên được một sát-na nào. Điều này ta gọi là pháp sát-na.

Này Đại Tuệ! Như Lai tạng được gọi là Tạng thức cùng với ý và kết hợp với các tập khí. Đây là pháp sát-na. Tập khí vô lậu không phải là pháp sátna. Các nhà luận thuyết và kẻ phàm ngu không thể hiểu pháp sát-na này. Vì họ không hiểu tánh sát-na và phi sát-na của tất cả các pháp nên chấp vào vô vi, đồng với sự hoại diệt của các pháp nên rơi vào đoạn kiến.

Này Đại Tuệ! Thân năm thức thì không bị lưu chuyển, không bị khổ lạc, cũng không phải là nhân của Niết-bàn. Nhưng Như Lai tạng kết hợp cùng với nhân thọ khổ lạc, nên có sinh diệt, nó bị bốn tập khí làm che lấp, mê muội. Những người ngu tâm chứa đầy sự phân biệt, không hiểu rõ nên sinh khởi kiến giải về sát-na.

Này Đại Tuệ! Như vàng, kim cương và xá-lợi của Phật có đặc tính riêng của chúng, nên không bao giờ bị tổn hoại. Nếu đạt chứng ngộ là pháp sátna thì bậc Thánh trí sẽ chẳng phải là Thánh, nhưng bậc Thánh đó chưa từng chẳng phải là Thánh. Như vàng, kim cương tuy trải qua thời gian lâu dài mà cân lượng vẫn không bị giảm. Như vậy tại sao kẻ ngu không hiểu được lời thâm mật của ta đối với tất cả các pháp mà có ý tưởng về sát-na?

Bồ-tát Đại Tuệ bạch:

–Kính bạch Thế Tôn! Thế Tôn thường dạy: Nếu ai thành tựu sáu pháp Ba-la-mật tức là đạt đến Chánh giác. Sáu pháp Ba-la-mật là những gì? Và người ta thành tựu như thế nào?

Đức Phật nói:

–Đại Tuệ! Có ba loại Ba-la-mật khác nhau, đó là thế gian, xuất thế gian và siêu xuất thế gian tối thượng.

Này Đại Tuệ! Ba-la-mật thế gian nghĩa là do đắm trước vào ngã và những gì thuộc về ngã mà những kẻ phàm ngu chấp chặt vào nhị biên, tìm cầu vào các thân, tham thế giới hình sắc… Thế nên họ tu hành Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định ba-la-mật. Họ đạt được thần thông, được sinh vào cõi Phạm thiên.

Này Đại Tuệ! Ba-la-mật xuất thế gian nghĩa là hàng Thanh văn, Duyên giác chấp trước về Niếtbàn, mong cầu niềm vui cho chính mình nên họ tu tập các Ba-la-mật này.

Này Đại Tuệ! Ba-la-mật vượt thế gian tối thượng nghĩa là các Đại Bồ-tát hiểu rõ đối với hai pháp tự tâm chỉ là những gì được hiện hữu từ sự phân biệt. Họ không sinh vọng tưởng, không sinh chấp trước, không chấp sắc tướng.

Vì muốn làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh nên các vị ấy thường tu hành Bố thí ba-la-mật. Họ không hề sinh khởi tâm phân biệt đối với các cảnh giới.

Họ tu hành Trì giới ba-la-mật tức là không bao giờ sinh khởi sự phân biệt.

Nhẫn biết trọn vẹn về tự tánh của năng thủ và sở thủ, đó là Nhẫn nhục ba-la-mật.

Nỗ lực tu tập từ đầu đêm, giữa đêm và cuối đêm không phút giây giải đãi trong sự tùy thuận, hiểu rõ thật nghĩa, không sinh phân biệt. Đây gọi là Tinh tấn ba-la-mật.

Không sinh phân biệt, không khởi kiến giải về Niết-bàn của hàng ngoại đạo, gọi đó là Thiền định ba-la-mật.

Dùng trí quán sát, tâm không phân biệt, không rơi vào nhị biên, làm thanh tịnh sở y mà không hoại diệt, đạt đến cảnh giới nội chứng của trí tuệ bậc Thánh, gọi đây là Bát-nhã ba-la-mật.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Ngu phân biệt hữu vi
Không, vô thường, sát-na
Phân biệt nghĩa sát-na
Như sông, đèn, hạt giống…
Tất cả pháp không sinh
Tịch lặng, không tạo tác
Tánh các việc đều lìa
Ta gọi nghĩa sát-na
Sinh diệt nối tiếp nhau
Không nói cho người ngu
Do tương tục không dứt
Phân biệt khởi các cõi
Vô minh là nguyên nhân
Tâm từ đây sinh khởi
Sắc chưa rõ từ đâu
Trung ấm trú chỗ nào?
Tương tục diệt không ngừng
Tâm khác được sinh ra
Khi không trú nơi sắc
Tâm dựa vào đâu sinh?
Nếu tâm duyên đâu sinh
Nguyên nhân này không thực
Nhân giả thể không thành
Làm sao sát-na mất
Người tu hành chánh thọ
Kim cương, xá-lợi Phật
Đến cung Quang âm thiên
Không bị diệt ở đời
Trí Như Lai viên mãn
Và Tỳ-kheo chứng đắc
Tánh các pháp thường trú
Làm sao thấy sát-na?
Thành Càn, các sắc huyễn
Sao không phải sát-na?
Đại chủng không thật tánh
Sao nói có thể tạo?

QUYỂN 6

Phẩm 7: SỰ BIẾN HÓA

Lúc bấy giờ Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Vì sao các vị A-la-hán được Như Lai thọ ký cho Tuệ giác vô thượng? Vì sao bảo không có pháp Bát-niết-bàn mà các chúng sinh được thành Phật đạo? Và tại sao Thế Tôn bảo từ lúc mới thành Phật cho đến nhập Niết-bàn, trong khoảng thời gian ấy Như Lai chưa từng tuyên bố một chữ nào? Tại sao Như Lai thường tại định mà giác không quán? Vì sao bảo những việc Phật làm đều là thị hiện? Thế nào là sự tan rã theo từng sátna của các thức? Vì sao thần Kim cang thường theo hộ vệ Như Lai? Vì sao không thể biết sự khởi đầu mà nói có Bát-niết-bàn? Có những ma và nghiệp ma, ngoài ra còn có những nghiệp báo khác, chẳng hạn như việc Chiến Già, con gái của một Bà-lamôn hay Tôn-đà-lợi, con gái của một ngoại đạo khất thực trở về với một cái bát không?… Thế Tôn đã có những nghiệp báo như vậy, làm sao có thể chứng đắc Nhất thiết chủng trí? Và đã chứng đắc Nhất thiết chủng trí như vậy, sao Thế Tôn không tránh những tai họa đó?

Đức Phật nói:

–Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe cho kỹ! Ta vì cảnh giới Vô dư Niết-bàn nên đem ý nghĩa thâm mật để khuyên bảo chúng sinh tu Bồ-tát hạnh. Có những Bồ-tát ở cõi này hay quốc độ khác mong cầu Niết-bàn của Thanh văn, vì muốn làm cho họ bỏ tâm niệm ấy để tinh tấn tu hạnh Đại thừa, nên ta dạy điều này. Các Thanh văn biến hóa, Phật biến hóa, được thọ ký, chứ không phải Phật của pháp tánh.

Này Đại Tuệ! Sự thọ ký cho Thanh văn như vậy được nói theo nghĩa thâm mật.

Này Đại Tuệ! Phật cùng hàng Thanh văn, Duyên giác không khác về sự dứt bỏ phiền não chướng, vì đồng một vị giải thoát, nhưng khác với sự dứt bỏ trí chướng. Vì trí chướng là cần phải thấy về pháp vô ngã thì mới được thanh tịnh. Nhưng phiền não chướng nghĩa là khi nhận thức sự vô ngã về người thì ý thức mới đoạn diệt. Khi tập khí trong tàng thức được tiêu diệt thì pháp chướng giải thoát mới được hoàn toàn trong sạch.

Này Đại Tuệ! Ta theo pháp thường trụ để nói nghĩa thâm mật, không khác Phật trước và sau. Như Lai nói pháp đầy đủ phương tiện về những từ ngữ.

Này Đại Tuệ! Như Lai biết một cách đúng đắn, không có suy tưởng sai lầm. Như Lai không đợi suy nghĩ sau đó mới nói pháp. Từ lâu Như Lai đã chấm dứt bốn tập khí, vượt ra khỏi hai sự chết, đoạn trừ hai chướng ngại.

Này Đại Tuệ! Bảy thức là: Ý và ý thức, nhãn thức… do tập khí làm nguyên nhân, đó là tánh sátna. Chúng không có thiện vô lậu và không có pháp lưu chuyển.

Này Đại Tuệ! Như Lai tạng nghĩa là nguyên nhân của sinh tử lưu chuyển, cũng là nguyên nhân của Niết-bàn, cùng đau khổ và hỷ lạc. Người ngu không hiểu biết nên chấp chặt sai lầm nơi sự trống không.

Này Đại Tuệ! Như Lai biến hóa được thần lực sĩ Kim Cang thường theo ủng hộ, không phải đúng là Phật thật, vì Như Lai chân thật vượt ra ngoài mọi hạn lượng, vượt ra ngoài sự hiểu biết của Thanh văn, Duyên giác và hàng ngoại đạo. Như Lai luôn an trú trong pháp lạc, vì Như Lai đã thành tựu trí nhẫn, do đó không bị ràng buộc vào sự ủng hộ của thần lực sĩ Kim Cang. Tất cả Phật hóa thân không sinh theo nghiệp. Chư vị không phải là Phật, cũng chẳng phải không là Phật. Ví như người thợ gốm hòa hợp các thứ để chế tạo, Đức Phật hóa thân cũng vậy. Chư vị vì chúng sinh thuyết giảng đầy đủ các pháp, nhưng không thể nói cảnh sở hành của Thánh trí tự chứng.

Này Đại Tuệ! Những người ngu thấy sáu thức diệt nên sinh khởi chấp đoạn và họ không hiểu tàng thức nên sinh khởi chấp thường.

Này Đại Tuệ! Giới hạn đầu tiên là sự phân biệt tự tâm của họ, cho nên không biết được, vượt ra ngoài sự phân biệt này tức là được giải thoát. Đoạn trừ được bốn tập khí thì xả bỏ được tất cả những sai lầm.

Đức Thế Tôn nói kệ:

Ba thừa là vô thừa
Phật không có Niết-bàn
Như Lai trao thọ ký
Giảng lìa mọi lỗi lầm.
Thành tựu trí cứu cánh
Và Vô dư Niết-bàn
Sách tấn người khiếp nhược
Nói ý thâm mật này.
Trí chư Phật đạt được
Thuyết giảng con đường này
Không con đường nào khác
Nên Phật không Niết-bàn.
Các kiến, dục, sắc, hữu
Đó là bốn tập khí
Ý thức từ đây sinh
Tàng thức, ý cũng vậy.
Chấp đoạn cho vô thường
Bởi ý thức, nhãn thức
Ý, tạng mê khởi thường
Trí tà nghĩ Niết-bàn.

Phẩm 8: KHÔNG ĂN THỊT

Lúc bấy giờ Bồ-tát Đại Tuệ lại bạch:

–Bạch Thế Tôn! Xin hãy nói cho con nghe về công đức hay lỗi lầm của sự ăn hay không ăn thịt, để con và các chúng Bồ-tát biết được ý nghĩa này mà trong hiện tại và trong tương lai có thể giảng nói về quả báo tích tập của sự ăn thịt cho các chúng sinh, làm cho họ lìa bỏ vị thịt và mong cầu nơi pháp vị. Họ sẽ khởi tâm Từ rộng lớn đối với tất cả chúng sinh và đem lòng thương yêu họ như đứa con duy nhất. Họ an trú ở các Địa Bồ-tát và chứng đắc Tuệ giác vô thượng, hoặc tạm thời dừng ở địa vị Thanh văn, Duyên giác, cứu cánh sẽ thành Vô thượng Chánh giác.

Kính bạch Thế Tôn! Phái Lô-ca-da-đà và các hàng ngoại đạo đều sinh khởi các kiến giải về hữu và phi hữu, chấp trước vào đoạn và thường. Họ cũng cấm ăn thịt và chính họ cũng không ăn thịt. Huống chi Như Lai là Bậc Ứng Chánh Đẳng Giác, đức Từ bi rộng lớn bao trùm khắp tất cả và là nơi nương tựa của cuộc đời, tại sao không cấm việc ăn thịt cho chính mình và cả mọi người?

Lành thay! Đức Thế Tôn! Đấng Đại Từ Đại Bi trọn vẹn, thương xót thế gian với tâm bình đẳng, xem tất cả chúng sinh như đứa con duy nhất của mình. Xin Thế Tôn hãy giải thích cho chúng con về công đức hay tội ác của việc ăn thịt hay không ăn thịt, để con cùng chư Bồ-tát nghe xong phụng hành và truyền bá cho mọi người.

Bồ-tát Đại Tuệ lập lại bằng kệ tụng:

Bồ-tát Ma-ha-tát
Chí cầu Vô thượng giác
Rượu thịt đến hành hẹ
Là ăn hay không ăn?
Kẻ ngu ham ăn thịt
Hôi hám không thể nói
Kẻ ấy như thú dữ
Làm sao có thể ăn?
Nếu ăn có tội gì?
Không ăn có đức chi?
Cúi xin đấng tối thắng
Thuyết giảng hết cho con.

Đức Phật bảo Bồ-tát Đại Tuệ:

–Này Đại Tuệ! Ông hãy lắng nghe và suy nghĩ! Ta sẽ phân tích và giải thích rõ ràng.

Này Đại Tuệ! Vì có vô số nguyên do mà đối với tất cả các loại thịt, Bồ-tát nên sinh lòng từ mẫn, không nên ăn bất cứ loại thịt nào. Nay ta giảng nói cho ông một số nguyên do này:

Này Đại Tuệ! Từ vô lượng kiếp đến nay, tất cả chúng sinh bị trôi lăn mãi trong vòng sinh tử không ngừng, không một chúng sinh nào đã từng là cha mẹ, anh em, hoặc con trai, con gái, hoặc bà con dòng họ, cho đến bạn bè thân thiết, hay tôi tớ của thầy. Khi thay đổi mạng sống, có thể họ sẽ làm thân chim muông, cầm thú… Làm sao Bồ-tát đối với những chúng sinh như vậy mà có thể ăn thịt được! Này Đại Tuệ! Bồ-tát Ma-ha-tát quán thấy các chúng sinh cũng như chính thân mình và làm sao có thể ăn thịt được, nếu các ông nghĩ rằng thịt ấy đều từ thân mạng sinh ra?

Này Đại Tuệ! Các loài La-sát… khi nghe ta nói về việc này, còn chấm dứt sự ăn thịt, huống chi những người yêu thích pháp!

Này Đại Tuệ! Bồ-tát ở nơi nào có chúng sinh được sinh ra thì hãy quán các chúng sinh ấy đều là bà con thân thuộc, cho đến thương tưởng họ như nghĩ đến đứa con duy nhất. Vì thế, không nên ăn bất cứ một loại thịt nào.

Này Đại Tuệ! Tất cả những loại thịt được người ta đem bày bán bên lề đường hay phố chợ, họ đem cả thịt chó, thịt ngựa, thịt trâu, thịt người… vì cầu lợi mà người ta bán cả những thứ thịt không thường ăn. Đầy những sự tạp nhạp, nhơ bẩn như vậy, làm sao có thể ăn được!

Này Đại Tuệ! Tất cả các loại thịt đều được tạo thành từ tinh dịch, máu… đầy ô uế, người cầu đạo thanh tịnh làm sao có thể ăn được!

Này Đại Tuệ! Các chúng sinh rất sợ hãi khi thấy người ăn thịt, thế nên người tu tâm Từ làm sao có thể ăn thịt được?

Này Đại Tuệ! Ví như có những người thợ săn, kẻ bán thịt, ngư phủ, lưới chim… và những người ác, những con chó trông thấy hãi sợ sủa vang, loài thú trông thấy bỏ chạy. Tất cả những loài vật bay trên trời hay ở dưới nước, nếu gặp những người này cũng đều nghĩ rằng: “Người này sắc khí giống như La-sát, hôm nay đến đây chắc sẽ hại ta.” Vì muốn giữ thân cho nên chúng nó cùng bỏ chạy. Người ăn thịt cũng như vậy. Thế nên Bồ-tát vì tu hạnh Từ bi không nên ăn thịt.

Này Đại Tuệ! Hễ người nào ăn thịt, thân thể sẽ hôi thối, tiếng xấu vang xa và bậc Thánh hay người hiền đều không gần gũi. Vì thế, Bồ-tát không nên ăn thịt.

Này Đại Tuệ! Máu và thịt là nơi các bậc tiên xa lánh và các bậc Thánh không ăn. Vì vậy, Bồ-tát không nên ăn thịt.

Này Đại Tuệ! Bồ-tát đem tâm Từ bảo vệ chúng sinh, làm cho họ không sinh tâm hủy báng đối với pháp Phật-đà. Vì lòng thương xót nên Bồ-tát không ăn thịt.

Này Đại Tuệ! Nếu đệ tử của ta ăn thịt, sẽ làm cho người đời phê phán, chê cười rằng: “Sa-môn là người tu hạnh thanh tịnh, tại sao lại bỏ loại thức ăn của bậc Thiên tiên, mà lại ăn thịt giống như loài ác thú! Tại sao họ ăn thịt đầy bụng, rồi lại đi khắp nơi trên thế giới gây sự kinh hãi khiếp sợ cho chúng sinh, làm hủy hoại hạnh thanh tịnh và đánh mất đời sống của một Sa-môn. Thế mới biết rằng: Không có hạnh chế ngự những người này trong giáo pháp nhà Phật.” Vì không muốn những người này sinh tâm phỉ báng giáo pháp Phật như vậy, nên Bồ-tát với lòng từ thương xót che chở chúng sinh, không bao giờ ăn thịt.

Này Đại Tuệ! Khi thịt của con người hay thịt của các loài sinh vật khác được nướng lên thì mùi hôi thối ấy không khác nhau. Vì sao có sự phân biệt là ăn hay không ăn đối với các loại thịt ấy.

Thế nên tất cả những ai thích đời sống thanh tịnh đều không nên ăn thịt.

Này Đại Tuệ! Có những người thiện nam, thiện nữ tĩnh tâm tu hành ở nơi nghĩa địa, dưới gốc cây thanh vắng, hoặc an trú tâm Từ, hoặc trì chú thuật, hoặc mong cầu giải thoát, hoặc hướng đến Đại thừa, nhưng do vì ăn thịt phải gặp nhiều chướng ngại, không được thành tựu như ý nguyện. Thế nên, Bồ-tát muốn lợi mình và lợi người thì không được ăn thịt.

Này Đại Tuệ! Người ăn thịt khi trông thấy hình sắc của các sinh vật đã sinh tâm ham muốn mùi vị của chúng, Bồ-tát Từ bi luôn nghĩ đến tất cả chúng sinh như chính bản thân mình, làm sao có thể trông thấy chúng mà sinh ra ý tưởng ăn thịt được? Thế nên Bồ-tát không nên ăn thịt.

Này Đại Tuệ! Những người ăn thịt sẽ bị chư Thiên xa lánh, hơi miệng thường hôi hám, khi ngủ thấy toàn ác mộng bất an, đến lúc thức lòng đầy âu lo. Người này đã bị ác quỷ Dạ-xoa đoạt mất tinh khí, tâm kinh hoàng, ăn uống không biết điều độ, tật bệnh tăng thêm, dễ sinh ung nhọt. Luôn bị loài trùng rúc rỉa, nên đối với thức ăn, người này không bao giờ biết nhàm chán từ bỏ.

Này Đại Tuệ! Ta thường dạy rằng: Khi ăn thịt phải có ý tưởng như ăn thịt đứa con của mình, ăn thức ăn khác cũng nghĩ như vậy. Sao ta có thể cho phép đệ tử của ta ăn thịt được?

Này Đại Tuệ! Thịt không mang lại sự tốt đẹp, bởi vì thịt không trong sạch, chúng sinh ra nhiều tật xấu, làm tan hoại các công đức, là chỗ chư tiên Thánh nhân hoàn toàn xa lánh. Sao ta có thể cho phép đệ tử của ta ăn thịt được? Người nào bảo được phép ăn thịt thì người đó hủy báng ta.

Này Đại Tuệ! Thức ăn tốt và trong sạch nên biết chính là gạo, lúa mì, lúa mạch, đậu, sữa, dầu, đường… Những loại thức ăn này đã được chư Phật thời quá khứ cho dùng và ta đã nêu bày cho các thiện nam, thiện nữ trong chủng tộc của ta từ lâu đã vun trồng thiện căn, tín tâm thanh tịnh. Họ không sinh tâm tham đắm nơi thân mạng, tài sản, thương yêu mọi loài như chính thân mình. Những người này hãy nên ăn uống như vậy, vì họ không phải tích tập những tánh xấu ác của loài hổ lang và tâm họ không bị chìm sâu trong ngã ái.

Này Đại Tuệ! Thuở xưa có một ông vua tên Sư Tử Sinh. Ông ta đắm say các mùi vị thịt, ăn tất cả các loại thịt và sự tham ăn thịt ấy dẫn đến ăn cả thịt người. Từ đó, quan dân hết chịu nổi hành động ấy, nên họ xa lánh ông. Cuối cùng, ông mất cả vương vị, quốc gia, phải gánh chịu vô vàn khổ não.

Này Đại Tuệ! Thích Đề-hoàn Nhân làm vua ở trên trời, vào thời quá khứ, do tập khí ăn thịt phải biến thành chim ưng đuổi bắt chim bồ câu. Lúc bấy giờ, ta làm vua tên Thi-tỳ, vì thương xót chim bồ câu kia nên ta đã tự cắt thịt của mình cho chim ưng để thay mạng sống cho chim câu.

Này Đại Tuệ! Ngay cả Đế Thích mà vẫn còn dư báo làm khổ não cho chúng sinh, huống chi là những kẻ luôn ăn thịt và không biết hổ thẹn là gì. Nên biết rằng: Người ăn thịt là tự gây khổ não cho chính mình và cho cả người khác. Vì thế, Bồ-tát không nên ăn thịt.

Này Đại Tuệ! Thuở xưa, có một ông vua cỡi ngựa đi săn. Ngựa chạy quá nhanh và đi lạc vào trong núi sâu hiểm trở. Nhà vua không thể quay lại con đường cũ, cắt đứt liên lạc với cư dân. Ông ta cùng đi với một con sư tử cái và đã phạm những hành vi xấu để rồi sau đó sinh ra mấy con sư tử con. Đứa con lớn nhất của ông vua và sư tử tên là Bang túc. Sau đó được làm vua thống lãnh bảy ức hộ. Ông vua này chỉ ham ăn thịt và trở thành thói quen là không phải thịt thì không ăn. Ban đầu ông còn ăn thịt thú vật, dần dần ông ăn cả thịt người, để rồi sinh ra những đứa con trai, con gái toàn là La-sát. Sau khi chuyển đổi thân người, những đứa con này lại sinh trong các loài sư tử, hổ, báo, sói, chồn, cú… Có mong muốn làm thân người, chắc chắn không bao giờ được, huống chi thoát khỏi đường sinh tử, đạt đến Niết-bàn an lạc.

Này Đại Tuệ! Có biết bao nhiêu là lỗi lầm sinh ra từ sự ăn thịt và những ai biết đoạn tuyệt không ăn thịt, sẽ đạt được vô lượng công đức. Người ngu si không biết đến sự lợi ích và tác hại như vậy. Thế nên, hôm nay ta chỉ dạy cho các vị: phàm những gì là thịt thì không nên ăn.

Này Đại Tuệ! Sở dĩ có sự sát sinh vì có nhiều người ăn thịt. Nếu không có người ăn thịt thì cũng chẳng có sự giết hại. Vì vậy, người ăn thịt và người sát sinh đồng tội như nhau. Thật lạ thay! Người thế gian vì tham đắm mùi vị thịt, nên ngay cả thịt người còn không từ chối, huống chi thịt của loài chim muông, cầm thú, có gì mà không ăn! Do vì đắm say vị thịt mà con người bày ra đủ mọi phương tiện như giăng lưới, đặt bẫy ở khắp mọi nơi, không kể là dưới nước, đất liền hay trên không trung, tất cả con vật đều bị giết hại. Có thể có người tự thân họ không ăn, nhưng vì tham tiền mà họ làm việc sát sinh này.

Này Đại Tuệ! Trong đời lại có những kẻ không có lòng thương xót, chuyên làm những hành động hung bạo giống như La-sát. Nếu họ thấy những chúng sinh có thân mập khỏe, liền nghĩ ngay đến việc con vật này thịt có thể ăn được.

Này Đại Tuệ! Món thịt chẳng phải là thực phẩm hiển nhiên trong đời sống, nếu tự mình không giết, cũng chẳng bảo người khác giết, tâm không nghi giết thì mới có thể ăn được. Với ý nghĩa này, ta cho phép Thanh văn ăn những loại thịt này.

Này Đại Tuệ! Thời tương lai sẽ có những người ngu si đi xuất gia trong giáo pháp của ta, nói sai lầm giới luật, làm rối loạn chánh pháp, phỉ báng lời dạy của ta. Họ bảo rằng: Ta cho phép ăn thịt và chính ta cũng đã từng ăn thịt.

Này Đại Tuệ! Nếu ta cho phép hàng Thanh văn ăn thịt thì làm sao ta có thể an trú với tâm Từ? Người thực hành hạnh Đầu-đà tu tập quán hạnh, hướng đến Đại thừa, ta thường khuyên các thiện nam, thiện nữ hãy dứt hẳn việc ăn tất cả các loại thịt, đối với các chúng sinh nghĩ rằng đó như đứa con duy nhất của mình.

Này Đại Tuệ! Ta giải thích khắp nơi về mười điều ngăn cấm và ba điều cho phép, đó là những phương tiện cấm đoán tạm thời cho người mới tu học. Nhưng nay, trong kinh này thì tự giết hay bảo người khác giết, hễ là thịt thì tuyệt đối cấm hẳn.

Này Đại Tuệ! Ta chưa từng hứa cho phép đệ tử của ta ăn thịt, dù là hiện tại hay tương lai, ta cũng không cho như vậy.

Này Đại Tuệ! Sự ăn thịt hoàn toàn là đồ bất tịnh đối với người xuất gia.

Này Đại Tuệ! Có người si mê, vu khống Như Lai là đã ăn thịt và cho phép mọi người ăn thịt. Nên biết, những kẻ như vậy phải bị trói buộc theo ác nghiệp, chắc chắn sẽ bị sa đọa, vĩnh viễn không được ở chỗ hạnh phúc an vui.

Này Đại Tuệ! Hàng đệ tử Thanh văn của ta đối với thức ăn người thường dùng còn không ăn, huống chi ăn những thức ăn có máu thịt nhơ nhớp.

Này Đại Tuệ! Hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát còn chỉ ăn pháp vị, huống chi là Đức Như Lai?

Này Đại Tuệ! Pháp thân của Như Lai chẳng phải là thân ăn tạp.

Này Đại Tuệ! Ta đoạn tận tất cả phiền não, ta đã gột sạch tất cả tập khí xấu xa. Ta đã hoàn toàn giải thoát trong tâm và trí tuệ, xem tất cả chúng sinh như đứa con duy nhất của mình bằng tâm đại Bi bình đẳng, vậy thì tại sao ta lại cho phép hàng

Thanh văn đệ tử cũng như chính ta ăn thịt được?

Kẻ nào nói ra điều này thật hoàn toàn không có cơ sở.

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn lập lại bằng kệ tụng:

Đều từng là thân thuộc
Tạo thành bởi uế nhơ
Làm muôn loài sợ hãi
Vì thế không ăn thịt.
Các loại thịt và hành
Hẹ, tỏi, các thứ rượu
Là những vật bất tịnh
Người tu hành tránh xa.
Cũng tránh các dầu thoa
Không ngủ giường khoan lỗ
Vì loài trùng nhỏ nhít
Ở nơi đó hoảng sợ.
Ăn uống sinh buông lung
Buông lung sinh vọng tưởng
Từ vọng tưởng sinh tham
Thế nên không ăn thịt.
Từ vọng tưởng sinh tham
Do tham sinh mê muội
Tâm mê tăng ái dục
Không giải thoát sinh tử.
Vì lợi giết chúng sinh
Vì thịt để thu tiền
Cả hai đều nghiệp ác
Chết đọa ngục Khiếu hoán.
Không nghĩ lời ta dạy
Có ba loại gọi sinh
Không thịt nào ở đời
Ta quở trách người ăn.
Ăn thịt nhau mà sống
Chết đọa trong ác thú
Hôi hám và điên cuồng
Vì thế không ăn thịt.
Thợ săn, Chiên-đà-la
Đồ tể, La-sát-bà
Kẻ sinh trong loài này
Quả báo từ ăn thịt.
Đã ăn không hổ thẹn
Đời đời thường điên cuồng
Chư Phật và Bồ-tát
Cùng Thanh văn quở trách.
Kinh Tượng Hiếp Đại Vân
Niết-bàn, Ương-quật-ma
Và kinh Lăng-già này
Ta đều dạy dứt thịt
Trước hết thấy, nghe, nghi.
Đều đoạn tất cả thịt
Vì người tập khí ác
Kẻ ngu lầm phân biệt
Tham chướng ngại giải thoát.
Ăn thịt cũng như vậy
Nếu kẻ nào ăn thịt
Không thể vào dòng Thánh
Tương lai có những người.
Thiếu trí, bảo ăn thịt
Thích hợp không có tội
Phật cho phép ta ăn
Ăn thịt giống như thuốc.
Nghĩ như thịt trẻ con
Thế nên người tu hành
Khất thực và biết đủ
Ăn thịt nghịch giải thoát.
Ngược chiều biểu tượng Thánh
Làm chúng sinh kinh hãi
Vì thế không ăn thịt
Ai an trú tâm Từ.
Ta dạy: Hãy chán xa
Ăn thịt sinh cùng chỗ
Với sư tử, hổ lang
Đối các loại rượu thịt.
Tất cả đều không ăn
Ắt sinh trong Hiền thánh
Giàu sang nhiều trí tuệ.

Phẩm 9: ĐÀ-LA-NI

Lúc bấy giờ, Đức Phật bảo Đại Bồ-tát Đại Tuệ: –Này Đại Tuệ! Chư Phật trong các đời hiện tại, quá khứ và tương lai vì muốn ủng hộ người thọ trì kinh này nên chư Phật đã tuyên nói thần chú kinh Lăng-già. Nay ta cũng nói như vậy, thầy nên thọ trì.

Đức Thế Tôn nói thần chú:

–Đát diệt tha, đổ tra đổ tra, đỗ tra đỗ tra, bát tra bát tra, cát tra cát tra, a ma lệ a ma lệ, tì ma lệ tì ma lệ, nhĩ mê nhĩ mê, hí mê hí mê, phược mê phược mê, cát lệ cát lệ, yết la cát lệ, a tra mạt tra, chiết tra đốt tra, kì nhã tra tát phổ tra, cát địa thích địa, bát địa, hí mê hí mê, đệ mê, chiết lệ chiết lệ, bát lợi bát lợi, bạn đệ tì đệ, án chế mãn chế, trú, trà lệ đỗ trà lệ, bát trà lệ, át kế đát kế, mạt kế mạt kế, chước kết chước kết lệ, địa mê địa mê, hí mê hí mê, trú trú trú trú, chử chử chử chử, đỗ đỗ, đỗ, đỗ đỗ, đỗ hổ, đỗ hổ, đỗ hổ, đỗ hổ, sa bà ha. (Tadyathā tuṭṭe tuṭṭe vuṭṭe vuṭṭe paṭṭe paṭṭe kaṭṭe kaṭṭe amale amale vimale vimale nime nime hime hime vame vame kale kale kale kale aṭṭe maṭṭe vaṭṭe, tuṭṭe jñeṭṭe spuṭṭe kaṭṭe kaṭṭe laṭṭe paṭṭe dime dime cale cale pace pace badhe bandhe añce mañce dutāre dutāre patāre patāre arkke arkke sarkke sarkke cakre cakre dime dime hime hime ṭu ṭu ṭu ṭu, ḍu ḍu ḍu

ḍu, ru ru ru ru, phu phu phu phu, svāhā)

Này Đại Tuệ! Vào đời tương lai, có người thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng hay giảng nói cho người khác chú Đà-la-ni này, nên biết, người đó không bị tất cả loài người hay phi nhân cùng các quỷ thần… làm hại.

Lại có người sau khi chết sẽ đọa trong đường ác, hãy vì người ấy tụng niệm thần chú này một trăm lẻ tám biến, tức thời ác quỷ nhanh chóng chạy mất.

Này Đại Tuệ! Ta sẽ nói cho ông nghe chú Đàla-ni này:

–Đát diệt tha, bát đầu ma đệ tì, bát đầu mê hê, ni hê nhĩ nê, lệ chủ la chủ lệ, hổ lệ hổ la hổ lệ, dữu lệ dữu lệ, phả lệ phả lệ phả lệ, sân đệ tẫn đệ, bạn thệ mạt đệ, ni la ca lệ, sa bà ha. (Tadyathā padme padmadeve hine hini hine cu cule culu cule phale plula plule yule ghule yula yule ghule ghula ghule pale pala palemuñce cchinde bhinde bhañje marde pramarde dinakare svāhā.)

Này Đại Tuệ! Có người thiện nam, thiện nữ nào thọ trì, đọc tụng hoặc giải thích chú Đà-la-ni này cho người khác, thì những người đó không bị tất cả hàng Trời, Rồng, Dạ-xoa, Nhân phi nhân… và các loài thần hay ác quỷ làm hại được. Ta cũng nói thần chú này để ngăn cấm các loài La-sát. Nếu ai trì chú này tức là người đó đã thọ trì đầy đủ trọn vẹn tất cả văn cú của kinh Nhập Lăng-già vậy.

Phẩm 10: KỆ TỤNG (Phần 1)

Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên bố ý nghĩa sâu rộng trong kinh Lăng-già này, nên lập lại bằng lời kệ:

Các pháp không vững bền
Chúng sinh từ phân biệt
Do phân biệt là không
Nên phân biệt trống rỗng.
Vì vọng tưởng phân biệt
Thế nên thức sinh khởi
Nhiều đến tám, chín thức
Như các sóng trên biển.
Tập khí thường tăng trưởng
Bám chặt theo rễ sâu
Tâm vận hành theo cảnh
Như sắt với nam châm.
Tánh chúng sinh thuộc vào
Vượt khỏi những suy lường
Và hiểu biết lìa trí
Chuyển hóa được giải thoát.
Đạt Tam-muội như huyễn
Vượt qua nơi mười Địa
Khi quán thấy tâm vương
Thoát khỏi tưởng và thức.
Một khi tâm chuyển đổi
Đó là lúc thường trụ
Nơi cung điện hoa sen
Được sinh từ cảnh huyễn.
Đã đến cung đó rồi
Tự tại vô công dụng
Làm lợi ích chúng sinh
Như viên ngọc muôn màu.
Không hữu vi, vô vi
Chỉ trừ lầm phân biệt
Kẻ ngu mê chấp chặt
Như Thạch nữ mơ con.
Nên biết ngã, linh hồn
Các duyên và uẩn, giới
Đều không có tự tánh
Không sinh và phi hữu.
Ta dùng phương tiện nói
Thật ra không có tướng
Người ngu mê chấp chặt
Vào tướng năng, tướng sở.
Một người biết tất cả
Tất cả chẳng tất cả
Người ngu bị phân biệt
Phật không giác, giác tha.
Các pháp như mộng huyễn
Không tự tánh, không sinh
Tất cả do tánh không
Có, không, chẳng nắm bắt.
Ta chỉ nói một tánh
Vượt khỏi vọng suy lường
Tự tánh không có hai
Thuộc cảnh giới bậc Trí.
Như bốn đại không điều
Thấy biết như đom đóm
Sự thấy đều không thật
Thế gian cũng như vậy.
Hiện hữu giống ảo thuật
Nhờ cỏ cây, ngói gạch
Ảo thuật không thật có
Các sự vật cũng vậy.
Không chấp, không bị chấp
Không buộc, không bị buộc
Như huyễn, như quáng nắng
Như mộng, như hoa mắt.
Ai muốn thấy chân thật
Vượt khỏi chấp, phân biệt
Nên tu quán chân thật
Thấy Phật ắt không nghi.
Cuộc đời như giấc mộng
Sắc, dục, tài cũng vậy
Người nhận biết như đây
Thân là nhất của đời.
Ba cõi do tâm khởi
Bị lầm thấy mê hoặc
Lìa vọng vượt thế gian
Biết vậy, chuyển nhiễm trước.
Cái thấy của người ngu
Không rõ sinh và diệt
Người trí thấy như thật
Không sinh cũng không diệt.
Thường hành không phân biệt
Thoát khỏi tâm, tâm pháp
Ở trời Sắc cứu cánh
Nơi ấy không mắc lỗi.
Được thành tựu chánh giác
Đủ năng lực thần thông
Các Tam-muội thù thắng
Hiện hóa chứng tại đây.
Hóa thân không ức lượng
Đến khắp cả mọi nơi
Cho người ngu nghe pháp
Âm hưởng pháp khó lường.
Tách rời đầu, giữa, cuối
Vượt khỏi hữu, phi hữu
Phổ biến mà hiện khắp
Biến khắp nhưng bất đồng.
Bảo trong thân chúng sinh
Bị tính chất bao phủ
Mê lầm nên có huyễn
Không phải huyễn làm mê.
Bởi do tâm mê hoặc
Tất cả đều hiện hữu
Đây là tướng ràng buộc
Tàng thức khởi thế gian.
Các thế gian như vậy
Chỉ có lập luận giả
Kiến giải như thác lũ
Vận hành trong ngã, pháp.
Khi nhận thức như vậy
Sẽ có sự đột biến
Đó chính là con ta
Thành tựu pháp tùy thuận.
Người ngu bị phân biệt
Thấy nóng, lỏng, rắn, động
Giả danh không thật có
Không tướng và định tướng.
Thân thể và các căn
Tạo thành bởi tám chất
Người ngu vọng chấp sắc
Bị lừa trong khung thân.
Người ngu vọng phân biệt
Nhân duyên hòa hợp sinh
Không hiểu tướng chân thật
Lưu chuyển trong ba cõi.
Các chủng tử trong thức
Mà hiện tâm, cảnh giới
Người ngu khởi phân biệt
Mê chấp nơi hai thủ.
Vô minh, ái và nghiệp
Tâm nương vào đó sinh
Thế nên ta biết rõ
Thuộc tánh Y tha khởi.
Vọng phân biệt có vật
Bị theo tâm mê hoặc
Phân biệt hoàn toàn không
Mê lầm chấp là có.
Tâm bị các duyên buộc
Sinh khởi nơi chúng sinh
Nếu thoát khỏi các duyên
Ta bảo không thấy có.
Đã thoát khỏi các duyên
Không lệ thuộc bởi tướng
Không còn khởi trong thân
Với ta, không đối tượng.
Tâm chúng sinh sinh khởi
Vì năng thủ, sở thủ
Không có tướng sở kiến
Như người ngu phân biệt.
Hình thành A-lại-da
Tàng thức của tối cao
Vượt trên năng, sở thủ
Ta thuyết giảng chân như.
Không có ngã trong uẩn
Không ngã, không chúng sinh
Do thức được sinh ra
Khi diệt cũng thức diệt.
Như bức tranh cao thấp
Thực sự không như vậy
Các sự vật cũng thế
Tuy thấy nhưng phi hữu.
Như thành Càn-thát-bà
Như sóng nắng giữa trưa
Được nhìn thấy như vậy
Người trí không thấy thế.
Nhân duyên và thí dụ
Thiết lập một mệnh đề
Như thành, mộng, xe lửa
Ảo ảnh, mặt trời, trăng.
Như sóng nắng, hoa đốm
Ta hiển bày vô sinh
Thế giới đều trống không
Mê hoặc như huyễn mộng.
Thấy các cõi không sinh
Ba cõi không nương tựa
Không trong cũng không ngoài
Thành tựu Vô sinh nhẫn.
Đạt Tam-muội Như huyễn
Cho đến Ý sinh thân
Tất cả các thần thông
Năng lực và tự tại.
Các pháp vốn vô sinh
Trống rỗng, không tự tánh
Mê hoặc các nhân duyên
Tùy duyên có sinh diệt.
Người ngu vọng phân biệt
Tùy tâm mà hiện tâm
Xuất hiện nơi ngoại sắc
Thật ra không sở hữu.
Như định lực quán thấy
Tượng Phật cùng bộ xương
Phân tích các đại chủng
Thuộc giả thiết thế gian.
Thân thể, tài sản, nhà
Cả ba do chấp giữ
Ý thủ và phân biệt
Cả ba là năng thủ.
Mê hoặc vọng chấp trước
Vì phân biệt năng sở
Chỉ theo cảnh, văn tự
Mà không thấy chân thật.
Hành giả nhờ tuệ quán
Thấy pháp không tự tánh
An trú trong vô tướng
Tất cả đều dứt bặt.
Như vẽ con gà trống
Người ngu si mê chấp
Thật không có ba thừa
Người ngu không thấy vậy.
Nếu thấy các Thanh văn
Cho đến Bích-chi-phật
Đều Bồ-tát đại Bi
Biểu hiện biến hóa ra.
Ba cõi chỉ tại tâm
Phân biệt hai tự tánh
Chuyển y lìa nhân pháp
Khi ấy là chân như.
Ánh sáng đèn, trời, trăng
Ngọc và các đại chủng
Không phân biệt tác dụng
Chư Phật cũng như vậy.
Các pháp như hoa đốm
Vượt khỏi sinh, trụ, diệt
Xa rời thường, vô thường
Sạch, nhơ cũng như vậy.
Như người bị mê man
Thấy mặt đất màu vàng
Thật ra trong đất ấy
Vốn không có tướng vàng.
Người ngu cũng như vậy
Tâm mê loạn từ xưa
Vọng chấp các cõi thật
Thật ảo như quáng nắng.
Nên quán một chủng tử
Đều không cùng nhãn hiệu
Một chủng, tất cả chủng
Các chủng đều một tâm.
Chủng tử được thanh tịnh
Chuyển thành không chủng tử
Bình đẳng đồng pháp ấn
Tất cả không phân biệt.
Nhiều chủng tử khác nhau
Đều sinh các cảnh giới
Vô số khổ rối rắm
Gọi tất cả chủng tử.
Quán tự tánh các pháp
Mê hoặc không còn gì
Vô sinh vốn tánh vật
Hiểu vậy tức giải thoát.
Định tâm quán thế gian
Các sắc do tâm khởi
Tâm mê từ vô thủy
Thật không sắc, không tâm.
Như thành Càn, huyễn thuật
Hoa đốm và quáng nắng
Phi thực mà hiện hữu
Các pháp cũng như vậy.
Tất cả pháp không sinh
Chỉ thấy bởi mê hoặc
Do từ mê vọng sinh
Người ngu chấp hai bên.
Bởi vô số tập khí
Chuyển tâm như làn sóng
Khi tập khí đoạn trừ
Sóng tâm không khởi lại.
Tâm duyên các cảnh khởi
Như vẽ dựa theo tường
Nếu không, trong không trung
Tại sao không vẽ được?
Nếu dựa theo chút tướng
Làm cho tâm sinh khởi
Tâm đã từ duyên sinh
Duy tâm nghĩa không thành.
Tâm tánh vốn thanh tịnh
Vắng lặng như hư không
Khiến tâm lại chấp tâm
Chẳng do nhân nào khác.
Chấp trước chính tâm hiện
Làm cho tâm sinh khởi
Không sự thấy bên ngoài
Cho nên nói duy tâm.
Tàng thức gọi là tâm
Tư lương lấy làm ý
Biết rõ các cảnh giới
Gọi đó chính là thức.
Tâm luôn luôn vô ký
Ý vận hành hai cách
Hiện tại thức vận hành
Hoặc là tốt hay xấu.
Sự chứng không thời gian
Vượt các cõi, cấp địa
Và vượt tâm đo lường
Trụ nơi quả vô tướng.
Sự thấy hữu cùng vô
Cho đến tất cả tướng
Đều là những kẻ ngu
Bị chấp trước điên đảo.
Nếu biết lìa phân biệt
Thì thật không hợp lý
Vì tâm không có sắc
Thế nên không phân biệt.
Các căn giống như huyễn
Thế giới đều như mộng
Năng tác và sở tác
Tất cả đều không có.
Tục đế, có tất cả
Đệ nhất nghĩa thì không
Các pháp không tự tánh
Gọi là Đệ nhất nghĩa.
Ở trong không tự tánh
Nhân nơi những ngôn từ
Mà có vật hiện hữu
Đây gọi là tục đế.
Nếu không có ngôn từ
Sự vật khởi cũng không
Trong thế đế không có
Sự thể, ngôn từ không.
Pháp điên đảo sai lầm
Thật chẳng thể nắm bắt
Nếu thừa nhận sai lầm
Thì không có tự tánh.
Vì tính chất hữu vô
Bị hiểu cách sai lầm
Tất cả những hiện hữu
Đều chẳng thể nắm bắt.
Tâm đầy tập khí xấu
Hiện ra nhiều hình tướng
Mê muội thuộc ngoài tâm
Vọng chấp các hình tướng.
Phân biệt vô phân biệt
Sự phân biệt đoạn được
Thấy được vô phân biệt
Chứng chân không thật tánh.
Tâm thấm đậm vô minh
Sự thấy các chúng sinh
Như voi, ngựa, ảo thuật
Lá cây cho là vàng.
Như người bị hoa mắt
Thấy lầm cái hoa đốm
Người ngu cũng như vậy
Vọng chấp các thế giới.
Phân biệt, bị phân biệt
Sự gây nên phân biệt
Bị ràng buộc vào nhân
Sáu nhân làm giải thoát.
Do chấp chặt nơi đây
Không địa, không sự thật
Cũng không những cõi nước
Hóa Phật và Nhị thừa.
Tâm khởi tất cả pháp
Khắp mọi nơi và thân
Tâm tánh thật vô tướng
Vô trí chấp chặt nhiều.
Tướng mê muội phân biệt
Gọi là Y tha khởi
Sự đặt tên tướng này
Đây chính là vọng chấp.
Các duyên pháp hòa hợp
Phân biệt nơi danh tướng
Và chúng không còn sinh
Gọi là Viên thành thật.
Khắp thế giới mười phương
Chúng sinh và Bồ-tát
Bao nhiêu pháp, báo thân
Hóa thân Phật biến hóa.
Đều từ Vô lượng thọ
Từ cõi Cực lạc ra
Ở nơi kinh Phương quảng
Nên biết mật ý kinh.
Những gì các Bồ-tát
Và Đấng Đạo Sư nói
Đều là Hóa thân nói
Chẳng phải Báo thân Phật.
Các pháp chưa hề sinh
Nhưng không phi hiện hữu
Như huyễn, như giấc mộng
Như hóa, như thành Càn.
Tất cả do tâm khởi
Tất cả do tâm thoát
Tâm không sinh cách khác
Tâm diệt cũng như vậy.
Vì chúng sinh phân biệt
Hiện ra tướng hư vọng
Duy tâm thật không cảnh
Lìa phân biệt giải thoát.
Tích tập từ vô thủy
Những phân biệt vu vơ
Huân tập tập khí xấu
Khởi thế giới hư vọng.
Vì chấp lầm tự tánh
Các pháp đều không sinh
Dựa vào nơi duyên khởi
Chúng sinh phân biệt lầm.
Phân biệt không tương xứng
Được tương đối thanh tịnh
Tách rời khỏi phân biệt
Chuyển biến đến chân như.
Chớ vọng chấp sai lầm
Vọng chấp tức không thật
Bị mê lầm phân biệt
Chấp, sự chấp đều không.
Phân biệt thấy ngoại cảnh
Là sai lầm tự tánh
Do chấp sai lầm này
Sinh tự tánh duyên khởi.
Thấy ngoại cảnh sai lạc
Tất cả chỉ tại tâm
Quán sát đúng chân lý
Biết, nhận biết không còn.
Như người ngu phân biệt
Ngoại cảnh vốn không thật
Tâm động vì tập khí
Theo cảnh giới bên ngoài.
Phân biệt hai bên dứt
Trí siêu việt chân như
Khởi lên không hình tướng
Thánh hạnh khó nghĩ bàn.
Do mẹ cha hợp lại
Như đề hồ trong hũ
A-lại-da cùng ý
Làm tăng trắng đỏ thêm.
Bế thị và điêu bào
Do nghiệp uế phát sinh
Gió nghiệp tăng tứ đại
Sinh ra như quả chín.
Năm, năm và năm thứ
Ghẻ, nhọt có chín thứ
Móng, răng, tóc đầy đủ
Đầy đủ mới sinh ra.
Mới sinh như con trùng
Như người ngủ thức dậy
Mở mắt thấy hình tướng
Phân biệt dần tăng thêm.
Biết được do phân biệt
Sự tập hợp lợi, môi…
Đầu tiên phát ra tiếng
Giống như con chim vẹt.
Tùy ý thích chúng sinh
An lập nơi Đại thừa
Chẳng phải chỗ sai lầm
Ngoại đạo không thể nhận.
Cái thừa chính ta chứng
Kẻ biện luận không đạt
Xin nói khi Phật diệt
Ai thọ trì pháp này?
Đại Tuệ! Ông nên biết
Thiện Thệ nhập Niết-bàn
Đời tương lai sẽ có
Người trì pháp của ta.
Trong nước Nam Thiên Trúc
Tỳ-kheo danh đức lớn
Pháp hiệu là Long Thọ
Phá kiến về hữu vô.
Tuyên thuyết trên thế giới
Pháp Đại thừa vô thượng
Đạt Sơ hoan hỷ địa
Sẽ đến nước Cực lạc.
Nghĩa xảy ra các duyên
Không thể có và không
Trong duyên vọng chấp vật
Phân biệt có và không.
Thuộc kiến giải ngoại đạo
Xa rời giáo pháp ta
Danh tự tất cả pháp
Tùy thuộc theo chỗ sinh.
Đã và đang huân tập
Cùng phân biệt xoay vần
Nếu không gọi danh xưng
Thế giới đều lẫn lộn.
Để tránh sự lầm lẫn
Nên tên gọi lập ra
Các pháp bị phân biệt
Mê muội bởi tên gọi.
Bắt nguồn từ các duyên
Có ba loại phân biệt
Vì không sinh không diệt
Bản tánh như hư không.
Không sở hữu tự tánh
Gọi là tướng vọng chấp
Như huyễn, ảnh, quáng nắng
Như vòng lửa, ảnh, mộng.
Như tiếng vang, thành Càn
Gọi là Y tha khởi
Chân như, không, không hai
Giới hạn và pháp tánh.
Hoàn toàn không phân biệt
Ta gọi là Viên thành
Ngôn ngữ thuộc tâm hành
Hư vọng rơi hai bên.
Tuệ phân biệt chân đế
Là tuệ chẳng phân biệt
Nhận thức của người trí
Người ngu không như vậy.
Như người trí nhận thức
Tất cả vật không tướng
Như chiếc vòng ngọc giả
Không vàng mà tưởng vàng.
Các pháp cũng như thế
Ngoại đạo lầm mê chấp
Các pháp không đầu, cuối
Trụ nơi tướng chân thật.
Không người tạo cuộc đời
Mê chấp không hiểu vậy
Pháp hiện hữu quá khứ
Hiện tương lai, hiện tại.
Tất cả pháp như vậy
Đều gọi là vô sinh
Vì các duyên hòa hợp
Nên gọi là có pháp.
Nếu duyên không hòa hợp
Không sinh cũng không diệt
Những điều kiện sinh pháp
Không thể đồng hay dị.
Nói tóm, đó là sinh
Nói rộng đó là diệt
Không, bất sinh là một
Không, sinh là việc khác.
Không, bất sinh tốt hơn
Không, sinh là hoại diệt
Không, chân như, giới hạn
Pháp giới và Niết-bàn.
Các loại Ý sinh thân
Ta gọi nhiều tên khác
Đối với kinh, luật, luận
Ai phân biệt thanh tịnh.
Nếu không hiểu vô ngã
Theo sách, không theo nghĩa
Chúng sinh lầm phân biệt
Kiến văn như sừng thỏ.
Phân biệt tức mê lầm
Thú khát theo sóng nắng
Do nơi vọng chấp chặt
Nên khởi ra phân biệt.
Nếu rời nhân vọng chấp
Không còn khởi phân biệt
Thật sâu xa cao rộng
Biết cõi Phật tự tại.
Ta dạy các Phật tử
Chẳng phải hàng Thanh văn
Ba cõi không, vô thường
Tách rời ngã, thuộc ngã.
Ta dạy hàng Thanh văn
Học thuyết tổng quát này
Không ràng buộc các pháp
Cô tịch là bước đi.
Quả Bích-chi suy niệm
Ta chỉ dạy cho người
Thân lệ thuộc sinh khởi
Mê muội không tự thấy.
Phân biệt ngoài tự tánh
Làm cho tâm vọng khởi
Có được do gia lực
Sinh đến các đường khác.
Hay đạt từ giấc mộng
Là bốn loại thần thông
Đạt được từ trong mộng
Nhờ oai lực của Phật.
Nhập vào từ các loại
Không sinh từ kết quả
Tâm ảnh hưởng tập khí
Giống thực sự hiện hữu.
Phàm ngu không hiểu biết
Nên bảo có sự sinh
Còn theo vọng phân biệt
Với đối tượng bên ngoài.
Thì lúc ấy vọng tăng
Không thấy lầm chính tâm
Vì sao nói có sinh?
Sao không nói sở kiến?
Không sự thấy mà thấy
Vì ai? Nói cho ai?
Bản thể tâm vốn tịnh
Ý và thức tương ưng.
Tập khí thường huân tập
Tạo ra các ô nhiễm
Tàng thức rời khỏi thân
Ý mới mong các đường.
Thức lầm giống cảnh giới
Nhận biết bằng tham chấp
Sự thấy chỉ tại tâm
Ngoại cảnh không thể có.
Ai tu quán như vậy
Lìa vọng, đạt chân như
Cảnh giới các thiền giả
Nghiệp và oai lực Phật.
Ba điều không thể bàn
Chúng vượt trên suy tưởng
Quá khứ, tương lai, người
Hư không và Niết-bàn.
Ta tùy theo thế tục
Chân đế rời văn tự
Nhị thừa và ngoại đạo
Cùng tùy thuộc các kiến.
Bị mê hoặc duy tâm
Lầm phân biệt ngoại cảnh
La-hán, Bích-chi-phật
Cho đến Phật Bồ-đề.
Chủng tử chắc giác ngộ
Mộng được Phật quán đảnh
Như huyễn tâm, tĩnh lặng
Tại sao nói hữu vô?
Nơi nào và cho ai?
Vì sao? Cho con biết
Kẻ mê hoặc duy tâm
Nói huyễn, hữu, phi hữu.
Tương ưng tướng sinh diệt
Hợp với tướng bình đẳng
Ý thức là phân biệt
Đi cùng với năm thức.
Như ảnh tượng, thác lũ
Khởi theo tâm, chủng tử
Nếu tâm, ý, ý thức
Các thức không sinh khởi.
Liền đạt Ý sinh thân
Cũng đạt nơi Phật địa
Các duyên và uẩn, giới
Tự tướng của nhân pháp.
Đều do tâm giả lập
Như mộng và hoa đốm
Xem đời như mộng huyễn
Nương tựa nơi chân thật.
Chân thật lìa các tướng
Vượt khỏi nhân tương ưng
Bậc Thánh trí tự chứng
Thường trụ nơi vô niệm.
Mê hoặc nhân tương ưng
Chấp thế gian là thật
Tất cả hý luận diệt
Mê lầm không sinh nữa.
Khi còn mê phân biệt
Thì tâm si hiện khởi
Các pháp không vô tánh
Và thường hay vô thường.
Kiến giải người theo sinh
Không phải theo vô sinh
Đồng, dị, hay không đồng
Tự nhiên và tự tại.
Thời gian, bụi, thắng tánh
Duyên phân biệt thế gian
Thức, hạt mầm sinh tử
Có mầm nên có sinh.
Như bức tranh dựa tường
Nhận biết tức không còn
Ví như xem ảo thuật
Ảo thuật sống và chết.
Phàm ngu cũng như vậy
Tưởng có buộc và mở
Pháp nhị biên trong, ngoài
Cho đến nhân duyên kia.
Người tu hành quán sát
Họ trụ nơi vô tướng
Tâm không lìa tập khí
Cũng không cùng tập khí.
Tuy tập khí ràng buộc
Tướng tâm không sai biệt
Tâm như tấm vải trắng.
Ý thức bị nhiễm bụi
Bụi tập khí làm nhơ
Khiến tâm không hiển hiện
Ta nói như hư không.
Không có, cũng chẳng không
Tàng thức cũng như vậy
Không cả hữu và vô
Ý thức nếu chuyển biến.
Tâm thoát khỏi vẩn đục
Ta bảo tâm là Phật
Hiểu rõ tất cả pháp
Đoạn tận ba tương tục.
Và thoát khỏi Tứ cú
Xa lìa hữu và vô
Sự vật thường như huyễn
Bảy địa đầu tâm khởi.
Nên có hai tự tánh
Địa sau và Phật địa
Đều là Viên thành thật
Cõi Dục, Sắc, Vô sắc.
Cho đến cõi Niết-bàn
Tất cả thân thể này
Thuộc về cảnh giới tâm
Còn có chỗ sở đắc.
Thì mê hoặc sinh khởi
Nếu thông hiểu tự tâm
Tâm hoặc nghiệp không sinh
Hai pháp ta thiết lập.
Các tướng và chứng đắc
Bốn nguyên tắc lý thú
Phương tiện thuyết thành tựu
Thấy các loại danh tướng.
Là mê hoặc phân biệt
Nếu xa lìa danh tướng
Lìa tánh tịnh bậc Thánh
Tùy năng sở phân biệt.
Sẽ có tướng vọng chấp
Nếu lìa phân biệt kia
Tự tánh của bậc Thánh
Khi tâm được giải thoát.
Là chân lý bất biến
Chủng tánh và pháp tánh
Chân như không phân biệt
Vì có tâm thanh tịnh.
Nên cũng có ô nhiễm
Không tịnh thì không nhiễm
Thuộc cảnh giới người trí
Thế gian sinh từ duyên.
Tăng trưởng nơi phân biệt
Quán chúng như mộng huyễn
Giải thoát chính lúc ấy
Bao nhiêu tập khí xấu.
Nối kết cùng với tâm
Chúng sinh thấy ngoại cảnh
Không thấy pháp tánh tâm
Bản tâm vốn thanh tịnh.
Không sinh từ mê hoặc
Mê sinh từ tập khí
Không nhận thức được tâm
Mê hoặc tức chân thật.
Chân thật không đâu khác
Các hành chẳng phải hành
Chẳng thấy từ nơi khác
Hữu vi được nhìn thấy.
Rời khỏi tướng, sự tướng
Các tướng được xa lìa
Thấy thế giới tại tâm
An trú vào duy tâm.
Không phân biệt ngoại cảnh
Trụ nơi chân như trụ
Siêu việt khỏi tâm lượng
Khi siêu việt tâm lượng.
Cũng vượt nơi vô tướng
Do trụ nơi vô tướng
Nên không thấy Đại thừa
Thiền tịnh không dụng công.
Tĩnh tu các đại nguyện
Trí cao vời vô ngã
Không tướng nên không thấy
Nên quán cảnh giới tâm.
Và quán cảnh giới trí
Bằng tuệ quán siêu việt
Không mê hoặc nơi tướng
Khổ đế thuộc tâm hành.
Tập sở hành của trí
Diệt, đạo và Phật địa
Đều là tuệ siêu việt
Chứng ngộ cùng Niết-bàn.
Cho đến tám Thánh đạo
Thông hiểu tất cả pháp
Là trí Phật thanh tịnh
Nhãn căn và sắc cảnh.
Không, minh cùng tác ý
Được sinh từ tàng thức
Chúng sinh, nhãn thức sinh
Thủ là năng sở thủ.
Gọi sự cả hữu vô
Phân biệt sai không nhân
Là kẻ không có trí
Danh nghĩa không cùng sinh.
Danh nghĩa khác cũng vậy
Chấp nhân, không nhân sinh
Đều không lìa phân biệt
Lầm nghĩ trụ chân đế.
Thuyết giảng theo nhận định
Một tánh, năm không thành
Nên xa lìa thật nghĩa
Hý luận nơi hữu vô.
Hãy vượt khỏi nơi này
Do nhận biết vô ngã
Không vọng cầu các cõi
Kẻ chấp cho thường hằng.
Chú thuật cùng tranh luận
Chân lý rời ngôn thuyết
Nhận thấy pháp tịch diệt
Vì nương nơi tàng thức.
Nên ý chuyển khắp nơi
Vì nương vào tâm ý
Nên có các thức sinh
Tập thành pháp hư vọng.
Và tâm tánh chân như
Thiền giả quán như vậy
Thông đạt tánh duy tâm
Quán ý cùng sự tướng.
Không nghĩ thường, vô thường
Cho đến sinh, không sinh
Không phân biệt hai nghĩa
Từ nơi A-lại-da.
Sinh khởi nơi các thức
Hoàn toàn nơi một nghĩa
Mà sinh hai loại tâm
Do nhận thức tự tâm.
Chẳng không, chẳng ngôn thuyết
Nếu không thấy tự tâm
Bị kiến giải ràng buộc
Các duyên không sinh phân.
Các căn không chỗ có
Không tham, không uẩn, giới
Không tất cả hữu vi
Các nghiệp báo vốn không.
Không tạo tác, hữu vi
Xưa nay không chấp trước
Không buộc, cũng không mở
Không pháp hữu vô ký.
Pháp, phi pháp đều không
Không thời, không Niết-bàn
Tánh pháp chẳng nắm bắt
Không Phật, không chân lý.
Không nhân, cũng không quả
Chẳng loạn, chẳng Niết-bàn
Không sinh cũng không diệt
Cũng không mười hai chi.
Chẳng hữu biên, vô biên
Đoạn tận tất cả kiến
Ta gọi là duy tâm
Nghiệp phiền não cùng thân.
Và nghiệp sự đắc quả
Như sóng nắng, như mộng
Như thành Càn-thát-bà
Vì trú tại duy tâm.
Nên tách rời các tướng
Vì trú tại duy tâm
Nên nhận thức đoạn thường
Niết-bàn không các uẩn.
Vô ngã và vô tướng
Vì nhập vào duy tâm
Chuyển y đạt giải thoát
Tập khí xấu làm nhân.
Ngoài hiện nơi đại địa
Cho đến các chúng sinh
Duy tâm không sự thấy
Thân, tài sản, ảnh tượng.
Tập khí chúng sinh hiện
Tâm chẳng có hữu vô
Tập khí làm không hiện
Dơ hiện ở trong sạch.
Không sạch hiện nơi nhơ
Như mây che bầu trời
Tâm không hiện cũng vậy
Tánh vọng chấp làm hữu.
Nơi duyên khởi thì không
Do mê lầm vọng chấp
Không phân biệt duyên khởi
Sắc chẳng được tạo thành.
Có sắc chẳng được tạo
Thành Càn, mộng, huyễn, ảo
Các thứ này chẳng tạo
Nếu nơi pháp duyên sinh.
Gọi là thật, không thật
Người này quyết định theo
Kiến giải đồng và dị…
Thanh văn có ba loại.
Nguyện sinh hay biến hóa
Và thoát khỏi tham, sân…
Từ nơi pháp sinh ra
Bồ-tát cũng ba loại.
Họ chưa đạt Phật địa
Tùy chúng sinh nghĩ nhớ
Hiện thân giống như Phật
Sự hiện tâm chúng sinh.
Đều sinh từ tập khí
Vô số các ảnh tượng
Như mây, sao, trăng, trời
Nếu đại chủng là có.
Phải chăng có tạo sinh?
Tánh đại chủng là sinh
Không năng tướng, sở tướng
Đại chủng là năng tạo.
Địa hết thảy sở tạo
Đại chủng vốn không sinh
Nên sắc không chỗ tạo
Các sắc giả và thật….
Như sắc tạo từ huyễn
Từ mộng, thành Càn-thát
Sắc áo, chi phần năm
Năm loại Nhất-xiển-đề.
Các họ cũng năm loại
Năm thừa và vô thừa
Niết-bàn có sáu loại
Các uẩn hai mươi bốn.
Các sắc có tám loại
Phật có hai mươi tư
Phật tử có hai loại
Trăm lẻ tám pháp môn.
Thanh văn có ba loại
Các cõi Phật chỉ một
Và chỉ một Đức Phật
Giải thoát có ba loại.
Có bốn loại dòng tâm
Vô ngã có sáu loại
Sở tri cũng có bốn
Xa lìa nơi tác giả.
Lìa kiến giải sai lầm
Trong tự chứng bất động
Là Đại thừa vô thượng
Sinh cùng với không sinh.
Có tám loại chín loại
Chứng ngay hoặc dần dần
Thể chứng chỉ có một
Tám loại cõi Vô sắc.
Thiền sai biệt có sáu
Thanh văn và Bích-chi
Bảy hình thức giải thoát
Không có cả ba đời.
Thường, vô thường cũng vậy
Tạo nghiệp và quả báo
Đều như trong giấc mộng
Chư Phật vốn không sinh.
Và Thanh văn Phật tử
Tâm luôn lìa năng kiến
Như các pháp huyễn mộng
Nên đối tất cả cõi.
Từ Đâu-suất nhập thai
Sơ sinh và xuất gia
Không sinh, không chốn sinh
Vì chúng sinh lưu chuyển.
Mà nói đến Niết-bàn
Chân lý và các cõi
Tùy căn cơ giác ngộ
Đảo, rừng cây, thế gian.
Vô ngã, ngoại đạo, đi
Các thừa, thiền, Lại-da
Quả vị chẳng thể nghĩ bàn
Các loại trăng và sao.
Các dòng vua và trời
La-sát, Càn-thát bà
Đều sinh từ nghiệp ái
Biến dịch, chết, không lường.
Vẫn nối kết tập khí
Khi sự chết chấm dứt
Lưới phiền não đoạn tận
Tiền, bạc, tài sản, gạo.
Ruộng, nhà và tôi tớ
Voi, ngựa và trâu dê…
Đều không được cất chứa
Không ngủ giường đục lỗ.
Không ở nền trát bùn
Bát bằng vàng, đồng, bạc
Đều không nên cất giữ
Dùng bát đất, đá, sắt.
Vỏ sò hay pha lê
Lượng đúng theo Ma kiệt
Được dùng tùy theo bát
Thường dùng các màu xanh.
Phân bò, bùn, lá cây
Để nhuộm y màu trắng
Làm thành màu ca sa
Dao dài bốn lóng tay.
Hình cong như bán nguyệt
Dùng để cắt rọc vải
Người tu hành nên dùng
Không nên học nghề nghiệp.
Cũng không nên mua bán
Nếu cần, nhờ tịnh nhân
Đây là điều ta dạy
Thường giữ gìn các căn.
Thông hiểu nghĩa kinh, luật
Không giao tiếp người đời
Đây gọi người tu hành
Gốc cây hay hang sâu.
Nhà trống hay nghĩa địa
Lều cỏ và đất trống
Nơi người tu nên ở
Thân thường mặc ba y.
Trong mộ địa, nơi khác
Nếu khi cần y phục
Người cúng, cho, nên nhận
Khi vị ấy khất thực.
Nhìn thẳng trước một tầm
Giữ niệm mà khất thực
Giống như ong hút hoa
Khi ở giữa đám đông.
Xen tạp Tỳ-kheo-ni
Nơi sinh sống thế tục
Đều không nên khất thực
Quốc vương và vương tử.
Quan quân cùng trưởng giả
Người tu hành khất thực
Đều không nên thân cận
Có người sinh hay chết.
Chỗ bạn bè thân thuộc
Chỗ Tăng, ni xen lẫn
Người tu hành không ăn
Trong chùa luôn có khói.
Thường có nhiều món ăn
Được chủ tâm chuẩn bị
Người tu hành không ăn
Hành giả nhìn cuộc đời.
Dầu năng tướng, sở tướng
Đều thoát ly sinh diệt
Cũng rời hữu và vô.

QUYỂN 7

Phẩm 10: KỆ TỤNG (Phần 2)

Nếu các bậc tu hành
Không sinh ra phân biệt
Chẳng lâu đạt Tam-muội
Lực, thần thông tự tại.
Bậc tu hành không nên
Vọng chấp từ vi trần
Thời, thắng tánh, tác giả
Duyên sinh nơi thế gian.
Do sự tự phân biệt
Được sinh từ tập khí
Bậc tu hành nên quán
Các hữu như mộng huyễn.
Kiến, luôn luôn xa lìa
Phỉ báng và kiến lập
Thân thể, tài sản, nhà
Không phân biệt ba cõi.
Không nghĩ tưởng uống ăn
Chánh niệm, thân ngay ngắn
Luôn luôn cung kính lễ
Chư Phật và Bồ-tát.
Hiểu rõ trong kinh, luật
Pháp lý thú chân thật
Năm pháp, hai vô ngã
Và tư duy tự tâm.
Bên trong chứng pháp tịnh
Phật địa và các Địa
Khi hành giả tu tập
Thọ quán đảnh tòa sen.
Trầm luân trong các nẻo
Chán ghét nơi các hữu
Đến nghĩa trang yên tĩnh
Tu tập các quán hạnh.
Có vật sinh không nhân
Vọng cho lìa đoạn thường
Và lìa khỏi hữu vô
Vọng chấp là Trung đạo.
Vọng chấp vô nhân luận
Không nhân là đoạn kiến
Không rõ vật bên ngoài
Hoại diệt nơi Trung đạo.
Sợ rơi vào đoạn kiến
Không bỏ sự chấp pháp
Vì kiến lập phỉ báng
Vọng nói là Trung đạo.
Nhờ hiểu rõ duy tâm
Xa lìa nơi ngoại pháp
Cũng lìa vọng phân biệt
Nơi đây đạt Trung đạo.
Duy tâm không có cảnh
Không cảnh, tâm không sinh
Ta và các Như Lai
Gọi đây là Trung đạo.
Hoặc sinh, hay không sinh
Tự tánh, không tự tánh
Hữu, vô, tất cả không
Không phân biệt nhị nguyên.
Không sinh khởi phân biệt
Người ngu tưởng giải thoát
Tâm không biết trí sinh
Hiểu biết đoạn nhị chấp.
Nhờ hiểu rõ tự tâm
Nên đoạn chấp hai bên
Biết rõ nên đoạn diệt
Chẳng phải năng phân biệt.
Biết rõ chỗ tâm hiện
Nên phân biệt không khởi
Vì không khởi phân biệt
Tâm chân như chuyển đổi.
Nếu thấy sự khởi pháp
Không lỗi lầm ngoại đạo
Người trí liền giữ lấy
Niết-bàn không hoại diệt.
Ta và chư Phật nói
Rõ đây tức thành Phật
Nếu có phân biệt khác
Đó là ngoại đạo bàn.
Không sinh mà hiện sinh
Không diệt mà hiện diệt
Khắp trên muôn ức cõi
Thấy như trăng trong nước.
Một thân làm nhiều thân
Mưa rơi và lửa cháy
Tùy tâm hiện bao nhiêu.
Cho nên gọi Duy tâm
Tâm cũng là Duy tâm
Vô tâm từ tâm khởi
Vô số các sắc tướng.
Thông đạt đều duy tâm
Chư Phật và Thanh văn
Duyên giác các hình tướng
Nhiều sắc tướng khác nhau.
Đều gọi là duy tâm
Từ nơi cõi Vô sắc
Cho đến trong địa ngục
Hiện khắp vì chúng sinh.
Đều sinh từ duy tâm
Như huyễn các Tam-muội
Cho đến Ý sinh thân
Mười Địa cùng tự tại
Đều do chuyển y đạt.
Người ngu bị ràng buộc
Theo hiểu biết, thấy, nghe
Tự phân biệt điên đảo
Bị dao động hý luận.
Tất cả không chẳng sinh
Ta thật không Niết-bàn
Hóa thân nơi các cõi
Giảng ba thừa, Nhất thừa.
Có ba mươi sáu Phật
Mỗi Phật có mười sáu
Tùy tâm lượng chúng sinh
Mà hiện các cõi nước.
Phật pháp nơi thế gian
Cũng như tánh vọng chấp
Tuy xuất hiện rất nhiều
Nhưng thật không hiện hữu.
Pháp Phật là chân thật
Ngoài ra đều hóa Phật
Tùy chủng tử chúng sinh
Thấy thân Phật hiện hữu.
Do mê hoặc các tướng
Mà khởi ra phân biệt
Phân biệt chẳng khác chân
Tướng không tức phân biệt.
Tự tánh và thọ dụng
Hóa thân lại hiện thân
Ba mươi sáu Đức Phật
Thuộc Đức Phật tự tánh.
Do tập, chủng bên ngoài
Mà sinh ra phân biệt
Không thủ nơi chân thật
Và chấp giữ vọng hoặc.
Mê hoặc nương nội tâm
Và duyên theo ngoại cảnh
Khởi từ hai nhân này
Không có duyên thứ ba.
Mê hoặc nương trong ngoài
Mà được sinh khởi ra
Sáu mươi hai, mười tám
Ta bảo đều thuộc tâm.
Biết chỉ có căn, cảnh
Vượt ra ngoài chấp ngã
Ngộ tâm không cảnh giới
Thì được lìa chấp pháp.
Vì nương nơi bản thức
Mà có các thức sinh
Vì nương nơi nội xứ
Có ảnh hiện bên ngoài.
Không trí, thường, phân biệt
Hữu vi và vô vi
Cả hai chẳng nắm bắt
Như sao, mộng, hoa đốm.
Như thành Càn-thát-bà
Như huyễn, như sóng nắng
Vô hữu mà thấy có
Pháp duyên khởi cũng vậy.
Dựa vào ba loại tâm
Ta dạy căn, cảnh, ngã
Nhưng tâm, ý, ý thức
Đều không có tự tánh.
Tâm, ý và ý thức
Có hai loại vô ngã
Năm pháp, ba tự tánh
Thuộc cảnh giới chư Phật.
Nhân, tập khí là một
Tướng vận hành thành ba
Như dùng một màu sắc
Vẽ nhiều cách lên tường.
Năm pháp, hai vô ngã
Tự tánh, tâm, ý thức
Ở trong chủng tánh Phật
Đều không thể đạt được.
Rời khỏi tâm, ý thức
Và lìa nơi năm pháp
Xa rời nơi tự tánh
Đó là chủng tánh Phật.
Nếu nghiệp thân, miệng, ý
Không tu pháp bạch tịnh
Chủng tánh Như Lai tịnh
Nên xa lìa hiện hành.
Sức thần thông tự tại
Tịnh Tam-muội trang nghiêm
Các loại Ý sinh thân
Là chủng tánh Phật tịnh.
Trong tự chứng không nhơ
Thoát khỏi nơi nhãn tướng
Phật địa và Bát địa
Bản chất tánh Như Lai.
Viễn hành, thiện tuệ địa
Pháp vân và Phật địa
Đều thuộc chủng tánh Phật
Địa còn, của hai thừa.
Như Lai tâm tự tại
Vì chỉ dạy người ngu
Có tâm tướng khác nhau
Nên nói về bảy Địa.
Địa thứ bảy không khởi
Lỗi lầm thân, miệng, ý
Sở y Địa thứ tám
Như mộng vượt qua sông.
Tám Địa và năm Địa
Biết rõ về nghề nghiệp
Các Phật tử thường làm
Đứng đầu trong ba cõi.
Bậc trí không phân biệt
Hoặc sinh, hoặc không sinh
Không cùng với bất không
Tự tánh, vô tự tánh.
Chỉ hiện tại nơi tâm
Thật ra chẳng nắm bắt
Vì dạy hàng Nhị thừa
Nên bảo là thật, giả.
Chẳng phải vì Phật tử
Vậy không nên phân biệt
Hữu, phi hữu đều không
Không có tướng sát-na.
Pháp thật giả cũng không
Duy tâm chẳng nắm bắt
Pháp hữu là Tục đế
Tánh vô Đệ nhất nghĩa.
Mê hoặc nơi tánh không
Đây gọi là thế tục
Tất cả pháp đều không
Ta dạy hàng phàm ngu.
Giả thiết tùy theo tục
Đó chẳng phải chân lý
Ngôn từ nơi pháp khởi
Nên có nghĩa sở hành.
Nhận thấy chỗ sinh lời
Hoàn toàn chẳng nắm bắt
Rời tường không bức họa
Rời chất không có hình.
Biển tàng thức thanh tịnh
Các sóng thức không sinh
Nương Pháp thân có báo
Từ báo khởi hóa thân.
Đây là căn bản Phật
Ngoài ra đều hóa hiện
Không nên vọng phân biệt
Không cho đến bất không.
Vọng chấp nơi hữu vô
Nghĩa ngôn chẳng nắm bắt
Phàm ngu vọng phân biệt
Vật sinh từ tích tụ.
Thật một bụi cũng không
Thế nên không cảnh giới
Chúng sinh thấy tướng ngoài
Đều do tự tâm hiện.
Sự thấy đã không có
Nên cảnh bên ngoài không
Như voi lún bùn sâu
Không thể di động được.
Thanh văn trụ Tam-muội
Mê chấp cũng như vậy
Nếu thấy các thế gian
Tập khí cho là nhân.
Lìa hữu đều không có
Pháp vô ngã giải thoát
Gọi vọng chấp tự tánh
Duyên khởi là Y tha.
Chân như là Viên thành
Trong kinh ta thường dạy
Tâm, ý và ý thức
Phân biệt cùng biểu thị.
Bản thức tạo ba hữu
Đều dị danh của tâm
Đời sống, hơi ấm, thức
A-lại-da mạng căn.
Ý cho đến ý thức
Tên khác của phân biệt
Thân duy trì bởi tâm
Ý luôn luôn nhận thức.
Ý thức và các thức
Rõ cảnh giới tự tâm
Nếu thật có ngã thể
Trong uẩn và uẩn khác.
Nơi đó tìm ngã thể
Cuối cùng chẳng nắm bắt
Mỗi mỗi quán thế gian
Đều hiện chính tự tâm.
Với phiền não tùy miên
Giải thoát mọi khổ đau
Trí vô tận Thanh văn
Trí vắng lặng Duyên giác.
Trí tuệ của Như Lai
Sinh khởi không cùng tận
Không sắc tướng bên ngoài
Chỉ hiện thấy tự tâm.
Người ngu không hiểu biết
Lầm phân biệt hữu vi
Không biết cảnh giới ngoài
Tất cả đều tự tâm.
Kẻ ngu dùng nhân dụ
Tứ cú để thành lập
Bậc trí đều biết rõ
Cảnh giới hiện từ tâm.
Không dùng Tông, Nhân, Dụ
Các cú để thành lập
Phân biệt, bị phân biệt
Đó là tướng vọng chấp.
Vin vào nơi vọng chấp
Mà hiện khởi phân biệt
Không ngừng hỗ tương nhau
Đều nhân một tập khí.
Cả hai làm khách nhau
Chẳng tâm chúng sinh khởi
Vọng trú trong ba cõi
Tâm, tâm sở phân biệt.
Sự khởi giống cảnh giới
Là tự tánh vọng chấp
Ảnh tượng và chủng tử
Hợp làm mười hai xứ.
Hợp sở y, sở duyên
Nói về các hành tác
Như ảnh trong tấm gương
Mắt nhòe thấy hoa đốm.
Tập khí cũng như vậy
Người ngu thấy nhầm lẫn
Nơi cảnh tự phân biệt
Mà khởi nơi phân biệt.
Như ngoại đạo phân biệt
Ngoại cảnh chẳng nắm bắt
Kẻ ngu lầm sợi dây
Chấp đó là con rắn.
Không biết hiện nơi tâm
Phân biệt lầm ngoại cảnh
Như tự thể sợi dây
Không phải giống hay khác.
Chỉ lầm lỗi tự tâm
Lầm phân biệt sợi dây
Khi phân biệt vọng chấp
Tánh kia không thật có.
Tại sao thấy không thật?
Mà khởi ra phân biệt
Tánh sắc không có thật
Bình, vải… cũng như vậy.
Chỉ do phân biệt sinh
Sự thấy hoàn toàn không
Trong hữu vi vô thủy
Mê hoặc khởi phân biệt.
Pháp nào làm mê hoặc?
Xin Phật dạy cho con
Các pháp không tự tánh
Chỉ thấy chính tại tâm.
Không rõ nơi tự tâm
Thế nên sinh phân biệt
Sự phân biệt kẻ ngu
Chấp lầm thật chẳng có.
Sự có giống và khác
Người kia không thể biết
Sự có của bậc Thánh
Chẳng phải ngu phân biệt.
Nếu Thánh đồng với phàm
Thánh nên có hư vọng
Vì Thánh sửa tâm tịnh
Thế nên không mê hoặc.
Tâm phàm phu bất tịnh
Nên có vọng phân biệt
Như mẹ bảo đứa con:
“Này con, đừng khóc nữa.
Hư không có trái cây
Rất nhiều cho con hái”
Ta vì dạy chúng sinh
Vọng tưởng có nhiều quả.
Làm họ vui thích, xong
Nói pháp lìa hữu vô
Các pháp trước phi hữu
Không hòa hợp các duyên.
Vốn không sinh nhưng sinh
Hoàn toàn không tự tánh
Pháp chưa sinh không sinh
Rời duyên không chỗ sinh.
Pháp hiện sinh cũng vậy
Rời duyên chẳng nắm bắt
Chân thật quán duyên khởi
Phi hữu và phi vô
Cả hữu vô đều không
Bậc trí không phân biệt
Hàng phàm phu ngoại đạo
Vọng thuyết tánh khác đồng
Không rõ các duyên khởi
Thế gian như huyễn mộng
Pháp Đại thừa vô thượng
Vượt lãnh vực ngôn từ
Nghĩa ấy thật rõ ràng
Nhưng người ngu không hiểu
Hàng Thanh văn, ngoại đạo
Cách nói mang ích kỷ
Làm thay đổi thật nghĩa
Đều do vọng chấp sinh
Các tướng và tự thể
Hình trạng cho đến danh
Dựa theo bốn điều này
Mà các phân biệt khởi
Chấp Phạm, Tự tại thiên
Một thân và nhiều thân
Sự vận hành trời, trăng
Chẳng phải con của ta
Những ai đủ Thánh kiến
Thông suốt pháp như thật
Khéo léo chuyển các tưởng
Đến bờ kia của thức
Đây dấu ấn giải thoát
Xa lìa nơi hữu vô
Và lìa nơi đi, đến
Là con trong pháp ta
Nếu sắc thức chuyển diệt
Các nghiệp đều biến mất
Đó là không sinh tử
Cũng không thường, vô thường
Sự biến hóa chuyển mất
Sắc xứ dầu rũ bỏ
Nghiệp trụ A-lại-da
Khỏi lỗi lầm hữu vô
Sắc thức tuy chuyển mất
Nhưng nghiệp vẫn tồn tại
Khiến ở trong các hữu
Sắc thức lại tương tục
Nếu các chúng sinh kia
Chỗ khởi nghiệp mất đi
Đó là không sinh tử
Cũng không có Niết-bàn
Nếu nghiệp và sắc thức
Đồng thời cùng hoại diệt
Nếu sinh trong sinh tử
Nghiệp sắc vẫn không khác
Sắc tâm và phân biệt
Chẳng khác, chẳng không khác
Người ngu cho là diệt
Thật sự lìa hữu vô
Duyên khởi cùng vọng chấp
Triển chuyển không khác nhau
Như sắc và vô thường
Triển chuyển sinh cũng vậy
Tách rời khỏi giống, khác
Vọng chấp không thể hiểu
Như sắc, tánh vô thường
Làm sao nói hữu vô
Thông đạt nơi vọng chấp
Thì duyên khởi không sinh
Khi duyên khởi được hiểu
Vọng chấp thành chân như
Nếu diệt tánh đoạn chấp
Pháp nhãn ta bị diệt
Trong giáo pháp của ta
Có kiến lập, phỉ báng
Như thế người chấp sắc
Thường hủy báng chánh pháp
Họ đều là phi pháp
Hoại diệt Pháp nhãn ta
Họ không thuộc nhóm trí
Bỏ đời sống Tỳ-kheo
Vì hủy hoại, vọng chấp
Bị kiến lập, phỉ báng
Đều tùy nơi phân biệt
Khởi kiến giải hữu vô
Như huyễn và hoa đốm
Mộng, sóng nắng, thành Càn
Ai không học pháp Phật
Chẳng nên cùng chung ở
Vì rơi vào hai bên
Hại mình và người khác
Có những bậc tu hành
Quán sát tánh vọng chấp
Tịch tĩnh rời hữu vô
Bảo vệ cùng chung ở
Như có nơi thế gian
Xuất ra vàng ngọc báu
Tuy nó không tạo tác
Nhưng cho người thọ dụng
Tánh nghiệp cũng như vậy
Xa lìa mọi chủng tánh
Sở kiến nghiệp chẳng có
Nhưng sinh ra các cõi
Hiểu biết theo bậc Thánh
Các pháp vô sở hữu
Người ngu bị phân biệt
Vọng chấp pháp phi vô
Như người ngu phân biệt
Pháp đó là phi hữu
Tất cả pháp đều không
Chúng sinh không tạp nhiễm
Vì có pháp tạp nhiễm
Bị vô minh, ái buộc
Khởi ra thân sinh tử
Các căn đều đầy đủ
Nếu người ngu phân biệt
Pháp này đều là không
Thì các căn không sinh
Chẳng phải chánh tu hành
Nếu pháp này là có
Nhưng vì nhân sinh tử
Người ngu chẳng đợi tu
Tự nhiên mà giải thoát
Nếu không có pháp kia
Thánh phàm sao khác biệt
Thì không có Thánh nhân
Tu hành ba giải thoát
Các uẩn và nhân pháp
Tự, cọng tướng, vô tướng
Các duyên và các căn
Ta dạy hành Thanh văn
Duy tâm và vô nhân
Các địa và tự tại
Nội chứng tịnh chân như
Ta dạy cho Phật tử
Đời tương lai sẽ có
Người thân mặc ca-sa
Vọng nói về hữu vô
Hủy hoại chánh pháp ta
Duyên khởi pháp vô tánh
Là hành động bậc Thánh
Vọng chấp tánh vô vật
Kẻ so sánh phân biệt
Tương lai có người ngu
Dẫn đầu các ngoại đạo
Nói về Vô Nhân Luận
Ác kiến phá thế gian
Vọng nói các thế gian
Sinh ra từ cát bụi
Cát bụi đó không nhân
Chín loại vật thật thường
Từ thật mà thành thật
Từ đức sinh ra đức
Tánh chân pháp khác đây
Hủy báng nói là không
Hoặc vốn không mà sinh
Thế gian có bắt đầu
Sinh tử không nguồn gốc
Đây lời dạy của ta
Tất cả vật ba cõi
Vốn không mà sinh ra
Sừng lạc đà, lừa, chó
Cũng chẳng có nghi ngờ
Nhãn sắc thức vốn không
Mà nay lại có sinh
Những vải, mũ và chiếu…
Chắc sinh từ cục đất!
Trong vải không thấy chiếu
Trong rơm cũng không chiếu
Sao không nhờ các duyên
Tập hợp để sinh chiếu
Đời sống cùng thân thể
Nếu vốn không mà sinh
Trước ta đã nói đó
Đều là luận ngoại đạo
Trước ta đã lập Tông
Để ngăn chận ý kia
Đã ngăn ý ấy rồi
Sau mới nói tự tông
Sợ các chúng đệ tử
Đắm trước tông hữu vô
Thế nên ta vì họ
Trước giảng luận ngoại đạo
Ác tuệ Ca-tỳ-la
Dạy cho các môn đệ
Thắng tánh sinh thế gian
Năng lực sự chuyển biến
Các duyên không có thật
Không duyên sinh hiện sinh
Các duyên đã không duyên
Chẳng sinh, chẳng không sinh
Tông ta lìa hữu vô
Và lìa cả nhân duyên
Sinh diệt và sở tướng
Tất cả đều xa lìa
Thế gian như huyễn mộng
Nhân duyên đều vô tánh
Thường quán sát như vậy
Phân biệt hẳn không khởi
Nếu quán sát các hữu
Như sóng nắng, hoa đốm
Như thành Càn-thát-bà
Thường lìa khỏi hữu vô
Xả ly cả nhân duyên
Khiến tâm đều thanh tịnh
Nếu nói không ngoại cảnh
Mà chỉ có tự tâm
Không cảnh thì không tâm
Làm sao thành duy thức?
Vì có chỗ cảnh duyên
Tâm chúng sinh khởi được
Không nhân, tâm không sinh
Làm sao thành duy thức?
Chân như và duy thức
Là sở hành bậc Thánh
Hữu này nói phi hữu
Họ không hiểu ngã pháp
Do năng thủ, sở thủ
Mà tâm bị sinh khởi
Tâm thế gian như vậy
Nên chẳng phải duy tâm
Thân, tài sản, ảnh tượng
Như mộng từ tâm sinh
Tâm tuy thành hai phần
Nhưng tâm không hai tướng
Như dao không tự cắt
Ngón tay không tự sờ
Và tâm không tự thấy
Việc ấy cũng như vậy
Tâm không có ảnh tượng
Không có Y tha khởi
Tánh vọng chấp cũng không
Không năm pháp, hai tâm
Năng sinh và sở sinh
Đều là tướng tự tâm
Mật ý nói năng sinh
Nhưng thật không tự sinh
Bao nhiêu hình trạng cảnh
Nếu do vọng chấp sinh
Hư không và sừng thỏ
Cũng phải thành cảnh tướng
Giống cảnh khởi Từ tâm
Cảnh này không vọng chấp
Nhưng cảnh vọng chấp kia
Rời tâm, chẳng nắm bắt
Trong sinh tử vô thủy
Cảnh giới đều phi hữu
Tâm không có chỗ khởi
Làm sao thành ảnh tượng
Nếu không vật có sinh
Sừng thỏ cũng sinh được
Không thể không vật sinh
Mà khởi ra phân biệt
Như cảnh hiện phi hữu
Cảnh trước kia cũng không
Vì sao trong không cảnh
Mà tâm duyên cảnh sinh
Chân như, không, thật tế
Pháp giới và Niết-bàn
Tất cả pháp không sinh
Là tánh Đệ nhất nghĩa
Kẻ ngu rơi hữu vô
Phân biệt các nhân duyên
Không thể biết các hữu
Không sinh, không người tạo
Tâm làm nhân vô thủy
Không thấy được do tâm
Đã không cảnh vô thủy
Tâm từ đâu sinh ra?
Không vật mà được sinh
Như nghèo trở nên giàu
Không cảnh mà sinh tâm
Xin Phật dạy cho con
Nếu tất cả không nhân
Không tâm và không cảnh
Tâm đã không chỗ sinh
Lìa ba hữu tạo tác
Nhân những bình, vải, sừng…
Mà nói không sừng thỏ
Vì thế không nên nói
Không có tướng nhân pháp
Không nhân, không hiện hữu
Vì không chẳng thành không
Hữu vô cũng như vậy
Dần dần tướng nhân khởi
Nếu vin vào chút pháp
Mà có chút pháp khởi
Đó là tiền sở y
Không nhân mà tự có
Nếu có tùy thuộc khác
Tùy thuộc đó có thuộc
Như vậy thì vô cùng
Cũng chẳng có chút pháp
Dựa vào gỗ, ngọn lá….
Hiện vô số tướng huyễn
Chúng sinh cũng như vậy
Dựa các việc mà hiện
Dựa theo nhà ảo thuật
Khiến ngu thấy tướng huyễn
Nhưng nơi những gỗ, lá…
Như huyễn thật không có
Nếu nương nơi việc này
Pháp đây bị hủy hoại
Đã thấy rõ không hai
Sao có chút phân biệt?
Phân biệt không vọng chấp
Phân biệt cũng không có
Vì phân biệt là không
Không Niết-bàn, sinh tử
Vì không sự phân biệt
Nên phân biệt không khởi
Vì sao tâm không khởi
Mà được có duy tâm?
Ý sai biệt vô lượng
Đều không pháp chân thật
Không thật, không giải thoát
Cũng không các thế gian
Người ngu bị phân biệt
Thấy bên ngoài đều không
Tập khí khuấy đục tâm
Mà hiện giống ảnh tượng
Đối các pháp hữu vô
Tất cả đều không sinh
Chỉ đều do tâm hiện
Rời khỏi nơi phân biệt
Nói các pháp từ duyên
Vì người ngu vô trí
Tánh tự tâm giải thoát
Tâm tịnh, chỗ Thánh trụ
Số, thắng luận, lõa hình
Phạm chí cùng Tự tại
Đều rơi vào vô kiến
Xa lìa nghĩa tịch tĩnh
Không tự tánh không sinh
Rời cấu, không, như huyễn
Chư Phật và Thế Tôn
Nói cho ai như vậy?
Cho người tu tâm tịnh
Thoát khỏi sự kiến chấp
Chư Phật dạy cho họ
Ta cũng dạy như vậy
Nếu tất cả là tâm
Thì thế gian ở đâu?
Nhân nào là đại địa?
Chúng sinh có đến đi?
Như chim nay trên trời
Theo phân biệt mà đi
Không nương, không ở đâu
Như đi trên mặt đất
Chúng sinh cũng như vậy
Tùy nơi vọng phân biệt
Di chuyển theo tự tâm
Như chim bay trên trời
Thân, tài sản, ảnh tượng
Phật dạy khởi chính tâm
Xin nói ảnh duy tâm
Nguyên nhân tại sao khởi?
Thân, tài sản, ảnh tượng
Đều do tập khí chuyển
Nhân cũng không như lý
Sự sinh của phân biệt
Ngoại cảnh là vọng chấp
Tâm duyên theo cảnh sinh
Biết cảnh là duy tâm
Thì phân biệt không khởi
Nếu thấy tánh vọng chấp
Danh nghĩa không hòa hợp
Xa lìa giác, sở giác
Giải thoát các hữu vi
Xả ly hết danh nghĩa
Đó là pháp chư Phật
Ai mong ngộ đường khác
Mình và người không đạt
Khi thế gian được thấy
Lìa năng giác, sở giác
Lúc này sẽ không khởi
Tên gọi sự phân biệt
Do thấy suốt tự tâm
Lầm tưởng danh tự diệt
Không thấy được tự tâm
Thì khởi ra phân biệt
Bốn uẩn tướng vô sắc
Không thể đếm chúng được
Đại chủng tánh khác nhau
Làm sao cùng sinh sắc?
Do vì lìa các tướng
Năng sở tạo phi hữu
Sắc khác riêng có tướng
Các uẩn sao không sinh?
Nếu thấy nơi vô tướng
Uẩn, xứ đều xả ly
Khi ấy tâm cũng bỏ
Nên thấy pháp vô ngã
Vì căn, cảnh sai biệt
Sinh ra Bát chủng thức
Ở trong vô tướng kia
Xa lìa cả ba tướng
Ý duyên A-lại-da
Sinh chấp ngã, ngã sở
Và thức, hai chấp giữ
Hiểu rõ đều xa lìa
Quán thấy, rời giống, khác
Đó là vô sở động
Tách rời ngã, ngã sở
Hai loại vọng phân biệt
Không tăng trưởng, không sinh
Cũng không làm nhãn thức
Đã lìa năng sở tạo
Diệt rồi, không sinh lại
Thế gian không tạo tác
Và lìa tướng năng sở
Vọng chấp và duy tâm
Xin Phật dạy tại sao?
Tự tâm hiện vô số
Các hình tướng phân biệt
Không rõ chỗ hiện tâm
Vọng chấp bảo ngoài tâm
Do vì không trí giác
Mà khởi ra vô kiến
Tại sao nơi tánh hữu
Tâm không sinh đắm trước
Phân biệt chẳng hữu vô
Cho nên hữu không sinh
Biết sở kiến duy tâm
Nên phân biệt không khởi
Vì phân biệt không khởi
Chuyển y vô sở trước
Bốn tông bị ngăn chặn
Gọi các pháp hữu, nhân…
Đó chỉ là dị danh
Chỗ thiết lập không thành
Nên biết năng tác nhân
Cũng không được thành lập
Vì ngăn chặn năng tác
Nói nhân duyên hòa hợp
Vì ngăn nơi lỗi thường
Nói duyên là vô thường
Người ngu bảo vô thường
Thật ra không sinh diệt
Không thấy pháp hoại diệt
Nhưng có chỗ tạo tác
Sao có pháp vô thường
Và lại có chỗ sinh?
Trời, Người, A-tu-la
Quỷ, Súc sinh, Diêm-la
Chúng sinh sinh trong đó
Ta gọi là sáu đường
Do nghiệp thượng, trung, hạ
Mà thọ sinh trong đó
Giữ gìn các thiện pháp
Được giải thoát thù thắng
Phật vì các Tỳ-kheo
Nói về chỗ thọ sinh
Mỗi niệm đều sinh diệt
Xin Phật dạy cho con
Sắc sắc chẳng tạm ngừng
Tâm tâm cũng sinh diệt
Ta nói cho đệ tử
Thọ sinh diệt liên tục
Phân biệt trong sắc sắc
Sinh diệt cũng như vậy
Phân biệt là chúng sinh
Lìa phân biệt không có
Ta vì các duyên này
Nói từng mỗi niệm sinh
Nếu lìa thủ trước sắc
Không sinh, cũng không diệt
Duyên sinh, phi duyên sinh
Vô minh và chân như…
Hai pháp duyên sinh khởi
Không hai tức chân như
Nếu duyên kia phi duyên
Pháp sinh có sai biệt
Thường hằng… cùng các duyên
Có năng tác, sở tác
Chính bậc Đại Mâu-ni
Và chư Phật đã dạy
Có năng tác, sở tác
Cùng ngoại đạo không khác
Ta dạy các đệ tử
Thân là Khổ thế gian
Cũng là Tập thế gian
Đầy đủ Diệt và Đạo
Phàm phu vọng phân biệt
Chấp chặt ba tự tánh
Thấy năng thủ, sở thủ
Pháp thế và xuất thế
Ta trước vì so sánh
Nói thủ nơi tự tánh
Nay vì ngăn các kiến
Không nên vọng phân biệt
Tìm lỗi là phi pháp
Làm cho tâm bất định
Đều do hai thủ khởi
Không khởi tức chân như
Nếu vô minh, ái nghiệp
Mà sinh ra các thức…
Tà niệm lại có nhân
Sai lầm lớn vô cùng
Vô trí nói các pháp
Có bốn loại hoại diệt
Vọng khởi hai phân biệt
Chân pháp lìa hữu vô
Rời khỏi nơi Tứ cú
Cũng lìa nơi nhị kiến
Phân biệt khởi hai bên
Hiểu rõ không sinh lại
Biết sinh trong không sinh
Trong sinh biết không sinh
Pháp ấy đồng như nhau
Không nên khởi phân biệt
Xin Phật dạy cho con
Lý ngăn chặn hai kiến
Con và các Bồ-tát
Không rơi vào hữu vô
Lánh xa các ngoại đạo
Rời khỏi nơi Nhị thừa
Sở hành chư Phật chứng
Phật tử chớ bỏ mất
Nhân giải thoát phi nhân
Cùng một tướng vô sinh
Vì mê chấp tên khác
Bậc trí hãy xa lìa
Pháp sinh từ phân biệt
Như lòa, huyễn, sóng nắng
Ngoại đạo lầm phân biệt
Đời sinh từ tự tánh
Vô sinh và chân như
Tánh không và chân tế
Đây là tên gọi khác
Chẳng nên chấp là không
Như tay có nhiều tên
Tên Đế Thích cũng vậy
Và các pháp cũng vậy
Chẳng nên chấp là không
Sắc cùng không, không khác
Vô sinh cũng như vậy
Chớ nên chấp là khác
Thành kiến giải sai lầm
Sự phân biệt chung, riêng
Và các phân biệt khác
Chấp trước các sự tướng
Có dài, ngắn, vuông, tròn…
Tổng phân biệt là tâm
Biến phân biệt là ý
Biệt phân biệt là thức
Đều rời tướng năng sở
Khởi kiến trong ngã pháp
Và vô sinh ngoại đạo
Đều là vọng phân biệt
Không khác những lỗi lầm
Ai có thể hiểu rõ
Điều ta nói vô sinh
Và ý nghĩa vô sinh
Người ấy hiểu pháp ta
Để phá vỡ kiến giải
Vô sinh không trụ xứ
Biết rõ hai nghĩa này
Nên ta gọi vô sinh
Phật thuyết pháp vô sinh
Hoặc là có, là không
Đều giống các ngoại đạo
Không nhân, không sinh luận
Ta dạy duy tâm lượng
Tách rời với hữu vô
Hoặc sinh, hoặc không sinh
Hãy xa lìa kiến này
Vô nhân, luận không sinh
Sinh thì chấp tạo tác
Tạo tác lẫn lộn kiến
Không, tức tự nhiên sinh
Phật dạy các phương tiện
Chánh kiến và đại nguyện…
Tất cả pháp nếu không
Đạo tràng sao thành tựu?
Lìa năng thủ, sở thủ
Chẳng sinh, cũng chẳng diệt
Sự thấy pháp, phi pháp
Đều khởi chính tự tâm
Lời đấng Mâu-ni dạy
Sau trước tự trái nhau
Vì sao thuyết các pháp
Mà lại nói không sinh!
Chúng sinh không thể biết
Xin Phật dạy cho con
Tránh được lỗi ngoại đạo
Và các nhân điên đảo
Xin đấng tối thắng dạy
Sự sinh và đoạn diệt
Đều xa lìa hữu vô
Nhưng không hoại nhân quả
Thế gian rơi hai bên
Bị mê hoặc các kiến
Xin đấng “Mắt sen xanh”
Nói trình tự các Địa
Chấp thủ sinh, bất sinh
Không rõ nhân tịch diệt
Đạo tràng không được nghe
Và ta cũng không nói
Pháp sát-na đều không
Không sinh, không tự tánh
Chư Phật dứt hai bên
Hai bên tức sai lầm
Bị che bởi ác kiến
Phân biệt phi Như Lai
Vọng chấp nơi sinh diệt
Xin Phật dạy cho con
Bị hý luận chồng chất
Hòa hợp khởi sinh ra
Tùy theo loại hiện hữu
Đầy đủ cả sắc cảnh
Nhận thấy sắc bên ngoài
Mà khởi ra phân biệt
Ai biết rõ điều này
Thì thấy nghĩa chân thật
Nếu lìa nơi đại chủng
Các vật sẽ không thành
Đại chủng chính duy tâm
Nên biết không chỗ sinh
Tâm này cũng chẳng sinh
Là thuận Thánh chủng tánh
Chớ phân biệt phân biệt
Không phân biệt là trí
Phân biệt nơi phân biệt
Hai bên không Niết-bàn
Nếu lập Tông vô sinh
Pháp huyễn bị hủy diệt
Và không nhân khởi huyễn
Xúc phạm đến tự tông
Giống như ảnh trong gương
Tuy lìa tánh đồng-dị
Sở kiến chẳng phải vô
Tướng sinh cũng như vậy
Như huyễn, thành Càn-thát…
Đều chờ nhân duyên hữu
Các pháp cũng như vậy
Là sinh, chẳng bất sinh
Phân biệt nơi nhân pháp
Khởi sinh hai loại ngã
Đây chỉ lời thế tục
Kẻ ngu không hiểu biết
Do nguyện cùng duyên tập
Tự lực và tối thắng
Có năm pháp Thanh văn
Những bậc A-la-hán
Thời gian và hoại diệt
Thắng nghĩa và chuyển biến
Là bốn loại vô thường
Ngu không trí phân biệt
Người ngu rơi nhị biên
Vi trần, tự tánh, tác
Chấp chặt về hữu vô
Không biết nhân giải thoát
Đại chủng chống trái nhau
Sao tạo thành sắc được?
Đại chủng có tánh riêng
Không đại, không tạo thành
Lửa đốt cháy sắc chất
Nước lại làm thấm ướt
Gió làm cho tan mất
Làm sao sắc được sinh?
Sắc uẩn và thức uẩn
Chỉ hai, không phải năm
Ngoài ra là tên khác
Ta gọi kia như oán
Tâm, tâm sở sai biệt
Khởi nơi pháp hiện tại
Phân tích về các sắc
Không gì tạo ngoài tâm
Xanh, trắng… liên hệ nhau
Tác, sở tác cũng vậy
Tánh không và sự sinh
Lạnh, nóng tương quan nhau
Hữu, vô… và tất cả
Vọng chấp không thành lập
Tâm, ý và sáu thức
Cùng các thức tương ưng
Đều nương Tàng thức sinh
Chẳng đồng và chẳng dị
Số, thắng luận, lõa hình
Chấp Tự tại sáng tạo
Đều rơi vào hữu vô
Xa lìa nghĩa tịch tĩnh
Đại chủng sinh hành tướng
Không sinh nơi đại chủng
Ngoại đạo nói đại chủng
Sinh đại chủng và sắc
Với ngoại pháp không sinh
Ngoại đạo chấp nguyên nhân
Họ nương theo hữu vô
Bởi ngu muội không biết
Thật tướng chân thanh tịnh
Nhất thống cùng đại trí
Tương ưng cùng với tâm
Không hòa hợp với ý…
Nếu nghiệp đều sinh sắc
Thì không hợp nhân uẩn
Chúng sinh không nên chấp
Không trú cõi Vô sắc
Gọi đó là vô ngã
Chúng sinh cũng nên vô
Vô sắc cho là đoạn
Các thức không sinh khởi
Thức nương bốn xứ trụ
Sao sinh khởi vô sắc?
Trong ngoài không hiện hữu
Thức cũng không sinh khởi
Chúng sinh, thức nếu không
Tự nhiên được giải thoát
Chắc là luận ngoại đạo
Kẻ vọng chấp không biết
Hoặc hữu theo ưa chấp
Trong hữu, trong các uẩn
Như sinh nơi vô sắc
Vô sắc sao hữu sinh?
Sắc thấy trong vô sắc
Nó không thể nhìn thấy
Vô sắc thì không hợp
Không xe, không người đi
Thức sinh từ tập khí
Hòa hợp cùng các căn
Tám thức nơi sát-na
Chấp giữ chẳng nắm bắt
Nếu các sắc không khởi
Các căn không phải căn
Nên Đức Thế Tôn dạy
Căn, sắc… định tạm thời
Vì sao không rõ sắc
Mà đạt hữu thức sinh?
Tại sao thức không sinh
Mạ bị thọ sinh tử?
Các căn và căn cảnh
Bậc Thánh hiểu nghĩa này
Kẻ ngu si vô trí
Lầm chấp giữ danh ngôn
Thức sáu không nên chấp
Hữu thủ và vô thủ
Vốn lìa các lỗi lầm
Bậc Thánh không nói vậy
Các ngoại đạo vô trí
Sợ hãi nơi đoạn-thường
Chấp hữu vi, vô vi
Cùng ngã không sai khác…
Chấp chúng cùng tâm một
Hoặc cùng ý là khác
Chấp hữu trong tánh đồng
Tánh dị cũng như vậy
Nếu thủ là xác quyết
Gọi là tâm, tâm sở
Thủ này sao không thể
Nêu lên nơi tánh đồng
Chấp thủ và tạo nghiệp
Đưa đến chỗ thọ sinh
Giống như lửa tạo thành
Lý thú giống, không giống
Như khi lửa bốc cháy
Cháy, bị cháy hợp nhau
Vọng chấp ngã cũng vậy
Tại sao không chỗ chấp?
Hoặc sinh, hoặc không sinh
Tâm tánh thường thanh tịnh
Sự lập ngã ngoại đạo
Sao không dẫn ví dụ?
Mê hoặc trong rừng Thức
Vọng chấp lìa chân pháp
Thích luận thuyết về ngã
Giong ruổi khắp đó đây
Trong chứng trí sở hành
Tướng chân ngã thanh tịnh
Đây là Như Lai tạng
Hàng ngoại đạo không biết
Phân tích nơi các uẩn
Năng thủ và sở thủ
Ai biết rõ tướng này
Thì sinh trí chân thật
Các hàng ngoại đạo này
Nơi thức A-lại-da
Chấp ý hợp nhất ngã
Đây chẳng phải lời Phật
Nếu hiểu rõ thuyết này
Giải thoát kiến chân đế
Phiền não thuộc kiến, tu
Đều thanh tịnh đoạn trừ
Bản tánh tâm thanh tịnh
Chúng sinh bị mê hoặc
Như Lai tạng vô cấu
Thoát khỏi vô giới hạn
Bản thức ở trong uẩn
Như vàng bạc trong quặng
Nhờ nung, sửa, tôi luyện…
Vàng bạc mới hiển hiện
Phật không người, không uẩn
Phật là trí vô lậu
Suốt thông, thường tịch tĩnh
Ta nương tựa nơi Ngài
Tâm bản tánh thanh tịnh
Tùy phiền não và ý
Cùng với ngã tương ưng
Xin Phật giảng cho con
Tự tánh tâm thanh tịnh
Nhưng ý thức thì khác
Chúng tích tập nhiều nghiệp
Tạp nhiễm sinh hai bên
Ý thức… ngã, phiền não
Làm ô nhiễm tâm tịnh
Giống như chiếc áo sạch
Bị dính nhiều dơ bẩn
Áo đã được giặt sạch
Như vàng ra khỏi quặng
Vàng, áo đều không hư
Tâm rời lỗi cũng vậy
Người vô trí tìm cầu
Nơi đàn, tù và, trống…
Những âm thanh tuyệt diệu
Ngã trong uẩn cũng vậy
Như báu trong kho tàng
Hay nước trong lòng đất
Tuy có nhưng không thấy
Ngã trong uẩn cũng vậy
Công năng tâm, tâm sở
Uẩn tương ưng tích tập
Người vô trí không thủ
Ngã trong uẩn cũng vậy
Như phụ nữ mang thai
Tuy có, không thể thấy
Chân thật ngã trong uẩn
Vô trí không biết được
Thắng lực của dược thảo
Như chất lửa trong cây
Chân thật ngã trong uẩn
Vô trí không biết được
Tánh không trong các pháp
Cho đến tánh vô thường
Chân thật ngã trong uẩn
Vô trí không biết được
Địa, thần thông tự tại
Quán đảnh, Tam-muội cao
Nếu không chân ngã này
Thì chúng đều không có
Có kẻ phá hoại nói:
Nếu có, hãy chỉ tôi
Bậc trí nên đáp rằng:
Chỉ tôi phân biệt ông
Chủ trương vô chân ngã
Hủy pháp chấp hữu vô
Tỳ-kheo hãy Yết-ma
Loại họ khỏi hội chúng
Thuyết chân ngã rực rỡ
Như kiếp hỏa nổi dậy
Đốt khu rừng vô ngã
Xa lỗi lầm ngoại đạo
Như sữa, dầu, mật, đường…
Cho đến những dầu mè
Có vị riêng của chúng
Chưa từng nếm không biết
Ở trong thân các uẩn
Tìm ngã theo năm cách
Người ngu không biết được
Trí thấy, liền giải thoát
Sự lập dụ minh trí
Vẫn chưa rõ nơi tâm
Nghĩa tích tập trong đó
Sao thấy chính xác được?
Các pháp tướng khác nhau
Không rõ tâm chỉ một
Kẻ suy lường vọng chấp
Không nhân, không sinh khởi
Thiền giả quán nơi tâm
Chính tâm không thấy tâm
Thấy từ đối tượng sinh
Đối tượng nhân đâu khởi?
Ta dòng Ca-chiên-diên
Sinh trong Tịnh cư thiên
Vì chúng sinh thuyết pháp
Khiến nhập thành Niết-bàn
Duyên nơi pháp bản trụ
Ta và các Như Lai
Ở trong ba ngàn kinh
Giảng rộng pháp Niết-bàn
Cõi Dục, cõi Vô sắc
Nơi đó không thành Phật
Cõi Sắc, trời Cứu cánh
Lìa dục, đạt giác ngộ
Cảnh giới nhân không buộc
Nhân buộc nơi cảnh giới
Tu hành kiếm trí bén
Cắt đứt phiền não kia
Làm sao có vô ngã?
Các pháp huyễn, hữu, vô
Ngu si hiện chân như
Làm sao vô chân ngã?
Pháp đã tạo, chưa tạo
Nhân không phải khởi sinh
Tất cả đều vô sinh
Người ngu không biết được
Nhân năng tác không sinh
Các duyên và sở tác
Cả hai đều không sinh
Vì sao chấp năng tác?
Người chấp vọng nói có
Nhân đồng thời sau trước
Hiện cái bình, đệ tử…
Bảo các vật sinh khởi
Phật chẳng phải hữu vi
Mà đầy đủ tướng tốt
Mà công đức Luân vương
Không sánh với Như Lai
Phật lấy trí làm tướng
Tách rời khỏi các kiến
Tự nội chứng sở hành
Đoạn trừ tất cả lỗi
Những mù, điếc, ngọng, câm…
Già, trẻ và thù oán…
Những cảm thọ rất nặng
Không thấy nơi phạm hạnh
Tướng hảo ẩn làm trời
Tướng ẩn làm Luân vương
Cả hai đắm buông lung
Chỉ hiện người xuất gia
Sau Thích-ca nhập diệt
Sẽ có Tỳ-da-bà
Ka-na, Lê-sa-bà
Kiếp-tỳ-la xuất gia
Trăm năm sau ta diệt
Tỳ-da-bà thuyết giảng
Bà-la-đa các luận
Tiếp có Bán-trạch-sa
Kiều-lạp-bà, La-ma
Kế có Di-ly vương
Nan-đà và Cúc-đa
Đến vua Miệc-lợi-xa
Đao binh bắt đầu khởi
Đây là thời cực ác
Khi ấy các thế gian
Không tu hành chánh pháp
Qua những thời đại này
Thế giới như bánh xe
Lửa, mặt trời hợp lại
Đốt thiêu nơi cõi Dục
Các trời lập trở lại
Thế giới lại thành tựu
Các vua, bốn đẳng cấp
Các Tiên ban hóa pháp
Vệ-đà, thờ, bố thí
Những pháp này hồi sinh
Pháp luận đàm, vui cười
Văn xuôi và giải thích
Tôi nghe được như vầy…
Mê hoặc nơi thế gian
Sử dùng các loại vải
Nếu có màu sắc chính
Nhuộm bùn xanh, phân trâu
Làm thành màu hoại sắc
Mặc các thứ y phục
Không giống tướng ngoại đạo
Thể hiện người tu hành
Mang phù hiệu chư Phật
Cũng mang dây buộc lưng
Nước phải lọc mới uống
Khất thực theo trình tự
Không đến nơi phi xứ
Được sinh trời thắng diệu
Và sinh trong cõi người
Đầy đủ các tướng quý
Như vị thiên, vị vua
Vua có bốn thiên hạ
Giáo pháp được lâu dài
Được sinh lên cung trời
Tham dục nên thoái thất
Thuần thiện và tam thời
Thời hai đều cực ác
Đến khi Phật ra đời
Thích-ca vào đời ác
Sau khi ta Niết-bàn
Tất-đạt-đa họ Thích
Tỳ-nữu Đại Tự sinh
Các ngoại đạo xuất hiện
Những “Tôi nghe như vầy”…
Đấng Thích Sư Tử dạy
Đàm cổ và Tiếu ngữ
Tiên Tỳ-dạ-sa nói
Sau khi ta Niết-bàn
Tỳ-nữu Đại Tự Tại
Nói những lời thế này:
Ta sáng tạo thế gian
Ta tên Ly Trần Phật
Họ Ca-đa-diễn-na
Cha tên Thế Gian Chủ
Mẹ hiệu là Cụ Tài
Ta sinh nước Chiêm-bà
Tổ phụ trước của ta
Từ dòng dõi mặt trăng
Nên hiệu là Nguyệt Tạng
Xuất gia tu khổ hạnh
Thuyết giảng ngàn pháp môn
Đại Tuệ được thọ ký
Ta sẽ nhập Niết-bàn
Đại Tuệ trao Đạt-ma
Tiếp trao Di-khư-lê
Thời Di-khư-lê xấu
Kiếp tận, pháp sẽ diệt
Ca-diếp, Câu-lưu-tôn
Câu-na-hàm Mâu-ni
Và ta, lìa trần cấu
Ra đời thời thuần thiện
Khi thuần thiện giảm dần
Có Đạo sư Đại Tuệ
Thành tựu đại dõng mãnh
Giác ngộ với năm pháp
Không thời hai, thời ba
Cũng không thời cực ác
Đó là thời thuần thiện
Hiện thành Đẳng chánh giác
Vải tuy không cắt may
Hãy mặc áo chắp vá
Như đốm đuôi con công
Không có người chiếm đoạt
Hoặc hai, ba ngón tay
Xâu kết lại mới thành
Nếu may khác như vậy
Kẻ ngu sinh tham đắm
Chỉ được cất ba y
Luôn giảm lửa tham dục
Tắm bằng nước trí tuệ
Ngày đêm tu ba thời
Như phóng mũi tên ra
Một rơi, lại phóng một
Cũng như ná, miếng gỗ
Thiện, bất thiện cũng vậy
Một có thể sinh nhiều
Thì có tướng khác nhau
Người cho, như mảnh ruộng
Người nhận, nên như gió
Nếu một sinh được nhiều
Tất cả không nhân hữu
Nhân sở tác hoại diệt
Thì vọng chấp thiết lập
Nếu vọng chấp được lập
Như ngọn đèn, hạt giống
Một có thể sinh nhiều
Chỉ tương tự chẳng nhiều
Hạt mè không sinh đậu
Gạo không nhân lúa mạch
Đậu nhỏ không lúa mì
Làm sao một sinh nhiều
Danh thủ tạo Thanh luận
Khoáng chủ tạo Vương luận
Thuận Thế luận vọng nói
Sẽ sinh trong Phạm tạng
Ca-đa-diên viết kinh
Tiên Thọ Bì nói Tế
Hưu Lưu viết thiên văn
Họ hiện đời xấu ác
Thế giới các chúng sinh
Phước lực cảm nơi vua
Như pháp ngự tất cả
Bảo vệ khắp cõi nước
Thanh Nghị và Xích Đấu
Trắc Tịch cùng Mã Hành
Những vị Tiên đại phước
Xuất hiện đời tương lai
Thích tử Tất-đạt-đa
Bộ-đa và Ngũ kế
Khẩu lực và thông tuệ
Cũng xuất hiện tương lai
Ta ở nơi rừng vắng
Phạm vương đến cho ta
Da nai, gậy chĩa ba
Thắt lưng và bình nước
Bậc đại tu hành đây
Sẽ thành Đấng Ly Cấu
Dạy về chân giải thoát
Biểu tướng của Mâu-ni
Phạm vương và Phạm chúng
Chư Thiên và chúng trời
Cho ta áo da nai
Trở về cung Tự tại
Ta ở giữa rừng cây
Đế Thích, Tứ Thiên vương
Cho ta y phục đẹp
Cho cả bát khất thực
Nếu lập luận bất sinh
Nhân này sinh lại sinh
Thiết lập thuyết vô sinh
Chỉ là thuyết hư ngôn
Tích tập từ vô thủy
Vô minh là nhân tâm
Sinh diệt mà tương tục
Bị vọng chấp phân biệt
Tăng-khư luận có hai
Thắng Tánh và Biến Dị
Trong thắng có tạo tác
Tạo tác nên tự thành
Thắng tánh và vật câu
Cầu-na thuyết sai biệt
Những năng tác, sở tác
Biến đổi chẳng nắm bắt
Như thủy ngân trong sạch
Không bị bụi làm nhơ
Tàng thức tịnh cũng vậy
Chỗ chúng sinh nương tựa
Như mùi hành, hưng cừ
Vị muối và thai tạng
Hạt giống cũng như vậy
Tại sao mà không sinh?
Tánh giống và tánh khác
Câu, bất câu cũng vậy
Hiện hữu phi sở thủ
Phi vô, phi hữu vi
Lìa tánh bò trong ngựa
Ngã trong uẩn cũng vậy
Nói hữu vi, vô vi
Hoàn toàn không tự tánh
Những giáo lý cầu ngã
Là vọng cấu, ác kiến
Vì không rõ nói có
Chỉ chấp giữ không hơn
Ngã ở trong các uẩn
Đồng, dị đều không thành
Chắc chắn họ mắc lỗi
Người vọng chấp không trí
Như thấy trong gương, nước
Hiện ra vô số hình
Xa lìa tánh giống, khác
Ngã trong uẩn cũng vậy
Hành giả tu thiền định
Kiến đế và thấy đạo
Nỗ lực tu ba pháp
Giải thoát các ác kiến
Giống như trong khe hở
Thấy ánh chớp mất nhanh
Pháp biến hóa cũng vậy
Không nên khởi phân biệt
Người ngu tâm mê hoặc
Chấp Niết-bàn hữu vi
Nếu thấy như bậc Thánh
Sẽ thấy đúng như thật
Nên biết pháp biến đổi
Xa lìa nơi sinh diệt
Và lìa cả hữu vô
Cho đến tướng năng sở
Nên biết pháp biến đổi
Rời khỏi luận ngoại đạo
Cũng lìa nơi danh tướng
Diệt ngã kiến bên trong
Chư Thiên thân xúc lạc
Khổ địa ngục bức thân
Nếu không phải cõi trung
Các thức không sinh được
Nên biết trong các đường
Chúng sinh nhiều loại thân
Thai, noãn, thấp, hóa sinh
Đều sinh theo cõi trung
Rời Thánh giáo chánh lý
Muốn diệt nghiệp lại tăng
Hàng ngoại đạo nói cuồng
Bậc trí không nên nói
Trước hãy quán sát ngã
Và các thủ phân biệt
Như con người Thạch nữ
Không quán sát phân biệt
Ngã tách khỏi Nhục nhãn
Dùng Thiên nhãn, Tuệ nhãn
Thấy các thân chúng sinh
Lìa các hành, các uẩn
Quán thấy trong các hành
Có màu xấu, màu đẹp
Giải thoát, chẳng giải thoát
Có người ở cõi trời
Thọ thân trong các nẻo
Duy ta năng liễu đạt
Vượt sự hiểu người đời
Ngoài cảnh giới của họ
Vô ngã mà sinh tâm
Tâm này sao không sinh?
Phải chăng nói tâm sinh
Như sông, đèn, hạt giống…
Nếu không có vô minh…
Thì tâm thức không sinh
Rời vô minh, vô thức
Làm sao tương tục sinh?
Những gì vọng chấp nói
Ba thời và phi thời
Thứ năm không thể nói
Sở tri của chư Phật
Các hành thủ sở trụ
Chúng cũng là nhân trí
Không nên nói trí tuệ
Mà gọi là các hành
Vì có nhân duyên này
Thì có pháp kia sinh
Vô biệt là hữu tác
Chỉ nói cách tượng trưng
Gió không thể sinh lửa
Nhưng làm lửa phừng cháy
Gió cũng làm lửa tắt
Sao dụ cho ngã được?
Nói hữu vi, vô vi
Đều lìa nơi các thủ
Sao người ngu phân biệt
Dùng lửa thành lập ngã
Sức hỗ tương các duyên
Vì thế sinh ra lửa
Nếu như lửa phân biệt
Ngã này từ ai sinh?
Do vì ý làm nhân
Tích tập các uẩn, xứ
Vô ngã như thương gia
Thường cùng tâm sinh khởi
Cả hai như mặt trời
Xa lìa năng sở tác
Lửa không thành lập chúng
Người chấp lầm không rõ
Tâm chúng sinh, Niết-bàn
Bản tánh thường thanh tịnh
Lỗi ô nhiễm vô thủy
Như hư không chẳng khác
Như ngoại đạo Tượng Ngọa…
Bị kiến giải tạp nhiễm
Che phủ cả ý thức
Chấp lửa… là thanh tịnh
Nếu được như thật kiến
Tức thời đoạn phiền não
Rời bỏ rừng tà kiến
Đạt cảnh giới bậc Thánh
Trí biết chỗ sai biệt
Mỗi phân biệt mỗi khác
Kẻ vô trí không biết
Nói điều không đáng nói
Người ngu lấy gỗ tạp
Cho là gỗ trầm thơm
Vọng chấp vào chân trí
Nên biết cũng như vậy
Ăn xong ôm bát về
Tẩy rửa cho sạch sẽ
Súc miệng sạch mùi vị
Cần phải biết như vậy
Hoặc đối pháp môn này
Tư duy như chánh lý
Tịnh tín lìa phân biệt
Thành tựu định tối thắng
Lìa chấp trụ nơi nghĩa
Làm tỏa sáng đèn pháp
Phân biệt nơi hữu vô
Và các lưới ác kiến
Ba độc đều xa lìa
Được Phật rưới quán đảnh
Ngoại đạo chấp năng tác
Mê chiều hướng không nhân
Hãi sợ đối duyên khởi
Đoạn diệt không tánh Thánh
Biến khởi các chấp quả
Nghĩa là các thức, ý
Ý sinh từ Lại-da
Thức nương Mạt-na khởi
Tàng thức khởi các tâm
Như biển sinh khởi sóng
Tập khí lấy làm nhân
Tùy duyên mà sinh khởi
Sát-na như móc xích
Cảnh giới chấp tự tâm
Rất nhiều loại hình tướng
Của ý căn… thức sinh
Tích ác từ vô thủy
Sinh tựa cảnh bên ngoài
Chỗ thấy chỉ tự tâm
Ngoại đạo không rõ được
Nhân kia và duyên kia
Mà sinh nơi thức khác
Thế nên khởi các kiến
Trôi lăn trong sinh tử
Các pháp như mộng, huyễn
Trăng, nước, bóng, thành Càn
Nên biết tất cả pháp
Chỉ là tự phân biệt
Chánh trí nương chân như
Sinh ra các Tam-muội
Như huyễn, Thủ-lăng-nghiêm
Những sai khác như vậy
Được nhập nơi các Địa
Tự tại và thần thông
Thành tựu như huyễn trí
Được chư Phật quán đảnh
Thấy thế gian hư vọng
Khi ấy tâm chuyển y
Đạt được Hoan hỷ địa
Các địa và Phật địa
Đã được chuyển y rồi
Như viên ngọc nhiều màu
Lợi ích cho chúng sinh
Hiện như trăng trong nước
Bỏ kiến giải hữu vô
Đến câu hữu, bất câu
Vượt khỏi hạnh Nhị thừa
Vượt cả Địa thứ bảy
Pháp hiện chứng bên trong
Tu tập vượt các Địa
Xa lìa hàng ngoại đạo
Vị ấy giảng Đại thừa
Nói pháp môn giải thoát
Như sừng thỏ, viên ngọc
Rời khỏi nơi phân biệt
Khỏi chết và đoạn diệt
Giáo do lý mà thành
Lý hiển bày do giáo
Hãy nương giáo lý này
Chớ có phân biệt khác.


[Đầu trang]


[Mục lục bộ Kinh tập][426][427][428][429][430][431][432][433][434][435][436][437][438][439][440][441][442][443][444][445][446][447][448][449][450][451][452][453][454][455][456][457][458][459][460][461][462][463][464][465][466][467][468][469][470][471][472][473][474][475][476][477][478][479][480][481][482][483][484][485][486][487][488][489][490][491][492A][492B][493][494][495][496][497][498][499][500][501][502][503][504][505][506][507][508][509][510][511][512][513][514][515][516][517][518][519][520][521][522][523][524][525][526][527][528][529][530][531][532][533][534][535][536][537][538][539][540][541][542][543][544][545][546][547][548][549][550][551][552][553][554][555][556][557][558][559][560][561][562][563][564][565][566][567][568][569][570][571][572][573][574][575][603][604][605][606][607][608][609][610][611][612][613][614][615][616][617][618][619][620][621][622][623][624][625][626][627][628][629][630][631][632][633][634][635][636][637][638][639][639][640][641][642][643][644][645][646][647][648][649][650][651][652][653][654][655][656][657][658][659][660][661][662][663][664][665][666][667][668][669][670][671][672][673][674][675][676][677][678][679][680][681][682][683][684][685][686][687][688][718][719][720][721][721][722][723][724][725][726][727][728][729][730][731][732][733][734][735][736][737][738][739][740][741][742][743][744][745][746][747A][747B][748][749][750][751][752][753][754][755][756][757][758][759][760][761][762][763][764][765][766][767][768][769][770][771][772][773][774][775][776][777][778][779][780][781][782][783][784][785][786][787][788][789][790][791][792][793][794A][794B][795][796][797A][797B][798][799][800][801][802][803][804][805][806][807][808][809][810][811][812][813][814][815][816][817][818][819][820][821][822][823][824][825][826][827][828][829][830][831][832][833][834][835][836][837][838][839][840][841][842][843][844][845][846][847]


[Mục lục tổng quát]