TRUYỀN THỐNG SINH ĐỘNG THIỀN TẬP TRONG ĐẠO BỤT – Q2

MỤC LỤC

TRUYỀN THỐNG SINH ĐỘNG THIỀN TẬP TRONG ĐẠO BỤT – Q2

Chương 02: Các Môn Phái Và Giáo Điển Sinh Động

7. Cư Trần Lạc Đạo: Trái tim của Trúc Lâm Đại Sĩ

HỘI THỨ NHẤT

HỘI THỨ HAI

HỘI THỨ BA

HỘI THỨ TƯ

HỘI THỨ NĂM

HỘI THỨ SÁU

HỘI THỨ BẢY

HỘI THỨ TÁM

HỘI THỨ CHÍN

HỘI THỨ MƯỜI

KỆ KẾT THÚC

TỔNG LUẬN


Chương 02: Các Môn Phái Và Giáo Điển Sinh Động

7. Cư Trần Lạc Đạo: Trái tim của Trúc Lâm Đại Sĩ

Chúng ta bắt đầu học về bài Cư Trần Lạc Đạo của một vị vua xuất gia, Trần Nhân Tông.

Có thể đây là lần đầu tiên trong một thiền viện thiền sinh được học hỏi về bài này. Lý do thứ nhất là có thể rất ít người biết tới sự có mặt của bài này. Thứ hai là bài này không dễ để hiểu. Trong khi đó thì bài này là trái tim của Trúc Lâm Đại Sĩ, và trong địa vị văn học thì đây là sáng tác tiếng Nôm đầu tiên tại Việt Nam.

Cư Trần Lạc Đạo là một bài phú gồm mười Hội, do Trúc Lâm Đại Sĩ làm để trình bày phương pháp tu tập của ngài. Khi tôi đọc bài này của Trúc Lâm Đại Sĩ thì tôi rất xúc động, giống như mình đi vào trái tim của người xưa để thấy được tình thương, cái tuệ giác của một vị tổ sư. Chúng ta sẽ tuần tự học từng Hội của Cư Trần Lạc Đạo.

HỘI THỨ NHẤT

Mình ngồi thành thị,

Nết dùng sơn lâm.

Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính,

Nửa ngày rồi tự tại thân tâm,

Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý.

Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm.

Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý.

Biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chủ tri âm?

Nguyệt bạc, vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng.

Liễu mềm hoa tốt, ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm.

Lo hoán cốt, ước phi thăng. đan thần mới phục.

Nhẩm trường sinh, về thượng giới, thuốc thỏ còn đam.

Sách dễ xem chơi, yêu tính sáng, yêu hơn châu báu,

Kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim.

Bình giảng Hội thứ Nhất

Chúng ta hãy đọc từng câu của Hội thứ Nhất bài Phú Cư Trần Lạc Đạo:

Mình ngồi thành thị
Nết dùng sơn lâm

"Dùng" là tiếng Việt. Bản mà quý vị có là do học giả Đào Duy Anh dịch. Có khi tôi đọc không giống bản của Đào Duy Anh thì quý vị chữa lại cho đúng theo lời của tôi đọc. Câu này có nghĩa là thân của mình tuy sống ở trong thành thị, nhưng phong thái của mình đã là phong thái của người ở trong núi rừng rồi.

Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính,
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm

Khi tất cả những hành động của mình (Muôn là mười ngàn), khi mười ngàn hành động (về thân, về nghiệp và về ý) của mình đã lặng xuống thì cái thể và cái tính của mình nó an nhàn trở lại. "Thể" tiếng Anh là Essence, "tính" là NA-ture. Lặng xuống là nó relax, nó peaceful. Nửa ngày rồi, "rồi" ở đây có nghĩa là thanh thản, không bị bó buộc, thảnh thơi. Nửa ngày thực tập sự thảnh thơi, thanh thản, nhờ vậy mà thân và tâm mình đã bắt đầu có tự do.

Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý
Thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm

Khi nguồn tham ái đã dừng lại rồi, khi ngọn suối của tham ái ở trong mình đã khô cạn rồi, thì cái đầu của mình không còn nghĩ tới vàng bạc, châu báu, tiền tài, và của cải nữa. Khi những tiếng cãi lộn với nhau về anh sai tôi đúng (thị phi nghĩa là ai phải ai trái), khi những tiếng cãi lộn đó im lại rồi, thì bắt đầu mình tha hồ được nghe những tiếng chim chóc véo von ca hát: Được dầu nghe yến thốt oanh ngâm. "Dầu" ở đây có nghĩa là tha hồ.

Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý

Ở trong cuộc đời có nhiều người biết thưởng thức cảnh trí của thiên nhiên, như nước màu biếc, núi màu xanh, và họ lấy làm đắc ý về sự kiện họ có thể thưởng thức được vẻ đẹp của thiên nhiên. Nhưng:

Biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chủ tri âm?

"Hay" có nghĩa là biết, là hiểu. Ai hay tức là ai biết. Khi mình biết được tự tánh của đào hồng, khi mình biết bản chất của liễu lục. "Năng" ở đây có nghĩa là có thể, có khả năng. "Thiên hạ năng" là trong thiên hạ có mấy ai có khả năng biết được (bản chất của đào hồng, của liễu lục). Chỉ có những thiền sư đắc đạo mới có thể nắm được bản chất của đào hồng liễu lục. Chúng ta đã nghe bài kệ của thiền sư Linh Vân, khi trông thấy hoa anh đào nở thì thoắt nhiên đại ngộ.

Nguyệt bạc, vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng

"Nguyệt bạc" là vừng trăng màu bạc, "vừng xanh" là bầu trời xanh thẳm. Vầng trăng bạc ở trên bầu trời xanh soi mọi chỗ thiền hà lai láng. Mặt trăng đó chiếu soi khắp mọi nơi, nó không kỳ thị, ở đâu có một dòng sông là dưới đáy sông đó có phản chiếu mặt trăng. Lai láng có nghĩa là chỗ nào cũng có.

Chúng ta nhớ hai câu thơ của vua Trần Thái Tông:

Thiên gian hữu thủy, thiên gian nguyệt,

Vạn lý vô vân, vạn lý thiên.

Nghĩa là một ngàn dòng sông, dòng nào còn nước là dòng sông đó có mặt trăng ở trong lòng. "Vạn lý" tức mười ngàn dặm đường mà dặm nào không có mây là dặm đó có trời xanh. Thành ra khi đọc câu "Nguyệt bạc, vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng" chúng ta có khuynh hướng nhớ tới câu thơ của Trần Thái Tông. Đúng là cháu Trúc Lâm Nhân Tông nhớ thơ văn của ông nội Thái Tông!

Nguyệt bạc vừng xanh soi mọi chỗ, thiền hà lai láng, "Thiền hà" là dòng sông thiền, mỗi chúng ta đều là một dòng sông, và dòng sông một khi nó im lặng, không có sóng gió, khi nó tĩnh thì nó phản chiếu được hình ảnh của mặt trăng ở trong lòng nó. Chúng ta cũng vậy. Chúng ta là một dòng sông thiền. Khi nào nước ở trong dòng sông ta mà lắng trong thì ta phản ảnh được cái mặt trăng Phật tánh ở trong ta. Dòng sông ta mà không lắng thì hình ảnh mặt trăng không hiện ra được. Tâm của chúng ta ô nhiễm và không có định, thì Phật tánh không hiện ra ở trong dòng sông của chúng ta. Đây là những hình ảnh thi ca rất tuyệt diệu.

Chúng ta nhớ bài:

Bụt là vầng trăng mát,

Đi ngang trời thái không,

Hồ tâm chúng sanh lặng,

Trăng hiện bóng trong ngần.

Khi nào hồ tâm của chúng ta lặng yên thì mặt trăng hiển hiện trong hồ tâm đó. Ở đây cũng vậy, mỗi chúng ta là một dòng sông thiền. Hà là sông, như là sông Hồng Hà ở Bắc Việt, sông Hoàng Hà ở bên Tàu v.v... Thiền hà lai láng, khi mặt trăng sáng chói ở trên bầu trời xanh chiếu xuống, thì nó soi rõ và phản chiếu trong tất cả mọi con sông thiền lai láng.

Liễu mềm hoa tốt, ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm

Cành liễu thì nó mềm, bông hoa thì nó tốt, nó đẹp. Ngất quần sinh, "ngất" là cao ngất; "quần sinh" là các loại hữu tình. Quần sinh cũng như là chúng sinh, những đám sinh vật, loài người, loài chim, loài cá, loài thú, loài côn trùng, tất cả đều gọi là quần sinh, hay chúng sinh. "Tuệ nhật" tức là mặt trời của trí tuệ. "Sâm lâm" có nghĩa là sum suê, xanh tốt. Khi mặt trời trí tuệ chiếu xuống thì nó tạo ra màu xanh, nó nuôi dưỡng những loài thảo mộc tươi tốt. Mặt trời ở đây tức là mặt trời trí tuệ, tức bát nhã. Mặt trời bát nhã mà chiếu vào ta thì ta được nuôi dưỡng và ta được tươi tốt trong đời sống tâm linh của chúng ta. Liễu mềm, hoa tốt là công trình của mặt trời, còn nếu chúng ta có hạnh phúc, có an lạc, đó là công trình của trí tuệ.

Lo hoán cốt, ước phi thăng. đan thần mới phục

"Lo hoán cốt" là lo đi tìm cách đổi bộ xương của mình. Đây là một thực tập của các nhà đạo sĩ Taoist, họ muốn đạt tới cõi trường sinh, sống lâu không bao giờ chết, cho nên họ phải đổi xương của họ, gọi là hoán cốt. "Ước phi thăng" tức là mơ ước được bay lên cõi bất tử. Phi là bay, thăng là lên. "Đan thần mới phục". Đan là thuốc viên, đan thần cũng như linh đan, tức là thuốc tiên, thần dược. "Mới phục" tức là mới uống. Phục dược tức là uống thuốc. Vì những người kia muốn đổi xương của họ, họ muốn trở thành bất tử, cho nên họ mới đi tìm những thuốc trường sinh để họ uống. Đây là nói về các nhà tu theo Lão giáo,

Chúng ta còn nhớ một câu của vua Trần Thái Tông:

Đến được động tiên sâu thẳm ấy

Linh đan thay cốt mới quay về.

Khi mình tới được động đá của người tiên ở sâu thẳm trong núi thì cương quyết mình phải xin cho được thuốc tiên, uống cho được linh đan, thay cho được tất cả những khúc xương ở trong cơ thể thì mình mới chịu quay về. Cũng như khi tới Làng Mai thì mình nhất định không về hai tay không, mình phải đổi xương đổi cốt, phải đổi thịt đổi da, phải uống thuốc chánh niệm, phải thay đổi con người của mình, rồi mới chịu về, chứ không thể nửa đường mình bỏ về được.

Nhẩm trường sinh, về thượng giới, thuốc thỏ còn đam

"Thuốc thỏ" tức là mặt trăng. Nếu quý vị nhìn lên mặt trăng thì sẽ thấy hình một con thỏ nằm trên đó. Con thỏ bằng ngọc, gọi là Ngọc Thố. Đó là danh từ để chỉ mặt trăng trong văn chương Á Đông. Mặt trời người ta gọi là Con Quạ Vàng, Kim Ô, còn mặt trăng là con Thỏ Ngọc, Ngọc Thố. Thuốc thỏ tức là thứ thuốc tiên, uống vào thì mình sẽ được bất tử, mình có thể như là Hậu Nghệ, bay lên mặt trăng và sống muôn đời trên đó.

Quý vị có biết chuyện Hằng Nga-Hậu Nghệ không? Truyền thuyết cho rằng Hậu Nghệ đã ăn cắp thuốc trường sinh của vua. Nhà vua đã tìm đủ mọi cách để mời các vị đạo sĩ tới luyện đan cho vua uống để thành bất tử. Nhưng mới luyện xong, vua chưa kịp uống thì chàng Hậu Nghệ đã lẻn vào cung uống hết thuốc đó, rồi bay lên mặt trăng sống với Hằng Nga! Thành ra "thuốc thỏ" nghĩa là thuốc trăng, tức là thuốc trường sinh bất tử. "Đam" là say mê. Mấy người đó họ còn say mê đi tìm thuốc trường sinh.

Nhẩm trường sinh, về thượng giới, nghĩa là những người có mục đích nhắm tới chuyện trường sinh, sống lâu, và đi về thượng giới thì họ mới đam mê chuyện thuốc thỏ. Trong khi đó thì:

Sách dễ xem chơi, yêu tính sáng, yêu hơn châu báu,
Kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim

Ở đây chữ "dễ" có người phiên âm là "dịch" nhưng tôi nghĩ có thể không phải chữ dịch. Tại vì dịch kinh không phải là kinh Phật, nó không nói về cái tính sáng, tức là cái bản tâm thanh tịnh của con người. "Chơi" ở đây nghĩa là enjoy, mình thích xem sách. Sách này tức là sách nói về giáo lý đạo Bụt, có thể là những bộ Luận. Mỗi ngày mình đem sách đó ra xem, mình yêu thích chuyện xem sách, tại vì xem sách là một phương pháp để nuôi dưỡng cái thấy của mình. Yêu tính sáng, yêu hơn châu báu. Tính sáng tức là minh tánh, cái tính chiếu sáng sẵn có trong người của mình. Mỗi người đều có tính sáng đó trong người. Mình biết yêu chuộng cái đó, mà cái đó mình cho là quí giá hơn tất cả những cái gì khác, gọi là "Yêu tính sáng, yêu hơn châu báu".

Chúng ta thấy tiếng Việt của thế kỷ thứ 13, 14 còn "Việt" hơn là tiếng Việt của thế kỷ thứ 20, 21 của chúng ta: Tính sáng chứ không viết là minh tính.

Kinh nhàn đọc dấu, "dấu" đây có nghĩa là in dấu, cũng có nghĩa là ưa thích, như trong chữ yêu dấu, enjoy. Mình ưa thích việc đọc kinh. Đọc một cách nhàn hạ, cũng như việc xem sách, mình xem một cách dễ dãi, chứ không phải mình xem sách nhức đầu, nhức óc. Nếu nhức đầu nhức óc thì làm sao mà thưởng thức được? Cho nên mình xem sách như thế nào mà mình thấy có sự thích thú, có hạnh phúc ở trong đó. Khi đọc kinh cũng vậy, mình đọc kinh không phải vì sợ thầy bắt trả bài, phải nói cho đúng, mà tại vì mình thích đọc kinh. Đọc tới đâu thì mình hạnh phúc tới đó. Đọc sách cũng vậy. Phương pháp tu của Trúc Lâm Đại Sĩ là vừa tu vừa chơi. Phải enjoy việc tu tập, chứ không phải lao động mệt nhọc.

Sách dễ xem chơi, yêu tính sáng, yêu hơn châu báu. Kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim. Xem trọng cái tự do của tâm còn hơn bất cứ vàng bạc nào trong đời. Trọng nữa hoàng kim có nghĩa là trọng hơn cả vàng bạc nữa. "Nữa" ở đây có nghĩa là hơn cả. Khi đọc sách mình thấy rằng mình yêu cái tính sáng sẵn có ở trong mình, mà yêu hơn cả châu báu. Khi xem kinh thì mình quí trọng cái tự do của tâm. "Lòng rồi" tức là cái nhàn tâm, nghĩa là lòng thanh thản, nhẹ nhàng. Đó là cái hạnh phúc.

Tâm mình mà không có sự thanh thản nhẹ nhàng đó thì không có cách gì có hạnh phúc cả. Ở đây có ai có pháp danh là Tâm Thảnh Thơi không? Tâm thảnh thơi ngày xưa gọi là "lòng rồi" nghĩa là lòng rỗi. "Trọng nữa hoàng kim" quý chuộng cái tâm thảnh thơi còn hơn vàng bạc.

Giáo pháp trong Hội thứ Nhất

Trong Hội thứ nhất của bài phú chúng ta đã học được gì?

Điều Ngự Trúc Lâm nói rằng trước hết cái quý báu nhất của chúng ta là cái tự do. Đi tu chẳng qua vì chúng ta thấy tự do là cái quí nhất. Không có những dây buộc, dây ràng, không có cái gì sai sử mình. Tự do là cái mà người đi tu quí trọng nhất. Tự do đây không phải chỉ là tự do chính trị. Tự do đây là tự do của tâm, gọi là nhàn tâm, sự thảnh thơi trong tâm. Nếu tâm mình có thảnh thơi thì tự khắc mình có hạnh phúc. Cái mà người tu phải thực hiện trước tiên là đạt tới sự thảnh thơi của tâm. Quí hơn cả vàng, quí hơn cả bạc, quí hơn tất cả những cái như công, danh, lợi, dưỡng.

Điểm thứ hai mà Trúc Lâm dạy là trong mỗi chúng ta có cái tính sáng, cái tính Bụt. Tính sáng đó là cái quí nhất mà mình có. Mình chỉ cần làm cho nó biểu lộ ra thôi.

Lời dạy thứ ba của Trúc Lâm Đại Sĩ là tuy nhiều người có khả năng thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng người tu đi xa hơn. Người tu không phải chỉ thưởng thức cái đẹp của thiên nhiên, người tu còn phải tiếp xúc cho được, phải nắm cho được bản chất của thực tại. Không phải chơi nước biếc, ẩn non xanh mà đủ. Phải biết đào hồng hay liễu lục thì mới được. Tức là phải nắm cho được, phải tiếp xúc cho được bản chất của liễu lục, đào hồng, tức là cái pháp thân. Tại vì trúc tím hoa vàng, bạch vân minh nguyệt, đều là những cái biểu lộ của pháp thân cả.

Tiếp xúc với trúc tím hoa vàng, bạch vân minh nguyệt một cách cạn cợt thì chưa đủ. Cần phải tiếp xúc rất sâu sắc. Mà khi tiếp xúc sâu sắc thì chúng ta chạm được tới pháp thân. Đó gọi là "biết đào hồng, hay liễu lục".

Lời dạy chót của Trúc Lâm Đại Sĩ trong Hội này là khi mình sống một đời sống nội hướng, sâu sắc thì dù mình có phải ở trong thành phố, mình vẫn có an lạc hạnh phúc, chứ không hẳn mình phải trốn lên núi, đi vào rừng, mới có thể có an lạc và hạnh phúc.

HỘI THỨ HAI

Biết vậy!

Miễn được lòng rồi,

Chẳng còn phép khác.

Gìn tính sáng tính mới hầu an.

Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác.

Dứt trừ nhân, ngã thì ra tướng thực kim cương.

Dừng hết tham sân mới lão lòng mầu viên giác.

Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương.

Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc.

Xét thân tâm, rèn tính thức, há rằng mong quả báo phô khoe.

Cầm giới hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán chác.

Ăn rau ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay.

Vận giấy, vận sồi, thân căn có ngại chi đen bạc.

Nhược chín vui bề đạo đức, nửa gian lều quí nửa thiên cung.

Dầu hay mến thửa nhân nghì, ba phiến ngói yêu hơn lầu gác.

Bình giảng Hội thứ Hai

Biết vậy!

Có nghĩa là chúng ta hãy nên biết như thế! Và Đại Sĩ đưa lên một ngón tay rồi tuyên bố một câu quan trọng:

Miễn được lòng rồi
Chẳng còn phép khác

There is only one thing, nothing else to learn. "Lòng rồi" tức là cái tâm thảnh thơi. Đó là cái quí nhất. Miễn là ta đạt được cái đó, miễn là ta thực tập được cái đó. Ngoài ra không còn pháp môn nào nữa hết (Chẳng còn phép khác). Đó là một tiếng sét, đó là một tiếng trống, đó là hiệu lệnh của Trúc Lâm Đại Sĩ.

Chúng ta hãy suy nghĩ, trong khi sống tại Mai Thôn Đạo Tràng, chúng ta có đang thực tập chuyện đó không? Hay tuy là người tu mà chúng ta vẫn còn lăng xăng, rối như tơ vò trong trái tim của chúng ta? Chúng ta lo chuyện này, chúng ta rầu chuyện khác, chúng ta nghĩ quá khứ, chúng ta nghĩ tương lai, chúng ta bị ràng buộc vào vấn đề này, vào vấn đề khác. Có gì quan trọng đâu? Chỉ có một cái quan trọng thôi, đó là sự thảnh thơi của trái tim ta. Ngoài ra, đều không quan trọng. Sư chị có rầy hay có cưng nhiều hay ít hơn một chút, sư anh có "găng" nhiều hay ít hơn một chút, cái đó không quan trọng! Cái quan trọng là sự thảnh thơi có mặt ở trong lòng của chúng ta hay không.

Sự thảnh thơi đó là tự chúng ta tạo ra, không ai cho chúng ta được. Tâm thảnh thơi của chúng ta, thầy không thể nào ban cho chúng ta được. Sư anh không ban cho chúng ta được, sư chị cũng không ban cho chúng ta được. Tự chúng ta phải khơi mở lấy. Tâm thảnh thơi gọi là "lòng rồi" hay "lòng rỗi".

Thành ra mỗi khi thấy trong lòng buồn bã, khổ đau, giận hờn, thất vọng, chúng ta hãy gọi: Tâm thảnh thơi của tôi ơi! Ngươi đi đâu rồi?

Mình biết rằng không phải người khác có thể cho mình cái tâm thảnh thơi đó. Tâm thảnh thơi không phải là một món quà mà nhà dây thép đem tới. Tâm thảnh thơi không phải là cái gì có thể mua ở siêu thị Leclerc. Tâm thảnh thơi không phải do một người thương của mình đem tới, dù người đó là sư anh, sư chị hay thầy của mình. Tâm thảnh thơi đó chỉ có mình mới có thể cho mình được. Mình lấy nó ở đâu? Mình lấy nó từ cái tính sáng của mình.

Đọc bài Cư Trần Lạc Đạo này quí vị thấy tiếng Việt ngày xưa nó rất Việt, nó còn Việt hơn bây giờ nữa. Văn cú và chữ dùng rất là Việt. Miễn được lòng rồi, chẳng còn phép khác. Dùng chữ phép chứ không dùng chữ pháp. Phép Bụt cao siêu mầu nhiệm.

Gìn tính sáng tính mới hầu an

"Gìn" tức là bảo vệ nó, gìn giữ nó, bảo quản nó thì ta mới có được cái an ở trong lòng chúng ta. Che chở cái tính sáng đó thì nó mới đem tới cho ta cái lạc. Cái an đưa tới cái lạc. Người khổ là người không có an. Muốn có an thì phải biết dựa trên cái tính sáng của mình. Tính sáng của mình là cái thấy của mình, cái khả năng thấy của mình.

Nếu không thấy hoặc thấy sai, tức là vọng tưởng, thì mình khổ. Tất cả những nỗi khổ của mình đều do cái thấy sai của mình, cái gọi là vọng tưởng, mà ra cả. Bụt nói tất cả những khổ đau của chúng ta đều phát sanh từ chỗ chúng ta không thấy được. Chúng ta bị kẹt trong vọng tưởng.

Chúng ta đau khổ là vì sao? Vì giận hờn, vì ganh tị, vì thèm khát, vì sợ hãi, vì thất vọng. Tất cả những giận hờn, ganh tị, thất vọng. sợ hãi đó đều phát sinh từ cái gọi là vô minh, không thấy được sự thật, tức là những vọng tưởng. Vì vậy cho nên chỉ có một cái có thể chữa được bệnh đau khổ, là cái tính sáng.

Thấy được thì tự nhiên mình hết khổ. Mình cứ nghĩ rằng cái khổ của mình sẽ chấm dứt khi những hiện tượng chung quanh mình thay đổi theo ý mình muốn. Nhưng đó là cái ngọn, cái cội là ở chỗ tính sáng của mình.

Cho nên khi mình bị đau khổ thì cách chữa bệnh là trở về với tính sáng, chứ không phải nói rằng đợi chừng nào hoàn cảnh của tôi thay đổi thì tôi mới hết đau khổ. Đó không phải là phương pháp chữa trị của đạo Bụt. Gìn tính sáng tính mới hầu an, nghĩa là nếu muốn có cái an trong lòng thì chúng ta phải làm cho cái tính sáng trong lòng nó chiếu rọi ra.

Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác

Chữ "niềm" ở đây nó tương đương với chữ niệm. Niềm là tiếng Việt, còn niệm là tiếng Hán Việt. Khi chúng ta nói "Nỗi khổ niềm đau" thì chữ niềm đó là chữ niềm được dùng trong câu này. Niềm buồn, niềm đau. Vì vậy mà "niềm vọng" trong câu này, tiếng Hán Việt là vọng niệm. Niềm vọng là rất Việt Nam, còn vọng niệm là tiếng Hán Việt. Vọng niệm là trái với chánh niệm. Chánh niệm tức là niệm chánh. "Nén niềm vọng" tức là đừng để cho cái vọng niệm nó tung hoành ở trong ta. Ta đau khổ là tại những cái vọng niệm. Nén tức là ngăn ngừa đừng cho nó phát hiện. Nếu nó phát hiện rồi thì phải quán chiếu để thấy được tự tánh của nó và tự nhiên nó sẽ thay đổi. Nén niềm vọng, niềm dừng chẳng thác. Nếu chúng ta thực tập quán chiếu và phòng hộ thì cái niệm vọng đó sẽ dừng lại. "Chẳng thác" là không thể nào sai được, "thác" có nghĩa là sai lạc. Cái niệm đó nó dừng lại chứ không phải nó bị đàn áp hay bị tống cổ ra khỏi ta.

Như vậy Trúc Lâm Đại Sĩ đã thấy rằng phương pháp không phải là đàn áp cái vọng niệm, mà là phải ngăn ngừa đừng cho nó phát triển. Nếu nó đã phát triển rồi thì quán chiếu để lấy chánh niệm can thiệp vào trong nó, để cho tự nó dừng lại. Điều đó không thể nào sai lạc được.

Dứt trừ nhân, ngã thì ra tướng thực kim cương

"Tướng thực kim cương", tiếng Hán Việt là Kim cương thật tướng. Một lần nữa chúng ta thấy văn hồi đó là văn rất Việt Nam. Chúng ta biết trong kinh Kim Cương Bụt dạy chúng ta phải phá tung bốn cái niệm vọng hay vọng niệm. Bốn ý niệm đó là Ngã, Nhân, Chúng sanh, và Thọ giả. Nhưng ở đây Trúc Lâm Đại Sĩ đưa ra hai cái thôi, là Nhân và Ngã. Tại vì câu phú nó bị hạn định bởi số chữ. Đưa ra hai cái để nói bốn cái. "Dứt trừ nhân ngã" tức là vượt thoát ý niệm về ta và về loài người. Nhân đây không có nghĩa là người kia, không có nghĩa ta và người. Nhân ngã là ý niệm về người, và ý niệm về ta. Ý niệm về loài người như là một chủng loại, và về ta như là một thực thể bất biến. "Ta" ở đây không phải là chữ đối lại với "người". Ta ở đây là đối với vô ngã. Nếu ta dứt trừ được ý niệm sai lầm về nhân, về ngã, trừ được hai niệm vọng đó, thì tự nhiên nó xuất hiện ra cái tướng thật của kim cương, kim cương thật tướng.

Dừng hết tham sân mới lão lòng mầu viên giác

"Lão" tức là hiểu một cách thấu suốt, như trong chữ lão thông. Nếu dừng được hết những thèm khát và giận hờn thì chúng ta mới có thể chứng thực được cái diệu tâm của viên giác. Viên giác tức là sự giác ngộ tròn đầy. Lòng mầu viên giác tiếng Hán Việt là viên giác diệu tâm.

Quí vị có thấy rằng các ngài tổ tiên biết rằng cái độc lập về chính trị, cái độc lập về quân sự nó dính líu mật thiết đến cái độc lập văn hóa không? Ngôn ngữ này là một ngôn ngữ độc lập. Thay vì nói viên giác diệu tâm thì nói "lòng mầu viên giác". Văn cú rất là Việt Nam. Độc lập với ngoại bang là do gốc gác đó! Tổ tiên của chúng ta xây dựng nền tảng của đất nước ngay từ trong ngôn ngữ. Viên giác tiếng Anh là Perfect Awakening, sự giác ngộ toàn vẹn.

Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương

Giáo sư Hoàng Xuân Hãn phiên âm là "Tịnh thổ", nhưng "Tịnh độ" thì đúng hơn. Viết là thổ, nhưng đọc là độ, người có tương chao thì đọc là độ. Người không biết tương chao thì đọc là thổ!

Chúng ta có câu hát Tịnh độ là đây-Đây là tịnh độ. Đó là chúng ta hành trì theo lời dạy của Trúc Lâm Đại Sĩ. Ta đâu có đặt ra gì mới đâu? Tịnh độ là lòng trong sạch. Khi nào tâm ta nó tịnh, nó lắng lại, nó an, nó không có phiền não, không giận hờn, không ganh tị, thì chúng ta bước vào tịnh độ. Mỗi bước chân đi vào tịnh độ. Khi đã có lòng đó rồi, tức là có tâm thảnh thơi rồi thì mỗi bước chân nào cũng đưa chúng ta vào tịnh độ. Tịnh độ là lòng trong sạch. Chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương. Đâu cần đặt vấn đề tịnh độ có thật hay không có thật?

Đối với những người tin rằng Thiên đường có thật nên trong tâm họ thấy an. Nhưng khi câu hỏi đặt ra: Lâu nay mình tin là có Thiên đường, nhưng lỡ nó không có thì sao? Lúc đó mới bắt đầu đi vào trong đêm đen của sự nghi ngờ. Nguy hiểm lắm! Thành ra giờ đây nếu biết được tịnh độ là cái lòng của ta khi nó trong sạch, thì ta không còn đặt vấn đề là có hay không có tịnh độ. Rõ ràng là nó có, và nó ở đây chứ không phải ở chỗ khác: Chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương!

Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc

Tại vì Bụt A Di Đà là Bụt Vô Lượng Quang. Vô lượng Quang là ánh sáng chiếu xa, không biên giới. "Mựa" tức là đừng, chớ có nhọc tìm về Cực lạc. Cực lạc không nằm trong không gian, không nằm trong thời gian. Nó không nằm ở nơi nào khác, và lúc nào khác. Nó nằm ngay ở đây và bây giờ. Nó có mặt trong cái tính sáng của chúng ta.

Xét thân tâm, rèn tính thức, há rằng mong quả báo phô khoe

"Xét thân tâm" tức là quán sát cái thân và cái tâm của chúng ta. Xét ở đây không có nghĩa là judging mà có nghĩa là observing, nhận xét, quan sát. Nó từ chữ quan sát mà ra. Contemplation the body, contemplation the mind, đây là kinh Niệm Xứ. Chúng ta phải quán niệm về thân, và về tâm. Chúng ta phải luyện rèn cái tính thức. "Tính thức" tức là bản chất của cái biết, của sự tỉnh thức ở trong ta. Chúng ta phải thực tập, rèn luyện. Rèn ở đây là cultivate. Cultivate the nA-ture of understanding, the nA-ture of consciouness.

Há rằng mong quả báo phô khoe: Chúng ta làm những công việc đó không phải là để khoe sự thực tập của chúng ta với người khác. Chúng ta làm cái đó là để có an, có lạc, có hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại, chứ không phải để nói rằng tôi tu nhiều lắm đó ông, ông phải đem cúng dường tôi nào là cam, nào là chuối, ông phải cúng dường để tôi xây chùa cho lớn, tại vì tôi tu gắt lắm, mỗi ngày tôi không ngủ, tôi chỉ ngồi ngủ gục thôi, tôi không có nằm xuống! Không phải như vậy!

Cầm giới hạnh, địch vô thường, nào có sá cầu danh bán chác

"Cầm" tiếng Hán Việt là trì. Chúng ta nói là trì giới, ngày xưa tổ tiên nói là cầm giới. Cầm là tiếng Việt 100%. "Địch vô thường" tức là đối phó với cuộc đời vô thường. Ngày hôm nay như thế này, ngày mai như thế kia, ta đâu biết trước được? Làm sao mà đối địch được với vô thường? Đại sư nói có cách để đối địch với vô thường. Đó là tay luôn luôn cầm lấy giới, cầm lấy hạnh. Cầm giới hạnh, địch vô thường.

Thành ra giới hạnh là một khí giới để có thể chống lại được với vô thường. Nếu có giới hạnh trong tay, thì vô thường không làm gì được ta. Chúng ta sẽ không hối tiếc. Hôm nay phải trì giới, hôm nay phải tu hành. "Nào có sá cầu danh bán chác". Bán chác tức là mua bán. Tất cả những chuyện gọi là thực tập trì giới đều nhắm tới mục tiêu giải thoát, an lạc, chứ không phải để khoe, để bán chác cho người ta.

Ăn rau ăn trái, nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay

"Thửa" là những chỗ, những đối tượng, tương đương với chữ "sở" trong Hán Việt. Sở tri là cái mình biết; sở kiến là cái mình thấy. Thửa biết, thửa thấy, thửa đắng cay, đều là những đối tượng mình ăn, đôi khi có đắng, có cay thì cũng không sao. Đắng cay ở đây có nghĩa là không ngon, không tasty enough. Ăn rau ăn trái tức là ăn chay. Nghiệp miệng tức là tiếng Việt của chữ "khẩu nghiệp". Nếu chúng ta ăn thịt các loài chúng sanh thì chúng ta tạo ra nghiệp miệng. Nghiệp miệng đây không phải là nghiệp nói năng mà là nghiệp ăn uống. Nghiệp miệng chẳng hiềm thửa đắng cay: Dở hơn một chút, ngon hơn một chút cũng không sao, chúng ta không hiềm. Không hiềm nghĩa là không quản, không ngại.

Vận giấy, vận sồi, thân căn có ngại chi đen bạc

Vận tức là mặc, bên ăn bên mặc. Giấy ở đây là một thứ vải làm bằng vỏ cây. Sồi cũng là một thứ vãi thô. "Thân căn có ngại chi đen bạc"-Thân căn tức là cái hình hài của chúng ta. Đen là màu đen; bạc là màu trắng. Mặc áo nhuộm màu nâu cũng được, màu lam cũng được. Màu nào cũng được hết, không kén chọn. Đó gọi là "Có ngại chi đen bạc".

Nhược chín vui bề đạo đức, nửa gian lều quí nửa thiên cung

"Nhược" có nghĩa là nếu, là ví bằng. "Chín" là chỉ. Nếu chúng ta chỉ tìm cái vui về mặt đạo đức thì nửa gian lều tranh còn quí hơn (quí nửa là quí hơn) là một cung điện ở trên trời. Như cái thất của sư chị Chân Đức. Không cần cả cái thất, nửa cái cũng được. Cho một sư em vô ở chung, hai chị em mỗi người một nửa cái thất như vậy, và nếu biết sống hạnh phúc với chánh niệm, với cái diệu pháp của Bụt thì nửa căn lều đó cũng có giá trị hơn cả cung điện trên trời (tức là Thiên cung).

Dầu hay mến thửa nhân nghì, ba phiến ngói yêu hơn lầu gác

Trong bản của giáo sư Hoàng Xuân Hãn thì viết là "nghĩa nhân nghì". Lâu là tiếng Hán Việt, lầu mới là tiếng Việt. Thửa là cái chỗ, như thửa ruộng, hay là biết. Nếu chúng ta biết yêu mến chỗ nhân nghĩa. Nhân tức là tình thương người, thương vật (Loving kindness). "Nghì" có nghĩa là sống có tình với nhau, biết ơn nhau. "Nghĩa" là một chữ rất khó dịch ra tiếng Anh. Dịch là Faithfulness cũng không hay lắm.

Ví dụ như hai người, một trai một gái thương nhau, hay hai người con trai thương nhau. Lúc đầu, cái tình nó có vẻ bồng bột, nhưng sau đó hai người sống với nhau và giúp đỡ nhau, cứu nhau những lúc khó khăn, thì tự nhiên có một thứ tình nẩy ra từ tình thương ban đầu. Cái tình đó nó không bồng bột nhưng nó chắc lắm, bền vững lắm. Đó gọi là nghĩa. Nó không có sự đam mê, say đắm lúc đầu, nhưng rất là vững chãi. Đó gọi là nghĩa. Khi người ta lên 90 tuổi rồi thì cái tình có thể lạt đi, nhưng cái nghĩa nó đậm thêm lên. Người ta ở được với nhau lâu dài là do cái nghĩa chứ không phải do cái tình. Tình nó vô thường, nhưng nghĩa nó thường hơn. Bắt đầu bằng tình, và tình nó tạo ra nghĩa. Trong chữ "Nhân nghì", thì "nghì" tức là nghĩa. Tình huynh đệ, nghĩa thầy trò.

Cái nghĩa nó phát sinh là vì người kia đã chống đỡ giùm cho mình, người kia đã hy sinh cho mình, người kia đã không bỏ mình trong những lúc mình gặp khó khăn. Trong nghĩa nó có sự biết ơn là người kia đã chọn mình, người kia đã chấp nhận mình là một người bạn, là một người học trò của mình, hay là một người thầy của mình.

Chính cái nghĩa là cái rất đẹp. Nó có sự bình tĩnh, có sự vững chãi hơn là cái tình thủa nào. Vì vậy muốn sống với nhau cho lâu dài, muốn có chỗ nương tựa bền bỉ, thì phải làm phát triển cái nghĩa. Cái tình chưa đủ.

Dầu hay mếm thửa nhân nghì, ba phiến ngói yêu hơn lầu gác

Nếu biết quí mến chỗ nhân và nghĩa, thì dù chúng ta chỉ có ba viên ngói che mái thôi, chúng ta cũng yêu ba viên ngói đó hơn là những lầu loan gác phụng. Lầu gác là tiếng Việt, lầu loan gác phượng, còn "lâu cát" là tiếng Hán Việt. Bản của giáo sư Hoàng Xuân Hãn viết là "lâu cát".

Giáo pháp trong Hội thứ Hai

Nhìn lại, chúng ta thấy Đại Sĩ muốn dạy chúng ta những gì trong Hội này?

Trước hết ngài nói rằng tâm thảnh thơi là cái quý nhất. Thực tập để tâm thảnh thơi được là cái pháp duy nhất. Điều này mình phải nhớ. Trong đời sống hàng ngày, mình phải tạo cho được thảnh thơi. Làm gì cũng được, miễn là có thảnh thơi. Giá trị của mình là cái tâm thảnh thơi. Có tâm thảnh thơi thì mình làm hạnh phúc cho người chung quanh rất nhiều. Sự đóng góp của mình cho tăng thân là cái tâm thảnh thơi, cái hạnh phúc của mình, chứ không phải số lượng những công tác lao động mà mình làm. Có tâm thảnh thơi, có nụ cười là mình nuôi dưỡng thầy mình, nuôi dưỡng anh mình, chị mình, em mình.

Trong Hội này Đại Sĩ còn nói chúng ta có thể thực hiện được cái viên giác diệu tâm, và cái kim cương thực tướng bằng phương pháp tu tập chánh niệm. Chúng ta phải giữ gìn để cho cái vọng niệm tức là niềm vọng nó đừng phát khởi. Nếu nó đã phát khởi rồi thì quán chiếu để thấy được tự tánh của nó, nó tự khắc dừng lại. Nguyên tắc đó không bao giờ có thể sai được. Nếu thực tập đúng theo nguyên tắc đó thì ta thực hiện được cái kim cương thực tướng, cái viên giác diệu tâm.

Một điều khác mà Đại Sĩ dạy là tịnh độ nằm ngay ở đây. Di Đà tức là tính sáng soi ở trong con người của mình. Tịnh độ tức là lòng thanh tịnh của mình, hai cái đó đều có. Chúng ta không nên đặt vấn đề là nó có hay không, chúng ta không cần đi tìm ở chỗ khác.

Cuối cùng ngài dạy rằng nếu sống theo chánh pháp thì chúng ta có hạnh phúc ngay bây giờ và ở đây. Chúng ta không cần có những điều kiện vật chất xa hoa. Ba phiến ngói, hay nửa gian lều là đủ cho chúng ta có hạnh phúc rồi. Chúng ta ăn và mặc đơn giản, chúng ta sống đơn giản mà chúng ta vẫn có hạnh phúc, tại vì chúng ta có chánh pháp. Đây là những tư tưởng còn giá trị rất nhiều trong thế giới ngày nay.

Trong thế giới bây giờ người ta chạy theo sự hưởng thụ, người ta nghĩ hạnh phúc là phải có tiền để mua. Càng chạy theo hướng đó chừng nào thì người ta càng khổ đau chừng đó. Con đường thoát cho thế giới mới có thể tìm ngay trong giáo lý của Trúc Lâm Đại Sĩ. Nếu chúng ta biết sống theo chánh pháp thì chúng ta không cần tiêu thụ thật nhiều nữa, mà chúng ta vẫn có hạnh phúc với những điều kiện sinh hoạt rất đơn giản.

Giây phút chúng ta bắt đầu nắm lấy chánh pháp và thực tập là ta đã bắt đầu có hạnh phúc. Vì vậy chánh pháp có tính cách siêu việt thời gian, nó không phải là vấn đề thời gian. Khi biết cầm chánh pháp trong tay để sống thì tự nhiên chúng ta có hạnh phúc liền, chứ không cần phải tu ba bốn ngày, hay tu ba bốn tháng, ba bốn năm mới có hạnh phúc. Đó là một nguyên tắc rất quan trọng. Sở dĩ chúng ta không có hạnh phúc là tại chúng ta không sử dụng chánh pháp một cách thông minh và đúng đắn.

Trong nghi thức tụng niệm, chúng ta có một bài kệ xưng tán kinh Pháp Hoa:

Đêm tụng kinh Pháp Hoa,

Tiếng xao động tinh hà,

Địa cầu vừa tỉnh thức,

Lòng đất bỗng đơm hoa.

Đó là một bài mới của chúng ta. Nhưng chúng ta còn có một bài tán dương kinh Pháp Hoa trước khi tụng kinh Pháp Hoa còn hay hơn nữa. Bài đó tôi chưa dịch ra tiếng Việt được, nhưng có thể đọc để quý vị nghe bằng chữ Hán:

Lục vạn dương ngôn, thất trục trang.

Vô biên diệu nghĩa quảng hàm tàng.

Hầu trung cam lộ quyên quyên nhuận.

Khẩu nội đề hồ đích đích lương.

Bạch ngọc xỉ biên lưu Xá Lợi.

Hồng liên thiệt thượng phóng hào quang.

Giã như tạo tội quá sơn nhạc,

Bất tu diệu pháp lưỡng tam hàn.

Bài này của một vị tổ làm và đặt ở trang đầu kinh Pháp Hoa. Trước khi tụng kinh Pháp Hoa chúng ta thường xưng tán kinh Pháp Hoa bằng bài này. Các thầy các sư cô ai cũng thuộc hết. Hồi 20 tuổi tôi đã bắt đầu tụng kinh Pháp Hoa, tụng từng chương, từng chương, cho nên mới xảy ra chuyện có trái sầu riêng để trên bàn Phật, nên tụng không được!

Lục vạn dương ngôn, thất trục trang. Lục vạn tức là 60 ngàn chữ. Lục vạn dương ngôn là hơn 60 ngàn chữ. Thất trục trang là chia làm bảy cuốn. Trục tức là một cái trục dùng để cuốn giấy, cuốn vải. Ngày xưa một cuốn sách được làm bằng một cuốn giấy rất dài, có một trục để cuốn lại thành một cuộn. Khi đọc, người ta mở ra từ từ để đọc. Ngày xưa kinh Pháp Hoa có hơn 60 ngàn lời, chia làm bảy cuốn.

Vô biên diệu nghĩa quảng hàm tàng. Vô biên diệu nghĩa tức là nghĩa lý mầu nhiệm không thể nào có biên giới được. Quảng hàm tàng, quảng là rộng lớn, hàm tàng là chứa đựng. Chỉ có hơn sáu vạn lời, chia làm bảy cuốn, mà trong đó chứa đựng những nghĩa lý thâm diệu vô cùng.

Hầu trung cam lộ quyên quyên nhuận-Khẩu nội đề hồ đích đích lương-"Hầu trung" tức là trong yết hầu, trong cổ họng của mình nó tiết ra một chất cam lộ, một thứ nước rất bổ, rất ngọt, rất mát, tiếng Phạn là Am(ta. "Quyên quyên nhuận" là nó chảy ri rỉ, từng giọt và nó thấm vào cổ họng của mình. "Nhuận" tức là thấm vào. Khi đọc kinh Pháp Hoa, chúng ta trì kinh thì những nghĩa lý ở trong kinh nó trở nên một nước cam lồ mầu nhiệm, chảy thành một dòng nhỏ, thấm dần vào trong cổ họng ta, và ta được nuôi dưỡng ngay trong lúc trì kinh. "Khẩu nội" là trong miệng của mình; "đề hồ" là một loại cháo lỏng làm bằng nước cháo, sữa, và mật ong. Rất bổ. "Đích đích" là từng giọt, từng giọt một. "Lương" là mát. Khi chúng ta tuyên đọc kinh Pháp Hoa thì ta được nuôi dưỡng ngay bằng chánh pháp, và thân tâm của chúng ta được nuôi dưỡng bằng chánh pháp đó, chứ không phải là sau đó, mà ngay lúc đó.

Bạch ngọc xỉ biên lưu Xá Lợi. Bạch ngọc là ngọc trắng. Xỉ là răng của chúng ta. Biên là một bên, nó có nghĩa là ở chỗ đó, bên những cái răng của chúng ta, nơi cái răng của chúng ta nó phát sinh ra, chúng ta thấy được những viên ngọc trắng. Răng chúng ta nó trở nên những viên bạch ngọc, và nó đang là Xá Lợi của Bụt. Rất là linh thiêng tại vì cái sự kiện ta đang trì tụng chánh pháp.

Thường thường chúng ta nghĩ rằng Xá Lợi đốt từ nhục thân của Bụt thì mới linh ứng. Chùa nào có được một hạt Xá Lợi để thờ thì chỗ đó rất là linh ứng. Có một ngôi chùa ở Miến Điện thờ một cái răng của Bụt, Chùa Răng Bụt rất nổi tiếng. Chúng ta không cần phải đi tới Miến Điện hay Tích Lan hay chỗ nào khác để tìm cầu Xá Lợi. Khi tụng kinh Pháp Hoa thì răng của chúng ta biến thành Xá Lợi.

Hồng liên thiệt thượng phóng hào quang. Thiệt là cái lưỡi. Lưỡi mình màu đỏ và cái lưỡi mình biến thành một đóa sen hồng. Thượng là trên. Cái lưỡi của mình biến thành một đóa sen hồng, và đóa sen hồng đó đang phóng ra những luồng ánh sáng. Chánh pháp là như vậy, chánh pháp phóng ra những luồng ánh sáng. Khi chúng ta đau khổ, khi chúng ta bị kẹt bởi cái buồn, cái giận, cái ganh, cái tức, cái thất vọng thì ta có sự tăm tối ở trong tâm hồn. Khi Bụt thuyết pháp, khi thầy thuyết pháp thì Bụt và thầy phóng những luồng ánh sáng vào trong vùng tối tăm đó của tâm ta, và tự nhiên ta thấy khỏe, ta thấy nhẹ, ta thấy những tối tăm đó tiêu đi, và chúng ta thấy có hạnh phúc. Vì vậy cho nên thuyết pháp có nghĩa là soi chiếu, là phóng những đạo hào quang vào trong tâm người để cho cái tối tăm, hắc ám ở trong lòng ta nó tan biến đi, ta thấy được rõ, và những ưu sầu, những buồn bã, những giận hờn, ganh ghét nó tiêu tan, cho nên ta có hạnh phúc. Vous avez faire descendre la paix dans mon coeur! Người Pháp hay nói như vậy. Thầy đã làm cho trái tim con an bình trở lại. Trước đó thì con đau khổ lắm, nhưng nhờ thầy soi sáng bằng chánh pháp, cho nên bây giờ con có an lạc, con có giải thoát. Đó là gì nếu không phải là hào quang?

Lưỡi mình là một đóa sen. Nếu mình hiểu được chánh pháp, nếu mình thực hiện được chánh pháp thì khi mình chia sẻ chánh pháp đó cho những người chung quanh là mình đang phóng hào quang. Còn hào quang ở ngoài đời thì dễ ợt. Mình chỉ cần dùng cái đèn pin, bấm một cái là mình có liền. Hào quang ở trong đạo mới khó.

Chúng ta mỗi người phải tập phóng hào quang. Hào quang đó phát sinh từ cái thấy của chúng ta, từ cái hành của chúng ta về chánh pháp, còn nếu chúng ta không có hành, không có thấy thì chúng ta chỉ phóng ra những cái cassette thôi chứ không phải là những hào quang.

Cố nhiên chánh pháp nuôi dưỡng mình bằng cam lộ, bằng đề hồ, chánh pháp làm cho thế giới của mình được trang nghiêm bằng Xá Lợi Bụt. Chánh pháp phóng ra những tia hào quang, đem lại sự hiểu, sự thương ở trong lòng của mỗi chúng ta.

Giả như tạo tội quá sơn nhạc-Bất tu diệu pháp lưỡng tam hàn-Giả như mình đã làm những lầm lỗi, và những lầm lỗi đó chất lên cao hơn một trái núi. "Sơn" là núi mà "nhạc" cũng là núi, núi lớn. Giả như trong quá khứ mình đã dại dột tạo ra những lầm lỗi nhiều quá, chất thành núi rồi, thì "Bất tu diệu pháp lưỡng tam hàn",nghĩa là tất cả những tội lỗi đó, những sai lầm đó có thể chuyển hóa được một cách rất mau chóng, không cần tới hai ba dòng, "lưỡng" là hai, "tam" là ba, "hàng" là dòng, không tới hai, ba dòng của Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Chỉ cần trì tụng và hành kinh Pháp Hoa hai ba dòng thôi là đủ để làm tiêu tan những lầm lỗi mà chúng ta đã làm trong quá khứ.

Ví dụ những câu như Từ nhãn thị chúng sanh, Phước tụ hải vô lượng. Có hai câu thôi, và có mười chữ thôi, nhưng hành trì được hai câu đó và hiểu được hai câu đó thì tất cả những lỗi lầm của mình chứa chất trong nhiều kiếp nó tan đi hết. "Bất tu" có nghĩa là không cần đến. Giả như mình có làm lỗi lầm chất đầy lên thành núi thì chỉ cần trì tụng và thực hành hai hoặc ba hàng trong Diệu Pháp là đã có thể chuyển hóa được tất cả những khổ đau đó. Diệu Pháp ở đây có nghĩa là pháp mầu nhiệm, nhưng cũng có nghĩa là kinh Pháp Hoa, tại vì kinh Pháp Hoa được gọi là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh.

Mình làm thầy, làm sư anh, sư chị, mình phải có khả năng phóng hào quang. Mình phải giúp cho em của mình thấy được, phải làm cho những khổ đau, những bóng tối trong lòng các em tiêu tan, để đem cái hiểu, cái thương vào trong lòng của các em. Mình phải tập phóng hào quang, giống như mình tập Ikido hoặc Khí công vậy đó.

Mình biết rằng trong khi thực tập chánh pháp thì mình được nuôi dưỡng bởi chất cam lồ, bởi chất đề hồ của chánh pháp, và tâm mình được soi sáng. Khi có chuyển hóa, có hiểu biết thì mình soi sáng cho các em của mình. Nếu mình là em, nếu mình là học trò thì mình đừng đợi thầy hay sư anh, sư chị soi sáng cho mình những khi mình đau khổ, mỗi khi mình có tối tăm, mình phải tập phóng hào quang cho chính mình. Còn nếu có những đau khổ, những thắt mắc, những u sầu mà phải đi tìm thầy, tìm sư anh, sư chị thì mình chưa giỏi! Mình phải tập phóng hào quang cho chính mình, nghĩa là mình phải có khả năng quán chiếu, phải đem ánh sáng trong cái tính sáng của mình ra để sử dụng. Mình phải có ở trong mình một cái đèn, và mình thắp đèn đó lên để soi sáng, để làm tan biến những tối tăm, những hiểu lầm ở trong tâm của mình, thì tự nhiên mình có an, có lạc. Phóng hào quang là nghệ thuật của người tu. Người tu nào cũng phải học kỹ thuật phóng hào quang hết.

HỘI THỨ BA

Nếu mà cốc,

Tội ắt đã không,

Phép học lại thông,

Gìn tính sáng, mựa lạc tà đạo,

Sửa mình học, cho phải chính tông.

Chỉn Bụt là lòng, xá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ.

Vong tài đối sắc, ắt tìm cho phải thói Bàng công.

Áng tư tài tính sáng chẳng tham, há vì ở Cánh Diều Yên Tử

Răn thanh sắc niềm dừng chẳng chuyển, lọ chi ngồi am Sạn non Đông.

Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc,

Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ công.

Nguyền mong thân cận minh sư, quả bồ đề một đêm mà chín,

Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đơm bông.

Bình giảng Hội thứ Ba

Nếu mà cốc
Tội ắt đã không

"Cốc" là một từ xưa có nghĩa là biết. Nếu chúng ta biết được, thì những lầm lỗi mà ta đã tạo ra trong quá khứ sẽ tan biến đi. Sở dĩ ta làm ra những lầm lỗi, những vụng về là tại ta không biết mà thôi, tại ta vô minh. Bây giờ biết rồi thì ta nhất định sẽ không làm lại những lầm lỗi đó nữa.

Phép học lại thông
Gìn tính sáng, mựa lạc tà đạo

Làm thế nào để biết? Phải quán chiếu, phải dùng cái tính sáng ở trong ta để chiếu soi thì mới có thể biết được, hiểu được, cốc được. Nhiều khi ta phải nhờ những người trong tăng thân soi sáng cho chúng ta.

Về vấn đề soi sáng. quý vị còn thiếu nợ tôi! Tôi đã cho một bài tập. Mỗi người phải ít nhất đi lạy 6 người khác, để nhờ sáu người đó soi sáng cho mình. Có thể mai mốt tôi sẽ yêu cầu mọi người báo cáo cho tôi về bài tập đó. Quý vị cũng còn nhiều người thiếu nợ tôi chuyện báo cáo về thiền hành. Mắc nợ tôi thì nặng lắm đó!

Khi nhờ được tăng thân soi sáng cho mình thì mình được hưởng rất nhiều, tại vì mình u mê, mình bị những tri giác sai lầm khống chế, giam hãm trong ngục tù của đau thương, của giận hờn, của ganh ghét, của tự ái. Vì vậy mình phải nhờ ít nhất là sáu người trong tăng thân soi sáng cho mình, mà họ chỉ soi sáng cho mình khi mình lạy họ với tất cả sự thành khẩn của mình, thì họ mới nói thật.

Chúng ta biết rằng tăng thân có tuệ giác rất lớn, cái tuệ giác của tăng thân dư sức để hướng dẫn đời ta. Tuệ giác của tăng thân nó lớn hơn tuệ giác của từng người rất nhiều. Chính tôi cũng luôn luôn nương vào tuệ giác của tăng thân. Đó gọi là con về nương tựa Tăng. Đó là một phép thực tập. Sáu người là con số tối thiểu. Quý vị có quyền xin 60 người. Càng được nhiều người soi sáng chừng nào thì mình càng có nhiều ánh sáng chừng đó. Tại vì người nào cũng có thể phóng hào quang được. Soi chiếu vào cõi lòng u uẩn, có nhiều bóng tối của mình. Bóng tối làm ra khổ đau!

Nếu mà cốc, tội ắt đã không, phép học lại thông. Nếu chúng ta thấy được, biết được, thì những lầm lỗi của chúng ta sẽ tan biến và nó sẽ không lặp lại nữa. Phép học ở đây tức là Giới, Định, và Tuệ. Phép học ở đây là luyện tập, tu học trong đời sống hàng ngày.

Gìn tính sáng mựa lạc tà đạo. Gìn tức là bảo vệ, giữ gìn, chăm sóc. Tính sáng là bản tánh sáng chói nằm sẵn trong tâm của chúng ta. Chúng ta biết rằng năng lượng của chánh niệm là ánh sáng. Có chánh niệm thì ta biết cái gì đang xảy ra. Khi giận mà có chánh niệm thì ta biết ta đang giận. Giận mà không biết mình đang giận thì rất là nguy hiểm. Còn giận mà biết rằng mình đang giận thì tuy rằng mình đang giận nhưng mình đã đặt mình trong tình trạng an ninh rồi, tại vì chánh niệm là Bụt. Nếu mình nuôi dưỡng chánh niệm đó trong một thời gian năm mười phút, thì cái giận kia sẽ được chuyển hóa. Gìn tính sáng, tính sáng không phải là một ý niệm mơ hồ. "Tính sáng" tiếng Anh là the shining nA-ture in us. Chúng ta có thể nói tính sáng này là chánh niệm. Tại vì niệm giúp ta có định. Khi định tâm lại, nhìn cho kỹ thì chúng ta có cái thấy, có cái hiểu gọi là tuệ. Có tuệ rồi thì mới "Cốc" được.

"Mựa" là không, là chớ, là đừng lạc vào trong tà đạo. Tà đạo tức là con đường nghiêng nghiêng, con đường sai lạc. Chánh là con đường thẳng, tà là con đường nghiêng, con đường đưa ta tới những khổ đau, những tối tăm. Con đường làm cho ta mất thầy, mất bạn, mất tăng thân. Chúng ta có thể đánh mất thầy, mất bạn một cách rất dễ dàng. Có người đã đánh mất thầy, đã đánh mất tăng thân, mà tăng thân là rất quí. Dù tăng thân còn có một vài yếu kém, nhưng tăng thân đích thật là một viên ngọc quí. Những ai đã thực tập với tăng thân rồi mới thấy rằng sự có mặt của tăng thân nó thiết yếu vô cùng cho sự thực tập của mình. Tại vì sống trong tăng thân, ta có thể làm được những điều mà ta không làm được khi vắng mặt tăng thân. Khi đã đánh mất tăng thân rồi thì cũng như ta rơi xuống biển mà không có một cái phao cứu mạng. Ta có thể chìm lỉm. Có những điều bất hạnh xảy ra cho mình trong khi mình ở trong tăng thân, và chính tăng thân là một cái mạng lưới cứu mình. Còn nếu điều đó xảy ra khi mình sống một mình thì mình chết liền! Gìn tính sáng, mựa lạc tà đạo tức là giữ gìn cái tự tính luôn sáng chói đó. Tức là thực tập chánh niệm để có định lực, để có thể thấy được sự thật của lòng mình, của hoàn cảnh mình, và hoàn cảnh tăng thân mình, để cho mình đừng đi lạc vào nẻo khổ đau tăm tối.

Sửa mình học, cho phải chính tông

Sửa mình là tiếng Việt của hai chữ tu thân. Tu tức là làm, là sửa lại cho nó đẹp hơn. Nếu nhà dột thì làm cho nhà hết dột, nếu tánh hay bộp chộp thì làm cho tánh hết bộp chộp, nếu tánh hay ganh tị thì làm cho nó hết ganh tị. Đó gọi là tu sửa. Tu có nghĩa là sửa chứ không có nghĩa là cạo đầu, ăn chay! Sửa mình học, cho phải chính tông. Chính tông là những giáo huấn đích thực của Bụt, chứ không phải là những cái người ta đánh tráo vào. Tại vì những lời dạy của Bụt rất rõ, và tăng đoàn của Bụt thực tập những lời dạy đó. Cũng có thể có khuynh hướng đưa vào những thực tập và giáo lý từ bên ngoài. Chúng ta phải cẩn thận để đừng đi lạc vào nẻo tà mà mất đi con đường thực tập chính thống của Bụt.

Thực tập chánh niệm, thực tập giới luật, thực tập sống với tăng thân. Cái đó gọi là Chánh tông. Còn nói rằng ta có thể ngồi thiền trong khi ta uống rượu, ta dùng ma túy, ta phóng túng, thì đó không phải là thiền. Tại vì thiền mà không đi theo giới, theo định, theo tuệ thì đó không phải là thiền, đó không phải là chánh tông. Khi thiền tập được truyền qua Tây phương thì có người nghĩ rằng thiền có thể đi đôi với ma túy, với sự sống buông thả, không có giới luật. Những người như vậy họ đã tạo ra những đổ vỡ đau đớn cho xác thân và tâm hồn của họ.

Chỉn Bụt là lòng, xá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ

"Chỉn" có nghĩa là chỉ, only the mind is the Buddha. Bụt tức là tâm mình, Bụt không phải là một cái tượng bằng ciment, bằng đồng, hoặc bằng ngọc. Bụt không phải là một vị thần thánh, một vị tạo hóa, mà sự hiện diện chỉ có thể tìm thấy ở trên mây, ở trong cõi cực lạc, hay ở chỗ nào khác. Bụt chính là cái tâm của mình. Khi nào tâm của mình có giới, có định, có tuệ, có chánh niệm thì lúc đó BuÏt có mặt. Chỉn Bụt là lòng, lòng này không phải là lòng tàn hoại, lòng quên lãng, lòng thất niệm. Lòng này là lòng chánh niệm. Khi tâm của chúng ta có chánh niệm, có mặt bây giờ, ở đây và bắt đầu có ánh sáng để soi chiếu, thì lúc đó cái đó mới là lòng, mới là Bụt. Xá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ.

Hoàng Xuân Hãn phiên âm là Sá, là không đúng, phải để là Xá. Xá có nghĩa là hãy, hãy ướm hỏi. Đòi tức là theo, như chữ theo đòi. Phải hỏi, phải học theo cái cơ của Mã Tổ. Cơ đây là nói tắt của hai chữ cơ quan. Cơ quan dịch tiếng Việt là then máy, tiếng Anh có thể dịch là mechanism. Những cái devices mà các tổ sử dụng để tháo gỡ giùm cho học trò. Những cái công án, những cái thoại đầu, những tiếng hét, những cái gậy. Tại Làng Mai mình không có tiếng hét, mình cũng không có gậy, nhưng tiếng hét và cây gậy là hai trong những dụng cụ để có thể giúp người thiền sinh tháo gỡ được những đau khổ của họ. Quý vị nghĩ rằng tôi có nên kiếm một cây gậy không? Ở ngoài vườn chúng ta có rất nhiều tre, nếu cần thì... Sao? Không hả con? Thôi cũng được đi!

Những công án đó, những thoại đầu đó, những cái then máy đó, các vị thiền sư sử dụng để tháo gỡ những cái kẹt cho thiền sinh. Có những cái then máy rất đơn sơ, mà tôi hay dùng, ví dụ như hỏi "Con đang làm gì đó?".

Ngày hôm kia, sư cô Chân Không đang lục lạo trong đám hồ sơ để tìm cái gì đó, tôi hỏi: Sư cô đang làm gì đó? Quý vị có biết sư cô trả lời sao không? Thầy bắt được quả tang! Sư cô đang lo làm việc mà không có chánh niệm. Đó là một cách để trả lời thầy.

Nếu để thì giờ trong ngày của mình chỉ để làm việc thôi thì rất là uổng cho đời tu của mình. Trong khi nấu ăn, giặt áo, quét nhà, lấp hồ sen thì mình phải thực tập chánh niệm. Nếu không thì rất là phí! Cho nên khi nghe thầy hỏi: Con làm gì đó? Và nếu lúc đó mình đang thở và đang mỉm cười thì mình sung sướng vô cùng! Mình chỉ cần nhìn thầy và mỉm cười là đã tạo được hạnh phúc cho mình và cho thầy. Còn lỡ mà mình đang bị thất niệm thì mình có thể nói như sư cô Chân Không.

Chỉn Bụt là lòng, xá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ. Mã Tổ là một thiền sư nổi tiếng ở Trung quốc đời Tần. Mã Tổ sống vào đầu thế kỷ thứ 8. Sinh năm 707, và thầy sống đến 81 tuổi. Có câu chuyện giữa thầy Mã Tổ và thầy Hoài Nhượng Nam Nhạc, quí vị nên nghe cho biết.

Một hôm thầy Mã Tổ đang ngồi thiền rất là nghiêm túc thì thầy Nam Nhạc hỏi: Thầy đang làm gì đó? Mã Tổ nói: Dạ con đang ngồi thiền. Thầy Nam Nhạc hỏi: Ngồi thiền làm chi vậy? Thầy Mã Tổ nói: Ngồi thiền để thành Phật! Lúc đó thầy Nam Nhạc ngồi sụp xuống, lấy một viên ngói bể, bắt đầu mài trên một tảng đá một cách rất chăm chú. Thầy Mã Tổ (tên ngài là Đạo Nhất) mới hỏi: Thầy làm gì vậy? Thầy Mã Tổ nói: Tôi mài viên ngói để làm thành một tấm kiếng soi. Mã Tổ mới nói: Sao mài ngói mà thành ra tấm kiếng soi được? Lúc đó thầy Nam Nhạc mới ngẩng lên mỉm cười và nói: Vậy ngồi thiền thì làm sao mà thành Phật được?

Thành Phật không phải chỉ ngồi thiền. Muốn thành Phật là phải biết cười, biết nói, biết đi biết đứng, biết làm việc, biết chùi nồi, và phải biết làm tất cả những điều đó trong tình trạng quán chiếu. Thiền đâu phải là ngồi? Nó có nghĩa là thiền đâu phải chỉ có ngồi mà thôi!

Một lần khác, một vị đệ tử tới với thiền sư Mã Tổ và hỏi: Bạch thầy, chủ đích của tổ Bồ-Đề Đạt-Ma khi đi qua nước Trung Hoa là làm gì vậy? Đó là câu hỏi rất là điển hình của các thiền sinh. Tổ sư Tây lai ý? Thầy Mã Tổ nói: Tới gần đây. Thiền sinh tới gần. Thầy đánh cho một cái xửng vửng. Quý vị thấy không? Sư ông ở Làng Mai dễ thương hơn nhiều!

Chính thầy Mã Tổ là tác giả của bốn chữ nổi tiếng trong thiền môn: Tức tâm tức Phật, có nghĩa Bụt là lòng. Vì vậy cho nên Đại Sĩ Trúc Lâm mới nhắc đến tên thầy ở đây: Chỉn Bụt là lòng, xá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ. Chúng ta nên biết rằng Bụt là tâm của chính chúng ta, vì vậy cho nên chúng ta phải tìm học theo phương pháp của thiền sư Mã Tổ Đạo Nhất.

Vong tài đối sắc, ắt tìm cho phải thói Bàng công.

Tài và sắc, money and sex, đối với hai cái đó ta đừng vướng vào. "Vong" tức là quên đi, không cho nó là quan trọng. "Đối sắc" tức là đối phó với sắc đẹp. Chúng ta biết chúng ta có tự do, chúng ta không bị sắc đẹp của người đàn bà hay người đàn ông trói buộc. Điều đó là phải quán chiếu, quán chiếu về thực chất của cái tài đó, cái sắc đó. Đó là những mồi nhử chúng ta. Trong mỗi cái mồi tài và sắc có một lưỡi câu rất là nguy hiểm. Nếu chúng ta là một con cá ngây thơ, cắn vào thì chúng ta sẽ dính cứng.

Quý vị biết rằng trong thời đại hiện tại, nhiều khi người ta không dùng con mồi thật, họ dùng những con mồi bằng plastic, giống hệt như mồi thật. Đớp vào là chúng ta lãnh đủ. Do đó cho nên "vong tài đối sắc" có nghĩa là chúng ta phải thấy cho được cái bản chất của tài, của sắc, thấy được cái nguy hiểm của chúng để chúng ta có thể giữ được cái tự do của ta. Tại vì không tự do thì không hạnh phúc.

Vong tài đối sắc, ắt tìm cho phải thói Bàng công. Thói đây là cái phong cách sống. "Thói nhà băng tuyết" nghĩa là sống một cách trong sạch. Nếu chúng ta đối phó với tài, với sắc, muốn có tự do thì chúng ta phải học theo cái phong thái của cư sĩ Bàng Uẩn. Bàng Uẩn là một vị cư sĩ sống trong thời của thiền sư Mã Tổ, thế kỷ thứ 8. Bàng Uẩn có một người vợ và hai đứa con, một trai, một gái. Cả bốn người trong gia đình đều tu. Đó là một gia đình có hạnh phúc, và người nào tu cũng thành hết. Họ sống một đời sống rất đơn giản. Họ bỏ hết những nếp sống xa hoa, tại vì trước đó họ giàu lắm. Nhưng khi đã được nếm pháp vị rồi thì họ cho tất cả gia sản của họ, và bốn người trong gia đình sống rất hạnh phúc với một nếp sống rất đơn giản. Cô con gái của cư sĩ BàngUẩn là Linh Chiếu, rất giỏi.

Một hôm cư sĩ Bàng Uẩn tới với thiền sư Thạch Đầu, và hỏi rằng: Nếu con không muốn làm bạn với các pháp thìcon phải làm thế nào? Thiền sư Thạch Đầu đưa tay che miệng lại. Đó là câu trả lời của thiền sư Thạch Đầu. Lần sau thì cư sĩ gặp thiền sư Mã Tổ và hỏi cùng câu đó. Thiền sư Mã Tổ trả lời rằng: Này cư sĩ! Nếu ông uống nước sông Tây giang và uống một hơi mà hết được tất cả nước trong sông Tây giang thì tôi trả lời câu đó cho ông. Nhờ câu trả lời đó mà cư sĩ Bàng Uẩn giác ngộ. "Thói Bàng công" là nếp sống đơn sơ, không xa hoa, vậy mà hạnh phúc của cư sĩ Bàng công rất lớn. Đây là câu trả lời cho xã hội hiện đại của chúng ta, xã hội tiêu thụ, nghĩ rằng có tiền đi chợ mua đồ cho nhiều mới có hạnh phúc. Đó không phải là thói Bàng công.

Áng tư tài tính sáng chẳng tham, há vì ở Cánh Diều Yên Tử

Áng là một sự tập hợp như một áng mây, có nghĩa là một đám mây. Hay là áng danh lợi. Tư tài tức là lợi lộc, tiền tài. Nhờ tính mình sáng cho nên mình không tham, mình không chạy theo, mình không bị trói buộc, chứ không phải tại mình chui lên núi ở mà mình thoát khỏi nó. "Cánh Diều" là một địa danh ở trên núi Yên Tử. Ngồi trên đó giống như mình ngồi trên một cánh chim nhìn xuống, rất là đẹp. Nếu chúng ta không bị kẹt vào tài, vào sắc là tại ta gìn giữ được, làm hiển lộ được cái tính sáng ở trong ta, chứ không phải nhờ ta chạy lên núi ở mà chúng ta vượt được cái đó.

Răn thanh sắc niềm dừng chẳng chuyển, lọ chi ngồi am Sạn non Đông-

Răn là tiếng Việt để dịch chữ giới. Răn là nhắc cho mình biết nếu làm như vậy thì sẽ đau khổ. Đó gọi là răn. Mười giới là 10 điều răn, năm giới là năm điều răn. Răn còn có nghĩa là cảnh cáo cho biết, nuôi sáng chánh niệm rằng nếu làm cái đó thì mình sẽ đau khổ. Mình phá giới thì mình sẽ đau khổ. Răn thanh sắc niềm dừng chẳng chuyển, nghĩa là phải đề cao chánh niệm, phải đề cao cảnh giác để đối phó với thanh và với sắc. Tại vì có những âm thanh nó làm cho mình mềm cả trái tim. Có những âm thanh có thể làm cho mình nóng giận, sôi lên sùng sục. Có những hình sắc có thể làm cho mình sợ hãi, có những hình sắc làm cho mình mê mệt. Mình cuốn theo thanh sắc đó, cho nên mình phải răn thanh sắc, phải có chánh niệm về thanh, về sắc. Niềm dừng chẳngchuyển là khi biết đề cao cảnh giác như vậy thì cái niềm của mình nó dừng lại, cái tà niệm của mình dừng lại, và mình sẽ không bị lay chuyển, bị kéo theo cái thanh kia và cái sắc kia. Răn thanh sắc niềm dừng chẳng chuyển, đó là văn chương Việt Nam ngày xưa. Rất là hay.

Lọ chi ngồi am Sạn non Đông. Đâu phải mình giữ được thân tâm vững chãi, không bị kéo theo thanh sắc là do mình ngồi trong thiền am ở trên non Đông đâu? Non Đông cũng là một phần của núi Yên Tử, trên đó có một cái am gọi là Am Sạn, có khi gọi là Am Chạn. Nếu ta không bị kẹt vào thanh, vào sắc là tại chúng ta dừng được cái tà niệm và chúng ta không bị kéo theo, chứ không phải tại chúng ta leo lên trốn trong thiền am ở trên núi Yên Tử!

Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc

Trần tục mà nên có nghĩa là mình ở trong cuộc đời bụi bặm mà mình thành công. Trần tức là bụi bặm, nghĩa là mình ở thành phố, mình ở ngay trong xã hội, trong thế tục mà mình tu thành. Đây là đạo Bụt đi vào cuộc đời, Engaged Buddhism.

Phúc ấy càng yêu hết tấc. Phúc tức là sự may mắn, cái hạnh phúc. Hạnh phúc đó là một hạnh phúc mà mình rất quý trọng. "Hết tấc" tức là hết mực, con nít gọi là quá cỡ thợ mộc! Sống ở trong cuộc đời bụi bặm trần tục mà thành công trong sự tu tập, đó là một hạnh phúc lớn mà mình rất quí chuộng, yêu mến không biết chừng nào mà đo.

Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ công

Nhưng nếu mình ở trên núi, ở trong rừng mà mình chẳng cốc (tức chẳng biết). Chẳng biết tức là tu không đạt được sự hiểu biết. Có nhiều người tu 10 năm, 20 năm nhưng vẫn không đạt tới sự hiểu biết và thương yêu, thì đó là một sự thất bại, hay là Sơn lâm chẳng cốc.

Họa kia thực cả đồ công, mình không được hạnh phúc mà mình lại còn bị đau khổ. Họa có nghĩa là tai nạn. Thực cả đồ công. Cả là một từ xưa có nghĩa là lớn, ví dụ như "biển cả", anh cả, hay "cả cười" tức là cười lớn, đại tiếu. Cái tai họa đó, cái đau khổ đó nó lớn. Đồ có nghĩa là không ích lợi gì cả. Đồ công là uổng công, luống công. Mình ở trên rừng núi một mình, mình thực tập, mình lánh xa cuộc đời, mình bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ anh, bỏ chị, bỏ em đi tu nhưng mình không đạt được sự hiểu biết, sự thương yêu, thì dù là ở sơn lâm cũng không có ích gì hết, mà còn có hại. Cái hại đó là hại lớn, đó là cái hại uổng công, vô ích.

Nguyền mong thân cận minh sư, quả bồ đề một đêm mà chín

Nguyền là tiếng Việt, có nghĩa là cái nguyện (tiếng Hán Việt). Tiếng Anh là Vow. Mong thân cận minh sư, minh sư là thầy sáng, thầy giỏi. Nếu không có thầy giỏi thì mình khó thành công. Thân cận là gần gũi, thân thiết. Cận là gần. Cái nguyện của mình là được sống gần bên thầy, một vị thầy có ánh sáng.

Quả bồ đề một đêm mà chín. Nếu được sống gần thầy thì có thể là hoa trái của giác ngộ một đêm có thể chín được. Quả bồ đề tiếng Anh có thể dịch là the fruit of Enlightenment.

Phúc gặp tình cờ tri thức, hoa Ưu Đàm mấy kiếp đơm bông

Phúc gặp tình cờ tri thức, nếu mình có cơ hội, có phúc (phúc là đối với họa); Tri thức tức là thiện hữu tri thức, nghĩa là người bạn có thể hướng dẫn, nâng đỡ, soi sáng cho mình trên đường tu học, tiếng Phạn là Kaly(namitra. Nếu mình có phước và mình có cơ hội gặp được một vị thiện hữu tri thức thì Hoa Ưu Đàm mấy kiếp đơm bông? Hoa Ưu Đàm là Udumbara flower. Người ta thường ví sự xuất hiện của một vị Bụt Thế Tôn nó hiếm như là hoa Ưu Đàm nở. Hoa Ưu Đàm có khi cả mấy ngàn năm mới nở một lần. Mấy kiếp đơm bông, là không cần nhiều kiếp, chỉ cần vài kiếp là nó đơm bông được chứ không cần đợi tới ba ngàn năm hay ba triệu năm. Vì vậy hai điều kiện của sự tu học giác ngộ là thầy và bạn. Thầy hay là minh sư, và bạn giỏi tức là thiện hữu tri thức. Chữ tri thức ở đây là nó đối với chữ minh sư.

Giáo pháp trong Hội thứ Ba

Trước khi đi vào hội thứ tư chúng ta xét lại xem Trúc Lâm Đại Sĩ dạy chúng ta những gì trong hội thứ ba.

Trước hết cái hiểu biết là gốc rễ cho tất cả mọi sự thành đạo và hạnh phúc. Khi mình có cái biết, nếu mà cốc, thì tất cả những lầm lỗi của mình được xóa nhòa hết và mình đạt tới sự thành công của tam học. Tội ác đã không, phép học lại thông. Ngài cũng dạy cho chúng ta rằng cái tính sáng ở trong ta đã có sẵn. Chúng ta phải giữ gìn cái tính sáng đó, và thực tập chánh niệm để cho cái tính sáng đó nó tỏa chiếu, nó soi sáng cho mình và mình không đi lạc vào con đường tà, mình tìm được con đường chánh tông.

Điều quan trọng không phải là tìm lên núi rừng để ở, tại tìm lên núi rừng mà nếu không thành đạt được sự hiểu biết, thì nó cũng uổng công mà thôi. Và hai điều kiện của sự thành tựu là có minh sư và có thiện hữu tri thức. Chúng ta thấy những lời dạy của Đại Sĩ rất là thực tế, không nói lý thuyết trên trời dưới biển.

HỘI THỨ TƯ

Tin xem:

Miễn cốc một lòng,

Thì rồi mọi hoặc.

Chuyển tam độc mới chứng tam thân,

Đoạn lục căn nên trừ lục tặc.

Tìm đường hoán cốt, chỉn xá năng phục dược luyện đan,

Hỏi phép chân không, hề chi lánh ngại thanh chấp sắc.

Biết chân như, tin Bát Nhã, chớ còn tìm Phật, Tổ Tây Đông.

Chứng thực tướng, ngỏ vô vi, nào nhọc hỏi kinh thiền Nam Bắc.

Xem Tam tạng giáo, ắt học đòi Thiền uyển thanh quy,

Đốt ngũ phần hương, chẳng tốn đến chiên đàn chiêm bặc.

Tích nhân nghì, tu đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca.

Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham, chỉn thực ấy là Di Lặc.

Bình giảng Hội thứ Tư

Tin xem:
Miễn cốc một lòng

Miễn có nghĩa là điều kiện căn bản. Miễn cốc một lòng tức là ta biết được nghệ thuật nhất tâm. Một lòng là nhất tâm. Nhất tâm đảnh lễ mình dịch là Một lòng kính lạy. Thành ra bí quyết của sự thành công trong việc tu tập là thực hiện được cái nhất tâm. Cái tâm của mình gom về một mối, và mình chú trọng vào một đối tượng gọi là một lòng. Nếu thực tập được cái nhất tâm đó thì tất cả mọi phiền não đều có thể chuyển hóa thảnh thơi.

Thì rồi mọi hoặc

Hoặc tức là phiền não, tiếng Phạn là Kle(a. Rồi có nghĩa là thảnh thơi. Nếu đạt được sự nhất tâm thì tất cả mọi phiền não đều có thể chuyển hóa thành thảnh thơi.

Chuyển tam độc mới chứng tam thân

Tam độc là ba chất độc ở trong con người của mình, đó là thèm khát (tham, Abhij((), sân hận (sân, Krodha), và u mê (si, Moha). Phải chuyển hóa tam độc thì chúng ta mới đạt tới sự sống của tam thân (tiếng Phạn là Trik(ya), tức là pháp thân, báo thân, và ứng thân. Chúng ta có pháp thân, có báo thân và có ứng thân, nhưng tại chúng ta chưa chuyển được tam độc cho nên ba thân đó không biểu hiện ra được.

Đoạn lục căn nên trừ lục tặc

Lục căn là sáu nền tảng, sáu căn cứ làm phát sinh ra thức, là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, và ý. Lục căn đối lại với lục trần, tức sáu cảnh ở ngoài ta có thể tạo ô nhiễm cho thân tâm của ta, còn gọi là Lục tặc. Lục tặc là sáu loại đối tượng có thể lôi kéo mình đi theo, đó là sắc, thanh, hương, vị, xúc, và pháp.

Khi giác ngộ thì mình có thể sử dụng được lục căn một cách rất tự do, và lục căn trở thành những phương tiện rất mầu nhiệm để hoằng pháp. Lục trần cũng vậy. Chúng trở nên những cái rất mầu nhiệm tại vì ở trong ta không có tam độc, cho nên cũng sáu cái này (căn), sáu cái kia (trần) mà không phải lục căn, và lục tặc. Còn khi có tam độc tham, sân, si ở trong người của mình, chúng chưa được chuyển hóa, thì lục căn là căn cứ của tội lỗi, và lục trần cũng trở nên nguyên do của sự đi lạc vào đường tăm tối, cho nên gọi là lục tặc. Tặc có nghĩa là giặc. Lục tặc là sáu thứ giặc.

Tìm đường hoán cốt, chỉn xá năng phục dược luyện đan
Hỏi phép chân không, hề chi lánh ngại thanh chấp sắc

Những người tu tiên thì họ tìm con đường để đổi bộ xương của họ (hoán cốt). Thì họ phải ("xá" là hãy) có khả năng uống thuốc (phục dược) và luyện đơn (tức là luyện ra những viên thuốc thần). Luyện tiếng Anh có thể dịch là Elaborate. Nhưng khi chúng ta "hỏi phép chân không" (hỏi tức là thực tập, là học hỏi, không phải là đặt câu hỏi đâu). Chân Không là một phép tu, true emptyness. Khi chúng ta học hỏi về pháp môn Chân Không, tức là con đường về Bát Nhã Ba La Mật, thì chúng ta đâu cần phải né tránh, e ngại thanh và sắc. Chấp tức là bị kẹt vào, ngại là sợ hãi.

Có những quan niệm tu họ cho rằng sáu trần (thanh, hương, vị, xúc, và pháp) là sáu thứ giặc, vì vậy cho nên mình phải rất cẩn thận, mình không được dính líu tới sáu trần. Do đó mình tìm cách trốn chạy sáu trần, mình nhắm mắt lại để đừng thấy sắc, mình bịt tai lại để đừng nghe thanh, mình bịt mũi lại để đừng ngửi hương v.v... Đó là một lối tu gọi là Tức vọng tu tâm.

Vào thế kỷ thứ 8 có một thầy tên là Tông Mật, tổ thứ Năm của Tông Hoa Nghiêm ở Trung Quốc (ngày xưa có 13 tông phái Phật giáo và Thiền là một trong những tông phái đó). Tông Hoa Nghiêm căn cứ trên kinh Hoa Nghiêm. Thầy Tông Mật vừa là một người trong thiền tông, vừa là một trong các vị tổ của tông Hoa Nghiêm. Trong tác phẩm Thiền Tông Chư Thiên Tập, thầy nói đời Đường có ba khuynh hướng tu học về thiền.

Khuynh hướng thứ nhất là Tức vọng tu tâm. Khuynh hướng này cho rằng có một giới hạn giữa ngoại cảnh và nội tâm. Phương pháp tu là đừng chạy theo ngoại cảnh, mà phải trở về nội tâm, Phải nhắm mắt, phải bịt tai, phải trở về nội tâm và quán chiếu. Bối cảnh quán tâm là xoay lưng lại với sáu trần và trở về với tâm thì có thể từ từ diệt hết tất cả vọng niệm mà đạt tới giác ngộ. Khuynh hướng này có màu sắc của khuynh hướng thiền Bắc tông, tại vì hồi đó có chia ra thiền Bắc tông và Nam tông. Thiền Bắc tông là thiền thầy Thần Tú. Thiền Nam tông là thiền thầy Huệ Năng. Thiền Bắc tông dạy nhiều về những điều này.

Khuynh hướng thứ hai là Mẫn tuyệt vô ký. Theo khuynh hướng này thì tất cả các pháp dù là phàm hay thánh, đều là mộng huyễn cả. Phải vượt ra khỏi sự chấp trước, bị kẹt, phải đừng phân biệt người này là người thân của mình, người kia là người thù của mình. Cái này là cái khổ, cái kia là cái vui. Cái này là cái mê, cái kia là cái giác. Phải vô ngại, phải đạt tới trí tuệ có thể thấy được tất cả đều là không có. Nhờ đó mà xa lìa được tất cả những sai lầm, những điên đảo và đạt được giải thoát.

Khuynh hướng thứ ba là Trực hiển tâm tánh. Tức là trực tiếp làm hiển lộ bản chất sáng chói của tâm và của tánh. Theo khuynh hướng này thì những vọng niệm mà mình sợ, những trần cảnh tức là những đối tượng của sáu giác quan mà mình sợ, chúng cũng là không. Nếu chúng ta tiếp xúc được với cái tính sáng ở trong ta, làm cho nó sáng lên, thì tự nhiên ta không còn sợ nữa. Ta không sợ vọng niệm bên trong, mà cũng không sợ cái trần cảnh bên ngoài. Không sợ lục căn mà cũng không sợ lục tặc. Vì vậy chúng ta không có khuynh hướng cần phải nhắm mắt, bịt tai. Tại vì nhắm mắt, bịt tai nó chứng tỏ một sự sợ hãi, chứng tỏ một quan niệm là những âm thanh kia, những hình sắc kia chúng có thật, chúng là những tên giặc, chúng làm hại, cho nên chúng ta trốn chạy. Thái độ đó chưa phải là thái độ anh hùng. Còn có sự sợ hãi thì không được.

Cho nên nếu chúng ta thực tập theo phương pháp chân không, thì chúng ta không cần phải nhắm mắt và bịt tai, chúng ta không cần phải sợ hãi cái thanh, cái sắc, cái hương, cái vị, cái xúc kia, tại vì tự tánh của chúng là không. Khi chúng ta đạt được cái tính sáng ở trong chiều sâu của chúng ta, thì chúng ta có tự do đối với lục trần, chúng không còn đóng vai trò của kẻ giặc nữa. Cho nên trong hội thứ tư này mới có câu Hề chi lánh ngại thanh chấp sắc. Theo khuynh hướng Trực hiển tâm tánh thì khi ta tiếp xúc được với tính sáng ở trong ta thì chúng ta đạt tới một cái gọi là tri, tức là biết. Tri ở đây tức là Chúng diệu chi môn, tức là cửa ngỏ để đi vào tất cả những cái mầu nhiệm. Khi đạt được cái tri mầu nhiệm này thì chúng ta biết rằng tất cả vọng niệm của chúng ta đều không có bản chất, và những cái hình tướng, những âm thanh, gọi là sáu tên giặc đó cũng không làm gì được ta. Vì vậy cái tri đó là cái chìa khóa để thành đạo.

Chắc chắn là Trúc Lâm Đại Sĩ đã được đọc thầy Tông Mật rồi. Tại vì thầy Tông Mật sống vào cuối thế kỷ thứ 8, và nữa đầu của thế kỷ thứ 9, cho nên Đại Sĩ đã viết ba dòng trong hội thứ Ba: Nếu mà cốc-Tội ắt đã không-Phép học lại thông. Cốc đó là tri, là biết. Cho nên nếu đọc mà chúng ta không biết tới giáo lý, tới sáng tác của thầy Tông Mật thì đọc tới đây chúng ta không hiểu Đại Sĩ muốn nói gì. Nếu mà cốc: Nếu chúng ta đạt được cái tri đó, cái diệu chi môn đó thì tất cả những sai lầm của chúng ta đều tan biến cả, và sự tu học của chúng ta thành công: Tội ắt đã không-Phép học lại thông. Chúng ta hiểu được như vậy thì Đại Sĩ mới mỉm cười, nếu không thì ngài nói rằng con cháu mình đọc mình mà chúng chẳng hiểu gì hết! Chữ "cốc" này là tri, là chính diệu chi môn. Đó là cái chìa khóa để đạt tới tự do.

Tìm đường hoán cốt, chỉn xá năng phục dược luyện đan-Hỏi phép chân không, hề chi lánh ngại thanh chấp sắc là như vậy. Nếu chúng ta tu học về phương pháp của Bát Nhã Ba La Mật thì chúng ta không cần phải e ngại, sợ hãi, bị kẹt vào thanh và vào sắc.

Trong kinh Bảo Tích, phẩm Ca Diếp Vấn, tức những câu hỏi của thầy Ca Diếp, Bụt có nói rằng ví dụ có một con chó bị người kia liệng một cục đá trúng đau quá. Nó giận, nên chạy theo cục đá đó sủa, mà không biết rằng cái làm cho nó đau không phải là cục đá, mà là người liệng cục đá. Chạy theo cục đá để trả thù là vì nó vô minh. Còn nếu chúng ta bị thanh sắc cuốn đi, làm cho chúng ta đau khổ, chúng ta thù thanh sắc, chúng ta trốn thanh sắc thì chúng ta cũng giống như con chó kia, rất là u mê. Thủ phạm làm chúng ta đau khổ vì thanh sắc không phải là thanh sắc mà là sự u mê của chúng ta về thanh và về sắc.

Tại vì mình đớp cái mồi trong đó có lưỡi câu chứ không phải lỗi là cái mồi. Tại mình ngu, mình tưởng đó là hạnh phúc cho nên mình mới đớp lấy. Thành ra cái ngu đó là thủ phạm của đau khổ của mình chứ không phải là cái mồi kia.

Thanh, sắc cũng vậy, lỗi không phải là tại thanh, sắc. Thanh sắc có thể là rất mầu nhiệm, nhưng tại vì mình bị cuốn theo, mình bị vướng mắc vào, bị thèm khát, bị tham đắm, cho nên mình mới bị đau khổ. Mà sự vướng mắc, thèm khát đó là do thiếu ánh sáng, thiếu cái gọi là biết, thiếu cái tri.

Biết chân như, tin Bát Nhã, chớ còn tìm Phật, Tổ Tây Đông
Chứng thực tướng, ngỏ vô vi, nào nhọc hỏi kinh thiền Nam Bắc

Khi mình đã ngộ về chân như rồi. Chân như tiếng Phạn là Param(rtha, dịch tiếng Anh là Suchness, Reality, hay as it is, tức là cái tự tính của mình. Cái thực tại nó như vậy thôi, dùng ý niệm và ngôn ngữ mình diễn tả không được, nó là nó. Cái đó gọi là chân như, Nếu mình thấu hiểu được cái thực tánh của thực tại, tức là biết chân như, mình tin ở Bát Nhã, Bát Nhã là trí tuệ, trí tuệ đưa mình từ bến mê mờ sang bên kia bờ giải thoát. Nếu mình đã thực tập, mình hiểu được, và mình có đức tin nơi Bát Nhã thì mình đâu còn phải đi tìm Phật và tìm Tổ dù ở phương Đông hay là phương Tây? Tại vì cái chân như, cái Bát Nhã đó là Bụt rồi, mình đâu cần đi tìm Bụt ở chỗ này hay chỗ khác nữa. Chứng thực tướng, ngỏ vô vi, nào nhọc hỏi kinh thiền Nam Bắc, Khi mình đã tiếp xúc được với cái thực tướng rồi, tức là cái bản tính chân thật của thực tại rồi, mình đã mở cửa được thế giới vô vi, thế giới của bản môn, không có sinh, không có diệt; không có trước, không có sau; không có trong, không có ngoài. Vô vi tiếng Anh dịch là The unded conditions, tức là cõi vô sinh, vô diệt, bất sinh, bất diệt. Chữ "ngỏ" ở đây nghĩa là mở ra. Mình đâu cần phải nhọc mệt đi tìm hỏi những cuốn kinh về thiền dầu là ở miền Nam hay miền Bắc. Nam tông và Bắc tông mỗi tông đều có kinh điển riêng của mình. Khỏi cần phải nhọc mệt đi tìm kinh thiền Nam Bắc khi mình đã chứng thực tướng và ngỏ vô vi.

Xem Tam tạng giáo, ắt học đòi Thiền uyển thanh quy,
Đốt ngũ phần hương, chẳng tốn đến chiên đàn chiêm bặc

Tam tạng là ba collections về văn học Phật giáo, tức là Kinh, Luật và Luận. Khi học giáo lý ở trong Tam Tạng thì mình phải học theo Thiền Uyển Thanh Quy. Thiền uyển tức là vườn thiền, thanh quy tức là quy luật thanh tịnh của thiền viện, chứ mình đừng phiêu lưu trong những tư tưởng, những ý niệm mơ hồ về giáo lý. Mình phải thực tế, mình phải học cho được những cái thực tế như là những thanh quy ở trong vườn thiền. Thiền uyển là một danh từ rất đẹp, một vườn thiền trong đó mỗi thiền sinh, mỗi thiền sư đều là một bông hoa. Vườn thiền đó có những quy tắc của nó, làm cho có sự thanh tịnh, có sự an lạc, gọi là thanh quy.

Khi thiền tông được thiết lập tại Trung Hoa thì các thiền sinh, các thiền sư cư trú chung trong những Luật viện. Tại vì trong 13 tông phái có một tông tên là Luật tông, chuyên trì giới luật rất là nghiêm ngặt.

Thiền tông đi đôi với Luật tông, và không có mặt riêng biệt với Luật tông. Các thầy Luật tông và các thầy thiền tông sống chung với nhau. Mãi cho đến thế kỷ thứ 8 đời Đường thì có một thiền sư tên là Bách Trượng, người Phúc Châu ở miền Nam, lúc nhỏ ngài xuất gia ở tỉnh Sơn Tây, miền Bắc. Nhưng về sau khi thầy về Giang Tây để mở đạo tràng thì chính thầy đã sáng tác ra một bộ Thanh Quy, tức là những quy luật dùng cho các thiền viện, gọi là Bách Trượng Thanh Quy, rất nổi tiếng.

Từ đó về sau thì Thiền viện tách rời ra khỏi Luật viện vì đã có quy chế riêng. Trong những nguyên tắc mà thiền viện đi theo, có nguyên tắc Bất tác, bất thực, nghĩa là nếu mình không làm việc thì mình không ăn. Có một lần đệ tử thấy ngài lớn tuổi quá, họ thương nên nói thầy già rồi, thầy đâu cần làm như tụi con, và họ đem dấu cái cuốc của thầy đi. Trưa hôm đó thầy không ra ăn. Các đệ tử hỏi: Bạch Hòa thượng, sao Hòa thượng không ra dùng cơm với chúng con? Thầy trả lời: Hôm nay tôi không làm việc cho nên tôi đâu được ăn! Đó là một giai thoại về thiền sư Bách Trượng. Thiền sư Bách Trượng sinh năm 739, và tịch năm 803.

Xem Tam tạng giáo ắt học đòi Thiền uyển thanh quy. Phải nắm cho được những quy luật của tu viện, nắm cho được những điều làm cho nếp sống của thiền viện thanh tịnh, an lạc.

Đốt ngũ phần hương, chẳng tốn đến chiên đàn, chiêm bặc. Ngũ phần hương là năm thứ tâm hương mà chúng ta cúng dường Tam Bảo. Đó là hương giới, hương định, hương tuệ, hương giải thoát, và hương giải thoát tri kiến. Nếu chúng ta biết đốt tâm hương đó thì chúng ta khỏi tốn tiền mua các thứ nhang như nhang Tây Tạng, nhang Ấn Độ, hay nhang Nhật Bản. Chiên đàn là một thứ trầm quý, chiêm bặc là một thứ hoa ở Ấn Độ. Chỉ cần đốt tâm hương, chỉ cần đốt năm thứ hương rất quí báu của trái tim để cúng dường là quí nhất. Đó là thứ hương mà anh chàng Tú Uyên tập đốt, và khi đốt lên thì nàng Giáng Kiều trở về. Đó là câu chuyện của Tú Uyên và Giáng Kiều, quý vị còn nhớ không?

Giáng Kiều của chúng ta là Tam Bảo, là tăng thân. Khi mình giận tăng thân thì mình mất tăng thân. Muốn tăng thân trở lại với mình, mình phải đốt ngũ phần hương, cây hương gồm có năm phần.

Tích nhân nghì, tu đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca

Tích là chứa chất lại; Nhân tức là tình thương; Nghì tức là nghĩa, là sự biết ơn. Chữ nghĩa mình đã học trước đây rồi; Tu là làm cho tốt lên, cho lớn lên. Làm cho cái đạo và cái đức của mình lớn lên, tốt lên. Đạo ở đây là giác ngộ, là quả bồ đề của mình.

Đạo trước hết có nghĩa là con đường. Nhưng đạo cũng cũng có nghĩa là đối tượng của giác ngộ. Ví dụ như thành đạo, không phải là thành con đường, mà thành sự giác ngộ. Đắc đạo không phải là đắc con đường, mà đắc quả vị giác ngộ. Cho nên chữ đạo ở đây là đối tượng của sự chứng đắc, tức là cái hiểu biết, cái từ bi, cái thấy của mình. Đức là cái virtue của mình, tức là những cái quality của mình. Ví dụ như sự cởi mở, sự rộng rãi, tình thương yêu, sự kiên nhẫn, tất cả những đức tốt của mình. Tích nhân nghì, tu đạo đức, một bên thì chất chứa, nhóm lại tình thương và sự biết ơn, một bên thì làm lớn lên cái đạo và cái đức của mình. Ai hay này chẳng Thích Ca, người nào mà không phải là Bụt Thích Ca? Ai cũng là Thích Ca hết.

Cầm giới hạnh, đoạn ghen tham, chỉn thực ấy là Di Lặc

Những người nào cầm trong tay cái giới và cái hạnh là có thể cắt đứt được những sự ganh tị, và sự tham đắm thì chính người đó là hiện thân của Bụt Di Lặc. Mình đã biết chữ cầm ở đây có nghĩa là trì. Trì giới tức là cầm giới ở trong tay, đừng liệng nó xuống đất. Trước đây chúng ta có học câu Cầm giới hạnh, địch vô thường. Giới hạnh là một thanh bảo kiếm, và chỉ với thanh gươm của giới chúng ta mới đối địch được, đối phó được với con ma vô thường mà thôi. Thành ra nếu buông giới xuống là ta chết!

Ngày nay chúng ta chỉ dùng chữ trì giới mà không dùng chữ cầm giới nữa. Kỳ thật chữ cầm giới nghe dễ hiểu hơn nhiều. Cầm giới và cầm hạnh. Giới nó được biểu lộ ra thành hành động. Hành động có chánh niệm, hành động không làm tan nát gọi là giới hạnh. Tại vì không có giới thì nó có sự tan nát. Hành động không có giới là hành động phá hoại. Nếu có giới thì hành động là hành động xây dựng.

Đoạn ghen tham. Ghen tức là sự ganh tị. Ganh tị với anh, ganh tị với em, với chị. Khi mình ganh thì mình dễ ghét lắm. Mình mất tất cả những cái đẹp của mình. Cái mặt của người ganh tị sao khó thương quá! Đoạn ghen tham thì chính thực đó là đức Di Lặc.

Giáo pháp trong Hội thứ Tư

Trong hội thứ tư này Đại Sĩ dạy chúng ta những gì? Đại Sĩ đã dạy chúng ta cái Nhất tâm bất loạn là chìa khóa của sự thành công. Nhất tâm tiếng Phạn là Ek(grata. Tất cả những điều mà chúng ta thực tập hàng ngày, ví dụ đi thiền hành, ngồi thiền tọa, ăn cơm im lặng, thiền trà, tất cả là để gom tâm về một mối để đạt tới sự nhất tâm. Tại vì nhất tâm đó giúp ta trở về để tiếp xúc với tính sáng trong chúng ta và chuyển hóa được những khổ đau, những phiền não, làm cho những phiền não đó được thảnh thơi. "Rồi mọi hoặc" tức là phiền não nó được thảnh thơi. Khi chúng ta đạt tới được cái tính sáng, cái biết đó rồi thì chúng ta không cần phải chạy trốn hình sắc và âm thanh nữa, tại vì chúng không còn kéo được ta nữa, ta có tự do. Những lúc đó chúng ta không cần đi tìm kinh, tìm Tổ, tìm Bụt ở bên ngoài.

Trong khi học hỏi thực tập thì chúng ta đừng phiêu lưu trong lĩnh vực lý thuyết, chúng ta phải thực tế, chúng ta phải chú trọng tới giới, tới luật, tới quy luật của thiền viện. Chúng ta phải vâng theo những quy luật thiền viện, phải nắm vững những quy luật thiền viện, và Bụt phát hiện trong con người của chúng ta, không cần đi tìm ở ngoài. Bụt không phải bằng vàng, cũng không phải bằng đá hay bằng ciment. Bụt làm bằng tình thương, bằng cái nghĩa, cái đạo, cái đức, cái giới, cái hạnh.

HỘI THỨ NĂM

Vậy mới hay!

Bụt ở cong nhà,

Chẳng phải tìm xa.

Nhân khuây bản nên ta tìm Bụt.

Đến cốc hay chỉn Bụt là ta.

Thiền ngỏ năm câu, nằm nhãn cong quê Hà hữu.

Kinh xem ba bận, ngồi ngơi mái quốc Tân La.

Trong đạo nghĩa, khoảng cơ quan, đà lọt lẫn trường Kinh cửa Tổ.

Lánh thị phi, ghê thanh sắc, ngại chơi bời dặm liễu đường hoa

Đức Bụt từ bi mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận,

Ơn Nghiêu khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đã tha.

Áo miễn chăn đầm ấm qua mùa, hoặc chằm hoặc xể,

Cơm cùng cháo đói no đòi bữa, dầu bạc dầu thoa.

Ngăn bát thức, nén bát phong, càng đè càng bội.

Lẫy tam huyền, nong tam yếu, một cắt một ma.

Cầm vốn thiếu huyền, xá đàn dấu xoang vô sinh khúc.

Địch chẳng có lỗ, cũng bấm chơi xướng thái bình ca.

Lẫy cội tìm cành, còn khá tiếc Câu Chi trưởng lão.

Quay đầu chớp bóng, ắt kham cười Diễn-nhã-đạt-đa.

Lọt quyển Kim cương, há mặt hầu thông nên nóng,

Nuốt bồng lật cức, nào tay phải xước tượng da.

Bình giảng Hội thứ Năm

Vậy mới hay!
Bụt ở cong nhà

Cong là tiếng cổ của chữ trong. Ngày nay nghe chữ cong thì thấy như là nói ngọng, nhưng ngày xưa là chúng ta dùng chữ cong, cong nhà. Vì lâu quá không dùng nên chúng ta thấy hơi lạ đó thôi, nhưng đích thực nó là tiếng Việt. Ví dụ sư anh Vô Ngại nói "ga ngoài" thì sau này chừng một hai trăm năm, "ga ngoài" sẽ là "ra ngoài".

Chẳng phải tìm xa

Tức là Bụt ở ngay trong nhà của mình, mình không phải đi tìm ở đâu khác.

Nhân khuây bản nên ta tìm Bụt

Khuây chứ không phải khuy. Khuây có nghĩa là quên. Có khi chúng ta nói "buồn quá không khuây", không quên được nỗi buồn. Tại vì chúng ta quên gốc, nên chúng ta mới đi tìm Bụt.

Đến cốc hay chỉn Bụt là ta

Nhưng đến khi ta biết được rồi thì Bụt chính là ta. Thành ra tìm Bụt ở đâu? Tìm Bụt ở cái gốc của mình. Bụt ở trong nhà chẳng phải tìm xa. Nhân khuây bản nên ta tìm Bụt. "Nhân" có nghĩa là vì. Vì lý do ta quên gốc rễ của ta cho nên ta mới đi tìm Bụt mà thôi. Người xưa có nói "Thiền Phật bất cầu" nghĩa là không đi tìm thiền, cũng không đi tìm Phật. Đến cốc hay chỉn Bụt là ta. "Chỉn" có nghĩa là chỉ. Ta chỉ là Bụt mà thôi.

Thiền ngỏ năm câu, nằm nhãn cong quê Hà hữu

"Cong" tức là trong. "Nằm nhãn" có nghĩa là nằm chơi, nằm khểnh, không lo buồn gì hết. "Quê Hà hữu", Hà hữu hương tức là quê hương Hà hữu, một danh từ ở trong sách Trang Tử. Đó là quê hương đích thực của ta, nó không nằm trong thời gian hay trong không gian. Nó không nằm ở phương Tây, phương Nam, phương Bắc. Đó là quê hương đích thực, trong đó ta tìm thấy tổ tiên, tìm thấy sự thoải mái, tìm thấy bản chất của ta. Nó cũng như là tịnh độ của mình vậy. Quê hương đích thực không tìm được trong thời gian và trong không gian thông thường, nó nằm ở bản môn, sách Trang Tử đã có ý niệm đó. Danh từ "Hà hữu hương" cũng đã được dùng trong một bài thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ.

Thiền ngỏ năm câu, năm tức là dăm, là vài ba câu. Ngỏ tức là mở ra, nói ra, bày tỏ ra. Ví dụ như ngỏ ý, tức là nói ý mình ra, tỏ bày ý của mình ra. Chỉ cần nói ra và nghe một vài câu về thiền thì mình thấy mình đang nằm thảnh thơi ở trong quê Hà hữu, trong quê hương đích thực của mình.

Kinh xem ba bận, ngồi ngơi mái quốc Tân La

Vài câu đối với ba bận. Lấy cuốn kinh đọc qua đọc lại vài ba lần thì tự nhiên mình thấy mình đang ngồi nghỉ ngơi ở nước Tân La. "Mái" là cái mé, cái phía. Mái Tây là phía Tây. Tân La là tên một nước, có thể là nước Cao Ly, lúc đó đang có hòa bình, có an lạc và người ta sống theo Phật giáo một cách rất thâm sâu. Có những người từ Tân La tới, họ rất dễ thương. Họ nói tại nước chúng tôi người ta thực tập đạo Bụt rất là hạnh phúc. Thành ra có một huyền thoại về nước Tân La như là một nước có hòa bình, có an lạc trong đạo pháp, người dân sống một cách rất thoải mái. Thành ra "quốc Tân La" là nước đó. "Ngồi ngơi", ngơi tức là nghỉ ngơi, ngồi nghỉ ngơi.

Trong đạo nghĩa, khoảng cơ quan, đà lọt lẫn trường Kinh cửa Tổ

Chữ "trong" ở đây có thể là chữ "cong" và có người biên chép nào đó đã thử sửa lại thành chữ trong, tức là chữ mới. Tại vì hồi đó người ta chỉ dùng chữ cong. Hai câu này có nghĩa là mình sống trong đạo và trong nghĩa, mình sinh hoạt trong cơ quan. "Khoảng" là cái không gian rộng rãi. "Cơ quan" mình đã gặp rồi, cơ quan là những then máy, những phương pháp sử dụng trong thiền môn để giúp người thiền sinh cởi mở được những khổ đau, những cái kẹt của họ. Những cái devices, những cái mechanism nó giúp mình thoát khỏi sự kẹt của mình. "Đạo" ở đây có nghĩa là The teaching. "Nghĩa" ở đây là meaning. Trong sự học hỏi giáo pháp và nghĩa lý thâm uyên của giáo pháp, trong sự sử dụng các công án, thoại đầu, tiếng hét v.v..., thì mình đang ra vào, đang len lỏi, đang lăn lóc trong trường Kinh cửa Tổ. Trường là môi trường; cửa tức là cái nhà. Cửa thiền là nhà thiền, cửa Phật tức là nhà chùa. Mình đang sinh hoạt, mình đang ra vào, mình đang len lỏi, mình đang lăn lóc, đang sống ở trong môi trường của Kinh, của Tổ. Đó là khoảng không gian của đạo, của nghĩa, của cơ quan. "Lọt lẫn" tức là len lỏi, lăn lóc, tức là sống ngày sống đêm với cái đó.

Lánh thị phi, ghê thanh sắc, ngại chơi bời dặm liễu đường hoa

Lánh thị phi tức là không tham dự vào những cuộc đàm luận, nói rằng người này phải, người kia trái. Không nói xấu người, không lên án người, đó là thị phi. Không tham dự vào những cuộc nói chuyện như vậy, và luôn luôn phải chú ý. "Ghê" ở đây là phải đề cao cảnh giác đối với thanh và sắc. Ghê là phải ngán nó một chút tại vì nó ghê lắm! Mất chánh niệm thì mình bị nó đớp hoặc mình đớp nó, và mình vướng vào lưỡi câu của nó liền. Lánh thị phi, kỳ trước chúng ta có học rằng: Khi "thị phi tiếng lặng" thì mặc tình ta nghe yến thốt oanh ngâm, rất là thích. Đừng nói chuyện thị phi thì tự nhiên được nghe tiếng chim hót. Ở đây lánh thị phi, ghê thanh sắc, tức là thanh và sắc có đó, nhưng mình phải có chánh niệm. Vì vậy cho nên mình e ngại chuyện đi chơi, đi với bạn vào những nẻo gọi là dặm liễu đường hoa, nẻo ăn chơi, nẻo mà chúng bạn thường hút cần sa, ma túy, rượu chè, trai gái, đó gọi là dặm liễu đường hoa.

Thành ra những lời dạy của Đại Sĩ có thể áp dụng được trong môi trường của chúng ta ngày nay. Ví dụ như lánh thị phi, đôi khi ta chê trách người này, lên án người kia, chỉ trích tất cả mọi người, từ chánh quyền cho đến cha mẹ, xã hội, bè bạn. Gặp nhau là toàn nói chuyện lên án thị phi. Suốt ngày chạy theo thanh, theo sắc, theo những phim ảnh đồi trụy. Vì vậy mà bị kéo theo con đường chơi bời, con đường dặm liễu đường hoa. Đó là tình trạng của tuổi trẻ ngày hôm nay. Cho nên để thoát khỏi tình trạng đó, ta phải theo lời dạy của Đại Sĩ: Lánh thị phi, ghê thanh sắc, ngại chơi bời dặm liễu đường hoa. Ngày xưa có một bệnh gọi là bệnh hoa liễu, tức là khi mình đi ngủ với các cô gái ăn sương thì mình rước vào thân những chứng bệnh. Mà vương phải chứng bệnh đó thì chết, tại vì ngày xưa không có thuốc trụ sinh.

Đức Bụt từ bi mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận
Ơn Nghiêu khoáng cả, lọt toàn thân phô việc đã tha

Đức tức là đức độ, đức độ của Bụt là từ và bi, vì vậy cho nên mình ước mong, mình nguyện từ kiếp này sang kiếp khác có cơ hội để gần gũi ngài, gần gũi các vị Bụt. "Ơn Nghiêu khoáng cả", Nghiêu tức là tên của một ông vua hiền. Đây không phải nói về ông vua đó, mà nói về những ông vua hiền, những chánh quyền biết tới khổ đau của dân gọi là ơn Nghiêu. Chánh quyền đảng bảo thủ, đảng lao động, hay đảng xã hội, chánh quyền nào biết được lòng dân, làm theo lòng dân thì dân biết ơn, gọi là ơn Nghiêu khoáng cả. Khoáng cả là lớn lao, khoáng là rộng, là lớn, cả cũng có nghĩa là lớn.

Lọt toàn thân phô việc đã tha. Phô là nhiều, tha tức là khỏi phải đóng thuế, khỏi phải đi phục dịch, làm lao động. Tại vì ngày xưa cũng như ngày nay, người công dân phải đưa vai ra mà gánh cái gánh nặng của quốc gia, phải đóng thuế rất nhiều, phải đi làm việc rất nhiều. Ngày xưa phải đi đắp đê, phải làm đường, phải xây thành, phải đi đánh giặc, phải đi canh gác. Có khi phải đi làm những công trình lớn lao như Vạn Lý Trường Thành hay là Kim Tự Tháp, chết rất nhiều, lấy sức lao động của dân để xây những cung điện hay những công trình như vậy. Thành ra dân ngán chuyện đó lắm. Có hai cái làm dân rất sợ, một là đi công dịch, hai là đóng thuế. Chỉ khi nào mình có một ông vua nhân từ, một chánh quyền tốt thì mình mới thoát khỏi mức tối đa của hai loại nợ nần đó.

Lọt toàn thân phô việc đã tha, tức là khi thấy mình được tha những công tác đó, mình được tha những thuế đó thì mình biết ơn ông vua hiền. Ngày xưa mỗi khi có lụt lội hay có bệnh tật thì vua thường tha thuế cho dân. Đôi khi vua có một điều gì vui thì tuy không có lý do gì về hoàn cảnh của dân cả, mà vua cũng có thể tha thuế cho dân. Đó gọi là ơn Nghiêu.

Áo miễn chăn đầm ấm qua mùa, hoặc chằm hoặc xể
Cơm cùng cháo đói no đòi bữa, dầu bạc dầu thoa

Áo miễn chăn tức là áo với chăn. Chăn là mền đắp, chỉ cần cho đủ ấm qua mùa thôi, không cần phải đẹp. Chằm tức là vá nhiều lớp, như là chằm nón; xể tức là lòa xòa, không gọn gàng lắm. Hoặc chằm hoặc xể đều được hết, miễn là nó cho mình đủ sức ấm qua mùa lạnh thôi. Giống như Hippy cũng được, không sao. Thầy trò Làng Mai đôi khi cũng ăn mặc giống Hippy quá cỡ! Hồi tăng đoàn sang Đài Loan, mấy thầy họ chê quá cho nên họ may cho áo đàng hoàng để mặc!

Cơm cùng cháo, đói no đòi bữa. "Đòi" tức là nhiều, đòi đoạn tức là nhiều lần, đòi bữa tức là nhiều bữa. Có bữa ăn cháo tại không đủ gạo nấu cơm. Có khi ăn cháo một ngày hai lần, có khi được ăn cơm một bữa còn bữa kia thì ăn cháo.

Dầu bạc dầu thoa. Gạo để nấu cơm nấu cháo đó có thể là gạo trắng. Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng. Bạc là trắng, cơm trắng gọi là cơm bạc. Thoa tức là gạo hẩm. Không phải thiu đâu, nó là gạo không còn mới, gần mục rồi. Gạo mới thì dẻo, rồi từ từ nó hết dẻo, nó có tính cách bột, sau đó thì nó hẩm.

Ngăn bát thức, nén bát phong, càng đè càng bội
Lấy tam huyền, nong tam yếu, một cắt một ma

"Bát thức" tức là tám thức: Nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạc na thức, và a lợi gia thức. Phải hộ trì tám thức, phải biết quán chiếu tám thức của mình. Nén bát phong. Bát phong là tám ngọn gió, mình chống lại, mình vượt thắng tám ngọn gió. Tám ngọn gió đó là lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc.Tám ngọn gió đó nếu mình không vững thì chúng thổi mình bay.

Ngọn gió thứ nhất là lợi. Cái lợi nó nhử mình. Nó nói rằng nếu anh làm cái đó thì tôi sẽ cho anh mấy triệu đồng, cho nên mình xiêu bè! Đó là một ngọn gió. Mình ham tiền lắm và sự ham lợi đó là một ngọn gió. Đôi khi nó nói rằng nếu anh làm chuyện này tôi sẽ cho anh ba triệu, thì mình còn đứng vững, tại cái sức mình có thể chống được với ngọn gió ba triệu. Nhưng nếu nó nói anh làm điều đó thì tôi cho anh ba chục triệu thì mình xiêu! Thành ra ngọn gió đó có khi nó mạnh vừa, có khi rất mạnh.

Ngọn gió thứ hai là suy. Suy tức là ngược lại với lợi. Nếu làm điều đó thì tự nhiên mình suy, mình sẽ thiếu gạo thiếu cơm, nhưng mình vẫn làm. Thành ra khi người ta dọa rằng nếu mình cứ tiếp tục sống như vậy thì mình sẽ mất quyền lợi này, sẽ mất quyền lợi kia, bắt mình đổi cách sống đi, và vì biết nếu mình đổi cách sống thì mình sẽ trở nên ác đức, nên mình không chịu. Thành sự dọa dẫm của họ không làm cho mình lay chuyển, thì ngọn gió suy đó, không thể nào thổi mình ngã được.

Ngọn thứ ba là hủy, tức là cái nhục; dự là cái vinh. Cái nhục hay cái vinh là những ngọn gió có thể thổi mình xiêu bè.

Ngọn thứ năm là xưng tức là ca ngợi, tâng bốc. Rồi Cơ là chê bai. Tâng bốc hay chê bai là những ngọn gió mà người tu không bị cuốn theo. Dù ai nói ngã nói nghiêng, thì ta cũng vững như kiềng ba chân.

Ngọn gió thứ bảy là khổ. Thứ tám là lạc. Cái khổ cũng không làm mình thay đổi, mà cái sung sướng cũng không làm mình thay đổi. Đó gọi tám ngọn gió.

Thi sĩ Hàn Sơn là một phật tử rất nổi tiếng ngày xưa, Hàn Sơn đi đôi với một người bạn gọi là Thất Đắc. Họ là một cặp bạn thiện rất nổi tiếng, Hàn Sơn có câu thơ Bát phong suy bất động, nghĩa là tám ngọn gió thổi mà mình không bị lung lay. Người tu có chí khí, có đạo đức là những người mà tám ngọn gió kia thổi không bay.

Ngăn bát thức, nén bát phong, càng đè càng bội. "Bội" có nghĩa là nhiều lần. Phương pháp không phải là phương pháp đè nén. Tại vì càng đè nén, nó càng trở thành mạnh. Vậy thì phương pháp ngăn bát thức, nén bát phong, không phải là đè nén mà giải tỏa bằng cái thấy của mình. Đó là phương pháp gọi là quán chiếu. Quán chiếu để thấy thì tự nhiên mình được giải thoát chứ không thấy mà mình cố đè nén thì sự đè nén đó không đem đến kết quả.

Lẫy tam huyền, nong tam yếu, một cắt một ma. Tam huyền tức là ba giáo lý của thầy Lâm Tế; tam yếu cũng vậy. Thầy Lâm Tế có giáo lý Tam Huyền Môn, ba cơ sở huyền diệu. Mỗi huyền môn gồm có ba cái yếu chỉ, ba điều quan trọng. Chúng ta chỉ cần nói tên ra đây thôi mà không cần đi vào nghĩa lý của Tam huyền và Tam yếu. Tại vì chính học trò của thầy Lâm Tế họ cũng không đồng ý Tam huyền là cái gì, và Tam yếu là cái gì.

Tam huyền là Thể trung huyền, Củ trung huyền, và Huyền trung huyền. Tam yếu là Lý, Trí và Phương tiện.

Trong mỗi cái huyền nó có ba cái yếu. Thể trung huyền là cái huyền ở trong bản chất của nó. Củ trung huyền là cái huyền ở trong câu nói của nó. Huyền trung huyền là cái huyền trong cái huyền.

Tam yếu tức là lý, nguyên lý; trí, sự hiểu biết; và thứ ba là cái phương tiện. Trong một cái huyền đều có ba cái yếu chỉ đó. Ta chỉ cần biết như vậy thôi.

Lẫy tam huyền. Lẫy tức là làm bật nó ra, dùng một cây bằng sắt, hay bằng gỗ, đặt dưới chân của một tảng đá rồi bẩy nó lên thì gọi là lẫy tam huyền.

Nong tam yếu. Nong là nạy nó ra, tức là tìm cách để hiểu sâu được tam huyền và tam yếu. Một cắt một ma. Ma là mài cho nhỏ, cắt ở đây là xén cho nó nhỏ bớt lại. Tức là sự thực tập phải đi từ từ, ngày hôm nay mình phải cắt xén chỗ này, ngày mai mình mài bớt chỗ kia, giống như tật xấu hay vô minh của mình.

Cầm vốn thiếu huyền, xá đàn dấu xoang vô sinh khúc
Địch chẳng có lỗ, cũng bấm chơi xướng thái bình ca

Dù cây đàn của mình thiếu dây. Cầm là cây đàn; xá là hãy; dấu tức là yêu dấu, đàn dấu là enjoy playing. Đàn kia thiếu dây nhưng ta hãy chơi và tấu lên khúc đàn gọi là vô sinh khúc.

Khúc tức là a piece of music. Không có bản đàn nào đáng để cho chúng ta chơi bằng bản Vô Sinh Khúc, tức là thực tập cái vô sinh, đạt tới vô sinh, nghĩa là tiếp xúc với bản môn không sinh không diệt.

Địch chẳng có lỗ. Địch là cái ống địch, flute, nó không có lỗ nhưng cũng bấm chơi xướng thái bình ca. Không có khúc ca nào đáng cho chúng ta hát bằng khúc ca thái bình. Peace in your heart, peace in the world.

Lẫy cội tìm cành, còn khá tiếc Câu Chi trưởng lão

Lẫy ở đây cũng có nghĩa là làm bật tung ra. Đi tìm cành cây mà lại đi tìm ở dưới cội cây. Cội cây tức là gốc rễ của nó, và đó là cái khuyết điểm của một thiền sư tên là Câu Chi Trưởng Lão. Khá là rất, như trong từ khá tiếc. Câu Chi Trưởng Lão là một vị thiền sư đời Đường, đi tham học rất nhiều nhưng chưa thấy được đạo. Một hôm có một vị hòa thượng tên là Thiên Long tới thăm. Câu Chi Trưởng Lão mới đem những điều mình còn đang nghi hoặc ra hỏi. Hòa thượng không nói gì cả mà chỉ đưa lên một ngón tay, thì tự nhiên Câu Chi Trưởng Lão có cảm tưởng là mình hiểu được nên lạy xuống. Từ đó trở đi mỗi khi học trò hỏi một câu gì thì Câu Chi Trưởng Lão bắt chước thầy đưa một ngón tay lên! Có người thành công, có người thất bại.

Nghe đồn có một lần Câu Chi Trưởng Lão hỏi một chú Sa di rằng: Bụt là cái gì? thì chú sa di đó thay vì trả lời, chú đưa một ngón tay lên. Thầy nắm lấy ngón tay đó rồi cầm cái dao định cắt ngón tay đó đi! Sư chú sợ quá, bỏù chạy và hét lên. Thầy đuổi theo. Sư chú sợ quá vì thầy cầm cái dao chạy theo. Đuổi tới một nơi đó thầy kêu: Sư chú! Đứng lại! Chú quay lại để xem thầy có ngừng lại không. Nếu có thì mình ngừng, nếu không thì mình phải chạy, mình đâu có làm được như Bụt với anh chàng AÔgulimªla. Khi quay lại thì chú thấy thầy dừng lại, và thầy hỏi: Bụt là cái gì, nói nghe coi? Sư chú không dám đưa ngón tay lên nữa. Rồi thầy lại đưa ngón tay lên thì lúc đó ở trong chú sa di có một ước muốn rất mạnh, muốn đưa ngón tay lên nhưng chú sợ. Rốt cuộc chú cũng đưa ngón tay lên! Lúc đó thầy gật đầu, và coi như chú thấu hiểu được cái thiền cơ.

Nhưng hình như ngón tay của chú bị đứt hoặc bị chảy máu, cho nên đời sau, khi nhắc tới Câu Chi Trưởng Lão người ta nói rằng trong đó còn có một cái gì kẹt, cho nên trong câu này mới nói "còn khá tiếc Câu Chi Trưởng Lão". Có một lần Câu Chi Trưởng Lão tuyên bố rằng ngày xưa thầy Thiên Long cho tôi một ngón tay mà tôi giữ ăn hoài suốt đời không hết. Ăn đây là nuôi dưỡng sự tu học của mình.

Quay đầu chớp bóng, ắt kham cười Diễn-nhã-đạt-đa

Diễn-nhã-đạt-đa là một anh chàng hơi điên điên ở trong thành phố Vai(ali. Trong kinh Lăng Nghiêm Bụt có dạy thầy A Nan rằng ở trong thành phố này có một anh chàng hơi khùng khùng. Một buổi sáng đó anh ta vào súc miệng, nhìn vào gương thấy khuôn mặt của mình có hai con mắt ngó cũng được, có lỗ mũi ngó cũng được, cái miệng ngó cũng được, và cười lên thấy cũng được được, cho nên anh mừng quá, nghĩ rằng đó là mình.

Sau khi đánh răng xong, quay nhìn thì anh không thấy cái đầu của mình đâu nữa! Anh nghĩ rằng mình mất cái đầu rồi! Cái đầu của mình có hai con mắt ngó cũng được, lỗ mũi, cái miệng, hai lỗ tai ngó cũng được, nhưng tại sao bây giờ không thấy nữa! Đó là tại anh quay lưng lại, không nhìn vào tấm gương nên không thấy cái đầu của mình! Anh nghĩ là cái đầu của mình mất, nên anh chạy ra xóm để tìm cái đầu của anh ta! Chúng ta cũng vậy. Chúng ta có tánh giác, có cái tánh sáng trong người, nhưng mình cứ tưởng rằng không có, cho nên mình cứ chạy đi tìm!

Vậy thì có cái đầu rồi mà không biết nên cứ chạy đi tìm một cái đầu thứ hai nữa, đó là sự u mê. Mà sự u mê đó không phải là chỉ có ở anh chàng Diễn-nhã-đạt-đa.

Quay đầu chớp bóng: Nhìn vào gương thì thấy mình, nhưng quay lại thì không thấy mình nữa, và nghĩ rằng mình không có cái đầu, ắt kham cười Diễn-nhả-đạt-đa. Kham là đáng, đáng cười.

Lọt quyển Kim cương, há mặt hầu thông nên nóng
Nuốt bồng lật cức, nào tay phải xước tượng da

Quyển tức là một vòng tròn nhỏ, cái ring. Một vòng nhỏ bằng kim cương. Nếu mình là bậc anh hùng thì mình phải chui qua được cái vòng kim cương đó.

Cư sĩ Diêm Kỳ ngày xưa có hai câu thơ:

Thấu đắc kim cương khuyên,

Thôn đắc lật cức bồng.

Bồng là một quả gai hơi giống trái chôm chôm, nhưng gai chôm chôm thì mền, cho nên mình nuốt thì cũng không sao. Còn bồng này là một loại trái cây. Trái cây đó tên là lật cức, lật bồng là cái vỏ của quả lật, rất nhiều gai. Nếu mình là anh hùng hảo hán mình có thể nuốt được quả gai lật cứt đó. Thấu đắc kim cương khuyên, Thôn đắc lật cức bồng, tức là những cái khó mà mình làm được. Cũng như con ngựa mà có thể chui qua lỗ trôn kim.

Thầy A Nan được thầy Ca Diếp nói rằng nếu giác ngộ rồi thì chun qua lỗ khóa mà đi vào trong đại hội, cần gì tôi phải mở cửa? Cái vô cùng lớn có thể trở thành cái vô cùng nhỏ, tức là thấu được cái tương tức, không thấy cái gì ở trong, cái gì ở ngoài. Thường thường mình nói cái đó lớn thì nó nằm ở ngoài, cái đó nhỏ thì nó nằm ở trong. Nhưng sự thực nếu mình đạt được cái thấy của kinh Hoa Nghiêm thì mình thấy được cái tất cả nó nằm ở trong cái một, và cái một nằm trong cái tất cả. Cái vô cùng lớn nằm ở trong cái vô cùng nhỏ, và cái vô cùng nhỏ nó chứa đựng cái vô cùng lớn. Cho nên một vị thiền sư đời Lý có nói rằng:

Càng khôn tận thị mao đầu tượng.

Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung.

Nghĩa là cả trời cả đất đều có thể đặt gọn trên một sợi tóc. Cả mặt trời mặt trăng đều có thể nhét vào trong một hạt cải. Thi sĩ Nguyễn Công Trứ cũng có nói: Nhỏ không trong mà lớn cũng không ngoài.

Cho nên tuy con người của mình là lớn như vậy, nhưng cái vòng kim cương nhỏ mà mình vẫn chui lọt qua được. Khi vỏ của quả gai lật cức lớn và gai góc như vậy mà mình có thể nuốt được là tại mình đã thấy được cái một trong tất cả, và tất cả trong cái một. Mặt trời đi vào trong cái bông hoa, đám mây đi vào trong bông hoa, đó là lý tương tức.

Lọt quyển kim cương há mặt hầu thông nên nóng. Nếu mình chui qua được cái vòng bằng kim cương nhỏ xíu, thì mình đâu phải là người mà sự khó khăn đó đủ làm cho mình nóng ruột? Chữ "mặt" ở đây giống như chữ "mặt anh hùng" tức là kẻ anh hùng. Hầu có nghĩa là sắp, thông có nghĩa là đủ. Việc đó đâu có đủ để làm cho mình phải sợ hãi, phải nóng lòng?

Nuốt bồng lật cức, nếu mình có thể nuốt được bó gai lật cức đó, thì đâu phải mình là kẻ sợ sự cào cấu?

Nào tay phải xước tượng da, xước tức là sướt, là sự cào cấu trên da thịt của mình. Nuốt được nó thì đâu sợ những vết thương nhỏ như vậy?

Giáo pháp trong Hội thứ Năm

Trong hội này Đại Sĩ dạy chúng ta rằng Bụt ở ngay trong nhà của mình, mình không phải đi tìm ở đâu khác. Tại vì chúng ta quên gốc, nên chúng ta mới đi tìm Bụt. Đến khi biết được rồi thì Bụt chính là ta. Hà hữu hương là quê hương đích thực của ta, nó không nằm trong thời gian hay trong không gian.

Trong sự học hỏi giáo pháp và nghĩa lý thâm uyên của giáo pháp, trong sự sử dụng các cái công án, thoại đầu, tiếng hét v.v..., thì mình đang ra vào, đang len lỏi, đang lăn lóc trong trường Kinh cửa Tổ. Mình đang sinh hoạt, mình đang sống ở trong môi trường của Kinh, của Tổ. Đó là khoảng không gian của đạo, của nghĩa, của cơ quan. Mình lánh thị phi, không tham dự vào những cuộc đàm luận, nói rằng người này phải, người kia trái. Thành ra những lời dạy của Đại Sĩ có thể áp dụng được trong môi trường của chúng ta ngày nay.

Ngoài ra còn phải hộ trì tám thức, phải biết quán chiếu tám thức của mình. Mình chống lại, mình vượt thắng tám ngọn gió lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc. Tám ngọn gió đó nếu mình không vững thì chúng thổi mình bay.

Sự thực tập phải đi từ từ, ngày hôm nay mình phải cắt xén chỗ này, ngày mai mình mài bớt chỗ kia, giống như tật xấu hay vô minh của mình.

HỘI THỨ SÁU

Thật thế!

Hãy xá vô tâm,

Tự nhiên hợp đạo.

Dừng tam nghiệp mới lặng thân tâm.

Đạt một lòng thì thông tổ giáo,

Nhận văn giải nghĩa, lạc lài nên thiền khách bơ vơ.

Chứng lý tri cơ, cứng cát phải nạp tăng khôn khéo.

Han hữu lậu, han vô lậu, bảo cho hay: the lọt, duộc thưng,

Hỏi Đại thừa, hỏi Tiểu thừa, thưa thẳng tắt: lòi tiền, tơ gáo.

Nhận biết làu làu lòng vốn, chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên,

Chùi cho vặt vặt tính gương, nào có nhuốm căn trần huyên náo.

Vàng chưa hết quặng, xá tua chín phen đúc, chín phen rèn.

Lộc chẳng còn tham, miễn được một thì chay, một thì cháo.

Sạch giới lòng, chùi giới tướng, nội ngoại nên Bồ tát trang nghiêm.

Ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu.

Tham thiền kén bạn, nát thân mình mới khá hồi ân.

Học đạo thợ thầy, dọt xương óc chưa thông của báo.

Bình giảng Hội thứ Sáu

Thật thế!
Hãy xá vô tâm
Tự nhiên hợp đạo

Hãy xá vô tâm nghĩa là hãy nên áp dụng phương pháp vô tâm. Vô tâm là một danh từ thiền, có khi chúng ta sử dụng danh từ vô niệm. Vô tâm là một phương pháp thực tập rất quan trọng đối với Trúc Lâm Đại Sĩ. Cuối bài Cư Trần Lạc Đạo có một bài kệ bốn câu bằng chữ Hán, trong đó danh từ vô tâm được lặp lại trong câu chót của bài kệ.

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền

Trong phần bình giảng bài kệ này (tức cuối bài Cư Trần Lạc Đạo), chúng ta sẽ có dịp nói nhiều hơn về danh từ vôtâm.

Thật thế, hãy xá vô tâm, tự nhiên hợp đạo, có nghĩa là hãy nên áp dụng thái độ vô tâm thì tự nhiên nếp sống của chúng ta hợp với đạo lý.

Dừng tam nghiệp mới lặng thân tâm

Tam nghiệp tức là thân, khẩu, và ý. Dừng ở đây có nghĩa là làm cho nó lặng lại. Có sự an bình, có sự lắng trong. Trong khi chúng ta tư duy, trong khi chúng ta nói năng, hành động và có sự lắng trong, có định ở trong ta, thì thân và tâm của chúng ta mới có được sự thanh tịnh.

Chúng ta biết rằng chỉ khi nào thân có an tịnh, tâm có an tịnh thì hạnh phúc mới có thật mà thôi. Cái an, cái lạc không phải của tâm không thôi, nó còn là cái an, cái lạc của thân nữa. Sự an lạc của tâm và thân tùy thuộc vào chỗ chúng ta có thể làm lắng lại ba cái nghiệp của chúng ta.

Trước khi thỉnh chuông, chắp tay chúng ta thở, chúng ta làm chuyện "ba nghiệp lắng thanh tịnh, gởi lòng theo tiếng chuông". Khi mình gởi đi ba tiếng chuông cho đại chúng và mình gởi theo sự lắng lòng của tam nghiệp của mình, thì tiếng chuông đó mới có phẩm chất. Vì vậy mà trước khi thỉnh chuông là mình phải lắng ba nghiệp, phải tịnh tâm.

Đạt một lòng thì thông tổ giáo

Một lòng tức là nhất tâm. Chúng ta đã học và chúng ta đã biết rằng muốn đạt tới nhất tâm đó thì chúng ta phải biết nắm vững sự thực tập hơi thở, tại vì hơi thở nó đưa chúng ta trở về với giây phút hiện tại, nó phối hợp thân và tâm làm thành một khối. Trong trạng thái nhất tâm đó, chúng ta có thể dễ dàng thông cảm với giáo lý của các vị tổ dạy: Đạt một lòng thì thông tổ giáo!

Trong những câu chúng ta vừa học có danh từ vô tâm, có danh từ dừng tam nghiệp, và có danh từ đạt một lòng. Như vậy những điều quan trọng gồm có: Một là vô tâm, hai là sự lắng lại của ba nghiệp, ba là sự thực hiện nhất tâm.

Nhận văn giải nghĩa, lạc lài nên thiền khách bơ vơ

Lạc lài tức là sai lệch, đi lạc đường, lạc lối, tại vì thói quen của người ta trong khi học đạo là bị dính chặt vào văn cú. Mà học kinh, học chữ và căn cứ trên chữ đó để giải thích những nghĩa lý thì nhiều khi vì vậy mà bị lạc vào những khái niệm, bị những ý niệm đó bao vây, và không đạt tới được cái tinh hoa mà Bụt và tổ để lại. "Nhận văn giải nghĩa" tức là mình chỉ tiếp xúc được với văn chương, chữ nghĩa mà mình không tiếp xúc được với cái tinh hoa của sự giác ngộ, của hạnh phúc mà Bụt đã để lại, tổ đã để lại, qua những câu văn và nghĩa lý đó.

Chúng ta đã biết, đã gặp nhiều người thuộc kinh làu làu, họ nói thao thao bất tuyệt. Chúng ta thua xa đứng về phương diện trí nhớ, chúng ta không thể thao thao bất tuyệt như vậy. Nhưng những người đó tuy là nhớ kinh rất nhiều, và giải thích về kinh rất là hùng biện, nhưng đời sống của họ không biểu hiện được cái giải thoát, cái an lạc. Tại vì họ là những người kẹt vào chuyện "nhận văn giải nghĩa".

Nhận văn giải nghĩa lạc lài nên thiền khách bơ vơ. Thiền khách là mình, là những thiền sinh, những người tập thiền. Khi ăn cơm thì gọi là thực khách, khi ngồi thiền thì gọi là thiền khách, chúng ta đều là những thiền khách hết. Chúng ta bơ vơ, chúng ta lạc lõng là vì chúng ta chỉ biết nhận văn giải nghĩa. Dưới những hàng chữ đó có cái tinh ba, có sự sống của Bụt và của tổ mà chúng ta không tiếp nhận được.

Trong câu này Đại Sĩ nói chúng ta đừng bị kẹt vào chữ nghĩa, vào văn cú. Một trong những nguyên tắc của thiền là siêu việt văn cú, bất lập văn tự. Bất lập văn tự tức là không thiết lập văn tự.

Chứng lý tri cơ, cứng cát phải nạp tăng khôn khéo

Chứng lý tri cơ là ngược lại với nhận văn giải nghĩa. Chứng tức là kinh nghiệm trực tiếp, ví dụ khi uống một ly nước cam thì ta trực tiếp nếm được vị của nước cam. Người khác không uống thì không biết nước cam này ngọt như thế nào, chua như thế nào, thơm như thế nào. Kinh nghiệm trực tiếp, direct experience, thì gọi là chứng. Còn nghe người ta nói lại thì không phải là chứng. "Tri cơ" tức là biết và hiểu được cái cơ quan, cái then máy. Những công án, những thoại đầu, những tiếng hét, những cử chỉ của thiền sư đưa ra, đều là những cái then máy nhằm tháo gỡ cái kẹt của thiền sinh. Mình phải nắm cho được, phải biết cho được, phải sử dụng cho được những cái đó.

Chứng lý tri cơ cứng cát phải nạp tăng khôn khéo. Nạp tăng là những ông thầy áo vá, tức là chúng ta. Chúng ta phải thực tập cho được, đừng theo đường lối gọi là nhận văn giải nghĩa, mà chúng ta phải theo đường lối "chứng lý tri cơ". Cứng cát tức là mạnh khỏe. Những vị nạp tăng không những phải có sự cứng cát, sự hùng mạnh mà còn cần phải có sự khôn khéo nữa. Khôn khéo ở đây có nghĩa là thông minh, thông minh để đừng bị kẹt vào những chữ, những câu, những nghĩa. Có người nghĩ rằng khi tu điều quan trọng nhất là cần cái tâm thành, devotion. Nhưng không đủ! Với tâm thành không thôi cũng chưa được, phải có sự khôn khéo, thông minh, nhất là tu thiền. Tu thiền không phải là vấn đề làm công quả. Tu thiền là phải thông minh, phải linh động, phải uyển chuyển. Nhiều khi người ta không sử dụng những từ ngữ Phật giáo, không sử dụng những câu kinh. Người ta sử dụng những từ ngữ thông thường, như "Ăn cơm chưa? Uống nước chưa?" mà có thể tháo gỡ được những cái vướng mắc của người khác.

Có một vị thiền sư, khi một thiền khách đến thăm thì thiền sư thường hỏi:

-Thầy đã tới đây lần nào chưa? Vị thiền khách trả lời:

-Dạ con mới tới đây lần đầu. Thiền sư nói:

-Mời thầy đi uống trà.

Kỳ sau một thiền sinh khác tới, thiền sư lại hỏi:

-Thầy đã tới đây lần nào chưa?

-Dạ con đã tới đây nhiều lần rồi!

-Mời thầy đi uống trà. Lúc đó thầy thủ tọa mới lấy làm ngạc nhiên, cho nên thầy hỏi: Bạch hòa thượng tại sao người chưa tới lần nào thì cũng đi uống trà, mà người tới nhiều lần rồi thì hòa thượng của bảo đi uống trà. Vậy thì nghĩa lý của việc đó là gì? Vị thiền sư mới nói:

-Mời thầy đi uống trà luôn!

Đó là một câu chuyện rất nổi tiếng ở trong thiền môn. Những câu thiền ngữ đó không nằm ở trong kinh, không lấy ra từ lời Bụt dạy, mà đó là một then máy, đó là ngôn ngữ của thiền. Và mình phải khôn khéo, nếu không thì mình bước trượt qua. Đó gọi là Chứng lý tri cơ, cứng cát phải nạp tăng khôn khéo.

Han hữu lậu, han vô lậu, bảo cho hay: the lọt, duộc thưng

Có người viết là "duộc dừng". Han có nghĩa là enquire about, hỏi han. Han hữu lậu, han vô lậu tức là tham vấn về vấn đề hữu lậu và vấn đề vô lậu thì bảo cho người đó biết rằng (bảo cho hay) cái "the" thì lọt còn cái "duộc" thì thưng. "The" là một loại vải dệt rất thưa, dùng để làm rây bột. Người ta để bột lên rây rồi lắc lắc thì những bột nhỏ hạt rơi xuống, còn những cục bột to thì ở lại trên rây. Thưng là một cái "gáo", cái "muổng" để múc nước tương. Cán của nó không dài nhưng hơi nằm ngang, đưa xuống thùng tương để múc tương lên. Nếu nó là cái lượt thì nó chảy qua. Còn nếu nó là cái môi thì nó dừng lại. Đó là hữu lậu và vô lậu. Hữu lậu là nó lọt ra ngoài được, vô lậu có nghĩa là không lọt ra ngoài nữa.

Trong đạo thì hữu lậu là còn cư trú trong tam giới, trong luân hồi, trong sanh tử. Còn vô lậu là vượt thoát được tam giới và tiếp xúc được với bản môn. Ví dụ mình đem tới chùa cúng $100. Trong khi cúng thì mình cầu nguyện rằng con mình đang đau ốm và xin sẽ được lành, hoặc mình sẽ có những phước báo trong tương lai. Mình cầu mong một công đức, Thì công đức đó là công đức hữu lậu. Hữu lậu tức là còn lọt ra ngoài, còn nằm trong vòng sinh tử luân hồi. Nó là công đức thật, nhưng nó nằm ở trong vòng sinh tử luân hồi. Còn nếu cúng $100 mà mình không thấy rằng mình cho, không thấy chùa là nơi mình đến cúng dường, một hành động hết sức là vô tướng, cho mà không có ý niệm gì hết, không cầu mong gì hết, thì công đức đó gọi là công đức vô lậu. Nó lớn hơn công đức hữu lậu rất nhiều.

Ví dụ tay phải của chúng ta cầm cái búa, tay trái cầm cái đinh. Trong khi cái búa đóng lên cái đinh nhưng vì đóng không đúng, nó đóng lên ngón tay, thì ngón tay trái đau, cái đinh rơi xuống, và bàn tay phải tự động bỏ búa xuống, nắm lấy bàn tay trái để săn sóc. Hành động đó của bàn tay phải rất là vô lậu. Nó không nói rằng tao là bàn tay phải đây, tao đang giúp mày đây, sau này mày phải giúp tao lại! Tay phải không có những ý niệm như vậy, nó rất là vô tâm. Vô tâm không có nghĩa là không biết chuyện gì đang xảy ra và không đáp ứng lại với những nhu yếu của thế giới hiện tại. Tay phải rất là thông minh, rất có chánh niệm, bỏ cái búa xuống, nắm lấy tay trái để săn sóc. Nó vô tâm trong hành động và vô tâm trong sự kỳ thị, phân biệt. Công đức của tay phải là hành động vô tâm, vì vậy cho nên nó là vô lậu.

Vô lậu là công đức, hữu lậu cũng là công đức nhưng nó nhỏ hơn nhiều. Hữu lậu thì nó lọt ra ngoài, còn vô lậu thì không lọt ra ngoài, tức là nó vô lượng. Chính cái hạnh phúc mà công đức vô lậu cho mình, nó lớn hơn cái hạnh phúc hữu lậu tạo nên rất nhiều.

Không biết tổ Bồ-Đề Đạt-Ma tức là sơ tổ của thiền tông Trung Quốc, trước khi sang Trung Quốc ngài đã ghé Việt Nam bao lâu, không thấy ghi lại. Lúc đến Trung Hoa, trước khi rời nước Lương, vượt sông lên miền Bắc thì tổ Bồ-Đề Đạt-Ma có gặp vua Lương Vũ Đế, và hai người có nói chuyện với nhau. Sách vở có ghi lại nội dung câu chuyện đó. Không biết nó đúng tới mức nào, nhưng vua Lương Vũ Đế có hỏi Bồ-Đề Đạt-Ma rằng: Trẫm đã từng xây cất rất nhiều chùa và tạo rất nhiều tượng Bụt và cúng dường rất nhiều vị xuất gia, công đức đó như thế nào? Tức là có tạm được hay không? Thầy Bồ-Đề Đạt-Ma nói rằng: Chẳng có công đức gì hết!

Trả lời như vậy là đứng về phương diện vô lậu mà nói. Nghĩ rằng mình đã tô được bao nhiêu tượng, mình đã cất được bao nhiêu chùa, mình đã cúng dường được bao nhiêu tăng, thì đứng về phương diện vô lậu nó chẳng có công đức gì cả. Nhưng đứng về phương diện hữu lậu thì có công đức chứ! Nhưng Bồ-Đề Đạt-Ma chỉ muốn nói tới công đức vô lượng về phương diện vô lậu thôi.

Hỏi Đại thừa, hỏi Tiểu thừa, thưa thẳng tắt: lòi tiền, tơ gáo

Lòi là sợi dây để xâu tiền. Ngày xưa chúng ta có những đồng tiền bằng kim loại, hình tròn và có lỗ vuông ở giữa. Cũng bằng cỡ đồng 10 Franc ngày nay. Để cho những đồng tiền đó đừng rơi rụng, người ta dùng một sợi dây, xâu qua những đồng tiền đó và để vào túi hay tay nải. Có người sợ mất cho nên họ xâu một xâu dài rồi họ cột ngang lưng!

Ngày nay cũng có nhiều du khách làm như vậy. Họ mua một cái thắt lưng, để tiền đồng, tiền giấy vào trong đó, rồi cột vào lưng. Ngày xưa những anh chàng học trò sắp đi thi, được hàng xóm, bà con đem tặng những xâu tiền như vậy để anh có tiền lên kinh đô hay lên tỉnh ứng thí. Nếu là đồng tiền thì mình dùng một sợi dây nhỏ và chắc để làm thành một xâu tiền, gọi là lòi tiền.

Tơ gáo, gáo là cái gàu múc nước. Đây không phải là cái gáo nhỏ bằng vỗ dừa đâu. Gáo này là cái gàu múc nước, làm bằng mo cau hay bằng tre đan, có quét sơn dầu để cho nước không lọt ra ngoài, tức là vô lậu. Nếu múc nước từ giếng thì phải cột một sợi thừng và thả gàu xuống giếng, có khi sâu cả 10 thước. Nếu đó là một cái gàu múc nước thì mình không thể dùng một sợi dây nhỏ như là sợi dây "lòi", mà mình phải dùng sợi dây thừng lớn hơn, gọi là "tơ", rất chắc. Lòi tiền, tơ gáo là vậy.

Tiểu thừa và Đại thừa cũng vậy. Tiểu thừa có phận sự của Tiểu thừa. Đại thừa có phận sự của đại thừa, mỗi truyền thống có một sứ mạng riêng. Đừng chê phái này là nhỏ, phái kia là lớn. Đây là một thái độ rất cởi mở, Đại thừa không chê Tiểu thừa là cỗ xe nhỏ, còn Tiểu thừa không chê Đại thừa là không chính thống. Như vậy hữu lậu cũng quan trọng mà vô lậu cũng quan trọng, tại vì cái rây có khi mình cần dùng, mà cái duột có khi mình cũng phải dùng, mình phải dùng cả hai cái. Cũng như có khi mình cần dùng Tiểu thừa, có khi mình cần dùng Đại thừa.

Các vị xuất gia ở Việt Nam, khi thọ giới là thọ cả hai thứ giới, 250 giới của Tiểu thừa và 58 giới Bồ tát của Đại thừa, không có sự kỳ thị. Đó là thái độ của Trúc Lâm Đại Sĩ, mà cũng là thái độ của truyền thống Phật giáo Việt Nam. Do đó cho nên mình có Giáo hội Thống nhất của cả hai truyền thống.

Hỏi Đại thừa, hỏi Tiểu thừa, thưa thẳng tắt: lòi tiền, tơ gáo. Thưa thẳng tắt tức là nói trực tiếp, I tell you directly.

Nhận biết làu làu lòng vốn, chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên
Chùi cho vặt vặt tính gương, nào có nhuốm căn trần huyên náo

"Nhận biết" tức là recognise, acknowledge the presence of. Nhận biết tức là nhận diện và biết được. Ví dụ như sư cô Bích Nghiêm ngồi trước mặt tôi thì tôi nhận ra đây là sư cô Bích Nghiêm, và tôi biết đây là sư cô Bích Nghiêm. Đó gọi là nhận biết. "Làu làu" tức là sáng, là rõ ràng. "Lòng vốn" là một từ rất Việt của chữ bản tâm, original mind. Ngày nay chúng ta dùng chữ bản tâm, nhưng ngày xưa chúng ta dùng chữ lòng vốn, rất là Việt. Vốn tức là cái gốc, lòng là cái tâm. Mà cái tâm gốc của mình, original mind, là một cái tâm rất sáng, người nào cũng có, và mình có bổn phận phải tiếp xúc, phải nhận diện, phải biết tới nó. Làu làu lòng vốn tức là nhận biết cái bản tâm sáng chói của mình.

Chẳng ngại hề thời tiết nhân duyên, không có những chướng ngại. Chữ "hề" ở đây chỉ là một tiếng đưa thôi, nó tương đương với một dấu phẩy, một nhấn mạnh. Thời tiết nhân duyên, thời tiết là thời gian. Mùa Xuân, mùa Hạ, mùa Thu, mùa Đông, tiết Lập Xuân, tiết Đại Hàn v.v..., và những điều kiện gọi là nhân duyên. Chuyện chúng ta thực tập nhận diện, tiếp xúc với cái bản tâm của chúng ta, chuyện đó nó không dính líu gì tới thời tiết và nhân duyên cả. Tại vì cái bản tâm, cái lòng vốn của chúng ta nó luôn luôn có đó. Nó là nền tảng của hạnh phúc, của tự do của chúng ta. Sự có mặt của bản tâm đó không bị ngăn ngại bởi vấn đề điều kiện và thời gian.

Chùi cho vặt vặt tính gương-Vặt vặt cũng có nghĩa là sáng chói. Tính gương, cái bản tính của chúng ta là một tấm kính, có thể chiếu soi được. Chúng ta biết rằng trong Duy Biểu Học, thức thứ tám, sau khi đã được chuyển hóa thì được gọi là Đại viên Cảnh trí, tức là cái trí tuệ của tấm gương sáng và tròn. Chúng ta người nào cũng có tính gương đó, có bản chất có thể soi chiếu được. Nếu chúng ta dùng gương đó để soi chiếu thì không có cái gì mà chúng ta không hiểu và không thấy. Sở dĩ nó không soi chiếu là vì chúng ta để cho những bụi bặm bám vào trên gương. Do đó sự thực tập của chúng ta là lấy một miếng giẻ, một cái khăn lau chùi cho tấm gương sáng ra thì không có gì mà ta không thấy được. Câu này khiến cho chúng ta nhớ lại câu của thiền sư Thần Tú:

Thân thị Bồ đề thụ,

Tâm như minh kính đài.

Thân là cây Bồ đề còn tâm là đài gương sáng.

Nào có nhuốm căn trần huyên náo-Huyên náo tức là ồn ào. Căn là sáu giác quan, trần là sáu đối tượng. Sự lăng xăng, huyên náo của sáu căn và sáu trần nó không động tới được bản tính sáng chói của chúng ta gọi là kính gương.

Vàng chưa hết quặng, xá tua chín phen đúc, chín phen rèn

Khi đào dưới mỏ lên thì quặng vàng còn trộn lẫn với những chất đất, cát, sỏi, những chất không phải là vàng. Muốn có vàng ròng, chúng ta phải đúc, phải luyện, phải cần dùng tới lửa. "Tua" tức là nên, khá tua tức là phải nên, chín phen đúc, chín phen rèn.

Lộc chẳng còn tham, miễn được một thì chay, một thì cháo

Tức là những cái lợi lộc, những thức người ta cúng dường, những cái tài lộc của cuộc đời mình không còn ham nữa, tại mình thấy mình giàu quá rồi. Mình có cái lòng vốn, mình có cái kính gương, mình là người giàu nhất trên đời rồi, thành những cái tài, lợi ở trên cõi đời mình thấy nó là bã trấu, mình không chạy theo nữa. Mình đã có châu báu ở trong gia bảo rồi, vì vậy mà mình có thể sống một cuộc đời đơn giản được. Trưa thì được ăn một bữa chay, tối thì chỉ cần ăn cháo lỏng cũng có hạnh phúc như thường.

Sạch giới lòng, chùi giới tướng, nội ngoại nên Bồ tát trang nghiêm

Sạch tức là làm cho thanh tịnh. Giới lòng tức là tâm giới, giới luật ở đây là tâm giới, tức là không cần phải bề ngoài. Bên ngoài nếu chứng tỏ ta giữ giới nhưng bề trong tâm chúng ta không có chánh niệm, không đi đôi với cái tướng bên ngoài thì đó là chưa hay. Cho nên thực tập giới là phải thực tập tâm giới trước.

Chúng ta biết rằng tất cả các giới chúng ta thực tập đều phát sinh từ chánh niệm, từ sự giác ngộ. Nếu chúng ta làm điều trái quấy thì có hại cho bản thân ta và hại luôn cho tăng thân ta. Hại cho thầy, cho tổ và hại cho các con cháu ta, vì vậy mà ta không làm, chứ không phải không làm điều đó là tại ta không được phép làm, ta sợ mang tiếng.

Còn nếu ta có tự do, ta cứ làm điều này thì đó không phải là tâm giới. Hoặc ta sợ sư anh, sư chị rầy rà, trách móc, ta sợ thầy buồn cho nên ta làm điều kia, thì đó cũng không phải là tâm giới. Tâm giới là từ chánh niệm của chúng ta.

Sạch giới lòng, chùi giới tướng. Giới tướng là hình thức biểu hiện của giới. Nếu ở bên trong có tâm giới rồi thì ở bên ngoài cái giới tướng nó sẽ rất đẹp, và nó sẽ rất tự nhiên, nó Authentic, chứ không phải nó giả bộ, và nó rất sáng. Nếu có giới lòng thì giới tướng là giới tướng thật chứ không phải là giả trang thiền tướng.

Ví dụ chúng ta đi thiền hành. Chúng ta đi thiền hành là tại chúng ta thấy đi thiền hành hạnh phúc quá chừng. Cho nên có người chung quanh thì ta cũng đi thiền hành thảnh thơi an lạc, không có ai thì ta cũng đi an lạc, thảnh thơi. Ta không phải đi thiền hành cho người quan sát kia, ta đi cho chính chúng ta. Khi đi thiền hành mà chúng ta có an lạc thì tất cả tăng thân đều được thọ hưởng.

Nội ngoại nên Bồ tát trang nghiêm. Ở trong cũng có cái đẹp của Bồ tát, mà biểu hiện bên ngoài cũng có cái đẹp của Bồ tát. Danh từ trang nghiêm trong đạo Bụt có nghĩa là đẹp. Đẹp bên trong và đẹp bên ngoài. Ta là một vị Bồ tát trang điểm cho thế giới bên trong, và trang điểm luôn cho cả thế giới bên ngoài, trong đó có tăng thân của chúng ta.

Ngay thờ chúa, thảo thờ cha, đi đỗ mới trượng phu trung hiếu

Chúa đây tức là vua, người cầm đầu guồng máy chính trị ở trong nước. Lòng mình ngay thẳng trong việc thờ vua. Thờ có nghĩa là phụng sự. Thờ cha thờ mẹ không có nghĩa là mình đốt hương, cúng vái trên bàn thờ, tại vì cha mẹ còn sống, mình vẫn phải thờ cha thờ mẹ, phải phụng sự cha mẹ như thường. Như vậy mình có thể nói mình cũng thờ anh, thờ em, thờ chồng, thờ vợ, thờ chúng sanh, thờ con cái. Tại vì mỗi việc đều là một cái đạo hết. Đạo làm cha, đạo làm mẹ, đạo làm con, đạo làm vợ, đạo làm chồng. Nếu mình thực tập được đạo đó cho thật hay, thật đẹp thì đó gọi là thờ. Giống như pha trà cho thật đẹp, thật ngon thì ta gọi là trà đạo. Ngay thờ chúa, thảo thờ cha tức là đem sự ngay thẳng để phụng sự quốc vương của mình, đem sự hiếu thảo mà phụng sự cha ông của mình.

Đi đỗ mới trượng phu trung hiếu. "Đi đỗ" tức là hành chỉ. Đi là hành, đỗ tức là chỉ, nghĩa là ngừng lại. Ví dụ như xe đỗ lại, tàu đỗ bến. Đi đỗ tức là khi đi, khi dừng. Câu trên là "nội ngoại", câu dưới đối lại là "đi đỗ", tức là khi đi khi dừng. Dịch theo chữ Nho là tấn chỉ, tức đi tới và dừng lại.

Đi đỗ mới trượng phu trung hiếu là phải biết lúc nào mình nên đi tới, lúc nào mình cần dừng lại, thì mình mới có thể gọi là bậc trượng phu có trung và có hiếu. Trung là đối với vua, với nước (không phản bội). Hiếu là đối với cha mẹ và tổ tiên của mình (có tình, có nghĩa).

Tham thiền kén bạn, nát thân mình mới khá hồi ân.

Tham thiền tức là tham khảo về thiền học, mình tham vấn với thầy, với bạn, với kinh sách để soi sáng cho sự thực tập hàng ngày của mình. Chúng ta đã học về đại tham, và tiểu tham. Mình tham khảo một thoại đầu, tham khảo một công án cũng là tham thiền.

"Kén bạn" tức là trong đời sống tu tập mình phải chọn những người bạn tu để mình có thể tu. Ở đây tức là vấn đề xây dựng tăng thân, mình có được người bạn thiện hữu tri thức thì đó là một điểm tích cực trong đời tu của mình. Nếu tu mà không có bạn thì thiếu, cho nên phải tìm cho được bạn hiền để cùng tu tập chung với mình.

Nát thân mình mới khá hồi ân. Nghĩa là cái ân nghĩa của đạo và của bạn khó có thể đền đáp lắm. "Hồi" tức là đem trở lại, "ân" tức là ân nghĩa. Ân đó lớn lắm, thân mình không đủ để đền đáp ân đó.

Ở Đông phương người ta thường nói sau này chết đi tôi sẽ trở lại thành con ngựa, con lừa để chở anh trong trọn kiếp thì tôi vẫn chưa đền được ơn của anh đã làm cho tôi trong kiếp này: Làm thân trâu ngựa đền bù trúc mai. Cái thân này, suốt cuộc đời này tôi lao động, tôi làm đủ thứ, mà tôi vẫn chưa đủ để đền công ơn của anh. Tại vì anh là người tri kỷ của tôi, anh đã dẫn tôi đi trên con đường đạo, anh đã khai mở con đường sáng cho tôi, anh đã cứu tôi ra khỏi nhà tù hắc ám của khổ đau, của thất vọng. Ơn đó thân này không đủ để đền bồi, họa chăng những thân của kiếp sau thì mới đủ. Đó là cái cảm tưởng của mình đối với một người bạn hiền, thiện hữu tri thức.

Tại vì người đó đã cho mình sống trở lại, mình đã chết rồi, mình đã kẹt rồi, mình đã vào trong tối rồi mà người đó mở đường cứu mình thoát ra, thì ơn của người thiện hữu đó rất là lớn.

Học đạo thờ thầy, dọt xương óc chưa thông của báo-Khi mình tìm học con đường thực tập và mình thân cận và phụng sự cho thầy mình, thì cả xương, cả óc của mình dù có tiêu ma đi nữa thì vẫn chưa đủ để trả ơn đó của đạo và của thầy. "Dọt" có nghĩa là đập mạnh vào, làm cho nó mòn mỏi. Cả xương cả óc của mình dầu có mòn mỏi đi nữa thì mình vẫn chưa đủ để mà trả ơn thầy và ơn con đường, ơn Bụt.

Thực Tập Lời Dạy Trong Hội thứ Sáu

Khi đi thiền hành chúng ta nắm tay một người bạn để đi trên con đường Xóm Thượng hay Xóm Hạ, chúng ta phải làm thế nào để cho giây phút đó trở nên giây phút có hạnh phúc. Chúng ta phải làm điều đó ngày hôm nay. Khi làm được, nếu chúng ta hỏi ngày mai chúng ta làm có được hay không, ta có thể có khả năng có hạnh phúc hay không khi ta trở về địa phương của chúng ta? Thì câu trả lời có thể là được! Nếu hôm nay mình làm được thì ngày mai về tới trú xứ, mình cũng có thể làm được.

Cho nên bí quyết của sự thực tập là phải thành công ngay ngày hôm nay. Cố nhiên là càng làm thì hạnh phúc càng lớn, nhưng hạnh phúc đó không phải đến ngày mai mình mới có. Đừng đợi khi về tới "bên nớ" mình mới làm được, "bên ni" mình vẫn làm được như thường. Điều này phát xuất từ kinh nghiệm trực tiếp của tôi.

Kết quả của sự tu học của mình, cái mà mình mong đạt tới là gì? Rất đơn giản, là có hạnh phúc trong khi mình bước chân đi; có hạnh phúc trong khi mình ngồi một mình hay mình ngồi với các bạn; có hạnh phúc trong khi mình ăn cơm; có hạnh phúc trong khi mình uống nước; có hạnh phúc trong khi mình quét thiền đường; mình giặt áo hay mình nấu cơm. Chúng ta phải có hạnh phúc trong những lúc đó thì chúng ta mới gọi là đang thành công trong việc tu học, đang thực tập đúng với giáo pháp. Còn nếu chúng ta cứ nghĩ rằng ráng qua ngày hôm nay để ngày mai sẽ tươi sáng hơn, có hạnh phúc hơn, là chúng ta đang không thực tập đúng theo pháp môn của thầy trao truyền.

Chúng ta hãy sử dụng hình thức đó vì một mai kia trên giường bệnh, thân thể đau nhức, không thể ngồi dậy được nữa, không thể bước đi một bước nào nữa, thì điều mà ta ước mong nhất có thể là bước đi những bước thanh thản, hạnh phúc trên con đường thiền hành một mình hay với các bạn; hay có thể ngồi thẳng lưng, thở rất thông, mỉm cười, nhìn cái bông hoa, nhìn cây đèn cầy, nhìn sàn gỗ!

Hạnh phúc phải có ngay trong khi chúng ta làm những chuyện đó, bây giờ và ở đây. Hạnh phúc đó có hay không, không phải là do người khác, mà là do chính mình. Mình bắt buộc phải có hạnh phúc bây giờ và ở đây. Nếu không thì mình cũng đang đi tìm bắt một ảo ảnh của hạnh phúc ở đâu xa, nơi những người khác, mình đuổi theo một đám mây!

Cũng như ngày mà chúng ta pháp đàm ở trên núi Pyrénées, có tương lai nào đâu? Chỉ có giây phút hiện tại này mà thôi. Nếu giây phút hiện tại này mà ta an trú được, ta có hạnh phúc được thì ở đâu mà ta không làm được chuyện đó?

Cho nên chúng ta có thể nói giây phút hiện tại là giây phút duy nhất. Nếu quí vị còn thao thức, còn lo lắng cho tương lai thì quí vị biết rằng quí vị chưa an trú, và quí vị chưa nắm được phương pháp thực tập. Nếu nắm được phương pháp thực tập, có an trú, có hạnh phúc ngay trong giây phút hiện tại rồi thì quí vị đừng lo nữa. Tương lai đã được bảo đảm rồi đó! Đi đâu, làm gì cũng có thể có hạnh phúc được. Làm thợ mộc cũng có hạnh phúc, làm thợ nề cũng có hạnh phúc, tại sao chúng ta phải lo sợ, hoảng hốt về cái tương lai của chúng ta? Đó gọi là đốn ngộ.

Pháp môn mà chúng ta tu tập ở đây là đói thì ăn, khát thì uống, nhà dơ thì quét, mệt thì đi nghỉ. Nhưng làm tất cả những việc đó với thái độ vô tâm, không bị vướng mắc, không đòi hỏi, không lên án, không sợ hãi, không sầu đau, và hạnh phúc là cái gì có thể đạt được ngay ngày hôm nay.

Gốc Gác của Ý Niệm Vô Tâm Trong Hội Thứ Sáu

Trên đây, trong khi học hội thứ Sáu chúng ta có đi ngang qua từ vô tâm.

Vào đời Đường ở bên Tàu, nhất là vào khoảng cuối đời Đường, người ta hay lặp đi lặp lại ý niệm về vô tâm như là con đường lý tưởng: Vô tâm thị đạo, có nghĩa Vô tâm là con đường. Có nhiều người lặp đi lặp lại mà không hiểu, rốt cuộc nó trở thành một cái cliché, một từ ngữ đầu môi của rất nhiều người dù họ không hiểu gì hết.

Trong tác phẩm Trung Cảnh Lục có một câu mà người nào đã đọc cũng đều biết:

Nhược bất khởi vọng tâm, tất năng thuận giác. Sở dĩ văn: Vô tâm thị đạo.

Nhược bất khởi vọng tâm, nghĩa là nếu không phát khởi tâm vọng, thì có thể đi theo được sự giác ngộ, tức là năng thuận giác. Thuận là đi theo hướng. Giác tức là sự bừng tỉnh, sự giác ngộ. Nếu không phát khởi tâm vọng thì có thể đi theo được sự giác ngộ.

Sở dĩ văn: Vì vậy cho nên nói rằng Vô tâm thị đạo.

Trong Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục có câu chuyện một thiền sinh học thuộc câu vô tâm thị đạo và đem lặp lại cho Thượng Sĩ nghe, nên bị Thượng Sĩ la rầy. Một vị xuất gia khác hỏi Thượng Sĩ: Thế nào là đạo? Thượng Sĩ trả lời: Đạo không có trong câu hỏi, câu hỏi không có trong đạo. Tức là Thượng Sĩ đã ngửi thấy mùi lý thuyết, mùi danh từ của anh chàng này rồi.

Ngày xưa nhạc sĩ Phạm Duy có làm một bài tâm ca, trong đó có câu: Kẻ thù ta là một rổ danh từ!

Ta cũng vậy. Chúng ta cũng có thể bị kẹt vào các danh từ mà chúng ta đã học. Chúng ta nói rất giỏi, trình bày những danh từ của chúng ta rất giỏi, chúng ta học thuộc lòng, chúng ta nói thao thao bất tuyệt, nhưng những cái đó không dính líu gì tới đời sống hàng ngày của chúng ta cả, cho nên chúng ta không được chuyển hóa. Kẻ thù ta là một rổ danh từ! Hồi đó Phạm Duy chịu ảnh hưởng của đạo Bụt, đi chùa rất đều nên làm ra 10 bài tâm ca.

Trong những khóa tu, người ta thường đặt câu hỏi. Có thể tới tám mươi phần trăm các câu hỏi là thuộc loại này, hỏi để mà hỏi thôi. Mình phải tìm cách để giúp cho họ thoát ra khỏi sự đi tìm danh từ và tìm ý nghĩa của danh từ. Thiền sư thì hay dùng những loại ngôn ngữ để có thể giúp cho những người đó thoát ra khỏi đường rầy xe lửa mà họ thường đi. Con đường đó là cứ đi tìm danh từ và ý niệm. Vì vậy mà:

-Thế nào là đạo?

-Đạo không có trong câu hỏi, câu hỏi không có trong đạo.

Vị xuất gia đó vẫn chứng nào tật nấy, nên hỏi thêm một câu:

-Các hàng đạt đức ngày xưa đã nói vô tâm tức là đạo, có đúng không bạch Thượng Sĩ?

Nếu trả lời là đúng thì cũng chẳng có ích lợi gì cho anh ta. Anh chỉ muốn xác nhận lại một câu nói, và cái đó không dính líu gì đến và không có ảnh hưởng gì đến sự tu học của anh ta cả. Cho nên Thượng Sĩ nói:

-Vô tâm bất thị đạo, vô đạo diệt vô tâm.

Vô tâm không phải là đạo, không có đạo cũng không có tâm! Nó hoàn toàn ngược lại giáo điều! Trong khi vị xuất gia đó đang ngớ ngẩn, cố nhiên là phải ngớ ngẩn, tại vì cái đường rầy bị lấy mất rồi cho nên cái đầu tàu đâu còn chạy tới được nữa? Thì Thượng Sĩ giải thích tiếp:

-Nếu nói vô tâm là đạo, thì tất cả cây cỏ đất đá đều là đạo hết sao, tại vì tụi nó vô tâm lắm! Ngược lại nếu nói vô tâm không phải là đạo thì nói vậy để làm gì, có ích lợi gì đâu? Cho nên trong cả hai mệnh đề, phủ nhận hay xác nhận, đều không ích lợi gì cho thầy hết!

Nghĩa là ông đừng chạy theo tìm sự xác nhận hay phủ nhận một ý niệm, nó không ích lợi gì cho ông hết. Rồi Thượng Sĩ đọc cho thầy bài kệ sau đây:

Bổn vô tâm vô đạo, Có nghĩa là vốn không có tâm cũng không có đạo.

Hữu đạo bất vô tâm. Nếu có đạo thì làm sao vô tâm được? Nó ngược lại hoàn toàn! Một bên nói vô tâm tức là đạo, một bên nói tâm cũng không có mà đạo cũng không có, mà nếu có đạo thì làm sao mà vô tâm được, tức là ngược lại điều nói trong sách.

Tâm đạo nguyên hư trực. Tâm và đạo chúng vốn là trống rỗng, là vắng lặng.

Hà xứ tránh truy tầm. Ở đâu có thể chạy theo mà tìm cho được? Tại vì cả tâm lẫn đạo đều hư tịch cả, nghĩa là nó rất là vắng lặng, nó là sự thật, nhưng nó rất là yên lặng.

Cũng như trái chuối hay trái cam, nó có thật nhưng nó rất im lặng. Bây giờ mình ngồi pháp đàm về thế nào là trái chuối, thế nào là trái cam thì rất là ồn ào, và đôi khi mình không có chuối mà cũng chẳng có cam, mình chỉ bàn về chuối và cam mà thôi!

Thật sự là như vậy. Có rất nhiều Phật tử ngồi nói tới chân như, tới bản thể, vô ngã, vô thường nhưng họ không có mấy thứ đó. Giống như mình ngồi cả ngày cãi nhau về chuối, về cam mà không người nào có được trái chuối, không người nào có được trái cam. Hư tịch không có nghĩa là nó không có. Hư tịch có nghĩa là nó có nhưng nó rất là vắng lặng. Vắng lặng ở đây là vắng lặng cái ý niệm, cái ngôn từ, chứ còn nó là sự thật. Anh thì anh chỉ để thì giờ để nói về tâm và về đạo thôi, chứ anh không tiếp xúc được với cái tâm và cái đạo. Vì vậy mà không ích lợi gì cho anh cả. Anh chạy theo để tìm nó thì tìm ở đâu được? Tại vì anh tìm theo kiểu ngôn thuyết và hí luận.

Trong câu chuyện này, sách sử còn ghi thêm một câu: Vị xuất gia đột nhiên nhận ra cái ý chỉ (tức là cái ý) của Thượng Sĩ, nên cúi đầu xá rồi rút lui. Không biết thầy có nhận ra không, hay thấy ngán quá nên rút lui cho rồi!

Chúng ta biết rằng trong thiền môn thỉnh thoảng có những trận giác chiến, những cuộc xuất trận đó giữa thầy và trò. Đây quả thật là những trận đánh tơi bời. Trong buổi đại tham, một thiền sinh bước lên và thiền sư tạo ra một cơn gió bão rất lớn để xem thiền sinh này có chịu đựng nổi hay không, trong cơn bảo đó thiền sinh có tỏ lộ gì về sự vững chãi không, hay là bị những ngọn gió thổi bay tung hết.

Thành ra Tuệ Trung Thượng Sĩ hay nói ngược lại những điều trong kinh. Ví dụ kinh nói: "Sắc tức thị không, không tức thị sắc" thì Tuệ Trung nói rằng: "Sắc bất thị không, không bất thị sắc". Và trong bài kệ đọc cho vị thiền sinh trên đây thì:

Bổn vô tâm vô đạo,

Hữu đạo bất vô tâm,

Tâm đạo nguyên hư tịch,

Hà xứ tránh truy tầm.

Trong hội thứ Sáu của bài Cư Trần Lạc Đạo có câu: Hãy xá vô tâm tự nhiên hợp đạo, nghĩa là hãy nên vô tâm, hãy nên áp dụng phương pháp vô tâm thì tự nhiên mình hợp với đạo.

Trở về đọc tiếp bài kệ của Tuệ Trung:

Nhược bất khởi vọng tâm,

Tức năng thuận giác.

Không khởi vọng tâm tức là vô tâm. Vô tâm là vô vọng tâm hay vô vọng tưởng. Tức năng thuận giác-Giác đây tức là đạo, là sự giác ngộ, tức là sự hiểu biết. Nói ngắn lại: Vô tâm tức là đạo. Vì vậy khi đọc hai câu này chúng ta phải biết gốc gác của nó. Gốc gác của nó là ý niệm vô tâm thị đạo.

Cách Thực Tập Vô Tâm

Thiền sư Vĩnh Minh Duyên Thọ đã nói rất rõ rằng cái vô tâm đó, cái đạo đó là bất khởi vọng tâm. Vô tâm có nghĩa là không có vọng tâm, tức là không có vọng tưởng, wrong perception. Ví dụ bây giờ mình có một ý niệm về mình. Mình là một người thương người, một người muốn giúp người, mình rất dễ thương, mình có rất nhiều thiện chí. Mỗi chúng ta đều có một hình ảnh về mình cả. Tôi thông minh, tôi dễ thương, tôi không tạo ra những bất bình đẳng với người khác, tôi không kỳ thị người khác. Đó là một cái tưởng về mình, một cái tâm về mình.

Cái tưởng đó thường thường là sai. Nó sai tới một mức độ nào đó. Thành mỗi người trong chúng ta có một hình ảnh về bản thân của mình. Và mình tin rằng cái hình ảnh đó là hình ảnh thật của mình. Nếu đem một tấm kính ra để trước mặt và phản chiếu lại hình của mình cho mình thấy, thì mình có thể nói rằng hình này không phải là hình của tôi! Đôi khi chụp hình, thấy hình thì mình nói tôi đẹp hơn thế này mà tại sao chụp nó ra như thế này! Tôi không "ăn ảnh"!

Tăng thân của mình cũng giống như một tấm kính, nó hắt trở lại, nó gởi trở lại hình ảnh của mình cho mình thấy. Khi nhìn vào trong một tấm kính, quí vị cười nhăn răng thì tấm kính nó cũng cười nhăn răng và nó hắt hình đó lại cho mình. Khi mình giận dữ, nhìn vào trong kính thì kính hắt lại một bộ mặt rất là ghê cho mình thấy. Nhưng mình không chịu, mình nói hình mình không như vậy, không xấu như vậy!

Mình phải biết rằng tăng thân là một tấm kính, mà xã hội cũng vậy, đều là một tấm kính, trong đó hình ảnh của mình được phản chiếu lại. Thành ra khi mình thực tập cầu xin sáu sư em, sáu sư anh hay sáu sư chị soi sáng cho mình, tức là mình làm việc soi gương. Có thể có những người họ quen sống với những người dua nịnh. Người nào cũng muốn có những lợi lộc cho nên họ không nói sự thật cho mình nghe. Ví dụ như cấp dưới nói với cấp trên: Đồng chí quên ngủ quên ăn nhiều quá, đồng chí lo cho đồng bào nhiều quá, đồng chí là người hy sinh nhất ở trên thế gian này! Thì đó có thể là những lời đường mật để tâng bốc cấp trên.

Nếu mỗi ngày nghe nhiều lần như vậy thì mình sẽ có một hình ảnh cao tột về mình. Đó là một vọng tưởng, một vọng tâm. Sống với cái đó thì mình chết. Cho nên chuyện mình cầu sáu người bạn nói thật về con người của mình là một cách soi kính rất hay. Những người đó nói cho mình hay về giá trị của mình, và những khuyết điểm của mình. Mỗi thiền sinh ở Làng Mai đều đã được giao cho bài tập đó.

Mình có một hình ảnh về mình có thể là một vọng tâm, vọng tưởng đã đành, mình còn có một hình ảnh về người kia, hay về tăng thân cũng không đúng luôn. Mình nói rằng tăng thân kỳ thị mình, tăng thân muốn đẩy mình ra khỏi, tăng thân không muốn chấp nhận mình, và mình tạo ra một cái ranh giới làm bằng dây kẽm gai, rất khó để vượt qua. Đổ cho tăng thân hay đổ cho người bạn tu của mình cái tâm địa kỳ thị, tâm địa ưa nói xấu, tâm địa muốn dìm mình xuống.

Như vậy mình có hai hình ảnh, thứ nhất là một hình ảnh về mình, và thứ hai là một hình ảnh về người kia hay về nhóm người kia. Cả hai hình ảnh đó tạo ra một biên giới. Biên giới đó nó làm cho mình đau nhức, và nó làm cho người kia đau nhức. Không những nó làm cho hai người đau nhức, nó làm cho luôn cả tăng thân đau nhức!

Cho nên nguyên tắc thực tập là vô tâm, tức là đừng bám víu vào một ý niệm. Phải luôn luôn quán chiếu về ý niệm đó để thoát ra, luôn luôn đi tìm sự thật. Và phương pháp tìm sự thật là căn cứ vào cái đèn sẵn có trong người của mình, tức là tính sáng của mình, và cũng căn cứ trên tính sáng của người khác. Nếu dùng cái đèn của chúng ta và cầu xin cái đèn của những người khác soi sáng cho ta và soi sáng cho tăng tăng thân, thì mình có thể làm tiêu tán đi những vọng tưởng, những vọng tâm. Như vậy là mình đi theo ánh sáng, đi theo sự giác ngộ, gọi là thuận giác,

Có khi chúng ta có cảm tưởng chúng ta đang gánh một gánh tủi nhục, một gánh bất công. Mà những bất công đó đã được gây ra bởi hoàn cảnh xã hội, bởi những người khác. Chúng ta có cảm tưởng rằng chúng ta như là Chúa Ki-tô, đang phải mang một cái Thánh giá rất nặng. Chúng ta là nạn nhân của những người khác, nạn nhân của sự kỳ thị của những người khác, và vì mang gánh nặng đó nên chúng ta đau khổ. Chúng ta thiết lập một biên giới ngăn cách giữa chúng ta với những người kia.

Có thể chúng ta không thấy gánh nặng đó nó phát sinh từ nhận thức sai lầm của chúng ta, từ cách nhìn của chúng ta, từ cái vọng tưởng của chúng ta. Vì vậy cho nên con đường, phương pháp là phải sử dụng vô tâm, tức là vượt những tà niệm, những vọng niệm, những vọng tâm.

Muốn vượt vọng tâm thì chỉ có một cách là dùng cây đèn bên trong để soi sáng. Nếu người kia nhìn mình bằng con mắt như vậy, nếu những người kia có thái độ với mình như vậy, chắc có lẽ là tại mình sao đó, tại cách hành sửû, cách nhận thức của mình sao đó thì nó mới có thể có phản ứng như vậy từ phía những người kia. Nếu cái mặt mình nhăn, thì tấm kính nó mới gởi lui cho mình một hình ảnh có cái mặt nhăn, chứ không phải tự nhiên mà có. Khi quán chiếu thì mình thấy được phần trách nhiệm của mình.

Nhiều khi tấm kính cũng hơi méo tại vì người kia nếu không tu tập, nếu không quán chiếu thì cũng có thể có một nhận thức sai lầm về mình. Nhưng thường thường khi chúng ta có tu học, có quán chiếu, thì phía bên này cảm thấy đỡ mà phía bên kia cũng thấy đỡ hơn. Cái hình ảnh méo mó càng ngày càng bớt đi, và sự phối hợp giữa hai ánh sáng, ánh sáng của nội tâm mình và ánh sáng nội tâm của người kia, có thể xua đuổi đi những bóng tối, những méo mó, những sai lầm trong nhận thức của mình và của người kia.

HỘI THỨ BẢY

Vậy mới hay:

Phép Bụt trọng thay,

Rèn mới cốc hay.

Vô minh hết Bồ đề thêm sáng.

Phiền não rồi đạo đức càng say.

Xem phỏng lòng kinh, lời Bụt thốt dễ cho thấy dấu,

Học đòi cơ tổ, sá thiền không khôn trước biết nay.

Cùng căn bản, rữa trần duyên, mựa để mấy hào ly đương mặt.

Ngã thẳng tràng, viên tri kiến, chớ cho còn họa trữ cong tay.

Buông lửa giác ngộ, đốt hoại thảy rừng tà ngày trước,

Cầm kiếm trí tuệ, quét cho không tính thức thủa nay.

Vâng ơn thánh, xót mẹ cha, thờ thầy học đạo.

Mến đức cồ, kiêng bùi ngọt, cầm giới ăn chay.

Cảm đức từ bi, để nhiều kiếp nguyền cho thân cận.

Đội ơn cứu độ, nát muôn thân thà chịu đắng cay.

Nghĩa hãy nhớ, đạo chăng quên, hương hoa cúng xem còn nên thảo,

Miệng rằng tin, lòng lại lỗi, vàng ngọc thờ cũng chửa hết ngay.

Bình giảng Hội thứ Bảy

Vậy mới hay
Phép Bụt trọng thay
Rèn mới cốc hay

Chúng ta thấy rằng trong bài Cư Trần Lạc Đạo cũng như trong những tác phẩm bằng chữ Nôm ở thế kỷ thứ 13, không có tác phẩm nào sử dụng danh từ Phật hết. Điều đó chứng tỏ rằng vào thế kỷ thứ 13, 14 dân Việt vẫn còn dùng chữ Bụt để chỉ đấng Toàn Giác.

Từ khi quân Minh sang xâm chiếm nước ta, họ gom góp và đốt hết tất cả những thư tịch của các thầy ở Việt Nam sáng tác, và đem kinh điển ở bên Trung Quốc sang, thì chúng ta mới bắt đầu gọi Bụt là Phật, một danh từ phiên âm từ tiếng Trung Hoa. Đó là từ thế kỷ thứ 15, 16. Trước đó chúng ta vẫn gọi Phật là Bụt, theo danh từ tiếng Việt.

Trong những tác phẩm chúng ta đang dùng đây, không bao giờ có chữ Phật hết, toàn là Bụt. Vì vậy, là con cháu, ngày nay chúng ta nên trở về nguồn, nên theo tổ tiên của chúng ta mà sử dụng danh từ Bụt, và đừng dùng danh từ Phật của người Trung Hoa đã ép buộc ông cha ta sử dụng!

Phép Bụt trọng thay, nghĩa là phép của Bụt rất là quí báu. Rèn tiếng Anh là training, nghĩa là học hỏi và tập dượt. Nếu có học và tập theo phép Bụt thì ta mới thấy được, mới hiểu được điều đó, rằng Phật pháp là rất mầu nhiệm, rất quí giá. Chữ phép Bụt là tiếng Việt của chữ Phật pháp. Ta có câu kệ mở kinh: Phép Bụt cao siêu mầu nhiệm. Cơ duyên may được thọ trì...

Vô minh hết Bồ đề thêm sáng

Vô minh tức là sự không thấy rõ, không có ánh sáng. Mục đích của việc học là lấy vô minh ra khỏi mình. Nhưng khi vô minh ra khỏi rồi thì sẽ có một cái khác để thay thế. Đó là Bồ đề tức là sự giác ngộ, sự hiểu biết nó sáng thêm. Có nghĩa là mình đã có ánh sáng rồi, nhưng tại vì màn vô minh che, cho nên ánh ánh đó chỉ tỏa chiếu một cách rất khiêm nhường. Nếu mình lấy màn vô minh đi thì ánh sáng đó chiếu ra rạng rỡ.

Vô minh hết Bồ đề thêm sáng là câu lặp lại những câu ở trong kinh: Vô minh diệt, minh sinh, nghĩa là khi nào vô minh diệt thì minh sinh ra. Ánh sáng xuất hiện khi bóng tối đi mất, đó là một định luật. Hễ bóng tối đi mất là chỗ đó có ánh sáng.

Phiền não rồi đạo đức càng say

Phiền não rồi tức là phiền não đã được chuyển hóa, đã được thảnh thơi. Chữ rồi ở đây chúng ta nhớ nó có nghĩa là thảnh thơi. Khi phiền não đã được thảnh thơi rồi thì cái đạo và cái đức nó càng được quí chuộng, ưa thích.

Xem phỏng lòng kinh, lời Bụt thốt dễ cho thấy dấu
Học đòi cơ tổ, sá thiền không khôn trước biết nay

Xem và làm theo, bắt chước theo. "Phỏng" ở đây là làm theo, adapt. "Lòng kinh" tức là tinh yếu của kinh, cái bản chất của kinh chứ không phải là hình thức của kinh, không phải là cái xác kinh, không phải là chữ nghĩa, văn cú của kinh.

Chữ "lòng" là dịch từ chữ tâm. Kinh chi tâm tức là cái tinh yếu của kinh. Thốt ở đây có nghĩa là nói, thưa thốt. Dễ cho thấy dấu, dấu này là dấu vết. Nếu học kinh mà chúng ta biết đừng bị kẹt vào chữ nghĩa, chúng ta đi vào tinh túy của kinh, không đi vào lý thuyết mà biết thực tập theo lời kinh dạy, thì những lời Bụt dạy nó trở nên rõ ràng. Dấu vết của những lời Bụt dạy trở nên dễ dàng, ta có thể thấy được, nắm được.

Học đòi cơ tổ. Học đòi tức là học theo. Cơ, chúng ta đã gặp chữ này rồi, cơ là cái then máy, là cơ quan. Tức là những phương pháp của các tổ dùng để giúp người ta giác ngộ, như những công án, những thoại đầu, những tiếng hét, những bài kệ ngược lại với kinh điển, đó là cơ. Học đòi cơ tổ tức là học theo những phương pháp của chư tổ.

Sá thiền không khôn trước biết nay. Sá có nghĩa là đường, đường sá, là lối đi. Thiền không là những giáo lý về "không" được dạy trong thiền môn. Không phải cái không ở ngoài đời, không này là cái không không thể nói tới, ((nyat(.

Khôn trước biết nay, khôn tức là khó, difficult. Chữ "nay" có nghĩa là "nơi", mà đọc là nay. Nơi là chỗ, là nơi chốn.

Vì đây là Hội thứ Bảy, tất cả các vần đều là "ay" hết, cho nên chữ nơi phải đọc thành chữ nay. Những giáo lý mầu nhiệm về không ở trong thiền, con đường đạt tới nó, không phải dễ dầu gì mà tới nơi tới chốn được đâu. "Sá" là con đường; "thiền không" tức là lời dạy chân lý về không của thiền môn. Khôn là khó biết được, như trong chữ khôn lường.

Cùng căn bản, rữa trần duyên, mựa để mấy hào ly đương mặt

Cùng căn bản, "cùng" là đi cho tới tận nơi tận chốn, không bỏ nữa chừng, đi cho tới tận nguồn cơn, tận gốc rễ. Căn là rễ, bản là cái nền. Cùng tức là go all the way through, hitting the bottom. Rữa trần duyên, rữa tức là nó rã ra. Ví dụ có một khối gì đó chúng ta để ngoài mưa. Ban đầu nó cứng, nhưng nước thấm vào từ từ, mưa gió đi qua thì nó bắt đầu rã ra từng mảnh, đó là rữa ra. Trần duyên là những ràng buộc vào phiền não. Trần đây là những bụi bặm của cuộc đời. Duyên là những cái ràng buộc của cuộc đời. Rữa trần duyên nghĩa là những bụi bặm, những ràng buộc của cuộc đời từ từ nó rã ra. Ban đầu thì nó rất cứng, nó làm thành cái vỏ cứng chung quanh chúng ta, nó giam hãm chúng ta, nhưng nếu chúng ta đi tận cùng tới cái căn bản của giáo lý, của thiền tập thì những mối trần duyên làm chúng ta khổ đau trong bao nhiêu kiếp đó, sẽ từ từ rã ra hết.

Mựa để mấy hào ly đương mặt. Mựa là đừng, là chớ. Hào ly là một chút xíu, những mảy vụn, những mảy mún của nó. Chớ để cho những cái mún của nó còn trước mặt ta. Cái trần duyên đó nó rã ra, nó tan hết. Đừng để cho nó còn lại dầu là một tơ hào, một mảy mụn rất nhỏ. Đừng cho nó ở lại trước mặt ta nghĩa là đừng thấy nó một chút xíu nào nữa cả. Cái trần duyên đó phải được rã ra một cách hoàn toàn.

Ngã thắng tràng, viên tri kiến, chớ cho còn, họa trữ cong tay

Tràng là một cái cờ. Thắng tràng là cờ chiến thắng. Ngã tức là làm đổ. Ngã cờ chiến thắng đó xuống. Ngày xưa khi đánh trận thắng, người ta treo cờ lên, dựng cờ lên, gọi là cờ chiến thắng. Thắng trận là thắng tràng. Các vị Bụt, các vị Bồ tát khi chiến thắng được ma quân, chiến thắng được phiền não vô minh thì cũng giống như dựng lên một cây cờ chiến thắng của đạo pháp.

Nhưng tại sao lại ngã thắng tràng? Cây cờ chiến thắng đó tại sao lại làm cho nó ngã? Tại vì nó vẫn còn có ý niệm là có người thắng, người thua. Nó có thể có ý niệm về ngã, về mạng, về sự tự hào, tự đắc, cho nên làm cho cây cờ chiến thắng đó nó ngã xuống. Tức là bước cuối cùng của sự chiến thắng của mình.

Viên tri kiến. Viên tức là làm cho nó tròn đầy; tri kiến là cái thấy, cái biết của mình. Cái thấy và cái biết của mình làm cho nó tròn đầy, gọi là viên tri kiến. Chúng ta có tri kiến của chúng ta, mà Bụt cũng có tri kiến của Bụt. Cái tri kiến của chúng ta rất là nhỏ bé, và cái tri kiến của Bụt rất là lớn lao.

Kinh Pháp Hoa được xem như một kinh diễn bày cho ta thấy cái tri kiến của Bụt: Khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến. Tức là mở ra, chỉ bày, làm cho chúng ta thức tỉnh, và chúng ta đi vào trong tri kiến của Bụt. Viên tri kiến là làm cho tri kiến của mình càng ngày càng tròn đầy.

Chớ cho còn, họa trữ cong tay. Làm sao để cho những tai họa nó không còn ẩn dấu trong hai vòng tay của mình. Tại vì tai họa nó từ đâu tới? Tai họa nó nằm trong hai vòng tay mình mà mình không biết, mình tưởng từ ngoài nó đi vào! Tất cả những tai họa đến với mình nó đã nằm sẵn trong hai vòng tay của mình. Một ngày nào đó gặp tai họa, mình nghĩ là từ xa nó đi tới, kỳ thực nó đã có sẵn! Cong tay là trong tay.

Muốn cho tai họa đừng tới thì mình phải thấy rằng nó đã nằm núp sẵn trong hai vòng tay của mình. Vì vậy cho nên phải làm ngã xuống cái thắng tràng của mình, ngã sự tự hào, tự thị là mình giỏi hơn người, mình thành công hơn người. Và phải làm cho tròn đầy cái thấy và cái biết của mình (viên tri kiến), thì những tai họa ẩn náu trong hai vòng tay của mình dưới hình thức của những hạt giống tan rã đi, lúc đó mình mới thật sự có an ninh.

Buông lửa giác ngộ, đốt hoại thảy rừng tà ngày trước

Giác ngộ là một thứ lửa. Tính thức là một thứ lửa. Khi các thứ lửa đó được đốt lên thì tất cả rừng tà kiến ngày trước sẽ rần rần cháy hết. Buông lửa giác ngộ, buông tức là phóng, phóng giác ngộ hỏa. Mình có một rừng tà kiến rất rậm rạp, bao nhiêu cái thấy sai lầm của mình là một rừng tà kiến, và mình phải phóng lửa giác ngộ để cho nó đốt tan tành rừng tà kiến đó. Rừng đó nó có từ bao nhiêu kiếp trước, gọi là rừng tà ngày trước.

Đốt hoại thảy, thảy tức là hết, đốt và phá hủy tất cả rừng tà ngày trước.

Cầm kiếm trí tuệ quét cho không tính thức thủa nay

Giác ngộ là một thứ lửa, còn trí tuệ là một cây gươm. Người ta, nhất là trong Phật giáo Tây Tạng, thường tưởng tượng đức Văn Thù cầm một thanh gươm. Thanh gươm đó là thanh gươm trí tuệ. Thanh gươm trí tuệ đó có nhiệm vụ cắt đứt tất cả phiền não.

Này gươm trí tuệ mài đây,

Bao nhiêu phiền não cắt ngay cho rồi.

Đó là hai câu thơ trong tác phẩm Quan Âm Thị Kính.

Quét cho không tính thức thủa nay. Quét cho đến khi nào sạch không tính thức tức là cái tính của nhận thức sai lầm. "Thủa nay" tức là từ trước cho tới bây giờ.

Chữ thức đối lại với chữ trí, tại vì khi mà tâm của mình còn chứa chất nhiều vọng tưởng, nhiều tà kiến thì nó gọi là thức. Và khi những tà kiến, những vọng tưởng đã được chuyển hóa rồi thì cũng cái đó mà gọi là trí. Chuyển thức thành trí. Một bên là Vij((na (thức, conciousness), còn một bên là Praj(((trí, Wisdom hay Insight).

Vâng ơn thánh, xót mẹ cha, thờ thầy học đạo. Mến đức cồ, kiêng bùi ngọt, cầm giới ăn chay

Ơn của Bụt, đức của thánh, mình phải nhận thức được và mình phải biết quí chuộng. Thánh đây tức là The Holly Ones, các vị A La Hán, các vị Bồ tát, các vị Bụt đều có ơn với mình cả, và mình phải thấy được cái ơn đó, nhận thức được cái ơn đó, cho nên mình phải thương mẹ (xót là thương), thương cha, mình phải thờ thầy, mình phải học đạo. Thờ ở đây có nghĩa là sống một bên để phụng sự, sống bên thầy để thực tập đạo và đó là một cách thương mẹ, thương cha, và đền ơn của các bậc thánh.

Mến đức cồ, "cồ" có nghĩa là lớn lao. Có người giải thích rằng Cồ đây là Gotama (Cồ viết hoa), nhưng có lẽ không đúng. Mến đức cồ tức là mến cái đức lớn. Cái ơn kia là ơn rất thánh thiện, còn cái đức này là đức rất lớn lao.

Kiêng bùi ngọt tức là đừng ham ăn, đừng chạy theo các món ăn ngon. Nếu chạy theo các món ăn ngon thì đâu có thì giờ để làm chuyện kia? Cầm giới ăn chay, những thức ăn ngon kia tốn rất nhiều tiền, tốn rất nhiều thì giờ, vì vậy cho nên ta trì giới và ta ăn chay. Ăn chay để cho thân thể khỏe mạnh, ăn chay để có thì giờ nuôi dưỡng tâm từ bi. Và trì giới là để bảo hộ cho mình, để giữ tự do lại cho mình, tại vì nếu mất tự do thì không còn hạnh phúc nữa.

Cảm đức từ bi, để nhiều kiếp nguyền cho thân cận

Mình cảm vì cái đức từ bi của Bụt và mình mong ước rằng kiếp này sang kiếp khác mình được gần gũi Bụt và các vị Bồ tát. Để nhiều kiếp nguyền cho thân cận: Để cho được thân cận trong nhiều kiếp.

Đội ơn cứu độ, nát muôn thân thà chịu đắng cay

Ơn cứu độ của Bụt, của Bồ tát mình không thể nào quên được. Nếu cần nhiều hơn là một thân thể này, cần kiếp này sang kiếp khác dù có chịu những khổ nhục, những đắng cay thì mình vẫn đi theo con đường đó, tại vì con đường đó là con đường mình cứu độ được mẹ cha, cứu độ được tổ tiên, cứu độ được con cháu của mình.

Nghĩa hãy nhớ, đạo chăng quên, hương hoa cúng xem còn nên thảo

Mình phải nhớ tới cái nghĩa và mình đừng quên cái đạo. Nghĩa hãy nhớ, đạo chăng quên. Chăng tức là chẳng. Hương hoa cúng xem còn nên thảo. Mỗi ngày mình chỉ cần cúng dường một cây hương hay một đóa hoa thôi, không tốn kém gì cả. Nhưng nếu có đạo và có nghĩa thì phẩm vật cúng dường đó biểu lộ được lòng hiếu thảo của mình đối với tổ tiên, đối với Bụt, đối với các vị Bồ tát, đối với thầy.

Xem còn nên thảo. Thảo đây có nghĩa là hiếu thảo. Làm con, làm học trò, làm đệ tử phải có hiếu, có thảo. Hiếu thảo này không cần phải biểu lộ bằng tiền bạc, bằng ngọc vàng. Nó chỉ cần biểu lộ bằng sự đừng quên đạo, đừng quên nghĩa, thì một bông hoa hay một cây nhang là đủ để tỏ lòng hiếu thảo của mình.

Miệng rằng tin, lòng lại lỗi, vàng ngọc thờ cũng chửa hết ngay

Nếu cái miệng nói rằng mình tin vào đạo, mình tin vào nghĩa, mình tin vào Bụt, mình tin vào thầy, nhưng lòng lại lỗi, tức là cái tâm mình nó không chân thật. Mình không cố tâm tu chánh niệm, mình chỉ tu hình thức bên ngoài. Thấy người ta ngồi, mình cũng ngồi, thấy người ta đi, mình cũng đi, thấy người ta ăn cơm im lặng, mình cũng ăn cơm im lặng, nhưng mình không đem hết tâm để làm chuyện đó. Mình thật sự không có tín, do đó mình không có tấn, không có niệm, không có định, không có tuệ. Đó gọi là "miệng rằng tin, lòng lại lỗi".

Vậy thì trong trường hợp đó mình có làm chùa, làm tháp hay làm bàn thờ bằng vàng, bằng ngọc, thì cũng không biểu lộ được, không chỉ cho người ta thấy được cái "ngay" của mình. Chữ "ngay" ở đây không phải là một trợ từ, ngay ở đây là một danh từ, và nó đối với chữ thảo. Thảo và ngay. Ngay tức là sự thẳng thắn của mình. Dầu mình có vàng có ngọc để cúng dường đi nữa thì cái đó cũng không biểu lộ được cái tâm chân thật của mình.

Giáo pháp trong Hội thứ Bảy

Trong hội thứ Bảy này chúng ta học rằng khi bóng tối vô minh tan biến thì ánh sáng tự nhiên hiện rõ, nó soi sáng cho mình. Khi học tập mình phải dùng sự thông minh của mình, mình đừng kẹt vào trong chữ nghĩa, mình phải luôn luôn nhớ phá những tà kiến của mình, tại vì tà kiến của mình có cả rừng, và mình phải vun trồng cái tri kiến của Bụt. Một người tu thì phải biết ơn, biết nghĩa. Cái ơn nghĩa này không phải được trả bằng phẩm vật, mà nó phải được trả bằng sự thực tập của mình, sự ngay thẳng của mình, sự hiếu thảo của mình.

HỘI THỨ TÁM

Chưng ấy:

Chỉn xá tua rèn,

Chớ nên tuyệt học.

Lay ý thức chớ chấp trằng trằng.

Nén niềm vọng mựa còn xóc xóc.

Công danh mảng đắm, ấy toàn là những đứa ngây thơ,

Phúc tuệ gồm no, chỉn mới khá nên người thực cốc.

Dựng cầu đò, giồi chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu,

Săn hỷ xả, nhuyến từ bi, nội tự tại kinh lòng hằng đọc.

Rèn lòng làm Bụt, chỉn xá tua một sức giồi mài,

Đãi cát kén vàng, còn lại phải nhiều phen lựa lọc.

Xem kinh đọc lục, làm cho bằng thửa thấy thửa hay.

Trọng Bụt tu thân, dùng mựa lỗi một tơ một tóc.

Cùng nơi ngôn cú, chỉn chăng hề một phút ngại lo,

Rất thửa cơ quan, mựa còn để tám hơi lọt lọc.

Bình giảng Hội thứ Tám

Chưng ấy:
Chỉn xá tua rèn

Chưng ấy có nghĩa là bởi vì cớ ấy. Chỉn có nghĩa là chỉ, only. Xá là nên. Tua cũng là nên; rèn tức là tập luyện. Chỉ cần thực tập hàng ngày, luyện tập hàng ngày.

Chớ nên tuyệt học

Tuyệt tức là bỏ đi, chấm dứt đi, đừng nên bỏ chuyện học hỏi và thực tập.

Lay ý thức chớ chấp trằng trằng

Cái ý thức của mình nó hay nắm bắt, nó hay bị kẹt, vì vậy cho nên mình phải lay nó, lay nó để cho nó thức dậy. Chấp trằng trằng tức là ôm khư khư, ôm riết lấy nó, bị kẹt vào nó, chấp khư khư gọi là chấp trằng trằng.

Nén niềm vọng mựa còn xóc xóc

Niềm vọng tức là vọng niệm, mình phải đối phó với cái vọng niệm của mình. Vọng niệm nó nhiều như một khu rừng, đừng có xóc xóc tức là đừng có lăng xăng, nó không yên, nó trạo cử. Trạo cử là một trong những tâm sở xấu. Trạo cử là ngược lại với hôn trầm, nghĩa là buồn ngủ. Chữ nén ở đây có nghĩa là đừng để cho nó lộng hành, đừng để cho cái vọng niệm nó lộng hành. Nên quán chiếu nó, nên kiểm soát nó gọi là nén. Nén niềm vọng mựa còn xóc xóc. Chớ để cho nó trạo cử. Đây là đứng về phương diện ý thức mà nói.

Công danh mảng đắm, ấy toàn là những đứa ngây thơ

Công danh mảng đắm, mảng là mê mải chạy theo. Tay cầm bầu rượu nắm nem, mảng vui quên hết lời em dặn dò. Mảng tức là mê mảng. Mê vui nên quên hết tất cả những lời em dặn dò trước khi ra đi. Công danh mảng đắm, những người mê mải theo công danh và đắm chìm trong công danh, đó là những người ngây thơ. Tu học, mình có mục đích cao hơn, lớn hơn nhiều, hơn cái danh, hơn cái lợi. Sự thành công của mình nó phải là sự thành công của một bậc giác ngộ.

Sự thành công của mình là ở chỗ thực hiện được cái vững chãi, thảnh thơi, và an lạc trong con người của mình. Sự thành công của mình không phải là làm một cái chùa thật lớn, có lầu vàng điện ngọc, có những con rồng trên mái cong. Sự nghiệp của mình không phải là cái đó, không phải là một cái bằng cấp, một chức vị, dù là chức vị giáo thọ hay hòa thượng, hay là pháp chủ, hoặc viện trưởng một tu viện. Sự nghiệp của mình là thực hiện được sự vững chãi, sự thảnh thơi, sự an lạc trong trái tim của mình. Đó là sự thành công lớn. Mình làm thầy cho loài người và loài trời. Còn nếu mình bị hút theo đường công danh thì mình là những đứa ngây thơ. Đi tu rồi mà còn đi lo học đời, cố đậu bằng cử nhân, tiến sĩ, thì đó là công danh mảng đắm. Mình là những đứa ngây thơ.

Phúc tuệ gồm no, chỉn mới khá nên người thực cốc

"Gồm" tức là có cả hai cái, no tức là đầy đủ. Mình gồm cả hai cái và mình được no hai cái đó. Cái thứ nhất là phúc, cái thứ hai là tuệ. Phúc là merit, và tuệ tức là hiểu biết. Phúc là khi mình tạo ra được niềm vui, tạo ra được hạnh phúc cho nhiều người, nhiều loài. Tuệ là khi mình có được cái thấy của một vị Bồ tát.

Chúng ta thường nói có hai khía cạnh của sự tu học: Tu phước và tu huệ. Tu phước tức là để có những phước đức, và tu huệ là để có trí tuệ. Khi tu cả hai cái, ta gọi là phước huệ song tu. Chia ra làm hai nhưng kỳ thực là một, hễ có tuệ tức là có phúc, mà hễ có phúc thật tức là có tuệ.

Phúc tuệ gồm no, chỉn mới khá nên người thực cốc. Cốc có nghĩa là biết, là hiểu. Chỉ cái đó mới có thể làm cho mình trở thành con người hiểu biết, tức là người giác ngộ. Còn "thực cốc" mà hiểu là "ăn ngũ cốc" thì nguy quá!

Dựng cầu đò, giồi chiền tháp, ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu

Đứng về phương diện tướng, tức là bên ngoài thì có những công tác mình phải làm. Chỗ nào cần một cây cầu để vượt qua sông thì mình dựng cây cầu. Chừng nào cần có một con đò để đưa người qua sông thì mình thiết lập một con đò. Đó là những hạnh tu về phước, đem người ta lại với nhau bằng cách xây những cây cầu và thiết lập những con đò; hoặc hòa giải giữa cha mẹ và con cái, thì cũng như dựng những chiếc cầu.

Tại vì nếu mình làm cho cha hiểu được con, con hiểu được cha, hai cha con ôm nhau, thì đó là một cách xây cầu, làm đò. Đi qua cầu hiểu, tới cầu thương.

Dựng cầu đò giồi chiền tháp. Giồi tức là trau dồi, làm cho nó đẹp hơn, tốt hơn. Chiền tức là chùa, người ta gọi là chùa chiền. Chữ chiền nó do chữ thiền mà ra, thiền môn. Cửa chiền tức là cửa thiền, chiền là tiếng Việt, thiền là tiếng Hán Việt. Giồi chiền tháp tức là tu bổ chùa và tháp.

Ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu. Bên ngoài thì mình làm cho nó đẹp. Trang nghiêm là làm cho nó đẹp. Chữ "nghiêm" có nghĩa là làm đẹp,

Săn hỷ xả, nhuyến từ bi, nội tự tại kinh lòng hằng đọc

Săn ở đây không có nghĩa là hunting. Săn ở đây có nghĩa là săn sóc, taking care, chăm bón cho nó lớn lên. Chăm bón cái gì? Chăm bón niềm vui của mình, và cái không kỳ thị của mình, tức là xả. Hỷ tức là niềm vui trong tình thương, và xả là sự không kỳ thị trong tình thương. Dễ thương thì mình cũng thương, không dễ thương thì mình cũng cứ thương, đó gọi là xả. Chúng ta phải chăm bón cho hai cái đức hỷ và xả.

Săn hỷ xả, nhuyến từ bi. Nhuyến tức là làm cho nó mền mại, cho nó đẹp hơn. Thương là một nghệ thuật. Ban đầu nó còn hơi cứng, hơi có góc cạnh, nhưng từ từ thì nó sẽ tròn, sẽ mềm, sẽ dễ chịu. Nhuyến từ bi là vậy, làm cho nó nhuyễn, làm cho nó mềm mại lòng từ và lòng bi.

Nội tự tại kinh lòng hằng đọc. Ngoại tức là bên ngoài, nội ở đây là bên trong. Bên ngoài thì làm cho nó trang nghiêm, bên trong thì làm cho nó tự tại. Tự tại tức là tự do. Tự do là bản chất của từ, bi, hỷ, xả. Kinh lòng hằng đọc. Kinh lòng tức là tâm kinh. Có người phiên âm là kinh ruột. Nhưng đúng chữ của nó là kinh lòng, tâm kinh.

Ngoại trang nghiêm sự tướng hãy tu-Nội tự tại kinh lòng hằng đọc. Sáng nào chúng ta cũng đọc kinh Tinh Yếu Bát Nhã Ba La Mật Đa, và chúng ta đọc bằng miệng. Đại Sĩ khuyên chúng ta nên đọc bằng trái tim, đọc như thế nào để tâm kinh trở thành một dụng cụ phá tan những phiền não ở trong lòng để chúng ta có được tự do, tự tại.

Rèn lòng làm Bụt, chỉn xá tua một sức giồi mài

Rèn lòng tức là luyện cái tâm của mình. Hai chữ rèn lòng này làm cho mình nhớ tới kinh Tăng Nhất A Hàm, trong đó Bụt nói rằng: Có một pháp mà nếu không rèn luyện thì nó tạo ra rất nhiều đau khổ và phiền não. Pháp ấy là cái tâm.

Nếu cái tâm của mình không được rèn luyện, không được tu tập thì tâm đó sẽ gây rất nhiều đau khổ cho mình và cho người. Tiếp đó Bụt nói: Có một pháp mà nếu ta biết tu tập và rèn luyện thì sẽ gây được hạnh phúc rất nhiều cho mình và cho kẻ khác. Pháp đó là gì? Là tâm, và tâm đó có tính cách chói sáng.

Rèn lòng làm Bụt, chỉn xá tua một sức giồi mài. Chỉ cần có một cái thôi, một yếu tố thôi, đó là sự giồi mài. Giồi mài tức là công phu hàng ngày. Mài như là mài kim, mài đá. Giồi là làm cho nó mềm, làm cho nó tốt. Tâm của mình, mình phải giồi nó, mình phải mài nó, thì mình mới xài được. Còn để cho nó thô tháo thì tâm đó không xài được gì cả, nó làm cho đau khổ. Cho nên mình phải giồi, phải mài cái tâm của mình. Đó gọi là tu.

Trong này gọi là rèn lòng. Đó là tấn, đó là sức mạnh thứ hai trong năm sức mạnh, tức là ngũ lực: Tín, tấn, niệm, định, tuệ.

Đãi cát kén vàng, còn lại phải nhiều phen lựa lọc

Có những con suối người ta đồn rằng trong cát có vàng, thành ra ai cũng đến, dùng những cái rổ, hốt cát lên, rồi rữa trong dòng nước để bỏ hết tất cả bụi cát, còn lại là những hạt vàng. Muốn đãi cát kén vàng thì không thể mau chóng được, phải lựa, phải lọc rất nhiều phen. Đãi cát kén vàng còn lại phải nhiều phen lựa lọc. Lựa tức là sort it out. Lọc là filter.

Xem kinh đọc lục, làm cho bằng thửa thấy thửa hay

Kinh tức là những lời Bụt nói, lục là những ghi chép các lời của chư tổ. Khi xem kinh, đọc lục thì chúng ta phải làm thế nào để cho cái thấy của chúng ta ngang bằng với cái học của chúng ta. Thửa thấy thửa hay tức là tiếng Việt của hai tiếng Hán Việt Sở kiến và sở tri. Chữ "sở" ngày xưa ông cha chúng ta gọi là "thửa". Sở tức là đối tượng. "Thửa thấy" là đối tượng của cái thấy, và "thửa hay" là đối tượng của cái biết. Làm cho bằng, nghĩa là hai cái phải ngang nhau.

Nhiều khi chúng ta biết, nhưng chúng ta không hiểu, không thấy, tức là phần lý thuyết chúng ta rất giỏi, chúng ta thao thao bất tuyệt. Nhưng phần thực tập thì chúng ta còn thấp lắm, nghĩa là cái kinh nghiệm trực tiếp thì ta rất yếu. Vì vậy chỗ chúng ta thấy và chỗ chúng ta biết, phải làm cho hai cái đó bằng nhau.

Trọng Bụt tu thân, dùng mựa lỗi một tơ một tóc

Trọng tức là kính ngưỡng. Kính ngưỡng Bụt và tu tập bản thân của mình. Dùng mựa lỗi một tơ một tóc. "Dùng" tức là dừng lại. "Mựa" là đừng có, chớ. Chớ có làm lầm lỗi dù là một sợi tơ hay là một sợi tóc. Ý của Đại Sĩ là chúng ta đừng khinh thường những cái nhỏ nhặt, những cái lỗi nhỏ, những hành động rất nhỏ, những lời nói rất nhỏ, nếu nó không phù hợp với đạo mà chúng ta nói cái đó nhằm nhò gì thì không được, tại vì những cái lớnnó phát sinh từ những cái nhỏ.

Thí dụ chúng ta đạp lên một con kiến và chúng ta nói ồ nhằm nhò gì, lở đạp con kiến nó không quan trọng, chúng ta bỏ đi làm chuyện khác. Nhưng nếu thở vào một hơi, chúng ta phát khởi cái tâm từ bi đối với con kiến đó và chúng ta nói rằng kỳ sau chúng ta cẩn thận hơn, không làm như vậy nữa, thì lúc đó chúng ta mới đi đúng trên con đường của Bụt dạy.

Hoặc chúng ta nói một câu không có chánh niệm làm cho người sư em của mình đau khổ hay là động tâm, và mình nghĩ rằng câu nói đó có nhằm nhò gì, không cho là quan trọng thì không được. Tại vì mỗi cử chỉ, mỗi tư tưởng, mỗi lời nói nhỏ nhặt đều là quan trọng. Có nghĩa những cái lớn mới đáng chú ý, những cái nhỏ này không đáng chú ý, đó là lầm lỗi rất lớn của rất nhiều người. Đây là câu nói của Đại Sĩ: Dùng mựa lỗi một tơ một tóc.Phải biết những cái lỗi rất nhỏ của mình. Nếu bỏ qua, nếu khinh thường thì sau này mình sẽ làm những cái lỗi rất lớn.

Cùng nơi ngôn cú, chỉn chăng hề một phút ngại lo

Cùng nơi ngôn cú tức là phải đi cho đến tận cùng cái thế giới của ngôn ngữ, của văn cú. Cú là câu nói, ngôn là lời nói. Đừng để cho những lo ngại nó phát hiện về những phương pháp mà các tổ đã dùng, và chớ để cho tám cái ý niệm kia nó giam hãm mình, nó phá phách, nó đi ra đi vào. "Lọt lọc" tức là nó đi ra đi vào, nó tung hoành, nó phá phách mình. Tám hơi tức là tám ý niệm căn bản. Chúng ta thường bị tám cái ý niệm căn bản đó làm cho bí lối, dẫn chúng ta đi lạc đường. Vì vậy chúng ta phải nắm cho vững những cái cơ quan của các vị tổ để thoát ra khỏi tình trạng mà trong đó tám cái ý niệm nó đi ra, đi vào, nó công phá ta. Tám ý niệm đó là ý niệm sinh là một, diệt là hai, thường là ba, đoạn là bốn, tới là năm, đi là sáu, một là bảy, và khác là tám. Bất sanh, bất diệt, bất thường, bất đoạn, bất lai, bất khứ, bất nhất, bất nhị là tám cái "không". "Tám hơi" là tám cái. Những cơ quan của các vị tổ sử dụng, mình phải nắm cho được, mình phải thực tập cho được tới nơi tới chốn để mình đừng bị kẹt vào trong cái thế mà tám cái đó nó còn phá phách, nó còn đi ra, đi vào, nó còn quản thúc mình.

Rất thửa cơ quan, mựa còn để tám hơi lọt lọc

Nghĩa là đứng về phương diện ngôn cú mình phải đi cho đến nơi đến chốn, đừng để cho một phút nào bị những cái ngôn, cái cú đó nó làm ngăn ngại để cho mình lo lắng. Đứng về phương diện các công án, các thoại đầu của các tổ thì mình phải nắm cho vững, phải thực hành cho thấu suốt để đừng bị điên đảo bởi tám cái ý niệm căn bản.

Giáo pháp trong Hội thứ Tám

Trong hội thứ Tám chúng ta học rằng người tu phải chuyên tâm thực tập hàng ngày. Ý thức của mình nó hay nắm bắt, vọng niệm của mình thì nhiều như một khu rừng, cho nên ta phải luôn lay cho nó thức dậy.

Sự tu học phải chú trọng đến cả hai khía cạnh tu phước và tu huệ thì mới dễ thành đạt quả vị Bồ đề.

HỘI THỨ CHÍN

Hội thứ Chín khó là Hội rất khó vì có nhiều điển tích! Trong hội thứ Chín chúng ta sẽ nghe một số công án, và những truyền thuyết về các vị tổ sư thiền ở Trung Hoa.

Vậy cho hay:
Cơ quan tổ giáo;
Tuy khác nhiều đàng,
Chẳng cách mấy gang.
Chỉn xá nói từ sau Mã Tổ;
Ắt đã quên thủa trước Tiêu Hoàng,
Công đức toàn vô, tính chấp si càng thêm lỗi;
Khuếch nhiên bất thức, tai ngu mảng ắt còn vang.
Sinh Thiên Trúc, chết Thiếu Lâm, chôn dối chân non Hung Nhĩ;
Thân bồ đề, lòng minh kính, bài giơ mặt vách hành lang.
Vương lão chém mèo, lượt trẩy lòng ngừa thủ tọa;
Thầy Hồ khua chó, trỏ xem trí nhẹ con giàng.
Chợ Lư Lăng gạo mắt quá ư, chẳng cho mà cả;
Sở Thạch Đầu đá trơn hết tấc, khôn đến thưa đang.
Phá Táo cất cờ, đạp xuống dấu thiêng thành miếu;
Câu Chi dơ ngón, dùng đòi nếp cũ ông ang.
Lưỡi gươm Lâm Tế, nạng Bi Ma, trước nạp tăng no dầu tự tại;
Sư tử ông Đoan, trâu thầy Hựu, răn đàn việt hượm xá nghênh ngang.
Đưa phiến tử, cất trúc bề, nghiệm kẻ học cơ quan nhẹ nhẵn;
Xô hồn cầu, cầm mộc thược, bạn thiền hòa chước móc khoe khoang.
Thuyền Tử rà chèo, dòng xanh chửa cho tịn tẩy;
Đạo Ngô múa hốt, càn ma dường thấy quái quàng.
Rồng Yển lão nuốt càn khôn, ta xem chỉn lệ;
Rắn ông Tồn ngang thế giới, người thấy ắt giang. Cây bách là lòng, thác ra trước phải phương Thái Bạch;
Bính đinh thuộc hỏa, lại trở sau lỗi hướng thiên cang.
Trà Triệu lão, bánh Thiều Dương, bầy thiền tử hãy còn đói khát;
Ruộng Tào Khê, vườn Thiếu Thất, chúng nạp tăng những để lưu hoang.
Gieo bó củi, nảy bông đèn, nhân mang mới nát;
Lộc đào hoa, nghe tiếng trúc, mặc vẻ mà sang.

Bình giảng Hội thứ Chín

Vậy cho hay:
Cơ quan tổ giáo

Vậy cho hay nghĩa là cho nên chúng ta biết rằng. Cơ quan tổ giáo tức là những cái then máy, những biện pháp, những phương tiện mà chư tổ đã sử dụng để tháo gỡ những cái kẹt ở trong tâm ta gọi là cơ quan tổ giáo.

Thường thường khi làm việc hàng ngày chúng ta sử dụng những dụng cụ như là tournevis để tháo gỡ những cái đang còn bị kẹt. Có khi chúng ta dùng sợi chỉ, có khi chúng ta dùng sợi dây, có khi chúng ta dùng một cái kim. Tất cả những cái đó là những phương pháp để gỡ kẹt.

Tâm của chúng ta cũng có những chỗ kẹt, và thầy ta là ông thợ chuyên môn để gỡ giùm tâm của ta. Sống với thầy thì thầy ta có bổn phận phải quán chiếu cái tâm của ta và biết rằng tâm của ta bị kẹt ở những chỗ nào, và thầy ta sẽ dùng một cái tournevis hay là một sợi dây, một cái móc, hay một cái kim để có thể gỡ được những chỗ kẹt ở trong ta.

Những công án, những thoại đầu, những tiếng hét, những cây gậy, những cái đá, đôi khi những cái đạp nữa, đều là những cơ quan, những cái then máy. Nếu chúng ta không hiểu đó là những then máy thì chúng ta có thể buồn, chúng ta có thể khổ, chúng ta có thể nói rằng tại sao thầy không đối xử với mình một cách dễ thương? Đây không phải là vấn đề dễ thương hay không dễ thương. Đây là vấn đề gỡ kẹt cho mình. "Tổ giáo" là cách giáo huấn của chư tổ.

Tuy khác nhiều đàng.
Chẳng cách mấy gang

Có nhiều cái rất khác nhau, nhưng chẳng cách mấy gang, nghĩa là tuy khác như vậy nhưng chẳng xa nhau bao nhiêu. Gang là gang bàn tay, đôi khi nó chỉ cách hai gang thôi. Có khi nó cách có một phần tư gang, nghĩa là các phương pháp đó tuy rất khác nhau, nhưng kỳ thật chúng giống nhau. Giống nhau ở mục đích, ở phương pháp.

Chỉn xá nói từ sau Mã Tổ

"Chỉn xá nói" nghĩa là chúng ta chỉ nên nói những gì đã xảy ra từ sau thiền sư Mã Tổ. Nghĩa là chúng ta hãy duyệt lại một số những cơ quan mà các vị tổ sư thiền đã dùng, để chúng ta biết qua cách tu tập của chư tổ, và chúng ta bắt đầu từ thiền sư Mã Tổ. Mã Tổ Đạo Nhất là một thiền sư rất nổi tiếng.

Mã Tổ Đạo Nhất sinh năm 707, tịch năm 786, cùng với thiền sư Thạch Đầu, Hy Thiên là hai thiền sư rất nổi tiếng khác. Thường thường người ta gọi hai vị này là Long Tượng, tức là con rồng, con voi của thiền môn, có nghĩa là những thiền sư cỡ lớn trong cửa thiền.

Ắt đã quên thủa trước Tiêu Hoàng

Tiêu Hoàng là vua Lương Vũ Đế. Vua Lương Vũ Đế sống trong thời đại gọi là Nam Bắc triều. Vua là người đã được gặp tổ sư Bồ-Đề Đạt-Ma khi tổ vừa ở Tây Trúc sang. Lương Vũ Đế tên là Tiêu Diễn cho nên được gọi là Tiêu Hoàng. Chúng ta không cần nói tới những điều đã xảy ra trước thời vua Tiêu Hoàng. Đại Sĩ nói rằng Đại Sĩ sẽ kể cho mình nghe một số chuyện xẩy ra trong vườn thiền như phương pháp các vị tổ sư tiếp độ học chúng. Nhưng Đại Sĩ sẽ không kể những chuyện xảy ra trước khi Bồ-Đề Đạt-Ma đi vào đất Lương, đất Ngụy.

Vua Lương Vũ Đế ban đầu sùng đạo Nho, nhưng sau thì rất sùng đạo Bụt và đã học hỏi, đã hành đạo rất nhiều. Vì vậy khi nghe tiếng thầy Bồ-Đề Đạt-Ma đến nước lớn thì vua mời tới để tiếp kiến.

Chúng ta chỉ nên nói những chuyện đã xảy ra từ sau thiền sư Mã Tổ, và nên quên đi những chuyện đã xảy ra thủa trước, tại vì nhiều quá. Thủa trước tức là trước khi Tiêu Hoàng lên ngôi.

Công đức toàn vô, tính chấp si càng thêm lỗi

Công đức toàn vô là không có công đức gì hết! Đó là lời tuyên bố của tổ Bồ-Đề Đạt-Ma trong cuộc đối thoại với vua Lương Vũ Đế. Đó là một gáo nước lạnh thiền sư dội lên cho vua. Giống như bây giờ có sư chú, sư cô nào đã học bốn năm năm, thấy mình khá giỏi, nhưng khi hỏi thì thầy nói Con chưa biết gì hết! Như vậy thì mình chịu không nổi!

Khổng Tử nói rằng: "Biết rằng mình không biết, là bắt đầu biết rồi". Còn người nói mình đã biết rồi tức là người đó chưa biết!

Tính chấp suy càng thêm lỗi nghĩa là cái khuynh hướng, cái thói quen bị kẹt nó làm cho cái si mê của mình, cái vô minh của mình càng ngày càng nặng. Vì vậy bốn chữ Công đức toàn vô (nghĩa là chẳng có công đức gì hết) giáng xuống như một cái búa để cho ông vua tá hỏa tam tinh, họa may có thể thoát ra được cái ý niệm mình là vị Bồ tát đã từng ủng hộ Phật pháp hết mình.

Trong các nước Phật giáo nhà vua thường được xưng tụng là Hộ quốc Nhân vương, tức là một vị Bồ tát. Trong các chùa ở Việt Nam cũng như ở Trung Quốc, mỗi ngày rằm, mồng một thì có lễ chúc tán, các thầy luôn luôn cầu nguyện cho nhà vua. Đó là một vị Bồ tát Hộ Pháp trong nước, Hộ quốc Nhân Vương Bồ tát. Cả nước đều chúc tụng vua như là một vị Bồ tát Hộ Pháp. Bây giờ ông thầy chùa bá vơ nào mới ở Ấn Độ qua, mà lại dám nói rằng vua chẳng có công đức nào cả, cho nên mình rất giận!

Khuếch nhiên bất thức, tai ngu mảng ắt còn vang

Khuếch nhiên có nghĩa là mênh mông, như là hạo nhiên. Bất thức là không biết. Vua hỏi thiền sư:

-Đệ nhất Thánh đế là gì? Đệ nhất là cao hơn hết. Thánh đế là Holly truth. Tại vì vua cũng đã học kinh, vua cũng biết có những chân lý tương đối, có những chân lý tuyệt đối, và vua rất thích chân lý tuyệt đối, tại vì mình là học giả cao mà! Nói toàn chuyện bản môn không thôi, trong khi đó thì tích môn mình chưa nắm vững được, chưa có an lạc. Với câu hỏi đó vua cũng muốn trình bày, muốn khoe khoang cái hiểu biết của mình, giống như vị thiền sinh đó lên hỏi thầy Triều Châu rằng con chó có Phật tánh không? Chàng có ý cho thầy hay rằng mình cũng biết tất cả mọi loài đều có Phật tánh. Cho nên câu hỏi "con chó có Phật tánh không", đó không phải là câu hỏi, mà chỉ là một cách khoe thầy rằng mình cũng biết về lý thuyết Tất cả mọi loài chúng sanh đều có Phật tánh. Cho nên thầy Tiều Châu mới trả lời là: Không có! Nếu thầy nói "Có, con giỏi lắm" thì chú điệu đó đâu có lớn lên được! Chú càng chấp thêm một ý niệm nữa! Cho nên thầy nói: Bậy nà, chó làm gì có Phật tánh! Nói như vậy thì chú thất điên bát đảo, đó là ngôn ngữ của thiền.

Bạch thiền sư, thế nào gọi là chân lý linh thiêng, cao cả nhất, đệ nhất thánh đế? Đế là sự thật, không thể nào bẻ gãy được. Một câu của vua nói ra thì không thể nào không đúng được. Tổ Bồ-Đề Đạt-Ma trả lời:

-Quách nhiên vô thánh? (Có cái gì thiêng liêng đâu?) Đó là gáo nước thứ hai. Gáo thứ nhất là Công đức toàn vô. Gáo thứ hai là Quách nhiên vô thánh. Quách nhiên là nó mênh mông. Vô thánh là không có gì thiêng liêng hết. Người ta thường dịch là Absolute emptiness, there is no Holly. Nhưng khi tôi đọc câu này thì tôi hiểu là chẳng có cái gì là thánh! Hoàn toàn không có cái gì là thánh hết. Tại vì chữ "quách nhiên" nó có vẻ như là tuyệt đối. There is absolutely nothing Holly. Tuyệt đối không có gì gọi là thánh cả, tại vì vua bị kẹt vào chữ thánh đế, tức là sự thật tuyệt đối. Phàm đế là sự thật ở ngoài đời, còn gọi là tục đế, tức là sự thật tương đối.

Cố nhiên khi học Phật là mình chỉ thích sự thật tuyệt đối, đâu có thích tục đế làm gì? Có hai cái, tại sao mình lại không chọn cái oai hơn? Vua cũng như mình vậy thôi, chỉ ưa nói chuyện bản môn! Vì vậy mà vua bị kẹt vào ý niệm tuyệt đối. Cho nên câu trả lời của tổ là "Không có cái gì là thánh hết, không có cái gì linh thiêng hết, cái gì cũng như nhau thôi!" Đó là gáo nước thứ hai. Vì vậy mà tôi dịch là There is absolutely nothing Holly. Còn nếu dịch là Absolute emptiness, there is no Holly, thì hơi buồn cười vì hai cái đó không dính gì nhau cả.

Cũng như khi nói "Thế nào là pháp thân thanh tịnh?". Tuệ Trung Thượng Sĩ nói: "Nước tiểu của con ngựa là pháp thân thanh tịnh". Tại vì người hỏi bị kẹt vào chữ thanh tịnh. Pháp thân thì làm gì có dơ có sạch mà nói pháp thân thanh tịnh? Vì vậy mà Tuệ Trung nói bãi phân trâu, bãi nước đái của con ngựa là pháp thân thanh tịnh! Đó là một cách để gỡ một khái niệm: "Pháp thân thì nó phải thanh tịnh, còn những cái không thanh tịnh thì không phải là pháp thân". Ví dụ như bãi phân trâu hay nước tiểu của con ngựa. Như vậy là lưỡng nguyên.

Đi tìm cái thanh tịnh ở ngoài cái không thanh tịnh là một lỗi lầm rất lớn. Thành ra vị thiền giả bị kẹt vào ý niệm thanh tịnh thì được Tuệ Trung Thượng Sĩ dùng một cái then máy gọi là "Vũng nước đái của con ngựa" để mà tháo gỡ. Còn vua Lương Vũ Đế bị kẹt vào ý niệm thánh đế thì thiền sư Bồ-Đề Đạt-Ma dùng cái then máy gọi là "Vô thánh", absolutely nothing Holly.

Khuếch nhiên bất thức. Khuếch nhiên là một cái, bất thức là cái thứ hai. Bất thức là khi nghe như vậy rồi thì vua vẫn chưa hiểu được, vua bèn nói:

-Vậy thì người đang đối thoại với trẫm là ai vậy? Ngài là ai mà lại dám nói ra những câu không đúng với kinh sách như vậy? Cái ý có thể là như vậy. Bồ-Đề Đạt-Ma trả lời:

-Bất thức (Không biết). Bất thức là gáo nước lạnh thứ ba! Hai chữ bất thức này trở nên rất nổi tiếng. Nếu vào các thiền viện, đi tìm một hồi thì thế nào cũng tìm ra hai chữ "bất thức" viết và treo ở đâu đó. Người ta vẽ một thầy Bồ-Đề Đạt-Ma với hai con mắt to như hai con ốc nhồi, ở dưới đề "Bất thức!" Tranh đó đi tìm ở thiền viện nào cũng có. Bất thức có nghĩa là tôi không biết. Nhưng rốt cuộc những câu này cũng thành những câu làm cho người ta bị kẹt rất nhiều.

Từ khi Bồ-Đề Đạt-Ma qua Trung Quốc, thầy đã tạo ra ba cái bẫy, và không biết bao nhiêu người Trung Hoa và người Việt Nam bị kẹt vào ba cái bẫy đó. Cho nên bây giờ mình phải có một cái then máy khác để gỡ rối. Tại vì mình dùng cái then máy để gỡ giùm cho người ta, nhưng đôi khi người ta lại kẹt vào cái then máy của mình!

Ví dụ ngón tay của mình dùng để chỉ mặt trăng, tại vì cậu bé không thấy mặt trăng. Nó nói trăng ở đâu mà sư ông cứ nói trăng hoài, con có thấy gì đâu? Thì sư ông mới đưa ngón tay ra chỉ về phía mặt trăng, nhưng cậu bé tưởng ngón tay này là mặt trăng, nên nói: Trăng gì mà kỳ vậy!?

Vì vậy cho nên những cái then máy nó trở thành đối tượng của sự thực tập. Do đó ta phải có khả năng đốt cháy những cái then máy. Còn nếu ta chỉ là những người hiếu thảo, tổ nói gì nghe đó, không dám sai lời, thì chúng ta lại kẹt thêm một lần nữa! Đã kẹt vào cái kia rồi, tổ đưa cho một cái then máy để gỡ, mình kẹt luôn vào cái then máy đó, tức là kẹt thêm một lần thứ hai.

Vì vậy người thiền sinh là phải thông minh. Hồi thiền sư Triều Châu còn tại thế, có một thiền sinh đến hỏi ngài rằng: Bạch thầy cái chủ đích của tổ Đạt-Ma khi qua Trung Quốc là để làm gì? Tổ Triều Châu thấy chú này theo đòi phong trào, tại vì câu hỏi đó là một câu rất phổ thông trong thiền giới, nó trở thành một công án rất nổi tiếng, cho nên tổ chán quá nên hỏi lại: Chú có thấy cây tùng ở trước sân không? Đình tiền bách thọ tử? Đình tiền là trước sân. Bách thọ là cây tùng. Tại vì ở trước sân có mấy cây tùng rất đẹp, vậy mà đi ra đi vào không thấy nó mà cái đầu chỉ bị kẹt vào chuyện thầy Đạt-Ma qua đây làm gì! Sống không có ý thức, không thấy được cái đẹp, không thấy được cái mầu nhiệm, không về được quê hương mà chỉ bị kẹt vào những ý niệm về giáo lý. Cho nên thầy Tiều Châu mới nói sư chú nhìn cây tùng trước sân kìa, đẹp biết bao nhiêu mà kể! Thành ra cây tùng đó là một cái then máy, không biết chú đó thực tập ra làm sao. Về ngồi thiền và nói: Cây tùng, cây tùng, cây tùng, cây tùng trước sân! Có thể là hành động một cách thiếu thông minh như vậy! Đâu biết được! Ở đời này có nhiều người thực tập như vậy đó. Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô A Di Đà Phật... Trong khi đó trong lòng thì không có Phật gì hết. Trong lòng vẫn có những cái phiền não.

Chúng ta tụng Lăng Nghiêm hay tụng Bát Nhã, nhiều khi chúng ta chỉ hát mà chơi vậy thôi, trong tâm chúng ta không có định, không có niệm, thì những cái đó nó trở thành những cái kẹt của chúng ta, thành ra mình đừng cười. Đôi khi mình chính là anh chàng đó, mình chính là cô nàng đó, mình cũng đang bị kẹt vào các then máy của các vị tổ.

Các vị có biết rằng các vị làm khổ chúng con không? Các vị đã làm ra những then máy và bây giờ chúng con kẹt cứng vào những chỗ đó. Mà ý của các vị là để gỡ cho chúng con khỏi kẹt. Ai dè chúng con đã kẹt một lần rồi, lại kẹt thêm một lần thứ hai.

Đình tiền bách thọ tử trở thành một công án rất nổi tiếng trong tỉnh Hà Bắc. Rồi nổi tiếng luôn cả nước Trung Quốc. Cho đến nỗi có một thầy ở cách đó tới mấy ngàn cây số, nghe tiếng công án "Cây tùng trước sân" mới lấy làm thích thú, chống gậy lên đường đi lên miền Bắc để gặp thiền sư Triều Châu mà hỏi cho ra công án "Cây tùng trước sân". Nhưng rủi thay, khi tới được chùa của thầy Triều Châu thì thầy đã tịch rồi. Buồn quá ông khóc than, nên có người mách nước: Thầy tịch rồi thì tới tham vấn với đệ tử lớn của thầy.

Ông ta mừng quá, vào gặp vị chủ tòa và nói: Bạch ngài, xin ngài cho con biết thế nào là cây tùng trước sân. Thầy chủ tòa nói: Cây tùng nào vậy? Tôi đâu có nghe nói đến cây tùng hồi nào? Vị tăng khách ngạc nhiên hết sức, tại vì cái công án "Cây tùng trước sân" nó nổi tiếng cho đến nỗi tất cả nước đều nghe, mà tại sao ngay chùa gốc, vị chủ tòa lại không nghe nói tới cây tùng trước sân? Đó là chuyện không thể nào tưởng tượng được!

-Thầy không biết há? Cả nước nói tới chuyện đó, mà ngay tại chùa chính này thầy lại không biết có chuyện đó, thì con không thể nào tin được! Ông đâu biết rằng thầy chủ tòa đang muốn gỡ kẹt cho ông. Thầy chủ tòa bèn nhìn vào trong mắt của vị khách tăng và nói:

-Thầy tôi chưa bao giờ nói tới cây tùng trước sân cả, thầy đừng vu oan giá họa cho thầy tôi như vậy. Ông kia hoàn toàn mất hướng, không biết làm gì cả!

Thầy chủ tòa rất thông minh, thầy biết rằng ông tăng khách này đã bị kẹt quá sâu vào cái công án cây tùng, cho nên thầy đã tìm cách gỡ giùm cho ông ta. Bề ngoài thì giống như thầy nói láo hay thầy thật sự không biết, nhưng kỳ thực thầy biết rằng biết bao nhiêu người đã ngã quỵ, đã bị kẹt vào công án cây tùng.

Năm ngoái khi thầy trò Làng Mai chúng tôi gần 20 người đến thăm, bước vào chùa của thầy Triều Châu ở Hà Bắc thì thấy trước cổng đề tên chùa là Bách Lâm Tự. Bách tức là cây tùng, Lâm là rừng, Chùa Rừng Tùng. Tôi mới quay lại nói với các thầy, các sư cô: Một cây tùng mà người ta đã chết rồi, người ta đã khổ vì kẹt như vậy rồi, nay là một rừng tùng thì người ta sẽ khổ biết bao nhiêu mà kể!

Tới thăm chùa Bách Lâm Tự tôi nói một pháp thoại cho đại chúng ở chùa và tôi tìm cách để đốn tất cả những cây tùng đi. Tôi đã nói rằng chúng tôi ở xa tới không có quà gì lớn, chỉ có cái cưa để lại đây. Quí vị nên cưa hết tất cả những cây tùng ở đây đi! Đó là giúp tổ, đó là có hiếu với tổ.

"Bất thức" là không biết. Người đối diện với trẫm là ai vậy? Tổ trả lời: Tôi không biết! Sau buổi đàm thoại đó thì cả hai bên đều không cảm thấy hài lòng, và thầy Bồ-Đề Đạt-Ma bỏ nước Lương, vượt sông sang nước Ngụy. Sau đó Lương Vũ Đế thuật lại cuộc đối thoại cho một ông quan tên là Chí Công. Chí Công hỏi:

-Bệ hạ có biết người đó là ai chăng? Làm như là ông ta có biết! Vua Lương Vũ Đế nói:

-Không biết. Chí Công nói:

-Đó là hiện thân của đức Quan Thế Âm Bồ tát, đi sang đây để truyền tâm ấn của Bụt. Nghe nói như vậy, vua Lương Vũ Đế mới hối hận, bèn cử một phái đoàn đuổi theo để mời thầy Bồ-Đề Đạt-Ma trở lại. Chí Công mới nói rằng:

-Tâu bệ hạ, vô ích! Dù tất cả mấy trăm triệu dân nước này, đuổi theo khóc lóc chưa chắc người đó đã trở lại, huống hồ là gởi một phái đoàn. Vua nghe vậy nên không gởi phái đoàn nữa. Đó là những điều đã được ghi chép lại trong sách sử.

Khi nghe những câu chuyện như vậy chúng ta phải cẩn thận, tại vì câu chuyện đó có thể là một cái then máy. Có thể nó không phải là sự thật mà nó chỉ phản ảnh ý nguyện của người kể chuyện để giúp ta tháo gỡ một cái kẹt mà thôi. Nếu lôi thôi thì chúng ta cũng sẽ bị kẹt vào cái đó luôn! Dễ lắm, chúng ta sinh ra là để bị kẹt mà, phải không?

Khi nghiên cứu sử liệu, người ta thấy rằng Chí Công qua đời năm 514. Mà Bồ-Đề Đạt-Ma mãi đến năm 520 mới bước chân vào đất Ngụy. Vậy thì làm sao có chuyện này xảy ra?

Thành ra khi nhìn vào công án này, chúng ta phải xét cái tâm của người kể chuyện, chứ đừng bị kẹt vào cái ý niệm đây là chuyện thật đã xảy ra. Chúng ta cũng đừng vội tin vào ý niệm Lương Vũ Đế là người như thế đó, và Bồ-Đề Đạt-Ma là người như thế kia. Chưa chắc là đúng.

Khi Bồ-Đề Đạt-Ma vượt sông đi lên nước Ngụy ở miền Bắc thì tổ không tiếp xúc với ai hết. Chín năm ngài ngồi quay mặt vào vách.

Tại sao lại phải ngồi quay mặt vào vách đến 9 năm? Đó là câu hỏi mà tôi đã đặt ra. Nếu quả thật mình đã giác ngộ rồi, mình đã có niềm vui, mình đã có tuệ giác, mình đã có hạnh phúc rồi, thì tại sao không dùng 9 năm đó để hóa độ mà lại ngồi quay mặt vào vách? Hay là vì vua Lương Vũ Đế hỏi một câu mà tổ không trả lời được: "Người ngồi trước mặt tôi là ai?" "Không biết!" Chữ "không biết" đó có thể là rất thành thật! Tôi chưa tìm ra được tôi. Vì vậy mà tôi phải ngồi đến 9 năm để tìm ra tôi!

Chúng ta là học trò, chúng ta là thiền giả, chúng ta phải dùng trí tuệ của chúng ta, tại vì mình đâu có gì nữa? Mình chỉ có sự quán chiếu và trí tuệ của mình. Mình đâu phải là tín đồ mà ai nói gì cũng phải nghe. Rất nhiều điều trong kinh sách, trong các bộ luận, đôi khi trái chống nhau, tại sao chúng ta phải gánh hết tất cả những cái đó trên hai vai của chúng ta? Chúng ta phải có tự do, phải có khả năng quán chiếu. Tại sao tổ vào nước Ngụy ngồi quay mặt vào vách trong 9 năm? Nếu đó không phải là để giải quyết một cái công án, một cái then máy mà do chính Lương Vũ Đế đưa ra? Ai đóng vai thiền sư trong câu chuyện này, Lương Vũ Đế hay Bồ-Đề Đạt-Ma? Xin mời đại chúng tham khảo.

Sau đó, vì tổ Bồ-Đề Đạt-Ma ngồi cữu niên diện bích, cho nên người ta gọi thầy là ông "Bà La Môn ngồi quay mặt vào vách". Chín năm sau mới có một thiền sinh tên là Huệ Khả đi tới, nhưng đó là chuyện của hồi sau phân giải. Bây giờ chúng ta trở lại với Hội thứ Chín.

Công đức toàn vô, tính chấp si càng thêm lỗi. Khuếch nhiên bất thức, tai ngu mảng ắt còn vang. Tai của mình là tai của người ngu, tức chưa phải là tai có thể nghe và hiểu được, gọi là tai ngu. Câu trên là tính chấp, còn câu dưới là tai ngu. "Mảng" là một chữ cổ, có nghĩa là nghe. Ví dụ như trong câu "Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng" tức là nghe tin thì xiết nỗi kinh hoàng. Tai ngu mảng ắt còn mang, cái lỗ tai u mê của mình, khi nghe những chữ đó thì âm hưởng của nó còn lưu lại trong đầu mình.

Công đức toàn vô; Quách nhiên vô thánh; Bất thức v.v..., những tiếng đó dội lại trong lỗ tai ngu của mình, và chúng ở lại với mình rất lâu! Nếu thông minh thì mình có thể sử dụng được những chữ đó làm phương tiện để gỡ kẹt của mình.

Sinh Thiên Trúc, chết Thiếu Lâm, chôn dối chân non Hung Nhĩ

Sinh Thiên Trúc, chết Thiếu Lâm, là nói về tổ Bồ-Đề Đạt-Ma, sơ tổ của thiền tông Trung Quốc. Ngài sinh ở bên nước Thiên Trúc, chết ở chùa Thiếu Lâm, và chôn một cách dối dối, không kỹ lắm ở chân núi Hung Nhĩ. Núi Hung Nhĩ rất nổi tiếng. Người ta đồn rằng sau khi chôn thiền sư rồi thì có người gặp thiền sư đang vượt biển trở về Ấn Độ, và chỉ mang theo có một chiếc dép. Cho nên người ta tới chân núi Hung Nhĩ, đào ngôi mộ của ngài lên, giở nắp hòm ra thì không thấy thiền sư mà chỉ thấy có chiếc dép thứ hai mà thôi. Đó là những truyền kỳ người ta đã xây dựng chung quanh nhân vật Bồ-Đề Đạt-ma. Tức là ngài không chết, ngài trở về Thiên Trúc.

Trong khi đó thiền sư Thường Chiếu của chúng ta, lúc đệ tử hỏi: Bạch thiền sư, một người đắc đạo như thiền sư mà cũng phải tùy chết đi như thế tục hay sao? Tức là ông ta muốn so sánh Bồ-Đề Đạt-Ma làm được như vậy thì thầy của mình có làm được như vậy không? Thiền sư Thường Chiếu nói: Tại vì ta muốn giống như mọi người cho vui! Đó cũng là một cách trả lời. Thiền sư không nói những chuyện kia là chuyện người ta bịa đặt ra, không ích lợi gì cả.

Có thiền sư còn nói đừng nghe những tiếng chó sủa trăng làm gì cho mệt! Họ đặt ra những chuyện đó! Ví dụ như chuyện từ cái thất của tổ sư, ban đêm tôi thấy ánh hào quang chiếu ra! Đó là những điều không quan trọng bằng chuyện anh có thể gỡ được những cái kẹt hôm nay của anh để anh đừng có buồn, đừng có giận, đừng có ganh, đừng có chấp. Làm được những cái đó còn quan trọng hơn là anh phóng hào quang! Tại nếu cần ánh sáng thì anh có thể mượn sư em, sư chị cái đèn pin để dùng!

Thân bồ đề, lòng minh kính, bài giơ mặt vách hành lang

Ai cũng biết câu này là nói về tổ thứ Sáu. Tổ thứ Năm là Hoằng Nhẫn, có nhiều học trò giỏi, trong đó có một vị thương tọa tên là Thần Tú. Ngài là một vị giáo thọ lớn, thường thay thầy để nói pháp thoại cho đại chúng và là người anh cả trong tăng thân mà ai cũng thương, cũng kính phục.

Một hôm Hoằng Nhẫn nói rằng: Bây giờ các con trong đại chúng mỗi người làm cho thầy một bài kệ kiến giải, tại vì thầy muốn trao truyền cái tâm ấn của thầy cho người làm bài kệ kiến giải hay nhất. Tức là thiền sư cho làm bài thi! Và người nào làm được bài kệ kiến giải hay nhất là sẽ thừa kế cái pháp của thầy, sẽ nhận áo Cà-sa của thầy, và cái bình bát của thầy.

Mọi người đều nôn nao, nhưng có nhiều người có mặc cảm: Sức mấy mà mình được tiếp thọ cái y bát đó. Có những thầy quá giỏi như thầy Thần Tú, mình sức mấy mà chen vào đó được! Cho nên nhiều người không chịu làm. Thầy Thần Tú cũng có làm một bài nhưng thầy không trình lên, tại vì thầy thấy các sư em mình có nhiều người giỏi mà tại sao họ không làm? Cho nên tuy làm rồi, nhưng thầy cất trong túi áo.

Một hôm tổ thứ Năm nhắc: Sao lâu quá mà chưa ai trình kệ kiến giải cả vậy? Hôm đó thầy Thần Tú mới trình bài kệ kiến giải của mình. Tôi không nhớ thầy viết lên vách hay viết trên một miếng giấy. Có lẽ thầy viết trên miếng giấy rồi dán lên vách để cho nhiều người đọc. Bài kệ kiến giải đó là:

Thân thị bồ đề thụ.

Tâm như minh kính đài.

Thời thời thường phất thức.

Mạc sử nhã trần ai.

Thân mình là một cây Bồ đề, tâm của mình thì như một đài gương sáng. Phải luôn luôn (thời thời) cần (nghĩa là thường) phải phủi lau (phất) nó, lau chùi nó, phất thức có nghĩa là vậy. Mạc sử nhã trần ai là đừng để cho bụi bặm nó bám vào. Nếu quí vị muốn biết thêm chi tiết của việc trình kệ này thì xin đọc kinh Pháp Bảo Đàn. Tôi đọc lâu lắm rồi cho nên không nhớ nhiều chi tiết.

Theo ý của tôi thì bài này hay lắm, và rất là thực tế. Sự tu hành của mình không phải là tu tâm không thôi mà còn phải tu thân nữa. Không phải chỉ là vấn đề của thân, mà cũng không phải chỉ là vấn đề của tâm. Chữa bệnh, mình phải để ý chữa cả thân lẫn tâm. Chăm sóc cả hai phần thì nó dễ thành công hơn. Đó là nguyên tắc y khoa ngày nay. Chữa bệnh thì bác sĩ phải biết cái tâm và cái thân của người đó. Chữa bệnh tâm phải biết về thân; chữa bệnh thân phải biết về tâm. Đó là phương pháp mới của trị liệu.

Tu cũng phải vậy, thân là cây bồ đề, tâm là đài gương sáng. Nó hay ở chỗ đó. Thời thời thường phất thức, mỗi ngày thường phải phủi bụi. Đừng để cho bụi bặm bám vào. Đây là công phu hàng ngày, phải lau sáng đài gương của mình. Tại vì đài gương nó soi chiếu để cho mình thấy. Như vậy mình thấy bài này đi đôi với phương pháp tu chánh niệm, rất là hay!

Đứng về phương diện văn học mà xét thì khuyết điểm của bài này là không nói gì về cây bồ đề. Chỉ nói thân là cây bồ đề, nhưng rốt cuộc thì ba câu sau là chỉ để nói đến đài gương sáng thôi. Thân là cây bồ đề, tâm là đài gương sáng, thì được rồi, hai cái đồng đều với nhau. Nhưng hai câu chót là để giải thích câu thứ hai, còn câu thứ nhất thì lẻ loi một mình, không làm gì cả. Không làm những động tác chánh niệm, không ăn uống cho đàng hoàng, không đưa vào thân thể những độc tố. Đó là sự khiếm khuyết của thượng tọa Thần Tú.

Thành ra các thầy, các sư cô, sư chú phải học cho được bài học đó. Sau này dạy đệ tử thì phải cho họ tập thiền chạy, phải cho họ ăn uống cho đủ chất bổ nhưng đừng bao giờ ăn chất độc vào.

Tuy thầy Thần Tú có nói thân là quan trọng, nhưng thầy không dạy mình làm sao để tu thân. Hay thầy nghĩ chỉ có bốn câu làm sao mình nói hết được! Đó là mình thanh minh giùm cho thầy Thần Tú! Nếu không đủ, tại sao thầy không cho sáu câu hay tám câu?

Một buổi sáng hôm đó tổ thứ Năm đi ngang qua, thấy bài này, tổ gật đầu khen hay. Mấy sư em khác thấy thầy khen nên nghĩ rằng chắc bài này hay thật. Thường thì thầy là có "kí-lô" lắm. Thầy nói gì thì chắc là đúng, nhất là tác giả của bài kệ này là một vị giáo thọ rồi. Có gì ngờ vực nữa đâu! Tại vì Ngũ tổ cũng có nói: Nếu chúng ta thực tập theo bài này thì chúng ta sẽ thành công, sẽ có hạnh phúc, sẽ đạt đạo. Và chúng ta nên đem hương trầm để đốt lên cúng dường bài này. Như vậy thì cả chúng đều rất hãnh diện vì trong đại chúng có một sư anh rất giỏi. Mình có thể tưởng tượng được một cảnh tượng rất là đẹp: Tất cả các sư em, mấy vị ở dưới bếp cũng vậy, đều lên quỳ trước bài kệ đó, đốt hương lên, chắp tay cung kính, thầy trò vui sướng lắm!

Trong khi đó thì ở dưới bếp có một anh chàng tên là Huệ Năng, không lên tham dự vì anh ta bận giã gạo, chùi nồi. Nghe đồn rằng anh chàng này không biết chữ, thành ra có lên cũng chịu thua. Nghe đồn thôi, không chắc là anh chàng không biết chữ! Đôi khi người ta nói quá như vậy. Anh chàng này nguyên ở Lĩnh Nam, tức có thể là ở vùng Bắc Việt hiện nay, lên đó tu học. Sách sử không nói rõ, chỉ nói chàng quê ở Lĩnh Nam. Khi thấy đại chúng xôn xao, có vẻ hí hửng, có vẻ hạnh phúc như vậy thì sư chú ở dưới bếp mới hỏi: Có chuyện gì mà vui như vậy thưa mấy sư anh? Mấy sư anh mới nói: Chú ở dưới bếp nên chú có biết gì đâu! Chuyện này vui lắm! Đó là việc thượng tọa Thần Tú vừa trình một bài kệ và tất cả mọi người trong tăng thân đều rất hứng khởi. Thầy có nói rằng nếu thực tập theo đúng bài này thì sẽ thành công trong sự tu học, nên mọi người đã đốt hương cúng dường. Tối nay chùi nồi xong, lau nhà bếp xong, tôi sẽ đọc cho chú nghe. Huệ Năng nói: Dạ.

Tối hôm đó sư anh kia mới đưa Huệ Năng lên và chỉ vào bức tường ở nhà ngang rồi đọc bài đó cho Huệ Năng nghe: Thân thị bồ đề thụ. Tâm như minh kính đài. Thời thời thường phất thức. Mạc sử nhã trần ai. Hay không? Thầy Huệ Năng nói: Dạ hay. Em cũng có một bài. Thầy kia giật nẩy mình! Anh chàng này mà cũng có một bài kệ để trình lên à? Chú mới tu, làm việc ở dưới bếp, làm sao mà trình kệ kiến giải được? Sức mấy mà chú muốn tranh đua với thượng tọa Thần Tú, sư anh của chúng tôi? Theo lời thuật lại của kinh Pháp Bảo Đàn thì Huệ Năng nói: Đừng nên chê, đừng nên có thành kiến như vậy. Tuy em không biết chữ, nhưng sự chứng ngộ không tùy thuộc vào chữ nghĩa.

Tính giác ngộ thì mọi người đều có, tại sao lại phân biệt Nam Bắc, tại sao lại phân biệt biết chữ và không biết chữ, tại sao phân biệt mới tu hay tu lâu năm? Thành ra sư anh cứ viết giùm bài kệ cho em đi! Người sư anh đó cũng chịu chơi cho nên nói: Như vậy là sư em có can đảm lắm, có chí khí lắm, nếu sau này được thầy chấp nhận và trao truyền giáo pháp thì sư em nhớ tới tui nghe! Trong lúc đó hình như đại chúng đã đi ngũ hết.

Sư anh này mới bắt một cái ghế, leo lên, cầm cây bút nhúng vào dĩa mực. Còn chàng Huệ Năng thì đốt cây đuốc nhỏ đưa lên. Trong cái ánh sáng mù mờ đó Huệ Năng đọc cho sư anh của mình viết xuống một bài khác:

Bồ đề bãn vô thọ (hay vô thụ cũng được),

Minh cảnh diệt phi đài,

Bản lai vô nhất vật,

Hà xứ nét trần ai.

Bài này có tính cách gây gổ. Làm gì có cây gọi là cây Bồ đề? Làm gì có một cái đài gọi là đài gương sáng? Nó giống như là một lời phủ định, tại vì trong kinh điển Bụt nói rất rõ là từ trước đến nay không có một vật nào thật sự có hết! Bản lai vô nhất vật! Như vậy thì cái bụi bặm mà anh nói nó bám vào chỗ nào?

Theo tôi, chúng ta có thể nói một cách khác, có thể nhìn một cách khác, đừng tiếp tục nhìn và hiểu theo cách của người đi trước.

Trước hết ta có thể nói rằng hai bài kệ này có thể được viết ra dưới hai nhãn quan khác nhau. Một bên là nói về bản môn, một bên nói về tích môn. Như vậy không có nghĩa là bản môn nó hay hơn tích môn. Có thể là ông nói gà, bà nói vịt, nhưng ông nói cũng đúng, bà nói cũng đúng. Thật sự giữa hai bài không có sự đối thoại! Tưởng như có đối thoại, tưởng như bài này bẻ bài kia, nhưng kỳ thực hai người đứng trên hai bình diện khác nhau.

Nhưng nếu đúng là giáo lý chân thật của Bụt thì hai bài phải dính nhau. Bản môn tức là bình diện bản thể, còn tích môn là bình diện hiện tượng. Bản môn là nước, còn tích môn là sóng. Sóng nó rất khác với nước, nhưng đồng thời sóng cũng là nước. Bản môn với tích môn tuy là hai nhưng chúng dính vào nhau, chúng là một.

Ví dụ chúng ta có bài tập Giận nhau. Sư anh giận sư em, hay sư em giận sư chị. Theo phương pháp thực tập của tôi đã đưa ra là khi giận nhau và chúng ta làm khổ nhau, thì phải thực tập bài kệ mà chúng ta đã thiết lập từ giáo lý kinh Pháp Hoa Tam Muội:

Giận nhau trong bản môn.

Nhắm mắt nhìn mai sau.

Trong ba trăm năm nữa.

Em đâu và tôi đâu?

Khi mình giận sư em hay sư chị thì phương pháp thực tập là mình đừng nói gì hết, mình nhắm mắt lại. Người kia đang ở trước mặt mình, mình ghét quá trời, mình không muốn nhìn thấy người đó nữa, hoặc mình sắp nói một câu để cho người đó đau cho bõ ghét! Theo pháp môn này thì đừng nói gì hết. Nhắm mắt lại, thở vào một hơi.

Trong hơi thở vào đó mình nói: Giận nhau trong bản môn.

Thở ra: Nhắm mắt nhìn mai sau.

Thở vào: Trong ba trăm năm nữa.

Rồi thở ra: Em đâu và tôi đâu?

Chỉ cần nhắm mắt lại mà quán chiếu trong ba trăm năm nữa mình sẽ như thế nào mà sư chị của mình sẽ như thế nào! Lúc đó cả hai người đều trở về bản môn hết. Chỉ cần thở như vậy mấy hơi thì mọi giận hờn đều tan biến cả, và điều mình muốn làm trong lúc đó là mình muốn ôm lấy sư chị hay sư em của mình mà thôi. Tại vì giận nhau như vậy là dại vô cùng! Có được thời gian mà sống với nhau dưới ánh sáng mặt trời, có thầy có bạn, có đường thiền hành, có những bước chân thảnh thơi mà không thừa hưởng, mà lại giận nhau như vậy là uổng quá chừng!

Vậy thì bản môn là thời gian vô cùng, không gian vô biên. Còn tích môn là giờ phút hiện tại. Khi mình thực tập như vậy, mình tiếp xúc với bản môn, và tự nhiên cái tích môn của mình nó trở nên tươi sáng hơn, dễ chịu hơn trước.

Thành ra bài kệ kiến giải của thầy Thần Tú có thể là được viết ra trên bình diện tích môn, Historical dimension, còn bài của Huệ Năng được viết ra về phương diện bản môn, Ultimate dimension. Khi hai bài chép riêng ra, ta thấy bài nào cũng được hết. Nhưng khi hai bài để cạnh nhau, và so sánh với nhau, bài này hay, bài kia ít hay hơn, là chuyện làm không đúng. Cách nhìn này có thể là một sự chữa lại những quan niệm sai lầm đã có từ hàng ngàn năm nay.

Thầy Huệ Năng cũng đúng về giáo lý, đúng về cái nhìn Bát Nhã Không Quán. Nhưng thầy Thần Tú cũng đúng. Theo tôi thì bài của thầy Thần Tú có ích lợi hơn cho sự thực tập hàng ngày của người tu, nó thiết thực hơn. Còn bài của thầy Huệ Năng có thể dẫn chúng ta vào thế giới của hí luận, của khái niệm.

Chúng ta phải đem cái thông minh, cái quyền tự do của chúng ta ra để quán chiếu, đừng bị quáng mắt, đừng bị uy hiếp bởi thầy, bởi các vị tổ. Tại vì các thầy, các tổ có cái nhìn của họ, ta phải có cái nhìn của riêng ta. Các thầy các tổ phải đồng ý với mình về chuyện đó, mình không phải là những tín đồ nô lệ. Tu là để có tự do nhận thức của mình. Mình cũng làm thầy làm tổ được, mình cũng làm Bụt được. Vì vậy cho nên nếu mình học theo thói quen chỉ làm nô lệ thôi thì không bao giờ mình đáp ứng được ơn của thầy và của tổ.

Trong tâm thức của những người thiền sinh thời đó họ nói bài thứ hai (Huệ Năng) hay hơn. Bài thứ hai là đạt đạo, và họ bỏ bài thứ nhất (Thần Tú). Đó là một sai lầm rất lớn! Họ có thể thắp hương cúng dường bài thứ hai, nhưng họ không thể không thực tập bài thứ nhất! Mình tuy là con cháu của Nam Tông, nhưng mình không kỳ thị Bắc tông. Bắc tông là Thần Tú, Nam tông là Huệ Năng. Người ta thường nói Nam Năng, Bắc Tú. Mình là con cháu của Nam Năng, nhưng mình cũng là con cháu của Bắc Tú. Bắc Tú không phải là kẻ thù của chúng ta. Bắc Tú không phải là đối lập với mình. Phải như vậy thì mình mới vươn lên được.

Câu kệ trong Hội thứ Chín: Thân Bồ đề, lòng minh kính, bài giơ mặt vách hành lang. Giơ tức là đưa lên trình bày. Bài kệ kiến giải đã trình bày lên mặt tường ở hành lang. Sinh Thiên Trúc, chết Thiếu Lâm, chôn dối chân non Hung Nhĩ, Thân Bồ đề, lòng minh kính, bài giơ mặt vách hành lang. Câu trên là nói về tổ Bồ-Đề Đạt-Ma, câu dưới là để nói về thượng tọa Thần Tú và sư em Huệ Năng.

Tăng thân của Ngũ Tổ cũng chưa hay lắm. Nói vậy mà mình không sợ mang tội. Tại vì chính ngay tăng thân của Bụt thỉnh thoảng cũng có những bê bối, và tăng thân của Bụt có lúc cũng bị chia ra làm hai, chống đối nhau. Chúng ta phải nhìn vào sự thật, chúng ta phải nhìn vào tăng thân của tổ thứ Năm và thấy rằng chưa là toàn bích, trong đó cũng có nhiều người a dua lắm. Trước đó thì đốt hương cúng dường bài kệ thứ nhất. Nhưng buổi sáng thức dậy thấy có một bài khác. Đọc rúng động, nói bài này hay hơn bài kia, rồi thì xôn xao, bàn tán, làm như cái chợ. Khi nghe ồn như vậy, tổ thứ Năm từ trong phương trượng đi ra và hỏi:

-Gì mà ồn quá vậy các con?

-Dạ không biết có người nào vừa viết thêm một bài kệ mà ghê gớm quá. Hôm qua chúng con tin bài kệ kia là số một, nhưng hôm nay chúng con thấy bài kệ này còn hay hơn!

Tổ thứ Năm nói:

-Bài ra sao đọc cho thầy nghe coi, và ai viết vậy? Có người thưa:

-Dạ của sư chú giã gạo ở dưới bếp, chú chưa được thọ sa di mà chỉ đang tập sự xuất gia thôi.

Khi đọc lên, theo lời ghi chép lại, thì tổ thấy bài này là chứng đạo, nhưng sợ động chúng và sợ mất uy tín của Thượng tọa Thần Tú (vì ta tu đã mấy mươi năm nay mà giờ bị một tên đàn em vô danh tiểu tốt, mới tới có mấy tháng, đánh ngã thì còn thể thống gì của thiền viện nữa?). Cho nên tổ thứ Năm nói bài này cũng tạm được, nhưng làm sao bằng bài kia? Cũng chưa chứng đạt. Rồi tổ lấy chiếc giày rơm tổ xóa bài thứ hai đi.

Tôi không thích điều đó chút nào hết. Nếu quả thật tổ thấy bài đó hay mà tổ làm như vậy tại sợ động chúng thì tôi không không phục tổ! Mà chưa chắc tổ đã làm như vậy. Chúng ta hãy cẩn thận. Tôi không tin rằng tổ thứ Năm đã làm như vậy. Đây là qua lời thuật lại của những người sau. Chúng ta sống ở trong những truyền kỳ rất nhiều, và sự thật rất là ít. Chúng ta phải khôn khéo mới khỏi bị kẹt. Tại vì còn rất nhiều chứng thư khoa học cho chúng ta thấy rằng những thêu dệt của Nam tông để đưa lại uy tín cho Nam tông và triệt hạ uy tín Bắc tông, những cái thêu dệt đó nó không ăn khớp với những sự thật của lịch sử.

Cho nên các thầy, các sư cô, các sư chú nếu muốn làm chuyện học giả nghiên cứu thì tha hồ có nhiều lĩnh vực để mà làm lắm. Quí vị có thể khám phá ra nhiều điều rất ngộ nghĩnh. Tôi thì đã đủ rồi, tôi không muốn tham dự trò chơi đó nữa!

Chúng ta nên nhớ rằng chúng ta đang nghe một câu chuyện và chúng ta đừng vội tin ngay rằng những chi tiết của câu chuyện đó là phản ảnh những sự thật đã xảy ra. Phải đề cao cảnh giác lắm mới được. Tuy nó có thể không phải là sự thật, nhưng đó là từ tâm của một con người nói ra, và chúng ta đang nhìn vào tâm của người kể chuyện. Tâm của người kể chuyện là một sự thật. Khi nghe một câu chuyện, chúng ta phải tỉnh táo, phải nhìn vào câu chuyện đó, và chúng ta phải thấy cho được tâm của người kể chuyện mà đừng vội tin vào những chi tiết.

Vậy thì người kể chuyện nói rằng tổ thứ Năm tuy thấy bài kệ thứ hai phản chiếu được sự đắc đạo, sự giác ngộ, nhưng tổ không công nhận trước đại chúng, tại vì tổ sợ nguy cho tánh mạng và sự an ninh của Huệ Năng! Hay là tổ sợ thượng tọa Thần Tú buồn? Tổ sợ cái gì mà tổ lấy chiếc dép rơm của mình để xóa bài của Huệ Năng, và nói bài của chú Huệ Năng chưa đạt đạo? Sự thực như thế nào thì chúng ta không biết. Đây là chuyện đã được kể lại trong kinh Pháp Bảo Đàn. Nếu quả nhiên chuyện đó có thật thì chúng ta có thể kết luận rằng tăng thân của tổ thứ Năm không có giá trị mấy!

Thầy Thần Tú có thể giỏi, thầy Huệ Năng có thể giỏi, nhưng có nhiều kỳ thị, có nhiều ganh ghét, có nhiều sự a dua. Cố nhiên là có thể có những chất thánh ở trong tăng thân, nhưng những chất phàm ở trong tăng thân qua câu chuyện đó được hiện ra rất rõ.

Tổ Hoằng Nhẫn nói: Bài này cũng chưa thấy đạo, rồi lấy chiếc dép cỏ mà xóa đi. Chúng ta hãy quán chiếu cho kỹ, đừng vội lên án, đừng vội chê trách, nó có thể thế này, có thể thế kia, nó có thể được bày đặt ra để gây uy tín cho Nam tông.

Chiều hôm đó tổ thứ Năm đi xuống nhà bếp và thấy Huệ Năng đang giã gạo. Tổ không hỏi mà chỉ nói: Chà giã gạocực dữ à con! Gạo đã trắng chưa con. Hình như Huệ Năng nói dạ trắng rồi hay sao đó, không quan trọng lắm. Mời quý vị đọc kinh Pháp Bảo Đàn để rõ. Rồi tổ mới dùng cây gậy của tổ, gõ ba lần lên chiếc cối đá.

Anh chàng giả gạo hiểu, và canh ba hôm đó thì anh chàng một mình đột nhập vào phòng của tổ. Hai thầy trò gặp nhau. Tổ đem kinh, luật, giáo lý về Bát Nhã để dạy cho Huệ Năng, và trao cho Huệ Năng cái áo cà-sa và bình bát của mình rồi nói rằng con phải lập tức đi về phương Nam để hành đạo, đừng ở đây. Có nghĩa là con ở đây sẽ bị các sư anh ám hại vì ganh tị. Không nói ra nhưng nó có hàm ý đó. Và trong căn phòng nhỏ bé của tổ thứ Năm đã xảy ra một lễ truyền đăng rất là informal, truyền đăng chui!

Tại sao phải như vậy? Tại vì tăng thân đó chưa có khả năng chấp nhận chuyện đó. Truyền đăng cho một người dở nhất, cho người trẻ nhất, cho người không biết chữ nhất ở trong tăng thân! Như vậy là tạt một gáo nước vào những vị thông minh, những vị học thức cao ở trong tăng thân, trong đó có thượng tọa Thần Tú.

Một lần nữa tôi mời quí vị tham cứu chứ đừng đọc kinh rồi nhắm mắt nghe người ta nói gì thì nghe cái đó. Phải dùng cái thông minh của mình.

Ngũ tổ còn làm hơn thế nữa, tổ đưa Huệ Năng ra bờ sông, ở đó đã có một chiếc thuyền đợi sẵn. Tổ nói:

-Thầy sẽ đưa con đi một đoạn đường. Rồi hai thầy trò xuống thuyền, chèo đến một khúc sông nào đó, tổ nói:

-Giờ đây con ghé lại để thầy lên bờ, thầy về, còn con một mình đi về miền Nam. Huệ Năng thưa:

-Khi con còn một mình và chưa chèo chống được, thì thầy chèo chống cho con. Bây giờ con đã chèo chống được rồi, xin thầy trao cho con mái chèo. Rồi hai thầy trò tạm biệt nhau ở đó.

Thầy Hoằng Nhẫn đi bộ về, còn thầy Huệ Năng tiếp tục đi về phương Nam. Khi về tới tu viện, Ngũ tổ đóng cửa phòng lại, không ra ăn sáng. không ra ăn trưa, mà cũng không ra ăn tối! Ngài ở luôn mấy ngày trong phòng.

Đại chúng xôn xao, không lý thầy bệnh? Nhưng không dám vào phòng để làm rộn thầy. Sau đó vài ngày thì thấy không thể nào không vào để hỏi thăm, cho nên người ta mới cử một phái đoàn đi vào để hỏi thăm:

-Bạch thầy, thầy có sao không, thầy có bệnh gì không mà mấy ngày nay thầy không ra. Ngũ tổ nói rằng:

-Thầy không sao hết, chỉ có chuyện là y và bát đã đi về phương Nam rồi.

Lúc đó toàn chúng mới nhốn nháo lên, và biết Ngũ tổ đã truyền pháp, đã truyền y, đã truyền bát cho sư em út là Huệ Năng rồi.

Trong kinh còn nói rằng, nghe tin đó thì một đoàn rất đông đã đuổi theo, họ tổ chức một cuộc săn bắt Huệ Năng để cướp lại y và bát đó. Những chi tiết đó cho chúng ta một ảnh tượng không mấy đẹp về tăng thân của Ngũ tổ Hoằng Nhẫn.

Người kể chuyện đó tuy có thể với mục đích tạo uy tín cho Nam tông, cho Ngũ tổ và Lục tổ, nhưng kỳ thực đã bêu xấu tăng thân của Ngũ tổ và chính bản thân của Ngũ tổ nhiều lắm! Tại vì nếu mình là Huệ Năng, mình cũng không hãnh diện vì mình có một tăng thân như vậy.

Đoàn người đi ngày này qua ngày khác, và cuối cùng thì họ đuổi kịp Huệ Năng. Có một người ngày xưa vốn là võ tướng, đuổi kịp lên đồi. Quí vị đừng tưởng đây là chuyện đời xưa, Thần Tú đang ngồi đây và Huệ Năng cũng đang ngồi ngay trong giảng đường này!

Nghe tiếng chân rầm rập đuổi theo sau, Huệ Năng mới đặt cái y và cái bát ở trên một tảng đá rồi chui vào núp trong một bụi rậm. Viên võ tướng đó, ngày xưa là võ tướng nhưng bây giờ đã trở thành sư anh rồi, khi lên tới đỉnh đồi thì không thấy Huệ Năng đâu mà chỉ thấy cái y và cái bát để trên tảng đá, nên đưa tay ôm lấy. Nhưng không biết tại sao mà cái bát nó nặng quá, sư anh vốn là một tay võ tướng, nhưng vô phương nhấc lên nổi! Lúc đó sư anh mới nói rằng:

-Tôi đến đây là vì pháp chứ không phải vì bát xin hiền giả xuất đầu lộ diện. Kể lại vậy không biết có đúng hay không! Có lẽ tại nâng bát lên không nổi cho nên mới nói vậy. Nên nhớ rằng đây là câu chuyện kể lại thôi, không hẳn sự thật nó đã xảy ra như vậy.

Chúng ta đang nhìn vào tâm của người kể chuyện. Tại tâm của người kể chuyện là một sự thật, một cái thực tại chứ không phải chỉ có câu chuyện mới là sự thật. Câu chuyện này chính thức thì nói là do tổ Huệ Năng kể và người ta ghi chép lại. Những điều này không có bằng cớ nào chứng thật được. Có thể là Huệ Năng và Thần Tú là hai anh em rất thương nhau, không có vấn đề và giờ đây tôi đang có cái cảm tưởng đó. Những nghiên cứu của tôi gần đây cho biết rằng hai anh em rất thương nhau, không có sự đối lập Nam Bắc. Đối lập Nam Bắc là chuyện học trò sau này tạo ra, bắt đầu từ thầy Thần Hội, đệ tử của Huệ Năng. Như vậy cũng không hẳn là mình muốn nói xấu thầy Thần Hội.

Khi nghe sư anh "võ tướng" nói vậy, Huệ Năng mới xuất đầu lộ diện và Huệ Năng giúp cho người sư anh đó đạt đạo rồi trở về!

Khi người sư anh đó xuống đồi, gặp những người kia thì nói:

-Tôi đã xem xét phía này rồi, không có anh chàng ở phía này, mình đi phía khác. Nhờ đó mà Huệ Năng thoát.

Sau đó Huệ Năng phải ẩn tránh một thời gian, cuối cùng xuất đầu lộ diện tại một ngôi chùa đó. Vị trụ trì nhận ra đây là một pháp khí nên đã làm lễ xuất gia cho Huệ Năng.

Tất cả những điều đó quí vị có thể đọc trong kinh Pháp Bảo Đàn. Kinh này hiện có bằng tiếng Việt lẫn tiếng Anh.

(tiếp theo)

Trở lại với Hội thứ 9 của bài Cư Trần Lạc Đạo:

Vương lão chém mèo, lượt trẩy lòng ngừa thủ tọa

Vương lão tức là thiền sư Nam Tuyền Phổ Nguyện, sinh năm 748, tịch năm 834. Nam Tuyền đã đắc pháp từ thiền sư Mã Tổ, giáo hóa ở chùa Nam Tuyền, và là thầy của thiền sư Triều Châu. Thiền sư Nam Tuyền đã chém một con mèo đứt làm hai khúc. Và con mèo cho đến ngày hôm nay vẫn còn đau!

Hôm đó các vị thủ tọa của hai cư xá ở trong chùa Nam Tuyền tranh nhau một con mèo. Bên Tây đường có một chúng, bên Đông đường cũng có một chúng. Không biết tại sao hôm đó lại có sự tranh chấp giữa hai cư xá về một con mèo. Lúc đang tranh chấp lăng xăng thì thiền sư đi qua, ngài hỏi:

-Việc gì vậy? Người ta mới kể lại chuyện tranh chấp và trình con mèo lên. Thiền sư nói:

-Quí vị phải nói lên một câu, nếu không tôi sẽ chém con mèo này đứt làm hai đoạn! Các vị ở trong hai cư xá không ai mở miệng ra được hết, và chính hai vị thủ tọa cũng cứng miệng không nói được gì cả. Vì vậy thiền sư buộc lòng phải chém con mèo làm hai khúc!

Câu chuyện này được truyền đi khắp nước. Người thì phê phán cách này, người thì phê phán cách khác, và nó đã truyền lại cho đến ngày nay.

Có người nói rằng thiền sư Phổ Nguyện đã đắc đạo rồi thành thử con mèo mà thiền sư chém làm đôi chắc sẽ được hóa sinh làm người và thiền sư không có tội tình gì cả. Có người thì nói tại sao mình đi tu, mình làm bậc thầy rồi mà mình lại sát sanh? Có người nói thầy đã vượt ra ngoài vòng quả báo rồi cho nên thầy làm như vậy là để độ người và để độ mèo. Nói rất là lăng xăng, và gần 1000 năm nay biết bao nhiêu nước miếng đã đổ ra vì câu chuyện Vương Lão chém mèo.

Người nào nghe câu chuyện này cũng nghĩ đến con mèo mà tội nghiệp, và không biết rằng chém con mèo như vậy thì có ích lợi gì cho đại chúng của hai cư xá hay không!

Chiều hôm đó khi thiền sư Triều Châu về, người ta mới kể lại chuyện đã xảy ra buổi sáng cho ngài nghe. Nghe xong câu chuyện thì thiền sư Triều Châu mới lấy chiếc dép đang đi dưới đất, đặt lên trên đầu, rồi đi ra khỏi thiền đường. Lúc đó thiền sư Nam Tuyền mới nói:

-Tiếc quá! Nếu hồi sáng mà thầy có mặt ở đây thì chắc con mèo không đến nỗi bị chết!

Chúng ta thử tưởng tượng thiền sư Triều Châu đặt một chiếc dép lên trên đầu rồi lững thững đi ra sau khi nghe xong câu chuyện!

Con mèo của thiền sư Triều Châu và của thiền sư Nam Tuyền nó còn đó. Nó còn đóng vai trò của nó, nó chưa chết đâu. Người ta thường chú ý tới sự kiện thiền sư chém con mèo ra làm hai. Nhẫn tâm hay không nhẫn tâm, cách giáo hóa của thiền sư như thế nào? Nhưng rốt cuộc thì người ta thấy không có gì thay đổi trong không khí của tăng thân hết. Tại vì không có ai trong đại chúng đã nói lên được câu nào. Chính hai vị thủ tọa của hai cư xá cũng không nói lên được câu nào cả! Vì vậy mà con mèo bị hy sinh!

Thầy Thanh Từ có nói khi đưa con mèo ra và dọa nếu các ông không nói được một câu cho thỏa đáng thì con mèo này sẽ bị cắt làm hai đoạn. Khi thiền sư Nam Tuyền nói ra câu đó thì đã tạo ra một sự căng thẳng trong chúng. Bắt buộc vì lòng thương con mèo mà phải nói lên kiến giải của mình, nhưng rốt cuộc thì tất cả đều bị ứ đọng, không thoát ra được, kể cả hai vị thủ tọa. Vì vậy mà bắt buộc thiền sư Nam Tuyền phải chém con mèo ra làm hai đoạn. Một sự thất bại rất lớn của đại chúng trong hai cư xá, mà cũng là một sự thất bại rất lớn của thiền sư Nam Tuyền. Tại vì học trò như vậy thì mình lãnh đủ. Theo thầy Thanh Từ thì tạo ra một tình trạng khẩn cấp như vậy là để cho một câu nói từ tuệ giác có thể vọt ra từ một người trong đại chúng. Tình trạng khẩn trương đó đã được tạo ra, nhưng tất cả mấy trăm người có mặt đều chết cứng, đều bị ứ đọng, không người nào thốt ra được một lời nào để có thể cứu được con mèo!

Phương pháp của chúng ta là chúng ta phải nhìn vào hoàn cảnh mà đừng chỉ chú ý tới sự kiện mà thôi. Có một điểm mà ít người chú ý tới là sự tranh chấp của hai cư xá về một con mèo, nếu không quán chiếu về sự kiện đó thì chúng ta không thể nào hiểu được về công án này. Hai cư xá tranh chấp một con mèo, đó là tình trạng đã tạo nên công án.

Con mèo này có thể là một rổ cà chua, một chiếc xe Van. Hai cư xá đó có thể là Xóm Thượng và Xóm Hạ. Con mèo nó còn y nguyên đó. Khi Xóm Hạ nghĩ rằng Xóm Thượng như thế này, hay Xóm Thượng nghĩ rằng Xóm Hạ như thế kia, có sự phân biệt giữa hai xóm, thì bất cứ một cái gì cũng có thể trở thành con mèo của thiền sư Nam Tuyền hết.

Có những cảm thọ, những vui buồn, những kỳ thị xảy ra khi mình nghĩ rằng mình là Xóm Hạ, còn bên kia là Xóm Thượng. Hoặc mình là sư cô còn bên kia không phải là sư cô. Mình là Tây phương, còn những người kia, họ là người Việt. Tất cả những cái đó là những ranh giới mà mình đặt ra. Từ những ranh giới do mình đặt ra đó, mình sẽ có những vui, buồn, những kỳ thị, những ý kiến, những đau khổ.

Vấn đề đại chúng của chùa Nam Tuyền có phải là vấn đề quá khứ đâu? Và con mèo đó có phải là con mèo đã chết rồi đâu? Con mèo đang "sống nhăn răng" đó! Cho nên nhờ sư cô, sư chú nào ra bắt con mèo vào đây, để chúng ta coi thử mặt mũi con mèo đó nó như thế nào!

Chúng ta nhớ ngày xưa có chuyện một rổ cà chua phải không? Một sư cô nào đó lượm những trái cà chua tốt đem cất đi, và để những trái cà chua không tốt bằng, để nấu ăn buổi chiều hay buổi sáng hôm sau. Nếu mình là một người có trách nhiệm, có ý thức thì mình đều sẽ làm như vậy hết, tức là lựa những trái còn tốt đem cất lại, còn những trái gần hư thì mình để nấu chiều hôm nay. Thế nhưng có một người khác lại nghĩ rằng xóm đó lấy hết những trái tốt đi và để cho xóm mình những trái cà chua xấu!

Từ một ý niệm kỳ thị, nó sinh ra một cái cảm thọ giận hờn, và nó chỉ là một cái vọng tưởng thôi, tức là một tri giác sai lầm thôi. Người kia đã làm với tính cách thương yêu, không kỳ thị, nhưng vì thiếu tuệ giác, mình nghĩ đó là hành động không thương yêu, kỳ thị, và tự nhiên nó có sự tranh chấp, và tự nhiên rổ cà chua nó biến thành con mèo của thiền sư Nam Tuyền!

Chiếc xe Van cũng vậy. Nó thuộc Xóm Thượng hay Xóm Hạ, nó cũng là một con mèo của thiền sư. Lát dao của thiền sư Phổ Nguyện có sắc bén, có gây đau nhức bằng lát dao của những sai lầm không? Khi dùng lát dao của những nhận thức sai lầm thì mình cắt đôi rất nhiều cái, cắt Xóm Thượng và Xóm Hạ ra làm hai khúc khác nhau. Cắt người xuất gia và người không xuất gia làm hai khúc hoàn toàn khác nhau. Sư em của mình và mình là hai cái khác nhau. Từ những phân biệt khác nhau đó cho nên mình mới có sự giận hờn, ganh tị, kỳ thị.

Vậy thì người dùng lát dao để cắt sự thật ra làm nhiều mảnh, chặt nhỏ cái thực tại ra từng khúc, là thiền sư Phổ Nguyện hay là những người ở trong đại chúng chia chẻ hai cư xá? Lưỡi dao đó không phải là lưỡi dao của thiền sư Phổ Nguyện Nam Tuyền. Lưỡi dao đó là lưỡi dao nhận thức của ta.

Trong đời sống hàng ngày, chúng ta băm nát đời sống của chúng ta thành nhiều mảnh. Chúng ta cho rằng người sư anh không dễ thương với chúng ta, người sư chị hay sư em không dễ thương với chúng ta. Từ đó mà chúng ta có những nhận thức kỳ thị, nhận thức ganh ghét, nhận thức giận hờn.

Nếu giả dụ có một sư chú ở trong cư xá phía Đông nói rằng: "Bạch thiền sư con mèo này khi qua cư xá con, nó kêu "meo meo" một cái thì tự nhiên con nhớ rằng tất cả những người trong cư xá bên kia là sư anh và sư em của con hết. Và khi nó sang cư xá bên kia nó kêu "meo meo" một cái thì các anh, các em ở bên đó cũng nghĩ rằng tất cả những người sống trong cư xá bên này cũng đều là anh và em của họ hết". Nếu có một sư chú nói được như vậy thì con mèo đã không bị chém làm hai đoạn! Mà câu đó đâu có khó gì mà nói không được? Nếu mình thực tập. mình thấy được những người trong cư xá kia là mình, và mình là những người trong cư xá kia, thì có cách nào mà thiền sư Nam Tuyền có thể chặt con mèo ra làm hai đâu?

Nhưng sư chú đó đã không có mặt trong đại chúng, nên đã không nói lên được câu nói đó hay một câu tương tự. Thiếu gì câu?

Vì vậy cho nên mình phải làm ăn sao cho khá hơn đại chúng của chùa Nam Tuyền. Mình làm sao cho Agniesca khi ở với mình thì nó cũng là mình, và khi nó đi thì nó cũng là mình. Nó ở với mình thì mình có từ bi, mà nó đi, mình cũng có từ bi. Tất cả những quyết định của chúng ta phải được làm trong cái nhận thức bất nhị đó, tức là tình thương của chúng ta phải biểu hiện ra bằng cái nhận thức đó, tại vì cái hiểu tức là cái thương. Nếu bắt buộc mình phải lấy một quyết định nào đó, thì quyết định đó là phải lấy từ tình thương. Mình vui nỗi vui của người đó, mình cũng buồn cái nỗi buồn của người đó, vì người đó chính là mình. Cái đó là nhận thức không kỳ thị, không phân biệt.

Nếu bắt buộc có một người nào không được thường trú tại Làng Mai nữa, thì quyết định đó phải được phát xuất từ nhận thức bất nhị, nhận thức tình thương. Người đó ở hay người đó đi thì mình vẫn thương người đó như là thương bản thân của mình. Như vậy mới đúng theo sự thực tập của chúng ta.

Khi những quyết định làm trên nhận thức đó, trên tình thương đó, thì những quyết định đó sẽ được coi như sự sống linh động. Còn nếu quyết định đó chỉ là một nguyên tắc, và mình cứ căn cứ trên nguyên tắc để làm việc thôi, và trong đó không có nhận thức bất nhị và không có tình thương, thì mình không làm được theo nguyên tắc của tu viện.

Đừng quên rằng con mèo của thiền sư Nam Tuyền nó luôn luôn có mặt với chúng ta!

Vương lão chém mèo, lượt trẩy lòng ngừa thủ tọa. Lòng ngừa tức là cái tâm còn có những điều nghi ngờ, còn có những chướng ngại. Thủ tọa tức là hai vị thủ tọa của Đông đường và Tây đường. Lượt trẩy, theo tự điển của Huỳnh Tịnh Của xuất bản cách đây 100 năm, thì chữ lượt này có nghĩa là lọc, filter. Trẩy có nghĩa là đi, giống như "trẩy hội Chùa Hương" là đi hội chùa Hương. Lượt trẩy là lọc qua, đi qua. Chữ lượt này còn có thể đọc là "lướt", tức là sấn tới, sấn qua. Ở đây nó có nghĩa là thiền sư đi thấu qua cái tâm của hai vị thủ tọa, Head of the community. Mỗi vị cầm đầu mỗi cư xá.

Thiền sư chém con mèo là tại thiền sư đi ngang qua, thấy rất rõ về tâm ý còn bị kẹt của hai vị thủ tọa. Không những của hai vị thủ tọa mà của luôn cả đại chúng trong hai xóm. Thiền sư Phổ Nguyện chém con mèo vì khi lướt qua và thấy rõ cái tâm đang chứa chấp những cái nghi ngờ, những vô minh, những cái kẹt của tất cả mọi người.

Họ là ai? Họ là mình! Mỗi chúng ta đều có những chướng ngại ở trong tâm. Đừng trách móc những người khác. Con mèo hôm nay nó sống dậy, quý vị hãy thương con mèo, đừng để con mèo bị chết mỗi ngày một lần, hay hai lần mà tội nghiệp nó. Con mèo nó đang ở với chúng ta. Đây không phải là chuyện quá khứ.

Thầy Hồ khua chó, trỏ xem trí nhẹ con giàng

Thầy Hồ tức là thiền sư Lợi Trung ở trên núi Tử Hồ. Vì vậy thầy Hồ tức là thầy Tử Hồ, hiệu của thầy là Tử Hồ. Thầy có dựng một cái bảng ở trước cư xá của thầy, viết rằng:

"Ở trong viện này có một con chó rất dữ. Con chó này có cái đầu là đầu người. Cái bụng là bụng người. Cái chân giống như chân người. Người nào tới đây mà xôn xao bàn tán thì nó sẽ cắn chết. Thành ra quý vị hãy cẩn thận!"

Chúng ta thỉnh thoảng đi ngang qua vài nhà có treo một cái bảng vẽ hình con chó, ở dưới có đề "Chó dữ" để cho mình sợ. Thầy Tử Hồ cũng vậy. Ở đây có con chó rất dữ, nó cắn chết những người ưa thao thao bất tuyệt về lý thuyết Phật giáo. Thường thường có những vị du tăng tới tham vấn về thiền, vừa mới đẩy cửa vào hay vừa mới vén cái rèm thì thầy Tử Hồ nói: Coi chừng! Coi chừng chó! Thành ra ai cũng giật mình hết!

Một hôm khi thầy về tới phương trượng của thầy thì có người đứng đợi, và hỏi: Bạch thiền sư, ngài nói có con chó, nó ở đâu? Thì thầy nói: Gâu gâu! Đó là câu chuyện của thầy Tử Hồ. Chắc cũng có nhiều Phật tử tới nói lý thuyết chân như, bản tánh v.v... với thầy nhiều quá, cho nên thầy chán lỗ tai. Không lo tu mà chỉ lo nói về Phật pháp cao siêu mầu nhiệm về phương diện lý thuyết thôi. Người bị bệnh này nhiều lắm. Kẻ thù ta là một rổ danh từ mà! Cho nên thầy mới đặt ra một con chó để khi nào có người tuôn ra một mớ lý thuyết về Phật pháp thì thầy xua chó đuổi đi.

Một bên là chém mèo, một bên là xua chó ra để cắn. Thầy Hồ khua chó, trỏ xem trí nhẹ con giàng. "Trỏ xem" tức là chứng minh, chỉ cho thấy. "Trí nhẹ" là cái tâm đang còn dở, trí tuệ còn non kém. Tuy học thuộc lòng rất nhiều, nói rất hay, nhưng tuệ giác không có gì cả. Có những người nghe người ta nói gì thì tin liền, thì gọi là nhẹ dạ. Dạ cũng có nghĩa là cái tâm. Trí nhẹ ở đây có nghĩa là cái tuệ giác còn non yếu. Con giàng là chữ xưa, dùng dịch chữ "côn sàng", có nghĩa là con cháu, là thế hệ hậu côn, thế hệ con cháu sau này.

Thiền sư Tử Hồ xua chó, dọa người ta là chó sẽ cắn, để chỉ cho người ta thấy cái tuệ giác của những người học trò, của những người con cháu đang còn nhỏ bé, còn yếu kém. Phía trên là thủ tọa, phía dưới là con giàng, tức con cháu.

Chợ Lư Lăng gạo mắt quá ư, chẳng cho mà cả. Sở Thạch Đầu đá trơn hết tấc, khôn đến thưa đang-

Đây là nói về Thiền sư Thanh Nguyên Hành Tư (660-740). Có một vị học tăng hỏi thầy: Đại ý Phật pháp là gì? Thì thầy hỏi lại: Sư chú có biết giá gạo ở ngoài chợ Lư Lăng bao nhiêu một cân hay không? Thay vì cắt nghĩa thế nào là Phật pháp, thì thầy hỏi lại giá gạo, và gạo Lư Lăng nó trở thành một công án.

Có những câu hỏi có tính cách ước lệ. Hỏi để có hỏi. Có khi hỏi không phải vì muốn biết mà hỏi là để trình bày cái kiến thức của mình. Điều đó làm tốn thì giờ của học trò và của thầy rất nhiều.

Nếu quý vị có đi tổ chức những khóa tu, những ngày đầu của khóa tu thường mình cứ nghe họ hỏi những câu trên trời dưới biển như vậy. Không biết quý vị có biết dùng phương pháp của thiền sư Tử Hồ xua chó ra, hay phương pháp của thiền sư Hành Tư, nói chuyện giá gạo ở ngoài chợ hay không. Ngày xưa các tổ đã dùng những then máy như vậy, những phương pháp như vậy. Chợ Lư Lăng gạo mắt quá ư, chẳng cho mà cả. Mà cả tức là mặc cả, trả giá.

Sở Thạch Đầu đá trơn hết tấc, khôn đến thưa đang. Thạch Đầu tức là chỗ của thiền sư Tri Thiên.

Hôm trước chúng ta đã nói về năm sinh và năm tịch của thiền sư Thạch Đầu và thiền sư Mã Tổ rồi. Thiền sư Tri Thiên dựng cái am của mình ở đầu một tảng đá tại núi Hành Sơn, vì vậy ngài có biệt hiệu là Thạch Đầu, tức là ở chót vót trên một tảng đá lớn.

Có lần một thiền sinh tên là Đặng Ẩn Phong muốn trèo lên núi để tham vấn Hòa Thượng Thạch Đầu, thì bị thiền sư Mã Tổ ngăn lại và nói: Con đường lên đó trơn lắm, coi chừng đó. Sự thật thì khi thiền sinh này leo lên đó thì bị trượt té. Vì vậy người ta thường nói con đường lên thiền sư Thạch Đầu nó trơn lắm, mình có thể té như chơi. Nghĩa là mình phải rất cẩn thận. Mình không biết chuyện gì sẽ xảy ra khi mình đến với thiền sư. Và câu "Đá Thạch Đầu nó rất trơn" trở thành một công án.

Sở Thạch Đầu đá trơn hết tấc, khôn đến thưa đang. Sở tức là chỗ, là trụ sở. Khôn tức là khó. Thưa đang, thưa tức là tham vấn, thưa hỏi. "Đang" ở đây tức là chữ đương, tức là thừa đang. Thừa đang là nhận chịu sứ mạng của thầy để tiếp tục gánh vác sự nghiệp giáo hóa chúng sanh. Vậy thì con đường đá đi lên trụ sở của thiền sư Thạch Đầu là hết sức trơn, cho nên rất khó để tới tham vấn và nhận trách nhiệm do thiền sư trao phó. Khôn đến thưa đang.

Phá Táo cất cờ, đạp xuống dấu thiêng thành miếu. Câu Chi dơ ngón, dùng đòi nếp cũ ông ang

Thiền sư Phá Táo hiệu là Trung Sơn. Thiền sư thường hay đi với đệ tử du hành ở trong núi Trung Sơn. Một hôm họ gặp một cái miếu thiêng, trong đó có một cái bếp, và dân ở trong vùng thường đem trâu, bò, gà, heo tới đó để giết và cúng thần trong miếu. Trong miếu có treo một cây cờ, tượng trưng cho vị thần miếu. Khi thiền sư Phá Táo tức là Trung Sơn thấy vậy thì ngài mới đưa tay rút cây cờ liệng đi, rồi lấy cây gậy đập lên ba ông táo của cái bếp mà dân trong vùng dựng miếu để thờ. Ngài nói rằng cái bếp này là do bùn đất mà làm ra, nó có gì linh thiêng đâu? Sao bắt người ta sát sanh hại vật để cúng tế như vậy? Rất là tội. Người thường thì rất sợ thần bẻ cổ, nhưng ngài thì không sợ!

Nghe nói rằng sau khi ngài dẹp xong cái miếu thần đó rồi thì có một người mặc áo xanh đội mũ tới lạy và nói rằng con là thần miếu đây, lâu đời chịu nghiệp báo, ngày nay nhờ thiền sư khai thị cho chánh pháp, thành ra con đã thoát khỏi kiếp tù túng ở nơi này. Con xin đội ơn thiền sư. Đó là câu chuyện kể lại về thiền sư Phá Táo.

Câu Chi dơ ngón. Câu Chi là vị thiền sư thường hay đưa ngón tay lên khi người ta tham vấn một đề án về thiền. Chúng ta không lặp lại nữa là vì chúng ta đã học về sự tích của Câu Chi Trưởng Lão rồi.

Dùng đòi nếp cũ ông ang. Tức là sử dụng theo phương pháp ngày xưa mà ông cha đã trao truyền. Ông ang là ông cha. Đòi tức là theo. Dùng đòi tức là áp dụng theo. Áp dụng theo phương pháp giáo hóa của ông cha để lại.

Lưỡi gươm Lâm Tế, nạng Bi Ma, trước nạp tăng no dầu tự tại

Lưỡi gươm Lâm Tế tức là lưỡi gươm của thiền sư Lâm Tế. Thiền sư Lâm Tế Nghĩa Huyền (787-867) là tổ sáng lập ra phái thiền Lâm Tế. Khi thọ giáo với Làng Mai, quí vị là con cháu của thiền sư Lâm Tế, thế hệ thứ 43. Người ta nói tiếng hét của thiền sư Lâm Tế có khi như là một tiếng sét, có khi bén như một lưỡi gươm, và tiếng hét của thiền sư Lâm Tế có thể đánh tan được những khối u mê ở trong lòng của chúng ta. Lưỡi gươm của Lâm Tế tức là tiếng hét đó có khi có thể chặt đứt được những sợi dây phiền não, và những ràng buộc vô minh trong lòng chúng ta, cho nên tiếng hét đó gọi là lưỡi gươm Lâm Tế.

Vừa tới cửa ngoài nghe tiếng hét,

Tỉnh giấc hôn trầm lũ cháu con.

Đi ngang qua có thể bị hét giật mình nhảy đựng! Và khi giật mình mấy lần thì có thể có sự thay đổi trong người của mình.

Nạng Bí Ma, thiền sư Bí Ma hiệu là Ngũ Đại Sơn thường cầm một cái nạng gỗ có cái chỉa hai. Khi có một thiền sinh vào tham vấn thì thầy lấy cây nạng cặp vào cổ của thiền sinh! Chơi vậy đó! Rồi ông hét: Ma quỷ nào đã xúi anh xuất gia, ma quỷ nào đã xúi anh đến đây tham vấn? Nói đi, nói không được thì tôi nạng cho chết! Mà nói được tôi cũng nạng cho chết luôn! Có nhiều thiền sư họ dùng những phương pháp khác nhau như vậy, mình không thể ngờ được!

Trước nạp tăng no dầu tự tại. Nạp tăng là những ông thầy tu, những người xuất gia, mặc áo vá. Có chiếc áo được may bằng 100 miếng vải đụp, ngoài Bắc gọi là áo bách nạp, ca-sa trăm tấm, trong Nam thì gọi là bá nạp. Hồi sư cô Thị Kính đi tu, thì cũng mặc áo ca-sa, và tác giả mô tả rằng:

Đã bồng trăm tấm cà-sa,

Nhưng người tiên vẫn trông ra xác phàm.

Đi tu rồi, cạo đầu rồi, mặc áo vá trăm miếng rồi, nhưng vẫn trông đẹp như thường.

Vậy thì ca-sa là áo bá nạp, nạp tăng tức là những người xuất gia mặc áo vá.

No dầu tự tại. No tức là được nuôi dưỡng đầy đủ, không đói về chánh pháp, không đói về phương pháp thực tập. "Dầu" là thỏa thuê, tha hồ. "Tự tại" là sự thảnh thơi, sự tự do. Trước nạp tăng tức là các vị xuất gia ngày trước, được nuôi nấng, được dạy dỗ để được tha hồ có sự tự tại. Cũng có thể hiểu là các vị thiền sư khi đã chứng ngộ rồi thì họ có một cái tự do rất lớn, họ có thể sử dụng bất cứ một biện pháp nào để cho người đệ tử có thể tháo gỡ những cái kẹt ở trong tâm của họ.

Sư tử ông Đoan, trâu thầy Hựu, răn đàn việt hượm xá nghênh ngang

Sư tử ông Đoan tức là sư tử của thiền sư Tây Dư. Thiền sư Tây Dư họ Đoan cho nên gọi là ông Đoan. Thiền sư Tây Dư có một cái nón đan bằng chỉ nhiều màu, giống như một cái đầu sư tử. Thỉnh thoảng ông đội cái nón đó vào, ông làm trò trong khi dạy học trò, nói ta là sư tử.

Trâu thầy Hựu, thầy Hựu tức là tổ của phái Quy Sơn, Quy Sơn Linh Hựu. Ngày xưa thiền sư Vô Ngôn Thông đã từng dạy thầy Linh Hựu trước khi qua Đại Việt. Hồi đó thiền sư đang là một chú tiểu còn nhỏ.

Quy Sơn Linh Hựu sinh năm 771, tịch năm 853. Một hôm thiền sư Quy Sơn lên Pháp tọa và tuyên bố rằng: "Một trăm năm sau tôi sẽ đầu thai làm một con trâu trắng ở dưới núi này". Nghe nói hồi đó có một thầy khác nói: "Tôi cũng muốn theo thầy, tôi cũng muốn làm con trâu trắng ở dưới núi, đẹp lắm". Thì thầy Quy Sơn nói: "Như vậy thì thầy phải ngoạm một ngoạm cỏ vào trong miệng thì tôi mới nhận ra thầy!"

Răn đàn việt hượm xá nghênh ngang. Răn tức là cảnh cáo, báo cho biết trước. Đàn việt tức là những người Phật tử tới chùa để cúng dường cho các thầy tu học. Chữ đàn có nghĩa là cúng dường, tiếng Phạn là D(na. Có khi mình gọi là Đàn-na, như đàn-na thí chủ. Bố thí Ba La Mật thì gọi là Đàn Ba la mật (Dªna-Paramita ). Răn đàn việt hượm xá nghênh ngang, hượm tức là khoan đã, đợi đã; xá là chớ, đừng có. Đợi đã, đừng có lấy le ta là giỏi, ta là giàu, ta là hộ pháp, ta là quan trọng trong chùa này. Không có ta, chùa này đâu được như vầy. Nghênh ngang! Tại vì thầy mình lớn lao như vậy mà thầy chỉ muốn làm con trâu trắng ở dưới núi thôi. Sức mấy mà mình dám hống hách, cho mình là quan trọng?

Đưa phiến tử, cất trúc bề, nghiệm kẻ học cơ quan nhẹ nhẵn
Xô hồn cầu, cầm mộc thược, bạn thiền hòa chước móc khoe khoang

Phiến tử là cái quạt. Thiền sư Văn Uyển, hiệu là Vân Môn. Vân Môn là một trong năm thiền phái ở Trung Quốc. Trong khi thuyết pháp, thầy thường cầm một cái quạt dơ lên và sử dụng một công án. Có một hôm thiền sư nói: Cái quạt này nó có thể nhảy lên cõi trời thứ 33 và nó đụng vào mũi của vua Đế Thích-Con cá chép ở biển Đông bị đánh một gậy, mưa như chậu đổ. Đó là một công án. Quí vị có hiểu gì không? Lúc đó là lúc thiền sư vừa nói vừa đưa cái quạt lên. "Đưa phiến tử" có nghĩa như vậy. Phiến tử là cái quạt.

Cất trúc bề, trúc bề là một dụng cụ bằng tre, phía trên xòe ra. Một hôm thiền sư Quy Tính đến tham vấn thiền sư Tỉnh Niệm, và thiền sư Tỉnh Niệm đưa cái trúc bề lên hỏi: Bây giờ mình gọi cái này là cái gì đây? Gọi là cái trúc bề thì không được, tại vì mình biết cái trúc bề là được làm bằng những yếu tố không phải là trúc bề. Mà không gọi là trúc bề thì cũng không đúng luôn. Cũng như hai chị em. Mình gọi người này là chị, thì cũng không được, tại vì nếu không có người em thì mình là chị của ai? Mà nếu không gọi là chị thì gọi là gì bây giờ? Tức là muốn nói hai cái là một, không có cái này thì không có cái kia. Và đó là một công án của thiền sư đưa ra.

Mình biết hễ mở miệng ra một cái là sai! Tôi và anh là đã sai, thầy và con là đã sai, xuất gia và chưa xuất gia là đã sai, vì có sự phân biệt ở trong đó. Tại vì có em trong chị, có chị trong em; có thầy trong trò, có học trò trong thầy; có con trong mẹ, có mẹ trong con. Làm thế nào để có cái gươm có thể cắt đứt cho hai cái không dính nhau? Đó là chuyện không thể nào có được! Thành ra mẹ phải sống đời sống của con, con phải sống đời sống của mẹ. Học trò phải sống đời sống của thầy, thầy phải sống đời sống của học trò. Hai là một, mình phải ở trong da thịt của nhau thì mới đúng.

Nghiệm kẻ học cơ quan nhẹ nhẵn. Nhẹ nhẵn tức là nhẹ nhỏm. Cơ quan tức là những phương pháp, những phương tiện, những cái then máy để có thể giúp được người thiền sinh. Người thiền sinh là kẻ học, tức là học giả. Nghiệm tức là trắc nghiệm, kinh nghiệm. Nhẵn là nhẹ nhõm. Đưa phiến tử, cất trúc bề, sử dụng những phương pháp nhẹ nhõm để giúp kẻ thiền giả trên con đường chứng nghiệm, đạt đạo.

Xô hòn cầu, cầm mộc thược, bạn thiền hòa chước móc khoe khoang

Xô hòn cầu tức là nói về thiền sư Tiết Phong Nghĩa Tùng, một hôm lên Pháp tọa thuyết pháp thầy đem theo một quả cầu bằng gỗ. Trong khi thuyết pháp thầy đưa quả cầu đó ra, thì có một vị đệ tử tên là Sư Bị nắm lấy và để lại chỗ củ. Cầm mộc thược, mộc thược là cái duột bằng gỗ. Cái duột là cái gáo nhỏ để múc, mình đã gặp trước đây. Như vậy các thiền sư đã dùng những dụng cụ như vậy để khai thị cho đệ tử.

Bạn thiền hòa chước móc khoe khoang. Bạn thiền hòa là những người sống ở trong tăng thân. Tức là thiền sinh cùng sống chung trong sáu sự hòa hợp (lục hòa) thì gọi là bạn thiền hòa. Chước móc là mưu kế; khoe khoang là chứng tỏ rằng mình hiểu, đôi khi mình không hiểu mà mình muốn chứng tỏ là mình hiểu, tức là có thể lạc vào trong hình thức. Tại vì các thiền sư khi họ có sự đạt ngộ thì họ dùng những phương tiện này, phương tiện nọ, đôi khi mình không đạt ngộ gì cả mình cũng giả đò hét tiếng hét, hay cầm cây gậy múa một hồi để nói rằng mình có đạt cái gì đó! Nhưng đó chỉ là làm trò cười cho thiên hạ thôi. Bạn thiền hòa chước móc khoe khoang, những cử động đó đều là bất thường, chứ không phải là phi thường đâu, không chứa đựng gì trong đó cả!

Thuyền Tử rà chèo, dòng xanh chửa cho tịn tẩy

Thuyền Tử tức là Thuyền Tử Đức Thành. Ông này không muốn lập đạo tràng để giáo hóa. Ông chỉ muốn đi chơi sơn thủy thôi. Ông thường dùng một thuyền con, ông đi và đưa người từ bên này sông sang bên kia sông. Sống một cuộc đời rất phóng đảng, không cư trú ở một chỗ nhất định. Nghe nói sau này thầy Thuyền Tử lật úp chiếc thuyền lại và chết ở trong dòng nước xanh, và người ta nghĩ rằng thầy chưa đạt tới sự giác ngộ hoàn toàn.

Tịnh tẩy có nghĩa là hiểu biết một cách thấu đáo, là giải thoát hoàn toàn. Dòng xanh chửa cho tịnh tẩy, nghĩa là dòng sông xanh chưa cho phép thầy đạt tới sự giải thoát hoàn toàn.

Đạo Ngô múa hốt, càn ma dường thấy quái quàng

Thầy Đạo Ngô, ông này cũng kỳ lắm, mỗi khi lên diễn đàn thì ông đội một cái mũ hoa sen, cầm thanh gươm gỗ (tức là cái hốt) và ông múa làm trò hề. Càn ma tức là giống như tà ma; quái quàng tức là quấy quàng, làm bậy bạ, không ra gì cả. Bề ngoài thì người ta thấy thầy làm như vậy, giống như là một người mất trí, nhưng không chắc ở trong đó nó có sự mất trí.

Rồng Yển lão nuốt càn khôn, ta xem chỉn lệ

Thiền sư Văn Yển nói cái gậy này của tôi là con rồng lớn, nó có thể nuốt được cả trời đất. Càn khôn là trời đất. Lệ tức là sợ hãi. Ta xem chỉn lệ: Ta nhìn cái gậy của thiền sư Văn Yển và thấy đó là một con rồng, có khả năng nuốt trọn cả trời đất cho nên ta rất sợ, tại nó nuốt luôn cả ta!

Rắn ông Tồn ngang thế giới, người thấy ắt giang

Trên đây là con rồng của thiền sư Văn Yển, bây giờ tới con rắn của thiền sư Nghĩa Tồn. Thiền sư Nghĩa Tồn một hôm lên pháp tọa nói rằng ở núi phía Nam có một con rắn mũi giải, các con phải coi chừng. Con rắn của thiền sư Nghĩa Tồn cũng là một phương tiện để giúp người. Người thấy ắt giang tức là người ta trông thấy con rắn đó, thế nào cũng phải dang ra một bên.

Cây bách là lòng, thác ra trước phải phương Thái Bạch

Cây bách thì mình đã gặp. Cây bách tức là đình thiền Bách Thọ Tự, cây tùng trước sân của thiền sư Triều Châu. Cây bách là lòng: Cây bách đó chính là tâm của ngươi.

Thác ra trước phải phương Thái bạch. Thác tức là nhờ cậy, phó thác. Thái bạch là sao Thái Bạch, mọc ở phương Đông. Cho nên phương Thái Bạch tức là phương Đông. Muốn thấy được cây bách đó thì phải ra trước sân, nhìn về hướng sao Thái Bạch thì mới có thể nhận thức được sự có mặt của cây tùng đó.

Bính đinh thuộc hỏa, lại trở sau lỗi hướng thiên cang

Thiên cang tức là vị thần chủ của sao Bắc Đẩu, không phải phương Đông mà là ở phương Bắc. Bính đinh là hai cang thuộc về hành hỏa. Người ta làm ra thiên cang và ngũ hành. Ngũ hành là năm yếu tố mà nếu học triết hay Y khoa Đông phương thì mình phải biết. Ngũ hành là Kim (chất kim khí), Mộc (chất gổ), Thủy (chất nước), Hỏa (chất lửa), và Thổ (chất đất). Ví dụ như bộ phận tiêu hóa thì nó thuộc về thổ. Còn Bính Đinh thì nó thuộc hỏa, và Bính Đinh đã là hỏa rồi, mà Bính Đinh còn đi tìm hỏa thì chuyện đó là chuyện buồn cười. Mình có cái giác tính ở trong con người của mình rồi mà mình đi tìm cái giác tính đó ở ngoài, thì cũng giống như là anh chàng Bính Đinh mà đi tìm lửa. Trong chùa thường có một chú tiểu coi về đèn đuốc, giữ cho đèn đừng bao giờ tắt. Chú tiểu đó được gọi là Bính Đinh trọng tử. Hễ nói tới Bính Đinh là mình nghĩ tới lửa.

Lại trở sau lỗi hướng thiên cang. Nếu không hướng về sao Bắc Đẩu thì mình đi lộn đường, cũng như là Bính Đinh đi tìm hỏa ở một nơi khác. Lỗi tức là lầm, lỗi hướng tức là đi lạc đường.

Trà Triệu lão, bánh Thiều Dương, bầy thiền tử hãy còn đói khát

Trà Triệu lão tức là trà của thiền sư Triều Châu. Chúng ta đã nghe chuyện này rồi: Có một tăng khách tới thì thầy hỏi: Thầy đến đây lần đầu hay đã đến nhiều lần rồi? Dạ con đến đây nhiều lần rồi! Thầy nói: Vậy thì mời thầy đi uống trà. Một thầy khác tới, thiền sư hỏi: Thầy đến đây lần đầu hay đã đến nhiều lần rồi? Dạ con mới đến lần đầu. Thầy cũng nói: Vậy thì mời thầy đi uống trà. Vị thủ tọa ngạc nhiên nên hỏi rằng: Bạch thầy, như vậy thì có khác gì đâu, tới nhiều lần cũng mời đi uống trà, mà mới tới lần đầu thì cũng mời đi uống trà, như vậy có nghĩa là sao? Thiền sư nói: Mời thầy đi uống trà luôn! Đó là trà của thiền sư Triều Châu.

Hình như ở Làng Mai mình cũng có loại trà đó! Trà của thiền sư Triều Châu mình phải uống cho được. Mỗi người trong chúng ta phải biết nếm trà của thiền sư Triều Châu. Nếu ở đây ba bốn năm rồi thì mình cũng uống trà đó, nếu mới tới một vài ngày mình cũng uống trà đó. Nếu mình không hiểu tại sao mà người nào cũng phải như vậy hết, thì mình cũng phải uống trà đó luôn! Tại vì nếu mình còn tìm một cái gọi là special treatment thì mình chết.

Thường thường người ta ngu. Special treatment tức là muốn biệt đãi, muốn thầy coi mình đặc biệt hay là muốn chúng coi mình là đặc biệt, tức là mình còn kỳ thị, cho nên trà của thiền sư Triều Châu là một thứ trà rất đặc biệt mà mỗi người phải uống, nếu không thì cứ khát hoài.

Bánh Thiều Dương, Thiều Dương tức là thiền sư Văn Uyển. Có người hỏi thiền sư Văn Uyển một câu gì đó, tôi không nhớ là câu gì. Ví dụ như chủ đích của tổ Bồ-Đề Đạt-Ma khi tới đây là để làm gì? Hoặc đại ý của Phật pháp là gì? Thì thầy trả lời: "Bánh!". Thầy Triều Dương hay mời người ta ăn bánh. Có một hôm thầy hỏi: Thầy ăn được mấy cái bánh rồi? Dạ con ăn năm cái rồi. Người khác: Ăn được mấy cái? Dạ hai cái. Và thầy hay dùng chữ bánh để trả lời những câu hỏi của các vị đệ tử, cho nên thầy nổi tiếng là vị thiền sư hay tặng bánh cho người ta thay vì tặng những ý niệm hết sức là mơ hồ của giáo lý.

Bầy thiền tử hãy còn đói khát. Dù mình có những thầy rất giỏi, cho mình đầy trà, đầy bánh nhưng mình vẫn chết đói như thường, vẫn chết khát như thường. Mình vẫn khổ, mình vẫn buồn, mình vẫn giận nhau, ganh tị nhau như thường. Tại vì trà của thầy mời, mình không chịu uống, bánh của thầy cho, mình không chịu ăn. Bầy thiền tử, bầy là đám, thiền tử là thiền sinh, hãy còn đói khát. Đó không phải là lỗi tại thầy.

Ruộng Tào Khê, vườn Thiếu Thất, chúng nạp tăng những để lưu hoang

Ruộng Tào Khê là ruộng của tổ thứ Sáu; Vườn Thiếu Thất tức là vườn của thầy Bồ-Đề Đạt-Ma. Mình là con cháu, ruộng vườn hương hỏa của cha ông để lại rất nhiều nhưng mình không chịu cày cấy, cho nên mình đói. Mình không chịu làm ăn, mình để hoang đất vườn của tổ tiên để lại. Vườn ruộng ông cha phải tự cày. Đó là một câu thơ của thiền sư Trần Thái Tông. Lưu hoang là để hoang, không cày cấy. Tâm của mình là ruộng, nếu mình không cày ruộng tâm thì mình không thể nào gieo trồng và tưới tẩm để có những hoa trái của hạnh phúc và của giác ngộ cả. Tại vì tâm mình bị để hoang.

Gieo bó củi, nảy bông đèn, nhân mang mới nát

Gieo bó củi, thiền sư Tuyết Phong đến thăm thiền sư Ngộ Bổn ở núi Động Sơn. Khi bước vào thiền sư Ngộ Bổn nói: Muốn vào cửa thì phải có một lời nói mới vào cửa được. Thì thiền sư Tuyết Phong nói: Tôi không có miệng! Thầy Ngộ Bổn nói: Nếu không có miệng thì trả con mắt lại cho tôi, tại sao không có miệng được?Con mắt tôi giao cho anh, anh để đâu mà bây giờ anh nói anh không có miệng? Con mắt tức là trí tuệ, tuệ giác. Lúc đó thiền sư Tuyết Phong mới liệng bó củi vác trên vai xuống. Thầy Ngộ Bổn hỏi: Nặng không? Thầy Tuyết Phong nói: Nặng lắm, tất cả mọi người trong xã hội này tới khiêng mà khiêng không nổi. Đó là điển tích gieo bó củi của thầy Tuyết Phong.

Nảy bông đèn. Đây có thể là câu chuyện của hai thiền sư, một thiền sư này tới thăm thiền sư kia, và khi tham vấn xong ra về thì trời đã tối, thành ra thiền sư chủ mới đưa khách ra cửa. Khi thấy tối quá thì thầy nói rằng: Đợi một chút, tôi vào lấy cái đèn. Ông mới vào thắp đèn lên rồi đưa ra cho thầy kia để thầy có thể về đến cốc của mình mà không bị vấp té vào những gốc cây. Nhưng khi thầy kia vừa cầm lấy cây đèn thì thầy này thổi một cái, làm cây đèn tắt! Và bóng tối nó đến một cách đột ngột. Nhờ vậy mà thầy kia đột nhiên giác ngộ! Đó là sự tích "Nảy bóng đèn".

Nhân mang mới nết. Nết tức là hay ho, giỏi giang. Mang là cầm lấy, mang lấy, tức là tự thân mình đã đi qua cái kinh nghiệm đó thì gọi là mang. Nhân mang mới nết nghĩa là vì lý do mình đã trải qua cái kinh nghiệm đó, mình đã mang bó củi đó, mình đã mang cây đèn đó cho nên mình mới đạt tới cái thấy đó, mình mới trở thành người giỏi.

Lộc đào hoa, nghe tiếng trúc, mặc vẻ mà sang

Lộc đào hoa tức là thiền sư Linh Vân. Thiền sư nhờ thấy những cái lộc hoa đào nở, mà thầy tiếp xúc được với bản môn, với cái mầu nhiệm của pháp thân và thầy giác ngộ.

Nghe tiếng trúc là thiền sư Hương Nghiêm. Thiền sư Hương Nghiêm tu học, tham khảo công án hoài mà không giác ngộ. Có một lần sư phụ trao cho công án: Hãy cho tôi biết mặt mũi của thầy trước khi cha mẹ thầy sinh ra như thế nào. Thầy Hương Nghiêm mang cái công án đó về để khảo cứu. Trước đó thì thầy học rất giỏi, thuộc rất nhiều kinh, nhưng đến khi bị thiền sư hỏi thì thầy không trả lời được. Cho nên thiền sư mới nói tất cả những cái mà sư chú đã học, đều hoàn toàn vô ích, không giúp gì cho đời sống của một người tu hành cả. Thành ra thầy giận, về đốt hết tất cả kinh điển, sách vở rồi thầy rút về một cái am rất nhỏ và thầy tham khảo cái công án đó. Trong một buổi sáng hay buổi chiều gì đó, thầy đã buông bỏ hết tất cả những tham vọng làm thiền sư, tham vọng được thầy truyền đăng, tại vì có mặc cảm là mình dốt, mình học nhiều như vậy mà thầy nói mình Zéro! Cho nên mình đốt hết, buông bỏ hết tất cả những tham vọng dù là tham vọng đi làm thiền sư để được truyền đăng. Thì chỉ trong mấy ngày, sau khi buông bỏ cái đó thì nó xảy ra một chuyện, là thầy nói thầy chỉ muốn cuốc đất trồng khoai để sống cho thanh tịnh thôi chứ không muốn gì nữa hết!

Trong khi cuốc đất, cái cuốc của thầy chạm vào một hạt sỏi, văng vào một thanh tre kêu một tiếng "cóc". Nghe tiếng cóc của thanh tre đó thì tự nhiên tâm tư thầy bừng nở và thầy giác ngộ! Đó là chuyện "Nghe tiếng trúc". Tiếng trúc đó nếu nó tới trước khi thầy buông bỏ cái hy vọng, cái ý niệm kia thì chắc là không có kết quả. Nhưng nhờ thầy đã buông bỏ những ý muốn, những ý niệm đó rồi, thành ra tiếng viên sỏi chạm vào thanh tre đã tháo gỡ được cho thầy.

Mặc vẽ mà sang, hai người đó (tức thiền sư Linh Vân và thiền sư Hương Nghiêm) người nào cũng sang trọng vào bậc nhất trong giới thiền học. Tại vì một thầy chỉ nhìn hoa đào mà giác ngộ, một thầy thì cuốc đất, nghe tiếng sõi chạm vào thân trúc mà giác ngộ, hai người là hai ông thầy sang nhất trong tất cả các ông thầy sang. Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.

Giáo pháp trong Hội thứ Chín

Trong hội thứ Chín, hội khó nhất của bài Cư Trần Lạc Đạo, chúng ta đã duyệt qua một số những cơ quan, những công án, những pháp thức của các thầy ngày xưa đã sử dụng để tháo gỡ những cái kẹt cho học trò của họ.

Chúng ta sang Hội thứ Mười.

HỘI THỨ MƯỜI

Tượng chúng ấy.

Cốc một chân không.

Dùng đòi căn khí.

Nhân lòng ta vướng chấp khôn thông.

Há cơ tổ nay còn thực bí.

Chúng Tiểu thừa cốc hay chửa đến, Bụt xá ngăn Bảo sở hóa thành.

Đấng Thượng Sĩ chứng thực mà nên, ai ghẻ có sơn lâm thành thị.

Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao.

Chiền vắng am thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du hý.

Ngựa cao tán cả, Diêm Vương nào kể đứa nghênh ngang.

Gác ngọc lầu vàng, ngục tốt thiếu chi người yêu quý.

Chuộng công danh, lồng nhân ngã, thực ấy phàm ngu.

Say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí.

Mày ngang mũi dọc, tướng tuy lạ xem ắt bẳng nhau.

Mặt thánh lòng phàm, thực cách nhẫn vàn vàn thiên lý.

Bình giảng Hội thứ Mười

Tượng chúng ấy

Chữ tượng ở đây không có nghĩa gì nhiều hết, nó là dịch từ chữ "cái", thường để đầu những bài văn ngày xưa: Cái văn. "Chúng" ở đây có nghĩa là đại chúng. "Tượng chúng ấy" có thể hiểu là: Xin đại chúng nghe.

Cốc một chân không

Cốc là biết, biết rằng chỉ có một cái thôi, đó là chân không, True emptiness. Đó là chủ đích của sự tu học, tức là đạt được chân không, cái thực tại nhiệm mầu, cái gốc rễ, cái nền tảng của hiện hữu, của sự sống. Chân không là nền tảng đích thực của mọi sự mọi vật trong cuộc sống. Đại chúng nghe đây, chúng ta biết rằng chúng ta chỉ có một mục tiêu thôi, đó là đạt tới cái chân không.

Dùng đòi căn khí

Chỉ có một chuyện đó thôi, nhưng chúng ta phải sử dụng, phải làm theo, phải thực tập trong nhiều căn khí khác nhau. Đòi tức là theo. Dùng đòi tức là làm theo, thực tập theo. Căn khí, căn là cái gốc. cái căn cơ của mình, tức là trường hợp riêng của mình. Ví dụ ta nói người đó có căn tu. Nếu không có căn tu thì cách gì người đó cũng không tu được hết. Nếu người đó có căn tu thì ngăn cản cách nào người đó cũng cứ tu. "Khí" tức là cái bản chất, cái tính chất của từng người. Khí ở đây cũng có nghĩa là cái dụng cụ, như trong danh từ pháp khí, Instrument of the Dharma.

Nếu mình là một nhạc sĩ, thì mình là một khí cụ để tạo ra những âm thanh vi diệu, những âm thanh làm cho lòng người thanh thản, đẹp đẽ. Như vậy nhạc sĩ là một khí cụ. Nếu mình là một họa sĩ thì bàn tay của mình, tài vẽ của mình là một khí cụ. Khí cụ đó nó có thể thực hiện được lý tưởng của mình. Người tu ai cũng là một pháp khí cả, tức là một khí cụ để biểu dương chánh pháp. Mình phải biết cái tài năng, cái tính chất, cái sở trường của mình để mình có thể sử dụng nó mà phục vụ cho chánh pháp, đem lại sự an lạc, vững chãi, thảnh thơi cho chính mình và cho những người chung quanh. Đó là cái khí. Ta có cái căn và cái khí. Căn khí của chúng ta không giống nhau. Vì vậy phương pháp chúng ta đến với chân như nó có thể khác nhau.

Cho nên mỗi người được thầy, được tổ trao cho một then máy, một phương pháp khác nhau. Người thì công án này, người thì công án kia. Người thì phải được khai mở bằng cách chém con mèo ra làm đôi thì mới giác ngộ được, người thì chỉ cần để chiếc dép trên đầu mà đi. Đó là những cái then máy, những phương tiện, những phương pháp. Người thì phải nói ngọt, người thì phải la rầy, người thì phải đánh. Mỗi người có một căn khác nhau, và có cái khí khác nhau. Có người cần phải khổ đau một thời gian thì mới thoát ra được. Người nào cũng phải qua cầu mà người khác không thể qua giùm cho mình được. Mình phải tự qua cầu lấy.

Vậy thì chỉ có một cái cần được thực hiện thôi, đó là đạt tới chân không. Nhưng để đạt tới chân không, chúng ta có nhiều con đường khác nhau, nhiều phương pháp khác nhau, tại vì mỗi người trong chúng ta có những căn, khí khác nhau. Cốc một chân không, dùng đòi căn khí là có nghĩa như vậy.

Nhân lòng ta vướng chấp khôn thông

Tại vì lý do trong tâm của mình có một cái kẹt nào đó thành ra chưa có sự thông suốt. Nhân lòng ta vướng chấp khôn thông, trong mỗi chúng ta có một cái kẹt, và chính cái kẹt đó nó làm cho sự lưu thông bị nghẽn đọng lại. Cái tuệ giác có trong ta, cái thương yêu, cái hiểu biết, cái tình thương có trong ta, nhưng tại vì ta có một cái kẹt gì đó trong tâm, khiến cho cái tuệ giác đó, cái tình thương đó, sự hài hòa đó nó không biểu hiện ra được. Khôn có nghĩa là khó. Khôn thông là khó có thể có sự thông cảm.

Há cơ tổ nay còn thửa bí

Không phải những then máy của chư tổ đưa ra cho ta thực tập còn có chỗ thần bí, khó hiểu hay là bế tắt. Chữ "bí" này có thể hiểu là thần bí. Ngài nói cái gì mà con chẳng hiểu gì cả! Lỗ tai con nghe công án của ngài giống như con bò nó nghe nhạc của Chopin. "Thửa bí" tức là chỗ còn bí. Thửa thấy, thửa nghe là chỗ thấy chỗ nghe. Đôi khi trong lòng mình có một cái kẹt mà mình không biết, mình lại nói cái công án của tổ đưa cho mình không thích hợp, không hiểu được, nó còn có những cái bí hiểm ở trong công án đó.

Khi tổ đưa cho mình, thầy đưa cho mình một công án, đặt mình trước một hoàn cảnh, một vấn đề cần giải quyết, là vì tổ hoặc thầy thấy ở trong mình có cái kẹt đó cho nên mới trao cái đó cho mình. Giống như trao cho mình một cái búa hay một cái kềm để mình gỡ chỗ bí của mình, và mình phải biết tiếp nhận cái búa đó, cái kềm đó, cái then máy đó một cách rất thông minh và với niềm tin tưởng. Chứ còn mình nói rằng cái búa, cái kềm, cái công án đó không thích hợp với mình, nó có chỗ bí hiểm, mình không hiểu được, hoặc nó không phải là cái thích hợp với mình, thì chẳng đi đến đâu! Phải thấy rằng vì trong lòng ta nó bị kẹt nên chưa thể có sự thông thương, chứ không phải là phương tiện của thầy, của tổ trao cho, nó không hoàn hảo.

Chúng Tiểu thừa cốc hay chửa đến, Bụt xá ngăn Bảo sở hóa thành

Chúng Tiểu thừa tức là những người trong đoàn thể Tiểu thừa. Cốc hay chửa đến tức là sự giác ngộ, sự hiểu biết của họ chưa đến nơi đến chốn. Những người có cái nhìn chật hẹp, cố chấp thì được gọi là tiểu thừa, chứ kinh thì không có tiểu thừa, đại thừa, giáo cũng không có tiểu thừa, đại thừa gì hết.

Chúng Tiểu thừa cốc hay chửa đến: Đối với những người Tiểu thừa thì cái hiểu biết của họ, cái giác ngộ của họ chưa được hoàn hảo. Nó có, nhưng mới có nửa chừng thôi (chửa đến). Chữ cốc là biết, gốc của nó là chữ giác, giác ngộ.

Bụt xá ngăn Bảo sở hóa thành. Đức Thế Tôn đâu có ngần ngại, đâu có ngăn ngừa, đâu có ngần ngừ tạo ra phương tiện gọi là Bảo sở hóa thành. Bảo sở tức là một nơi có nhiều châu báu, một núi châu báu mà tất cả chúng ta đều muốn đi tới, tại vì biết rằng khi đi tới núi châu báu đó thì tất cả chúng ta đều giàu sang, hạnh phúc. Giàu sang về hiểu biết, giàu sang về thương yêu, giàu sang về vững chãi, về thảnh thơi.

Có một trái núi mà tại đó châu báu rất nhiều, và Bụt là một vị đạo sư, tức là người dẫn đường. Bụt nói rằng có một ngọn núi đầy dẫy châu báu, nay ta đem các vị đến, leo lên núi đó và tha hồ mặc sức rong chơi, tại vì tới đó thì châu báu rất nhiều.

Nhưng đi được nửa đường thì mọi người thấy mỏi mệt và tâm của họ muốn thối lui. Gặp một vài khó khăn thì cái tâm nó muốn dừng lại, muốn bỏ để trở về. Bụt thấy được cái tâm đó cho nên Bụt nói rằng: Đừng có dừng lại, đừng trở lui, tại vì cách đây chỉ năm, mười dặm thôi, có một thành phố nhỏ. Nếu mệt mỏi, chúng ta có thể vào thành phố đó nghỉ ngơi một đêm. Khỏe khoắn rồi thì hôm sau chúng ta sẽ đi tiếp. Nửa chừng mà bỏ lỡ thì rất uổng. Và vị đạo sư đó đã hóa ra một thành phố ảo thuật, tất cả mọi người đều vui mừng đi vào trong thành phố đó để tắm gội, ăn uống, nghĩ ngơi.

Sáng hôm sau thì họ không muốn tiếp tục đi nữa, cho rằng ở đây sướng quá rồi, tại sao phải đi? Bụt nói rằng đây chưa phải là mục đích của chúng ta. Mục đích của chúng ta là trái núi châu báu kia. Quí vị phải bỏ thành này đi thì mới có thể đến núi châu báu kia được. Sau khi nghe Bụt khai thị như vậy, mọi người buông bỏ thành phố ảo thuật, tiếp tục lên đường, và cuối cùng họ tới được trái núi có nhiều châu báu gọi là Bảo Sở.

Cái gọi là Niết bàn của Tiểu thừa, tức là trạng thái an ổn của tâm lý thì cũng vậy. Người ta đau khổ quá, người ta muốn đạt tới sự an ổn của tâm lý để cho khỏi khổ. Và khi đạt tới trạng thái an ổn của tâm lý đó là người ta tưởng là đủ rồi, không muốn đi thêm nữa. Bụt nói mục đích của mình không phải đến đây là dừng lại để tìm một sự an ổn tương đối cho tâm hồn. Chúng ta phải đi nữa, tại vì chúng ta phải đạt thành thánh quả để cứu độ tất cả chúng sanh.

Con đường của quí vị đi còn xa. Những người gọi là Tiểu thừa thì họ mãn ý với cái thành phố ảo thuật, vì vậy mà thái độ của họ là thái độ Tiểu thừa, và Bụt dạy kinh Đại thừa để cho họ nhả cái thành phố đó ra mà đi tới một mục đích cao cả hơn gọi là Bảo Sở.

Tại vì khi đạt tới Niết bàn của Tiểu thừa thì mới chỉ tới được thành phố ảo thuật thôi. Đó là thành phố mà vị đạo sư dẫn đường thiết lập ra để cho người đi đường bớt mệt, bớt khổ. Đó không phải là cái đích tối cao của chuyến hành hương. Vì vậy nếu chúng ta tìm được một chút an lạc, ẩn náu ở trong sự an tịnh của tâm hồn rồi mà không đi tới nữa tức là mình bị kẹt vào cái hóa thành. Chúng Tiểu thừa cốc hay chửa đến, Bụt xá ngăn Bảo sở hóa thành. Những người có tâm niệm Tiểu thừa thì cái giác ngộ, cái hiểu biết của họ còn nữa vời, vì vậy cho nên Bụt mới sáng chế ra cái phương pháp Bảo Sở hóa thành để giúp cho họ đi tới. Đó là một phẩm trong kinh Pháp Hoa.

Đấng Thượng Sĩ chứng thực mà nên, ai ghẻ có sơn lâm thành thị

Đấng Thượng Sĩ ở đây chúng ta phải hiểu là Tuệ Trung Thượng Sĩ, tức là bác họ của Trúc Lâm Đại Sĩ. Chữ Thượng Sĩ này người ta cũng có thể hiểu là các vị Bụt, các vị Bồ tát, nhưng kỳ thực đây là nói về ông bác của Trúc Lâm Đại Sĩ Trần Nhân Tông. Tại vì uy tính của Tuệ Trung Thượng Sĩ thời đó rất lớn. "Chứng thực" tức là đi vào được thực tại của chân không, cho nên thành tựu được đạo quả. Chứng thực có nghĩa là kinh nghiệm trực tiếp, đạt được cái thực tại một cách trực tiếp gọi là "chứng thực mà nên". Mà nên có nghĩa là mà thành công trong con đường tu học.

Ai ghẻ có sơn lâm thành thị. Ghẻ đây có nghĩa là phân biệt, chia rẽ, kỳ thị. Thượng Sĩ đâu có ở trên núi? Thương Sĩ ở ngay trong cuộc đời bụi bặm mà Thượng Sĩ đã có thể thành tựu được đạo nghiệp, thành ra đừng nói là phải bỏ thành phố, phải bỏ cuộc đời bụi bặm mới đi vào sự giác ngộ được. Đây là những hạt giống của tư tưởng đạo Bụt nhập thế, đạo Bụt đi vào cuộc đời mà chúng ta đang nghe nói đến ở các nước Tây phương.

Ý niệm đạo Bụt nhập thế nó phát xuất từ Việt Nam, nó phát xuất từ những sách vở, từ những bài giảng của tôi trong thời chiến tranh Việt Nam, và sau đó tổ chức Buddhist Peace Fellowship ở Hoa Kỳ đã phát triển ý niệm Engaged Buddhism đó, và hiện nay đã trở thành một ý niệm rất phổ thông ở tại Âu châu và Mỹ châu.

Chúng ta biết rằng đạo Bụt nhập thế đã có lâu đời tại Việt Nam, và ở trong bài này chúng ta có một chứng cớ trong rất nhiều chứng cớ. Đó là ở ngay trong cuộc đời bụi bặm mà có thể sống được an lạc với chánh pháp, gọi là Cư Trần Lạc Đạo. Ai ghẻ có sơn lâm thành thị? Ai phân biệt? Ai chia rẽ sơn lâm và thành thị? Ở đâu cũng tu được hết chứ không phải chỉ lên núi mới tu được.

Núi hoang rừng quạnh, ấy là nơi dật sĩ tiêu dao

Núi hoang tức là núi không có người ở, rừng quạnh là rừng vắng vẻ. Quạnh là vắng vẻ, không có người, như trong chữ hiu quạnh. Dật sĩ tức là những người muốn rút lui, những người ưa sống ẩn dật. Sĩ là người, dật tức là lui về, về vườn, về núi, về rừng. Tiêu dao là sống một cách thoải mái, thảnh thơi, an lạc, không bận rộn. Chúng ta có câu hát "Tâm không ràng buộc, tiêu dao tháng ngày"...

Chiền vắng am thanh, chỉn thực cảnh đạo nhân du hý

Chiền tức là chùa, ngày xưa chúng ta gọi chùa là chiền, cửa chiền. Mà chữ chiền này nó có liên hệ tới chữ thiền. Chiền tức là cách phát âm rất Việt Nam của chữ thiền.

Cửa chùa người Việt gọi là cửa thiền. Tiếng Hán Việt là Thiền môn. "Chiền vắng am thanh", chùa và am thanh vắng. Chỉn thực có nghĩa là đích thực. "Chỉn thực cảnh đạo nhân du hí", đó đích thực là cảnh mà các bậc đạo nhân thưởng thức. Du là đến nơi, hí là vui chơi. Đạo nhân hay đạo sĩ là người tu đạo. Thi nhân là người làm thơ, còn đạo nhân là người tu đạo. Chiền vắng am thanh, am thì nhỏ hơn chùa. Am thì có thể ở một người,nhưng chiền thì nhiều người ở hơn. Chùa và am thanh vắng đó đích thực là cảnh trí mà các người tu đạo thích tới và thưởng thức.

Ngựa cao tán cả, Diêm Vương nào kể đứa nghênh ngang

Những đứa giàu sang, đi ngựa thì đi những con ngựa rất cao. Che lọng thì dùng lọng rất lớn. Tán là lọng của những kẻ quyền quí, những ông quan, ông vua, những người giàu. Khi họ ỷ thế giàu có thì họ đi nghênh ngang ngoài đường, và họ không coi người đi bộ có "kí-lô" nào hết. Nhưng nghêng ngang ở trần thế thì được, khi chết xuống Âm Phủ thì Diêm Vương đâu có đối xử đặc biệt cho họ được? Không tiếp đãi họ đặc biệt hơn người khác. Thành ra anh nghênh ngang hôm nay thì coi chừng ngày mai xuống dưới đó anh nghêng ngang không được nữa đâu!

Gác ngọc lầu vàng, ngục tốt thiếu chi người yêu quý

Yêu quý ở đây có nghĩa là quyền quý, sang trọng chứ không phải là yêu mến, quý trọng đâu, Cũng như "Châu yêu ngọc quí" tức là châu ngọc mà nhiều người ham hố, nó sang trọng, nó quyền quý. Chữ yêu quý được lặp lại hai lần trong bài này, nó chỉ có nghĩa là sang trọng, quyền quý thôi. Nếu hiểu là "thương yêu quý trọng" tức là hiểu sai văn mạch ở trong bài này.

Gác ngọc lầu vàng, ngục tốt thiếu chi người yêu quý, Có nghĩa là những người sang trọng, những người quyền quý, suốt đời sống trong những gác ngọc, lầu vàng. Nếu có xuống thăm địa ngục thì mình cũng gặp khá nhiều những nhà giàu đó! Thành ra đừng nghĩ rằng mình có một đời sống dư dả về tiền bạc mà sau này mình không khổ đau, và bây giờ mình tự hào, tự thị. Gác tức là cái lầu phía trên. Gác sang trọng gọi là gác ngọc.

Chuộng công danh, lồng nhân ngã, thực ấy phàm ngu

Công danh tức là sự thành công về vật chất ở trong cuộc đời. Danh là tiếng tăm, những người chạy theo tiền bạc và tiếng khen. Những người cho rằng công danh là quan trọng nhất ở trên đời này (chuộng công danh), đó là những người phàm ngu. Những người đó họ lồng vào trong ngực của họ, họ lồng vào trong đời sống của họ cái ý niệm về nhân và về ngã, kỳ thị mình và người, đó là những kẻ phàm phu.

Say đạo đức, dời thân tâm, định nên thánh trí

Say ở đây tức là mến chuộng. Mến chuộng đạo đức. Dời có nghĩa là thay đổi, ở đây có nghĩa là chuyển hóa. Dời thân tâm tức là chuyển hóa thân tâm. Mến đạo đức, chuyển hóa thân tâm thì nó quyết định, nó cho mình hoàn thành được cái thánh trí. Thánh trí là cái hiểu biết sâu sắc về đạo, về thực tại.

Mày ngang mũi dọc, tướng tuy lạ xem ắt bẳng nhau

Bẳng nhau tức là bằng nhau. Tuy anh như thế này, tôi như thế kia, người đó như thế nọ, cái tướng bề ngoài của chúng ta tuy là lạ, nhưng tất cả chúng ta đều có mày ngang và mũi dọc hết. Anh nhà giàu, tôi nhà nghèo, anh làm bộ trưởng, tôi làm dân quèn, anh đi xe, tôi đi bộ, bề ngoài thấy khác nhau; anh có bằng tiến sĩ, tôi chẳng có bằng cấp gì hết, nhưng chúng ta đều bình đẳng hết trên phương diện chân như, bản thể, giác ngộ. Và khi xuống "dưới đó" thì chúng ta hoàn toàn bình đẳng. Dưới đó tức là đối diện với Diêm Vương. Lúc đó anh không thể nào có biệt đãi được, anh cũng như tôi thôi. Anh quen sống nghêng ngang ở trên này rồi thì anh sẽ khổ hơn tôi, tại tôi quen trên này rồi, thành ra khi xuống dưới đó tôi cũng thấy thoải mái, không sao hết! Ở trên này anh tạo địa ngục cho chúng tôi, xuống dưới đó anh lãnh đủ, tại cái địa ngục ở dưới đó là chính anh đang tạo ra trong thời gian anh ở trên này.

Mặt thánh lòng phàm, thực cách nhẫn vàn vàn thiên lý

Nó có sự khác biệt là bề ngoài của anh tuy có vẻ thánh thiện, nhân đức, đạo mạo, nhưng trong tâm anh có thể là đầy những mưu chước, đầy những ác độc. Nam Mô một bồ dao găm! Giữa cái hình tướng bên ngoài của anh, và cái bản chất của anh nó có một khoảng cách rất lớn. Thành ra nói về sự ngăn cách, sự khác biệt thì cái hình tướng giữa chúng ta không tạo ra được một khoảng cách nào, anh với tôi là một. Nhưng khoảng cách giữa cái bề ngoài của anh và cái bề trong của anh, có thể là mười ngàn lần, mười ngàn dặm, vàn vàn thiên lý. Thiên là một ngàn, vạn là mười ngàn, mười ngàn lần. Thành ra bề ngoài anh có vẻ đạo đức, liêm sĩ, nhưng bên trong của anh rất là bê bối, anh giả dối, anh ác độc, mưu mô. Vì vậy khoảng cách bề ngoài và bề trong của anh rất lớn. Thành ra cái mà anh nói khác nhau, tôi thấy chẳng khác gì hết. Nhưng cái mà anh tưởng không khác nhau, tôi thấy rất khác nhau, tức là cái bề ngoài của anh và cái bề trong của anh.

Thực cách nhẫn vàn vàn thiên lý. Nhẫn là đến, cách biệt nhau tới, Cách nhẫn là cách nhau đến.

Dưới đây là bốn câu kệ bằng chữ Hán để kết thúc bài Cư Trần Lạc Đạo.

KỆ KẾT THÚC

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên.

Cơ tắc xan hề khốn tắc niên.

Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch.

Đối cảnh vô tâm mạc vấn Thiền.

Bình giảng Bài Kệ

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên

Có nghĩa là mình ở nơi cõi bụi bặm, muốn sống vui với pháp môn tu học của mình, thì mình phải thích nghi với những điều kiện mình đang có trong hiện tại. Tùy duyên nghĩa là mình thích nghi được với những điều kiện mình thấy chung quanh chứ đừng đòi hỏi, đừng bất mãn. Đây là một nguyên tắc của hạnh phúc. Nếu mình đòi hỏi, mình bất mãn thì tất nhiên mình không có hạnh phúc. Vì vậy cho nên tùy duyên là nguyên tắc của Cư Trần Lạc Đạo. Nếu học được phép tùy duyên thì mình có thể sống trong cõi bụi bặm nhưng mình vẫn có thể sống hạnh phúc trong sự thực tập của mình.

Cơ tắc xan hề khốn tắc miên

Nghĩa là khi đói thì mình đi ăn cơm. Khi nào mệt thì mình nằm ngủ. Đó là nguyên tắc thứ hai của thiền tập.

Điều này không có nghĩa bất cứ lúc nào đói là mình có thể chạy vào bếp kiếm cái gì để ăn! Đói ăn, khát uống làmột thiền ngữ. Có nhiều thiền sinh hỏi quý vị tu thiền như thế nào? Thiền sư trả lời: Tu thiền dễ lắm, đói ăn, khát uống thôi. Tức là mình làm thỏa mãn nhu yếu của mình một cách rất tự nhiên. Nhưng bốn chữ "đói ăn khát uống" này mình phải hiểu theo nguyên tắc của nó. Mình sống trong chánh niệm, và sống cuộc đời bình thường của mình. Nhưng cuộc sống bình thường đó phải sâu sắc, mỗi giây phút của sự sống hàng ngày mình có thể tiếp xúc được với chiều sâu của thực tại. Mình không có những lo lắng, những sợ hãi, vì vậy cho nên mình có thể có hạnh phúc.

Chúng ta không phải ai cũng có khả năng đói thì ăn, khát thì uống, mệt thì ngủ. Tại vì khi ăn chúng ta không thật sự ăn, chúng ta lo lắng, buồn khổ, sợ hãi, ăn mà không có khả năng ăn. Khi uống cũng vậy, hay khi nghỉ ngơi cũng vậy. Khi nghỉ ngơi chúng ta không thực sự nghỉ ngơi!

Ở các nước Âu Châu, người ta quen truyền thống tới mùa hè thì mình phải đi nghỉ mát, và người nào không được đi nghỉ mát thì bị coi như là một trừng phạt lớn, cho nên nhất định phải đi nghỉ mát 15 ngày hay một tháng. Nhưng trong thời gian nghỉ mát ở bãi biển hay trên núi, họ không nghỉ ngơi gì cả. Phần lớn họ thường xài phí sinh lực của họ. Họ lo lắng, buồn khổ. Có nhiều người đi nghỉ mát về, lại còn mệt hơn trước khi đi nghỉ mát! Trong thời gian đi nghỉ mát, họ vướng víu, vương vấn, sầu khổ rất nhiều. Chuyện này xảy ra rất thường!

Theo nguyên tắc thì đi nghỉ mát là để có sức mà tiếp tục làm việc. Nhưng phần lớn sau khi đi nghỉ mát về thì người ta hết sức! Vì vậy cho nên "mệt thì nghỉ", đó không phải là chuyện dễ làm. Nghỉ như thế nào để mình thực sự có nghỉ ngơi, tạo lại được sức khỏe thể chất và tinh thần.

Tất cả mọi thực tập của chúng ta hàng ngày cũng vậy. Chúng ta ăn cơm, chúng ta uống nước, chúng ta rửa bát, chúng ta quét nhà, chúng ta ngồi thiền, chúng ta đi thiền hành, đó là thiền, nhưng trong mỗi động tác thực tập như vậy, chúng ta an trú sâu sắc và chúng ta thỏa mãn được những nhu yếu của chúng ta.

Có những lúc ngồi thiền chúng ta cảm thấy rất hạnh phúc, chúng ta thấy rằng không có gì hạnh phúc hơn là được ngồi như vậy. Nhưng cũng có những người ngồi thiền mà không thấy hạnh phúc gì cả, giống như mình bị bắt buộc phải ngồi bất động một chỗ. Trong khi đó mình muốn bay nhảy, mình muốn chạy.

Chúng ta đã học rằng con người sinh ra thế nào cũng có lúc phải chết. Tôi thế nào cũng phải chết. Tôi không thể nào tránh được cái chết. Tôi thế nào cũng phải già, tôi không thể nào thoát được cái già. Đó là những điều mình nhắc nhở mình, mình tâm niệm để biết rằng cái già và cái chết là những thiền án của mình.

Mình đã đi qua kinh nghiệm khi bị đau nặng, mình phải nằm liệt giường trong vòng hai hay ba tuần lễ, và mình rất thèm được mở cửa đi ra ngoài để thở không khí bên ngoài. Mình rất thèm được bước những bước thảnh thơi ở ngoài kia. Mình thèm lắm nhưng mình không được phép làm vậy. Không phải là bác sĩ không cho mình làm, nhưng vì mình không đủ sức để đứng dậy. Mình ngồi dậy thì đầu mình choáng váng.

Nếu quí vị đã từng đi thăm những người hấp hối, quí vị cũng biết rằng họ nằm trên giường bệnh, họ không có khả năng cử động tay và chân. Họ có những cái đau nhức rất lớn ở trong cơ thể mà nhiều khi phải nhờ tới những viên thuốc trị đau nhức. Họ có thể đang sống nhờ thực phẩm chuyền trực tiếp vào máu, tức là nước đường. Những lúc chờ chết như vậy, những lúc có những đau nhức lớn lao trong cơ thể như vậy thì hết rồi những cơ hội mình có thể đi được những bước thảnh thơi ở ngoài trời với đại chúng. Hết rồi những giây phút có thể ngồi lưng thật thẳng, thở những hơi thở dài, sâu, mỉm cười và biết rằng mình đang có sức khỏe, đang có sự sống. Nếu quí vị đã từng chứng kiến cảnh tượng của những người hấp hối thì quí vị biết rằng mình cũng sẽ như vậy mà thôi. Khi thấy được sự thật đó thì tự nhiên sự kiện mình đang ngồi trên gối thiền nó trở thành một điều vi diệu vô cùng!

Công phu tu tập hàng ngày của mình trong mười, hai mươi năm là để làm gì? Để có hạnh phúc trong khi mình ngồi, trong khi mình đi. Nếu có định, có tuệ, thì tuy cũng ngồi như những người khác, nhưng cái ngồi của chúng ta có phẩm chất rất cao. Hạnh phúc rất lớn, và chúng ta phải thấy rằng không có hạnh phúc nào lớn hơn hạnh phúc mình đang được ngồi. Còn nếu ngồi mà mình vất vả, mình tranh đấu, vật lộn với cái ngồi, thì cái ngồi đó là ngồi trong hang sâu. Còn người kia thì nhờ cái tuệ giác đó mà thấy rằng giây phút mà mình đang ngồi thiền là giây phút rất mầu nhiệm.

Nếu cái hạnh phúc của Bụt nó lớn lao trong khi ngồi thiền thì cái hạnh phúc của ta cũng có thể lớn lao bằng. Ta cũng có thể ngồi như Bụt, ngồi như một con người tự do, một con người đang sống. Sự kiện ta còn sống và đang ngồi đây cũng là một sự kiện rất mầu nhiệm. Vì vậy cho nên bỏ qua hai, ba mươi phút trong giờ ngồi thiền để sầu khổ, để lo lắng, để mong có tiếng chuông mà đứng dậy thì rất là uổng. Tất cả công phu tu học một đời là để có thể ngồi rất là hạnh phúc, để có thể đi rất là hạnh phúc. Nếu mình có thể làm được chuyện ngồi và đi thì cái giây phút quét thiền đường hay nấu một nồi cơm cho đại chúng cũng có thể có hạnh phúc tương đương. Hạnh phúc đó đừng đợi đến 20, 30 năm sau mới thực hiện được. Hạnh phúc đó mình phải thực hiện ngay bây giờ và ngay ở đây!

Nếu quí vị có ngồi thiền trước một cây nhang đang cháy, và mỉm cười nhìn cây nhang thì quí vị có thể đặt câu hỏi: Mục đích của một cây nhang là gì? Mình thấy rất rõ mục đích của một cây nhang là hiến tặng mùi hương trầm tinh khiết mầu nhiệm cho khung cảnh chung quanh. Mà cây nhang đó khi được đốt, là nó đã có thể hiến tặng mùi hương rồi, chứ không phải đợi tới khi cháy gần tới chân thì nó mới hiến tặng mùi hương tinh khiết.

Đời sống của một người tu cũng phải vậy. Ngay sau khi xuất gia, ngay sau khi chúng ta được thầy trao truyền cho pháp môn tu học, thì ta phải có hạnh phúc liền lập tức. Nụ cười và sự an lạc phải có liền lập tức. Cây hương cũng thực tập như vậy. Giây phút nó được châm lên là nó bắt đầu hiến tặng cho đời mùi thơm của nó. Nó biết rằng nó không cần chờ đợi tương lai. Ngay trong hiện tại nó đã bắt đầu hiến tặng hạnh phúc, và đang làm cho khung cảnh chung quanh nó tinh khiết, thơm tho lập tức. Một cây nến cũng vậy. Giờ phút mà cây nến được thắp lên là nó bắt đầu tỏ sáng. Nó tỏa chiếu ánh sáng trên chính bản thân nó, và nó chiếu ánh sánh chung quanh. Đời của một người tu là như vậy, và cái hạnh phúc đó phải có ngay từ lúc ban đầu.

Vậy thì nếu là người tu mà mình nghĩ rằng ngày hôm nay mình phải lao động mệt nhọc, phải cố gắng một cách cực khổ để ngày mai có một sự giải thoát, có một sự giác ngộ, có một sự an lạc thì đó không phải là sự thực tập mà các vị tổ đã trao truyền. Cái mà các tổ sư đã trao truyền là cái thực tập Hiện Pháp Lạc Trú, tức là phải có an lạc ngay bây giờ và ở đây. Tại vì khi cây nhang đã được đốt hết rồi thì còn gì nữa đâu! Nếu nó có chất liệu của "Bụt Nhang" thì nó có thể tiếp tục được, nhưng đến chỗ chân nhang thì hết "chất liệu Bụt Nhang" rồi! Nếu chúng ta nối tiếp một cây nhang khác thì nó tiếp tục. Nhưng nếu không có chất liệu Bụt Nhang thì nó chấm dứt ở đó. Nó phải đợi những cái duyên, những điều kiện, mới tiếp tục được.

Trong khi ngồi thiền chúng ta tỏa chiếu được cái thảnh thơi, cái an lạc, cái hạnh phúc, và ta phải tỏa chiếu cho được như là một ngọn nến đang tỏa chiếu ánh sáng, như một cây nhang đang phân phát mùi hương tinh khiết của nó. Phải ngồi cho được như vậy, phải đi cho được như vậy, và phải có hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại. Thử hỏi mình tu tập thiền tọa để làm gì? Mình tu tập thiền hành để làm gì? Mình tu tập ngồi ăn cơm im lặng, tu tập thiền trà để làm gì? Là để có hạnh phúc, có an lạc.

Trong đạo Bụt chúng ta học rằng cứu cánh không phải là một cái gì tách rời ra khỏi phương tiện. Cứu cánh là phương tiện. Một cái chắp tay, trong đó mình thấy cứu cánh. Một cái lạy đó cũng là cứu cánh, ăn cơm cũng là cứu cánh, quét nhà cũng là cứu cánh. Cứu cánh tiếng Anh là the end, phương tiện, the mean. Mean và end là một, đó là sự thực tập của chúng ta.

Cho nên mục đích của sự tu học là gì? Mục đích của sự tu học chỉ là tu học, tại vì trong khi tu học thì ta có an lạc, có hạnh phúc. Chứ không phải ngày hôm nay cực khổ để ngày mai gặt hái kết quả của việc tu học. Không phải như vậy.

Chúng ta có một câu rất hay: Không có con đường nào đưa tới hạnh phúc cả, vì hạnh phúc chính là con đường. There is no way to happiness. Happiness is the way. Câu nói đó phản chiếu được nguyên tắc Đốn ngộ, Sudden Enlightenment. Đốn ngộ có nghĩa là tỉnh giấc ngay bây giờ, không đợi đến mười năm sau mới tỉnh giấc. Trên căn bản đó chúng ta có thể nói rằng "Không có con đường nào đưa tới sự giác ngộ cả, sự giác ngộ chính là con đường".

Mỗi giây phút chúng ta sống trong chánh niệm thì mỗi giây phút đã có sự giác ngộ, tại vì giác ngộ chứa trong lòng nó cái ánh sáng của chánh niệm. Ví dụ chúng ta cắm hoa, và cắm hoa có chánh niệm thì chúng ta đang thực tập chánh niệm. Cắm hoa mà không biết mình đang cắm hoa, cắm hoa mà bị trôi lăn trong sự lo âu, sợ hãi và ham muốn thì đó không phải là cắm hoa trong đạo tỉnh thức.

Cho nên "khi khát thì uống, khi đói thì ăn, khi mệt thì ngủ" là hành động của người chứng đạo. Mỗi hành động như vậy, mỗi cử chỉ như vậy nó bao gồm cái giác ngộ, cái giải thoát, cái an lạc ở trong đó. Thường thường chúng ta nghĩ đạo là con đường, và con đường phải dẫn tới một nơi đến, một địa chỉ. Nhưng trong truyền thống chúng ta chỉ nói đạo tức là nơi đến, đắc đạo tức là nắm được con đường. Nắm được con đường tức là nắm được nơi đến hiện giờ.

Cho nên phân biệt rằng có một con đường mà chưa phải là nơi đến, và có một nơi đến nằm ở đầu con đường, thì đó là một chuyện sai. Thành ra trong giây phút ta nắm được con đường là ta nắm được nơi đến, và chúng ta đến từng giây từng phút. Đã về, đã tới. Cái mà ta muốn trở thành, ta đã là nó rồi. You are already what you want to become. Phải thấy cho được điều đó thì mới đi được vào trong tinh thần của thiền. Còn nói rằng tôi phủ nhận tôi, tôi không muốn công nhận tôi, tôi muốn trở thành một người khác, một cái khác thì đó rất là sai lầm đối với con đường Hiện pháp Lạc trú, tại vì mình trong phút giây hiện tại đã là cái mầu nhiệm. Một cái hoa đào không nên nói rằng tôi không muốn là hoa đào nữa, tôi muốn là hoa bưởi hay hoa cam. Tại vì hoa đào nó cũng mầu nhiệm, hoa cam nó cũng mầu nhiệm. Giây phút mà mình muốn chối bỏ cái tự thân của mình là hoa đào để tìm cách trở thành hoa bưởi, giờ phút đó là giờ phút hoang phí.

Thành ra câu Cơ tắc xan hề khốn tắc miên không phải tầm thường! Đói thì ăn, mệt thì lên giường nghỉ. Có nhiều kẻ phàm phu họ vin vào câu này để họ làm biếng, nhưng thật ra đây là một thực tập rất sâu sắc của thiền môn.

Gia trung hữu bảo hưu tầm mịt

Có nghĩa là trong nhà của mình đã sẵn có châu báu, chúng ta hãy "hưu tầm mịt" nghĩa là chấm đứt chuyện đi tìm ở một địa phương khác, ở trong một thời gian khác. Chúng ta có châu báu ngay bây giờ, ngay tại đây, trong ta và chung quanh ta. Nếu có giác ngộ thì ta có thể thích nghi được, và chúng ta tự nhiên có dư những điều kiện để có hạnh phúc.

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền

Nếu đứng trước những gì đang xảy ra (đối cảnh) mà giữ được thái độ vô tâm, thì ta không cần phải đi tìm hỏi về thiền làm gì nữa.

Vô tâm là gì? Vô tâm nghĩa là đừng có những ý niệm phân biệt, chối bỏ, tìm tòi, trách móc. Vô tâm là khi khát ta uống, khi đói ta ăn. Ta sống cuộc đời an lạc, hạnh phúc, ta nhận diện ra những điều kiện hạnh phúc có sẵn. Còn không vô tâm nghĩa là khi bất cứ một hiện tượng nào xảy ra thì ta kỳ thị, ta phân biệt, ta phê phán, ta nhàm chán, ta ước ao. Vô tâm cũng có nghĩa là không bị vướng mắc.

Nghĩa đầu của vô tâm là không tạo ra những ý niệm, để trên những ý niệm đó mình có sự xua đuổi hay tự ràng buộc, có sự ưa, có sự ghét. Mình hoàn toàn là một con người tự do, và mình chỉ có thể là một con người tự do khi mình áp dụng được nguyên tắc vô tâm đối với cảnh, tức là đối với những gì đang xảy ra. Nếu giữ được thái độ vô tâm thì hạnh phúc nằm ngay ở chỗ đó.

Vô tâm không có nghĩa là vô tri, vô giác. Để có được vô tâm chúng ta phải có sự tỉnh thức rất lớn để đừng bị cảnh vật như sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp nó công phá, nó vây bủa, nó áp dẫn ta đi.

Sở dĩ sự vật, sở dĩ cảnh trí có thể áp dẫn mình đi được là tại mình không có tự do, mình bị những ý niệm đó vây quanh. Nếu có chánh niệm thì chúng ta có nguồn sáng, cho nên chúng ta thấy được bản chất của những gì đang xảy ra. Những cái thương, cái ghét không thể áp đảo được ta. Khi mình thực tập được đối cảnh vô tâm tức là đem thái độ vô tâm mà đối phó với cái gì đang xảy ra trong giờ phút này, thì lúc đó mình đã là hiện thân của nếp sống thiền rất là linh động, mình không cần đi tìm hỏi thiền ở bất cứ một người nào khác nữa.

TỔNG LUẬN

Chúng ta thấy bài Cư trần Lạc đạo của Trúc Lâm Đại Sĩ rất có giá trị thực tiễn, nó không phải là lý thuyết. Cố nhiên bài này nói lên được cái thái độ, cái phương pháp tu học của Trúc Lâm Đại Sĩ, một ông vua đã xuất gia và đã thành đạo, đã sáng lập ra được một tông phái thiền rất có tính cách thiền học, đó là thiền phái Trúc Lâm.

Hôm nay chúng ta may mắn được đọc tác phẩm đó chung với nhau. Chúng ta phải dịch tác phân này ra kinh văn, theo văn mới để con cháu đọc thì hiểu được dễ dàng. Chúng ta cũng có thể dịch ra tiếng Anh hay tiếng Pháp.

Chúng ta biết rằng từ đời Đường trở đi có sự phân biệt về Thiền tông và về Giáo tông. Chúng ta phải vượt thắng cái quan niệm đó. Vào đời Lý, khi Thái Hậu Linh Cảm hỏi thì thiền sư Thông Biện cũng nói Giáo tông thì có các vị tổ nào, và Thiền tông thì có các vị tổ nào vào thế kỷ 11, 12. Chúng ta đã bị ảnh hưởng bởi sự phân biệt đó, một bên là Giáo tông, một bên là Thiền tông. Giáo tông là những tông phái trong đó việc học hỏi giáo lý là quan trọng. Còn Thiền tông là tông phái mà trong đó sự tu thiền là quan trọng. Thiền tông thì không chú trọng tới sự học hỏi kinh điển.

Từ khi tổ Bồ-Đề Đạt-Ma sang Trung Quốc cho đến tổ Huệ Năng, trong thời gian đó thì các thầy, các tổ có sử dụng kinh điển. Nghe nói tổ Bồ-Đề Đạt-Ma có đem theo kinh Lăng Già khi đi qua Trung Quốc, và tổ Huệ Năng đã sử dụng kinh Kim Cương. Chính tổ cũng làm ra kinh Pháp Bảo Đàn. Trong thời gian đó chưa có sự kỳ thị giữa Thiền và Giáo.

Sau đó thì thiền mới nói rằng tôi là một tông phái độc lập, không lệ thuộc vào giáo. Thiền tông được Bụt trực tiếp truyền sự giác ngộ từ trái tim sang trái tim (tâm ấn), cho nên tôi không cần giáo! Vì vậy mới có sự chia ra Giáo tông và Thiền tông. Và để cho sự "truyền thừa này" có tính cách liên tục, cái nhu yếu của thiền tông là phải thiết lập lại mấy mươi vị tổ, từ Ca Diếp cho tới Bồ-Đề Đạt-Ma. Sự thiết lập 28 vị tổ đó là giả tạo! Những thế hệ học giả tương lai họ thấy những điều đó rất rõ, không ai có thể bị đánh lừa!


[][Đầu trang][Mục lục tổng quát][Mục lục][]